Mến Chúa, yêu người

 

Mến Chúa, yêu người

(Chúa nhật XXXI TN, năm B)

TRẦM THIÊN THU

Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ
(tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe
quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!

Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.

Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em
mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông
thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất
thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai
yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý,
rất lô-gích.

Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là
Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng
miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì
giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng
về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất
cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng
chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà
thôi” (Mt 7:21).

Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà
“đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì
thường liên quan sự “cạnh tranh”.

Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên
vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể
tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc
trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn
các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt
ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt
lỗi ông Đanien về việc triều chính.

Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng
vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét
và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác.
Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn
sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga
4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công
nhận tài năng của người giỏi.

Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung
thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy,
nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng
hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!

Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào
để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì
sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng
ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý
do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Quá thâm độc!

Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ
hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội
biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới
nói tới người khác!

Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy
vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của
con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là
thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con
trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv
18:4).

Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen
ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào
Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt
tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín:
“Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên
Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh
nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa
hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn
đời” (Tv 18:51).

Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế,
bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài
hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có
thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa.
Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị
Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội,
tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).

Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế,
nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những
người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay.
Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến
Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu
vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó
là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong
Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.

Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là
thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động
bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!

Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày
họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay
cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật
Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề
có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt
7:27-28).

Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm
bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO
TẶNG
chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mìnhcho người khác, nhất là trao
cho những con người bé mọn.

Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm
Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi:
“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu
trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ
hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào
khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).

Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm,
Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào
khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân
cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33).
Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị
và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện,
còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa.

Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa
Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng
quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC
HÀNH
điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không
có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.

Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua
Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái
hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những
con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu
xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

KINH LẠY CHA CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

KINH LẠY CHA CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 


Câu chuyện xảy ra tại đền thánh Đức Mẹ MARIA ở Einsiedeln bên Thụy Sĩ vào ngày Lễ Nến mùng 2 tháng 2 năm 1968. Đền thánh rất được các tín hữu Công Giáo năng lui tới kính viếng, hành hương.

Nhưng ngày mùng 2 tháng 2 năm 1968 là một ngày trong tuần và trời mùa đông thật lạnh. Đền thánh vắng vẻ không một bóng người. Bà Aloisia Lex đến viếng đền thánh cùng với mấy người bà con. Đang quỳ cầu nguyện, bỗng bà đưa mắt nhìn lên bàn thờ chính và trông thấy một Nữ Tu cao tuổi đang đứng đó. Nữ Tu mang y phục đan sĩ nhưng y phục trông thật cổ xưa như thuộc về mấy thế kỷ trước. Bà Aloisia liền tiến về phía Nữ Tu và được Chị trao cho một tờ giấy Kinh. Bà nhận lấy và lơ đãng bỏ vào túi. Cùng lúc ấy, một hiện tượng lạ lùng diễn ra. Cửa nhà thờ bỗng mở toang và bà Aloisia trông thấy một đoàn ngũ tín
hữu hành hương, đông vô kể, tiến vào nhà thờ. Các tín hữu ăn mặc thật nghèo nàn, và chân đi lướt trên mặt đất, giống như những bóng ma. Đoàn tín hữu hành hương dài như bất tận cứ tiếp tục nối đuôi nhau tiến vào nhà thờ. Trong nhà thờ, có một vị Linh Mục đang đứng đó và hướng dẫn cho các tín hữu biết phải đi đâu.

Trông thấy đoàn tín hữu đông vô kể bà Aloisia tự hỏi:

– Làm sao đền thánh nhỏ bé lại có thể chứa hết một đoàn người hành hương đông
đảo đến như thế?

Vừa thắc mắc tự hỏi bà vừa quay mặt đi hướng khác, trong khoảnh khắc bằng thời
gian thắp lên một ngọn nến. Nhưng khi nhìn lui thì bà lại thấy nhà thờ trống
trơn, vắng vẻ y như trước!

Lòng đầy kinh ngạc, bà Aloisia Lex chạy đến hỏi những người bà con thì họ cho biết là không trông thấy một ai kể cả vị Nữ Tu cao tuổi! Bà Aloisia bối rối không biết mình mơ hay thật. Nhưng khi cho tay vào túi thì bà lại rút ra tờ giấy Kinh mà vị Nữ Tu đã trao cho bà. Tờ giấy Kinh là bằng chứng bà không mơ! Đây là lời Kinh do chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã dạy thánh nữ Mechtilde đọc, trong một lần Ngài hiện ra với thánh nữ.

Thánh nữ Mechtilde (1241-1299), người Đức, được đặc ân trông thấy Đức Chúa GIÊSU hiện ra nhiều lần. Và một trong những lần hiện ra ấy, Đức Chúa GIÊSU dạy cho chị Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục.

Tiếp đó, cứ mỗi lần đọc Kinh LẠY CHA này, thánh nữ Mechtilde lại trông thấy đông đảo các Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục được Chúa rước về Trời. Sau đây là Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Hình.

Lạy CHA chúng con ở trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Thiên Quốc, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không yêu mến CHA đủ, cũng không tôn vinh CHA cân xứng, đúng với địa vị của CHA, Đấng vừa là CHÚA vừa là CHA, đã vì lòng nhân lành mà nhận các Linh Hồn làm con của CHA. Trái lại, các Linh Hồn vì phạm tội mà xua đuổi CHA ra khỏi lòng họ, nơi mà CHA vẫn hằng mong muốn ở lại.

Để đền bù các lỗi phạm này, con xin dâng CHA tình yêu và lòng kính trọng mà Con CHA nhập thể, đã bày tỏ cùng CHA, suốt thời gian sống tại thế. Con cũng xin dâng CHA mọi việc hãm mình, mọi đền bù mà Con CHA đã làm và chính nhờ các việc lành này mà Con CHA tẩy xóa và chuộc đền các tội lỗi của loài người. Amen.

Chúng con nguyện danh CHA cả sáng. Con nài van CHA, lạy CHA Chí Lành, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tôn vinh danh thánh CHA cách cân xứng. Các Linh Hồn đã nhiều lần gọi tên CHA cách bất cẩn và đã làm ô danh tên gọi Kitô-hữu bằng đời sống bất xứng của mình.

Để đền bù tội lỗi các Linh Hồn đã phạm, con xin dâng lên CHA mọi danh dự mà Con Chí Ái CHA đã làm cho danh CHA được cả sáng, bằng lời nói và bằng việc làm, suốt trong thời gian tại thế của Con CHA. Amen.

Nước CHA trị đến. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tìm kiếm cũng không hề ước mong cho Nước CHA trị đến, ước mong với lòng nhiệt thành và chú tâm đến Nước CHA, là Nước duy nhất nơi được an nghỉ đến muôn đời.

Để đền bù cho sự hờ hững làm việc lành của các Linh Hồn, con xin dâng lên CHA niềm mong ước dạt dào của Con Chí Thánh CHA, Ngài không ngừng cầu mong cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục được mau mau vào hưởng hạnh phúc trong Nước của Ngài. Amen.

Ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn đặt ý muốn của họ dưới thánh ý của CHA; họ đã không chu toàn thánh ý CHA trong mọi sự và rất thường khi, họ chỉ sống và hành động theo ý muốn của họ mà thôi.

Để đền bù cho sự bất tuân của các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, con xin dâng lên CHA sự thuần thục hoàn hảo của Trái Tim đầy tình yêu của Con Chí Thánh CHA đối với thánh ý CHA và sự tuân phục sâu xa nhất mà Con CHA bày tỏ cùng CHA khi Con CHA vâng phục CHA cho đến chết trên Thánh Giá. Amen.

Xin CHA cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể với lòng ao ước đủ; các Linh Hồn cũng thường nhận lãnh Bí Tích này với sự lo ra chia trí và không có lòng mến, hay đôi lúc còn dám nhận lãnh cách bất xứng, hay tệ hại hơn nữa, đó là chểnh mãng trong việc nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể.

Để đền bù mọi tội lỗi trên đây mà các Linh Hồn đã vấp phạm, con xin dâng lên CHA sự thánh thiện cao cả và sự trầm mặc lớn lao của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Chúa chúng con, Con Chí Thánh CHA, cũng như tình yêu nhiệt thành mà qua đó Đức Chúa GIÊSU đã ban cho chúng con hồng ân khôn sánh này là bí tích Thánh Thể. Amen.

Xin CHA tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con. Concầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục
vì đã vấp ngã phạm bảy mối tội đầu, cũng như không muốn yêu thương cũng chẳng
tha thứ cho kẻ thù của mình.

Để đền bù cho mọi tội lỗi trên đây, con xin dâng lên CHA lời kinh đượm đầy tình yêu mà Con Chí Thánh CHA đã thân thưa cùng CHA, xin CHA thứ tha cho kẻ thù của Ngài, lúc Ngài bị đóng đinh trên Thánh Giá. Amen.

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì, rất thường khi các Linh Hồn đã không chống trả lại các cơn cám dỗ và các dục tình nhưng đã đi theo kẻ thù của điều lành và đã chìu theo các quyến rũ của xác thịt.

Để đền bù cho các tội lỗi trên đây dưới mọi hình thức mà các Linh Hồn nơi  Luyện Ngục đã phạm, con xin dâng lên CHA chiến thắng vinh quang mà Đức Chúa GIÊSU KITÔ Chúa chúng con đã chiến thắng trên thế gian này, cũng như đời sống rất thánh thiện, việc làm và những lao cực, sự đau khổ và cái chết nhục nhã của Ngài. Amen.

Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA hãy giải thoát chúng con khỏi mọi biến loạn, nhờ công nghiệp của Con Chí Ái CHA và xin dẫn đưa chúng con, cũng như dẫn đưa các Linh Hồn nơi Luyện Ngục vào trong Nước CHA, Nước của vinh quang vĩnh cửu, giống y như CHA vậy. Amen.

(”STELLA MARIS”, mensuel d’informations religieuses, Novembre/1993, trang 5)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn : vietvatican.net

Maria Thanh Mai gởi

 

Cảm nhận về chứng nhân Đức Kitô

Cảm nhận về chứng nhân Đức Kitô

Tác giả: Lê Thiên

nguồn: vnfa.com

Theo Giáo lý Công giáo (GLCG) số 1253, Bí tích Thánh tẩy(tức Bí tích Rửa tội) là “bí
tích đức tin… Đức tin cần có để được rửa tội chưa phải là đức tin hoàn hảo và trưởng tành, nhưng là một khởi đầu cần được phát triển. Hội Thánh hỏi người dự tòng hay người đỡ đầu: “Con xin gì cùng Hội Thánh Chúa?” Và họ trả lời: “Con xin đức tin.”

Như vậy rõ ràng việc xin gia nhập đạo Chúa đối với người trưởng thành là một sự tự nguyện xuất phát ý chí tự do của con người. Do đó, chúng tôi xác tín rằng, tất cả những người trưởng thành lãnh nhận Bí tích Rửa tội đều là những người ý thức về sự tự do và quyền lựa chọn của mình. Có vị gia nhập Công giáo ở tuổi thanh niên như linh mục
Nguyễn Hy Thích, lm Bửu Dưỡng. lm Nguyễn Viết Chung; có vị cao tuổi hơn như nhà khoa học NASA Gs Nguyễn Xuân Vinh, Gs Vũ Quốc Thúc, nhà thơ Hà Thượng Nhân….Riêng những người trẻ trong nước đang can đảm đấu tranh cho nhân quyền, dân quyền và quyền lên tiếng bảo vệ chủ quyền quốc gia như Tạ Phong Trần, Hoàng Vi, Huỳnh Thục Vy, Trịnh Kim Tiến… cả nước đều biết, họ đã vượt lên trên sự sợ hãi thế nào để gia nhập Công giáo, tôn giáo đối tượng hàng đầu của chủ nghĩa và chế
độ cộng sản.

“Người trộm lành”

Người tín hữu Công giáo đều đọc và nhớ câu chuyện “người trộm lành” trong sách Tin Mừng. Cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu là hai kẻ gian phi. Một người buông lời nhục mạ, thách thức Chúa  Giêsu, trong khi người thứ hai nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Anh thứ hai khôngđồng ý với thái độ hồ đồ thách thức của anh thứ nhất, nên trách: “Cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này [Chúa Giêsu] đâu có làm gì trái!” Rồi anh thứ hai thưa với Đức Giêsu: “Lạy Đức Giêsu, khi vào ước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!” Chúa đáp lời anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 39-43).

Một kẻ gian phi chỉ một lời thống hối vào giờ cuối đời đã được Chúa khoan dung tha thứ và đón nhận!

Giang hồ người Việt trở thành Thánh tử đạo

Lịch sử đạo Công giáo tại Việt Nam cũng đã chứng kiến ơn hối cải hi hữu của một tay giang hồ: Thánh Phaolô Hạnh, một trong số 117 Thánh Tử đạo Việt Nam.

Hạnh sinh tại Tân Triều, tỉnh Biên Hòa khoảng năm 1827. Lớn lên, Hạnh cùng hai người anh đến Chợ Quán, Sài Gòn để buôn bán. Dư luận đồn đại nhiều điều xấu về anh. Chẳng hạn, trong làm ăn buôn bán, anh gần gũi với những tay chuyên lường gạt, bắt chẹt những người cô thế cô thân yếu thế. Hình như có thời anh đã từng cầm đầu một băng cướp.

Một lần kia, chứng kiến một thiếu phụ nghèo khổ bị bọn đàn em bóc lột không thương tiếc, anh Hạnh không thể cầm lòng bèn ra uy “đàn anh” can thiệp, buộc chúng phải trả lại tài sản đã cướp giật cho nạn nhân, dù anh biết trước cáchhành xử hào hiệp của mình sẽ mang lại
hậu quả không lường theo luật giang hồ.

Quả nhiên, đám du đãng tố cáo Hạnh là người theo đạo “Gia tô” (đạo Kitô), và vu khống anh làm tay sai cho thực dân Pháp. Tại nơi pháp đình cũng như trước mặt các quan, anh Hạnh dứt khoát không nhận mình làm tay sai cho Pháp, nhưng lại tự nhận mình là Kitô hữu dù anh chưa hẳn là người Công giáo. Anh bị đánh đòn và tra tấn dã man, bị buộc từ chối mình là Công giáo, nhưng không gì lay chuyển được anh, trừ gương can đảm chịu chết
vì đạo của những bạn tù đã cảm hóa sâu sắc tâm hồn anh Hạnh khiến anh tự nguyện
đón nhận ơn Bí tích Rửa tội ngay trong phòng giam. Anh khẳng khái tuyên xưng: “Tôi là Kitô hữu, không bao giờ tôi chối đạo”.

Ngày 28.05.1859, anh Phaolô Hạnh bị trảm quyết tại Chí Hòa khi vừa tròn 32 tuổi. Hơn một thế kỷ sau, ngày 19/6/1988, Giáo Hội long trọng tuyên phong Phaolô Hạnh là Thánh trong 117 Thánh Tử đạo Việt Nam.

Sử gia Rodriguez so sánh cuộc đời thánh Phaolô Hạnh với cuộc đời “CÁNH HOA TÍM NGÁT HƯƠNG” : (Martyrologio Oriental Tr. 253-255)

“Có những hoa tím mọc dại bên đường, cho đến ngày có khách bộ hành đi ngang dẫm nát, nó mới tỏa hương thơm. Phaolô Hạnh quả là bông hoa bị che khuất bên vệ đường Giáo Hội,
cho đến khi bị vò nát trong cuộc bách hại, mới tỏa ra hương thơm ngát khiến chúng ta phải lâng lâng ngây ngất”.

GLCG số 1258 nêu rõ: “Hội Thánh luôn xác tín rằng những người chịu chết vì đức tin mà trước đó chưa được rửa tội, thì coi như đã được thanh tẩy , vì đã chết cho Đức Kitô và với Đức Kitô. Dù không là bí tích, rửa tội bằng máu , cũng như ước muốn được rửa tội , vẫn mang lại hiệu quả của bí tích Thánh Tẩy.”

Như vậy, giả sử Thánh Phaolô Hạnh chưa nhận lãnh Bí tích Thánh Tẩy mà đã sẵn sàng đổ máu vì đạo, thì việc phong thánh cho ngài cũng xứng hợp thôi.

Ta thấy một kẻ gian phi được Chúa chấp nhận cùng vào Nước Trời với Chúa, và một tay gian hùng được Giáo Hội tôn vinh là thánh đồng hàng với bao nhiêu giám mục, linh mục, tu sĩ, thầy giảng và giáo dân đạo đức thánh thiện, thì việc hoán cải của bất cứ thành phần nào trong xã hội cũng là điều bình thường đối với Thiên Chúa và cả dưới mắt đức tin của
người Kitô hữu.

Nhân đây, xin mạo muội ghi nhận đôi nét về ơn trở lại của 2 người Việt Nam vào đầu thế kỷ 21 này để bổ sung vào danh sách những vị đã gia nhập Công giáo mà nhà văn Trần Phong Vũ nêu danh tánh trong Thư ngỏ của ông “Nhân đọc bài viết của ông Nguyễn Đăng Khoa,” đăng tải trên DCVOnline ngày14/10/2012.

Ông Ngô Khắc Tỉnh, cựu Tổng trưởng Giáo Dục VNCH

Theo nhân chứng Nguyễn Phúc Hậu (năm nay 80 tuổi), người đã nhiều năm phụ trách Lớp Giáo lý dự tòng tại Nhà thờ Saint Maria Goretti ở San Jose thì vào khoảng năm 2004 (không nhớ chính xác), cựu Bộ trưởng Ngô Khắc Tỉnh khi nằm bệnh viện và di chuyển bằng xe lăn đã xin gia nhập đạo Công giáo. Đây không phải là ước muốn bất chợt của cụ Tỉnh, mà là một ước nguyện đã từng được cụ cưu mang từ thuở mài đũng quần ở trường Trung học Công giáo Thiên Hựu (Providence), Huế, thời thập niên 1940.

Vào ngày nhận Bí tích rửa tội, cụ Ngô Khắc Tỉnh nhờ y tá đẩy xe lăn từ giường bệnh tới nguyện đường trong Bệnh viện thật sớm và Cụ một mình âm thầm cầu nguyện hầu như suốt buổi sáng trong khi chờ đợi giờ đón nhận Bí tích Rửa tội. Đến ngày 12/11/2005, Cụ Ngô Khắc Tỉnh lìa đời.

Người ta đọc thấy trong PHÂN ƯU của một số cựu học sinh đồng trường Thiên Hựu (Providence) với Cụ lời “cầu nguyện cho hương hồn bạn được sớm về Nước Chúa.” Ban phân ưu cũng cho biết “Lễ tại Nhà Thờ St Patrick 389 E Santa Clara St. San Jose.” Trên PHÂN ƯU, không thấy nêu tên thánh người quá cố. (Xin xem phóng ảnh đính kèm dưới đây). Dù sao, PHÂN ƯU đã xác nhận cụ Ngô Khắc Tỉnh là Công giáo. Nhân chứng Nguyễn Phúc Hậu cùng gia đình hiện vẫn định cư tại San Jose, California.

Nhạc sĩ tài danh Lê Mộng Bảo

Người Việt Nam sinh trưởng trong nước trước năm 1975, từ già tới trẻ, hầu như không ai không nghe danh nhạc sĩ tài hoa Lê Mộng Bảo (1923-2007) với những bản nhạc bất hủ của ông cùng nhà xuất bản nhạc Tinh Hoa & Tinh Hoa Miền Nam lừng danh trước năm 1975 mà ông là linh hồn.

Vào một ngày khoảng năm 2005, Ông Nguyễn Phúc Hậu đón nhận một cụ bô lão quắc thước xin vào học Lớp Giáo lý Dự tòng. Đến ngày chuẩn bị lễ ban Bí tích Thánh Tẩy, theo gợi ý của ông Hậu, cụ nhạc sĩ Lê Mộng Bảo đã cùng người bạn Đinh Phúc, kẻ viết lời, người soạn nhạc, cống hiến bản “Tân Tòng Ca.” Bản Tân Tòng Ca lập tức được nhạc sĩ Hải
Triều hòa âm và điều khiển hợp xướng, nghe rất thánh thiêng và có sức tác động
linh đạo mạnh mẽ.

Thời gian dài sau đó, ông Nguyễn Phúc Hậu không còn dịp liên lạc với Cụ Lê Mộng Bảo, cho đến ngày 08/10/2007, đọc báo, nghe đài, mới hay tin Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo vừa từ trần do đột quỵ. Ông Hậu không có cơ may đi chào biệt cụ Bảo lần cuối, nên không rõ tang lễ của cụ
được gia đình tổ chức thế nào.

Thomas More Nguyễn Chí Thiện

Trường hợp nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cũng na ná như vậy. Nếu ông đã bày tỏ khát vọng gia nhập đạo Công giáo và giả sử ông vĩnh viễn ra đi khi chưa kịp nhận lãnh Bí tích Rửa tội, ông vẫn được nhìn nhận là thành phần của Hội Thánh và là con cái Chúa vì đã có lòng ước
ao
gia nhập vào hàng ngũ con cái Chúa (xin xem GL số 1258 dẫn trên).

Qua những ơn trở lại điển hình trên và căn cứ vào lời dạy của GLHT Công giáo, chúng tôi tin chắc nhà thơ Nguyễn Chí Thiện trước khi lìa đời đã tự do nói lên nguyện ước gia nhập Công giáo khi đang nằm bệnh viện. Một tuần lễ sau, nhà thơ từ trần ngày 02/10/2012.

Tin chắc cả linh mục Cao Phương Kỷ lẫn nhà văn Trần Phong Vũ, Bs Trần Văn Cảo hay bất cứ người Công giáo nào, chẳng ai làm cái chuyện lén lút trẻ con “để cải đạo” cho ông Nguyễn Chí Thiện! Các vị đều am hiểu lẽ đạo lẽ đời tường tận chín chắn. Các vị thông hiểu và tuân giữ luật Hội Thánh về quyền tự do thưa “Xin đức tin” của một người trưởng thành bày tỏ ước vọng gia nhập Công giáo. Sự bày tỏ ước muốn gia nhập Công giáo của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện chắc chắn đã xảy ra vào một lúc nào đó mà nhà văn Trần Phong Vũ, bạn thân của ông là nhân chứng, để ông Vũ kịp thời mời linh mục Cao Phương Kỷ đến giúp ông Nguyễn Chí Thiện hoàn thành ước vọng của ông trước khi nhắm mắt lìa đời ngày 02/10/2012.

Về viêc Nguyễn Đăng Khoa viết bài gây lên mối ngờ vực đối với trường hợp nhà thơ Nguyễn Chí Thiện gia nhập Công giáo, tôi cho rằng có thể ông Khoa cố tình xuyên tạc, không phải chỉ để đánh phá, triệt hạ uy tín một vài nhân vật Công giáo mà còn nhằm bôi nhọ và kết án
chính đạo Công giáo. Tuy nhiên, nói như nhà văn Trần Phong Vũ, cũng có thể Nguyễn
Đăng Khoa lầm do không hiểu gì về Công giáo. Vì vậy cùng với nhà văn Trần Phong
Vũ, chúng ta lặp lại lời Đức Giêsu trên Thập giá: “Lạy Cha! Xin tha tội cho họ vì họ lầm, không biết.”

Chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Ông Thiện thâm trầm, ít nói, nhưng vẫn giữ phong cách hài hước nhẹ nhàng tế nhị.

Lần đầu gặp nhau, chúng tôi tự giới thiệu tên cho nhau. Ông Thiện cười xuề xòa:

– Bác  nhẹ hơn tôi đấy!

– Vâng! Tôi nhỏ con, làm sao so với cụ!” Tôi đáp.

Ông Thiện lại cười:

– Tớ trùng tên với bác, nhưng mà nặng!” Ý ông Thiện muốn nói ông là “Thiên
nặng Thiện!”

Rồi ông Thiện lại bảo:

– Chưa là Dân Trời (Lê Thiên) như bác, chưa “thiện” nổi, mạo nhận mình là “Thiện”đấy
thôi.

– Tôi hỗn hơn cụ nhiều, dám mạo nhận mình là dân Trời, nên Trời đọa!”

Ông Thiện nắm tay tôi:

– Thế thì chúng mình cùng hướng Thiện để hướng Thiên nhé!

Vui đùa là vui đùa! Tôi không có ý cường điệu hay phóng đại cái giai thoại vui đùa giữa chúng tôi theo cảm nhận chủ quan của mình. Nhưng bây giờ, sau khi Nguyễn Chí Thiện “quy tiên”, những lời vui đùa của nhà thơ lại văng vẳng bên tai tôi làm tôi xúc động bồi hồi: “Chưa là dân trời, chưa thiện” hay “hướng thiện để hướng thiên!” Tôi tự
thầm hỏi: Phải chăng nhà thơ đã bộc lộ ý tưởng tìm tới Thiên Chúa?

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ra đi, nhưng tinh thần và hình ảnh “ngục sĩ” Chí Thiện sống mãi trong lòng người Việt quốc gia chân chính yêu Tổ quốc, yêu Dân tộc, chống bè lũ bán nước, cái bè lũ mà ông Nguyễn Chí Thiện đã nhận rõ chân tướng từ khi ông hãy còn rất trẻ, sống
“giữa lòng địch,” nằm trong bàn tay gian ác của họ.

Từng bài thơ, từng câu thơ trong tập thơ HOA ĐỊA NGỤC của ông đều nhắm thẳng vào đầu địch mà bắn! Quân thù căm giận ông! Cầm tù ông 27 năm, hành hạ bức bách ông, quyết hại ông bằng mọi cách có thể, họ vẫn chưa thỏa nỗi căm hận đè nặng họ. Nhưng rồi họ đã chẳng làm gì được ông! Với tất cả những nhà đấu tranh cho dân chủ, dân quyền và nhân quyền trong nước, nhà cầm quyền CSVN dẫu dùng đủ những biện pháp hèn hạ, đê tiện và
độc ác nhất cũng chẳng lung lay được ý chí và tinh thần đấu tranh kiên cường của các nhà yêu nước ấy.

Trong niềm nhớ thương, quý mến và trân trọng người “ngục sĩ” can trường, chúng ta thành tâm cầu cho linh hồn Thomas More Nguyễn Chí Thiện sớm hưởng vinh quang
muôn đời. Bên cạnh đó, chúng ta không quên tiếp nối công việc của ông “phơi bày cho thế giới thấy niềm đau đớn khôn cùng của cả một dân tộc đang bị áp chế và đầy đọa(*)” (* Trích bản dịch thư của nhà tho Nguyễn Chí Thiện gửi ra bên ngoài năm 1979, viết bằng tiếng Pháp.)

qua việc nghiền ngẫm và quảng bá rộng rãi tập thơ HOA ĐỊA NGỤC – “một tập thơ mang
đầy máu và nước mắt – phản ánh một thế giới trong đó con người Việt Nam, vốn hiền lành là thế, đã vì một ý-thức-hệ ngoại-lai biến thành con vật với chính đồng-loại,đồng-bào.” (Lời Nhà Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ).

Lê Thiên

Sandy và Sơn Tinh, sự khác biệt giữa hai thể chế

Sandy và Sơn Tinh, sự khác biệt giữa hai thể chế

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

2012-11-01

Hai cơn bão Sandy đánh vào Mỹ và Sơn Tinh đổ vào Việt Nam cho thấy sự khác nhau quá xa giữa hai chính phủ về cách ứng phó với bão và ứng xử đối với người dân.

AFP

Huỷ bỏ tất cả chương trình vận động tranh cử Tổng thống Obama cho họp khẩn cấp các bộ quan trọng hầu có kế hoạch sơ tán và cấp cứu dân chúng

Có phải hai thể chế dân chủ pháp trị và chuyên chế đảng trị đã bộc lộ sự khác biệt về quan điểm quá xa nhau hay không?

Hai cơn bão ập vào Việt Nam và Hoa Kỳ gần như cùng thời gian đã mang lại khá nhiều sự so sánh mặc dù trên thực tế mức thiệt hại khá khác xa nhưng nếu tính theo hoàn cảnh của hai nước thì gần như Việt Nam không thua kém gì đất nước giàu nhất thế giới này bao nhiêu.

Về sinh mạng, Mỹ đông dân hơn gấp ba lần Việt Nam nên con số nhân mạng của Việt Nam cao hơn hẳn: Sandy làm Mỹ chết 50 người trong khi Sơn Tinh giết chết 32 người Việt Nam. Cơ sở vật chất của Mỹ được biết tới giờ này là đã thiệt hại hơn hai tỷ, trong khi Liên hiệp quốc chính thức công bố chỉ riêng tỉnh Nam Định mức thiệt hại là 45 triệu đô la cùng với hơn 20 ngàn căn nhà hư hại nặng và 19 ngàn héc ta hoa màu không thể thu hoạch. GDP hai nước đã kéo lại khoảng cách này gần hơn với các con số.

So sánh về thiệt hại người và của giữa hai đất nước khó thể công bằng và chính xác, tuy nhiên nếu sự khác nhau được nhìn qua lăng kính xã hội cũng như hoạt động của chính phủ để đánh giá sự ứng phó của hai nước trong cùng thời điểm thiên tai xảy ra thì hoàn toàn có thể.


Chỉ ít giờ sau cơn bão, bóng của chiếc Air Force One, chiếc chuyên cơ đặc biệt của tổng thống Mỹ đã xuất hiên tại những vùng bị đánh phá nặng bởi Sandy ở New Jersey

Chỉ ít giờ sau cơn bão, bóng của chiếc Air Force One, chiếc chuyên cơ đặc biệt của
tổng thống Mỹ đã xuất hiên tại những vùng bị đánh phá nặng bởi Sandy ở New
Jersey…

Thiệt hại vật chất và nhân mạng sau thiên tai là điều không thể phiền trách cho ai. Tuy nhiên khi thiên tai xảy ra, người đứng đầu một đất nước được dân chúng và cộng đồng thế giới nhìn vào khả năng ứng xử, sự quan tâm của chính phủ đối với an nguy của dân chúng và nhất là phương pháp tiếp cận người dân để chia sẻ với họ những cơn đau mất tài sản,
người thân luôn là yếu tố hàng đầu của một chính quyền dân cử.

Trách nhiệm cụ thể của chính phủ Mỹ

Khi cơn bão Sandy được các cơ quan khí tượng cung cấp chính xác đường đi cùng với dự kiến mức tàn phá của nó thì ngay lập tức chính phủ Obama đã có kế hoạch đối phó và theo dõi mọi diễn tiến của cơn bão từng bước một. Tổng thống Obama chừng như không giờ phút nào thoát khỏi tai mắt của truyền thông Mỹ. Nhất cử nhất động của ông được nhìn một cách
có thể nói là soi mói, do đó Tổng thống tự biết rằng đây là cơ hội cho ông tùy thuộc tốt hay xấu đối với sự nghiệp chính trị sắp tới của mình.

Việc đầu tiên là ông bỏ tất cả chương trình vận động tranh cử để về ngay Nhà Trắng chỉ huy đối phó cơn bão thế kỷ. Sáng ngày Thứ Hai, ngày người ta đánh giá cơn bão sẽ chính thức tàn phá miền Đông Hoa Kỳ, từ phòng họp của Nhà Trắng với những Bộ trưởng các Bộ An ninh Nội địa, Bộ Năng lượng, Bộ Giao thông Vận tải, cũng như Giám đốc Trung tâm bão lụt quốc gia …

 

Đang lúc bão Sơn tinh  cấp 14 đổ bộ vào các tỉnh miền Trung thì quốc hội vẫn nhóm họp như bình thường...

Đang lúc bão Sơn tinh cấp 14 đổ bộ vào các tỉnh miền Trung thì quốc hội vẫn nhóm họp
như bình thường …(baoquangngai)

Tổng thống Obama xuất hiện trên truyền hình báo cho dân chúng biết chính phủ của ông
làm gì, thực hiện tới đâu và biện pháp đưa ra có kết quả như ý muốn hay không.
Một trong những điều ông gửi tới người dân không phải là thông báo ngân sách sẽ bỏ ra bao nhiêu để giúp đỡ cho những người thiệt hại nhưng ông mang tới cho dân chúng Hoa Kỳ một sự ấm áp khi tỏ ra lo lắng cho sự sống còn của họ, những người dân đang cận kề cái chết. Ông kêu gọi họ như người thân trong gia đình và với lời lẽ thiết tha ông thật sự làm cho nước Mỹ tươi tỉnh sau nhiều ngày u ám:

“Một trong những điều mà tôi muốn gửi tới quý vị ngày hôm nay là xin làm ơn nghe những gì mà cơ quan có trách nhiệm tại địa phương của quý vị thông báo cho quý vị làm. Khi họ nói quý vị phải di tản thì làm ơn di tản, đừng chần chừ, đừng thụ động một chỗ và đừng thắc mắc về những gì mà họ chỉ dẫn cho quý vị. Bởi vì đây là một trận bão
nghiêm trọng và khả năng tàn phá của nó có thể gây chết người rất lớn.”

Họ làm việc dưới sự theo dõi của người dân

Toàn bộ nội các của chính phủ Obama hầu như ai cũng có việc để làm. Những cuộc họp qua video liên tục ghi nhận những điều cần cập nhật và dân chúng thấy rõ tất cả những cơ quan này làm việc ra sao, trách nhiệm tới đâu và điều gì cần bổ xung, sửa đổi. Hàng ngàn cơ
quan truyền thông tập trung vào cơn bão, việc vận động bầu cử trong những ngày áp chót xem như không cần thiết đối với truyền thông nữa. Khi một nhà báo hỏi Tổng thống Obama liệu cơn bão có ảnh hưởng đến việc vận động tranh cử của ông hay không câu trả lời của ông rất ngắn gọn và ý nghĩa:

“Tôi không lo lắng tới việc cơn bão có ảnh hưởng gì đối với việc tranh cử. Điều tôi lo lắng bây giờ là sự ảnh hưởng của những gia đình nạn nhân, là những phản hồi đầu tiên của họ. Tôi lo ngại ảnh hưởng tới nền kinh tế và hệ thống giao thông của nước Mỹ. Cuộc bầu cử
tự nó sẽ tiến hành mọi chuyện vào tuần tới.”

Dân chúng Quảng Bình được lệnh sơ tán đến khu vực an toàn. Theo Vietnamnet

Dân chúng Quảng Bình được lệnh sơ tán đến khu vực an toàn. Theo Vietnamnet

Và Việt Nam, với những lo toan khác…

Trong khi nước Mỹ được điều hành và quan tâm bởi một chính phủ như thế còn Việt nam thì sao?

Trong những ngày bão tố, quốc hội nhóm họp với những đề tài to lớn và không một câu một chữ nào nhắc nhở bên trong nghị trường rằng cơn bão đang tấn công người dân bên ngoài.

Có ba vị đứng đầu cả nước nhưng không thấy ai chính thức sử dụng truyền thông đại chúng để nhắc nhở và chia sẻ nỗi lo toan của người dân. Vài cán bộ cấp tỉnh lên tiếng than vãn tình hình sau bão sẽ gặp khó khăn cần trung ương giúp đỡ. Báo chí loan tin bão như một mẩu
tin mà tính thời sự chỉ ngang tầm với tin áo ngực Trung Quốc có vật lạ đang làm phụ nữ Việt Nam lo lắng. Tệ hơn nữa, cơ quan có trách nhiệm đối phó với bão lại tập trung vào câu hỏi có nên đổi tên bão hay không vì Sơn Tinh là một vị thần Việt Nam không thể đại diện cho sự tàn phá, chết chóc.

Những khác biệt lớn

Tồng thống Mỹ có thể vì sự nghiệp chính trị của mình mà tận lực trong việc chống thiên tai nên phải sát cánh với dân. Nếu không thực hiện điều dân mong mỏi thì chức Tổng thống không thể vào tay cho dù là Cộng Hòa hay Dân Chủ.

Việt Nam không có thông lệ này vì tất cả lãnh đạo không được dân bầu mà do đảng chọn. Đảng cộng sản quyết định mọi sự kể cả cho phép ai trong ba người cao nhất được đến với dân vào lúc dân cần như một hình thức lấy điểm, tùy thuộc vào vị thế và ảnh hưởng chính trị của người ấy có được chọn trong nhiệm kỳ sắp tới hay không. Cơn bão Sơn Tinh tới Việt Nam rất không đúng lúc khi Bộ chính trị phải đối phó với cơn bão nội trị nặng nề và
khó khăn hơn Sơn Tinh rất nhiều.

Người dân tự hỏi tại sao lãnh đạo lại tiếc với dân một chuyến đi khi chắc chắn sẽ mang lại rất nhiều kết quả. Cho dù chuyến đi ấy sẽ gây khó chịu cho một nhóm người nhưng hài lòng cho cả nước thì cũng đáng để được thử thách. Cho tới khi người dân hiểu được những khó khăn của lãnh đạo thì người ta lo rằng sự chịu đựng bão tố, thiên tai cùng những nhức nhối của sự vô cảm sẽ vượt khỏi lũy tre già mang tên nhẫn nhục và cam chịu.

Chọn hạnh phúc đời sau

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
1-11-2012
Chọn hạnh phúc đời sau
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Công Đồng Vatican II dạy: «Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được
Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo
con đường của mỗi người» (GH 11§3).
Ở đời người ta vẫn cho rằng: hạnh phúc là giầu sang, là phú quý, có nhà cao cửa
rộng, có vợ đẹp con khôn, có quyền lực, có tiền để hưởng lạc mọi thú vui trần gian . . . Chính vì lẽ đó, người ta sẵn sàng làm mọi sự để đạt được những thứ ấy. Đôi khi họ bất chấp mọi thủ đoạn, họ dùng mọi phương tiện, mọi mưu kế để theo đuổi hạnh phúc trần gian. Có khi vì những hạnh phúc thông thường ấy, họ không ngần ngại hy sinh, gian nan, kể cả bỏ người thân để kiếm tìm. Thông thường họ vẫn nghĩ đó là chuyện nên làm và cần phải làm để tồn tại trong thế giới đầy thị phi này.

Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giê-su về hạnh phúc hoàn toàn ngược lại với cách
suy nghĩ của thế gian. Hạnh phúc của Chúa Giê-su không phải nằm trong cái chúng
ta nắm lấy mà là ở trong cái chúng ta cho đi. Không phải ở trong điều chúng ta
tìm cách thoả mãn, hưởng thụ mà hệ tại ở việc chúng ta sống tự chủ bản năng,
sống thanh thoát với đam mê. Không phải ở trong việc chúng ta tìm sự nhàn rỗi
hay trốn tránh trách nhiệm mà quan yếu là dám đối diện với sự thật, để bảo vệ
cho sự thật, bảo vệ cho công lý, cho dù có vì đó mà tù đầy hay thiệt thòi . . .

Có lẽ, thế gian vẫn cho những ai sống điều này là điên rồ. Thế gian đến rồi đi. Hiện hữu rồi mất đi. Họ nghĩ rằng cuộc sống trần gian là để hưởng thụ nên tìm  mọi cách để hưởng thụ kẻo chết là hết như có người đã từng nói: “Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau”.  Họ lao vào cuộc đời tìm kiếm danh lợi thú để thoả mãn lòng tham của mình. Vâng, nếu chết là hết thì không cần ăn ngay ở lành, không cần làm việc lành phúc đức, không cần “trồng cây hạnh ở đời”. Chết là hết thì hãy cố gắng tranh thủ mà hưởng lạc kẻo uổng phí cuôc đời. Nhưng, thực ra chết không phải là hết. Ngoài sự sống trần gian này chúng ta còn có một sự sống hoàn hảo hơn. Nơi đó là trọn vẹn. Con người  không cần phải bon chen, không phải lo hưởng thụ vì đã tròn đầy hạnh phúc.

Chúa Giê-su khi đề ra các mối phúc, Ngài hướng con người tới hạnh phúc trường
tồn. Ngài dẫn dắt con người vượt qua hạnh phúc tạm để đạt được hạnh phúc vĩnh
cửu. Cuộc đời này người ta ví tựa như cuộc sống của bào thai, một cuộc sống tăm
tối trong bụng mẹ chỉ là cuộc sống tạm bợ ngắn ngủi trong 9 tháng 10 ngày. Cuộc
sống ấy không chỉ kéo dài tới đấy là hết, mà toàn bộ cuộc sống ấy là để chuẩn bị
cho một cuộc sống khác dài hơn gấp bội, có thể tới 90 năm. Cũng vậy, người kitô
hữu quan niệm rằng đằng sau cuộc sống ngắn ngủi này là cả một đời sống vĩnh cửu
dài vô tận. Vì thế, người kitô hữu – những kẻ theo Đức Giêsu – tuy sống trong
thế giới này nhưng tâm hồn vẫn hướng về một thế giới khác tốt đẹp hơn, rộng lớn
hơn, lâu dài hơn rất nhiều.

Hôm nay, mừng lễ các thánh nam nữ ở trên trời là lời khẳng định có đời sau của
niềm tin ky-tô hữu chúng ta. Các thánh là những người đã vượt qua niềm vui mau
qua để tiến vào niềm vui bất diệt. Các ngài đã sống một cuộc đời không chọn
vinh hoa phù vân nhưng chọn Chúa làm gia nghiệp. Các ngài đã sống một cuộc đời
tự chủ bản năng để không vì danh lợi thú mà bán rẻ lương tâm, mà đánh mất nhân
phẩm con người. Các ngài đã trung kiên làm chứng cho sự thật, và bảo vệ công lý
cho dù có thua thiệt đời này, nhưng các ngài đã chiếm trọn đời sau.

Xin chư vị các thánh cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta biết sống theo
tin mừng, biết chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là giá trị trần gian mau qua. Xin
nhờ lời bầu cử của các ngài xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan và lòng
dũng cảm để sống theo thánh ý Chúa. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

1-11-2012
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
Công Đồng Vatican II dạy: «Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được
Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo
con đường của mỗi người» (GH 11§3).
Lạy Chúa con xin hợp với cả triều thần thánh tung hô Chúa! Thánh, Thánh, Chí Thánh!
Chính Chúa dạy chúng con phải nên Thánh, nên trọn lành như Cha trên trời. Xin cho chúng con được bền gan theo chân Chúa gọi, nên Thánh cuối thời, làm con yêu dấu, và làm tông đồ của Trái Tim phép tắc từ bi Mẹ.
Vì ơn trọng đại này, xin Chúa ban cho nhiều người tội lỗi được ơn trở lại và sống thánh thiện. Amen!
Nihil Obstat Rev. Barnabas M. Thiệp, CMC
1 Tháng Mười Một
Lễ Các Thánh

Ngày lễ đầu tiên trong lịch sử để vinh danh các thánh là ngày tưởng niệm “các
vị tử đạo” được cử hành vào đầu thế kỷ thứ tư. Vào đầu thế kỷ thứ bảy, sau làn sóng trộm cắp đột nhập các hang toại đạo, Ðức Giáo Hoàng Boniface IV đã cho thu lượm khoảng 28 toa đầy những hài cốt và chôn cất lại bên trong đền Pantheon, là đền thờ các thần của người La Mã, và ngài thánh hiến đền thờ này như một đền thờ Kitô Giáo. Theo sử gia của Giáo Hội là Bede Ðáng Kính, đức giáo hoàng có ý định rằng “việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay  cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng thờ ma quỷ” (Về Việc Tính Toán Thời Giờ)
Nhưng việc thánh hiến đền Pantheon, cũng như ngày kính nhớ đầu tiên các vị tử đạo xảy
ra vào tháng Năm. Nhiều Giáo Hội Ðông Phương vẫn kính nhớ các thánh vào mùa
xuân, hoặc trong mùa Phục Sinh hoặc ngay sau lễ Hiện Xuống.
Tại sao Giáo Hội Tây Phương cử hành lễ này vào tháng Mười Một thì không ai hiểu.
Người ta chỉ biết vào năm 800, thần học gia Alcuin người Anglo-Saxon cử hành lễ
này vào ngày 1 tháng Mười Một, và người bạn của ông là Arno, Giám Mục của
Salzburg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ chứ chín, Giáo Hội La Mã đã
chấp thuận ngày lễ này.

Lời Bàn
Ðầu tiên lễ này để kính nhớ các vị tử đạo. Sau này, khi Kitô Hữu được tự do tín ngưỡng, Giáo Hội đã dùng ngày lễ này để tỏ lòng kính trọng những người thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, được coi là thánh thì chỉ cần một tiêu chuẩn là được nhiều người công nhận, ngay cả việc chấp thuận của vị giám mục cũng được coi là bước sau cùng để đưa vào niên lịch Giáo Hội. Việc phong thánh bởi đức giáo hoàng lần đầu tiên xảy ra vào năm 973; ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính thánh thiện. Bây giờ, lễ các thánh để kính nhớ các vị thánh vô danh cũng như nổi danh.
Lời Trích
“Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi
chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình
mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế…
Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO: NHÂN VỊ VÀ NHÂN QUYỀN

NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG
GIÁO: NHÂN VỊ VÀ NHÂN QUYỀN

Lm. Ernest Nguyễn văn Hưởng

nguồn: Conggiaovietnam.net

1. Nhân vị và nhân phẩm theo cái nhìn chung của nhân loại

Người ta thường hiểu con người là con vật có lý trí. Và câu chuyện trong dân gian Việt nam cũng hiểu như thế (chuyện Con cọp và người nông phu). Khi muốn hạ giá người nào,
người Việt Nam chúng ta đưa về con vật: Ăn như heo…

Nhân vị:

Khi nói tới nhân vị chúng ta thường hiểu mỗi cá nhân của xã hội loài người là một nhân vị, là chủ thể của quyền lợi và nghĩa vụ. Nhân vị dành cho con người nên phải hiểu đó là cá nhân có ý thức và tự do. Vì thế mỗi cá nhân phải được đối xử bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, không phân biệt phái tính, chủng tộc, v.v…Nhân vị không biệt lập nhưng hướng về nhân vị khác, thông hiệp với nhân vị khác.

Nhân phẩm:

– Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người.

(Trích từ bài TÔN TRỌNG NHÂN PHẨM trên mạng);

– Nhân phẩm chính là những giá trị phản ánh và tạo nên phẩm chất của từng cá nhân. Mỗi con người đều có những giá trị nhất định.

– Người có nhân phẩm là người có danh dự và sẽ được cộng đồng xã hội tôn trọng và đánh giá cao. Người tự đánh mất nhân phẩm, danh dự của mình sẽ là người bị cộng đồng coi thường và đánh giá thấp;

– Người biết tôn trọng nhân phẩm là người có lòng tự trọng, biết đấu tranh và có thái độ
không đồng tình với những hành vi xâm hại hoặc chà đạp lên nhân phẩm của người
khác và của bản thân.

2. Con người theo cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo

2.1 Con người được Thiên Chúa tạo dựng

Nhân vật chính của toàn bộ đời sống xã hội là chính con người. Con người nên và phải luôn luôn là chủ thể, là nền tảng và là mục tiêu của đời sống xã hội (số 106). GHXHCG triển khai nguyên tắc: Con người có phẩm giá bất khả xâm phạm (số 107). Con người có phẩm giá của một ngôi vị, có khả năng biết mình, làm chủ mình và tự nguyện hiệp thông với người khác (số 108).

Khởi đi từ điều mọi người công nhận, Giáo hội cho biết con người được kêu gọi để có tương quan với Thiên Chúa. “Thực vậy, con người không lầm lẫn khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ trụ vật chất, và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của thiên nhiên, hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi con người quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu nầy, ở đó Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (GS 14).

Cũng trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” (GS) Giáo hội không trả lời câu hỏi Con
người là gì ? Theo kiểu cổ điển: “Con người là một hữu thể có trí khôn, gồm có xác và hồn”, nhưng Giáo Hội hướng về Kinh thánh: “Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa” (GS 12), “có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất để cai trị và xử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa”.

Cũng khởi đi từ Kinh thánh, Giáo hội khai triển chiều kích xã hội: “Nhưng Thiên Chúa đã
không tạo dựng nên con người cô độc: Bởi vì từ khởi thủy Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ (St 1,2-7). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người sẽ không thể sống và phát triển tài năng của mình” (GS 12).

Con người có bản tính xã hội vì con người không thỏa mãn khi sống với thảo mộc, và sự
xuất hiện của người nữ làm thỏa mãn nhu cầu đối thoại liên vị (số 110). Con người liên hệ với những người khác như những người được giao cho sự sống của người khác (số 112). Vì mang tính xã hội nên con người hưởng dùng của cải với trách nhiệm, chứ không được tự do khai thác cách tùy tiện và ích kỷ (số 113).

2.2 Vết thương của tội nguyên tổ

Tội nguyên tổ làm con người mất đi sự thánh thiện và công chính nguyên thủy (số 115), tạo một vết thương nằm nơi sâu xa nhất của con người. Hậu quả của tội là sự tha hóa (xa rời Thiên Chúa và với chính mình, với người khác và thế giới chung quanh) (số 116). Giáo lý về tội nguyên tổ cho biết tội mang tính phổ quát, có nền tảng rất quan trọng. Giáo lý đó mời gọi đừng ở lại trong tội, đừng xem nhẹ tội, cũng đừng đổ lỗi cho người khác. Tuy nhiên không được tách rời giáo lý về sự phổ quát của tội với ý thức về sự phổ quát của ơn cứu độ (số 120).

2.3 Con người được cứu độ

Người kitô hữu nhìn thấy vực sâu của tội nhưng luôn nhìn trong ánh sáng hy vọng do Đức Kitô mang lại (số 121). Nhờ Đức Kitô chúng ta được hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi
(số 122). Theo Tân ước toàn thể thụ tạo cùng với nhân loại đều chờ đợi Đấng Cứu Chuộc.

2.4 Con người đa dạng

“Giáo huấn Xã hội Công giáo tìm cách chỉ ra những khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm con người: con người phải được tìm hiểu “trong sự thật toàn vẹn của mình, từ sự
hiện hữu của bản thân con người cho đến chiều hướng cộng đồng và xã hội
”,
với sự quan tâm đặc biệt sao cho giá trị của con người được mọi người sẵn sàng nhìn nhận” (số 126).

– Tính thống nhất của con người: Thống nhất hồn xác, cả hai bản tính kết hợp thành
bản tính con người.

– Con người bước ra khỏi mình để hướng về Đấng Vô biên và và để hướng đến người khác. Con người độc nhất không thể sao chép và không thể xâm phạm. Từ đó đưa tới việc tôn
trọng nhân phẩm: Không thể lấy con người làm bàn đạp để thực hiện dự án, mà trái lại dự án là để phục vụ con người.

– Con người tự do hướng về điều tốt là một trong những dấu hiệu chứng tỏ con người giống Thiên Chúa (số 135).

– Mọi người đều bình đẳng vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa, “Không có Do Thái hay Hy Lạp, không có nô lệ hay tự do, không có nam hay nữ, vì
tất cả anh em đều là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28; x. Rm 10,12; 1 Cr 12,13; Cl 3,11).

– Con người là hữu thể xã hội (xem bên trên).

3. Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

3.1 Giáo hội với bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Giáo hội đánh giá cao bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Giáo hội ghi nhận “giá
trị tích cực của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền,
được Liên Hiệp Quốc chấp nhận ngày 10-12-1948, và được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II coi như “một cột mốc thực sự trên con đường tiến bộ đạo đức của nhân loại”. Tôn trọng con người là tôn trọng quyền con người (Nhân quyền). Xác định và công bố các quyền của con người, là một trong những cố gắng quan trọng nhất nhằm đáp ứng cách hữu hiệu những đòi hỏi tất yếu của phẩm giá con người (số 152).

3.2  Vài nhận xét về bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Vài lưu ý về bản Tuyên ngôn :

–   Công nhận nhân phẩm của tất cả con người trong đại gia đình nhân loại và
những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ là nền tảng của tự
do, công lý và hòa bình
trên thế giới.

–         Xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ.

–         Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp.

–          Cácquốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc
tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.

–      Dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

4. Học Thuyết Xã Hội về quyền con người

4.1 Nguồn gốc quyền con người

Thật ra, nguồn gốc các quyền con người nằm ngay trong chính phẩm giá của mỗi một con người.…(số 153). Những quyền này mang những đặc tính “phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng”.

Phẩm giá này đã được nhận thức và lĩnh hội trước tiên là nhờ lý trí. Nền tảng tự
nhiên của các quyền này càng trở nên vững chắc hơn khi, nhờ ánh sáng siêu nhiên, người ta nhìn nhận rằng phẩm giá của con người đã được Đức Giêsu Kitô đón nhận và cứu chuộc qua sự nhập thể, qua cái chết và sự sống lại của Người.

4.2 Bản liệt kê Quyền con người của Giáo hội

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II lập một danh sách các quyền ấy trong Thông điệp entesimus Annus: “quyền được sống, một phần không thể thiếu trong quyền ấy là quyền của đứa trẻ được lớn lên trong bụng mẹ ngay từ khi thụ thai; quyền được sống trong một gia đình hợp nhất và trong một môi trường luân lý giúp phát triển nhân cách của đứa trẻ; quyền được phát huy trí thông minh, được tự do tìm kiếm và hiểu biết sự thật; quyền được chia sẻ công ăn việc làm để sử dụng các nguồn lực vật chất của trái
đất cách khôn ngoan, và quyền được lấy từ việc lao động những phương thế để trợ giúp bản thân và những người lệ thuộc vào mình;quyền được tự do lập gia đình, quyền có con và dạy dỗ con qua việc thực hiện hành vi tình dục một cách có trách nhiệm. Theo một nghĩa nào đó, nguồn gốc và tổng hợp các quyền này chính là quyền tự do tôn giáo, được hiểu như quyền được sống theo sự thật của đức tin và phù hợp với phẩm giá siêu việt của một con người” (Số 155).

4.3 Quyền lợi và nghĩa vụ

Liên kết hết sức chặt chẽ với đề tài quyền lợi là vấn đề nghĩa vụ của con người: “Trong xã hội loài người, quyền của người này là nghĩa vụ cho hết những người khác: Cụ thể là nghĩa vụ phải nhìn nhận và tôn trọng quyền ấy” (số 156).

4.4 Khoảng cách giữa chữ viết và tinh thần

Thực tế rất đáng buồn là các quyền ấy đã bị xâm phạm, với đủ loại chiến tranh và bạo lực, nhất là những cuộc diệt chủng và lưu đày tập thể, việc mở rộng gần như trên toàn thế giới những hình thức chưa từng thấy của sự nô lệ như buôn người, bắt trẻ em làm lính, bóc lột người lao động, buôn bán ma tuý trái phép, mãi dâm.

Có một khoảng cách giữa “chữ viết” và “tinh thần” của nhân quyền, vì người ta chỉ nhìn nhận các quyền này một cách hết sức hình thức (Số 158). Chính Giáo Hội cũng cảm thấy nhu cầu phải tôn trọng công lý và các quyền con người ngay trong hàng ngũ Giáo Hội (số 159).

5. Thay cho lời kết

Giáo hội bận tâm rao giảng tin mừng nên “Đẩy mạnh công lý và hoà bình, đưa ánh sáng và men Tin Mừng thâm nhập mọi lĩnh vực của xã hội con người, đó luôn luôn là mục tiêu Giáo Hội ra sức nhắm tới khi thi hành mệnh lệnh của Chúa”.

Giáo Hội dấn thân trong công tác mục vụ này theo hai hướng: bằng cách công bố những nền tảng Kitô giáo của nhân quyền và bằng cách tố giác những sự vi phạm các quyền này338. Dù sao, “công bố bao giờ cũng quan trọng hơn là tố giác, và không thể tố giác mà quên công bố, vì có như thế việc tố giác mới chắc chắn và có động cơ cao cả”w

(Trích tập san Giáo huấn Xã hội Công giáo số 2)

ĐẠO CÔNG GIÁO THAY ĐỔI HẲN CUỘC ĐỜI TÔI!

ĐẠO CÔNG GIÁO THAY ĐỔI HẲN CUỘC ĐỜI TÔI!
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

… Anh Stephane Mauriac là tín hữu tân tòng người Pháp. Là tín hữu tân tòng nhưng anh lại chào đời trong một gia đình Công Giáo. Lý do là vì Cha Mẹ không muốn rửa tội khi con còn nhỏ. Hoàn cảnh không thuận lợi cho việc lãnh nhận Đức Tin nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng đã dẫn dắt và giúp anh tiến đến bí tích Rửa Tội. Xin nhường lời cho anh Stephane Mauriac.
Tôi sinh ra và lớn lên tại Paris, thủ đô nước Pháp. Sống ở Paris nên tôi thường đến kính viếng nhà nguyện của các Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh Sơn Phaolô ở số 140 đường du Bac, nơi Đức Mẹ MARIA hiện ra với thánh nữ Catherine de Labouré (1806-1876) vào năm 1830. Có lẽ ơn gọi tín hữu Công Giáo nẩy sinh từ đó. Thỉnh thoảng tôi đem vấn đề rửa tội ra trình bày với Cha Mẹ nhưng ông bà gạt đi và nói:
– Để thủng thẳng rồi tính, đợi khi nào con bước vào tuổi trưởng thành hẳn hay!
Phản ứng của Ba Má tôi là thế. Đối với bạn bè lại càng tệ hơn. Nơi học đường và
trong môi trường làm việc, chúng tôi không bao giờ đề cập đến vấn đề tôn giáo
và chúng tôi trốn tránh danh xưng ”Kitô hữu”!
Năm 1988 tôi rời thủ đô Paris và chuyển về sống tại miền quê. Nơi đây, sau nhiều
biến cố dồn dập xảy ra, tôi quyết định đến gặp Cha Sở. Tôi xin theo lớp giáo lý
tân tòng để chuẩn bị lãnh bí tích Rửa Tội. Rủi thay, trong giáo xứ không có lớp
giáo lý cho người lớn nhưng chỉ có các lớp giáo lý dành cho trẻ em. Tôi đành
kiên nhẫn chờ đợi.
Bốn năm trôi qua và vào năm 1992, có hai thanh niên khác cũng muốn xin gia nhập
Giáo Hội Công Giáo. Chúng tôi làm thành một lớp giáo lý gồm 3 người. Chúng tôi
họp nhau mỗi tháng một lần. Ban đầu Cha Sở trao cho chúng tôi cuốn giáo lý nhỏ.
Sau đó, chúng tôi học hỏi, bàn thảo và đào sâu giáo lý Công Giáo bắt đầu từ cuốn
Phúc Âm. Riêng tôi, tôi may mắn được đôi vợ chồng trẻ hướng dẫn và đồng hành
trên con đường tiến đến Đức Tin Công Giáo.
Trước khi lãnh phép Rửa Tội, tôi vẫn có thói quen cầu nguyện. Rồi tôi cùng đi lễ
Chúa Nhật với Cha Mẹ đỡ đầu. Giờ đây, sau khi được Rửa Tội, cầu nguyện trở
thành cần thiết như hít thở. Tôi rất thích cầu nguyện và hoàn toàn bám chặt vào
cầu nguyện. Tôi chỉ gặp chút vấn đề khi đọc kinh LẠY CHA tới câu ”Và tha nợ
chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Tôi thích đổi câu này thành: ”Và tha nợ chúng con, như chúng con cố gắng tha kẻ
có nợ chúng con”. Đôi lúc tôi không hiểu tại sao khi đi lễ Chúa Nhật, các tín hữu
Công Giáo âu yếm mỉm cười với nhau lúc bắt tay trao đổi bình an, nhưng rồi sau
đó, trong cuộc sống hàng ngày lại không tiếc lời chửi rủa và thóa mạ nhau!
Nơi miền quê, tôi nhận thấy người dân sống gần Đức Chúa GIÊSU KITÔ hơn là tín hữu
Công Giáo sống ở thành thị hoặc thủ đô! Đối với dân làng cũng như đối với tôi, đi nhà thờ có nghĩa là đi dự cuộc họp giữa những người cùng tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ và cùng tìm kiếm một giải đáp cho các vấn đề của cuộc sống con người.

Bí tích Rửa Tội trở thành một sự kiện quan trọng trong đời sống tôi. Tôi đã vượt qua một giai đoạn và tôi cảm thấy thật thoải mái và hạnh phúc. Giờ đây, nếu có ai xin tôi đồng hành với các tân tòng thì tôi sẵn sàng chấp nhận. Bởi lẽ, đã có người sẵn sàng giúp tôi thì sao tôi lại không sẵn sàng giúp đỡ người khác? Trở thành tín hữu Công Giáo đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi. Tôi cảm thấy cởi mở hơn đối với tha nhân, điều mà trước đó tôi không làm được. Trước kia, chỉ cần ai đó làm phật ý, tức khắc tôi loại trừ người ấy khỏi mối quan hệ với tôi!
Giờ đây tôi có thể nói như thánh Phaolô tông đồ, sau khi lãnh bí tích Rửa Tội rằng:
”Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ sống
trong tôi!”
… ”Tôi quỳ gối trước mặt THIÊN CHÚA CHA là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời
dưới đất. Tôi nguyện xin THIÊN CHÚA CHA, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh chị em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh chị em được vững vàng. Xin cho anh chị em, nhờ lòng tin, được Đức Chúa GIÊSU KITÔ ngự trong tâm hồn; xin cho anh chị em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên Đức Ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh chị em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết Tình Yêu của Đức Chúa GIÊSU KITÔ là Tình Yêu vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh chị em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của THIÊN CHÚA. Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới. Xin tôn vinh Người trong Hội Thánh và nơi Đức Chúa GIÊSU KITÔ đến muôn thưở muôn đời. Amen”
(Êphêsô 3,14-21).
(”Annales d’Issoudun”, Janvier/1996, trang 15)
Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt

Lòng Chúa Thương Xót trong Kinh thánh

Lòng Chúa Thương Xót trong Kinh thánh

TRẦM THIÊN THU

 

LỜI NGỎ: Bài viết này dựa vào Tông thư “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót” [Rich in Mercy (Anh ngữ), Dives in Misericordia (La ngữ)] của Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Đây là loại bài “cao cấp” nên rất khó lĩnh hội ngay, vì thế bạn cần đọc chậm và suy nghĩ nhiều theo linh hứng của Chúa Thánh Thần. Đừng đọc cả một lúc, mỗi lần đọc một ít. Chúc bạn được Chúa Thánh Thần linh hứng để hiểu đúng linh đạo này. Xin mời bạn!

 


Khi diễn tả Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), các sách Cựu ước dùng 2 cách diễn tả đặc biệt,
mỗi câu đều có một sắc thái khác nhau về ngữ nghĩa.

Trước hết, thuật ngữ “hesed” ngụ ý một thái độ sâu sắc của “lòng tốt”. Khi điều này
được thiết lập giữa hai cá nhân, họ không chỉ muốn tốt cho nhau mà họ còn tin tưởng nhau bằng sự thầm hứa trong lòng, và trung thành với nhau. Vì “hesed” cũng có nghĩa về ân huệ hoặc yêu thương, điều này xảy ra đúng theo nền tảng của lòng trung thành. Sự thật là sự tận tụy được nói tới không chỉ là đặc tính luân lý mà còn hầu như là đặc tính pháp lý tạo sự khác biệt.

Cựu ước dùng từ “hesed” để nói về Thiên Chúa, điều này luôn xảy ra khi liên kết với
giao ước mà Thiên Chúa đã thiết lập với dân Israel. Đối với Thiên Chúa, giao ước này là tặng phẩm và ân huệ dành cho dân Israel. Do đó, Thiên Chúa đã hứa tôn trọng giao ước, “hesed” cũng cần một ý nghĩa hợp pháp phù hợp với giao ước.

Lời hứa theo pháp lý về phần Thiên Chúa bắt buộc dân Israel không được vi phạm giao
ước và phải tôn trọng các điều kiện của giao ước. Nhưng ở điểm này, “hesed” không là pháp lý, được mặc khải phương diện sâu xa hơn, cho thấy chính nó là gì ngay từ đầu, nghĩa là tình yêu đã được trao ban, tình yêu mạnh hơn sự phản trắc và ân sủng mạnh hơn tội lỗi.

Lòng tín trung này đối với con-gái-bất-trung-của-dân-tộc: “Ngay cả lũ chó rừng cũng biết chìa vú cho con bú, thế mà con gái dân tôi lại dữ dằn hung bạo như đà điểu chốn hoang địa khô cằn. Thiếu nữ dân tôi gian ác tầy trời vượt xa cả Xô-đôm tội lỗi; thành đó bị
đổ nhào trong nháy mắt, chẳng cần ai phải nhúng tay vào”
(Ac 4:3, 6). Tóm lại, đối với Chúa, đó là lòng tín trung đối với chính Ngài. Điều này trở thành hiển nhiên thường xuyên ở cả hai dạng “tận tụy” mà chúng ta gặp (ân sủng và tín trung), có thể được coi là trường hợp của phép thế đôi (hendiadys, cách dùng liên từ “và” giữa 2 từ ngữ), ví dụ: Xh 34:6; 2 Sm 2:6; 15:20; Tv 25 [24]:10; 40 [39]:11-12; 85 [84]:11; 138 [137]:2; Mi 7:20).

“Ngươi hãy nói với nhà Israen: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ítraen,
không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến” (Ed 36:22). Do đó mà dân Israel, mặc dù nhiều tội lỗi vì vi phạm giao ước, không thể yêu cầu “hesed” của Thiên Chúa theo pháp lý, nhưng họ có thể và phải tiếp tục hy vọng và tin sẽ được điều đó, vì Thiên Chúa của giao ước thực sự “chịu trách nhiệm về tình yêu của Ngài”.

Thành quả của tình yêu này là ơn tha thứ và phục hồi ân sủng, tái lập giao ước nội
tại. Từ ngữ thứ hai theo thuật ngữ Cựu ước xác định Lòng Thương Xót là
“rahamim”.

Đây là sự khác biệt của “hesed”. Trong khi “sự tận tụy” làm nổi bật lòng tín trung
của “trách nhiệm đối với tình yêu của mình” (theo nghĩa nam tính), “rahamim”
theo chính nguyên ngữ đã bao hàm tình yêu của người mẹ (rehem = tử cung).

Từ hệ lụy nguồn gốc và sâu xa – thực sự là sự kết hợp – liên kết người mẹ với đứa con
làm nảy sinh mối quan hệ đặc biệt với đứa con, một tình yêu đặc biệt. Với tình yêu này, người ta có thể nói rằng đó là “hoàn toàn cho không”, vô điều kiện, và về phương diện này nó cấu thành sự cần thiết nội tại: Tình trạng cấp bách của con tim.

Như vậy, đó là sự biến đổi “nữ tính” của lòng tín trung nam tính đối với chính nó
được diễn tả bằng từ ngữ “hesed”. Đối với nền tảng tâm lý này, “rahamim” phát
sinh một loạt cảm xúc, kể cả lòng tốt và dịu dàng, kiên nhẫn và hiểu biết, nghĩa là sẵn sàng tha thứ.

Cựu ước quy cho Thiên Chúa các đặc tính này khi dùng thuật ngữ “rahamim” để nói về
Ngài. Chúng ta đọc thấy trong sách Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”
(Is 49:15).

Tình yêu này là lời cảm tạ tín thành đối với sức mạnh mầu nhiệm của tình mẫu tử,
được diễn tả trong Cựu ước bằng nhiều cách: Cứu thoát khỏi mọi nguy hiểm, nhất
là thoát khỏi kẻ thù; tha thứ tội lỗi – của từng người và của cả toàn dân Israel – cuối cùng là sẵn sàng làm trọn lời hứa và niềm cậy trông, mặc dù nhân loại bất trung, như chúng ta thấy trong sách Hôsê: “Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14:5).

Theo cách nói của Cựu ước, chúng ta cũng thấy những cách diễn tả khác, ngụ ý nhiều
cách đối với ngữ cảnh cơ bản. Nhưng cả hai cách nói trên đều đáng lưu ý đặc biệt, cho thấy rõ phương diện theo thuyết hình người nguyên thủy (original anthropomorphic aspect): Khi diễn tả LCTX, các tác giả Kinh thánh dùng cách nói phù hợp với lương tâm và kinh nghiệm của những người đương thời.

Thuật ngữ Hy Lạp theo bản dịch “Bảy Mươi” (*) không cho thấy như bản cổ ngữ Do Thái:
Vì thế nó không đưa ra tất cả sự khác biệt về ngữ nghĩa riêng đối với văn bản gốc. Dù ở mức nào, Tân ước cũng dựa vào sự phong phú và độ sâu ghi dấu cổ

Theo cách này, chúng ta thừa hưởng từ Cựu ước – theo cách tổng hợp – không chỉ phong
phú về cách diễn tả được các sách đó dùng để xác định LCTX, mà còn về “tâm lý” của Thiên Chúa theo thuyết hình người: Hình ảnh về tình yêu khắc khoải của Ngài, khi tiếp xúc với điều ác, nhất là với tội lỗi của cá nhân và dân tộc, được biểu hiện là LTX.

Hình ảnh này được tạo nên không chỉ về ngữ cảnh tổng quát của động từ “hanan” mà còn
về ngữ cảnh của từ ngữ “hesed” và “rahamim”. Thuật ngữ “hanan” diễn tả một khái niệm rộng hơn, thực sự có nghĩa là cách biểu hiện của ân sủng, liên quan một bẩm chất kiên định (constant predisposition) là khoan hồng, nhân từ và thương xót.

Thêm vào các yếu tố ngữ nghĩa, khái niệm của Cựu ước về LCTX cũng được tạo nên từ
những gì bao hàm trong động từ “hamal”, theo nghĩa đen là “tha chết” (một kẻ thù chiến bại) nhưng cũng “tỏ lòng thương xót và trắc ẩn”, vì thế mà tha thứ và miễn trừ tội lỗi.

Còn có thuật ngữ “hus” diễn tả lòng thương xót và trắc ẩn, nhưng đặc biệt mang ý
nghĩa xúc động. Các thuật ngữ này xuất hiện ít hơn trong các văn bản Kinh thánh
khi diễn tả LCTX.

Ngoài ra, nên chú ý từ ngữ “emet” đã được nói tới. Nó có nghĩa ban đầu là “sự vững
chắc, sự an toàn” (theo Hy ngữ của bản Bảy Mươi là “chân lý”) và khi đó có nghĩa là “lòng thành tín”. Theo cách này, nó có vẻ liên kết với ngữ nghĩa riêng đối với thuật ngữ “hesed”. Ở cả 2 nơi, đó là trường hợp của “hesed”, nghĩa là lòng thành tín mà Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài đối với dân, trung thành với điều Ngài hứa là sẽ làm trọn trong tình mẫu tử của Mẹ Thiên Chúa (x. Lc 1:49-54), như Kinh thánh nói: “Chúa sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên và nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1:72). Đây cũng là trường hợp của LCTX theo nghĩa của từ “hesed”, theo mức của những câu theo sau, những câu mà Dacaria nói về “LTX nhân hậu của Thiên Chúa”, diễn tả rõ ràng nghĩa thứ hai, nghĩa là “rahamim” (bản La ngữ: Viscera Misericordiae), đồng hóa LCTX với tình thương của người mẹ.

 

CỰU ƯỚC

Cựu ước hiểu LCTX bằng cách dùng nhiều thuật ngữ có ý nghĩa liên quan, khác nhau
bằng nội dung riêng, nhưng có thể nói được rằng chúng đều đồng quy từ những hướng khác nhau theo nghĩa cơ bản, diễn tả sự phong phú nổi bật và gần gũi với con người với các phương diện khác nhau.

Cựu ước khuyến khích mọi người chịu đựng nỗi bất hạnh, nhất là nỗi đau khổ do tội
lỗi – như dân Israel được Thiên Chúa hứa ban giao ước – để cầu xin LTX của Thiên Chúa, và làm cho những nỗi bất hạnh đó trở thành niềm hy vọng, nhắc nhở về LCTX trong những lúc thất bại và mất niềm tin.

Cựu ước cũng luôn dâng lời tạ ơn về LCTX, thể hiện trong đời sống của toàn dân và
mỗi cá nhân. Theo cách này, LCTX tương phản với sự công thẳng của Thiên Chúa theo nghĩa nào đó, và trong nhiều trường hợp được thể hiện không chỉ mạnh hơn mà còn sâu sắc hơn công lý. Cũng vậy, tình yêu tác động tới công lý, và cuối cùng thì công lý phục vụ tình yêu.

Cựu ước còn dạy rằng, dù công lý là một nhân đức đích thực nơi con người, và nơi
Thiên Chúa biểu hiện sự hoàn hảo trong suốt, do đó mà tình yêu “lớn hơn” công
lý – lớn hơn về ý nghĩa nguyên thủy và cơ bản.

Tính ưu việt và nổi trội của tình yêu có liên quan công lý – đây là dấu ấn của toàn bộ mặc khải – được mặc khải chính xác qua LTX. Điều này có vẻ minh nhiên đối với các tác giả thánh vịnh và các tiên tri mà công lý kết thúc theo nghĩa Ơn cứu độ được hoàn tất bởi chính Thiên Chúa và LCTX [Tv 40 (39):11; 98 (97):2; Is 45:21; Is 51:5 & 8; Is 56:1].

LCTX khác với công lý, nhưng không đối lập, nếu chúng ta nhận theo lịch sử con người
– như Cựu ước đã thể hiện chính xác – sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa đã tự liên kết với thụ tạo của Ngài bằng một tình yêu đặc biệt.

Theo bản chất, tình yêu loại trừ thù hận và ý xấu đối với người mà Ngài đã trao tặng
phẩm là chính mình: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Ngài đã làm ra” (Kn 11:24). Những từ này cho thấy cơ bản thâm sâu của mối quan hệ giữa công lý và LTX nơi Thiên Chúa, trong mối quan hệ của Ngài với con người và thế giới.

Những lời đó cho chúng ta biết rằng chúng ta phải tìm kiếm nguồn gốc của việc trao
ban sự sống và các lý do thân thiết đối với mối quan hệ này bằng cách trở lại từ “sự bắt đầu”, trong chính mầu nhiệm sáng tạo. Những lời đó báo trước Giao ước cũ (Cựu ước), sự mặc khải viên mãn của Thiên Chúa, Đấng mệnh danh là “tình yêu” (1 Ga 4:15 & 16).

Nối kết với mầu nhiệm sáng thế là mầu nhiệm của sự chọn lựa, theo cách đặc biệt mà
hình thành lịch sử con người có người cha tâm linh là Abraham nhờ đức tin. Do
đó, qua dân tộc này mà các hành trình xuyên suốt lịch sử Cựu ước và Tân ước, mầu nhiệm của sự chọn lựa nói đến mỗi người trong đại gia đình nhân loại.

“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31:3).“Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy” (Is 54:10). Sự thật này, đã từng được công bố với dân Israel, liên quan viễn cảnh của toàn lịch sử con người, cả viễn cảnh thời gian và thế mạt (Gn 4:2, 11; Tv 145 (144):9; Hc 18:8-14; Kn 11:23-12:1).

Đức Kitô mặc khải Chúa Cha trong cùng viễn cảnh và theo nền tảng đã được chuẩn bị,
như nhiều trang Cựu ước mô tả. Cuối mặc khải này, vào đêm trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nói với tông đồ Philipphê lời đáng ghi nhớ này: “Thầy ở với anh em bấy lâu, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”(Ga 14:9).

TÂN ƯỚC

Ngay đầu Tân ước, hai tiếng nói vang lên trong Phúc âm thánh Luca phù hợp việc liên
quan LCTX – một sự hài hòa vang dội cả truyền thống Cựu ước. Đức Maria vào nhà
ông Dacaria, tán tụng Chúa bằng cả linh hồn vì LXT của Chúa, điều mà “từ đời nọ
đến đời kia” được trao ban cho những ai kính yêu Ngài.

Sau đó, khi Đức Mẹ nhớ lại sự tuyển chọn dân Israel, Đức Mẹ đã tuyên xưng LCTX mà
Ngài đã chọn Đức Mẹ là người được mọi thời khen là “đầy ơn phúc” (x. Lc 1:49-54). Khi Gioan Tẩy giả chào đời, ông Dacaria ca tụng Thiên Chúa của Israel và tôn vinh Ngài vì đã tỏ LTX như đã hứa với các tổ phụ và vì đã nhớ giao ước thánh của Ngài (x. Lc 1:72). Đây cũng là trường hợp của LCTX theo nghĩa của từ “hesed”, điều mà ông Dacaria nói về “lòng nhân hậu của Thiên Chúa”, được diễn tả rõ theo nghĩa thứ hai, nghĩa là “rahamim” (La ngữ là viscera misericordiae), xác định LCTX như tình mẫu tử.

Trong giáo huấn của chính Chúa Giêsu, hình ảnh này kế thừa từ Cựu ước trở nên đơn
giản hơn và sâu xa hơn. Đây có thể là điều hiển nhiên nhất trong dụ ngôn về đứa con hoang đàng (x. Lc 15:14-32). Dù từ ngữ “lòng thương xót” không xuất hiện, nhưng vẫn diễn tả rõ ràng bản chất của LCTX.

Đó là mầu nhiệm của LCTX, một kịch bản thâm thúy thể hiện Tình Cha đối với đứa con
hoang đàng và tội lỗi. Người con đó không chỉ được hồi phục quyền làm con mà còn được tiếp tục thừa kế gia sản của người cha dù đã ăn chơi phung phí hết phần gia sản riêng. Ăn năn và trở về, nhận lỗi và xin lỗi, tất cả lại trở về nguyên trạng của người con. Tình Chúa quá bao la và kỳ diệu!

“Khi tiêu xài hết mọi thứ”, người con “bị túng quẫn”, nhất là “nạn đói xảy ra trong
vùng đó” đến nỗi người con “thèm ăn cám heo” mà cũng không được ăn, thế là người con phải quyết định về nhà cha:“Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà mình ở đây lại chết đói!” (Lc 15:17). Việc trở về của người con có thể chỉ là vạn bất đắc dĩ, nhưng ít nhiều gì anh cũng nhận thấy mình bất xứng và chỉ dám xin cha coi mình như tôi tớ: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15:18-19). Thế nhưng anh không thể tin những gì anh thấy: Người cha ra ôm anh vào lòng, làm tiệc mừng, cho mang đồ mới và giày mới. Dụ ngôn này đã “chạm” đến giao-ước-tình-yêu, “chạm” đến mọi tình trạng mất ân sủng và mọi tội lỗi.

Theo nhận thức, người con này lý luận để khả dĩ thấy rằng mình đã hoàn toàn bất
xứng, không còn mối quan hệ mật thiết của tình phụ tử. Do đó mà người con quyết
định đứng dậy và trở về với cha. Dám trở về là can đảm, vì dù sao cũng đã bẽ mặt và nhục nhã, nhưng không mặc cảm tội lỗi. Người con hoang đàng nhận thấy mình không có quyền đòi hỏi gì nữa, không đáng là con, may lắm cũng chỉ mong được làm người giúp việc trong nhà cha mình thôi. Người con đã nhận thức đầy đủ về tình trạng bất xứng của mình và “đáng đời” thế nào theo công lý. “Quyết định dứt khoát trở về” là động thái rất quan yếu. Lúc đó, con người phải giằng co âm thầm rất mãnh liệt. Đó chính là động thái trưởng thành trong đức tin – tin vào LCTX và tin mình được thứ tha.

Trong dụ ngôn “người con hoang đàng”, thuật ngữ “công bình” không được dùng, và trong
nguyên bản cũng không dùng từ “lòng thương xót”. Mối quan hệ giữa công bình và yêu thương được biểu hiện như LCTX, đồng thời được khắc sâu bằng tính chính xác trong nội dung của dụ ngôn.

Rõ ràng hơn là tình yêu được biến đổi thành LCTX khi cần có quy luật chính xác của
sự công bình. Người con hoang đàng không còn xứng đáng sau khi ăn chơi sa đọa,
trắng tay khi trở về với cha, nhưng được cha tha bổng, và dần dần người con được vun đắp về vật chất và tinh thần, dù có thể không bao giờ được đầy đủ như xưa. Tình phụ tử được khôi phục là nhờ tính cao thượng và tình thương của người cha.

Mối quan hệ như vậy không bao giờ có thể bị thay đổi hoặc bị phá hủy bằng bất cứ
động thái nào. Người con hoang đàng biết vậy và biết mình phải làm gì để chuộc
lỗi lầm, đó là lúc người ta biết rõ mình để có thể sống khiêm nhường hơn.

Hình ảnh người con hoang đàng giúp chúng ta nhận biết LCTX là gì và như thế nào.
Chắc chắn đây là mặc khải về Thiên Chúa Cha, giúp chúng ta tái phát hiện cách
nhìn của Cựu ước về LCTX luôn mới, vừa đơn giản vừa sâu xa.

Người cha của đứa con hoang đàng luôn trung thành với cương vị làm cha, trung thành
với tình yêu bao la mà ông luôn dành cho con mình. Do đó mà người cha luôn chờ đợi và sẵn sàng tha thứ nếu đứa con biết trở về. Tình yêu ấy là LTX, kỳ lạ đến nỗi không ai khả dĩ hiểu hết. Người cha ấy đã tha thứ thì không còn phân biệt gì so với đứa con vẫn ngoan ngoãn ở với mình. Người con ngoan ngoãn đã so đo nhưng người cha đã phân tích rõ ràng để huynh đệ vẫn hiếu thuận với nhau.

Người cha trung tín với chính mình – một đặc điểm mà Cựu ước dùng thuật ngữ “hesed” –
ngay khi diễn tả bằng cách thể hiện tình phụ tử. Thật vậy, chúng ta đọc thấy rằng khi người cha thấy đứa con hoang đàng trở về, ông đã chạnh lòng trắc ẩn, chạnh LTX, chạy ra đón nó, ôm nó trước khi nó ôm mình, rồi hôn nó (Lc 15:20). Chắc chắn ông làm điều này vì yêu thương con sâu sắc lắm, và điều này cũng bày tỏ lòng đại lượng dành cho con, lòng đại lượng đó đã khiến người con lớn phải tức giận. Lời người cha nói với người con lớn giản dị mà thâm sâu: “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15:32).

Trong Phúc âm của thánh sử Luca có dụ ngôn Con Chiên Lạc (x. Lc 15:4-7) và dụ ngôn
Đồng Bạc Bị Mất (x. Lc 15:8-9). Mỗi lần đều có mức nhấn mạnh tương tự về niềm vui có trong trường hợp của đứa con hoang đàng (x. Lc 15:11-32). Lòng thành tín của người cha hoàn toàn được tập trung vào tính nhân bản đối với đứa con hư hỏng, về nhân phẩm của đứa con.

Điều này giải thích mọi niềm vui nỗi mừng lúc đứa con trở về nhà. Do đó người ta có
thể nói rằng tình thương dành cho đứa con là tình yêu xuất phát từ chính bản chất tình phụ tử, theo cách thức bắt buộc người cha quan tâm đến nhân phẩm của đứa con. Mối quan tâm này là thước đo tình yêu thương của người cha, tình yêu thương mà thánh Phaolô diễn tả: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn” (1 Cr 13:4-8).

Lòng Thương Xót – như Đức Kitô đã bày tỏ trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (hoặc dụ
ngôn Đứa Con Hoang Đàng) – có dạng nội tại của tình yêu trong Tân ước gọi là “agape”. Tình yêu thương này có thể đạt tới mọi đứa con hoang đàng, tới mọi nỗi khổ đau của con người, tới cả nỗi khốn khổ luân lý và tội lỗi.

Khi điều này xảy ra, con người là khách thể của LTX mà không hề cảm thấy bị hạ
nhục, mà cảm thấy lại được tìm thấy và “được phục hồi giá trị”. Người cha bày tỏ niềm vui mừng đối với đứa con vừa “được tìm thấy” và như “chết sống lại”.

Niềm vui này thể hiện cái tốt nguyên trạng, dù đứa con hoang đàng cũng không thể
ngăn cản tình cha thương con. Niềm vui đó còn thể hiện cái tốt lại được tìm thấy, khi đứa con trở về thú nhận tội lỗi. Điều xảy ra giữa mối quan hệ phụ tử trong dụ ngôn của Chúa Giêsu không được đánh giá “từ bên ngoài”. Định kiến của chúng ta về LTX đa số là hậu quả của việc chúng ta đánh giá theo bề ngoài.

Thi thoảng điều này xảy ra bằng cách theo phương pháp đánh giá mà chúng ta thấy
trong LTX vượt trên mọi mối quan hệ bất bình đẳng giữa người trao LTX và người nhận LTX. Do đó, chúng ta vội vã “chiết khấu” LTX mà “thu nhỏ” người nhận, cho nên chúng ta xúc phạm nhân phẩm người khác.

Dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng cho thấy thực tế khác hẳn: Mối quan hệ của LTX dựa trên
kinh nghiệm chung của cái tốt là con người, kinh nghiệm chung của phẩm chất đúng nơi con người. Kinh nghiệm chung này làm cho đứa con hoang đàng bắt đầu tự nhận thấy mình và hành động của mình bằng sự thật trọn vẹn (đó là khiêm nhường). Mặt khác, vì chính lý do này mà đứa con trở thành cái tốt riêng của người cha: Người cha thấy rõ cái tốt đạt được nhờ mầu nhiệm của chân lý và yêu thương để người cha có vẻ quên mọi tội lỗi mà đứa con đã phạm.

Hoán cải là cách diễn tả cụ thể nhất về tác dụng của tình yêu và sự hiện hữu của LTX
trong thế giới loài người. Dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng diễn tả theo cách đơn giản nhưng sâu sắc trong thực tế cải tà quy chánh.

Ý nghĩa riêng và đúng của LTX không chỉ bao gồm trong cách nhìn, mà còn xuyên
suốt và đầy lòng trắc ẩn: LTX được diễn tả về phương diện đúng và riêng khi LTX
phục hồi để đánh giá, thúc đẩy và thu hút những điều tốt từ mọi dạng của điều xấu hiện hữu trong thế giới và trong con người. Hãy hiểu theo cách này, LTX cấu thành nền tảng của sứ vụ cứu độ và sức mạnh trong sứ vụ của Đức Kitô.

Các tông đồ và các môn đệ của Ngài đã hiểu và thực hành LTX như cách của Ngài. LTX
không bao giờ ngừng mặc khải, bằng tâm khảm và trong hành động, như bằng chứng
hùng hồn về tình yêu: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (x. Rm 12:21). Khuôn mặt đích thực của LTX phải được mặc khải theo cách mới. Mặc dù có nhiều định kiến, LTX vẫn thực sự rất cần thiết trong thời đại chúng ta.

LCTX được mặc khải trên Thánh giá và trong sự Phục sinh

Sứ vụ của Đức Kitô và hoạt động của Ngài giữa nhân loại kết thúc bằng cái chết trên
Thập giá và sự Phục sinh. Chúng ta phải thẩm thấu sự kiện cuối cùng này, nhất là theo ngôn ngữ của Công đồng Vatican II xác định là Mầu nhiệm Vượt qua (Mysterium Paschale) – nếu chúng ta muốn diễn tả sâu sắc sự thật về LTX, như được mặc khải trong lịch sử cứu độ.

Ở mức cân nhắc này, chúng ta phải tiếp cận Tông thư Redemptor Hominis (Gioan Phaolô
II, 1978). Thật vậy, thực tế của ơn cứu độ, theo chiều kích con người, đã mặc khải những điều chưa từng nghe biết – về sự cao cả của con người, như Bài Exsultet (công bố trong đêm Vọng Phục Sinh) mô tả: “Tội hồng phúc đã ban cho chúng ta Đấng cứu chuộc rất cao sang”, ngay lúc chiều kích cứu độ của Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể hồi sinh theo
cách kinh nghiệm nhất và lịch sử nhất, để tiết lộ chiều sâu của tình yêu không không chùn bước trước sự hy sinh khác thường của Chúa Con, để thỏa mãn lòng trung thành của Chúa Cha đối với loài người, tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ngài và chọn chúng ta từ khởi nguyên, nơi Chúa Con, đối với ân sủng và vinh quang.

Các sự kiện của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thậm chí trước đó, trong lời cầu nguyện
tại Ghết-si-ma-ni, giới thiệu sự thay đổi nền tảng của toàn bộ sự mặc khải về tình yêu và LTX trong sứ vụ của Đức Kitô. Ngài “thi ân giáng phúc, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10:38), đồng thời “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9:35), chính Ngài thực hiện LTX và kêu gọi LTX, khi Ngài bị bắt, bị đối xử tệ, bị kết án, bị đánh đòn, đội vòng gai, bị đóng đinh vào Thập giá và chết trong đau đớn vô cùng (x. Mc 15:37; Ga 19:30).

Lúc đó Ngài xứng đáng nhận LTX từ những người mà Ngài đã làm tốt cho họ, nhưng Ngài
đã không nhận được. Ngay cả những người thân tín nhất cũng không thể bảo vệ Ngài khỏi kẻ ác. Ở giai đoạn cuối cùng của sứ vụ, các lời tiên tri, nhất là của tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ Đau Khổ, hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Kitô: “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành”(Is 53:5).

Đức Kitô, là người chịu đau khổ trong Vườn Cây Dầu và trên đồi Can-vê, đã thưa với
Chúa Cha rằng Ngài đã thể hiện tình yêu của Chúa Cha cho mọi người. Nhưng Ngài cũng không được thoát khỏi đau khổ và cái chết trên Thập giá: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên
công chính trong Người”
(2 Cr 5:21).

Thánh Phaolô viết về chiều kích thực tế của ơn cứu độ. Chính ơn cứu độ này là mặc
khải tính thánh thiêng của Thiên Chúa, Đấng hoàn thiện, đầy đủ công lý và yêu
thương, vì công lý dựa trên yêu thương.

Trong cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, Chúa Cha không tha chính Con mình, nhưng
“vì chúng ta mà tự nhận thân phận như tội nhân”, công lý được diễn tả, Đức Kitô chịu đau khổ và chấp nhận Thập giá vì tội lỗi nhân loại. Điều này cấu thành “sự dồi dào” của công lý, vì tội lỗi của loài người “được đền bù” nhờ sự hy sinh của Thiên-Chúa-Làm-Người.

Công lý này là “tiêu chuẩn của Thiên Chúa”, hoàn toàn nhiệm xuất từ tình yêu của
Chúa Cha và Chúa Con, và sinh hoa kết trái trong tình yêu. Vì thế, công lý của Chúa mặc khải trên Thánh giá của Đức Kitô là “chiều kích cùa Thiên Chúa” vì nhiệm xuất từ tình yêu và được hoàn tất trong tình yêu, sinh ra hoa trái ơn cứu độ. Ơn cứu độ liên quan sự mặc khải về LTX viên mãn.

Chiều kích ơn cứu độ được đặt trong hiệu quả không chỉ bằng cách đem lại công lý để
chịu đựng tội lỗi, mà còn phục hồi tình yêu nơi con người, vì chính con người đã từng viên mãn sự sống và sự thánh thiện đến từ Thiên Chúa. Theo cách này, ơn cứu độ liên quan sự mặc khải về LTX một cách viên mãn.

Mầu nhiệm Vượt qua là tột đỉnh của sự mặc khải này và hiệu của cùa LTX, có thể biện
hộ cho con người, phục hồi công lý theo nghĩa của mệnh lệnh cứu độ mà Thiên Chúa đã muốn từ khi tạo dựng nhân loại. Cuộc khổ nạn của Đức Kitô nói theo cách đặc biệt đối với con người, không chỉ với người có niềm tin.

Những người không có niềm tin cũng có thể khám phá nơi Ngài về mối liên kết với số
phận con người, cũng như sự hài hòa trọn vẹn của sự dấn thân vô vị lợi vì con người, vì chân lý và vì yêu thương. Nhưng chiều kích của Mầu nhiệm Vượt qua còn thâm thúy hơn. Thập giá trên đồi Can-vê, nơi mà Đức Kitô đã đối thoại lần cuối với Chúa Cha, nổi bật lên từ chính trái tim yêu thương của con người, vốn được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa, đã được làm thành tặng phẩm theo kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.

Như Đức Kitô đã mặc khải, Thiên Chúa không chỉ thân thiện với thế giới với tư cách
Tạo hóa và nguồn hiện hữu, mà Ngài còn là Cha: Ngài liên kết với con người, và Ngài mời gọi họ hiện hữu trong thế giới vô hình, bằng mối liên kết thân mật hơn. Đó là tình yêu không chỉ tạo điều tốt mà còn cho tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì Ngài yêu thương và muốn trao ban chính Ngài. Và Ngài cũng mời gọi chúng ta chia sẻ chân lý và tình yêu nơi Thiên Chúa.

Tín điều Công đồng Nicê-Constantinopolitan xác nhận: “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Thập giá là bằng chứng tuyệt vời về giao ước của Thiên Chúa đối với nhân loại – mỗi con người đều là giao ước này. Thập giá là giao ước mới đã được thiết lập trên đồi Can-vê, không hạn chế với một người nào.

Thập giá của Đức Kitô nói gì với chúng ta? Thập giá lại cho chúng ta một sứ điệp
quan trọng: “Đức Kitô phục sinh”.

Những người thấy ngôi mộ trống trở thành nhân chứng về Đức Kitô phục sinh. Nhưng ngay
trong vinh quang Thiên Chúa, Thập giá vẫn còn. Thập giá đó vẫn nói và không ngừng nói về Thiên Chúa Cha, Đấng tuyệt đối trung tín với tình yêu đời đời của Ngài đối với con người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).

LTX là tình yêu tuyệt đối. Tin vào tình yêu này là tin vào LCTX. Tin vào Chúa Con bị đóng đinh là “thấy Chúa Cha” (x. Ga 14:9), nghĩa là tin tình yêu đó hiện hữu trong thế giới và tình yêu này mạnh hơn mọi điều ác nơi mọi người, nơi nhân loại, hoặc cả thế gian. LCTX là chiều kích tuyệt đối của tình yêu.

Tình yêu mạnh hơn tử thần và mạnh hơn tội lỗi

Thập giá của Đức Kitô trên đồi Can-vê cũng là nhân chứng đối với sức mạnh của sự ác
chống lại Con Thiên Chúa, chống lại một người con trong những người con của nhân loại, con người đó có bản chất vô tội, chống lại những người sinh ra trong thế gian chưa bị hoen ố vì sự bất tuân phục của Adam và ảnh hưởng Tội nguyên tổ. Và ở đây, chính nơi Đức Kitô, công lý được thực hiện đối với tội lỗi bằng giá máu hy sinh của Ngài, bằng cách “vâng lời cho đến chết trên Thập giá” (Pl 2:8).

“Ngài chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài” (2 Cr 5:21). Công lý cũng được đem tới để liên quan cái chết, mà từ đầu lịch sử nhân loại đã bị nối kết với tội lỗi. SỰ chết đã được công lý thực hiện bằng giá của cái chết của Con Người không hề có tội và chiến thắng bằng cái chết: “Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (x. 1 Cr 15:54-57).

Chúa Con, Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, đã hoàn lại công lý cho Thiên Chúa bằng
chính Thập giá, đồng thời mặc khải LTX, đó là tình yêu trái ngược với những gì cấu thành nguồn gốc điều ác trong lịch sử nhân loại: chống lại tội lỗi và sự chết.

Thập giá là sự hạ mình sâu thẳm nhất của Thiên Chúa đối với loài người và những số
phận bất hạnh của loài người – nhất là những lúc khó khăn và đau khổ. Thập giá như là “cách tiếp xúc” của tình yêu vĩnh hằng đối với những vết thương của loài người; đó là sự hoàn tất trọn vẹn của chương trình cứu độ nhân loại mà Đức Kitô đã bày tỏ tại Đền Thờ ở Nadarét (x. Lc 4:18-21) và đã được ngôn sứ Gioan Tẩy giả lặp lại (x. Lc 7:20-23).

Theo cách nói của tiên tri Isaia (x. Is 35:5; 61:1-3), chương trình này cốt ở việc mặc khải về LCTX đối với người nghèo, người đau khổ, tội nhân, người mù, người bị đàn áp và bị bóc lột. Trong Mầu nhiệm Vượt qua, các giới hạn của “sự dữ đa chiều” mà nhân loại “ăn chia” đã bị vượt qua: Thật vậy, Thập giá của Đức Kitô làm chúng ta hiểu căn nguyên sâu xa của sự dữ, đã bị gắn sâu trong tội lỗi và sự chết; vì thế Thập giá trở nên dấu hiệu tận thế (eschatological sign).

Chỉ trong sự hoàn tất cuối cùng và sự canh tân cuối cùng của thế giới mà tình yêu
sẽ chiến thắng, trong những người Chúa chọn, hoa trái chín muồi của vương quốc
sự sống và vinh quang bất tử. Việc thiết lập sự hoàn tất cuối cùng này có nơi Thập giá của Đức Kitô và trong cái chết của Ngài.

“Chúa Giêsu đã sống lại vào ngày thứ ba” (x. 1 Cr 15:4), điều đó cấu thành dấu hiệu
cuối cùng của sứ vụ cứu độ, dấu hiệu hoàn tất toàn bộ mặc khải về LCTX trong thế-gian-bị-cái ác-chế-ngự. Đồng thời cấu thành dấu hiệu tiên báo “trời mới và đất mới” (Kh 21:1), lúc “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:4).

Trong sự hoàn tất cuối cùng, LCTX sẽ được mặc khải là tình yêu, trong khi trên thế
gian, trong lịch sử nhân loại, cùng với lịch sử của tội lỗi và sự chết, tình yêu phải được mặc khải là LCTX và cũng phải được hiên thực hóa là LCTX. Chương trình cứu độ của Đức Kitô, chương trình của LTX, trở thành chương trình của Dân Ngài, chương trình của Giáo hội.

Ngay tại trung tâm của chương trình đó luôn có Thập giá, vì chính nơi Thập giá mà sự
mặc khải LCTX đạt tới đỉnh cao. Khi “những cái cũ bị tẩy sạch” (x. Kh 21:4), Thập giá vẫn còn được dẫn chứng những từ ngữ trong sách Khải huyền của Thánh Gioan: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:20).

Theo cách đặc biệt, Thiên Chúa cũng mặc khải LTX khi Ngài mời gọi nhân loại “thương
xót” Con Một Ngài là Đấng-bị-đóng-đinh. Đức-Kitô-bị-đóng-đinh chính là Ngôi-Lời-không-qua-đi: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mt 24:35), và Ngài là người “đứng trước cửa và gõ vào cửa lòng của mỗi người” (x. Kh 3:20), không hạn chế tự do nhưng tìm cách rút ra từ chính lòng yêu chuộng tự do, đó không chỉ là hành động đoàn kết với Con-Người-chịu-đau-khổ (Đức Kitô), mà còn là dạng LTX được mỗi người trong chúng ta thể hiện với Con của Chúa Cha hằng hữu.

Trong toàn bộ chương trình cứu độ của Đức Kitô, trong toàn bộ mặc khải về LTX qua Thập giá, phẩm giá con người có thể được tôn trọng hơn và được đề cao hơn, vì đạt được LTX. Đức Kitô đã xác định: “Các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).

Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu nói đến một trong Bát Phúc (Tám mối phúc thật): “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Điều đó cấu thành một bản tổng hợp của toàn bộ Tân ước, toàn bộ “sự trao đổi tuyệt vời” (admirable commercium) bao gồm trong đó. Sự trao đổi này là luật của kế hoạch
cứu độ, luật này vừa đơn giản, vừa mạnh mẽ, vừa dễ dàng.

Thể hiện ngay từ đầu những gì mà “trái tim con người” có thể thương xót, những từ
ngữ này không từ Bài Giảng Trên Núi mặc khải viễn cảnh mầu nhiệm thẳm sâu của
Thiên Chúa: Tính đồng nhất bí ẩn của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
trong đó tình yêu bao gồm công lý, đặt trong LTX, mặc khải sự hoàn hảo của công
lý.

Mầu nhiệm Vượt qua là Đức Kitô ở đỉnh cao của sự mặc khải về mầu nhiệm bí ẩn của
Thiên Chúa. Đó là những lời được nói đã hoàn toàn nên trọn: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14:9). Thật vậy, Đức Kitô là Đấng mà Chúa Cha “cũng không tha” (Rm 8:32) vì nhân loại, Đấng phải chịu khổ hình Thập giá đã không được nhân loại thương xót, Đấng đã mặc khải tình yêu viên mãn trong sự phục sinh của Ngài mà Chúa Cha đã dành cho Ngài, nơi Ngài, và cho nhân loại: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ
sống”
(Mc 12:27).

Trong sự phục sinh, Đức Kitô đã mặc khải Thiên Chúa của LTX, vì Ngài đã chấp nhận
Thập giá là đường tới phục sinh. Vì thế, khi chúng ta nhớ tới Thập giá, cuộc Khổ nạn và Sự chết của Đức Kitô, đức tin và đức cậy của chúng ta tập trung vào Đấng Phục Sinh: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”.
Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được
thấy Chúa”
(Ga 20:19-20). Rồi Ngài nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23).

Ở đây Chúa Con có kinh nghiệm về LTX đã được thể hiện với Ngài, nghĩa là tình yêu của
Chúa Cha mạnh hơn Tử thần. Đức Kitô cũng vậy, vào lúc cuối của sứ vụ cứu độ, Ngài đã mặc khải chính Ngài là Nguồn Thương Xót vô tận, về chính tình yêu ấy, trong viễn cảnh lịch sử cứu độ nơi Giáo hội, được xác nhận là lớn hơn mọi tội lỗi của nhân loại.

Đức Kitô Vượt Qua là hiện thân cuối cùng của LTX, dấu hiệu sống động trong lịch sử
nhân loại cho đến tận thế. Trong tinh thần đó, phụng vụ mùa Phục sinh đặt trên môi miệng chúng ta những lời của Thánh vịnh: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” [Tv 89 (88):2].

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác nơi Ngài!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ TheDivineMercy.org)


(*) Septuagint, quen gọi là Bản Bảy Mươi. Bản Kinh thánh phổ thông (Vulgate) chủ yếu là công của thánh Giêrônimô, và được ĐGH Damasus I ủy nhiệm năm 382. Lúc đó, bản này là tiêu chuẩn trong Giáo hội, nhưng đến thế kỷ XVI có vài trăm bản được in, với nhiều thay đổi. Công đồng Trentô tuyên bố rằng Bản Kinh thánh phổ thôn là xác thực khi đọc công khai, tranh luận, giảng thuyết và bình luận, và truyền lệnh xem xét kỹ lưỡng. Nghĩa là bản phổ thông này là bản Kinh thánh chính thức của Giáo hội. Bản này cũng được Công đồng Vatican I và Vatican II sử dụng.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

THẬP ĐẠI BỊNH

THẬP ĐẠI BỊNH

(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám mục Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam
tại Strasbourg, Pháp, chiều
ngày 12.9.1998)

Giới thiệu

Muốn thành công trước hết phải chữa trị tận gốc mười (10) chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày nay.

Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không những ở Việt Nam mà ngay cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn. Không hoặc chưa phát huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?

Có rất nhiều căn nguyên. Những căn nguyên này là những chứng bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền nhiễm đang hoành hành trong xã hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội băng rã. Tôi qui chúng lại thành mười bệnh lớn: Thập đại bịnh.

1. Bệnh quá khứ cục bộ

Bệnh này thể hiện qua tâm trạng chỉ nhớ và khen cái quá khứ của mình mà thôi và đóng khung lại trong đó. Ngày tôi bị đưa đi tù ra Bắc, thỉnh thoảng gặp giáo dân và ai cũng hớn hở tâm sự: “Thưa cha, chúng con thấy sung sướng nhất là thời còn Đức khâm sứ . Chúng con đi rước kiệu đầy đường phố, quanh cả bờ hồ Hoàn Kiếm, và thấy Đức khâm sứ quỳ trên chiếc xe, tay cầm Mình Thánh Chúa, mặt ngài sáng láng đỏ hồng như mặt trời. Không biết bao giờ chúng con mới trở lại được như thời kỳ có Đức khâm sứ!”. Ta không quên quá
khứ, vì đó là bài học kinh nghiệm, nhưng ta không dừng lại đó, ta nhìn tương lai để xây dựng còn đẹp hơn xưa.

Bà con chỉ sống trong quá khứ, mong trở về quá khứ. Mà thời gian thì bao giờ quay trở lại !

Tôi đi nhiều nơi, gặp nhiều anh chị em tới một tuổi nào đó. Chén thù chén tạc bên nhau than thở: “Biết bao giờ bọn mình trở lại được thời Cộng hoà. Mọi thứ rẻ mạt. Lương tháng mấy nghìn. Một tạ gạo giá chỉ mấy trăm bạc. Sướng thiệt !”.

Ta đang ở năm 1998, làm sao mà lùi lại 1960 được !

Do vậy mà chúng ta đâm ra thiển cận. Thay vì nhìn tới thì lại nhìn lui. Giống như người lái xe, không nhìn đằng trước mà cứ chăm chăm vào kính chiếu hậu để ngắm xe sau. Vậy làm sao mà tiến được.

Mà dù thế nào thì mình vẫn phải sống. Quá khứ không bao giờ trở lại. Và thời gian thì cứ tiến mãi.

Nhìn lại gương Chúa Giêsu. Từ trời cao xuống thế, Ngài cứ nhắm tới, một mạch đi tới và cứ nói: “Thầy sẽ lên thành Giêrusalem chịu nạn”. Ngài dư biết cuộc tử nạn sẽ rất đau đớn, nhưng vẫn đi tới, chấp nhận. Bởi qua cái đau khổ đó con người được cứu độ.

Cũng vậy, nếu chúng ta muốn cho Đất nước và Giáo hội mình tiến, thì phải nhìn về tương lai. Không quên quá khứ, vì đó là bài học cho tương lai. Nhưng đừng có viễn mơ lui lại quá khứ.

Mỗi người, mỗi thời đại đều có cái hay, cái đẹp. Phải làm sao biết khai triển cái hay cái đẹp đó cho hiện tại đang sống, chứ đứng đó mà than thở tiếc nuối thì ích gì ! Nhìn quá khứ để tạ ơn Chúa, để sám hối. Nhìn hiện tại để hăng say phục vụ với trách nhiệm – Nhìn tương lai với hy vọng.

2. Bệnh tiêu cực bi quan

Những người mang bệnh này cứ chỉ trích kinh niên. Khi nào cũng có chuyện để chỉ trích. Một người làm cả đám phá. Một chính đảng lên thì các đảng khác xúm nhau phá. Phải đạp nó xuống thì mình mới lên được chứ !

Bệnh chỉ trích phát sinh từ lòng ích kỷ hoặc kiêu căng. Một biểu hiện song hành của bệnh này là người chỉ trích thường hay thiếu tự tin.

Người tiêu cực cái gì cũng chỉ trích. Nhưng khi được yêu cầu đưa đề nghị thì “để xem đã”, hoặc có ai đưa ra đề nghị gì thì lại lắc đầu “không làm nổi đâu” !

Người tiêu cực thì bất cứ một cơ hội nào cũng là một tai họa cho mình (for the pessimists every opportunity is a calamity). Trái lại, người lạc quan thì bất cứ tai họa nào cũng là một cơ hội cho mình (for the optimists every calamity is an opportunity).

Người ta kể câu chuyện: Một công ty lớn gởi hai đại diện sang một nước Phi châu để nghiên cứu thị trường tiêu thụ giày dép. Trở về điều trần, một vị lắc đầu: Thưa quý vị, không có cách gì tiêu thụ được; người dân ở đó chỉ đi chân đất, có ai đi giày dép đâu ! Trong khi đó vị kia lại hớn hở: Thưa quý vị, chuyến này chúng ta thắng lớn; cả một lục địa mênh mông chưa có ai có giày dép để đi cả !

Người tích cực thì lạc quan. Kẻ tiêu cực bi quan. Tùy theo cách nhìn mà vấn đề nẩy sinh. Người Pháp nói: Đừng trách rằng tối; tối là vì mình không chịu thắp đèn lên thôi ! Đức Gioan Phaolô II kêu gọi: “Đừng sợ”, vì ta tin vào Thiên Chúa quyền năng và yêu thương, ta tin con người có thiện chí, ta tin vào mình có Chúa giúp.

3. Bệnh phô trương chiến thắng

Làm gì cũng chỉ nhắm chuyện phô trương là chính. Bệnh này tiếng pháp gọi là triomphalisme; người Mỹ cũng có từ ngữ show up.

Thỉnh thoảng đây đó đọc trên những bản tin sinh hoạt cộng đoàn thật nức lòng: Đại lễ tổ chức vô cùng thành công, cuộc rước kéo dài cả nửa cây số, nhiều chục cha đồng tế, bữa tiệc kết thúc thật linh đình, bà con vô cùng hoan hỉ, chưa có bao giờ và có ai tổ chức được lớn như thế … Nhưng hết tiệc ra về rồi là hết. Đại lễ hôm qua hôm nay thành quá khứ xa lơ. Cảm xúc hôm qua hôm nay gọi mãi chẳng thấy về ! Hãy cai chứng bệnh phô trương, vì cái chiều
sâu thực sự ít ai quan tâm. Ta bảo sáng danh Chúa, nhưng xét cho kỹ Chúa mấy phần trăm, ta mấy phần trăm?

Có những điều không cần phải phô trương. Nhưng nó sẽ từ từ thấm vào lòng người, người ta sẽ hiểu. Người ta hiểu, nhưng đồng thời người ta cũng có tự ái. Càng huyênh hoang, càng làm cho người ta ghét. Mà thành công đâu phải do mình tài giỏi gì. Nhưng mọi chuyện là nhờ ơn Chúa. Như vậy mình càng không có lý do gì để phô trương. Lúc đang huyênh hoang thì chính là lúc nguy hiểm nhất, tai hại nhất, vì đó là lúc mình mất cảnh giác. Khi nào thấy sau một cuộc lễ, có nhiều người ăn năn trở lại, Cộng đoàn hiêp nhất hơn, sốt sắng hơn, đó là dấu thành công thực sự.

4. Bệnh cá nhân chủ nghĩa

Các nhà phân tích cho hay người Âu châu bị bệnh này nặng hơn. Nhưng mình cũng không kém. Thời đại này đâu đâu cũng nghe người ta hô hào đoàn kết (Solidarité). Mà xem ra càng hô hào đoàn kết chừng nào, thì bệnh cá nhân lại nặng chừng nấy !

Biểu hiện của bệnh này: Mình là nhất, là trung tâm của vũ trụ. Mình chiếm độc quyền, ngay cả độc quyền thờ Chúa, độc quyền yêu Nước. Không muốn ai chia sẻ với mình, vì sợ người ta hơn. Người ta  không tiếp tay với mình thì trách. Nhưng khi tiếp tay thì lại chỉ muốn họ đứng sau lưng mình mà thôi.

Cá nhân chủ nghĩa phát sinh từ lòng ích kỷ. Kính Chúa, yêu người thực chất là vì mình, vì lợi cho mình chứ chẳng phải vì Chúa vì người gì cả.

Người ta kể chuyện vui: Một số Hồng y và Giám mục ngồi ăn cơm chung với Đức Thánh Cha. Có mấy vị hỏi ngài: Thưa ĐTC, nghe nói có bí mật Fatima, ĐTC có thể nói cho chúng con nghe được không. ĐTC bảo: Bí mật mà, nói sao được.  Nghe thế các ngài càng tha thiết: ĐTC đừng sợ, chúng con cam đoan sẽ dấu rất kỹ, không hở miệng. Sau năm lần bảy lượt nghe năn nỉ, ĐTC mỉm cười trả lời: Đức Mẹ Fatima bảo rằng đóng cửa Đức Mẹ Lộ-Đức lại !

Câu chuyện khôi hài này muốn nói lên cái cá nhân chủ nghĩa của con người ngày nay. Đức Mẹ Fatima sợ Đức Mẹ Lộ Đức nổi tiếng hơn và do đó khách hành hương đến viếng đông hơn nên đề nghị dẹp Lộ-Đức.

Chẳng đâu xa xôi. Quanh ta cũng không thiếu thí dụ. Hai nhà thờ cạnh nhau, chuông bên này kêu thì bên kia phải làm sao để kêu hơn. Câu chuyện nầy có thật. Một giáo xứ xin Đức cha cho một quả chuông. Về đánh lên thì bà con giáo xứ bên cạnh sốt ruột khó chịu, liền cùng nhau kéo xin phép đổi một quả chuông lớn hơn. Khệ nệ mang về, đánh lên thì ai nấy thất vọng. Tưởng chuông lớn hơn thì tiếng phải hay hơn. Ai dè âm thanh của chuông thường đã được định chuẩn sẵn; theo nốt nhạc, cái chuông mới trùng một nốt nhạc với chuông cũ!

Trong Giáo hội có một điểm quan trọng, đó là tính đa diện (Pluralité). Giáo hội không đòi hỏi phải đồng bộ, nhưng trân trọng nét cá biệt của mỗi giáo hội địa phương. Khác nhau hầu bổ túc cho nhau, chứ không phải để rồi tôi đi đường tôi anh đi đường anh.

5. Bệnh lười biếng tránh né

Triệu chứng của bệnh này là sợ tốn sức tốn của, sợ liên lụy, a dua: ai mạnh thì hùa theo. Khi nói thì rất hăng, nhưng vào việc thì viện đủ lý do để che đậy cái hèn nhát và lười biếng của mình. Giữa đại hội thì phát biểu thật hùng hồn, lúc phân việc thì lẩn đâu mất.

Trong đội tù của tôi trước đây có một ông cũng từ miền Nam ra. Mỗi lần họp anh ta phát biểu ào ạt. Đụng chuyện gì cũng dơ tay phát biểu. Nói huyên thuyên mà thường lạc đề. Đến lúc chia việc thì im re. Riết anh em trong tổ ngán. Nên mỗi lần anh ta dơ tay phát biểu là anh em đồng loạt hô: Im mà nghe, đài Mát-cơ-va phát !

Chuyện kể hai nhà thông thái nọ muốn tìm hiểu xem thành phố Rôma có mấy người làm việc. Họ bắt đầu bằng một chuỗi phân tách loại trừ. Trước tiên trừ đi con số trẻ em chưa đến tuổi làm việc, đến số người bệnh tật, số người ở tù, rồi số dân biểu nghị sĩ quanh năm suốt tháng chỉ cãi nhau và dơ tay bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ, số người làm nghề phê bình đá bóng… Cứ thế mà trừ, kỳ cùng chỉ còn lại hai người làm việc, đó là hai nhà thông thái. Nhưng rồi một ông lên tiếng ngay: tôi từ nãy giờ tính toán quá mệt rồi, nên chi tôi bầu anh làm việc tiếp để tôi nghỉ !

Để xây dựng cộng đoàn có trăm công ngàn việc. Việc gì cũng đáng làm. Chẳng cần phải ngồi ghế lãnh đạo mới là làm việc. Việc nào cũng có thể nên thánh, miễn là làm cho tới nơi tới chốn.

Khi ở Dublin một tháng để học hỏi về Đạo binh Đức Mẹ tôi may mắn được gặp người sáng lập, ông Frank Duff. Tôi háo hức, tưởng sẽ diện kiến một nhân vật quốc tế tiếng tăm; người mà các Hồng y, Giám mục khắp nơi đều phải ngồi nghe. Nhưng không ngờ, ông chỉ là một cụ già đưa thư. Hàng ngày khiêm tốn đạp chiếc xe cọc cạch ra bưu điện mang thư về cơ quan, bỏ vào hộp thư của gần một ngàn chi nhánh Đạo binh ở Dublin. Ngưởi ta nói công việc của ông bây giờ chỉ có thế; có tuổi rồi không còn giữ vai trò quan trọng nào nữa; nhưng khi ai cần ý kiến thì ông sẵn sàng đóng góp và hướng dẫn giải quyết.

Đấy, công việc đưa thư hèn mọn có làm giảm tư cách con người đâu!

6. Bệnh chuẩn mực trần tục

Lấy tinh thần, não trạng trần tục làm chuẩn mực cho cuộc sống mình. Làm việc Chúa, nhưng không theo tinh thần Phúc Âm mà lại dùng tiêu chuẩn hoàn toàn trần tục để chuẩn định. Người công giáo kiểu đó thường hay trở thành công giáo tùy thời: Thịnh thì công giáo, suy thì chối. Công giáo vụ lợi: Có mùi vật chất thì tới, không thì miễn. Công giáo danh dự: Chỉ siêng năng xuất hiện khi có lễ lạc được mời lên ghế danh dự, không thì biệt tăm chẳng bao giờ thấy.

Nhiều khi chẳng phải là bản chất, chẳng tội lỗi gì, nhưng là vì mình đua đòi. Chính đua đòi này làm cho cuộc đời khổ sở. Sang đây thấy người ta có xe đẹp, nhà rộng; mình đua đòi muốn hơn người nên phải nô lệ cho công việc, cả nhà làm việc quá mức.

Và chuẩn mực trần thế thường được căn cứ theo báo chí, truyền thanh truyền hình. Báo bảo cái gì hay là hay, cái gì số đông theo là tốt…mặc dù những cái đó không hợp với lương tâm.

Năm ngoái tôi ghé Na Uy tới thăm một bà giáo sư giữ một ghế thứ trưởng trong nội các. Na Uy đa số theo Tin lành và Giáo hội này, như tại các nước Tin lành khác,  phải tùy thuộc thế quyền. Bà phàn nàn: nguy quá cha ơi, Giáo hội chúng tôi đang sa lầy trong vòng kềm toả dư luận. Chính phủ ra lệnh cho Giáo hội; Quốc hội ra lệnh (bằng đạo luật) cho chính phủ; mà
đạo luật thì lại hình thành do áp lực dư luận truyền thông; vừa rồi chính phủ mới cách chức hai mục sư vì họ chống lại việc phá thai!

Một số cơ quan truyền thông chửi bới Đức Giáo hoàng, kết ngài vào tội thiếu thực tế, thiếu tiến bộ. Nhưng khi Đức Giáo hoàng đến với giới trẻ thì hàng triệu anh chị em trẻ lại tuôn đến với ngài. Tất cả chỉ vì ngài là người dám nói lên sự thật, bất chấp dư luận. Tuổi trẻ hôm nay đang bị chao đảo trong một thế giới khủng hoảng niềm tin và giá trị. Nên chi họ cần
người tín cẩn dám nói thẳng cho họ đâu là điều đúng, đâu là sai. Cái khó và nguy hiểm của ngày hôm nay là người ta phạm tội, nhưng lại bắt cả nhà nước và Giáo hội coi đó là nhân đức. Chẳng hạn như chuyện đồng tính luyến ái. Dư luận đang bắt mọi giới phải xem đó là chuyện hợp luân thường đạo lý. Giáo hội thương cảm, nhưng Giáo hội cần nói sự thật. Đức Thánh cha nói: “không cần ai bỏ phiếu cho sự thật” vì sự thật vẫn là sự thật.

7. Bệnh đợi chờ phép lạ

Cứ chờ cứ đợi người khác, mà bản thân mình chả  chịu làm gì. Mình có làm thì Chúa mới giúp được chứ. Chúa sinh ra mình không cần hỏi ý mình, nhưng để cứu mình Ngài phải cần đến sự cộng tác của ta.

Có bà suốt ngày cầu với Chúa: Con bao nhiêu ngày tháng hy sinh cho cộng đoàn. Nấu cơm, nấu chè, hết việc này đến chuyện nọ. Đâu cũng có mặt. Giúp ngày không đủ tranh thủ giúp đêm giúp thêm giờ nghỉ ! Con chỉ xin Chúa có một điều, vậy mà Chúa không chịu đoái nghe. – Chứ con xin điều gì ? – Dạ xin Chúa cho con trúng vé số, chỉ cần trúng một lần độc đắc thôi ! – Ừ mà Chúa cũng đang đợi bà đây ! – Dạ Chúa đợi gì con đây ? – Thì Ta đang đợi bà mua vé số !

Trong một vụ lụt xe cứu thương rảo khắp phố phường kêu gọi người dân rời nhà di chuyển lên nơi cao để tránh nước lũ. Ông bố của một gia đình bảo với con cháu: Tụi bây đứa nào đi thì đi, còn tao không đi; tin tưởng phó thác vào Chúa thì sao Ngài bỏ rơi được. Nước lũ tới, dâng cao. Ghe cấp cứu lại kêu gào tản cư gấp. Ông già kê bàn kê ghế leo lên rồi giục: Mẹ con
bây đi thì đi nhanh lên, tao không. Nước tiếp tục dâng cao, ông già leo lên mái nhà ngồi. Máy bay trực thăng lượn qua lượn lại, thả dây kêu gọi ông di tản. Ông nhất quyết không đi, bởi tin rằng có Chúa che chở. Và nước ngập cuốn ông đi luôn. Ông gặp thánh Phêrô. Thánh Phêrô hỏi sao lại dạt vào đây. Ông già bực bội trách cứ, tại sao con đặt hết tin tưởng vào Chúa mà Ngài không cứu sống, lại để con chết trôi chết nổi thế này và ông yêu cầu thánh Phêrô mở cửa đưa ông vào  Thiên đàng cấp tốc. Thánh Phêrô ngạc nhiên đáp lại: Chúa có cứu ông chứ! Ông có nghe đài báo tin không ? – Có. Ông nghe xe cứu thương kêu gọi không ? – Có. Ông có thấy ghe máy, trực thăng đến cứu không ? – Có. Tại sao ông bảo Chúa bỏ ông ?

8. Bệnh tùy hứng vô định

Người không có lý tưởng rõ ràng. Đời vô định hướng. Ai xúi thì nhắm mắt làm theo, bất kể hay dở, khôn dại. Xong rồi phủi tay. Chẳng có dự án và chẳng có một người nào làm lý tưởng cho đời mình. Đây là loại người tùy hứng.

Người ta hay nói đời là một giấc mơ. Nhưng đời có thật là một giấc mơ không ? Mơ là chuyện mộng, không bắt buộc phải hiện thực. Nhưng đời trái lại là cuộc sống thực tế của mỗi người, bắt mình phải hoàn thành.

Thánh Kinh nói đến giấc mơ của Thánh Giuse. Ông mơ thiên thần báo phải đem Hài nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập. Cái đặc biệt ở đây là Giuse đã thực hiện giấc mơ đó và nhờ vậy Chúa Giêsu thoát chết.

Người trẻ cần có lý tưởng và phải thực hiện cho bằng được. Nhưng phải định hướng cho trúng. Truyện kể có người khi còn trẻ quyết tâm sẽ thay đổi cả thế giới. Khi đứng tuổi thấy mình chả thay đổi được ai, bèn chuyển mục tiêu gần hơn: sẽ thay đổi gia đình mình. Đến khi về già quay lại thấy mình cũng chả thay đổi được gia đình, mới nhận chân ra rằng muốn thay đổi gia đình hay thế giới trước hết phải thay đổi chính con người của mình đã !

9. Bệnh sống vô trách nhiệm

Triệu chứng: thờ ơ trước những khó khăn của Hội thánh và Quê hương, trước những đau khổ của người khác. Chả thấy mình có trách nhiệm gì cả. Hoá ra những người mắc bệnh này chẳng hiểu gì về phép Rửa, chẳng còn nhớ gì sứ mạng được trao qua phép Rửa đó. Qua phép Rửa, được làm con Chúa, đó là Hồng ân, và phép Thêm sức làm cho ta nên chiến sĩ của Chúa đó là trách nhiệm, mỗi người chúng ta được trao ban cả Nước Trời trong lòng mình, đồng thời cũng được giao phó sứ mạng phải loan báo cho mọi người về Nước Trời mình đang mang. Vì không ý thức và quan tâm nên họ giữ đạo hời hợt, sống đạo một cách vô trách nhiệm.

Ngày xưa cha Hậu (cố Olivier) ở Sàigòn thường nói với bổn đạo: Anh chị em phải biết, mình quả thật sung sướng vì được Chúa cho cả Nước Trời trong lòng. Anh chị em cũng giống như một người mang trong mình vé số độc đắc đã trúng mà chưa lãnh. Và bổn phận của anh chị em là chia sẻ ân huệ và niềm vui đó cho người khác.

Mỗi người trong xã hội đều có trách nhiệm riêng. Chứ không phải giáo dân thì cứ đổ cho cha xứ, linh mục thì đổ cho giám mục, giám mục lại chỉ tay về Giáo hoàng. Như thế Giáo hoàng lại đổ cho Chúa à ! Thái độ phủi tay không giải quyết được gì. Mà mỗi người, tùy vị trí và hoàn cảnh riêng, trước hết phải xắn tay nắm lấy mà giải quyết nhiệm vụ của mình.

 

10. Bệnh bè phái chia rẽ

Đây là căn bệnh trầm kha nhất. Vô cùng nguy hiểm vì nó thường là căn nguyên của các bệnh khác.

Một cơ thể mà các tế bào chống nhau thì làm sao sống được. Nội bộ một cộng đoàn mà chưa hợp tác với nhau được thì đừng nên bàn chuyện đấu tranh, giải phóng. Ai ở thôn quê đều biết hoàn cảnh cấy lúa. Một mảnh ruộng cần cả chục người cấy suốt ngày. Lưng đội trời nóng cháy da, tay xé lúa nhấn xuống bùn, bẩn và mệt. Nhưng cũng miếng ruộng đó chỉ cần một người thôi là chỉ trong vòng vài ba tiếng đồng hồ là nhổ sạch. Xây khó, phá rất dễ.

Một cách hay nhất để tránh và chữa bệnh này là lắng nghe người khác, sẵn sàng chấp nhận cái khác của người. Câu chuyện tổng thống Lincoln nước Mỹ là một bài học. Trong cuộc chiến Nam Bắc, ngày nọ trước ba quân ông xuống lệnh hành quân. Một anh sĩ quan phản đối và cho rằng Lincoln điên khi hạ lệnh đó. Có người vào báo cáo. Lincoln cả giận. Nhưng thay vì tức khắc cho thi hành kỷ luật đối với thuộc viên, ông cho mời người đó vào. Và sau khi nghe trình bày phải trái, Lincoln đổi ý, trao trách nhiệm lớn cho vị sĩ quan đó. Ông
biết lắng nghe nên đã tránh được đổ vỡ lớn cho binh sĩ và quốc gia.

Trong một giáo phận, một cộng đoàn, một hiệp hội, việc làm tổn thương, mất giờ để giải quyết nhất của Giám mục, của những người có trách nhiệm, là chứng bệnh triền miên bè phái, chia rẽ – mà những người mắc bịnh thường vẫn tưởng mình đạo đức. Có nhiều người “phạm tội vì Chúa”: lấy lý do “vì Chúa” mà loại trừ kẻ khác, không thuộc phe
ta. Người Pháp đã nếm kinh nghiệm cay đắng tai hại của bịnh nầy nên có câu châm
ngôn: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống kẻ khác”. Chúa Giêsu biết trước điều nầy  nên Ngài tha thiết cầu xin trước giờ tử nạn: “Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để thế gian tin Cha đã sai con” (Gioan. 17, 21). Nếu ta không hiệp nhất thì thế gian không tin. Lời ông Gandhi đáng cho ta suy nghĩ: “Tôi yêu Chúa Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu vì họ không giống Chúa Kitô”.

Tác giả: HY. Nguyễn Văn Thuận

VÌ SAO TÔI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

VÌ SAO TÔI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

Maria Nguyễn Thị Xuân
nguồn: ubmvgiadinh.org

Những người quen thân tôi đều biết rằng tôi là người mới làm lễ quy y theo
Đạo Phật cách đây khoảng hơn 2 năm. Nói là theo Đạo Phật nhưng thật ra tôi
yêu mến và cảm thấy gần gũi với Đức Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều hơn và cũng nhờ
vậy mà cuộc sống của tôi đã trở nên vui vẻ và hạnh phúc hơn những năm về
trước, vì tôi cảm nhận được sự khác biệt giữa một cuộc sống có Đạo của ngày
hôm nay và đời sống không có Đạo của ngày hôm qua.

Nhưng gần đây (cuối  năm 2004) tôi và 2 đứa con tôi đã bắt đầu theo học chương trình giáo lý căn bản của Công Giáo tại Nhà Thờ Saint Jane Frances tại North York (Canada). Hai đứa con tôi, đứa con trai 17 tuổi và đứa con gái 14 tuổi đã được rửa tội hôm lễ Phục Sinh ngày 26/3/2005. Còn tôi thì chuẩn bị về Việt Nam rửa tội vào
tháng 8/2005.

Lý do tôi về Việt Nam rửa tội là vì dòng họ nội ngoại 2 bên nhà tôi từ bao đời nay, tôi là người đầu tiên theo đạo Công Giáo. Vì thế tôi muốn nhân cơ hội này đưa cả nhà
tôi ở đây về VN để giới thiệu cho gia đình 2 bên biết thêm về Thiên Chúa và ước nguyện rằng cơ hội này sẽ là ngọn Lửa thiêng soi sáng tất cả mỗi tấm lòng mọi người trong gia đình và là chiếc cầu nối liền giữa gia đình tôi cùng Thiên Chúa.

Có rất nhiều người đã hơi ngạc nhiên vì tôi chỉ trong một thời gian ngắn đã tin chắc chắn vào Thiên Chúa và việc theo Đạo “ào ạt” của mọi thành phần trong gia đình chúng tôi, nên đã hỏi tôi rằng “nguyên nhân nào đã khiến chúng tôi có một đức tin mãnh liệt và chắc chắn vào Thiên Chúa như vậy? Chúng tôi đã thấy gì và đã cảm nhận được gì nơi Thiên Chúa? Có phải chăng chúng tôi đã miệt mài đi tìm Chúa bấy lâu nay và ngày hôm nay chúng tôi đã tìm gặp Ngài hay là chính Ngài đã tìm gặp chúng tôi, những con chiên thất lạc tự bao đời.”

Đọc hồi nãy tới chừ mà chẳng nghe tôi nhắc tới chữ “chồng”, chắc các bạn nghĩ rằng tôi là “single mom” hả? Không phải đâu, cũng may còn có một người chịu khó lấy tôi làm vợ nên tôi cũng có chồng như ai, nhưng khổ nỗi là khi lấy nhau thì ổng mạnh ù và 4 năm nay thì ổng bịnh triền miên đau khổ, bịnh té lên, té xuống, bịnh đến nỗi mà nhìn lên trời chẳng thấy trời, nhìn xuống đất không thấy đất, nhìn chung quanh chẳng thấy ai và nhìn lại chồng mình cũng chỉ thấy có bịnh mà thôi. Đúng là bịnh đến độ không còn thấy trời trăng mây gió gì cả, mà đâu phải mấy cái bịnh tầm thường như đau đầu, sổ mũi mỗi mùa, mỗi năm vẫn thường xảy ra ở cái xứ lá phong này, mà là bịnh ung thư gan ngặt nghèo mà ai nghe tới cũng rùng mình rởn tóc gáy. Ai đã mang vào thân thì cơ hội sống được 5 năm chỉ có 5% mà thôi (theo cancer therapy guide xuất bản năm 2003). Nhưng cái khổ là chồng tôi đâu có phải chỉ bị ung thư gan 1 lần mà thôi đâu, chỉ trong vòng 3 năm rưỡi thôi, ổng đã bi bệnh ung thư gan tái phát đến 6 lần, tất cả là 9 cái khối u (tumors), cái lớn nhất là 13.5 cm và cái nhỏ nhất là 1.5cm.

Bệnh ung thư gan của chồng tôi tái phát lần thứ 6 vào cuối tháng 10 năm 2004. Khối u lần này phát triển rất nhanh và kỳ lạ: trong vòng 6 ngày mà phải ra vào phòng cấp cứu đến 4 lần. Sau nhiều lần thử nghiệm và xét nghiệm thì các Bác Sĩ tại bệnh viện
Princes Margaret tại Toronto đã báo cho chúng tôi biết là “sorry nothing we can do”. Khi biết bệnh không còn cách chữa trị, họ chuyển chồng tôi qua một Bác Sĩ khác để thí nghiệm một loại radiation mới ra đang còn trong thời kỳ thí nghiệm ở giai đoạn 1 (phase 1 clinical), nhưng người bác sĩ thực hiện cuộc thí nghiệm này đã đi vắng, 3 ngày sau mới trở lại bệnh viện. Vì thế chúng tôi phải về nhà chờ đợi 3 ngày sau sẽ trở vào bệnh viện cho họ thử thuốc.

Sau khi về đến nhà thì có một người bạn đem đến tặng cho chồng tôi một chai nước Thánh có hình Đức Mẹ Lộ Đức và có kể cho chúng tôi nghe sơ sơ về Đức Mẹ và từ đó do một sự đánh động vô cùng mãnh liệt đã dẫn đưa chúng tôi đến một quyết định không suy nghĩ là đi Lourdes ở bên Pháp để cầu nguyện với Đức Mẹ Lộ Đức (vì nếu có suy nghĩ thì không thể đi được, và đi có thể sẽ chết trên đường đi). Chỉ có một
ngày đi, một ngày ở và một ngày về.
Chúng tôi chỉ có một ngày ở với Đức Mẹ mà may mắn thay lại đúng vào ngày lễ lớn mỗi năm chỉ tổ chức một lần của các người dân miền núi. Có 3 vị Hồng Y chủ lễ, hơn 100 Giám Mục và soeurs, khi chúng tôi lần mò ra tới hang đá (Grotto) nơi Đức Mẹ hiện ra thì người ta đã vây quanh và đầy nghẹt cả mọi nơi. Chúng tôi cố len lỏi một hồi mà chẳng tới đâu, quay đầu nhìn về hướng hang đá cũng không thể nhìn thấy tượng Đức Mẹ đâu cả. Trải qua bao nhiêu khó khăn muốn đến tận nơi để dâng lời cầu nguyện với Mẹ mà bây giờ đứng xa như vậy làm sao mà cầu nguyện với Mẹ được. Tôi buồn và thất vọng vô cùng nên nhìn về phía hang đá mà khấn rằng “Lạy Mẹ, chồng con bịnh hoạn từ xa
đến đây tìm Mẹ mà bây giờ đứng xa quá không nhìn thấy Mẹ, xin Mẹ thương xót
cho chồng con vào bên trong được không!”.

Lạ lùng thay chưa đầy mấy phút sau thì bỗng một người đàn bà người Pháp đang giữ trật tự tại đó đến dắt chồng tôi vào bên trong và cho ngồi sau lưng các vị Giám Mục và đối diện với tượng Đức Mẹ nơi hang đá. Khi chồng tôi vào được bên trong thì tôi
vui mừng lắm. Nhưng mừng chưa xong thì lại lo lắng vô cùng, vì chồng tôi sức
khoẻ rất yếu nếu có việc gì ai lo cho ảnh đây! Vì thế chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp tục cầu nguyện. Tôi lại tiếp tục thì thầm với Mẹ “Mẹ ơi! Mẹ cho con vào trong để con có thể nhìn thấy chồng con được không Mẹ ?.”…

Chỉ vài phút sau thì lại có một người giữ trật tự dắt tôi vào bên trong khu Thánh Lễ có ghế ngồi đàng hoàng, tuy ở đây không gần chồng tôi lắm, nhưng nhìn từ xa tôi có thể thấy thấp thoáng bóng dáng của chồng tôi. Được như vậy đã là may lắm rồi, vì
trong khu Thánh Lễ chỉ ưu tiên cho những bệnh nhân đi xe lăn và những người
bệnh nằm trên băng ca hoặc những ai có bổn phận thi hành Thánh Lễ mà thôi. Vì
số ghế chỉ có vài trăm mà số người lại đến mấy ngàn người. Sau khi xảy ra những việc nầy tôi mới thấy thế nào là sự mầu nhiệm của sự cầu nguyện và ngay lúc nầy lòng tôi đã cảm thấy gần gũi với Đức Mẹ và Chúa hơn bao giờ hết.

Tối hôm đó ngày 7/11/2004 cũng là tối cuối cùng tại Lộ Đức (Lourdes), tôi cứ lang thang quanh khu nhà thờ cầu nguyện và suy niệm về sự mầu nhiệm cuả  đức tin và lòng thương xót mà Mẹ đã ban cho tất cả những ai đang khốn khổ mà có lòng tin đến đây cầu xin cùng Mẹ và nhất là lòng thương xót mà Mẹ đã ban cho tôi ngày hôm nay.

Trời đã bắt đầu vào mùa Đông, mà Lourdes là miền núi nên vào ban đêm trời lạnh dữ lắm, nhất là vào lúc nửa đêm. Nhìn quanh khuôn viên nhà Thờ rộng lớn bao la không còn một bóng người, nhìn lại hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra chỉ còn lại một bà cụ già đang quỳ gối, hai tay lần chuỗi mân côi, bà dùng hai đầu gối già nua quỳ trên
sàn đá lạnh buốt và lê từng bước nặng nề, chậm rãi nhưng cương quyết van xin
một điều gì đó vô cùng thành khẩn và tự tin.

Nhìn vào Đức Tin của bà cụ, cõi lòng tôi tự nhiên lòng dâng một niềm tin mãnh liệt vô bờ bến và tôi tiến dần về phía hang đá dưới chân tượng Đức Mẹ, nơi chồng tôi đang cúi đầu, hai tay ôm lấy vách đá lòng sụt sùi dâng lời cầu nguyện. Tôi yên lặng
một lát rồi đặt một tay lên vách đá và tay kia đặt trên đôi vai gầy guộc đang
run run vì xúc động của chồng tôi, tôi vô cùng đau khổ và xót xa cho số phận
của chồng tôi, cõi lòng tôi bỗng vỡ ra từng mảnh, những dòng nước mắt từ
trong linh hồn tôi đang tuôn ra. Tôi như chìm vào một không gian vô tận và
tôi bắt đầu cầu nguyện, những lời cầu nguyện bây giờ không phải bằng trí óc
hay con tim mà là những lời cầu nguyện từ trong linh hồn đang hoà tan vào
trong nước mắt dâng lên Mẹ.

“Mẹ ơi! chồng con đã bị bệnh quá ngặt nghèo đã không còn cách chữa trị, chúng con đến đây để cầu xin với Mẹ và chỉ biết một lòng cậy trông vào Mẹ mà thôi, xin Mẹ vì
lòng xót thương cầu bầu cùng Chúa Giêsu cứu lấy chồng con, CUỘC ĐỜI CÒN LẠI,
CON NGUYỆN XIN THEO MẸ ” và đây chính là lời nguyện ước giữa tôi và
Thiên Chúa.

Đến nửa đêm trời trở nên lạnh hơn, chúng tôi tạ ơn Mẹ ra về.

Trên đường về, chúng tôi ghé lại bên dòng suối mà năm xưa Đức Mẹ đã biến thành dòng nước thánh và đã chữa lành biết bao bệnh nhân có Đức Tin đến đây cầu xin cùng Mẹ. Chồng tôi đứng lại, dâng lời cầu nguyện và uống nguyên một chai nước thánh rồi đi thẳng một hơi về khách sạn mà không cần sự giúp đỡ của tôi, cái lưng cũng không còn khom khom như ngày hôm qua nữa. Tôi vô cùng kinh ngạc nhưng chẳng dám nói gì, cứ âm thầm quan sát mọi việc.

Thật đúng là “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở
cho” (Lc 9, 10)

Chiều hôm đó khi về tới nhà tại Mississauga, Ontario, Canada, chồng tôi đang loay hoay đem bức tượng Đức Mẹ đặt trên bàn thờ, còn tôi đang lăng xăng sửa soạn bữa ăn tối thì ngay lúc đó đứa con trai của tôi chạy xuống ôm lấy vai tôi mà hỏi rằng
“Mẹ ơi khi nào con rửa tội?”.

Tôi kinh ngạc vô cùng vì cả nhà tôi chưa có ai học Giáo lý bao giờ và cũng chưa có ai nói với nó việc theo Đạo Công giáo. Tôi hơi sững sờ một chút nhưng trong lòng rộn rã một niềm vui vì tôi biết rằng ơn Chúa đang đổ xuống nhà tôi. Tôi quay lại và
nói với con trai tôi rằng “Nếu con muốn được rửa tội để theo Chúa thì con phải đi học lớp giáo lý trước cái đã”. Con tôi đồng ý và mấy hôm sau thì chúng tôi liên lạc với Cha Giuse Phạm Ngọc Tuấn, nhờ sự nhiệt tình và lòng thương mến đến gìa đình chúng tôi, cha đã sắp xếp mọi thứ và mấy tuần sau thì cả gia đình chúng tôi theo học khóa Giáo Lý vừa qua và 2 đứa con của tôi đã nhận Bí Tích rửa tội vào đêm Lễ Vọng phục Sinh ngày 26/3/2005.

Còn phần tôi như đã thưa ở trên, tôi phải “rán” mà dời lại đến tháng 8 về Việt Nam rửa tội, mục đích là đem Tin Mừng về chia sẻ cùng gia đình hai bên và với ước nguyện rằng, nhân cơ hội nầy Chúa sẽ thương xót mà đánh động mỗi tâm hồn trong gia đình hai bên và ước mong một ngày nào đó, những tâm hồn này sẽ quay về với Chúa. Tôi xin bạn hãy cầu nguyện cho gia đình tôi thật nhiều để những lời nguyện ước của tôi sẽ trở thành sự thật.

Mấy tháng nay gia đình chúng tôi đang sống trong mầu nhiệm của Đức Tin và hồng ân của Thiên Chúa, qua hình ảnh Đức Mẹ và sự mầu nhiệm của biến cố nầy tôi đã thấy gì nơi Thiên Chúa? Và cuộc đời tôi biến đổi ra sao?

Viết đến đây tôi lại nhớ đến một người bạn trong “Chương trình Thăng tiến Hôn nhân Gia đình” tuần vừa qua đã mời tôi đến dự một buổi họp mặt hàng tháng tại
Liên Gia 12 và bài Thánh kinh được chia sẻ hôm đó lại là bài dụ ngôn nói về
“Nước Hằng Sống” và Chúa đã ví “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì chôn giấu laị, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.” (Mt 13, 44.)

Càng suy niệm tôi càng cảm thấy như đây là một lời nhắn nhủ mà Chúa đã dành riêng cho tôi, mà Mẹ là NGƯỜI đã âm thầm chỉ cho tôi kìa là Nước Hằng Sống và tôi phải làm gì để có được Nước Trời này đây ! Lạy Chúa, con thật chẳng có gì xứng đáng để bán, để mua, con chỉ có cuộc đời còn lại nầy và mỗi ngày trôi qua là một ngày
con xin dâng lên Mẹ và Chúa.

Đến bây giờ thì bạn đã biết vì sao tôi theo Đạo Công Giáo rồi phải không?

Tôi kể lại câu chuyện nầy là để Vinh Danh và tạ ơn Đức Mẹ Lourdes, Người đã đưa tôi về với Chúa và cũng để cảm ơn:

Cha Giuse Phạm Ngọc Tuấn, người đã hướng dẫn và dìu dắt tôi qua những đoạn đường, những khúc quanh của cuộc hành trình đức tin mà lòng tôi nhiều khi như mơ hồ lạc mất Chúa.

Cảm ơn tất cả các anh chị em trong Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình và nhất là anh chị em trong liên gia 10, đã cầu nguyện cho chúng tôi trong suốt thời gian qua.
Cảm ơn Thầy Lân Thầy Hoàng và Soeur Hà đã hướng dẫn gia đình tôi qua lớp Giáo Lý khóa 2004-2005 và tất cả quý vị trong ban Mục Vụ Cộng Đoàn Việt Nam ở North York, Canada.

Và xin đặc biệt xin chân thành cảm ơn mẹ đỡ đầu Theresa-Maria T. Hương và nhất là anh Toản, người đã chia sẻ buồn vui mỗi ngày với chúng tôi và cũng là người đã dìu dắt 2 chúng tôi trong suốt hành trình chuyến đi Lourdes đầy nước mắt hồng ân nầy.

Maria Nguyễn Thị Xuân

Chuỗi Mân Côi cứu sống người lính

Chuỗi Mân Côi cứu sống người lính

Thiên Chúa có ở với chúng ta trong từng giây phút của cuộc sống? Tôi thích những câu chuyện như dưới đây, tôi xác định là Thiên Chúa luôn ở với chúng ta.

Glenn Hockton, 19 tuổi, về nhà sau 17 tháng làm nghĩa vụ Coldstream Guards tại tỉnh Helmand. Anh đang đi tuần tra thì tràng hạt rơi ra khỏi cổ. Mẹ anh, bà Sheri Jones, kể: “Nó cảm thấy như có ai đập vào lưng. Nó cúi xuống nhặt tràng hạt xem có bị đứt không. Khi cúi xuống nó mới biết mình đang ở trên trái mìn địa lôi”.

Glenn phải đứng lặng ở đó suốt 45 phút trong khi các đồng nghiệp có thể đến cứu giúp anh. Bà Sheri Jones, ở Tye Green, Essex, nói rằng bà run cả người khi con trai bà gọi điện kể cho bà nghe về chuyện của con bà.

Mẹ của Glenn đã đưa cho anh chuỗi tràng hạt để bảo vệ anh trước khi anh đi làm nghĩa vụ quân sự. Sự kiện đáng chú ý hơn là ông của Glenn ghi nhận về chuỗi Mân Côi:

Ông cố Joseph Truman cũng đã tin chuỗi Mân Côi đã cứu sống ông trong Thế chiến II khi bom nổ giết chết 6 người trong trung đội của ông. Ông ở trung đội hỏa mai và sau đó bị bắt cho đến khi kết thúc chiến tranh, ông và các tù nhân khác bị bắt phải bỏ quân đội liên minh tiến bộ.

Bà Jones, 41,  nhớ lại: “Nó đang đi ngang qua cánh đồng với 6 người lính cùng trung
đội. Nó cúi xuống nhặt lên cái gì đó và nó là người duy nhất còn sống sót sau khi bom phát nổ. Nó đã cúi nhặt chưỗi Mân Côi”.

Tôi không biết gia đình này có giữ đạo Công giáo hay không. Và dĩ nhiên có sự nguy hiểm ở chỗ của chuỗi Mân Côi khi hình như có gì đó như “sự may mắn” cho những người nghe về
cách những người này được cứu sống.

Nhưng tôi nghĩ về câu chuyện này khi có tiếng gọi làm tôi thức giấc, chắc chắn lên quan gia đình tôi – nhưng cũng liên quan cả chúng ta nữa. Đó là tiếng gọi để tôi nhận ra sức mạnh
của Đức Mẹ và chuỗi Mân Côi cứu chữa chúng tôi. Không chỉ bằng cách bảo vệ cơ thể chúng tôi không bị mìn mà còn cho chúng tôi áo giáp thiêng liêng mà chúng tôi cần trong lúc đảm trách thế giới hiện đại.

Bạn đã đọc 15 lời hứa của Đức Maria đối với những người trung thành lần chuỗi Mân Côi chưa? Nếu đã đọc trước đây thì sau đó có đọc nữa? Đó là những điều gây cảm hứng. Nếu bạn là người bắt đầu và không biết bắt đầu từ đâu thì hãy lần chuỗi Mân Côi với 15 mầu
nhiệm – Vui, Thương, Mừng, và nay có thêm 5 Sự Sáng.

Lạy Đức Mẹ Mân Côi, xin cầu cho chúng con!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ National Catholic Register)

nguồn: Maria Thanh Mai gởi