Lá Thư Mùa Xuân -Phạm Đình Chương -Mai Hương -NNS
httpv://www.youtube.com/watch?v=a_AyRSAE80M
httpv://www.youtube.com/watch?v=a_AyRSAE80M
Loại thuốc mới có thể biến ung thư chết người thành một bệnh mạn tính
Ảnh minh họa.
29.01.2014
Một loại thuốc mới đang được thí nghiệm, có thể biến một bệnh ung thư gây tử vong thành một căn bệnh mạn tính có thể kiểm soát được như bệnh cao huyết áp. Nếu được chấp thuận để điều trị cho những hình thức bệnh bạch cầu thông thường, loại thuốc này có thể thay thế các liệu pháp hóa trị độc hại.
Bệnh bạch cầu lympho, gọi tắt là CLL, một bệnh ung thư tế bào B của hệ thống miễn nhiễm vốn sản xuất các kháng thể, là những binh sĩ tuyến đầu của cơ thể chống lại vi trùng và các siêu vi xâm nhập cơ thể. Nhưng khi các tế bào B phát triển thành ung thư, chúng tích lũy tại các cơ quan nội tạng của bệnh nhân, trong đó có những hạch bạch cầu, tại nách và háng giúp cơ thể nhận biết và chống lại tình trạng lây nhiễm. Với bệnh bạch cầu lympho, hạch bạch cầu sưng to nhiều lần so với kích cỡ bình thường.
Ông Richard Furman, một nhà khảo cứu ung bướu tại Trường đại học Y khoa Weill Cornell ở New York, nói rằng thuốc idelalisib uống một ngày hai lần khiến ung bướu tan đi. Ông nói:
“Khi tôi nói tan đi, quý vị có thể thấy những hạch thu nhỏ lại trong vòng vài ngày. Thuốc có kết quả mau chóng, thật là tuyệt diệu.”
Liệu pháp tiêu chuẩn cho bệnh bạch cầu lympho CLL là Rituxan, một loại thuốc tiêm truyền dịch tiêu diệt các tế bào B có bệnh, nhưng chỉ được một thời gian rồi bệnh tái phát. Ông Furman nói rằng, với nhiều vòng hóa trị, bệnh bạch cầu cuối cùng trở thành kháng thuốc Rituxan và bệnh nhân không đáp ứng với liệu pháp nữa. Bệnh ung thư này trở thành loại bệnh gây tử vong.
Nhóm khảo cứu do ông Furman dẫn đầu đã so sánh một liều phối hợp gồm idelalisib và Rituxan, với Rituxan và viên thuốc giả trong một nhóm gồm 220 bệnh nhân bệnh bạch cầu trên khắp thế giới, trong đó có 19 trung tâm y khoa tại Hoa Kỳ và 5 trung tâm tại các nước khác.
Trong suốt sáu tháng khảo cứu, 13 phần trăm những người chỉ dùng Rituxan có phản ứng với liệu pháp so với 81 phần trăm nhóm sử dụng liệu pháp phối hợp với Idelalisib.
Và 92 phần trăm các tham dự viên trong nhóm đó vẫn còn sống một năm sau khi cuộc khảo cứu bắt đầu, so với 80 phần trăm trong nhóm chỉ sử dụng Rituxan.
Sự khác biệt trở nên đáng kể đến nỗi cuộc khảo cứu đã phải ngưng sớm để tất cả các bệnh nhân có thể nhận được Idelalisib.Ông Furman cho biết:
“Với một loại thuốc như idelalisib, có thể sử dụng liều lượng cao và cực kỳ hữu hiệu, hy vọng của tôi là có thể làm cho CLL trở thành một bệnh mạn tính, một thứ hơi giống như huyết áp cao mà bệnh nhân chỉ uống mỗi ngày một viên là có thể kiểm soát được.”
Công ty điều chế thuốc idelalisib đã yêu cầu các nhà điều tiết Hoa Kỳ chấp thuận loại thuốc này trong vòng sáu tháng để thuốc có thể được sử dụng nhằm điều trị cho các bệnh nhân bạch cầu mạn tính. Bài báo về idelalisib được đăng trong tạp chí The New England Journal of Medicine.
Nữ sinh Việt và con đường tới Đại học Harvard
Tường Vân trong ngày tốt nghiệp trung học.
29.01.2014
Lê Tường Vân đã từ chối 6 trường đại học hàng đầu của Mỹ để tới theo học tại ngôi trường lâu đời nhất Hoa Kỳ.
Vân cho biết, ngoài Harvard, cô còn nộp đơn vào 6 trường hàng đầu khác của Mỹ như Princeton, Yale hay Stanford, và cô được nhận vào học tất cả các trường này với học bổng toàn phần.
Sau đó, cô cân nhắc giữa Princeton và Harvard, và sau khi tới thăm hai nơi này, cô quyết định chọn đại học từng đạo tạo 8 tổng thống Mỹ.
Lý giải về lựa chọn của mình, cô gái tuổi đôi mươi nói rằng cô chọn Harvard vì môi trường học vấn, và đặc biệt, Boston, nơi đại học này tọa lạc, là thành phố khá thân thiện với sinh viên cũng như có nhiều cơ hội thực tập và làm việc.
” Nhưng có một bài học tôi rút ra được khi học ở Harvard, đó là không so sánh mình với người khác, và luôn nghĩ về điều mình có thể đạt được, về con đường riêng của mình, những mục tiêu riêng của mình để hướng tới nhưng đồng thời cũng phải hiểu rõ bản thân mình, những hạn chế của mình để khắc phục. Ta không nên so sánh vì luôn luôn có những người tài giỏi hơn mình.
Lê Ngọc Tường Vân nói.”
Vân kể với VOA Việt Ngữ về một bài học sau khi kết thúc kỳ đầu tiên tại Harvard: “Không chỉ riêng tôi, mà mọi người ở Harvard đều luôn hết sức bận rộn. Trong năm đầu tiên, đôi khi tôi cũng cảm thấy căng thẳng lắm vì xung quanh mình toàn những bạn có thành tích học tập đáng nể. Tôi cũng cảm thấy bị áp lực phải cố gắng nhiều hơn nữa. Mọi người ở đây ai cũng vậy”.
Cô nói tiếp: “Nhưng có một bài học tôi rút ra được khi học ở Harvard, đó là không so sánh mình với người khác, và luôn nghĩ về điều mình có thể đạt được, về con đường riêng của mình, những mục tiêu riêng của mình để hướng tới nhưng đồng thời cũng phải hiểu rõ bản thân mình, những hạn chế của mình để khắc phục. Ta không nên so sánh vì luôn luôn có những người tài giỏi hơn mình”.
Cô gái nhỏ bé tới Mỹ du học cùng với anh trai sau khi học xong lớp 6 tại TP Huế.
Vượt qua những khó khăn ban đầu về ngôn ngữ, suốt những năm học cấp hai và cấp ba, Vân đã giành được nhiều giải thưởng, trong đó có bằng khen của Tổng thống Hoa Kỳ về thành tích học tập xuất sắc.
Ngoài việc học, Tường Vân cũng tham gia một loạt các hoạt động xã hội, thiện nguyện. Vừa qua, cô đã tới Trung Quốc để giúp đỡ trẻ em tại một trại trẻ mồ côi trong hai tuần nhân dịp nghỉ đông ở Harvard.
Khi được hỏi nếu có cơ hội đưa ra lời khuyên với những học sinh Việt Nam muốn nộp đơn vào các trường đại học nổi tiếng nước Mỹ như Harvard, Vân nói: “Hãy tận dụng mọi cơ hội mà bạn có. Học vấn là điều quan trọng nhất nhưng các hoạt động ngoại khóa cũng là cơ hội học tập rất tốt mà ta cần phải nắm bắt. Khi tôi học trung học, tôi học được nhiều từ các hoạt động động ngoại khóa hơn là các giờ học trên lớp. Các kỹ năng thực tế, kỹ năng lãnh đạo là những thứ rất quan trọng cho công việc trong tương lai”.
” Tôi nghĩ nhiều học sinh Việt Nam học rất giỏi, tôi không bao giờ nghi ngờ về điều đó. Điều bất lợi đối với học sinh Việt Nam là họ không tích cực tham gia vào các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động vì cộng đồng. Tôi nghĩ đó là những yếu tố rất quan trọng khi các trường đại học xét hồ sơ xin học của các ứng viên.
Lê Ngọc Tường Vân nói thêm.”
Cô nói thêm: “Tôi nghĩ nhiều học sinh Việt Nam học rất giỏi, tôi không bao giờ nghi ngờ về điều đó. Điều bất lợi đối với học sinh Việt Nam là họ không tích cực tham gia vào các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động vì cộng đồng. Tôi nghĩ đó là những yếu tố rất quan trọng khi các trường đại học xét hồ sơ xin học của các ứng viên”.
Ngoài việc học ở lớp, khi còn học cấp hai và cấp ba, Vân còn tham gia các cuộc thi khác nhau về toán cũng như viết luận, và đã giành nhiều giải thưởng.
Hiện cha mẹ của cô vẫn ở Việt Nam, và khi được hỏi về khả năng trở về nước làm việc, cô nói: “Tôi không hoàn toàn chắc chắn là tôi sẽ trở về Việt Nam sau khi học xong hay không, nhưng đó hoàn toàn là một khả năng. Tôi dự tính sẽ tới làm việc ở châu Á, có thể là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc hay Việt Nam. Tôi muốn làm việc cho các tổ chức hay các công ty của Mỹ có chi nhánh tại Việt Nam”.
Truyền thông ở Việt Nam đã đưa tin về thành tích học tập của Tường Vân, và có tờ báo còn coi cô là một trong những người ‘làm rạng danh đất Việt’.
Website của nhiều đoàn thanh niên ở Việt Nam coi cô gái này là một tấm gương cho các đoàn viên khác.
Trang web của đoàn thanh niên tỉnh Quảng Ngãi viết rằng Vân là một trong các ‘trí tuệ Việt đấm chuông xứ người’ và đã ‘khẳng định thương hiệu Việt’.
Đảng vinh quang, tài tình: Thứ tôn giáo xuống cấp
Fri, 01/31/2014 nguyenhuuvinh
Ngày đầu xuân Nhâm Ngọ, trên mọi nẻo đường đất nước, nhan nhản đâu đâu ta cũng gặp câu khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Đọc qua, người ta cứ ngỡ rằng Đảng ta” được ca tụng tận mây xanh, vinh quang thật và vĩ đại thật!
Nhưng, thực chất, ngẫm kỹ thì câu khẩu hiệu này là phản động.
Nhất là nhìn vào cuộc sống người dân qua tết này, không khí tết đã cho thấy đó là sự mỉa mai.
Còn nhìn vào thực tế tấm lòng người dân người ta thấy đó là sự hài hước.
Lấp liếm và phản động
Điều lệ Đảng CSVN ghi như sau: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản…” Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định khi thế giới tiến đến Chủ nghĩa Cộng sản thì lúc đó “của cải tuôn ra dào dạt, mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” (Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin). Khi đó xã hội hoàn thiện không còn đảng phái, giai cấp, thậm chí nhà nước cũng tiêu vong.
Vậy thì khi đến CNCS – hẳn nhiên không còn giai cấp, đảng phái và nhà nước cũng phải bị triệt tiêu. Vì thế, câu khẩu hiệu “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm” chính là câu khẩu hiệu phản động nhất, đứng trên quan điểm CN Mác – Lênin.
Vậy mà luôn luôn mọi nơi, mọi lúc, hễ có điều kiện là câu khẩu hiệu nói trên được bưng ra mời chào. Phải chăng, thói nói một đằng làm một nẻo cũng bắt đầu nhiễm từ câu khẩu hiệu này trở đi?
Vinh quang, tài tình!
Chỉ mới mấy chục năm, chưa dài lắm, mà “Đảng ta” đã tự bộc lộ một sự èo uột, một sắc thái xám xịt thiếu sức sống. Đặc biệt với sự tụt dốc thê thảm về đạo đức, bản chất của đảng được bộc lộ ra ngoài hoàn toàn “khách quan, biện chứng” dù đã cố tình che giấu bằng mọi cách, kể cả che giấu bằng nhà tù và… súng.
Điều đó không phải do “thế lực thù địch” hoặc kẻ thù của đảng nói ra, nó được chính các cán bộ lãnh đạo đảng tự thú nhận bằng cách này hay cách khác. Qua từng thời kỳ, qua chính những phát biểu của lãnh đạo đảng và người dân nói về Đảng, điều không thể không nhận thấy rõ ràng bản chất của Đảng ngày càng lộ rõ và vì vậy người dân càng xa lánh, đảng mất thiêng.
Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng tháng 10/1930 đã ghi: “Đảng phải chuẩn bị cho quần chúng về “con đường võ trang bạo động” và “phải tuân theo khuôn phép nhà binh” đánh đổ chính phủ địch nhân, giành chính quyền”. Như vậy, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã khẳng định con đường bạo lực và “cướp chính quyền”. Và việc đó đã xảy ra năm 1945, Đảng đã cướp được chính quyền về tay mình.
Dường như, khi men chiến thắng đang rừng rực trong mình, Đảng không hề giấu diếm bản chất của mình qua việc sử dụng các ngôn từ để biểu thị bản chất, mục đích của hành động. Trong các sách vở, tài liệu, Đảng ngang nhiên tuyên truyền việc “Cướp chính quyền” về tay mình bằng võ trang bạo động.
Thế rồi khi cầm quyền, Đảng tha hồ tung hô, được tung hô và tự tung hô cũng như buộc tất cả phải tung hô sự vinh quang, về đạo đức, về sự tuyệt vời của Đảng.
Nào là “…phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân” (Điều lệ Đảng).
Rồi thì “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. (Hồ Chí Minh)
Những cái mà Đảng tự nhận là “sai lầm” thực chất là hàng loạt tội ác, nhưng chỉ cần “nhận lỗi” thế là xong, Đảng lại tiếp tục vĩ đại, tiếp tục là đạo đức, văn minh. Về việc “nhận lỗi”, chúng tôi đã có bài viết “Khi người Cộng sản nhận lỗi” để đề cập đến vấn đề đó.
Biệt tài đổ lỗi của “đảng ta” luôn được phát huy trong mọi hoàn cảnh, điều kiện. Ngay từ xưa, người dân Việt Nam đã có lý khi đúc kết kinh nghiệm tuyên truyền của Đảng như sau: “Mất mùa là bởi thiên tai. Được mùa là bởi thiên tài Đảng ta”. Có lẽ chừng đó đã nói lên bản chất tranh công, đổ lỗi và không dám chịu trách nhiệm của “đảng ta”. Nhưng, điều đó cũng không cứu vãn nổi sự tụt dốc thảm hại về sự tín nhiệm vào đảng.
Như vậy, một đảng được vũ trang bằng lý thuyết vô thần, bạo lực, thực thi bằng dối trá, liệu đó có là sự vinh quang?
Một điều thường xuyên được nhai đi nhai lại là “Công lao của đảng lãnh đạo đất nước đứng lên chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ”(?) Thử xem?
Hẳn nhiên, khi đất nước chúng ta đánh đuổi thực dân, không chỉ có một Đảng CS, ở đó còn có các đảng phái khác. Dù nhiều người cho rằng, Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội là hai con bài do Đảng CS giật dây lãnh đạo. Cũng rất có thể xảy ra trong thực tế. Tuy nhiên, về danh chính ngôn thuận, Đảng CS chưa dám đủ bản lĩnh thừa nhận việc hai cái đảng cá cảnh kia chỉ để làm những gì Đảng CS điều khiển. Ngay cả cái tên Đảng CS, khi đó đảng còn chưa dám danh chính, ngôn thuận.
Còn, cái gọi là “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” liệu có đúng là cuộc chiến cứu nước hay không khi mà chính Lê Duẩn nói rằng: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”.
Vậy có gì là vinh quang, khi đảng đã tự nguyện trở thành người lính đánh thuê cho các ohe phái cộng sản khác nhau trên thế giới?
Nhận diện sự vinh quang, tài tình
Đi từ miền Bắc về miền Trung Tết này, không ai không thấy được một điều nổi bật: Không khí đón tết, mừng xuân năm nay quả thật trầm lắng và u uất. Hàng loạt các doanh nghiệp báo tử. Nơi nơi, câu cửa miệng của mọi người dân là làm ăn khó khăn, nạn thất nghiệp trầm trọng, nặng nề. Đời sống kinh tế của đất nước được thể hiện trên gương mặt hốt hoảng, ngơ ngác của những người tiêu dùng. Giá cả tăng chóng mặt, bất chấp đời sống người dân ra sao.
Suốt dọc chiều dài đất nước, điều người dân cầm chắc là sẽ tăng lên đều đều nhịp bước hoặc phi mã bất chấp quy luật và ý muốn, đó không phải là chất lượng cuộc sống người dân, mà đó là giá cả, là tai nạn, là trộm cướp… Đồng hành với chính sách cướp đoạt đất đai, một số lượng dân oan cứ tăng không ngừng và ngày càng đông đúc.
Một cái Tết đến không nằm trong sự háo hức, mong đợi của người dân Việt Nam. Nó chỉ nằm trong những miệng lưỡi ngợi ca đầy tính chất mị dân ồn ào, trống rỗng.
Tất cả những điều đó, đã dội những gáo nước lạnh ngắt và bẩn thỉu vào sự “sáng suốt và tài tình”.
Thế nhưng, dường như để trêu ngươi mọi người dân cho đến lúc nhận đủ sự chán chường của họ, những khẩu hiệu vẫn cứ nhan nhản khắp mọi nẻo đường trong những ngày đón xuân.
Tôn giáo tự hoại, Đảng xuống cấp!
Người ta cho rằng: Chủ Nghĩa Mác – Lenin cũng là một thứ tôn giáo, ở đó có đầy đủ Giáo lý, Giáo sỹ, Giáo phẩm và các tín hữu… Mặc dù trên cơ sở lý thuyết, thứ tôn giáo này không tin vào thần thánh, tâm linh, thứ mà nó đưa lên vừa là tôn thờ, vừa là phương tiện đó là Bạo lực và dối trá. Các cơ sở Đảng cộng sản, cũng chính là các cơ sở tôn giáo của giáo phái do Mác – Lênin sáng lập này.
Điều khác biệt các giáo phái và các tôn giáo khác là thứ tôn giáo này được lan truyền bằng súng đạn và máu. Mục đích là tiêu diệt hoàn toàn các giáo phái, các tín ngưỡng khác để cả hành tinh chỉ duy nhất một tôn giáo Mác – Lenin. Đó là con đường nhuốm đầy máu nhân loại mỗi nơi nó đi qua. Tín đồ của thứ tôn giáo này, là những tín đồ bắt buộc, họ không được có một lựa chọn nào khác ngoài sự phục tùng thứ tôn giáo này.
Thế nhưng, thay vì tồn tại hàng ngàn năm như các tôn giáo chân chính khác, thứ tôn giáo của máu và súng này đã nhanh chóng lụi tàn trên thế giới. Kể từ khi hình thành cho đến ngày sụp đổ ngay tại nơi sinh ra nó chỉ hơn 70 năm. Trên thế giới, chỉ còn lại vài ba chiếc vòi bạch tuộc của nó tự biến dạng để tồn tại một cách lỳ lợm mà nói theo cách của “Đảng ta” – một bộ phận của thứ tôn giáo này – là “vận dụng sáng tạo vào hoành cảnh thực tế”.
Cũng theo quy luật đào thải đó, “Đảng ta” dần dần bộc lộ những điểm yếu chết người mà không thể nào khắc phục: Độc trị dẫn đến độc tài và xã hội tha hóa dẫn đến suy vong.
Hà Nội, ngày 31/1/2014
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Những lời chúc Tết hay nhất ý nghĩa nhất
Đong cho đầy hạnh phúc. Gói cho trọn lộc tài.
Giữ cho mãi an khang. Thắt cho chặt phú quý.
Cùng chúc nhau như ý. Hứng cho tròn an khang.
Chúc năm mới bình an. Cả nhà đều sung túc.
Công thức nấu món ăn ngày Tết :
1. Lấy 12 tháng trong năm đem rửa sạch mùi cay đắng, ghen tị, thù oán …rồi để ráo nước
2. Tuần tự cắt mỗi tháng ra 28, 30 hay 31 phần.
3. Trộn đều với: – Một chút tin yêu – Một chút kiên nhẫn – Một chút can đảm – Một chút cố gắng
– Một chút hy vọng – Một chút chung thủy
4. Ướp thêm gia vị: lạc quan, tự tin và hài hước
5. Ðem ngâm một lát trong dung dịch “Những điều tâm niệm của mình”
6. Vớt ra, xay nhỏ, đổ tất cả vào “Nồi yêu thương” và nấu với lửa “Vui mừng”
7. Ðem ra ăn với “Nụ cười” trong chén “Bao dung”
và sẽ có
MỘT NĂM MỚI ÐẦY YÊU THƯƠNG VÀ HẠNH PHÚC .
S.T.
từ Nguyễn Kim Bằng gởi
Đối thoại trong chương trình cứu độ
VRNs (30.01.2014) – Sài Gòn-
Nhân loại có kinh nghiệm về một cuộc “đối thoại” với loài ranh ma xảo quyệt, một cuộc nói chuyện không chỉ vô ích nhưng còn mang theo hệ lụy cả nhân loại phải chết, chỉ vì một phía nói chuyện không tôn trọng sự thật và đầy mưu mô xảo quyệt (Stk.3, 1–7). Trong bóng tối của sự chết đè nặng trên nhân loại, Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ để giải thoát con người ra khỏi sự chết muôn đời.
Nếu “người đàn bà” năm xưa đã ngây thơ, chân thật và thiếu khôn ngoan thì Thiên Chúa lại tuyển lựa được một “người đàn bà” khác là “Tòa khôn ngoan“ của nhân loại, Bà đã đối thoại với Thiên Chúa để chấp nhận cho Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ nhân loại qua sự dâng hiến chính cuộc đời của Bà.
“Bà Elisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.
Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.”
(Lc. 1, 26 – 38)
Cuộc đối thoại giữa Đức Maria và Sứ thần của Thiên Chúa đã diễn ra trong tình trạng thật tuyệt mỹ, kết quả của cuộc đối thoại là chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện, mang lại ơn cứu thoát cho cả nhân loại.
Chúng ta nhận thấy: Cả hai, phía Thiên Chúa và phía Đức Maria,
– Cả hai đếu có sự thật, sự thật về thân phận con người và sự thật về tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Đức Maria không ngần ngại bộc bạch về giới hạn của con người, Thiên Chúa không ngần ngại đoan quyết về quyền năng và tình thương của Ngài.
– Cả hai đều tôn trọng sự thật và tôn trọng tư do lẫn nhau. Thiên Chúa ngỏ lời và Đức Maria hoàn toàn tự do quyết định.
– Trong đối thoại, cả hai đều nói sự thật, không một chút lọc lừa, không gian manh xảo quyệt, không sắp đặt gài bẫy, không đầy đưa phỉnh phờ.
– Trong đối thoại cả hai đều hướng về sự thiện, đều nhắm đến sự tốt lành và hạnh phúc cho nhân loại, “vì các linh hồn”.
– Trong đối thoại cả hai đều rất khiêm tốn, Thiên Chúa thật khiêm tốn nhẹ nhàng ngỏ lời, Đức Maria thật khiêm tốn bày tỏ, và cuối cùng để Chúa thực hiện theo ý Chúa.
Năm mới mở ra một giai đoạn mới, chúng ta sẽ vẫn tiếp tục đối thoại với con người, đối thoại với người nghèo, đối thoại với xã hội, đối thoại với các tôn giáo bạn, đối thoại các nên văn hóa mới, … Sẽ không có kết quả của sự loan truyền đức tin nếu không có cung cách đối thoại như cuôc đối thoại của Đức Maria với Sứ thần của Thiên Chúa. Người Kitô hữu cần phải tỉnh táo. Kinh Thánh ngoài gía trị là chính lời của Thiên Chúa, Kinh Thánh còn là một bản đúc kết kinh nghiệm của nhân loại về lịch sử của nhân loại. Nhân loại đã có kinh nghiệm, bài học về kinh nghiệm không phải là bài học tầm thường, người khôn ngoan hãy trân trọng học hỏi.
Lm. Vĩnh Sang, dcct.
30 Tết (30/01/2014)
Thằng Ăn Cắp
Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều không hiểu chuyện nầy!!
Cảnh chỉ có ở Việt Nam thời nay.
( Ảnh trên: Nhục hình tội phạm của xả hội Việt Nam, hiện nay )
(Năm 12 tuổi, tôi đọc ở đâu đó một truyện cổ tích Ấn Ðộ. Truyện rất ngắn, ít tình tiết, kể về một thằng ăn cắp. Hồi đó tôi không hiểu ý nghĩa. Ðem hỏi cha tôi thì người chỉ nói: “Lớn lên con sẽ hiểu. Người nào không có lòng công chính, không là người chân thật thì cũng không hiểu.”
Thường bọn móc túi nơi đám đông, quân đào tường, khoét vách nhà người ta để trộm tiền bạc, đồ đạc… là những vật cụ thể, hữu hình, thì chúng bị gọi là kẻ cắp. Ðiều đó dễ hiểu. Còn lòng danh dự, sự công chính, lương tâm là những thứ trừu tượng, những ý niệm, thảy đều có thể bị ăn trộm hay sao?
Ở một làng bên xứ Ấn Độ, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn cường hào ác bá quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương.
Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm.
Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa.
Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi viết bảng thông báo để trả lại cho người ta.
Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói:
– Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.
Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con:
– Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ đó phát sinh. Mẹ con mày chớ có dúng tay vào mà khốn!
Bác cất cẩn thận bỏ túi vải vào rương, khóa lại.
Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách.
Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu:
– Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sông trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa!
Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên.
Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi:
– Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?
Cụ già ngạc nhiên:
– Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác?
– Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này!
Cụ già vẫn bình thản:
– Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên thì còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao? Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.
Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.”
Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi:
– Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa?
– Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại.
– Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì?
Người thương gia trả lời:
– Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường.
Người nông phu nói:
– Thế thì không phải túi đồ của bác.
– Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ.
Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia:
– Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận.
Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói:
– Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn.
Người nông dân ngạc nhiên:
– Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền?
– Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ.
– Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Cũng như lòng yêu dân tộc, yêu tổ quốc không phải là cái cớ để được trả công. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp.
Người thương gia không còn lý lẽ gì để nói thêm bèn khoác hành lý lên vai, bất thần vất gói vải đựng nửa số vàng lên bàn rồi bỏ chạy. Ý định của ông ta là bắt buộc bác nông dân phải nhận sự đền ơn, nhưng bác vội nhặt gói vàng rồi đuổi theo, miệng hô hoán:
– Bớ người ta, thằng ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp.
Dân trong làng nghe tiếng hô hoán liền đuổi theo bắt được người thương gia dẫn trở lại trước mặt bác nông dân, hỏi:
– Hắn đã ăn cắp vật gì của bác?
– Hắn định ăn cắp cái tâm công chính và chân thật mà tôi có được từ ngày tôi học Phật!
Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều không hiểu chuyện nầy!!
Lính Thuỷ Sưu tầm
Con gái tài phiệt cầu xin cha
Thứ tư, 29 tháng 1, 2014
Cô Gigi Chao (phải) đã cưới người tình đồng tính của mình hồi 2012 tại Pháp
Con gái của một nhà tài phiệt Hong Kong trong một lá thư ngỏ đã kêu gọi cha mình hãy chấp nhận cô là người đồng tính, sau khi ông đề nghị chi hàng triệu đôla để kiếm chồng cho con.
Cô Gigi Chao nói ông Cecil Chao hãy chấp nhận bạn tình của cô và “đối xử với cô ấy như một con người bình thường, có nhân phẩm”.
Cô Chao, 33 tuổi, đã cưới người bạn tình lâu năm Sean Eav tại Pháp hồi 2012, cũng nhấn mạnh: “Có nhiều người đàn ông tốt trên đời, nhưng có điều họ không phải là để dành cho tôi.”
Hồi tuần trước, ông Chao được cho là đã tăng gấp đôi lời đề nghị của mình lên 65 triệu đôla.
Hong Kong không công nhận hôn nhân đồng giới, tuy việc quan hệ đồng tính đã không còn bị coi là tội phạm kể từ 1991.
Ông Chao, một nhà tài phiệt chuyên về bất động sản và vận tải biển, người chưa từng kết hôn, nói với BBC hồi năm ngoái rằng con gái ông cần “một người chồng tốt”.
“Sự thực là họ không hiểu rằng con sẽ luôn tha thứ cho cha về việc đã có suy nghĩ như vậy, bởi con biết cha cho rằng cha đang làm mọi thứ tốt nhất cho con.”
Khi đó ông nói lời đề nghị trao tiền cho người đàn ông theo đuổi con gái mình đã khiến ông nhận được nhiều hồi âm từ các chàng trai tiềm năng.
Lá thư của cô Chao, một nữ doanh nhân và là một gương mặt nổi tiếng trong giới thượng lưu, được đăng tải trên ít nhất hai tờ báo Hong Kong.
Trong thư, cô nói cô lấy làm tiếc là mọi người đã nói “những điều thiếu tế nhị” về cha cô.
“Sự thực là họ không hiểu rằng con sẽ luôn tha thứ cho cha về việc đã có suy nghĩ như vậy, bởi con biết cha cho rằng cha đang làm mọi thứ tốt nhất cho con,” cô viết.
“Là con gái của cha, con không muốn gì hơn là khiến cho cha hạnh phúc. Nhưng trong các mối quan hệ, những mong muốn của cha về con và thực tế con là người thế nào lại không kết gắn gì với nhau.”
Cô nói thêm rằng cô không trông đợi cha và bạn tình của mình “trở thành những người bạn tốt”.
Nhưng cô nói “với con, sẽ đáng giá như cả thế giới này nếu cha không kinh sợ cô ấy đến vậy, và đối xử với cô ấy như một con người bình thường, có nhân phẩm”.
“Con xin lỗi vì đã khiến cha hiểu lầm rằng con rơi vào mối quan hệ đồng tính chỉ bởi ở Hong Kong không có đủ những người đàn ông tốt, xứng đáng,” cô viết thêm.
Cô Chao kết thư bằng dòng chữ: “Con gái đầy kiên nhẫn của cha.”
CHIẾC ÁO RÁCH
Một linh sư Ấn giáo rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy anh ta không cần sự dìu dắt của mình nữa, nên ông bỏ mặc anh trong túp lều tranh rách nát bên cạnh bờ sông. Một hôm buổi sáng, khi thức dậy, người đệ tử xuống dòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo rách của mình. Đó là tài sản duy nhất của anh.
Ngày kia, anh nhận ra chiếc áo của mình phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn rách tả tơi. Anh đành phải vào làng xin một chiếc áo khác. Cái áo này cũng bị chuột gặm nát như tương. Anh mới xin về một con mèo. Lần này, anh khỏi phải lo chuột quấy phá. Nhưng không xin áo thì phải xin cơm bánh .Ngày ngày phải vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một gánh nặng cho dân làng. Vì thế, anh tìm cách tậu cho bằng được một con bò để lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh còn tự mình cắt cỏ. Về lâu về dài, anh đành phải thuê người cắt cỏ vì không có thì giờ cầu nguyện. Bò càng ngày càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng.
Chẳng mấy chốc, mảnh đất xung quanh túp lều của anh đã trở thành nông trại. Con người đã một thời muốn bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên làm một chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự, nên anh cũng muốn có người chia sẻ công việc của anh. Anh đành phải cưới vợ.
Khi vị linh sư có dịp về thăm ngôi làng cũ, ông ngạc nhiên vô cùng vì túp lều nghèo nàn bên bờ sông nay đã là cả một cơ nghiệp. Ông hỏi người đệ tử:
-Thế này nghĩa là gì hở con?
Người đệ tử mới trả lời:
– Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu cũng chỉ vì con đã không làm cách nào để giữ được chiếc áo rách!
***
Cám dỗ nào cũng ngọt ngào như mật lôi kéo bầy ong, như hương hoa cuốn hút đàn bướm. Có nhiều thứ săn đuổi chúng ta trong cuộc sống lắm! Bao lâu còn mang bản tính con người, bấy lâu người ta còn thích hưởng thụ, dễ dãi, thoải mái. Con người chỉ có thể thắng vượt cơn cám dỗ khi họ tự biết chính mình. Con người chỉ thực sự khôn ngoan khi biết mình mang thân phận yếu hèn tội lỗi. Người đệ tử của vị linh sự Ấn Giáo ngày càng rời xa nếp sống tu hành vì chính anh chưa một lần nhìn lại bản thân. Có nhìn lại bản thân con người mới thấy mình cần phải hoán cải, canh tân.
Thiên Phúc
THẦY KHÔNG BẢO LÀ BẢY LẦN NHƯNG LÀ BẢY MƯƠI LẦN BẢY!
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
… Trong thông điệp ”Ánh Sáng Đức Tin – Lumen Fidei” Đức Thánh Cha Phanxicô viết: ”Sự hiểu biết Đức Tin thật sự nẩy sinh khi chúng ta nhận được Tình Yêu khôn lường của THIÊN CHÚA làm biến đổi nội tâm chúng ta và trao ban cho chúng ta đôi mắt mới để nhìn rõ thực tại”.
Tình Yêu vô biên của THIÊN CHÚA được biểu lộ qua trăm phương nghìn cách. Chỉ xin nhấn mạnh một khía cạnh nhân hậu lân tuất qua bí tích Giải Tội hay cũng gọi là Bí Tích Hòa Giải. Sau đây là chứng từ của bà Micheline Valay tín hữu Công Giáo người Pháp.
Tôi đang ở tại Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức nơi nhà nguyện Giải Tội. Ngay lối vào đã đặt sẵn các tờ giấy giúp cầu nguyện, suy tư và xét mình. Rồi đến các băng ghế ngồi và sau đó là rải rác rất nhiều tòa giải tội có Linh Mục ngồi sẵn đợi các hối nhân đến xưng thú mọi lỗi lầm. Tôi bước vào nhà nguyện với chút xúc động hồi hộp, gần như đi thụt lùi, muốn quay trở ra. Nhưng tôi đã lấy hẹn, đã quyết định ra đi gặp gỡ CHA trên Trời của tôi rồi mà! Không lẽ bây giờ tôi lại đổi ý, trốn tránh và lui gót! Không thể được! Tôi biết rõ tại sao mình đặt chân đến đây mà! Tôi mang đến đây tất cả những gì ngăn cản tôi sống thực sự, sống chân thành, ngăn cản tôi hít thở không khí trong lành, nhưng lại khó nói với một người nào đó. Sau cùng thì tôi nhất định bước vào nhà nguyện. Tôi vẫn còn hồi hộp và lo âu tự hỏi:
– Mình sẽ gặp vị Linh Mục nào đây?
Bỗng đôi mắt tôi bắt gặp một cái nhìn ưu ái và một nụ cười khoan dung.
Tôi mạnh dạn tiến đến ngồi trước mặt Cha giải tội, y như thể để bắt đầu một cuộc trao đổi đàm thoại thân tình. Bỗng chốc tất cả trở nên thật dễ dàng và tự nhiên. Tôi tiếp nhận tràn đầy sự tiếp đón nồng hậu của vị Linh Mục đang lẳng lặng nghe tôi giải bày mọi tội lỗi. Đúng thật là tôi đang bước vào thế giới Tình Yêu của THIÊN CHÚA là CHA Nhân Hậu. Tôi nói hết. Tôi để thoát ra khỏi tôi tất cả những gì đầu độc tôi, ám ảnh tôi, làm tôi trở nên chai cứng, những gì làm tôi xa cách tình yêu, những gì ngăn cản tôi yêu mến THIÊN CHÚA, yêu thương tha nhân và yêu thương chính tôi. Tôi cảm thấy mình được tiếp đón, được chấp nhận và được yêu thương với trọn con người của tôi gồm các khuyết điểm cũng như ưu điểm. Tôi tìm lại sự tin tưởng và sự chắc chắn rằng tôi không cô đơn. Nhưng nhất là tôi tin tưởng vững chắc rằng, ngay cả khi tôi lại sa ngã phạm tội, tôi vẫn có thể đứng thẳng lên, vẫn có thể ngẩng cao đầu ngước nhìn Trời Cao nơi có THIÊN CHÚA Tình Yêu ngự trị.
Chúng tôi cùng nhau đàm thoại trao đổi lâu thật lâu y như giữa hai người bạn thân. Sau đó vị Linh Mục giơ tay ban phép lành trao ơn xóa tội. Sau khi lãnh bí tích giải tội, tiếp nhận ơn xá giải, tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhàng và cảm nhận một niềm vui bao la. Tôi cảm thấy y như mình được trẻ lại, thật yêu đời yêu sống và yêu tha nhân.
Sau lần xưng tội ấy, tôi muốn nói lớn với mọi người rằng:
– Bạn hãy ra đi gặp Linh Mục và xưng thú tội lỗi. Tôi xin đoan chắc với bạn là bạn sẽ không hối tiếc đâu! Hoàn toàn không!
Liên quan đến bí tích Giải Tội của Giáo Hội Công Giáo, xin trích dẫn một câu chuyện như sau.
Một vị rabbi do thái lão thành thường nói với các tín hữu rằng: mỗi người chúng ta được nối liền với THIÊN CHÚA bằng một sợi dây dài. Và cứ mỗi lần chúng ta phạm một lỗi thì sợi dây bị đứt. Thế nhưng khi chúng ta hối tiếc ăn năn về lỗi lầm đã phạm thì THIÊN CHÚA lại thắt một nút nối lại sợi dây bị đứt. Thành ra, sợi dây lại ngắn hơn trước. Và cũng như thế thì tội nhân lại tiến đến gần THIÊN CHÚA hơn!
Cứ như thế, mỗi lần một lỗi lầm được ăn năn thống hối thì có thêm nút trên sợi dây được thắt lại, và chúng ta dần dần được tiến lại gần THIÊN CHÚA.
Cuối cùng, mỗi một tội lỗi của chúng ta lại trở thành một dịp làm rút ngắn sợi dây nối liền với THIÊN CHÚA và khiến chúng ta tiến nhanh đến gần con tim của THIÊN CHÚA.
Đúng thật rằng: Tất cả là hồng ân! Ngay cả tội lỗi!
… Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Chúa GIÊSU mà hỏi rằng: ”Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Chúa GIÊSU đáp: ”Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” .. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: ”Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên Trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mátthêu 18,21-22 / 32-35).
(”Catho 47”, Bulletin de L’Église Catholique en Lot-et-Garonne, No 86, Novembre 2013, trang VIII-IX)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Tâm Linh Cây Cỏ & Con Người
Nguyễn Mộng Khôi
Giữa thập niên sáu mươi, nhà Bác học Cleve Backster chế ra máy Dò Nói Dối, người Mỹ gọi là Lie Detector hay Polygraph, máy này có thể phát hiện những thay đổi về mạch đập, những bất thường của nhịp thở ..v..v… mà Backster cho rằng do tinh thần căng thẳng, không giữ được bình tĩnh khi người bị thẩm vấn có những điều uẩn khúc, những chuyện muốn dấu diếm. Cơ quan Trung Ương Tình Báo( CIA) dùng Lie Detector để điều tra những nghi can. Họ thấy máy này đem lại kết quả tốt nên năm 1986 Backster được CIA mời ra cộng tác và sau đó được cử làm Giám Ðốc Trường Huấn Luyện Dò Nói Dối và Sở Nghiên Cứu Backster (Polygragh Instruction School and The Backster Research Foundation) ở San Diego California. Từ đó, tên tuổi Ông được nhiều người biết đến, nhưng Ông chỉ thật sự nổi danh và được các khoa học gia thế giới cảm phục khi ông tình cờ tìm ra thảo mộc có tâm linh hay là cây cỏ có khả năng biết được ý định của con người.
Một buổi sáng được nghỉ, Ông ngồi ngắm những chậu hoa, những chậu cây trong nhà, như một nhân duyên, Ông chú ý đến một cây có lá to và dày như lá đa trong một chậu cảnh, đã một tuần không được tưới nước, đất khô, thân cây cũng khô. Ông bổng nẩy ra ý định:
– Thử cắm hai đầu dây của một điện kế(galvanometer) cực nhậy vào cái lá rồi tưới nước vào gốc cây.
Nước dần dần lên thân và lá, nhưng cây kim điện kế vẫn đứng im. Rồi một ý nghỉ khác đến với Ông:
– Hay là thử đốt chiếc lá này xem sao? Ông chỉ mới có ý nghĩ đốt chiếc lá tức thì kim điện kế bỗng nhẩy lên như bị điện dật. Ông tự hỏi, chẳng lẽ Ông nhìn lầm? Chẳng lẽ lá cây đọc được tư tưởng của Ông mà biểu lộ phản ứng sợ hãi hay sao?
Nghĩ như vậy Ông làm thử lần thứ hai. Tay cầm hộp quẹt như sắp sửa đốt chiếc lá, nhưng Backster tự nhủ sẽ không đốt; thì điện kế cũng không nhúc nhích.
Lần thứ ba ông nhất định sẽ đốt chiếc lá. Lúc đó trong phòng lặng gió kim điện kế đột nhiên nhẩy mạnh.
Nhìn chiếc lá bị đốt một phần Backster thấy sung sướng trong lòng vì sự tình cờ mà biết được linh tính lá cây. Sự khám phá này làm Ông thích thú hơn là phát minh ra máy Dò Nói Dối hồi ba thập niên trước. Ông muốn công bố ngay cho mọi người biết. Nhưng Ông kịp ngừng lại, thái độ đúng của nhà khoa học là phải thử nghiệm đầy đủ, khách quan để không đưa tới kết luận sai lầm, thiên kiến và chủ quan… rồi, Ông định phát triển, nghiên cứu sang nhiều loài thảo mộc khác. Có tới 25 loại cây cỏ được nghiên cứu gồm nhiều loại lá, loại quả và loại củ.
Sau những cuộc nghiên cứu thận trọng của Ông và các cộng sự viên. Ông chính thức công bố rằng:
– Cây cỏ có trực giác tâm linh
Chúng không có mắt, tai, mũi, miệng; không có óc; không có thần kinh hệ… thì cái biết của chúng hẳn phải khác với cái biết của con người. Con người có giác quan nhưng không có trực giác tâm linh như chúng. Dù một bác sĩ tâm lý giỏi cũng không biết được ý định của một kẻ điên khùng sắp đốt nhà mình. Suy nghĩ như vậy làm cho Backster phấn khởi Ông mở rộng cơ sở nghiên cứu và càng khám phá ra những điều mới lạ. Từng mảnh lá tách rời cũng phản ứng như nêu ở trên và người ta gọi là Phản Ứng Backster. Nhà Sinh thực vật(biologist) Ingo Swann, theo dõi cuộc nghiên cứu của Backster và viết trong quyển The Real Story(chuyện có thật). Quyển sách được phát hành ngày 15-11-1998 trong đó có đoạn:
– Sự nghiên cứu(của Backster) khởi đầu chỉ là một khám phá hầu như tình cờ vào năm 1996 là thực vật có khả năng nhận thức và tự động đáp ứng những xúc cảm mạnh thuận theo ý chí con người … những cây cỏ của bạn, biết là bạn đang nghĩ gì.(His research started with the 1996 almost accidental rediscovery that plants are sentient and respond to the spontaneous emotions and strongly express intentions of relevant humans… Your plants know what you are thinking).
Phản ứng Backster còn đi sâu xa hơn và cho biết thêm là cây cỏ phản ứng không phải trước những mối nguy do con người tạo ra, mà cả những bất trắc, không tạo ra bằng ý định. Một con chó bất thần bước vào phòng, một người vốn ghét cây cỏ đi tới cũng làm điện kế nhẩy. Những cử động của một con nhện tiến đến, cũng gây phản ứng cho cây. Ông Backster đã làm thí nghiệm và chứng minh những điều đó trước các sinh viên trường Ðại Học Yale(Hoa Kỳ) trong trường hợp trên, một khi có người tới đuổi nhện và ngay trước khi nhện chạy đi kim điện kế đã hạ xuống. Y như là trước khi nhện chạy thì cái quyết định rút lui của nó đã được cây tiếp nhận. Cây đã thấy hết nguy hiểm và không phản ứng nữa.
Một cuộc thí nghiệm khác chứng minh rằng khi sống cạnh nhau, cây để ý canh chừng nhau sợ bị quấy rầy nhưng khi có một động vật tới gần, mối nguy gần hơn cây cỏ quay sang canh chừng động vật.
Những điều còn làm cho chúng ta kinh ngạc là cây có trí nhớ và tình cảm. Chúng nhận biết những kẻ chuyên phá hoại hoặc những người hay chăm sóc chúng. Ông Charles A. Lewis trong quyển Ý Nghĩa Của Cây Cỏ Trong Ðời Sống Chúng Ta(The Meaning of Plants in our Lives) viết:
– Sự say mê nghiên cứu về những liên kết giữa cây cỏ với tâm trí con người mà những tương tác làm tăng thêm hạnh phúc ở ngoại cảnh và môi trường có tác động đến đời sống con người(Fascinating research can lead to enhanced well-being and an appreciation of the environment).
Một gia đình an vui, hạnh phúc, cây cỏ trong nhà cũng tươi tốt. Khi người chăm sóc cây cối, cái tương tác tâm linh giữa Cây và Người làm cho cả hai đều khỏe mạnh hơn. Ðó là lý do tại sao những cây mọc gần nhà thường tốt hơn những cây mọc xa. Vậy chúng ta hãy nâng niu, trân trọng từng cọng cây chiếc lá. Hãy dành một chút thì giờ để chăm sóc cây cỏ và vườn tươi(lawn and garden) sức khỏe chúng ta có thể nhờ đó mà tốt hơn. Ngược lại những người thường xuyên chặt phá cây cối thường gặp điều kém may mắn hay nhuốm bịnh là vì khi cây bị xâm phạm, phản ứng tâm linh yếu ớt của cây đánh vào thủ phạm. Mỗi lần một ít, lâu dần người đốn cây sẽ bị bệnh nặng. Có thể người xưa sống an vui, hạnh phúc vì cái thú Ðiền Viên chăng?
Các nhà sinh thực học thế giới rất hứng thú đang theo dõi công cuộc nghiên cứu của Backster, hiện đã có 7000 nhà bác học yêu cầu Ông thông báo cho biết kết quả nghiên cứu kèm theo các tài liệu khoa học. Những máy móc tối tân hơn được Ông thâu nhận, nhất là những máy ghi các nhịp luồng điện. Và cuộc nghiên cứu được tiến hành với kế hoạch tinh vi, được ghi chép đầy đủ. Các tài liệu được thu thập và xếp loại cẩn thận.
Nếu Backster chứng nghiệm được Tâm Linh Cây Cỏ thì kỹ sư Kirlian đã chụp được hào quang của chúng. Kirlian, tên đầy đủ là Semyon Davidovich Kirlian(1900-1980) sinh tại tỉnh Krasnoda, xứ Amenia nước Nga. Năm 1939 Ông cùng vợ là Valentina đã phát minh ra máy Chụp Hào Quang gọi là Kirlian Electrophotographic Camera(gọi tắt là máy Kirlian). Ông bà này đã áp dụng từ trường của điện vào thuật chụp hình của sinh thực vật (Bio Electrography ). Một tấm ảnh chụp chiếc lá của máy Kirlian hiện ra như một thế giới điểm sáng. Chung quanh nó là hào quang(Corona ). Những tia lửa nhỏ màu ngọc lam, màu da cam, phát ra từ trung tâm và đi xa theo những kinh xác định. Không phải chỉ lá mới có hào quang. Cây càng lớn, càng già, hào quang càng rực rở và Trường Sinh Lực( bio field) càng mạnh. Trường Sinh Lực (TSL) chính là sức mạnh vô hình của thảo mộc. Có những tiều phu vừa đốn xong một đại thụ bỗng lăn đùng ra chết. Có thể người này đã chặt phải một linh mộc có TSL quá mạnh.
Trong tín ngưỡng nhân gian ta, có tục thờ cây đa. Bên gốc đa già, thường có một cái miếu nhỏ, đặt bát hương, những chiếc bình vôi, để hương khói cho Thần Linh. Do kinh nghiệm của cha ông truyền lại thì cây lớn có Thần lớn. cây nhỏ có Thần nhỏ:
– Thần cây đa, ma cây gạo.
Trong kho tàng văn chương bình dân, ta còn thấy những câu tục ngữ xưa, có ý răn đe, những người chặt cây, phá rừng. Ðó là nghề nguy hiểm nhất:
– Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá.
Nhờ sự khám phá về năng lực sinh học và hào quang của thảo mộc. Một số khoa học gia người Nga thực nghiệm rằng, rau cỏ (vegetable) nào có hào quang càng sáng thì càng nhiều bổ dưỡng ẩm thực. Họ nói:
– Hào quang của rau cỏ giảm bớt khi bị nấu chín. Những tấm hình Kirlian cho thấy rau sống có hào quang chói sáng hơn rau luộc. (A Kirlian photogragh of a raw vegetable shows a brighter and more defined corona than a cooked one).
Nhiều bác sĩ Tây Phương gần đây cũng đồng ý và viết thành sách. Họ khuyên chúng ta nên dùng thực phẩm tươi. Một tờ báo ở Thụy sĩ ca ngợi bác sĩ Bircher Benner:
– Bác sĩ Bircher Benner, người đổi mới những bữa ăn điểm tâm không nấu chín thức ăn trong dưỡng đường của ông ở Thụy sĩ. Ông khuyên rằng thức ăn tươi luôn dùng trước bữa ăn đã nấu nướng, Ông tin chắc thức ăn tươi làm kích thích hoạt động điện của tế bào, vì vậy tăng cường sinh lực cũng như toàn bộ tiêu hóa được tốt hơn( DR. Bircher Benner innovator of Swiss Muesli for use in his clinic in Switzerland, advised that raw food always be taken first, before cooked meal. He believed that raw food stimulate the electrical activity of cells thereby enhancing the vitality as well as improving the rohole digestive process)
Ðộng vật cũng có trường sinh lực và tác động mạnh mẽ tới con người. Trong tạp chí y khoa Health Care số 2-2000 có ghi những điều đáng chú ý giữa con người và vật nuôi làm cảnh(Pet) như sau:
– Những người yêu thích súc vật và nuôi làm cảnh trong nhà như: Chó, mèo, chim, cá, gà ..v..v.. thường có sức khỏe tốt hơn và sống lâu hơn. Những bệnh nhân bị áp huyết cao, bệnh đau tim, bệnh trầm cảm(depression) cũng lợi lạc hơn những người không nuôi một động vật nào. Các cuộc thử nghiệm của một số bác sĩ Tâm Bệnh Lý (Psychologist) Mỹ và Úc cho biết số người bị tắc mạch máu đã giảm đi hai lần và số người có chất mỡ (cholesterol) cao trong máu sẽ giảm đi nếu chủ nhà có nuôi vài con pets
Nhóm khoa học gia thuộc viện đại học U. S. C Tiểu Bang California còn đi xa hơn trong lãnh vực nầy. Họ bảo bệnh Alzheimer dường như phục hồi trí nhớ và cả đến nạn nhân của tử thần AIDS cảm thấy lạc quan và tỏ ra yêu đời hơn khi họ được làm chủ một con vật mà họ ưa thích.
– Con người cũng có Trường Tâm Linh, Trường Sinh Lực như thực vật và động vật. Kirlian đã chụp hình bàn tay và ngón tay đều có hào quang, giống như hào quang của chiếc lá. Hào quang nấy bước đầu cho biết về tình trạng sức khỏe của các sinh vật rồi tới tâm trạng của các sinh vật đó. Khi sức khoẻ hoặc tâm trạng thay đổi thì hào quang đó đổi thay theo. Nhiều bác sĩ người Nga khẳng định và viết trong sách Y Học của họ …
Trong quá khứ, hình chụp Kirlian được dùng vào nhiều mục liên quan tới diện mạo, thần sắc của sức khỏe và tâm/ sinh lý. Hình ảnh thật rỏ ràng trong sự tiên đoán những hiện trạng bệnh tật như nhiều hình thức Ung Thư, những bệnh về Bướu, Phong thấp, Xưng khớp Xương, bệnh Thần Kinh, bệnh Suy Nhược v..v… Họ tin chắc hình chụp Kirlian có thể tiên đoán những bệnh từ lúc khởi đầu ngay trước khi có những triệu chứng phát hiện nó là một dụng cụ rất ích lợi để đoán trước bệnh(… Kirlian photograghy has been used in the past for a variety of purpose relating to psycho/physiological aspects of health. It has been clearly shown to be effective in diagnosing conditions such as the various forms of cancer, Cystic, fibrosis, Rheumatoid, Arthritis, Schizophrenia, Depression and Others. It is believed that Kirlian photography can predict the onset of disease prior to symptoms showing, making it a useful tool in early diagnosis)
Một số thống kê mới đây cho thấy rằng, người độc thân mau chết hơn người có gia đình. Ban đầu các nhà y học đánh giá là do vấn đề sinh hoạt tình dục. Nhưng ngay cả những người độc thân có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân cũng vẫn chết sớm. Người ta lại cho rằng khi có gia đình ổn định, con người được chăm sóc tốt hơn nên sức khỏe cải thiện hơn. Thật ra đó chỉ là lý do phụ, lý do chính là tình thương yêu chân thật của vợ chồng đã tạo ra Năng Lực Tâm Linh( hay TSL) làm cho khoẻ hơn.
Những huyệt đạo (sensitive points of body) trong khoa châm cứu (Acupuncture) Ðông y hình như có liên quan đến vùng Không Gian Tâm Linh của con người. Ðến ngày nay Tây y đã công nhận huyệt đạo là có thật. Khi châm cái kim hoặc kích thích vào một huyệt đạo thì nó có tác dụng lên cơ thể. Ðiển hình nhất là Châm (punctuare) gây Tê (numb) trong giải phẩụ Y học Tây Phương phải dùng thuốc tê để làm tê liệt các thần kinh rồi mới mổ xẻ. Các nhà châm cứu Ðông Y chỉ việc châm một số huyệt vào phần cơ thể là họ có thể giải phẩu bình thường. Các tác dụng cụ thể của huyệt đạo buộc các Bác Sĩ Tây Y phải công nhận là có huyệt đạo. Nhưng nó nằm ở đâu thì không ai thấy. Các Bác Sĩ Tây y lấy dao mổ ra, họ không thấy gì ở trong và cũng không thấy một sự liên hệ của Huyệt Ðạo đó với các thần kinh chung quanh, Huyệt Ðạo Hoàn Toàn Không nhưng mà tác dụng của nó thì Có Thật và các huyệt đó nối nhau thành một hệ thống huyệt đạo (Ðường của những huyệt). Trong cơ thể con người có nhiều đường. Ðường Kinh Nhâm đi từ môi dưới xuống trước hậu môn. Ðường Ðốc Kinh đi từ hậu môn tới đỉnh đầu rồi đi về phía môi trên. Còn có Ðường Kinh khác như là Túc Thái Dương, Bàng Quang Kinh.. v..v… những hệ thống kinh Huyệt này chứng tỏ một cách chắc chắn rằng Cơ Thể Nầy Ngoài Cấu Trúc vật Chất, Còn Có Một Cấu Trúc Tâm Linh Vô Hình rất là thật mà qua các Huyệt mình mới hiểu được nó.
Qua những sự nghiên cứu của Backster, Swann, Lewis, Kirlians… chúng ta rút ra một hệ luận, không gian tâm linh tuy vô hình nhưng có tác dụng. Những ý nghĩ thầm kín của chúng ta vẫn lặng lẽ tạo nghiệp. Ðối với những người hiểu luật Nghiệp Báo, hiểu rỏ sức ảnh hưởng của Tư Tưởng và môi trường chung, họ sẽ giữ tâm hồn để không bị nhiễm bẩn bởi các dòng tư tưởng ác trong không gian, đồng thời họ chân thành cầu nguyện cho mọi người đều tốt đẹp, họ thường rải tâm từ bi đến muôn loài, từ con người, con thú đến tận cây cỏ lá hoa.
Nguyễn Mộng Khôi
Thiện Tùng
Trong đời mình chưa bao giờ tôi thấy xã hội ăn gian nói dối như ngày nay. Người ta đặt cho sự gian dối ấy với cái tên ngộ nghĩnh “bịnh thành tích”. Nói chứng bịnh đã có nhiều người, nhưng chưa thấy ai nói rõ xem nó xuất phát từ đâu. Theo tôi nguyên nhân chính từ “thi đua khen thưởng”.
Sau 1975, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, cả nước quản lý xã hội theo kiểu tập trung bao cấp. Tâm lý “Mài sừng cho lắm cũng là trâu”, bịnh lười biếng… xuất hiện ngày càng sâu rộng. Có lẽ từ đó, Trung ương chủ trương các cấp thành lập Ban Thi đua Khen thưởng nhằm kích thích lao động, ổn định kinh tế, xã hội.
Về tâm lý, là con người ai không ham danh lợi – khen là được vinh danh, thưởng là được hưởng lợi. Thế là chủ trương thi đua khen thưởng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với mọi người, ai cũng lao vào, khiến cho thi đua trở thành ganh đua.
Người có tài năng hoàn thành xuất sắc công việc trên giao được khen thưởng chẳng nói mà chi, đàng này bất tài, không hoàn thành trách nhiệm, muốn không bị quở trách, được khen thưởng, không cách nào khác, phải “thêm mắm dặm muối” – báo cáo láo.
Báo cáo láo bị trên phát hiện thì sao? – Ít khi lắm, vì cùng có lợi. Cùng có lợi là sao? – Xin đơn cử, ngành Giáo dục chẳng hạn, trong phong trào “dạy tốt, học tốt”: Lớp tốt Trường mới tốt; Trường tốt Phòng mới tốt; Phòng tốt Sở mới tốt; Sở tốt Bộ mới tốt. Thế rồi, bất chấp nên hư, bằng mọi cách khích lệ nhau, làm cho dưới tốt để mình được tốt, cùng được khen thưởng bất chấp hậu quả.
Chính từ những vụ lợi ấy, nảy sinh “ngành ngành thi đua, người người thi đua, ta nhất định thắng, xã hội nhất định thua”.
Nói thế có chứng cớ gì không? – Sao không! Nhiều lắm, nghe chán chết, xin kể một số việc tôi nghe thấy ở xứ tôi:
1/- Khi phát động phong trào xây dựng ấp + khu phố, xã + phường văn hóa, phường tôi ở trung tâm thành phố, chợ búa, lắm khách vãng lai, người đông san sát, bao hỗn tạp diễn ra hàng ngày. Về mặt văn hóa không có gì nổi trội so với người ta. Có lẽ nhờ “khéo” báo cáo, nó được tỉnh công nhận là phường đầu tiên trong tỉnh đạt chuẩn “Phường văn hóa”. Ngoài được vinh danh, còn cấp bộ bàn ghế hội cho trường, thưởng tiền mở tiệc ăn mừng nhậu mệt nghỉ. Thế rồi từ đó nhân ra diện, cho đến nay, trên phạm vi toàn tỉnh, đi đến đâu đều thấy không phường, xã, cũng khu phố, ấp treo bản văn hóa. Đâu chỉ thế, người ta còn thi nhau cấp giấy chứng nhận gia đình văn hóa cho từng hộ, và còn “sáng kiến” vẽ bản gia đình văn hóa bán cho mỗi hộ treo trước cửa cho oai. Tất nhiên “đạt chuẩn” mới được treo bảng, mới được khen, mới được thưởng tiền mở tiệc ăn mừng,
Một bữa nọ, hẻm chật, nham nhở, tôi dựng xe đầu hẻm vào nhà người thân. Chủ hộ góc hẻm nhắc: “Khóa kỹ coi chừng mất”. Tôi chỉ bảng “khu phố văn hóa” căng trên đầu hẻm, nói đùa: “Mất tôi kiện khu phố trưởng. Đây là khu phố văn hóa mà”. Người ấy nói lại: “Ở đó mà văn hóa! Hở là nó chộp”.
2/- Bữa nọ tôi vào khoa nội cán (khoa nội dành cho cán bộ) thăm bịnh, đến giờ bác sĩ khám và cấp thưốc cho bịnh nhân, tôi và người cùng đi ra băng đá bên ngoài ngồi hút thuốc, bà trưởng khoa nhìn chúng tôi nói: “Các ông hút thuốc ở đây sẽ làm cho chúng tôi mất điểm thi đua!” – Phải chi bà trưởng khoa nói “Hút thuốc ảnh hưởng sức khỏe không chỉ cho riêng mình” thì tốt biết mấy.
3/- Sau bỏ phiếu bầu cử Quốc hội, anh P, đại tá Công an nghỉ hưu, trong Ban Tổ chức bầu cử phường, giám sát tổ bầu cử khu phố 2 đến tôi chơi. Tôi hỏi:
– Kết quả bầu cử tổ ở khu phố mình ra sao?
– Kết thúc trước giờ qui định, tỷ lệ đi bầu đạt 99% – Anh P trả lời.
– Dân ở chợ bận mua bán mà sao giỏi vậy, có bí quyết gì? – Tôi hỏi.
– Xem chú như người trong nhà, tôi nói “bí quyết”: Được phép bỏ thay cho người trong hộ / Cho khui thùng phiếu nhiều đợt – đến trước kiểm trước, đến sau kiểm sau / Họp tổ xử lý liền tại chỗ phiếu trắng, phiếu không hợp lệ chuyển thành hợp lệ, ưu tiên cho những chức danh chủ chốt theo cơ cấu.
– Sao lại làm vậy? – Tôi hỏi.
– Nếu không làm vậy, ngoài bị chê trách, xấu mặt xấu mày, còn mong gì được khen thưởng.
– Trên biết được tới số? – Tôi lo ngại.
– Chẳng cần phải lo, “tốt lá tốt nem”, cùng có lợi mà. Cái chính là phải kín mồm kín miệng, đừng dại “thưa ông con ở lùm này”, v.v.
4/- Bí thư chi bộ ấp 4 xã T rỉ tai tôi: Chi bộ này họp kiểm tra tư cách đảng viên định kỳ (theo tiêu chuẩn 4 tốt), đem từng người ra mổ xẻ, cuối cùng chỉ có 54% đảng viên đạt chuẩn. Khi xem kết quả báo cáo của chúng tôi, Đảng ủy xã không ưng ý, cho người xuống kiểm tra. Qua bước “xào nấu” gia giảm, 88% đảng viên ấp này đạt chuẩn. Thế rồi xã tiếp tục “chiên xào” bằng cách nào đó, đảng bộ xã T có đến 94% đảng viên đạt chuẩn. Thế là đảng bộ xã T được biểu dương “làm tốt công tác xây dựng đảng”. Là bí thư, tôi cảm thấy áy náy về sự thiếu trung thực này, nhưng đành vậy!
Sẽ không công bằng, nếu tôi nói rõ địa danh, tên người…, vì những tệ hại này không chỉ xảy ra ở những nơi đây. Hãy kiểm lại xem, nó lan tràn trên cả nước?!.
Bịnh thành tích là bịnh nói dối. Lừa trên dối dưới trở thành dịch bịnh lan truyền cả nước. Nói dối một cách tự nhiên không chớp mắt, không biết ngượng là gì, nó trở thành nếp sống văn hóa, chưa có thuốc kháng.
Tôi nghĩ: Nên lấy lương làm động lực – chỉ cần trả lương xứng đáng với kết quả lao động. Ai không làm tốt chức phận, công việc… của mình thì cách chức, sa thải. Muốn trị được “bịnh thành tích” tốt nhứt là xóa bỏ chủ trương “thi đua khen thưởng”.
27/01/2013
T. T.