76 Câu Nói Hay

76 Câu Nói Hay

1. Hãy cười lên và cả thế giới sẽ cười cùng bạn, nếu khóc, bạn sẽ phải chỉ khóc một mình.

2. Nếu bạn không thể xây dựng một thành phố thì hãy xây lấy một trái tim hồng.

3. Một người bạn thật sự là người bước vào cuộc sống của bạn khi cả thế giới đã bước ra.

4. Yêu thương cho đi là yêu thương có thể giữ được mãi mãi.

5.Một nụ cười có thể thay đổi một ngày, một cái ôm có thể thay đổi một tuần, một lời nói có thể thay đổi một cuộc sống.

6. Nếu bạn không thể là Mặt Trời thì cũng đừng làm một đám mây.

7. Hãy là một con tem, gắn chặt vào mục tiêu cho tới khi đến đích.

8. Có hai nơi mà không gì là không thể xảy ra : trong giấc mơ và trong tình yêu.

9. Nếu bạn luôn cố để giống một người nào đó, bạn sẽ đánh mất những gì đặc biệt nhất về chính mình.

10. Cuộc sống giống như hoa hồng, vẻ đẹp luôn đi cùng với gai.

11. Chẳng sao cả nếu bạn cố, và cố, và cố nữa, nhưng vẫn thất bại. Nhưng thật tệ hại nếu bạn cố rồi thất bại, và không muốn cố lần nữa.

12. Chỉ khi bạn mở được cánh cửa của lòng tin, bạn mới mở tới cánh cửa của tình bạn.

13. Một tâm hồn không có trí tưởng tượng cũng như một nhà quan sát không có kính thiên văn.

14. Khi bạn có thể cười ngay cả trong thất bại, đó là bạn đã đạt tới thành công thật sự.

15. Mỗi ngày đều là ngày đầu tiên của phần còn lại trong cuộc sống của bạn.

16. Không bao giờ có thang máy đi tới thành công, bạn luôn phải đi cầu thang bộ.

17. Một người thông minh giống như một dòng sông, càng sâu thì càng ít gây ồn ào.

18. Tình yêu là khi chúng ta nhận ra chính mình ở trong một người khác, và tự hào vì điều đó!

19. Bạn trưởng thành không phải khi biết tự chăm lo cho mình, mà là khi bạn có thể chăm lo cho người khác.

20. Tình bạn là một sợi chỉ bằng vàng nối trái tim của cả thế giới.

21. Bạn cần phải đứng vững vì ít nhất một điều gì đó, nếu không, bạn sẽ ngã vì bất kỳ điều gì.

22. Hãy luôn nhớ rằng mỗi người bạn tốt đều đã từng là một người xa lạ.

23. Dù bạn không giỏi nhất, nhưng hãy cố gắng cao nhất.

24. Trái Đất là một con tàu lớn mà không hề có hành khách, tất cả chúng ta đều là thuỷ thủ.

25. Hãy cười như thể không ai đang nhìn bạn, và sống như thể không gì có thể ngăn cản bạn.

26. Chẳng có dấu hiệu nào ghi trên cái kén rằng nó sẽ trở thành một con bướm xinh đẹp.

27. Để vẽ một bức tranh hoàn hảo, nhất thiết bạn sẽ cần một vài màu tối.

28. Lo lắng quá nhiều giống như việc trả nợ mà bạn không biết có vay hay không.

29. Muốn nhìn thấy cầu vồng, bạn phải biết chịu đựng cơn mưa.

30. Nếu bạn muốn thành công, đừng sợ thất bại.

31. Hạnh phúc không tuỳ thuộc vào bạn là ai, bạn làm gì mà tùy thuộc vào bạn nghĩ gì.

32. Cách tốt nhất để có một ý tưởng xuất sắc là có thật nhiều ý tưởng.

33. Trái tim tôi mỉm cười khi bạn bước lại gần và nói “xin chào!”

34. Đôi khi những điều nhỏ bé nhất lại mang đến những điều kỳ diệu nhất.

35. Dũng cảm là vượt qua nỗi sợ hãi chứ không phải không sợ hãi.

36. Cái đầu quá nóng và trái tim quá lạnh không bao giờ giải quyết được việc gì.

37. Thắp nến lên đi, đừng ngồi than vãn trong bóng tối.

38. Tâm trí bạn giống như chiếc ô : chỉ hoạt động khi nó được mở.

39. Hãy để mọi người nhớ mãi nụ cười của bạn.

40. Mỗi cuốn sách là một bức tranh kì diệu về cuộc sống.

41. Bí quyết để có một đôi môi đẹp : hãy nói những lời tử tế.

42. Học tập chỉ mở cửa, bạn phải tự bước qua cánh cửa đó.

43. Thành công lớn nhất là đứng dậy sau mỗi lần bị vấp ngã.

44. Bạn không bao giờ bị đánh bại, cho đến khi bạn tự bỏ cuộc.

45. “Và tôi nhận ra rằng, trong cuộc sống luôn luôn có (ít nhất) một người dõi theo một người bằng cả trái tim, để rồi (có thể) người đó lại dõi theo người khác với tất cả tấm lòng của họ. Nhưng có hề gì, chỉ cần bạn được yêu thương ai đó và “yêu thương vô điều kiện”, cuộc sống sẽ vô cùng ý nghĩa. Và với tôi, thế là đủ!” (Trích từ một truyện ngắn trên báo HHT)

46. Ai yêu mãnh liệt thì ít lời.

47. Đời thay đổi khi chúng ta thay đổi. (Tựa đề một quyển sách rất nổi tiếng của Andrew Matthew.)

48. “Chúng ta sinh ra là để lấp đầy cho nhau. Như những mảnh xếp hình với dáng vẻ kỳ dị, đầy những ưu điểm và khiếm khuyết, sở trường và sở đoản, là vô nghĩa dù hiện hữu, nếu không lấp đầy cho nhau, để tạo nên một thế gian rực rỡ và hoàn hảo.” (Trích từ “Trò chuyện đầu tuần” trên báo HHT.)

49. “Tôi đã luôn tin chắc rằng ai cũng có thể tìm thấy những điều đẹp nhất ở những nơi ít ngờ tới nhất, chỉ cần thật sự để tâm. Và tôi đã đúng.” (HHT)

50. “Bây giờ thì con hiểu, yêu và thương luôn là và phải là một… Yêu thương là khí trời, là nắng ấm giúp cây non lớn lên, em là búp măng non, em lớn lên trong mùa yêu thương… Em biết, an lành và hạnh phúc chỉ có khi em yêu thương.” (HHT)

51. “Hãy năng động, sáng tạo, mơ những gì muốn mơ, làm những gì mình muốn làm, đến những nơi mình muốn đến. Hãy là một phần ý nghĩa của cuộc đời chính bạn và những người xung quanh bạn.” (HHT)

52. Hãy khám phá những điều nhỏ nhoi đang làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Những khoảnh khắc ấy là những hạt vàng trên lối đi toàn sỏi đá… Để ta nhận ra rằng “Cuộc đời là một điều kỳ diệu”. (Trái tim có điều kỳ diệu)

53. Tất cả kho tàng trên trái đất không thể nào so sánh nổi với hạnh phúc gia đình. (Calderon)

54. Một người vĩ đại là một người đã không đánh mất trái tim trẻ thơ của mình. (Mencius)

55. Nơi nào có tình thương yêu, thì nơi đó luôn có những điều kỳ diệu. (Loilla Cather)

56. Yêu thương là cái gì đó vĩnh cửu. (Vincenl Van Gohg)

57. Con cái được giáo dục sẵn nếu chính cha mẹ được giáo dục. (Goethe)

58. Một số người tặng thời gian, một số người tặng tiền, một số tặng kỹ năng tay nghề và mối quan hệ, một số đã hiến máu… Và ai cũng có một thứ gì đó để trao tặng. (Barbara Bush)

59. Lòng yêu thương là điều mà chúng ta có thể mang theo khi chúng ta ra đi, và nó khiến cho giây phút cuối trở nên dễ dàng chịu đựng. (Louisa May Alcott)

60. Tình yêu không có thời hạn, chừng nào trái tim còn đập người ta còn yêu. (Karamzin)

61. Hãy có lòng nhân ái, bởi vì bất kỳ ai bạn gặp đều đang chiến đấu gian khổ hơn bạn. (Plato)

62. Phải yêu bạn vì hạnh phúc thương yêu không vì lợi lộc có thể khai thác được. (La Bruyere)

63. Nguyên nhân chính của các lỗi lầm loài người mắc phải được tìm thấy trong những thành kiến được thu thập từ thời thơ ấu. (Descartes)

64. Tình bạn là nhận thêm niềm vui và chia bớt nỗi buồn. (Thomas Fuller)

65. Đứng sau động từ “yêu thương” thì “giúp đỡ” là động từ đẹp nhất trên thế giới. (Bertha Von Suttner)

66. Có những tình cảm sống suốt cả đời và chỉ chấm dứt cùng với đời sống. (Fosefine)

67. Đừng bao giờ mất kiên nhẫn, đó chính là chiếc chìa khoá cuối cùng mở được cửa. (Saint Exupery)

68. Trong tâm hồn cao thượng tất cả đều cao thượng. (Pascal)

69. Tình thương yêu là một trái cây luôn nở rộ và vừa tầm hái. (Mẹ Teresa)

70. Người lạc quan cho đấy là cái bánh, kẻ bi quan lại thấy đó là cái lỗ tròn.

71. Nhân từ, ngọt ngào là dấu hiệu của tính cao thượng. (Pythagore)

72. Bởi vì ông Trời không thể có mặt ở khắp mọi nơi nên ông mới tạo ra các bà mẹ. (Ngạn ngữ Do Thái)

73. Trong xã giao đừng đổi bạn thành thù mà hãy đổi thù thành bạn. (Pythagore)

74. Cái gì mà chúng ta học được ở tuổi thơ thì luôn còn mãi. (Cerventes)

75. Thực trạng không phải là thứ bạn ao ước có, cũng không phải là thứ mọi người thấy mà là thứ thực sự là như thế. (Robert J. Ringer)

76. Trẻ em : không chỉ là những người bé. Trẻ em thật sự là những con người đặc biệt. Trên đời này không ai giống trẻ em cả. (Adrian Wagner)

From: christophernguyenhoang & Anh chị Thụ Mai gởi

Dược Thảo

Dược Thảo

Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

Dược Thảo đã giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe con người từ nhiều ngàn năm, khi mà y học tây phương chưa xuất hiện. Dược thảo dùng cây thuốc để phòng bệnh và chữa bệnh.

Theo cơ quan Y tế Thế giới, một sản phẩm được coi là  dược thảo khi thành phần chính gồm một bộ phận của thảo mộc nằm ở trên không hoặc ở dưới đất, trong hình dạng nguyên thủy hay sau khi được chế biến. Khi có pha lẫn hoá chất hay khoáng chất thì sản phẩm đó không còn là dược thảo nữa.

Cũng theo cơ quan này, hiện nay có tới 80% dân chúng trên thế giới dùng dược thảo. Kỹ nghệ chế biến dược thảo, bốc thuốc rất phát triển, thịnh vượng, thu vào nhiều chục tỷ mỹ kim.

Riêng tại Hoa Kỳ, vào năm 1998, dân chúng Hoa Kỳ tiêu hơn 4 tỷ mỹ kim để mua các lọai  dược thảo. Từ năm 1990 tới 1997, số người dùng dược thảo tăng 380%, số người đi khám bác sĩ giảm, mà số người đi khám bệnh thầy thuốc không chính thống lại tăng.

Dược thảo được bầy bán khắp nơi, đôi khi ngay cả trong tiệm chuyên bán âu dược. Những môn thuốc của Mẹ Thiên Nhiên như lá, củ, rễ, vỏ, hoa đã mau chóng trở nên phương tiện trị liệu ưa thích của người dân. Họ mua để chữa các bệnh như cảm cúm, đau nhức, tiểu đường, tới bệnh trầm trọng hơn như ung thư các loại, tê liệt tứ chi.

Với cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa kỳ ( FDA ) thì dược thảo được xếp hạng thực phẩm phụ, như đã quy định trong Dietary Supplement Health and Education Act năm 1994. Dược thảo được bầy bán không cần thử nghiệm, nghiên cứu như âu dược, mặc dù dược thảo có tính cách trị bệnh và cũng có tác dụng phụ. Dược thảo không được quảng cáo là có công dụng trị bệnh mà chỉ được nói chung chung về ích lợi của sản phẩm, thí dụ thuốc làm lợi tiểu tiện, bổ gan, tăng cường miễn nhiễm…

Khi thuốc bị coi là không an toàn thì cơ quan này sẽ không cho bầy bán.

Đa số dược thảo hiện có trên thị trường đều được sản xuất theo kinh nghiệm đã dùng hoặc dựa vào những bài thuốc được lưu truyền trong giòng họ và được coi như đáng tin cậy. Vì dược thảo không được cơ quan FDA cấp bằng đặc quyền chế tạo, nên các nhà sản xuất không chịu bỏ vốn cho chi phí nghiên cứu khoa học như âu dược. Ngoài ra còn các vị lương y cổ truyền tiếp tục chẩn mạch, bốc thuốc phục vụ bệnh nhân.

Để đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi cuả dân chúng, chính quyền các quốc gia cũng bắt đầu lưu ý, dành ngân khoản, lập cơ quan nghiên cứu  công dụng và an toàn cuả dược thảo.

Gần đây, viện National Institutes of Health, Hoa Kỳ, đã thành lập một trung tâm nghiên cứu về dược thảo cũng như các phương tiện trị liệu không chính thống, và đã dành nhiều ngân khoản cho việc nghiên cứu này. Đó là do áp lực của người tiêu thụ dược thảo mồi ngày một tăng, vì nhiều lý do như:

-âu dược quá đắt, đôi khi không công hiệu, mà lại có nhiều tác dụng có hại, không muốn;

-dân chúng thích dược thảo có nguồn gốc trực tiếp từ cây cỏ hơn là âu dược hóa chất;

-bất bình với nhóm tài phiệt bao thầu quản trị y tế giới hạn việc sử dụng tây y để kiếm nhiều lợi nhuận.

Năm 2008, Cơ quan Y tế Thế giới cũng lập một ủy ban để phối hợp với các quốc gia ngõ hầu hệ thống hóa và hữu hiệu hóa môn trị bệnh cổ truyền giá trị này.

Một vài đặc điểm về dược thảo.

Trước khi dùng dược thảo để trị bệnh, tưởng cũng nên tìm hiểu một vài dữ kiện về loại thuốc này:

1-Sự an toàn của dược thảo.

Ý kiến chung coi dược thảo an toàn hơn âu dược, ít gây chứng bệnh phụ và rất ít khi gây tai nạn tử vong.

Tuy nhiên dược thảo vẫn là một loại thuốc, khi dùng ta cần cẩn thận, không nên nghĩ vì nó là cây thiên nhiên thì không có hại.

Cam thảo ( licorice ) là một trong những thuốc cây cỏ dùng nhiều nhất trên khắp thế giới để chữa bệnh loét bao tử, ho, suyễn, nhưng nếu dùng lâu ngày, có thể gây cao huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi. Khi mới dùng lần đầu, nên dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần cho tới liều chỉ dẫn bởi nhà sản xuất.

Một thí dụ khác là cà phê, một loại họ thảo ta dùng mỗi buổi sáng để nâng cao tinh thần. Nếu uống hai ly mỗi sáng thì có tác dụng tốt như ý muốn, năm ly là có nhức đầu, nóng nẩy, 15 ly thì bắt đầu thấy ù tai, chóng mặt.

Dược thảo bán trên thị trường không được thử nghiệm về sự tinh khiết và hiệu nghiệm, nên đôi khi có lẫn chất không cần như phấn hoa, phấn lá có thể gây dị ứng hoặc cây thuốc đã bị hư mục.

2-Công hiệu của dược thảo.

Các nhà sản xuất cũng như hơn 4 tỉ người đang dùng dược thảo đều cho là cây thuốc công hiệu trong việc trị bệnh và ngừa bệnh. Đã có nhiều nghiên cứu khoa học hỗ trợ ý kiến này.

Có điều là tác dụng của dược thảo thường từ từ, nhẹ nhàng, cần thời gian lâu để có hiệu quả, do đó tốt trong việc phòng bệnh.

Dược thảo, với nhiều chất thuốc khác nhau, có tác dụng vào nhiều bộ phận cơ thể hơn là âu dược, với một dược chất có tác dụng tập trung vào một số dấu hiệu triệu chứng hoặc một bệnh .

Dược thảo thường không đủ mạnh để trị cấp cứu, nhất là các bệnh do vi khuẩn gây ra, do đó kháng sinh vẫn là thuốc căn bản.

3-Dược thảo không gây ghiền.

Thường thường cây thuốc gây ghiền như cây á phiện, cần sa… không được phép bán công khai tại tiệm thuốc âu dược hay tiệm thuốc thiên nhiên.

Ngoài ra dược thảo không có kích thích tố hay chất chống viêm steroid, nhưng một vài dược thảo có tác dụng hỗ trợ sự sản xuất các chất này trong cơ thể.

4-Nguồn gốc dược thảo.

Theo các nhà sản xuất, thì dược thảo đều do cây cỏ được trồng trong môi trường có kiểm soát, đôi khi không dùng hoá chất diệt sâu bọ, cỏ dại hoặc phân bón nên phẩm chất tốt, thiên nhiên. Nhiều khi cây  mọc hoang cũng được dùng để chế thành thuốc.

5-Chọn lựa dược thảo

Như đã nói ở trên, nhà sản xuất  không cần chứng minh sự an toàn và công hiệu của dược thảo khi tung ra thị trường, mà chỉ khi nào có chuyện xẩy ra thì thuốc đó mới bị bỏ đi.

Tiêu chuẩn bào chế của mỗi nhà sản xuất đều khác nhau, nên tỷ lệ dược liệu đều thay đổi. Tỷ lệ này cũng thay đổi tuỳ theo cây cỏ được trồng ở địa phương nào, được hái vào mùa nào, được tồn trữ ra sao và phần nào ( rễ, thân hay lá ) của cây được xử dụng để chế thuốc.

Những điều này gây khó khăn không ít cho người tiêu thụ khi mua thuốc. Vì thế các nhà sản xuất đã tổ hợp với nhau để thống nhất bào chế.

Khi mua, nên lựa sản phẩm do sự liên kết với các công ty ở Âu châu,  vì thường thường họ có cơ sở nghiên cứu đầy đủ về phân lượng, tinh khiết và công hiệu.

Cũng nên lựa  sản phẩm cũng có nhãn hiệu với chỉ dẫn cách dùng, tác dụng phụ, loại cây cỏ, ngày hết hạn.

Những điều cần lưu ý khi dùng dược thảo,.

Tại Hoa Kỳ, Tây y  được xây dựng trên căn bản sinh hóa học tiến bộ. Cơ quan  Thực Phẩm và Dược Phẩm, với nhiệm vụ điều hợp thực dược phẩm, bảo vệ sức khoẻ con người, thường nhìn dược thảo với con mắt dè dặt, nghiêm khắc. Họ cho là dược thảo không có công dụng trị liệu và nguy hiểm.

Một luật gia than  phiền là hiện giờ có hai chế độ dược phẩm: một chế độ muốn được bầy bán phải chứng minh có công hiệu trị liệu và tuân theo luật lệ; chế độ kia được bán tự do, không cần kê khai giá trị.

Bác sĩ Marcia Angel, Chủ bút tập san Y học uy tín New England Journal of Medecine khẩn khoản kêu nài dân chúng đừng tự chữa bệnh, dùng dược thảo vì thuốc có nhiều thành phần không khai báo được pha thêm vào như chì, thạch tín, rất nguy hiểm.

Còn giáo sư dược khoa nổi danh Varro Tyler  cho là sự nghiên cứu về dược thảo của các quốc gia Âu Châu rất đáng tin cậy, tuy nhiên, độc tính dài hạn của thuốc cần được theo dõi, tác dụng phụ có hại thường được che dấu, giảm thiểu.

Dù vậy, dược thảo vẫn được người dân tiêu thụ, vì niềm tin có bệnh thì vái tứ phương, vì có ngay khi cần, không phải mất công lấy hẹn, ngồi chờ bác sĩ, cũng như  khi gặp trọng bệnh mà Tây Y bó tay. Tuy nhiên cũng nên lưu ý mấy điều để tránh chuyện chẳng lành:

1-  Thông báo cho bác sĩ nếu đang dùng dược thảo để tránh tác dụng không tốt giữa âu dược và thuốc cỏ cây. Không dùng ginkgo biloba (bạch quả ) với thuốc trị đau nhức Aspirin, thuốc ngừa tai biến não Ticlid, Persantine; âu dược trị trầm cảm với St John Wort…

2- Không dùng dược thảo khi mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ, không cho con nhỏ dùng dược thảo vì  ở trẻ em và thai nhi, gan chưa đủ sức vô hiệu hóa độc chất cuả dược thảo. Xin đan cử một thí dụ: khi uống một ly cà phê, người lớn chỉ cần 5 giờ để loại khỏi cơ thể mà con nít cần đến cả 80 giờ.

3- Tuy dược thảo có nguồn gốc thiên nhiên nhưng không thiên nhiên với cơ thể con người. Cho nên  thuốc có thể gây bất lợi khi dùng, nhất là vì thiếu kiểm soát nên thành phần không thống nhất, phẩm chất không tinh khiết, đôi khi pha lẫn chất có hại cho cơ thể.

4- Không nên dùng dược thảo quá dăm tuần lễ vì an toàn dùng dài hạn chưa được chứng minh, cũng như không dùng quá nhiều vì nguy cơ gây độc cho gan và thận. Cũng không nên dùng nhiều dược thảo khác nhau một lúc vì tác dụng tương phản của thuốc.

5- Dược thảo cũng có tác dụng phụ như bạch quả gây xuất huyết; mã hoàng (ephedra ) gây tăng huyết áp, nhức đầu, rối loạn nhịp tim; St John wort làm chóng mặt, mệt mỏi khô miệng , mất định hướng…

Và cuối cùng là không nên quá tin tưởng ở lời quảng cáo, giới thiệu của nhà sản xuất vì những lời này không được cơ quan trách nhiệm xác định giá trị, đồng thời cũng nên tìm hiểu về đặc tính trị liệu của loại dược thảo đang dùng.

Vì sau khi dùng mà “thuốc” không công hiệu hoặc có tác dụng không muốn thì ta còn “kiện tập thể”, để đòi bồi thường. Chứ chẳng lẽ lại “ngậm miệng”, chịu đau.

Đau hơn là mới bị “thiến”

Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

www.bsnguyenyduc.com

http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos

Vùng phòng không mới trên biển Đông?

Vùng phòng không mới trên biển Đông?

Thứ bảy, 1 tháng 2, 2014

Thành phố Tam Sa

Hoa Kỳ hôm 31/01 đưa ra cảnh báo với Trung Quốc về kế hoạch lập vùng nhận dạng phòng không mới (ADIZ) trên biển Đông có thể bao gồm cả vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Phát ngôn viên chính phủ Hoa Kỳ, bà Marie Harf được Bấm South China Morning Post dẫn lời rằng mọi động thái thiết lập ADIZ ở biển Đông sẽ được coi là “hành động khiêu khích và bất hợp tác sẽ làm gia tăng căng thẳng và đặt ra câu hỏi nghiêm túc về cam kết của Trung Quốc trong xử lý các tranh chấp lãnh thổ bằng ngoại giao.”

Theo Bấm Asahi Shimbun của Nhật đưa tin hôm 31/01, vùng nhận dạng mới sẽ gây thêm bất hòa trong khu vực, đặc biệt là đối với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan – các quốc gia cùng tuyên bố chủ quyền đối với lãnh hải trên biển Đông.

“Một số nguồn từ chính phủ Trung Quốc nói với Asahi Shimbun rằng các quan chức ngành không quân đã thảo ra kế hoạch nháp cho vùng ADIZ trong tương lai, mà họ nói rằng ít nhất gồm không phận của quần đảo Hoàng Sa hay Trung Quốc gọi là Tây Sa trong tầm kiểm soát.

“Vùng không phận sẽ bao phủ toàn bộ biển Đông,” Asahi viết.

Tuy nhiên, SCMP dẫn lời một loạt các chuyên gia nội địa cho rằng Bắc Kinh sẽ không đưa ra kế hoạch này.

“Xét theo những tuyên bố chính thức trong mấy tháng gần đây và chiến lược trong khu vực, ít có khả năng Trung Quốc thiết lập một ADIZ ở biển Đông và gây thêm căng thẳng trong khu vực,” ông Shi Yinhong, giáo sư ngành quan hệ quốc tế Đại học Nhân Dân (Renmin University of China) nói.

Ông Jia Qingguo, giáo sư trường Quốc tế Học đại học Bắc Kinh cũng được trích lời rằng nhu cầu thiết lập vùng ADIZ trên biển Đông không cần thiết bằng ở vùng biển Hoa Đông.

Vẫn chưa thấy có phản hồi chính thức từ phía nhà chức trách Trung Quốc.

‘Giàu tài nguyên hơn’

Việt Nam và TQ lập đường dây nóng về hoạt động ngư nghiệp hồi tháng 06/2013

Hồi tháng 11/2013, Trung Quốc đơn phương đưa ra vùng ADIZ trên biển Hoa Đông, buộc các quốc gia có máy bay qua vùng này phải báo cáo lộ trình.

Động tác trên gặp phải phản ứng giận dữ từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc.

Theo Asahi Shimbun thì vùng biển Đông được cho là giàu tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác được hơn biển Hoa Đông.

” Khi Trung Quốc thành lập Vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông, nó sát sườn tới Biển Đông. Nó là phép thử, theo tôi nó còn nguy hiểm hơn cả ‘đường chín khúc’, vì luật hàng không thế giới chặt hơn luật hàng hải rất nhiều.”

Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh “

Bài báo cũng dẫn các nguồn tin từ chính phủ Trung Quốc rằng hai tiêu chí quan trọng được dùng để thiết lập vùng nhận dạng phòng không là đường cơ sở phân chia các lãnh thổ, và tầm kiểm soát hiệu quả của phi cơ và radar quân sự của Trung Quốc.

Hồi tháng Sáu 2013, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gặp người tương nhiệm phía Việt Nam, ông Trương Tấn Sang và cùng lập đường dây nóng giữa lực lượng hải quân hai bên về các hoạt động ngư nghiệp trên biển.

Cuối tháng Một 2014, báo Nhân Dân đăng bài phỏng vấn Thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh nói vùng nhận dạng phòng không của Trung Quốc còn nguy hiểm hơn cả ‘đường chín khúc’ mà Bắc Kinh tự nhận trên Biển Đông.

“Khi Trung Quốc thành lập Vùng nhận dạng phòng không trên biển Hoa Đông, nó sát sườn tới Biển Đông. Nó là phép thử, theo tôi nó còn nguy hiểm hơn cả “đường chín khúc”, vì luật hàng không thế giới chặt hơn luật hàng hải rất nhiều.

“Vào vùng biển quốc tế, anh có thể đăng ký hay không đăng ký, nhưng anh bay qua FIR của nước nào đó thì phải xin phép.

“Thí dụ như bầu trời Việt Nam mà ông đặt “Vùng nhận dạng phòng không” của ông trùm lên trên, tức là máy bay từ Hà Nội đi ra Biển Đông bay vào TP Hồ Chí Minh phải xin phép ông, thì tôi chết! Nguy hiểm thế!”

Tổng thống Obama ‘lạc quan đôi chút’ về triển vọng cải cách di trú

Tổng thống Obama ‘lạc quan đôi chút’ về triển vọng cải cách di trú

Người biểu tình ủng hộ luật cải tổ di trú của Tổng thống Obama tụ tập tại Điện Capitol ở Washington, 10/4/2013

Người biểu tình ủng hộ luật cải tổ di trú của Tổng thống Obama tụ tập tại Điện Capitol ở Washington, 10/4/2013

01.02.2014

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cho biết có thể ông sẽ thỏa hiệp với phe Cộng hòa về luật cải tổ di trú.

Trong hai cuộc phỏng vấn hôm thứ sáu, ông Obama nói rằng ông có thể sẽ không nhất định đòi luật này phải bao gồm một con đường dẫn tới chỗ nhập quốc tịch cho khoảng 11 triệu người đang cư trú bất hợp pháp ở Mỹ.

Ông Obama cho biết như vậy một ngày sau khi các nhân vật lãnh đạo đảng Cộng hòa ở Hạ viện đưa ra một tuyên bố về các nguyên tắc cải tổ di trú, cho phép hàng triệu người lớn ở Mỹ bất hợp pháp thủ đắc qui chế hợp pháp sau khi đóng tiền phạt và các khoản thuế còn thiếu. Kế hoạch của phe Cộng hòa không có một con đường nhập quốc tịch, một việc mà một số nhân vật thuộc phe bảo thủ xem là ân xá.

Tổng thống Obama đã chờ từ năm ngoái để Hạ viện xem xét luật cải tổ di trú sau khi Thượng viện thông qua một dự luật bao gồm con đường nhập quốc tịch phải mất ít nhất 13 năm.

Ông Obama cho biết ông cảm thấy “lạc quan đôi chút” về triển vọng đạt được một thỏa thuận với phe Cộng hòa.

Nhiều người thuộc phe Cộng hòa xem việc thông qua luật cải tổ di trú là một cơ hội để họ lôi cuốn các cử tri người gốc Châu Mỹ La Tinh, là khối người đã dồn phiếu cho ông Obama và đảng Dân chủ trong các cuộc bầu cử năm 2012 và 2008.

 

“Đêm qua ra đứng bờ ao,”

“Đêm qua ra đứng bờ ao,”

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai.”

(Văn Phụng – Đêm Buồn)

(Lc 2: 21)

Nếu bạn và tôi, ta thử tưởng tượng một tình huống trong đó có đấng bậc anh-hùng nọ xuất thân là người Do-thái nay trở về thăm quê nhà vời vợi, bèn “ra đứng bờ ao trông cá, cá lặn trông sao, sao mờ”; thế rồi lại còn cất tiếng hát những câu lạ kỳ, như sau:

“Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ.
Đêm đêm tưởng giải Ngân Hà.
Ngôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn.
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.”

(Văn Phụng – bđd)

Đã “buồn trông chênh-chếch sao Mai”, lại thấy nhớ thứ gì đó, ông bèn ới gọi: “Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ”, nhớ như thế không chỉ mỗi “Ngôi sao Tinh Đẩu” mà thôi, nhưng là nhớ rất nhiều thứ/nhiều chuyện hơn nữa. Nhớ cả chuyện “Tào Khê nước chảy, vẫn còn trơ trơ”, và những chuyện luật lệ căn bản để trở thành người Do-thái chánh hiệu, như nhận định của đấng bậc vị vọng là thày dạy, hôm nào khi giảng giải:

“Ngay từ đầu, thánh Phaolô đã được hai thánh tông đồ hàng đầu là Phêrô và Giacôbê đồng ý về nhiều chuyện; chí ít là chuyện không nên buộc các tân tòng vừa vào Đạo phải qua thủ tục ‘cắt bì’…

Có thể, thánh Giacôbê lúc đầu cũng chọn lập trường thứ hai, tức: người ngoài Đạo muốn trở lại, buộc phải qua thủ tục ‘cắt bì’ vì khi trước họ cũng đâu buộc phải chịu “cắt bì” khi sống chung với người Do-thái cho đến lúc cuối, trước khi vào Đạo…”

“Cả bên trong nội bộ Hội thánh ở Galát cũng như ngang qua các vị trước đây từng gia nhập đoàn/nhóm của thánh Giacôbê, khi đó đã thấy mọi người đều cổ võ lập-trường chủ-trương rằng: tân-tòng nào vừa hồi-hướng trở về, đều phải thông qua tục lệ “cắt bì”, như mọi người. Thế nên, chuyện dễ thấy nhất, là: sự việc ở đây đã đính kết với thói tục địa phương. Nhiều người hẳn sẽ hỏi: nếu ta cổ võ những chuyện như thế, thì tại sao ta lại có thể hội nhập với nền văn hoá sở tại được? Nhiều vị lâu nay từng gây khó khăn hoặc trực tiếp khuấy động ở nhiều vụ –tức các bạn đạo thuộc nhóm Giacôbê- đã đến Galát sau thời gian thánh Phaolô lưu lại nơi đây, lần chót. Họ được coi như tín hữu Đạo Chúa gốc Do-thái-giáo. Các vị chủ trương áp dụng luật Torah khá triệt để, và cả đến tục “cắt bì” cũng như luật ăn đồ cúng kiếng đối với người ngoại giáo vừa trở lại, nữa…”

Vấn đề đặt ra chẳng là chuyện thứ yếu, ít quan trọng. Nhiều vị –nếu không muốn nói là hầu hết- là thành viên của nhóm bạn đạo ở Galát trước đây kính sợ Chúa, tức những người ngoài Đạo nay trở thành dân con Thiên Chúa của Israel, nhưng lại không muốn thành người có gốc Do-thái-giáo vì họ chẳng ưa thích gì tục “cắt bì”, cũng vì thế. Họ là người được thanh tẩy là cốt để dấn thân vào với cộng đoàn dân con của Chúa nhưng lại không muốn chịu phép “cắt bì”, mỗi thế thôi. Hỏi rằng: như thế phải chăng họ vẫn là người ngoài Đạo? Họ có là con cháu Abraham cùng đấng thánh tổ phụ không? Họ có thực sự chung cùng một Giao ước lành thánh với Chúa chứ?” (Xem Lm Kevin O’Shea, Phaolô, Vị thánh của mọi thời, nxb Tôn giáo 2013, tr. 182-188).

Tiếp tục tưởng tượng người hùng Do-thái-giáo nói trên, giống bất kỳ tân-tòng nào vừa mới nhập Đạo Chúa, thời tiên-khởi cũng sẽ tự hỏi xem thói-tục “cắt bì” là gì, mà ghê gớm thế?

Giáo dân tân-tòng hôm nay, có thể sẽ không buộc phải như thế nữa. Nhưng, khi tiếp cận Kinh Sách của Đạo Chúa, hẳn cũng có những lần giáo dân của ta cứ tự hỏi mình/hỏi người những câu, giống dân con nhà Đạo ở Sydney, hỏi “ông” cha ở Tuần Báo The Catholic Weekly những câu tương-tự, như sau:

“Thưa cha,

Con nhớ: khi xưa phụng vụ Đạo mình cũng để ra một ngày đặc biệt như ngày Đầu Năm Dương Lịch để cử hành thánh lễ kính nhớ việc Chúa chịu phép “cắt bì”. Nay, ngày ấy được thay thế bằng lễ “Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”, rất long trọng. Vậy hôm nay, con kính hỏi cha xem lý do tại sao Đạo Công giáo ta từng tổ chức thánh-lễ long trọng là thế, nay lại bỏ, như thể tức là Hội thánh của ta không còn muốn nhắc nhở gì chuyện ấy hết, sao?” (Câu hỏi của một người ở Sydney, biết rất ít về thần học và lịch sử Đạo).

Là thần dân đi Đạo mà lại nói “biết rất ít về thần học và lịch sử Đạo” nhưng nhớ nhiều về phụng vụ vào dạo trước, thì chỉ có thể là dân “ta ru” tức tu ra mà thôi. Nhưng, không sao. Tu ra hay tu vào, cũng vẫn là tu miễn đừng “tu hú” hoặc “tu huyền tù” ở thế giới tục trần, dần dần rời xa Đạo là được. Vậy thì, ta cứ thử nhín chút thì giờ mà xem đấng bậc vị vọng có trọng trách giải đáp thắc mắc của tuần báo trên giải quyết ra sao. Và, giải quyết là giảng giải và nhất quyết rằng:

“Đúng như anh/chị nói, khi xưa vào ngày Đầu Năm Dương Lịch, Hội thánh có thói quen cử hành Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì. Đây là ngày giờ rất thích hợp cho sự kiện xảy ra cách đích thực. Bởi lẽ sự kiện ấy xảy ra đúng một tuần lễ sau khi Chúa sinh ra đời đúng theo luật của tất cả bé trai Do-thái đều phải làm thế và khi ấy bé sẽ được đặt tên như mọi người. Thánh-sử Luca mô tả việc ấy rất rõ như sau:

“Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” (Lc 2: 21)

Việc Chúa chịu phép cắt bì có nguồn gốc và ý nghĩa tuợng-trưng cũng rất hay. Tục lệ này bắt nguồn từ thời tổ phụ Abraham, tức chung quan niên-đại 1900 trước Công nguyên. Sách Sáng Thế Ký có ghi lại sự kiện khi ấy Abraham đã 99 tuổi, được Chúa lập Giao-ước hứa với ông là sẽ cho ông sinh con đàn cháu đống và ban cho đất Canaan làm sở hữu đến mãn đời. Cùng lúc ấy, Ngài đổi tên ông từ Abram thành Abraham (x. Stký 17: 1-8). Ngài còn dạy ông rằng:

“Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì.11 Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với các ngươi.12 Sinh được tám ngày, mọi con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào không thuộc dòng dõi các ngươi.13 Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong nhà cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi, sẽ thành giao ước vĩnh cửu.” (x. Stký 17: 10-13)

Kể từ đó, coi như dấu hiệu của Giáo ước giữa Chúa và loài người, tất cả các bé trai đều phải đem “cắt bì” vào ngày thứ 8 sau khi sanh; và việc này trở thành khuôn khổ để đi vào Giáo ước giống như việc người Kitô-hữu hôm nay lĩnh-nhận ơn thanh tẩy, vậy. Đến thánh Phaolô cũng lấy làm kiêu-hãnh về tục-lệ này của dân Do-thái khi thánh-nhân bảo: tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu”.(Phil 3: 5) Xem như thế, thì “cắt bì” làm cho người Do-thái khác với dân ngoại, tức những người chẳng bao giờ chịu tuân theo tục-lệ này hết.

Vì thế nên, việc Chúa chịu phép “cắt bì” chứng tỏ Ngài là người thật, được sinh ra từ người nữ thuộc giống giòng Do-thái là xứ sở Ngài hạ sinh để cứu vớt họ. Chúa tuyển chọn dân riêng của Ngài như sách Cựu ước đã chứng mình là để chuẩn bị con đường cho Con Một Ngài Nhập thể làm người là Đấng Mêsia đã được xức dầu ngõ hầu giải-thoát mọi người khỏi mọi tội lỗi họ mắc phạm và kiến tạo Giao ước mới với họ một cách dứt khoát.

Việc Chúa chịu phép cắt bì còn có giá trị tượng-trưng rất lớn. Đó là việc Ngài chấp-nhận đổ máu Ngài lần đầu tiên song song với việc tên lính hầu La Mã đã đâm thủng “nương long” Ngài khi Ngài kêu “khát nước” trên thập tự/khổ giá (x. Ga 19: 34). Việc này còn cho thấy trước giòng thanh-tẩy nhờ đó mọi Kitô-hữu cũng được chung phần đi vào với Giao ước của Chúa. Về việc này, thánh Phaolô còn viết thêm, như sau:

“Trong Người, anh em đã được chịu phép cắt bì, không phải phép cắt bì do tay người phàm, nhưng là phép cắt bì của Đức Ki-tô, có sức lột bỏ con người tội lỗi của anh em.12 Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết.(Col 2: 11-12)

Khi Chúa chịu phép cắt bì, Ngài được đặt tên bằng danh-tánh mà thần-sứ đã báo cho cả thánh Giuse (Mt 1: 2) lẫn Đức Mẹ nữa (Lc 1: 31). Danh-tánh Chúa Giêsu có nghĩa: Ngài là Đấng Cứu Thế, cho nên thần-sứ mới báo cho thánh cả Giuse rằng: Trẻ này sẽ được gọi là Giêsu, bởi “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt 1: 21)

Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì khi xưa được cử-hành vào ngày thứ 8 sau Giáng sinh, tức đúng nhất vào ngày 1 tháng Giêng Dương lịch, kể từ các thế kỷ đầu đời. Lễ Giáng Sinh lần đầu được mừng vào ngày 25 tháng Chạp sớm nhất vào thế kỷ thứ 4. Bởi lẽ, ngày 1 tháng Giêng là ngày đầu năm mới của Tây Lịch, nên Lễ mừng dành cho Kitô-hữu khi ấy đụng phải lễ hội của người ngoại giáo cũng mừng cùng một ngày, như người đời vẫn giữ tập-tục này cho đến hôm nay. Theo nghi-thức của người Gals thì Lễ Cắt bì khởi sự được cử hành từ thế kỷ thứ 6 và theo lịch của người sắc tộc Byzantin là vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9. Từ thế kỷ thứ 7 ở Rôma, mọi người ở đây cũng có thói lệ mừng ngày Bát Nhật Giáng Sinh cũng vào dịp ấy.

Dù lễ này được gọi là Lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì, nhưng nội dung phụng vụ thánh lễ lại bao gồm nhiều điều nói đến Đức Mẹ. Cho đến năm 1960, lịch Công giáo La Mã vẫn có thói quen cử hành lễ Chúa Chịu Phép Cắt Bì vào ngày 1 tháng Giêng dương lịch và Bát Nhật Giáng Sinh trong cùng một ngày như thế. Sau lần duyệt xét lịch Đạo từ năm 1960, ngày 1 tháng Giêng được gọi một cách đơn giản là Lễ Bát Nhật Giáng Sinh, thôi. Nhưng cuối cùng thì, theo Lịch Công giáo La Mã ấn hành từ năm 1969, lễ này trở thành Lễ trọng gọi là Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng vẫn được qui chiếu làm Lễ Bát Nhật Giáng Sinh. Điều này phù hợp với sự việc ta cử hành mừng kính vai trò làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ rơi vào đúng Bát Nhật Giáng Sinh, khi ta cử hành Sinh Nhật của Con Thiên Chúa làm người. Và thêm nữa, lễ mừng Tên thánh của Chúa Giêsu được cử hành vào ngày 3 tháng Giêng mỗi năm, như sự thường.” (xem Lm John Flader, The Circumcision of Christ, Question Time, The Catholic Weekly 29/12/2013)

Xem thế thì, “Cắt Bì” hay cắt “da qui đầu” theo cổ lệ của người đi đạo Do-thái-giáo, là như thế. Như thế, tức như thể: mỗi khi gia-nhập nhóm hội/đoàn thể nào đó ở xã-hội, người người đều thấy người gia-nhập buộc phải tuân theo một số qui-định hoặc qui-luật nào đó, cho thuận lợi. Thuận lợi càng nhiều, thì xã-hội ấy/đạo-giáo ấy càng có cơ phát-triển và nổi tiếng.

Tuy nhiên, càng nhiều luật-lệ hoặc càng bó buộc nhiều vào qui-định này khác, thì đạo ấy/xã-hội nọ lại sẽ có cơ bị nhiều người có lập-trường hoặc quyết-tâm đối chọi, rồi từ từ cũng sẽ từ-bỏ hoặc lơ là cả luật-lệ hoặc tục-lệ, giống như thế.

Tương tự như thế, vừa qua, toà thánh La Mã lại đã đề cao cảnh-giác một số tục-lệ được nhiều người ở trời Tây “đổ xô” hoặc rủ rê nhau tìm đến với lý lẽ để duy trì lòng tin/yêu hoặc “lòng đạo” xưa nay vẫn có. Lời cảnh-báo, có ghi rõ như sau:

“Bộ trưởng Thánh Bộ Tín Lý đã cảnh-báo người Công-giáo Hoa-Kỳ về việc các vị này hay tham dự các lễ lạy mừng kính điều mà nhiều người cho rằng Đức Mẹ cũng đã hiện ra ở Medjugorje, xứ Bosnia-Herzegovina.

Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Vigano, sứ thần Toà thánh, có viết cho ngài Ronny Jenkins, Tổng Thư Ký Hội Đồng Giám mục Hoa Kỳ và nhắc nhở ông về chuyện Đức Mẹ hiện ra ở đây lâu nay vẫn chưa được Toà Thánh La Mã xác-chứng coi đó là việc đúng thực.

Sau đó, Đức Tổng Giám Mục Vigano có viết trong thư luân-lưu của ngài những điều như sau: “Hàng giáo sĩ cũng như giáo-dân của ta không được phép tham-dự bất cứ buổi họp mặt, hội-thảo, mừng kính công-khai nào có dụng đích khiến mọi người tin rằng việc Đức Mẹ hiện ra ở nơi đó, là sự việc được Hội thánh công nhận”. Thư nhắc nhở của Đức Tổng Giám Mục Vigano cũng được gửi đến Đức Tổng Giám Mục Gerhard Muller, Chủ Tịch Thánh bộ Tín Lý trong thư ghi rõ: “đến nay chưa có khả năng để cam kết rằng có sự việc Đức Mẹ hiện ra ở đây hoặc Mẹ có mặc-khải điều gì rất siêu nhiên”.

Cùng lúc Toà thánh La Mã nói rằng: các giáo-phận không được phép tổ chức bất cứ cuộc hành-hương nào đến Medjugorje, nhưng vẫn thêm rằng: người Công giáo vẫn có tự do đến thăm thị trấn này và/hoặc đến đó mà nguyện cầu và có điều nữa là: Giáo phận Mostar-Duvno và thủ phủ do các tu sĩ Dòng Phanxicô trông nom vẫn có bổn phận trông nom chăm sóc về mục vụ cho giáo dân ở đây.” (xem Bản tin có tựa đề: Don’t attend Medjudorje meetings, Vatican warns, The Catholic Weekly 17/11/2013 tr. 4)

Hôm nay, bần đạo cũng có dịp “ra đứng bờ ao” nào đó, nhưng không là ao nhà, mà là ao người mãi tận xứ Ba-Tư cứ suy-tư rất ư là vô tư-lự rất nhiều giờ về câu nói của cụ hướng-dẫn-viên du lịch người Iran đã nói trong lúc diễn-giải lịch-sử của đất nước từng được gọi là “ngàn đêm lẻ xứ Ba-Tư” rằng: phụng-vụ trong Đạo Công-giáo ta cũng đã vay mượn một số tập tục của đạo thờ thần lửa khi xưa gọi la Zoroastrian…”

Tiếc một điều, là vị ấy không đan-cử trường hợp nào làm chứng-cứ hỗ trợ lời khẳng định của mình. Nay, khi ra đứng bờ ao của xứ lạ quê người, bần đạo lại cũng nhớ có lần bậc thày dạy Kinh thánh từng nói Khi xưa các bậc thánh-sử của Đạo mình khi viết Kinh-thánh cũng có đưa một vài tập tục dân gian ở đời vào bài viết của mình. Và sau này, Hội thánh dùng đó đưa vào Cựu Ước và một số vào Tân-ước. Lại rất tiếc, hôm ấy cha giáo Kinh thánh Nguyễn Thế Thuấn không nói rõ đọan ấy là đọan nào.

Nay suy nghĩ nhiều bên bờ ao, hôm nào, bần đạo đây lại quay về bài ca trên mà hát thêm:

“Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá, cá lặn trông sao, sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai

Buồn trông chênh chếch sao Mai

Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ.”

(Văn Phụng – bđd)

“Trông cá, cá lặn; trông sao, sao mờ” chắc chắn không phải là và cũng không giống như câu nói của ai đó vẫn cứ bảo mình “trông gà hóa quốc”. Hôm nay đây, bần đạo cũng đã trông và thấy, một bài thơ rất “mờ mờ” của ai đó, có giòng chữ như sau:

“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui.

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi.

Lợi danh như bong mây chìm nổi.

Chỉ có tình thương để lại đời.

Còn gặp nhau thì hãy cứ thương.

Tình người muôn thuở vẫn còn còn vương.

Chắt chiu một chút tình thương ấy.

Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường…”

(x. thơ Tôn Nữ Hỷ Khương tìm gặp trên điện thư và trang mạng, ở đâu đó)

Bần đạo nhớ: bài thơ trên cứ ghi thêm các câu có những vận như: “hãy cứ chơi”, “hãy cứ cười”, “hãy cứ chào”, “hãy cứ say” và “hãy cứ đi” … để rồi người luận thơ kết luận bằng một ý nghĩ vẫn cứ bảo: “Khi vui, luôn có nhau trong tình tri kỷ. Lúc buồn, cũng có nhau trong tình thương ái tương thân, nói với nhau những lời yêu thương dịu ngọt, cho nhau những nụ cười, những niềm vui, những ngọt bùi, để khi theo quy luật tự-nhiên, luật vô thường, mọi vật đều có thể mất đi, thì “chỉ có Tình Thương để lại đời”… (người luận thơ ký tên: GS TS Trần Văn Khê)

Trong giòng chảy suy tư giống như thế, bần đạo lại bắt gặp câu truyện của ai đó có nhan đề “Họa và Phúc” do bạn bè gửi đến, như sau:

“Có một vị quốc vương, khi ra ngoài đi săn không may bị đứt một ngón tay, mới hỏi vị đại-thần thân-cận nên làm thế nào? Đại-thần nói với giọng lạc-quan nhẹ nhõm: Đây là việc tốt! Quốc vương nghe vậy giận lắm, trách ông hí-hửng khi thấy người khác gặp nạn, vì thế ra lệnh nhốt ông vào đại lao.

Một năm sau, quốc vương lại ra ngoài đi săn, bị thổ-dân bắt sống, trói vào đàn tế, chuẩn bị tế thần. Thấy phù-thủy đột nhiên phát hiện quốc vương khuyết mất một ngón tay, cho rằng đây là vật tế-thần không hoàn chỉnh, bèn thả quốc-vương ra, thay vào đó lấy viên đại-thần tùy-tùng làm vật hiến-tế.

Trong niềm vui thoát nạn, quốc vương nghĩ tới viên đại thần vui vẻ từng nói rằng: mất ngón tay là việc tốt, liền ra lệnh thả ông, và xin lỗi vì đã vô cớ bắt ông chịu nạn một năm trong ngục tối. Vị đại thần này vẫn lạc quan nói: “Cái họa một năm ngồi tù cũng là việc tốt, nếu như tôi không ngồi tù, thì thử nghĩ vị đại thần theo người đi săn mà bị lên đàn hiến tế kia sẽ là ai?

Bởi vậy, việc tốt chưa chắc đã tốt hòan tòan, việc xấu cũng chưa chắc xấu hoàn toàn. Mọi việc trên đời đều có thể trở thành tốt xấu. Người bi quan mãi mãi nghĩ đến mình chỉ còn một triệu đồng mà buồn lo; người lạc quan vẫn cảm thấy hạnh phúc vì mình vẫn còn mười ngàn đồng…”

Họa là gốc của Phúc. Phúc là gốc của Họa. Họa-Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái kết quả của nó. Hai điều Họa-Phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được Phúc thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái Họa sẽ đến, khi gặp điều Họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh-thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên cần giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm, trong cuộc sống…” (trích bài viết của một người không ký tên, trên mạng về “Họa & Phúc”)

Bần đạo đây, nay trích dẫn đôi điều ở trên là để phiếm khi gặp vấn đề này khác, như: “cắt bì”, “tri kỷ”, “họa-phúc” xuất hiện ở bài thơ, bài báo lẫn câu nhạc đây đó giúp mình có được những suy nghĩ cho riêng mình. Rồi từ đó, hiên ngang sống đời còn lại để cùng với bạn đạo khác thực hiện một vài động-tác gọi là “tái rao giảng Phúc Âm” theo cương vị của mọi người như đề nghị của Đức đương kim Giáo Hòang mới đây từng đề xuất.

Nghĩ thế rồi, bần đạo bắt chước người nghệ sĩ trên, dù có hát như sau, nhưng không buồn:

“Đêm qua ra đứng bờ ao,

Trông cá,cá lặn; trông sao, sao buồn.

Buồn trông con nhện giăng tơ,

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai.”

(Văn Phụng – bđd)

Những mong rằng: mối nhện ấy không là mối tơ vương của nhện buồn, nhưng lại là mối nhện rất thân thương của tình thương yêu trầm lắng, vẫn cứ giăng.

Trần Ngọc Mười Hai

Dám học hỏi nhiều điều

Từ chú nhện giăng tơ

Lẫn mạng lưới tình thương

Vẫn đang chờ.

Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên năm A 09.02.2014

“Hoa cười nguyệt rọi, cửa lồng gương,”

Lạ cảnh buồn thêm, nỗi vấn vương.”

(dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 5 13-16

Với nhà thơ, nay cứ vấn vương một nỗi như hoa cười, nguyệt rọi, cửa lồng gương. Với nhà Đạo, xưa cũng vương vấn nhiều tình đầy hạnh phúc rất “8 mối”, được thánh-sử diễn tả ở trình-thuật.

Trình-thuật về “phúc hạnh 8 mối” hay “Hiến Chương Nước Trời”, thật ra không là lời Chúa đã nói thế, mà chỉ là lối hành văn đặc-biệt mà thánh Mát-thêu đã diễn-tả và như đường lối sáng-tác kiểu Do thái, vào thời đó. Văn-chương thời đó cốt đưa ra cho người đọc hiểu theo kiểu “bánh mì xắt lát nhiều lớp, xếp bắt chéo”. Lát đầu song song với lát cuối và lát thứ hai song song với lát áp chót, cứ thế diễn tả cách thoải mái, ý nhị. Rõ ràng là, cung cách viết lách theo kiểu này cứ xếp lớp chòng chéo nhau, chuyển thông-điệp thật rất đẹp.

Trình thuật, nay thánh Mát-thêu diễn-tả ở đoạn đầu, vào lúc Chúa cất bước lên đồi cao có chúng dân cứ thế kéo nhau đi theo; và đoạn cuối trình-thuật, lại mô-tả Chúa xuống đồi, cũng có chúng dân đi theo Ngài, rất lũ lượt. Các đoạn tiếp theo sau, thánh-sử đề-cập đến 9 mối phúc hạnh. Và, đoạn chót nhắc nhở những 3 lời rất cảnh-báo: các “lát bánh” mô-tả ở giữa bài, bàn việc thực-thi luật Torah và chuyện các ngôn-sứ thời buổi trước theo cung-cách cũng diễn-tả theo cách “tượng thanh tượng hình”, giống như thế.

Trọng tâm trình-thuật, nay thánh-sử cốt bàn về luật chính-yếu ở thời đó, như: cấm giết người, chớ ngoại tình hoặc đừng ly dị, cùng một số hành-xử khác như: thề độc, hoặc trừng phạt cùng đòi hỏi phải yêu thương cả đến kẻ thù mình, nữa. Điều này tương-xứng với yêu-cầu ở phần cuối của điều luật, là: làm cách nào xử lý tiền bạc/tài sản cho tốt đẹp và làm sao liên-hệ mật-thiết với bà con họ hàng, chốn thôn làng.

Phần giữa trình-thuật, tác-giả Mát-thêu càng đi dần vào cốt-lõi của “Hiến Chương Nước Trời”, tức: bàn về bổn-phận phải bố thí, nguyện cầu và kiêng khem. Điều, làm cho trình-thuật thánh Mát-thêu khác với thánh Luca và/hoặc các thánh-sử khác, là tác giả Mát-thêu lại đã chêm vào bản-văn mình viết “Kinh Lạy Cha” Chúa truyền-dạy như trọng-tâm mọi động-tác nguyện cầu nội-tâm; và đặc biệt là quyết-tâm tha-thứ hết mọi người.

Có thể nói, toàn-bộ công việc cải-tân luật Torah do Đức-Chúa-là-Môsê-Mới trên núi thánh, là nội-dung chính được nhắm đến trong “Kinh Lạy Cha”. Nội dung kinh này, tỏ cho thấy quan-hệ huyền-nhiệm Cha-Con rất tốt đẹp của Thiên-Chúa. Sự việc này, tăng dần với bổn phận tiên-quyết của người biết “cảm kích” quà tặng khó lường, do Cha ban. Lời kinh tập trung vào tương-quan xã-hội cũng như nhu-cầu tha-thứ hết mọi người; đồng thời, chấp-nhận sự thứ-tha của người khác. Tất cả, đã trở-thành điều quan-trọng đối với hành-xử căn bản là chúc-tụng/ngợi ca và cảm tạ Chúa phú ban món quà quí già, làm con Ngài.

Vào Mùa Chay, Hội-thánh thiết-lập nghi-thức “Khai-tâm Lòng đạo” là cốt tăng-cường ý-nghĩa quà tặng Chúa ban như nhiệm-tích thánh-thiêng đưa vào cử-hành ở Lễ Vọng Phục Sinh. Sở dĩ “Kinh Lạy Cha” đặt vào phụng-vụ của buổi ấy, là để chuẩn-bị cho những ai chấp-thuận “khai tâm lòng đạo” biết nhận ra quà của Chúa rất quí giá. Hiến Chương Nước Trời ở trình-thuật thánh Mát-thêu diễn tả giúp ta hiểu được sự việc canh-cải gồm tóm ý-nghĩa và kinh-nghiệm quí giá của quà tặng, còn nhiều hơn.

Đàng khác, tư-duy ý-nghĩa của “8 mối phúc-hạnh” nơi Hiến Chương Nước Trời, còn là suy-tư về toàn-bộ ý nghĩa rút ra từ nơi đó. Đây, là ý-nghĩa Lề-luật mà người Do-thái từng tuân-thủ rất nhiều năm ta có thói quen gọi là “Luật Torah”.

Cụm từ “Torah” ta nghe biết cũng nhiều, thật ra, là phần đầu của Kinh Thánh Do-thái và là Sách Cựu Ước dành cho mọi Kitô-hữu, tức gồm các sách: Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số vá Đệ Nhị Luật. Các bậc thức-giả vẫn gọi đó là Sách Ngũ Thư, tức đầu đuôi 5 cuốn Kinh Sách do Môsê lập. Các điều-luật ghi ở Ngũ Thư được viết trên “chỉ cảo” duy-nhất, tức: văn-bản chính-thức được thiết-lập ngay từ đầu. Đây là Sách Thánh “tiên khởi” của Do-Thái-giáo lẫn Đạo Chúa. Người Do-thái trân-trọng Sách này với tất cả niềm vui như trọn vẹn tài sản của riêng mình.

Cụm-từ “Torah” được mọi người hiểu theo nghĩa “lề-luật của Do-thái”. Quả là, sách Ngũ Thư bao gồm rất nhiều điều-khoản, chẳng hạn như: 10 điều răn-dạy, tuyển-tập luật-pháp và một số qui-định đặc-biệt dành riêng cho người Do-thái mà thôi như: tục cắt bì, thừa kế, vv… gồm tóm nhiều truyện kể, ghi ở trong đó. Lâu nay, ta vẫn gọi đó là: “Lề-luật Do-thái”, nhưng đó không là văn-bản được chuyển-vận từ sách ghi rõ luật Torah cho người Do-thái, như đa số nhiều người vẫn hiểu thế mỗi khi nói đến Ngũ Thư, tức: sách đề-cập mỗi luật và luật, thôi.

Thật ra thì, “Torah” chỉ có nghĩa như: chỉ-thị hoặc giáo-huấn mà người Do-thái muốn mọi người chú tâm như qui-định do cha ông để lại và là luật-lệ do cha mẹ đề ra, tựa Châm ngôn 18 ở Cựu Ước. Giáo huấn rút từ Luật Torah, mang nhiều ý-nghĩa hơn các điều-luật cần được áp-dụng cách triệt-để. Đó là chỉ-dẫn giúp ta học cách quan-hệ với Chúa, và đi vào thế giới của Ngài. Có điều hay, là: ngay phần đầu Luật Torah là sách Sáng Thế Ký, lại không thấy bất cứ điều-khoản nào nói về luật-pháp mà chỉ là truyện kể, thế thôi.

“Torah” tiếng Hipri xuất tự cụm-từ Hy Lạp “nomos”, diễn tả quan-hệ ta có với Chúa, nhưng không là điều mọi người ưa thích. Chính Luther, là người đầu tiên trong Đạo đã trích-dịch cụm-từ ấy thành “điều luật” và đưa vào văn-bản Kinh-thánh cùng nền thần-học chính-mạch. Nói chung, ông muốn nói lên phản-ứng của người đi Đạo đối với hệ-thống luật-lệ rất chi tiết mà ông thấy đầy nơi cuộc sống của người Công-giáo, vào thời ấy.

Kinh thánh Do thái, ở sách cuối như: Ezra, Nêhêmiah, Ký sự 1 và 2 lại thấy có câu “Torah của Đức Chúa” như mặc-khải thánh-thiêng do Môsê điều-nghiên suy-tư. Cứ thế, “Torah” trở-thành Luật truyền-khẩu do Chúa nói cho ta biết, rồi dần dà, ta coi đó như luật viết thành văn. Tuy nhiên, bản-văn Torah viết bằng chữ, tự nó không đứng vững, nhưng được bao- bọc bằng các khoản luật truyền-khẩu, có diễn giải.

Nói chung thì, “Torah” là đường-lối giúp ta sống đúng cách; đúng phong-tục/luật-lệ của người Do-thái từ trước đến nay. Tầm-suy nguồn-gốc tiếng Do-thái, người đọc thấy: tiếng ấy có nghĩa như “Mũi tên bắn” đánh thẳng vào mục tiêu, rất trúng đích. Như, Thánh vịnh 119 có đoạn viết rất rõ:

“Luật pháp Ngài, lạy Chúa, con yêu chuộng dường bao, suốt ngày cứ suy đi gẫm lại! Mệnh lệnh Chúa làm con khôn hơn địch thủ, vì con hằng ấp ủ mệnh lệnh đó trong lòng “(Tv 119: 97-98)

Cũng tựa hồ sự việc người Công giáo lâu nay cất-giữ Mình Chúa ở “Nhà Tạm” thế nào, thì người Do-thái khi xưa cũng lưu-trữ Luật Torah trong “Khám” ở hội-đường, hệt như thế.

Với thánh Mát-thêu, “Torah-Mới” không là văn-bản giảng về Lề-luật hoặc Tin Mừng viết thành sách, cũng chẳng là bộ sưu-tập gồm mọi ký-ức truyền-tụng qua cửa miệng, cũng chẳng là truyền-thuyết hoặc truyện kể rất “đáng nể”, nhưng là chính Chúa bằng xương bằng thịt, được ban cho ta.

Thánh Mát-thêu ưa gọi Tin Mừng mình viết như “Sáng Thế Ký” mới của Đạo. Thật ra thì, Sáng Thế Ký ở Kinh-Sách là văn-bản cuối thêm vào Luật Torah theo cách hiểu này khác, đây lại là thành-tựu của bộ luật được người Do-thái xưa nay trân trọng. Đó cũng là truyện kể về cách sống của nhân loại, trong đó có phần khai-thác rất lan man, tản mạn nguy không kém. Thêm vào đó, là: đoản-văn ngẫu-hứng về tự-do và lý-sự gồm một số truyện xung-khắc nam/nữ, và/hoặc nền tảng gia-đình, tương lai nhân-loại; có sự chết, có nét đẹp và các anh-hùng-ca cùng truyện cám dỗ, có công bằng chính trực của giao ước và lề-luật, nữa.

Nói cho cùng, đây là văn-bản/truyện kể của con người về giai-đoạn chuyển từ di-sản tổ-tiên và lòng sùng-kính rất Đạo vào tình huống hy-vọng. Sáng Thế Ký có đoạn nói rõ: Đức Chúa là Đấng Tạo Thành Trời Đất, Ngài để mọi sự cứ thế xảy ra và biến mọi hỗn-độn thành trật-tự. Con người, đặc biệt là nữ-giới, lại được Tạo-hóa chăm-nom đặc-biệt và được ở chốn rất cao của cuộc sống, cũng rất thánh. Nói cho cùng, Sáng Thế Ký còn là truyện tình-tứ rất triệt-để và tích-cực.

Thánh Mát-thêu từng nắm rõ điều đó, nên đã tuyển-chọn các truyện kể tiêu-biểu và còn tiến xa hơn. Mở đầu Tin Mừng mình, tác-giả Mát-thêu đã sử-dụng những câu như: “Sách Cội Nguồn” về gia phả của Đức Giêsu như sau…” Rõ ràng là, với thánh Mát-thêu, Đức Giêsu là “Torah-Mới và Chung Cuộc”, tức: ý-nghĩa mới-mẻ và kết-cuộc của một Khởi-Đầu Mới” của nhân-loại khi Ngài chấp-nhận thân-phận làm Con Thiên Chúa-là-Cha-và-là-Tình-Yêu, rất thực.

Cùng một cảm-nghiệm với thánh-sử như thế, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, mà rằng:

“Hoa cười nguyệt rọi, cửa lồng gương;

Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương.

Tha thướt liễu in hồ gợn bong,

Hững hờ mai thoảng, gió đưa hương.”

(Hàn Mặc Tử – Bài Cửa Sổ Đêm Khuya)

Đêm khuya cửa sổ, mở ra chân trời mới. Chân trời của Chúa, vẫn là 8 mối hoặc 10 mối rất phúc thật, nơi đời thực của mọi người.

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch

CON PHẢI LÀM GÌ?

CON PHẢI LÀM GÌ?

Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.  Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.  Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống, để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.  Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3), Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo, bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).

Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.  Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.  Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước, thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).  Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt, thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).  Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối, thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).  Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.

Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:  “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?  Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).  Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.  Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.  Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.

“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).  Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.  Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa, anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.  Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.  Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.  Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.

Đa-mát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô, là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại, và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.  Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.  Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.  Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông. “Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).  Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai. “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).

Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô: ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.  Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình, và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.

Lm Nguyễn Cao Siêu

***********************************

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ cõi chết đến sự sống,

từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ thất vọng đến hy vọng,

từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ ghen ghét đến yêu thương,

từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an

trong trái tim chúng con,

trong thế giới chúng con,

trong vũ trụ chúng con.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…

Song Chi

Ngay sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc chưa được bao lâu, khi “phe thắng cuộc” còn đang ngây ngất trong “hào quang chiến thắng” và thế giới còn đang nhìn vào đảng cộng sản Việt Nam với ít nhiều khâm phục thì người dân, chủ yếu là từ miền Nam, bắt đầu ồ ạt bỏ nước ra đi…

Mặt trái của tấm huy chương lộ ra dần dần theo những thông tin, hình ảnh về những thuyền nhân bị hãm hiếp, bị cướp bóc tàn nhẫn hay vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển sâu trong quá trình trốn chạy đi tìm bến bờ tự do, được đăng tải rộng rãi…

Cô Phạm Thị Trúc quê huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, lấy chồng Nam Hàn chết bất thường tại nhà chồng ở Busan hồi tháng Tư, 2013.
Một trong những cuộc di dân lớn nhất trong thế kỷ XX bắt đầu và kéo dài nhiều năm sau đó.
Ðiều đáng nói là cho mãi đến bây giờ, gần 40 năm sau, người Việt vẫn đang tiếp tục tìm đường ra đi, bằng cách này cách khác.
Người nghèo thì chủ yếu đi bằng con đường bán sức lao động, dưới danh nghĩa đi lao động hợp tác, còn gọi là “xuất khẩu lao động” – một trong những khái niệm mới có dưới chế độ ưu việt của đảng ta.
Cách làm này đã đem lại cho nhà nước Việt Nam một món ngoại tệ không nhỏ hàng năm, cộng với số tiền của kiều bào gửi về, khiến Việt Nam mấy năm gần đây liên tục lọt vào danh sách các quốc gia có lượng kiều hối cao trên thế giới. Thực chất, đây là nạn buôn người một cách công khai và Việt Nam cũng đã bị nhiều tổ chức nhân quyền trên thế giới cảnh báo về điều này.
Người viết bài này đã từng tiếp xúc, trò chuyện với nhiều người đi xuất khẩu lao động tại một số quốc gia ở Ðông Âu như Ðức, Tiệp Khắc, Ba Lan… Hầu hết đều phải cầm cố ruộng vườn nhà cửa, vay nợ ngân hàng để có tiền đóng cho các công ty môi giới lao động. Vì vậy khi sang đến nơi họ phải “cày” ngày “cày” đêm, ăn uống sinh hoạt hết sức tằn tiện, vừa dành tiền trả nợ, nuôi gia đình, tiết kiệm mong để dành được chút vốn sau này về nước làm ăn.
Dù làm việc vất vả, sống eo hẹp nhưng vẫn còn là… may mắn. Cực khổ, rủi ro hơn nhiều là những người đi sang nước khác bằng hộ chiếu du lịch rồi ở lại làm lao động “chui”.
Chẳng hạn, có rất nhiều người đi du lịch sang Nga rồi nhờ đường dây đưa sang Ðức sang Tiệp, đi đường bộ, đường rừng. Biết bao nhiêu hiểm nguy bất trắc rình rập, còn với phụ nữ thì khó mà thoát khỏi nạn bị cưỡng hiếp dọc đường, không phải chỉ một lần.
Vì không có giấy tờ, họ chỉ có thể làm việc cho những người chủ Việt, bị bóc lột nặng nề trong những điều kiện vô cùng tồi tệ mà không kêu cứu được ai.
Ðôi khi chúng ta lại đọc thấy tin tức như một xưởng may ở Nga bị cháy (tháng 9 năm 2012), nhiều công nhân Việt Nam bị chết, hóa ra đó là một xưởng may hoạt động bất hợp pháp và các công nhân có thể đã bị đưa đi xuất khẩu lao động “chui”. Hay “một người Việt ở Nga bị bắt vì sử dụng 700 lao động Việt như nô lệ” (Vietinfo). “Cảnh báo rủi ro lao động Việt Nam đi làm việc chui ở Philippines” (Báo mới), “Góc khuất về người lao động Việt Nam ở Angola” (VOV)…
Ngay các nước Bắc Âu như Na Uy, Ðan Mạch, Thụy Ðiển… bây giờ cũng có nhiều người đi du lịch rồi ở lại. Nhiều cặp vợ chồng bỏ lại con nhỏ cho ông bà nội ngoại nuôi, biền biệt làm ăn cả chục năm chưa về nước là chuyện bình thường!
Liều lĩnh hơn nữa, mới đây báo chí Việt Nam đưa tin nhiều người đi du lịch theo tour rồi bỏ trốn, chấp nhận vứt luôn cả hộ chiếu, sống hoàn toàn không giấy tờ trên nước người. (“Khắp nơi cảnh giác du khách Việt: xuất ngoại rồi bỏ trốn,” VietNamNet.)
Tất cả cũng chỉ vì quê hương không còn là “chùm khế ngọt” nên con người phải tha hương nhọc nhằn kiếm sống.
Nhiều cô gái trẻ ở nông thôn, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long thì chọn con đường đổi đời bằng những cuộc hôn nhân thông qua các tổ chức môi giới, với những người chồng đến từ Ðài Loan, Hàn Quốc.
Những cuộc hôn nhân vội vàng chớp nhoáng, lệch pha, mà bản thân các cô gái và gia đình chỉ nhận được một món tiền rẻ mạt, đa phần không tìm được hạnh phúc. Thậm chí kết thúc bằng cái chết.
Từ chuyện một cô dâu Việt mới bước qua tuổi 20 chưa lâu (sinh năm 1993) bị người chồng Hàn Quốc bóp cổ đến chết mới đây, báo Dân Trí có bài “Sự sỉ nhục nhìn từ những cô dâu Việt bị giết.”
Bởi đây không phải là lần đầu tiên, các bậc cha mẹ khi tiễn con gái đi lấy chồng xa cứ nghĩ là đời con mình sẽ sung sướng vì được lấy chồng “ngoại”, chẳng bao lâu sau đã phải đón con về trong những bình tro cốt giá lạnh. Những cái chết tức tưởi, bị đánh, bị đâm, hay quẫn trí quá mà nhảy lầu tự sát ôm theo con…
Vậy mà theo bài báo: “Phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc, Ðài Loan bị đánh đập, hành hạ, bị giết, nhưng tỉ lệ thấp hơn và ít rủi ro hơn lấy chồng Trung Quốc…
Cuối năm 2013, ba cô dâu Việt Nam là Tô Thị Hà, Trịnh Thị Hoa, Mai Thị Sư được điều trị tại Bệnh viện thần kinh thành phố Phúc Châu, tỉnh Kiến Phúc – Trung Quốc. Cả ba người đều là nạn nhân của lấy chồng Trung Quốc, bị đày đọa nhiều năm cho đến khi thân tàn thì đuổi khỏi nhà… Có nhiều trường hợp bị đẩy vào động mại dâm, bị khai thác như súc vật cho đến khi bệnh tật, bị chết hoặc điên dại.”
Ðó là chưa kể đến những cô gái Việt bán phấn buôn hương trong những địa điểm ăn chơi cho đến những ổ chứa gái rẻ tiền trên đất Thái Lan, Philippines, Cambodia, Malaysia…
Nếu như các cô gái nông thôn ở phía Nam hoặc các tỉnh sát biên giới phía Bắc thường lấy chồng Ðài, Hàn, Trung qua con đường môi giới thì các cô gái ở các thành phố lớn, có ăn học, có nhan sắc, nhất là có chút tiếng tăm nếu hoạt động trong giới showbiz Việt như người mẫu, ca sĩ, diễn viên… lại có xu hướng lấy chồng ngoại quốc hoặc Việt kiều từ Mỹ và các nước phương Tây.
Nói vậy không có nghĩa là mọi cuộc hôn nhân có yếu tố “ngoại” đều tính toán, vẫn có những cuộc hôn nhân xuất phát từ tình yêu, do cả hai đều có cơ hội và thời gian chọn lựa hơn. Nhưng với một tỷ lệ không nhỏ và ngày càng tăng những cuộc hôn nhân như vậy trong giới showbiz vẫn khiến người ta tự hỏi phải chăng cái quốc tịch của các đức ông chồng (và cả các cô vợ) là một ưu điểm lớn?
Những người gia đình trung lưu, khá giả thì đầu tư cho con cái đi du học tự túc rồi tìm cách ở lại. Trước kia cha mẹ thường cho con đi học sau khi tốt nghiệp phổ thông, nhưng càng ngày người ta càng cho con đi sớm hơn, từ khi mới lớp 9, 10, 11. Riêng ở Hoa Kỳ, hiện tại “Việt Nam đứng thứ 8 về số du học sinh ở Mỹ” với hơn 16,000 sinh viên tại các trường đại học và cao đẳng trên toàn nước này” (Việt Nam Express).
Nhưng không phải cuộc đầu tư cho con đi học nào cũng thành công, nếu không có sự chuẩn bị tốt về ngoại ngữ, kiến thức, một nền tảng giáo dục tốt từ gia đình và một mục đích rõ ràng. Những cô cậu học sinh, sinh viên hoặc theo không nổi, học là phụ chơi là chính, sau này về nước chỗ làm đã có cha mẹ “dọn” sẵn, điều này dễ thấy với dạng con ông cháu cha. Hoặc dễ chệch hướng, sa ngã.
Ðám quan chức và những kẻ thủ lợi nhiều nhờ chế độ này, miệng thì chửi bới Mỹ và các nước “tư bản giãy chết” nhưng hỏi ra đều đã tính đường “hạ cánh an toàn” cả. Phần lớn đều có con cái, nhà cửa, cơ sở kinh doanh ở Mỹ hay một nước phương Tây, có trương mục trong các ngân hàng uy tín nhất thế giới. Ðám này sướng từ trong nước đến khi ra nước ngoài vẫn tiếp tục nhàn nhã nhờ vào những đồng tiền mà chúng tham nhũng, ăn cướp từ nhân dân.
Và vẫn chưa hết, cảnh vượt biên bằng đường biển, đường bộ… Úc là một trong những điểm đến được nhắm tới trong những năm gần đây của thuyền nhân Việt và các nước khác. Nhưng với chính sách mới cứng rắn của chính phủ Úc, người Việt vượt biển sẽ không bao giờ được định cư ở Úc mà nếu được xét là người tỵ nạn thực sự, họ cũng chỉ được định cư tại đảo Papua New Guinea mà thôi.
Ðất nước như một con tàu lớn đang chìm dần trong khi những người cầm lái thì vẫn tiếp tục mù quáng, chưa tỉnh thức, buộc lòng nhân dân, mạnh ai nấy phải tìm cách nhảy ra khỏi con tàu đắm vậy.
Như câu hát của nhạc sĩ họ Trịnh: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…” (bài “Một cõi đi về”). Có lẽ chỉ đến khi chế độ này sụp đổ và thay đổi theo hướng tự do dân chủ, mới hết cảnh người Việt bỏ nước ra đi, hết những bi kịch đầy máu và nước mắt đằng sau những cuộc trốn chạy khỏi thiên đường XHCN Việt Nam

từ Lâm Kim Trọng

Giám đốc giả ăn mày cho tiền người đi đường.

Giám đốc giả ăn mày cho tiền người đi đường.

Vào đêm giáng sinh, ông Jonnie Wright, giám đốc điều hành của công ty tư vấn bán hàng The Buyosphere, bang Iowa, Mỹ đã ăn mặc như một người đàn ông vô gia cư và tặng tiền những người đi đường.

Ông Wright bất chấp đêm giáng sinh giá lạnh ngồi ở đường phố như một ông lão ăn xin và cho tiền ngược lại những ai có ý định giúp ông lão.
Ông Wright trao cho những người đi đường muốn giúp đỡ ông một phong bì một bức thư có chữ kí của ông, và kèm theo 100$ hay 10$ như là phần thưởng.
Vị giám đốc tốt bụng này cho biết đã chuẩn bị 50 chiếc phong bì với tổng tiền 1000$ và ông nhận được từ người đi đường 363.02$, 3 bánh mì xúc xích, 2 chiếc bánh, một quả táo và một đôi vớ.
Rob Taylor, một người dân thành phố Des Moines cho hay, anh đã không thể tin được khi mở chiếc phong bì ra. Lập tức anh gọi vợ mình và kể cho cô nghe về điều kỳ diệu.
Để giải thích cho hành động kỳ lạ này, ông Wright cho biết đây là cách để ông vinh danh những con người có tấm lòng nghĩa hiệp, và ông đã có ý định này từ lâu.
Wright viết trên Facebook của mình . “Sẽ không bao giờ phai trong trái tim tôi khoảnh khắc hào hiệp và tình thương yêu đồng loại, những khuôn mặt yêu thương nhẹ nhàng khi họ đặt những đồng tiền khó khăn kiếm được vào tay tôi”.

Tất cả số tiền mà vị giám đốc nhận được từ người đi đường, ông đã nhân đôi nó lên và dành tặng cho hội Bethel Mission hội những người vô gia cư địa phương.

Đổi mới là mệnh lệnh cuộc sống

Đổi mới là mệnh lệnh cuộc sống

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-01-31

RFA

000_Hkg9412950-305.jpg

Bán hoa đào Tết ở Hà Nội hôm 27/1/2014

AFP photo

Trong dịp năm mới Giáp Ngọ 2014, TS Lê Đăng Doanh chuyên gia kinh tế độc lập ở Hà Nội qua Đài Á Châu Tự Do đã gởi lời chúc đến người dân và cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam.

“Tôi xin chúc và cầu mong người dân Việt Nam và các doanh nghiệp sẽ có thể thực hiện các quyền tự do kinh doanh, các quyền tự do dân chủ của mình như trong Hiến pháp để thúc đẩy nền kinh tế, thúc đẩy đất nước phát triển lên. Trong giai đoạn sắp tới đây nền kinh tế Việt Nam sẽ phải hội nhập đứng trước những cơ hội và những thách thức hết sức to lớn và cũng gay gắt.”

Nhiều “bệnh” nặng

Ngày 29/1/2014, trên báo Saigon Tiếp Thị Online, TS Lê Đăng Doanh, có bài viết “Đâu là thách thức lớn nhất trên đường phát triển?” Chuyên gia kinh tế này từng là thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và sau này là thành viên Viện Nghiên cứu phát triển IDS đã tự giải thể, khi chính phủ dùng biện pháp hành chánh để cản trở tính cách độc lập của tổ chức này.

Theo TS Lê Đăng Doanh, câu hỏi nhiều người đặt ra trong những giờ phút suy tư trầm lắng của mùa xuân là “Phải làm gì để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và trì trệ kéo dài này.”

TS Lê Đăng Doanh nhận định sau hơn 20 năm đổi mới với một số thành công đầy hứng khởi, ngày nay nhìn thẳng vào đời sống kinh tế-xã hội, ai cũng thấy lo âu cho tương lai đất nước. Theo lời ông, hiện nay thể chế đã trở thành nút thắt cổ chai quan trọng nhất phải vượt qua nếu nền kinh tế muốn tiếp tục tiến lên. Không cải cách thể chế, Việt Nam không chỉ bế tắc trong “bẫy thu nhập trung bình” mà còn phải đối mặt với những xung đột xã hội ngày càng tăng.

Vẫn theo TS Lê Đăng Doanh nền kinh tế đang phải đối mặt với nhiều bệnh nặng: nợ xấu ngân hàng, khủng hoảng bất động sản, doanh nghiệp nhà nước nợ lên đến 1,3 triệu tỷ đồng, nợ công tăng quá nhanh, số lớn doanh nghiệp tư nhân phá sản, đóng cửa, số còn lại chỉ kinh doanh cầm chừng hay đình đốn.

Trong bài viết TS Lê Đăng Doanh còn đề cập tới lũ lụt tàn phá miền Trung, nhân dân chịu thiệt hại lớn không chỉ là thiên tai mà có phần quan trọng là “nhân tai”: phá rừng, làm thủy điện thiếu tính toán đến môi sinh và an toàn của người dân vùng hạ lưu.

TS Lê Đăng Doanh nhấn mạnh trong bài viết của ông trên SGTT Online:  Tại Việt Nam tệ nạn tham nhũng, tiêu cực lớn nhỏ đều khắp, lãng phí chia chác rất phổ biến. Bộ máy hành chính cồng kềnh, tốn kém mà không hiệu quả, việc bổ nhiệm nhân sự hoàn toàn không minh bạch, không qua sự giám sát, xét duyệt của cơ quan dân cử, có quá nhiều cán bộ kém năng lực. Lợi ích nhóm chi phối không ít quyết định và chính sách, cơ chế “xin-cho” lại thịnh hành và thay thế quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh theo pháp luật.

Tôi nghĩ rằng, công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước cũng đòi hỏi những những quyết định, những biện pháp mạnh mẽ hơn để đưa những biện pháp đó vào thực tế.
– TS Lê Đăng Doanh

Đối với câu hỏi “Phải làm gì để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và trì trệ kéo dài”, TS Lê Đăng Doanh đưa ra câu trả lời là cần cải cách thực chất về thể chế. Trong đó thực hiện công khai minh bạch theo các chuẩn mực quốc tế về chi tiêu ngân sách, cũng như trong các hoạt động khác của chính quyền. Vị chuyên gia nhấn mạnh rằng, phải luật hóa vai trò giám sát của báo chí, tổ chức quần chúng đối với bộ máy nhà nước, luật hóa quyền tiếp cận thông tin của người dân. Pháp luật phải bảo vệ người tố cáo tham nhũng, tiêu cực, thực hiện được điều gọi là  làm cho công chức “không dám tham nhũng, không thể tham nhũng và không cần tham nhũng.”

TS Lê Đăng Doanh cũng kêu gọi xóa bỏ những “vùng cấm”, đặc quyền đặc lợi, hạn chế sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính. Ông cho là, những cải cách đó không có gì mới, nhiều nước đã áp dụng và họ đã xây dựng được nền kinh tế phồn vinh, xã hội công bằng, thịnh vượng, văn minh.

Phần kết trong bài viết trên SGTT Online, TS Lê Đăng Doanh hàm ý một tối hậu thư cho Đảng và Nhà nước: “Đổi mới vì đó là mệnh lệnh cuộc sống, sự thôi thúc của người dân trong mùa xuân trên đất nước Việt Nam này.”

TS Lê Đăng Doanh được ghi nhận như một nhân vật tích cực ủng hộ quan điểm đổi mới thể chế kinh tế-chính trị trong thông điệp đầu năm  2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đáp câu hỏi của Nam Nguyên là đã một tháng trôi qua, chuyên gia có nhận thấy một tín hiệu nào về việc chính quyền thực hiện những lời hứa hẹn của Thủ tướng. TS Lê Đăng Doanh đáp lời:

“Thủ tướng có triệu tập một số nhà kinh tế trong nhóm tư vấn kinh tế tài chính của Thủ tướng và cũng đã yêu cầu xây dựng một kế hoạch thực hiện cái thông điệp đó. Trong cuộc họp của chính phủ vừa qua, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam có trình bày một dự thảo kế hoạch về nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay các nỗ lực ấy chủ yếu mới chỉ dừng lại ở các dự thảo và chương trình hành động. Còn về các công việc thực tiễn thì chính phủ tập trung vào việc lo Tết cho dân và cung cấp gạo cho những người nghèo, cũng như bảo đảm cho người công nhân ở Hà Nội và TP. HCM được về quê ăn Tết. Tôi nghĩ rằng đấy là các nỗ lực ban đầu của chính phủ và nhằm tập trung vào cái Tết Giáp Ngọ này.”

Dân mất niềm tin

000_Hkg9412954-250.jpg

Một phụ nữ bán trái cây rong ở Hà Nội đang đếm tiền hôm 27/1/2014. AFP photo

Câu chuyện đổi mới thể chế cả kinh tế lẫn chính trị không phải là chủ trương mới nhưng trước kia nói nhiều hơn làm, bây giờ được tái vận động mạnh mẽ, người dân hoài nghi vì đã mất niềm tin. Vậy những việc cần làm ngay của nhà nước sẽ là gì. Nam Nguyên nêu câu hỏi này và được TS Lê Đăng Doanh trả lời:

“Hiện nay về mặt Đảng, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nỗ lực thúc đẩy chống tham nhũng bằng các biện pháp như yêu cầu phải kê khai tài sản và có chỉ thị yêu cầu phải công khai việc kê khai tài sản đó ở mức độ cao hơn so với trước đây. Ông Tổng Bí thư cũng sử dụng Ban Nội chính để thúc đẩy quá trình điều tra chống tham nhũng và đưa ra một số vụ án như Vinalines với Dương Chí Dũng và em là Dương Tự Trọng.

Còn về phía Chính phủ thì trong chương trình hành động cũng có đề ra một số biện pháp, nhưng trong cuộc thảo luận về thực hiện thông điệp 2014 thì một số nhà trí thức mong muốn có những biện pháp ngay trước mắt mạnh mẽ hơn và cụ thể hơn. Thí dụ như xem xét trả tự do một số người bị giam giữ mà thực sự không có hành động gì chống đối ngoài việc phát biểu ý kiến một cách thẳng thắn. Bên cạnh đó bãi bỏ một số quyết định ban hành trước đây mà ngày nay thấy không thích hợp. Thí dụ như Quyết định 97 dẫn đến việc Viện Nghiên cứu Phát triển IDS đã phải tự giải thể…v..v.. Những ý kiến đó cho tới nay chưa thấy được thực hiện.”

Bước vào Năm mới Giáp Ngọ, người dân Việt Nam có thể hy vọng gì khi cách đây không lâu các chuyên gia đã liệt kê những khăn rất lớn đang tồn tại của nền kinh tế. TS Lê Đăng Doanh nhận định:

“Tình hình của Tết Giáp Ngọ này phản ánh rất rõ sức mua giảm, rồi hoa đào cành đào quất ở Hà Nội ế và ê hề ra cả. Tôi thấy có những người bán phải vứt cành đào đi vì họ thấy sức mua giảm, giá giảm đến mức nếu họ ở lại Hà Nội thêm nữa thì cũng không có đủ tiền để tiếp tục kinh doanh. Đấy là thể hiện rất rõ sức mua giảm sút của người dân.

Tôi nghĩ trong thời gian sắp tới cần phải có những biện pháp mạnh mẽ về việc thực hiện công khai minh bạch về việc kê khai tài sản, về việc sử dụng một cách có hiệu quả và công khai ngân sách nhà nước; hạn chế tối đa việc lạm dụng ngân sách nhà nước vào việc tư thí dụ dùng xe công đi ăn cưới hay đi lễ hội…mới đây báo chí có nêu lên cảnh dùng xe công đi lên tận Sơn La để chở đào rừng về Hà Nội. Tất cả những biểu hiện đó cần phải được sớm chấm dứt và đưa ra xử lý.

Tôi nghĩ rằng, công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước cũng đòi hỏi những những quyết định, những biện pháp mạnh mẽ hơn để đưa những biện pháp đó vào thực tế. Nếu thực hiện được các biện pháp đó thì tôi hy vọng nền kinh tế Việt Nam có thể vươt qua những khó khăn. Nếu không thực hiện được những biện pháp cải cách mạnh mẽ thì tình hình ngân hàng, tình hình nợ xấu, sự trì trệ trong bất động sản cũng như tình hình sử dụng ngân sách nhà nước một cách lãng phí trong đầu tư công có thể sẽ lại tiếp tục làm cho nền kinh tế Việt Nam trì trệ. Đây là điều rất cần tránh.”

Trong thời gian sắp tới cần phải có những biện pháp mạnh mẽ về việc thực hiện công khai minh bạch về việc sử dụng một cách có hiệu quả và công khai ngân sách nhà nước
– TS Lê Đăng Doanh

Nếu TS Lê Đăng Doanh cho là “Đổi mới là mệnh lệnh cuộc sống, sự thôi thúc của người dân trong mùa xuân trên đất nước Việt Nam”, vậy thời gian cần thiết để nhà nước Việt Nam thực hiện tối hậu thư của nhân dân sẽ như thế nào. TS Phạm Chí Dũng, một nhà nghiên cứu chính sách ở TP.HCM, người vừa từ bỏ đảng Cộng sản nói với chúng tôi là sẽ có một độ trễ nhất định. Ông nói:

“Nếu vấn đề cải cách kinh tế hay là xóa độc quyền có thể thực hiện ngay trong năm 2014 với một độ trễ khoảng từ 8 tháng tới một năm, thì nhân quyền phải cần ít nhất 2 năm để người ta quen dần với khái niệm mới và quen dần với cách ứng xử mới, cách ứng xử có văn hóa hơn. Chứ không phải giống như là cách ứng xử  tôi gọi là một nền văn hóa đấm đá nhân quyền mà ngay cả những ngày đầu năm mới 2014 vẫn xảy ra.”

Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1976,  Nhà nước Việt Nam cai trị đất nước theo chính sách lỗi thời của Đảng Cộng sản dẫn tới bế tắc toàn diện, lạm phát cao nhất lên tới mức 800% trong những năm 1980. “Đổi mới hay là chết” trở thành khẩu hiệu để tới đầu những năm 1990 Việt Năm bước vào một mùa xuân đổi mới.

Ngày nay đất nước đang lâm vào khủng hoảng và trì trệ kéo dài, nhu cầu cải cách kinh tế chính trị một lần nữa được đặt ra, điều mà TS Lê Đăng Doanh gọi là : “Đổi mới – đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là sự thôi thúc của người dân trong mùa xuân trên đất nước Việt Nam này.”

 

Câu chuyện đầu xuân: Văn hóa Việt trong vận khí suy vong

Câu chuyện đầu xuân: Văn hóa Việt trong vận khí suy vong

Thụy My

RFI

Đầu năm, khi đất trời vào xuân, cũng là dịp để suy ngẫm lại những vấn đề về văn hóa. RFI đã phỏng vấn tiến sĩ Phạm Chí Dũng, cũng là một nhà văn đồng thời còn là người có nhiều bài viết phê bình về văn học nghệ thuật.

 

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng

 

01/02/2014

 

Nghe (11:37)

 

 

 

RFI : Thân chào tiến sĩ Phạm Chí Dũng, rất vui được tiếp chuyện anh nhân dịp xuân về. Trước hết anh có thể cho biết cảm xúc của anh trong bầu không khí đầu năm mới ?

Rất khó tả, nhưng rõ rệt nhất là thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Làm sao có thể vui nổi khi đây là cái Tết thứ ba liên tiếp tôi chứng kiến cảnh tượng hàng vài chục ngàn công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn Tết. Với họ, đang xảy ra một nét văn hóa rất mới, có thể gọi là “văn hóa tết cấm trại”. Tức phỏng theo một điều lệnh trong quân đội, công nhân ở nguyên trong khu nhà trọ mà không dám bước ra đường vì chẳng có tiền. Mà như vậy thì còn gì là tết?

Không khí đường phố cũng uể oải và bải hoải. Chỉ sát Tết người dân mới có chút tiền để mua sắm, nhưng ở nhiều tụ điểm mai và đào vẫn ế chỏng chơ. Khách hàng đã và đang quay lưng với thị trường như một dạng văn hóa phủ nhận trong kinh doanh.

Đã đến lúc người dân không thể mặc định sắc màu của nền văn hóa dân tộc như những báo cáo tô hồng của chính phủ về nền kinh tế hay những nghị quyết của đảng về đường lối kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội đến hết thế kỷ 21. Hiện tại được dẫn dắt bởi quá khứ, và tương lai lại được quyết định bởi những gì trong hiện tại.

Quá khứ đó, chúng ta thấy cái gì? Năm 2013 chứng kiến những trận hôi của vĩ đại chưa từng thấy ở một số địa phương, cuộc tranh cướp bánh sushi trong một nhà hàng ngay tại thủ đô, cho dù không thể cho rằng tất cả những người tranh giành đều đói khát và đất nước cũng chưa đến thời đói kém…

Những hiện tượng xã hội đó đang góp phần triệt tiêu nhanh chóng khẩu hiệu của đảng “xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Tương tự, điều lạ lùng là trong mấy năm gần đây, chẳng mấy cơ quan tuyên giáo và dân vận còn nhắc tới khẩu hiệu này. Vì sao vậy? Đơn giản là thực tiễn đã trở nên tồi tệ đến mức giới chức đảng lẫn chính quyền không thể cứ mãi tự ru ngủ mình và mị dân xã hội bằng những lý lẽ một chiều đã bị thực tế bào mòn đến tận chân gốc. Dù luôn bị ăn sâu tâm lý thành tích, ít nhất họ cũng phải tự rung động một nỗi xấu hổ tối thiểu nào đó chứ!

RFI : Những giá trị truyền thống của ông cha như « Giấy rách phải giữ lấy lề », « Một câu nhịn chín câu lành »…dường như đã bị thay bằng sự vô cảm, tâm lý mạnh được yếu thua. Ngày nào đọc báo cũng đều thấy những tin được gọi là « cướp, hiếp, giết », người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau, thậm chí mạng người có thể bị mất đi vì những lý do rất nhỏ nhặt. Thưa anh, phải chăng đạo đức xã hội đang rơi xuống tận đáy ?

Khi xảy ra cái chết ở thẩm mỹ viện Cát Tường tại Hà Nội vào năm 2013, một quan chức cao cấp ngành y tế đã phải thốt lên rằng đạo đức và y đức đã xuống đến đáy. Nhưng tôi cho là tất cả vẫn chưa phải tồi tệ nhất. Cái tồi nhất nằm ở phía trước, ở thì tương lai đầy sương mù và dưới vực thẳm, mà chế độ này và phần lớn dân chúng vẫn chưa hình dung hết.

Phía trước ấy là một cuộc tha hóa vĩ đại của toàn bộ nền văn hóa. Tuân theo quy luật vật chất quyết định ý thức, kinh tế quyết định văn hóa và bất kỳ khi nào nền kinh tế lao vào hố sâu khủng hoảng, đời sống sẽ trở nên thiếu thốn và đói kém đến mức một bộ phận dân chúng sẵn sàng giết nhau để sinh nhai.

Lịch sử đã chứng minh hết sức cận kề ở một quốc gia đông dân nhất thế giới, chính là Trung Quốc trong thời Cách mạng văn hóa những năm 60 của thế kỷ trước. Khi đó có đến 30 triệu người bị chết không chỉ bởi vô số cuộc thanh trừng, mà còn bởi đất nước này đã rơi vào thảm trạng đói kém đến mức tại một số nơi người dân đã phải ăn nhau để cầm hơi. Đó chính là điều tồi tệ phi nhân tính nhất, mà một nền văn hóa suy đồi đến tận cùng có thể mang lại.

Năm 2013 đã trở nên một đặc tả khá kinh khủng, trên bức tranh khốn quẫn của nền văn hóa đang lao dốc và còn chưa tìm thấy đáy ở Việt Nam. Cùng với cái gọi là nền văn hóa tham nhũng chưa từng thấy ở đất nước này, khắp nơi trong xã hội đã diễn ra cảnh cha con giết nhau, vợ chồng giết nhau, thầy đánh trò và trò giết thầy, nạn cướp của và hiếp dâm nổi lên khắp nơi. Cường hào ác bá cũng hoàn hành tàn lộng và bất chấp đạo lý. Nhưng nghịch lý ghê gớm là kinh tế càng suy thoái, người giàu lại càng giàu. Không biết bao nhiêu quan chức đã ních đầy túi và chỉ còn chờ chực cơ hội biến khỏi tổ quốc nếu xảy ra động loạn…

Rồi một điều tất yếu phải xảy ra là khi luật pháp không còn là mái nhà che chở cho người dân, chính nhân dân đã phải làm thay luật pháp. Nạn tự xử đối với những kẻ trộm chó mèo diễn ra ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, … Ở Bắc Giang, khi vài người dân bị công an khởi tố bắt giam vì đánh chết cẩu tặc, đã có đến 800 người dân khác đồng ký tên vào một bản tuyên bố cùng nhận tội. Đó là cái gì? Một loại văn hóa phản kháng của người dân đang phát tiết ngay trong lòng chế độ “của dân, do dân và vì dân”.

Tố chất văn hóa phản kháng đó đã dẫn đến làn sóng chống người thi hành công vụ lan rộng một cách đầy tự phát và bạo lực ở nhiều nơi. Không hiếm cảnh thanh niên đi đường và những người dân “săn sóc” một cách đặc biệt đến hành vi của cảnh sát giao thông, bởi lực lượng cảnh sát bị xem là đối tượng tham nhũng nhất quốc gia này càng ngày càng mang ý nghĩa như một mồi lửa châm ngòi cho các cuộc xung đột tự phát và rất khó kềm chế.

RFI : Thưa anh đầu năm thường nói chuyện vui, nhưng bức tranh thực tế xã hội lại quá xám. Những cách hành xử của con người thường từ nền giáo dục mà người đó được hấp thụ. Vậy thì theo anh trách nhiệm của ngành giáo dục đối với nền văn hóa như thế nào ?

Đóng góp không nhỏ vào sự xuống cấp của nền văn hóa là thực trạng lầy lội và ô nhiễm nặng mùi của ngành giáo dục vẫn chưa hề được cải tạo. Tiên đề “Tiên học lễ, hậu học văn” từ ngàn đời nay đã từ lâu bị phần lớn trường học biến thành thảm trạng mà chúng ta nên nhận thức lại là “Tiên học phí, hậu học thêm”. Có lẽ mệnh đề này mới nói lên tất cả cái thực trạng quay quắt đến mức khốn cùng của môi trường giáo dục đào tạo và giới quan chức điều hành ngày nay.

Không khác gì thị trường bất động sản, vài năm gần đây người ta đã phải dùng đến cụm từ “bong bóng đại học” cho sự bùng nổ bội cung của hàng trăm trường đại học tư thục và dân lập từ Bắc chí Nam. Nhưng ngược lại với đà tăng tiến theo cấp số nhân về số lượng các trường đại học, cao đẳng và chương trình “đào tạo 20.000 tiến sĩ’ của nguyên Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân và đời Bộ trưởng kế vị, chất lượng đào tạo còn lâu mới làm nên một nền văn hóa xứng tầm với Thái Lan. Ít nhất là về tỉ lệ công trình nghiên cứu được công bố trên đầu các tiến sĩ, cùng bài luận văn tả cảnh các cô giáo bỏ nghề và học sinh vùng cao phải bắt chuột ăn thay cơm.

Tình trạng xuống cấp toàn diện của giáo dục và văn hóa cũng khiến cho hiện tượng không có tác phẩm hay trong văn học nghệ thuật trong suốt nhiều năm qua trở nên rất dễ lý giải trong đời sống văn nghệ Việt Nam. Bất chấp các cuộc thi và trao giải thưởng đều đặn hàng năm của các hội đoàn văn học và nghệ thuật nhà nước, vẫn không có lấy vài ba tác phẩm trong lĩnh vực văn học, sân khấu, mỹ thuật, điện ảnh, âm nhạc… ghi dấu ấn cho một tinh thần hồi tâm thành khẩn.

Hầu như tất cả đều nhàn nhạt, nhòa nhạt và luôn đi sau hiện tồn nhức nhối của xã hội ít ra vài thập kỷ. Nhiều nhà văn và nhà viết kịch đủ lòng tự trọng không còn cầm nổi bút, bởi tâm trạng chán chường và thất vọng quá giới hạn cho phép. Chỉ còn một số người viết vì cơm áo gạo tiền, hoặc làm cái gọi là “sáng tạo” vì các đơn đặt hàng và giải thưởng từ Nhà nước. Không thể nói khác hơn, văn học nghệ thuật quốc doanh từ lâu nay đã mang trên mình thiên chức văn hóa cộng sinh.

RFI : Khái niệm « văn hóa cộng sinh » mà anh vừa đề cập, có lẽ không thể loại trừ giới quan chức, vì những lề thói đã ăn sâu vào họ ?

Văn hóa gia đình, văn hóa trường học và văn hóa cộng đồng là ba rường cột của một nền văn hóa. Nhưng một khi cả ba trụ cột ấy đều bị xâm hại một cách trầm kha, thì không còn gì có thể cứu vãn nổi một nền văn hóa chính trị. Nhất là khi nền văn hóa chính trị ấy lại bị ruỗng mục bởi thói vô cảm, vô trách nhiệm và quá đậm đặc tố chất lợi ích nhóm của giới quan chức.

Vì thế, chúng ta có thể coi văn hóa quan chức là thành tố thứ tư gây xâm hại đối với nền văn hóa Việt Nam đương đại, nhưng đặc biệt hơn cả lại là nhân tố cộng sinh ưu tú nhất. Giới quan chức đổ cho 70% doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ, nhưng làm sao có thể lý giải sự mâu thuẫn không thể chấp nhận được, giữa tỉ lệ “chỉ có 1% công chức yếu kém” như báo cáo của chính quyền, với con số ít nhất 30% công chức “chủ động nhận hối lộ” trong những kết quả khảo sát về tham nhũng?

Một cuộc khủng hoảng văn hóa đang tăng tiến với gia tốc ngày càng gấp rút. Cuộc khủng hoảng ấy lại biến diễn sang cuộc khủng hoảng niềm tin của người dân đối với xã hội, của công dân đối với đất nước và cuối cùng là của người dân đối với chế độ. Những cuộc điều tra xã hội học đã cho thấy niềm tin của giới trẻ vào đảng và chế độ sa sút khủng khiếp, và trong giới trẻ giờ đây không còn cái gọi là lý tưởng nữa. Nếu có được một cuộc khảo sát độc lập, người ta tin chắc rằng chỉ còn không đầy 10% trong số lớp trẻ tin vào việc “nền văn hóa xã hội chủ nghĩa” có thể tôn tạo cho nền văn hóa dân tộc.

Ngược lại, một chủ nghĩa văn hóa phủ nhận đang hình thành và phát triển rất ghê gớm trong một số khá đông lớp trẻ ở Việt Nam.

RFI : Về « chủ nghĩa văn hóa phủ nhận » như anh nói, theo anh lớp trẻ đang phủ nhận những giá trị gì ?

Phủ nhận những giá trị tinh thần, phủ nhận những giá trị truyền thống, và phủ nhận với chính những thế hệ đi trước. Hiện tượng đó làm chúng ta nhớ lại thế hệ mất mát, nảy sinh ở châu Âu trong vài thập kỷ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cũng là suy thoái kinh tế trầm kha, cũng là cái nhìn về một tương lai mơ hồ, cũng là tâm trạng đầy bất an và dễ nổi loạn.

Nhưng ở Việt Nam, điều nguy hiểm hơn nhiều là cái tương lai như thế còn trở nên vô định bởi một nền chính trị hủ hóa, cố chấp và luôn có nguy cơ gây nên hiệu ứng hạ cánh cứng. Từ đó sẽ sinh đẻ vô số hậu quả trầm luân cho đời sống người dân, đặc biệt là dân nghèo.

Hơn bao giờ hết, đặc thù văn hóa Việt Nam được quyết định bởi nội lực nền kinh tế và kế sinh tồn của mỗi công dân. Trong giai đoạn “cất cánh” từ thời mở cửa kinh tế những năm 1990, chủ nghĩa kiếm tiền và đầu cơ thượng hạng đã phủ trùm lên cả xã hội, để sau đó vào thời kỳ suy thoái từ năm 2008 đến nay, điều được coi là “văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc” cũng bị suy mòn theo lý lịch không mấy trong sáng của đồng tiền.

Phía trước, màu đen khó che giấu của của nền kinh tế đang chờ đón một khoảng trống chân không văn hóa, nơi mà hố sâu bất bình đẳng xã hội sẽ sâu thẳm hơn bao giờ hết. Tâm lý chà đạp lẫn nhau sẽ thổi bùng lên ngọn lửa tranh đấu cực kỳ tàn khốc giữa các giai tầng và trong chính từng giai cấp, để cuối cùng bản thân nền văn hóa bị giẫm đạp đến kiệt sức.

Không thể lạc quan về nền văn hóa Việt trong năm 2014 và cả những năm sau đó, tôi cho rằng sự biến mất của một nền chính trị đương thời còn dễ được chấp nhận hơn rất nhiều, so với những mất mát của một nền văn hóa dân tộc mà người dân nước Việt có thể phải mất đến nửa thế kỷ để phục hồi nó.

Rất nhiều người như tôi vẫn ngày đêm dồn dập thổn thức trong lòng một câu hỏi đích đáng: Ai và những tác nhân nào đã khiến cho nền văn hóa dân tộc suy đồi và suy vong ghê gớm đến thế? Kẻ nào phải chịu trách nhiệm lịch sử về hậu quả lịch sử quá đau đớn ấy?

RFI : Xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ để tâm tình với thính giả RFI Việt ngữ trong những ngày đầu năm về những suy tư liên quan đến nền văn hóa Việt.

 

TS Phạm Chí Dũng bị cấm xuất cảnh đi dự hội thảo nhân quyền tại Genève

TS Phạm Chí Dũng bị cấm xuất cảnh đi dự hội thảo nhân quyền tại Genève

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng (trái) và người thân tại phi trường (DR)

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng (trái) và người thân tại phi trường (DR)

Thụy My

RFI

Tối nay 01/02/2014 tại sân bay Tân Sơn Nhất khi đang làm thủ tục xuất cảnh đi tham dự hội thảo về nhân quyền tổ chức tại Genève, Thụy Sĩ với tư cách diễn giả theo lời mời của tổ chức UN Watch – một tổ chức phi chính phủ Thụy Sĩ có chức năng giám sát các vấn đề nhân quyền và dân chủ thuộc Liên Hiệp Quốc, tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã bị giữ lại và tịch thu hộ chiếu.

Sau nhiều cuộc gọi bất thành do điện thoại của tiến sĩ Phạm Chí Dũng bị công an thu giữ, cuối cùng RFI Việt ngữ cũng đã liên lạc được. Tiến sĩ Phạm Chí Dũng cho biết :

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng

 

01/02/2014

 

Nghe (02:01)

 

 

 

Như vậy là tôi đã qua khâu gửi hành lý và trình hộ chiếu, nghĩ là mọi chuyện đã tương đối ổn. Nhưng khi đến khâu kiểm tra an ninh thì họ ngần ngại, ngừng một chút. Một người nói là « Máy kẹt rồi ! ». Sau đó mấy nhân viên công an mặc sắc phục tới, đề nghị tôi đi vào một căn phòng riêng để kiểm tra lại, vì theo họ, tên của tôi tương đối phổ thông, trùng với một số người khác.

Nhưng sau đó có một sĩ quan an ninh mặc thường phục của cơ quan PA 81 thuộc Công an thành phố đến, nói với tôi là trường hợp của tôi không được xuất cảnh. Tôi hỏi lý do tại sao, họ nói là việc đi Thụy Sĩ có thể bị lợi dụng bởi những thế lực thù địch, xuyên tạc chống phá Nhà nước Việt Nam. Vì vậy trường hợp tôi đi không có lợi.

Sau đó họ làm biên bản và giữ hộ chiếu của tôi, có ghi lý do là Công an Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị, vì tôi là diện bị cấm xuất cảnh. Họ đề nghị tôi đến Cục Quản lý Xuất nhập cảnh của Bộ Công an để nhận lại hộ chiếu.

Nhưng với tôi, thì tôi không cần nhận lại hộ chiếu nữa. Tại vì từ nay trở đi tất cả những việc đi lại của tôi ra nước ngoài sẽ do Nhà nước Việt Nam quyết định, trên căn bản tinh thần nhân quyền của Nhà nước khi tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Nếu Nhà nước Việt Nam cảm thấy còn muốn giữ một chút hình ảnh nào đó về nhân quyền, thì ít nhất họ phải tôn trọng quyền tự do đi lại, quyền được xuất cảnh của công dân một cách bình thường, một cách tự do như Hiến pháp Việt Nam đã quy định. Còn nếu họ không cần tới điều đó nữa thì tôi cũng đương nhiên không cần tới hộ chiếu.

Và ngày mai tôi sẽ chính thức viết thư khiếu nại tới Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an về vụ việc này. Đồng thời sẽ thông tin rộng rãi và sâu sắc tới tổ chức Liên Hiệp Quốc, các tổ chức nhân quyền quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhân đợt Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) diễn ra tại Genève, Thụy Sĩ vào ngày 5 tháng Hai sắp tới.

 

Nổ súng gây nhiều thương tích ở Bangkok

Nổ súng gây nhiều thương tích ở Bangkok

Thứ bảy, 1 tháng 2, 2014

Bạo lực ở Bangkok

Vài phút trước khi súng nổ, môt chiếc xe hơi đã bị tấn công.

Ít nhất sáu người đã trúng đạn và bị thương nặng ở thủ đô Bangkok của Thái Lan, trong lúc xảy ra các cuộc đụng độ chống chính phủ ngay trước cuộc bầu cử hôm Chủ Nhật.

Bạo lực bùng phát trong một diễn biến cá biệt giữa những người ủng hộ và phản đối Thủ tướng Yingluck Shinawatra.

Nhiều tiếng súng đã nổ vào lúc những người biểu tình phong tỏa một tòa nhà là nơi lưu trữ các lá phiếu phục vụ bầu cử, trong một nỗ lực nhằm ngăn chặn phân phối các lá phiếu bầu.

Những người phản đối muốn chính phủ phải được thay thế bằng một “Hội đồng nhân dân” không qua bầu cử.

Phe đối lập cũng tuyên bố sẽ tẩy chay cuộc bỏ phiếu hôm Chủ nhật, sự kiện được cho là mang lại khả năng giành thắng lợi cho bà Yingluck.

Những người biểu tình cáo buộc Thủ tướng hoạt động dưới sự kiểm soát của anh trai bà, cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra, người đã bị lật đổ và đang sống lưu vong.

Gài bom nhỏ

“Một số người được cho là bị thương đã nằm lại trên đường, khi hai bên nổ súng giao tranh, buộc các phóng viên và người qua đường phải bỏ chạy tìm nơi trú ẩn”

Vụ nổ súng hôm thứ Bảy xảy ra ở quận Laksi ở Bangkok, thành trì của đảng Pheu Thai của Thủ tướng Thái Lan.

Vụ nổ súng xảy ra sau một diễn biến riêng rẽ đối đầu căng thẳng giữa hai bên chống và ủng hộ chính phủ, theo phóng viên BBC Jonathan Head, ở Bangkok, tường trình.

Một số người được cho là bị thương đã nằm lại trên đường khi hai bên nổ súng giao tranh, buộc các phóng viên và người qua đường phải bỏ chạy tìm nơi trú ẩn, vẫn theo phóng viên của BBC.

Hiện chưa rõ những người bị thương thuộc phe ủng hộ hay hậu thuẫn chính phủ.

Trước khi tấn công, những người biểu tình đã tấn công một chiếc xe và gài một loạt các trái bom loại nhỏ.

Quân đội triển khai

 

Ít nhất 6 người đang được cấp cứu vì bị thương nghiêm trọng sau vụ nổ súng hôm thứ Bảy.

Phong trào đối lập – từng được biết tới với tên gọi phe “áo vàng” – tuyên bố sẽ phá hoại cuộc bầu cử với mức độ càng nhiều càng tốt, bằng cách ngăn chặn các lá phiếu bầu được đưa đến các điểm bỏ phiếu.

Trong khi đó, các nhóm ủng hộ chính phủ – hay phe “áo đỏ ” – đã được lệnh phải giám sát cuộc bỏ phiếu.

Thế nhưng họ không được phép đối đầu với những người biểu tình, vì sợ rằng bạo lực sẽ gây ra thêm nguy hiểm cho cuộc bầu cử.

Quân đội trước đó nói sẽ tăng cường quân số và triển khai tại Bangkok phục vụ cuộc bầu cử vào ngày Chủ nhật.

Khoảng 10.000 cảnh sát cũng sẽ tuần tra các đường phố trong ngày 02 tháng Hai.

Phóng viên của BBC nói hiện chưa thể dự đoán gì về khả năng và kết quả của cuộc bỏ phiếu ngày Chủ Nhật.

Tuy nhiên rõ ràng các hoạt động ngăn chặn bầu cử và đặc biệt là vụ nổ súng gây nhiều thương tích hôm thứ Bảy báo trước cuộc bầu cử ngày Chủ Nhật sẽ khó có thể diễn ra hoàn toàn bình ổn, do nguy cơ bạo lực nóng lên.