Biểu tình đòi tự do báo chí tại Hồng Kông

Biểu tình đòi tự do báo chí tại Hồng Kông

Những người biểu tình trong đó có cả một số dân biểu trong cuộc xuống đường đòi tự do báo chí cho Hồng Kông ngày 23/02/2014.

Những người biểu tình trong đó có cả một số dân biểu trong cuộc xuống đường đòi tự do báo chí cho Hồng Kông ngày 23/02/2014.

REUTERS/Bobby Yip

Thụy My

RFI

Tại Hồng Kông hôm nay 23/02/2014 khoảng sáu ngàn người đã xuống đường đòi tự do báo chí. Cuộc biểu tình này do các nhà báo tổ chức, vì mối lo ngại bị Bắc Kinh hạn chế tự do ngôn luận đang ngày càng tăng.

Nhiều người biểu tình cài trên ngực áo những chiếc ruban màu xanh, biểu tượng cho tự do ngôn luận trong ngành truyền thông. Các nhà tổ chức ước tính có khoảng 6.000 người tham gia xuống đường, còn cảnh sát cho rằng chỉ có 1.600 người. AFP nhận định, tại Hồng Kông quan ngại đang tăng lên về việc Bắc Kinh tìm cách tăng cường kiểm soát vùng đất bán tự trị này và khống chế báo chí.

Bà Tuyết Lợi Âm (Shirley Yam), phó chủ tịch Hiệp hội các nhà báo Hồng Kông nói rằng : « Các tiêu đề bị sửa lại, phỏng vấn bị cấm, và các cây bút xã luận bị sa thải. Một số coi đây là các quyết định mang tính thương mại hay thậm chí các xung đột về lao động. Nhưng chúng ta phải nhìn thấy các sự kiện này trong bối cảnh các phương tiện truyền thông Hồng Kông đang bị siết chặt ».

Những người biểu tình hô vang các khẩu hiệu như « Tự do cho người dân », « Tự do cho Hồng Kông », « Phản đối kiểm duyệt ». Họ diễu hành qua các đường phố, điểm đến là khu Kim Chung (Admiralty) nơi đặt trụ sở chính quyền thành phố.

Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) đặt tại New York nhận định, tự do báo chí tại Hồng Kông hiện đang « ở mức thấp », nêu ra việc các phóng viên phải tự kiểm duyệt, các tờ báo bị đe dọa về tài chính và về vật chất cũng như các bước về tư pháp có thể ngăn cản việc thực hiện phóng sự điều tra. Còn tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) có trụ sở tại Paris tuyên bố sự độc lập của truyền thông Hồng Kông « hiện đang bị đe dọa », vì Bắc Kinh ra sức bóp nghẹt các bài viết chỉ trích.

Theo thỏa thuận giữa Luân Đôn và Bắc Kinh khi trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc năm 1997, tự do báo chí cùng với một số quyền tự do khác phải được duy trì trong ít nhất 50 năm.

Ông Jonathan Hopfner, một phóng viên ở Hồng Kông và là thành viên Câu lạc bộ các thông tín viên ngoại quốc, nói với AFP trong cuộc biểu tình : « Xu hướng đáng ngại về tự kiểm duyệt đang tăng lên, điều này ảnh hưởng đến tất cả các nhà báo. Nhiều cơ quan truyền thông chọn lựa Hồng Kông để hoạt động vì nơi đây có truyền thống tự do ngôn luận mạnh mẽ. Chúng tôi hy vọng những gì đúng đắn vẫn được duy trì ». Còn ông Martin Lee, cựu chủ tịch đảng Dân chủ cũng tham gia biểu tình tuyên bố : « Một khi tự do báo chí không còn nữa thì các quyền tự do khác cũng không thể được cứu vãn ».

Chính quyền Hồng Kông do ông Lương Chấn Anh (Leung Chun Ying) thân Bắc Kinh lãnh đạo, luôn chối cãi cho rằng không đàn áp báo chí.

Ukraine ra lệnh bắt Yanukovych

Ukraine ra lệnh bắt Yanukovych

Thứ hai, 24 tháng 2, 2014

Ông Yanukovych rời Kiev cuối tuần qua về vùng giáp Nga

Ukraine ra lệnh bắt tổng thống bị lật đổ Viktor Yanukovych, bộ trưởng nội vụ lâm thời Arsen Avakov vừa tuyên bố.

Ông Avakov cho biết ông Yanukovych và các quan chức khác đang bị điều tra hình sự về tội “giết người hàng loạt”.

Các đại biểu Quốc hội đã bỏ phiếu phế truất ông Yanukovych vào thứ Bảy, sau các cuộc biểu tình hàng tháng trời để phản đối quyết định từ chối hợp tác với Liên minh Châu Âu (EU) của ông này.

Cuộc đàn áp người biểu tình tuần rồi khiến cho hàng chục người thiệt mạng.

“Vụ điều tra chính thức về việc tội thảm sát hàng loạt dân lành đã được mở ra,” ông Avakov nói.

“Yanukovych và những người chịu trách nhiệm đã bị truy nã.”

Thông báo cho biết ông Yanukovych được nhìn thấy lần cuối ở Balaklava trên bán đảo Crimea vào Chủ nhật, và sau đó đã được hộ tống bằng ô tô đến một địa điểm khác.

Trước khi rời khỏi Balaklava, ông Yanukovych đã cho phép các vệ sĩ nghỉ việc nếu muốn, và nhiều người đã chọn bỏ rơi ông này.

Thông báo không đưa tên những nhân vật khác bị truy nã.

‘Cần viện trợ’

Dân Ukraine vui đùa khi vào xem khu biệt thự bỏ trống của ông Yanukovych

Ông Avakov, một nhân vật đối lập chủ chốt, được bổ nhiệm vào bộ trưởng nội vụ vào thứ Bảy trong một ngày có rất nhiều biến cố ở Quốc hội.

Ông thay thế Vitaly Zakharchenko, người bị sa thải vào thứ Sáu sau khi bị cáo buộc giết hại dân thường trong các cuộc biểu tình.

Bộ Y tế cho biết có 88 người thiệt mạng trong tuần qua, gồm chủ yếu là người biểu tình và một số nhân viên cảnh sát.

Trong khi đó, bộ trưởng tài chính lâm thời Yuriy Kolobov nói rằng Ukraine cần khoảng 35 tỷ đôla viện trợ khẩn cấp và đề nghị thành lập một hội nghị các nhà tài trợ.

Moscow từng đồng ‎ý viện trợ 15 tỷ đôla cho Ukraine, động thái được cho là phần thưởng cho việc ông Yanukovych từ chối hợp tác với EU.

Tuy nhiên, thỏa thuận này có thể sẽ không còn hiệu lực sau khi ông Yanukovych bị lật đổ. Ukraine đang có khoản nợ lên đến 73 tỷ đ la, và phải trả 6 tỷ đôla trong năm nay.

Kênh truyền hình Kanal 5 của Ukraine hôm Chủ Nhật 23/2/2014 chiếu một đoạn phim từ camera đường phố gần dinh thự của ông Yanukovych hôm thứ Sáu ghi lại cảnh ông rời nhà bằng trực thăng.

Camera ghi lại hình ông Yanukovych và một phụ nữ cùng một con chó lên máy bay sau khi một nhóm đàn ông chuyển lên trực thăng nhiều va-li to.

Theo CNN trích lại nguồn tin Ukraine thì chiếc trực thăng đã bay đến một sân bay của Kiev rồi từ đó, ông Yanukovych và nhóm người thân cận bay tiếp về phía Đông tới Kharkov.

Nhưng sau đó có vẻ như ông lại muốn bay đi tiếp và Cục Biên phòng Ukraine xác nhận với báo chí ông Yanukovych và một nhóm đàn ông có vũ trang thuê máy bay tư để xuất ngoại.

Tuy nhiên, cơ quan biên phòng phụ trách sân bay ở Donetsk hôm 22/2 đã không cho chiếc phi cơ này cất cánh và buộc ông Yanukovych rời sân bay vì lý do ‘không có giấy tờ hợp lệ để xuất cảnh’.

Theo ông Sergei Artakov, Cục trưởng Cục Biên phòng Ukraine, thì các nhân viên biên phòng ra đường băng yêu cầu ông Yanukovych không bay đi và ông đã lên một trong hai chiếc xe hơi rời phi trường về hướng không rõ.

Đại gia thi nhau đi

Chế độ Yanukovych tan rã khiến Tổng thống Nga, ông Putin đau đầu

Theo báo chí châu Âu hôm Chủ Nhật thì sau vụ cho cảnh sát vũ trang bắn vào đoàn biểu tình ở Kiev hôm thứ Năm, làm chết ít nhất 75 người, ông Yanukovych và nhóm thân cận thấy không thể làm chủ được tình hình và quyết định rút chạy.

Vẫn các nguồn tin này cho hay từ đêm thứ Năm, sân bay Zhulany ở ngoại ô Kiev chứng kiến ít nhất 80 chuyến bay tư nhân của các nhân vật giàu có, tài phiệt Ukraine.

Có khoảng 30 chuyến bay rời Ukraine sang Moscow và 35 chuyến sang Tây Âu.

Chế độ của ông Yanukovych bị phê phán là thường phân chia các hợp đồng nhà nước đầy giá trị cho giới tài phiệt thân hữu tức oligarch.

Hôm cuối tuần, người dân lũ lượt vào xem khuôn viên Bấm khu dinh thự tráng lệ của vị lãnh đạo đã bị phế truất ở ngoại ô Kiev.

Hiện tình hình Ukraine vẫn trong tình trạng không rõ rệt khiến các quốc gia bên ngoài lo ngại.

Báo Đức cho hay hôm 23/2, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Nga Vladimir Putin về tình hình Ukraine.

Báo chí Đức được nghe tiết lộ rằng cả hai vị lãnh đạo không muốn Ukraine tan vỡ và phải được đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ.

Cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, bà Susan Rice, thì trả lời phỏng vấn đài NBC rằng Hoa Kỳ không muốn thấy Nga can thiệp quân sự vào Ukraine.

Xin xem thêm:

Ukraina phát lệnh truy nã cựu Tổng thống Ianoukovitch (RFI)

 

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc” & “Ta ra đi một chiều thắm,”

Suy tư tuần thứ 8 mùa thương niên năm nay, người đọc thấy có giòng chảy vẫn cứ bảo:

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc, Đêm trùng trùng, ai sẽ đến trong mơ.”

Mơ hay khóc, thế rồi người lại hát:

“Ta ra đi một chiều thắm, vang lời ca buồn trong khóm đá. Nỗi u hoài, ngày tháng khôn nguôi.

Thì ra, tháng ngày của nhiều người ở trong đời, lại vẫn thấy có những thời những lúc khôn nguôi nỗi u buồn, rất trong mơ, dù chưa biết khóc. Thôi thì, bạn và tôi ta về với Nước Trời Hội thánh, sẽ lại thấy ở câu hát có lời vàng, rằng: “Tính quê lai láng dưới trời thu, khói xây thành chập chùng xa đưa.”

Thế mới biết, mọi sự đều tương đối, dù có u buồn hay khóc lóc. Chỉ mỗi tình thương yêu là tuyệt đối đem lại cho con người nhiều vui sướng, rất phúc hạnh.

Thế đó, là tình tự của hôm nay xin gửi đến người anh, người chị ở thánh hội, rất yêu thương.

Mai Tá

www.giadinhanphong.com

Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 8 thường niên năm A 02-3.2014

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc”

“Đêm trừng trùng, ai sẽ đến trong mơ.”

(Dẫn từ thơ Lã Thế Phong)

Mt 6: 24-34

Nhà thơ vẫn cứ tội nghiệp cho tâm hồn chưa biết khóc. Nhà Đạo luôn thương tình khi nghe thấy lời khuyên: “Hãy sống như gà mẹ cất tiếng gọi đàn mà ấp ủ con, dưới cánh!”

Mỗi khi nghe ai khuyên những lời như thế, hẳn người nghe cũng sẽ bảo: điều đó còn tùy. Tuỳ tâm trạng mỗi người, mà xử thế! Trình thuật trích dẫn hôm nay, thoạt xem cũng tựa hồ lối phát biểu vô tâm/vô tính, nếu ta gửi nó đến những người đang sống cảnh cơ cực/bần hàn, khó xử. Tức, những người thiếu cả những vật phẩm rất cần cho cuộc sống, mà lại được khuyên: “Đừng lo! Hãy vui sống, cứ để Chúa lo.”

Vẫn biết rằng, Đức Chúa của ta đầy xót thương và tình thương của Ngài vô bờ vô bến. Nhưng, với những người bụng đang đói cồn đói cào vẫn theo chân Ngài để nghe giảng dạy và cung cấp thức ăn cho no bụng, mà lại nhận được những thế, cũng khó lòng. Biết rằng, trong cuộc sống, ta vẫn cầu và xin được ‘hằng ngày dùng đủ’, mà bụng vẫn đói. Vậy thì, thánh sử Mát-thêu hôm nay muốn nhấn mạnh điều gì khi ghi chép Lời Chúa vẫn nói: “Các ngươi đừng lo cho mạng sống: lấy gì ăn; cũng đừng lo cho thân xác: lấy gì mặc. Mạng sống ngươi chẳng trọng hơn của ăn, và thân xác ngươi chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (Mt 6: 25) Ở đoạn khác, ta còn được dạy về hệ quả của lời Chúa khuyên, như: “Ta đói, các ngươi đã cho Ta (hoặc chẳng cho Ta ăn). Ta mình trần, các người cũng đã cho (hoặc chẳng cho ta mặc)….”

Thật ra, Bài Giảng Trên Núi vẫn là hiến chương Chúa viết ra cho xã hội. Chính Chúa đem đến cho ta trách nhiệm giùm giúp hết mọi người, ngõ hầu ta có thể dựng xây cuộc sống mới, ở đời. Một cuộc sống, biết quan tâm giùm giúp hết mọi người. Một cuộc sống, biết dựng xây Vương Quốc Nước Trời, ở trần gian. Nói rõ hơn, mọi người phải nhận trách nhiệm định ra đường hướng cho chức năng cùng hoạt động của mình, coi đó là trọng trách gửi đến cho mình, ngõ hầu giải quyết nhu cầu của người khác, như của mình. Hãy để hết tâm can vào chuyện này. Và đặt ưu tiên số một cho chính mình, là tạo dựng một xã hội được như thế. Tạo và dựng, Nước Trời ở trần gian, ở nơi đó, mọi người biết lo cho nhau. Giúp người và giúp nhau, suốt đời.

Xem như thế, hãy coi trình thuật này như một cảnh báo chống mọi tẩy não do doanh thương quảng cáo nghĩ ra để bắt mọi người tự chuốc lấy cho mình những ưu tư khó bỏ, rồi tự hỏi: không biết mình có gì để ăn không đây? Lấy gì để mặc bây giờ? Người đời, ở mọi thời, vẫn chẳng muốn nghe/muốn biết tiếng rên than từ người nghèo ở đây hay ở đó, về nơi ăn chốn ở. Về, giáo dục và y tế để sống cho ra người, mà hưởng thụ. Thế nhưng, được mấy ai trong ta tin rằng mình thực sự yên tâm dù được dạy bảo rằng: “Cha Trên Trời” vẫn biết rõ điều mình cần, Ngài sẽ nhanh chóng chu cấp những thứ đó, ngay lập tức? Nói cho cùng, cũng rất khó. Đã mấy ai hoàn toàn tin tưởng mà đặt mình vào bàn tay chăm sóc của người khác, đây?

Để trả lời, Hội thánh mau mắn gửi đến cho ta bài đọc 1 có lời khuyên hãy suy tư về chuyện tùy thuộc vào ơn trên như con cái tùy vào mẹ hiền, của mình. Đó còn là ảnh hình Đức Chúa như Đấng Bậc Mẹ Hiền hằng ưu tư ấp ủ đàn con, như sau: “Xion từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng của tôi đã quên tôi rồi!’ Có phụ nữ nào quên con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mà mình đã mang nặng đẻ đau, không? Dù bà có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49: 14-15)

Thật sự, thì nơi Chúa vẫn dấy tràn tình thương yêu ấp ủ của mẹ hiền hơn cả các bà mẹ ở trần gian, nữa. Nhiều lần, tôi lẳng lặng quan sát các bà mẹ làm cử chỉ rất tự nhiên nhưng kín đáo, cứ cho con bú ngay cả vào giờ lễ, ở nhà thờ. Nhìn những cảnh như thế, thật khó có thể nghĩ rằng các bà mẹ như người mẹ hôm ấy, lại có thể quên con nhỏ của mình, mà bỏ bê. Nhìn cảnh mẹ thương con ấp ủ, rồi liên tưởng đến Tình Chúa thương yêu con người, tôi chắc một điều, là: Ngài thương yêu con cái Ngài còn hơn cả người mẹ trần gian thương con mình, nữa. Chẳng cần phải thủ giữ vai trò của các vị cổ võ cho phong trào phụ nữ rất bình quyền, để rồi mới đề nghị mọi người tiếp nhận hình ảnh thân thương của người mẹ hiền khi cho con bú mớm, để rồi đưa vào cuộc sống của chính mình những hình ảnh về tình thương của Đức Chúa, mà suy nghĩ. Suy và nghĩ, hầu nhận ra vai trò tích cực của các nữ phụ, trong cuộc đời. Làm như thế, vô hình chung ta phá bỏ hình ảnh thiển cận của những người cứ nghĩ Chúa như một nam nhân, thượng phụ râu tóc bạc phơ, ơ hờ.

Nói cho cùng, nếu ta được dựng nên, theo ảnh hình của Chúa, thì có lẽ ảnh hình về tình mẫu tử sẽ còn nói lên nhiều hơn nữa bản chất mà ta cần có và cần tỏ rõ, mỗi khi ta nói đến nhu cầu quan tâm giùm giúp, hết mọi người. Giả như ta tiếp nhận cho mình ảnh hình của Đức Chúa luôn nhấn mạnh đến tình mẫu tử mỗi khi đối xử với mỗi người và mọi người, hẳn là khi đó, ta sẽ không còn ưu tư lo lắng không biết có gì để ăn, lấy gì để mặc, cho thân xác mình nữa.

Và khi đó, ta sẽ ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy Chúa mô tả tình Ngài xót thương thành thánh Giêrusalem và dân con sống ở đó, bằng những lời lẽ rất thiết tha, rằng: “Giêrusalem! Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Lc 13: 34)

Xem như thế, có lẽ mọi người cũng nên làm như Chúa, biết cất tiếng kêu gọi mọi người như gà mẹ cất tiếng gọi đàn con đến với mình để được ấp ủ, dưới lớp cánh bù xù của mẹ!

Với tâm tình như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ còn ngâm dở, những thơ rằng:

“Tội nghiệp lắm, tâm hồn chưa biết khóc”

“Đêm trùng trùng, ai sẽ đến trong mơ.

Nhánh cây khô uốn mình trong khắc khoải,

còn như thương gió chiếc nặng u hoài.

Có đợi đâu ngày mưa thu trở lại,

Đưa mộng buồn vào vạn kiếp phôi phai.”

(Lã Thế Phong – Nỗi Lòng Đá Cuội)

Tâm hồn chưa biết khóc hoặc cây khô uốn mình trong khắc khoải, cũng vẫn là tâm tình nhà thơ hay nhà Đạo chưa biết được tình thương yêu của Đức Chúa, Đấng vẫn thương yêu mỗi người và mọi người dù người đó có u hoài, khắc khoải đưa “mộng buồn vào kiếp phôi phai”, nhiều nỗi lòng.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 8 Mùa thường niên Năm A 02-3-2014

“Ta ra đi một chiều thắm,”

Vang lời ca buồn trong khóm lá,
Nỗi u hoài, ngày tháng khôn nguôi.”

(Việt Lang – Tình Quê Hương)

(Mt 6: 5-6)

Rất nhiều lần, bạn bè đến với bần đạo hỏi một câu rất “xanh rờn” hoa lá có giòng nước, rằng:“Tại sao khi yêu cầu bầu bạn nguyện cùng Chúa cho anh điều gì đó, anh lại chỉ mong người ấy đọc mỗi kinh Sáng Danh chứ không phải Kinh Lạy Cha, hay Kính Mừng hoặc kinh nào khác, thế?”

Nghe vậy, bần đạo không mấy sốt sắng trả lời/trả lãi, bằng cách tỏ-bày lập-trường này nọ nghe hoài kỳ quá. Nay, bần đạo dám xin thưa một lần nữa, rằng; bần đạo làm thế, là bởi trong các kinh kệ nhiều loại, kinh nào người đọc cũng chỉ “xin và xin”, thôi. Dù, chỉ xin cho đồng đạo hay ai khác cũng thế. Duy có kinh Sáng Danh được cất lên là để chúc tụng/ngợi khen Chúa, một đôi khi.

Hôm nay bần đạo bắt được ý của Đức Phanxicô nhà mình, khi ngài nói với đồng đạo vào buổi chia sẻ Lời Chúa ngày “N” hôm “H”, như sau:

“Các kinh ta dâng lên Chúa hoặc xin Chúa, không nhất thiết là để dành riêng cho các vị có ân-lộc đặc biệt, mà thôi!” Trên đây là lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nói với các đấng bậc và chúng dân tham-dự thánh-lễ hôm ấy, ngày 28/1/2014. Sau đó, ngài lại thêm: “Thật cũng dễ hiểu! Các kinh ta đọc cùng Chúa không phải để xin Ngài điều gì đó mà thôi, nhưng còn để cảm tạ Ngài nữa. Nên, thường thì các lời kinh chúc tụng Thiên-Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, thường bộc phát trong giây lát không là những lời được ai đó soạn trước, trong quá khứ..”

Hôm ấy, Đức Giáo Hoàng tập trung bài chia sẻ vào bài đọc 1, trong đó có diễn tả cảnh vua Đavít từng cầu nguyện bằng cách múa nhảy trước mặt Chúa để Ngài đừng bỏ rơi ông. Và, Đức Phanxicô lại cũng nghĩ: có thể, những người nghe ngài giảng hôm ấy, hẳn sẽ phản ứng rất nhạy bén, rằng: “Thưa cha, điều đó chỉ xảy ra đối với các vị giỏi dang, nhiều ân-lộc, mà thôi chứ không phải của mọi người?!”

Đức Giáo Hoàng tiếp: “Không phải thế đâu! Lời kinh chúc tụng Chúa là lời cầu mà tất cả các tín-hữu đều làm chứ đâu riêng gì bậc giảng-dạy hoặc đấng-bậc nào khác đâu chứ. Anh chị em đều biết rõ: Thánh Vịnh là Sách gồm câu ca chúc tụng Chúa và đó cũng là lý do và ý-nghĩa của Kinh Vinh Danh và Tiền Tụng mọi người vẫn hát trong thánh lễ…” (xem Bản tin có tựa đề: “Francis: if you can cheer for a team, you can pray”, The Catholic Weekly 09/02/2014, tr. 6)

Nói như Đức Giáo Tông nhà mình ở vào thời buổi này, là nói như mọi người vào thời trước: “Hát, là nguyện cầu đến 2 lần.” Vậy thì, nay xin bạn và tôi, ta nghe thêm câu hát đã cất lên ở buổi nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” năm thứ 8 tức, cuối năm 2013 ở Sydney, với chủ đề “Những Nẻo Đướng Quê Hương” có lời ca như sau:

“Ngàn dâu xanh ngát mấy nếp tranh xa mờ,

Tiếng sáo bay dập dìu đường về thôn xưa.

Tình quê lai láng dưới trời thu,

Khói xây thành chập chùng xa đưa.

Cành tơ liễu thấp thoáng bên hồ,

Mùa nhớ nhung dòng nước lững lờ.

Ta ra đi một chiều thắm

Vang lời ca buồn trong khóm lá

Nỗi u hoài ngày tháng khôn nguôi.”

(Việt Lang – bđd)

“U hoài (nhiều) ngày tháng”, “(rất) khôn nguôi”, có lẽ và cũng có thể là của nhiều người,  Chí ít là những vị chả nhớ gì chuyện kinh kệ mà chỉ nhớ lời ca, những là:

“Miền xa thương nhớ,

Tình quê hương thiết tha

Buồn lắng nhắn theo lời gió.

Mùa trăng êm tiếng tơ một trời còn vương.

Ôi buồn nhớ quê hương!”

(Việt Lang – bđd)

Lời ca/tiếng hát của người nghệ-sĩ ở đời, chí ít là những người rời xa khung cảnh hiền hoà của quê nhà êm ắng, vẫn như thế. Còn, các giáo sĩ hoặc đạo sĩ ở nhà thờ/nhà thánh thì sao?

Quả, đây là một trong những câu hỏi khá “hóc búa” gửi bạn và tôi; thôi thì, có hóc hay không hóc, và búa có nện đầu ta cho ra tư tưởng hay không, xin cứ để đó hạ hồi rồi sẽ tính. Nay mời bạn/mới tôi, ta tính chuyện nhà Đạo có đề tài như sau. Trước hết, nay tính đến ý-kiến/ý cò của vị nhân-sĩ cũng rất Đạo, từng bộc bạch như bên dưới:

“Trong một phỏng-vấn rất chớp nhoáng, đạo sĩ nọ có tên là Herpreet Grewal sinh hoạt rất đều đặn nơi trang mạng “The Clash Blog” đã tóm gọn nỗi “thôi thúc linh đạo” trong sách ông viết với để-tài nổi-cộm rằng: “Ở chương cuối, tôi đã cảm-tạ bạn đạo nào từng cùng tôi san sẻ hành-trình xuyên-suốt trong Đạo. Nhưng, có một điều khiến tôi nghĩ ngợi mãi là mình cũng nên nói thêm với mọi người, điều này là câu trích-dẫn từ thánh Tôma Akinô vẫn từng bảo: Ai muốn đạt hạnh-phúc mình tìm kiếm, cũng thấy được niềm vui trong sáng-tạo nhiều thứ nhưng chẳng có thứ nào mà người sáng tác/sáng-tạo tìm được nơi linh đạo hết.

Có người lại cứ săn tìm quyền lực, tiếng tăm hoặc thú vui xác thịt cùng tiền bạc hoặc thứ gì khác. Riêng tôi, tôi vốn có sơ sơ một chút quyền, nên cũng chẳng kiếm tìm thêm nữa mà làm gì, mấy thứ ấy. Phần tôi vẫn dõi theo cung-cách kiếm tiền, cùng vui thú này khác nhiều hơn những gì mình đáng được hưởng; vậy mà, những thứ đó có làm cho tôi sung sướng chi thêm đâu. Tôi lại cũng có đôi chút tiếng tăm và nhiều thứ khác, nhưng nay lại nghĩ tất cả đều ra vô-nghĩa, chẳng hay ho gì.

Bởi thế nên, cả 4 thứ trên nay có chung một mẫu-số, là: sự tự cao tự đại, ra chiều có tiếng tăm, vv…  tất cả chỉ là những cái đem đến cho “tôi, những tôi và mỗi tôi mà thôi”. Quả thật, giả như bạn và tôi, ta kiếm tìm: lòng thương xót, sự hiền-lành/tử tế, cùng các sinh-hoạt từ-thiện và tình thương-yêu, thì lại khác. Cái khác là ở chỗ: mình nên bỏ sức-lực ra để làm cho người khác được hạnh-phúc/sướng vui nhiều hơn, rồi thì cuối cùng, mình cũng sẽ thấy vui. Điều đó đã giảm bớt đi một số điều tôi từng cố tạo cho mình trong đời, tức: 250 ngàn lần hoặc lượt trị bệnh chân/khớp cho người khác bớt đau và chơi nhạc cho cả triệu người nghe, cốt để thực-hiện quyết tâm tôi có được. Thành thử, ngày hôm nay, vấn đề là ta cần phải làm nhiều hơn nữa những chuyện như thế cho mọi người. Với tôi, đó là bí kíp cuộc đời của con người.” (xem Bản tin trên The Catholic Weekly 09/02/2014 có đề-tựa: “Mercy, Charity the Secret” tr. 9)

Những điều trên, tưởng chừng nghe quen, nhưng thực tế lại ít thấy từ miệng lưỡi những con người thường tình ở trong đời, tuyệt nhiên không phải của đấng bậc giảng dạy trong Đạo. Người thường trên sân khấu nghệ-thuật lại vẫn tỏ-bày bằng lời ca tiếng hát, rất như sau:

“Lòng say mê dấn bước ra đi

Vì núi sông ca khúc nguyện thề.

Bên nương dâu đường xanh ngát

Ta về đây chiều mơ gió mát

Bóng chiều tà tràn thắm hương quê.”

(Việt Lang – bđd)

“Lòng say mê”, “thắm hương quê”, đôi lúc cũng được hiểu như lòng mê say, thắm tình người đi Đạo rất đức hạnh. “Lòng say mê” trong Đạo, đôi khi còn thấy ở nhiều người/nhiều vị cứ “xục xạo” những vùng “thắm hương quê” để tìm cho ra nơi nào có người báo cho biết: Đức Nữ Trinh Maria đã hiện hình theo cách nào đó để báo mộng hoặc cho biết lúc còn sống về việc gì đó, để rồi bà con kéo nhau đi xem cho biết.

Báo gì thì báo, không biết các vị ấy có báo cho mọi người biết một tin hoặc sự việc được Đức (thánh là) Cha Phanxicô vừa cảnh-báo, như tờ báo Đạo ờ Sydney từng đưa bài báo từ thủ-đô Vaticăng do nhà báo có tên là Carol Glatz viết như sau:

“Nhiều thị-kiến có nội-dung về chuyện Đức Mẹ hiện ra ở đâu đó, nếu hiểu theo tinh thần hoặc tình-tiết sai lạc, có thể tạo ra những ngộ-nhận khiến giáo-dân xa dần Lời Chúa từng căn-dặn. Đó là ý tưởng được Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng cảnh-cáo nhiều người.

Tính tò mò/xục xạo tìm chuyện lạ hoặc phép lạ Mẹ hiện ra càng làm cho người dân đi Đạo xa rời tinh-thần Phúc Âm, xa rời Chúa Thánh Thần, cũng như niềm vui an bình và hy vọng, xa vời sự vinh-quang và nét diễm-kiều của Chúa. Đó là ý chủ lực được Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giảng giải trong bài chia sẻ Lời Chúa vào thánh lễ tại nhà khách Vaticăng hôm 14/11/2013.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn dẫn giải: Chúa của ta vẫn dạy rằng: Vương quốc Nước Trời không đến với con người theo cách hấp dẫn những người hiếu-kỳ để tìm đến, giống như thế. Đức Phanxicô diễn-giải bài Tin Mừng thánh Luca đoạn 17 câu 20-25, trong đó có đoạn mô tả đám Pharisêu hỏi Chúa: Bao giờ thì Nước Thiên-Chúa đến? Ngài đáp lời họ và nói: Nước Thiên Chúa không đến như điều ta quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ngài đang ở đây hay ở kia kìa!” , vì Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” ( Lc 17: 20) Và Ngài dạy các môn đệ của Ngài đừng nên chạy theo các dấu chỉ bề ngoài về ngày Chúa Quang Lâm lần tới…

Và Đức Giáo Hoàng Phanxicô giảng giải tiếp: “Tính hiếu-kỳ/xục xạo chỉ thúc-dẩy con người tìm xem Chúa/Mẹ đang hiện ra ở nơi nào hoặc khiến ai đó tự hào nói: tôi thấy Chúa/Mẹ hiện ra ở đây, ở đó, có nói với tôi điều này điều nọ. Chúa/Mẹ đâu phải là Giám đốc Bưu điện gửi thiệp mỗi ngày đi khắp nơi, đâu! Nước Chúa đang ở giữa chúng ta. Đừng bao giờ tìm điều lạ như các phép lạ, hiện tượng lạ, bởi vì thế giới này vẫn còn nhiều người hiếu-kỳ chỉ tìm biết những thứ đó. Tính hiếu-kỳ, làm ta xa rời tính khôn-ngoan, bởi họ chỉ thích những tin tức giựt gân, các tin nảy lửa để thoả mãn tính tò mò, tọc mạch của ngày thường. Đây là tinh thần đào thoát, đãng trí khiến ta xa rời Chúa, tinh-thần nói năng linh tinh, quá lời, tính tò mò/tọc mạch rất trần thế chỉ khiến ta phân vân, lẫn lộn thôi. (xem Bản tin trên The Catholic Weekly 24/11/2013: Francis warns on ‘visions’ of Mary, tr. 7)

Gì gì đi nữa, nói đi thì lại nói lại, tức là: nói những lời khích-lệ để cho vui, hoặc nói và kể những chuyện khá “phiếm” để bà con/cô bác nghe cho đỡ tủi. Tủi, nhưng không hổ vì từng nghe biết và từng thực hiện để xem sao. Truyện kể, là những chuyện để nghe cho vui. Nhưng trước khi kể, lại cũng xin mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm lời ca/tiếng hát người nghệ-sĩ từng lấy hứng: sau:

“Lòng trai muôn thuở những bước chân giang hồ
Kiếp sống tung bụi mờ một chiều chia phôi.
Đường đi xa tắp tháng ngày trôi,
Nhớ nhung hoài nhạc sầu chơi vơi.
Này đây khóm lá,
Này đây bao nếp tranh mờ xóa những khi chiều xuống.
Này đây bao thiết tha êm đềm tình thương.
Ôi buồn nhớ quê hương!”

(Việt Lang – bđd)

Nghe nghệ sĩ hát “nhớ quê hương” rồi, bạn và tôi ta cứ tiến vào vườn truyện kể với cốt chuyện như sau:

“Chuyện đạo tôi nghe được là như sau:

Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v…

Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh. Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.

Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện. Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.”

Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?” Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!” Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy”. Huệ Khải

Trích dẫn truyện kể như thế, dù có là chuyện nhà chùa hay chuyện của nhà Chúa, cũng thấy vui. Vui, là bởi bà con cũng như tôi/như bạn, là: ta vẫn nhận ra được đôi điều trên đời. Không chỉ mỗi lời căn-dặn/nhủ khuyên của đấng bậc nhà thờ thôi, mà là lời bộc-bạch ở khắp mọi nơi trong đời. Đó là ý-hướng “vào đời” để tìm Đạo, rất đích thực.

Đó, là gặp gỡ Đức Kitô cả nơi những người không cùng Đạo với mình. Đó, là tinh-thần “đại kết” trong tâm hồn, chứ không bằng mồm mép hay miệng lưỡi. Tự nhủ rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm Lời Vàng khi xưa Chúa từng dạy:

“Khi cầu nguyện,

anh em đừng lải nhải như dân ngoại;

họ nghĩ rằng:

cứ nói nhiều là được nhận lời.8

Đừng bắt chước họ,

vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì,

trước khi anh em cầu xin.”

(Mt 6: 5-6)

Tâm niệm Lời Chúa dặn, tưởng cũng nên hiên-ngang mà thực hiện. Thực-hiện việc nguyện-cầu không chỉ bằng kinh-kệ có sẵn cứ đọc lai rai, dài dài tính số lần đọc và số kinh. Tâm và niệm, để rồi quyết thực-hiện tinh-thần nguyện-cầu chứ không phải nội-dung của câu kinh đầy những xin. Tâm và niệm, có quyết-tâm để sẽ không có đấng nào khác, trách-móc hoặc chỉ bảo nhiều hơn Chúa.

Tâm niệm thế rồi, ta sẽ hiên ngang đầu cao mắt sáng “đi vào đời” để gặp Chúa nơi người đời, và trong đời người cũng rất “đời”.

Trần Ngọc Mười Hai

Đã và đang rắp ranh “Vào đời” như thế

để học hỏi mọi điều hay từ người đời.

Trong đời người.

KHÔNG CÒN AI LÀ KẺ THÙ

KHÔNG CÒN AI LÀ KẺ THÙ

AM. TRẦN BÌNH AN

Zenkai là một thanh niên, con của một hiệp sĩ Samurai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất lạ. Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề hành khất.

Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.

Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy. Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời. Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia, bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin:

“Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi.” Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha. Nhưng chỉ sau một năm cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai. Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng.

Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc: “Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi ?” ( Lẽ Sống ).

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, qua ngòi bút của Thánh Mátthêu, Đức Giêsu khuyên nhủ những đức tính cần thiết đề thực thi luật mến Chúa yêu người. Đó là nhẫn, xả và ái.

Nhẫn

Chữ nhẫn trong hán tự gồm chữ đao, con dao, bên trên chữ tâm, trái tim. Hàm ý gặp chuyện xấu, mà chẳng chịu nhẫn nhịn, thì tránh sao được đớn đau, như dao đâm thấu tim. Có nhẫn nhịn thì mới chuyển hóa nguy thành an, bại thành thắng, dữ thành lành.

Trong suốt ba năm rao giảng, Đức Giêsu luôn nhẫn nhục trước những xúc phạm thô bạo, khiêu khích, chống đối, oán ghét, thù địch từ quý thầy tư tế, quý luật sĩ, quý Biệt phái, quý Sađốc phái, vì Người vốn là “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung” ( Tv 85 ). Người chính là tấm gương nhẫn nhịn sáng chói. Đỉnh điểm là trong cuộc tử nạn đau đớn ê chề, Người không hề phản ứng trước những lời nói, cử chỉ lăng nhục, phỉ báng, xỉ vả, chế giễu, khinh bỉ, cũng như những lời vu oan cáo vạ những tội tày đình, đáng bị tử hình.

“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài” ( Mt 5, 39 – 40 ).

Xả

Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người. Nhưng để có thể nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục, tiên vàn cần phải xả kỷ vị tha, xả đi mọi tự ái, vị kỷ, xả thân, bỏ đi chính cá nhân mình, với những cám dỗ kiêu căng, tự đắc, tự phụ, hãnh tiến. Từ bỏ mình đi, mới có thể chấp nhận, đón chào tha nhân, mới có thể tôn trọng, quý mến người khác. Có coi nhẹ mình, mới chân thành kính trên, nhường dưới, làm tôi mọi, phục vụ, Ôsin của mọi người.

Bao lâu còn coi mình là đinh của tập thể, của cộng đoàn, Giáo Xứ, thì tầm thường hóa, vùi dập kẻ khác, coi thiên hạ chỉ đơn thuần là phương tiện tiến thân cho mình, muốn muôn người phải ca khen, tôn vinh mình mãi.

Xả kỷ còn có nghĩa phá chấp ngã như bên Phật Giáo quan niệm, không coi mình là gì hết, để có có thể vị tha, sống cho người, chết cho người. Hy sinh, dấn thân phục vụ tha nhân, mới có thể nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục.

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” ( Lc 9, 23 ). Nhờ thế, mới có thể sẵn sàng phục vụ tha nhân, làm vui lòng tha nhân, nhường nhịn, nâng đỡ, ân cần trợ giúp, đáp ứng yêu cầu khẩn thiết cấp bách. Chẳng hề kêu ca, phàn nàn vất vả mệt nhọc.

Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi” ( Mt 5, 41 – 42 ).

Ái

Nếu chỉ dừng lại chữ nhẫn thì mới chỉ là thành nhân, hay đúng hơn là kẻ sỹ, quân tử tàu, tự giải thoát khỏi vòng tục lụy, an phận trong vỏ ốc riêng tư. Nếu còn thêm xả kỷ vị tha, nhân ái, thì mới xứng làm môn đệ của Đức Giêsu. Bỏ đi tất cả cái mình có, bỏ đi cả danh giá, thể diện, để bao dung, tha thứ, thương yêu kẻ thù, vì lòng mến Chúa yêu người, mới là người Kitô hữu chính hiệu. Thiếu lòng nhân ái, thiếu Đức Mến, thì chưa thể nào thành môn đệ chân truyền của Đức Giêsu.

“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” ( Mt 5, 44 – 45 ).

Nếu con hiểu biết hạnh phúc được làm con Chúa, thì những điều sỉ nhục không thấm gì con và những lời hoan hô cũng chẳng thêm gì cho con” ( Đường Hy Vọng, số 506 ).

Lạy Chúa Giêsu, Người đã cam chịu nhẫn nhục, bao dung từ bi, tha thứ nhân hậu, xin dạy chúng con thấm nhuần, thấu đáo Lời Chúa, ghi lòng tạc dạ, để có thể thành tâm thi hành luật Tình Yêu.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã âm thầm chịu đựng bao lời dèm pha, đố kỵ, ganh ghét, thù hằn, khi đồng hành cùng Đức Giêsu bôn ba rao giảng, xin dạy chúng con biết nhẫn nhịn, xả kỷ vị tha và nhân ái, yêu thương chan hòa mọi người. Không còn ai là kẻ thù. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

 

“GIÓ SẼ MỪNG VÌ TÓC EM BAY…”

“GIÓ SẼ MỪNG VÌ TÓC EM BAY…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Ephata 599

Một lần nữa tôi có dịp theo chân một đoàn từ thiện đến Tây Nguyên. Tìm được địa điểm để có thể tiếp cận được đồng bào nghèo không phải dễ, những phẩm vật mang theo muốn trao đến trọn vẹn cho đồng bào nghèo càng không dễ chút nào. Chẳng biết cái cơ chế nào, cái luật lệ nào, cái thủ tục nào cứ phải phần trăm cho “các cấp, các ban ngành đoàn thể”, chẳng hiểu cái truyền thống hào hùng nào, cái đạo đức cách mạng nào biến những kẻ mang của cải chia sẻ cho người nghèo phải biết ơn “các cấp, các ban ngành đoàn thể” vì họ bố thí cho chúng ta cái quyền… làm từ thiện ! Nhưng thôi, tất cả cái gian lao đó, tôi đã thấy, nó không làm chùn chân những anh chị em Giáo Dân quảng đại, từ bi và nhân ái.

Tôi học được nơi họ – những người thiện nguyện – rất nhiều, sự hy sinh, can đảm, kiên nhẫn và khôn khèo. Họ không nề hà gian khổ, không kìm nén cảm xúc và không thu vén cho họ, không tìm danh lợi. Chẳng ai, chẳng nơi nào lưu dấu tên họ, chẳng ai biết họ là ai. Sau những chuyến xe gập ghềnh gian lao, những công việc nặng học vất vả, những buổi thăm viếng bị vắt kiệt sức, trở lại phố thị, vệ sinh gột rửa bụi bặm, họ trở nên thoải mái khi trút sạch những gì không có nơi đô thị trừ một cái, họ vẫn còn mang theo vào bữa ăn tối những giọt nước mắt hào sảng dành cho những thân phận nghèo hèn, kém may mắn, mà họ đã gặp nơi các buôn làng, họ đã khóc thật nhẹ nhàng, thật thoải mái khi cùng nhau nhắc lại những cuộc gặp gỡ vừa qua.

Những buôn làng tôi đã đi qua, thật nghèo, cái nghèo cùng kiệt không tả hết, những mái nhà hiu quạnh, rách nát, những con heo tộc bụng gần sát đất rong chơi tìm kiếm thức ăn cùng với những đứa trẻ mặt mày lem luốc ngơ ngác, những cái váy khô cứng xếp lớp như những miềng nhựa quấn quanh người, những cái đầu tóc không thể nào bay cho dù gió đại ngàn có cuồn cuộn kéo ngang, nó bện vào nhau, vàng cháy, khẳng khiu như những nhánh rễ cây đan quyện trên mặt đất. Những mái đầu ấy nếu được tắm gội, được chải chuốt, được đặt lên đó một nhánh hoa rừng, nếu những vòng tay đen cáu được sạch sẽ, được mang sách vở đến trường, được những miếng bánh mì lót lòng buỗi sáng, nếu những bàn chân trần có được đôi dép, tung tăng những bước chân chim với bạn bè, xếp hàng ngay ngắn trước thầy cô, hẳn số phận họ được thay đổi…

Những căn nhà bằng gỗ tồi tàn không còn nguyên vẹn, dáng kiểu nghiêng nghiêng như những triền dốc của núi đồi, hợp thành một bức tranh lạ kỳ, màu đen mốc thếch như những vạt đồi xa xa còn trơ lại đất cát sau những đám cháy nhuộm đen những gốc cây trơ trọi. Cái nghèo không thể xiết !

Chúng tôi mang đến một số phần quà như đã được nhóm tiền trạm báo trước, không ngờ số người đến nhận lại vượt quá con số dự trù. Tìm hiểu mới biết số người tăng thêm đến từ các buôn làng khác. Dân thành phố mình quen tính toán, thi nhau đưa ra giải pháp, bớt mỗi phần bao nhiêu ký để có thêm số phần cho đủ, nhưg người dân tộc tính khác, họ bảo: “Đổ chung đi, rồi cứ chia đều, thế là tốt, cùng là đồng bọn mà !” Chân chất và thật thà đến ngạc nhiên. Chúng tôi học được nhiều bài học từ núi rừng, hồn nhiên và trong sáng như thế đó…

Về lại thành phố, lòng tôi vẫn còn vương vấn, chuyến đi chớp nhoáng, thật nhanh và rút gọn, không biết lần sau có đến được vùng này nữa không, tai tôi vẫn còn ray rứt lời dặn của người môi giới: “Phát quà thôi, không được nói gì về tôn giáo”. Và một lời khác nữa của già làng: “Cán bộ dặn là không theo đạo để được là xã anh hùng !” Chúng tôi có nói gì về đạo đâu nhỉ, chỉ xin chia sẻ trong tình nghĩa làm người với nhau mà cũng khó dễ sao !?!

Bao giờ thì… “gió sẽ mừng vì tóc em bay ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 23.2.2014

 

Con Hạc Trắng

Con Hạc Trắng

Nguồn: Ephata 599

White Stork-Mindaugas Urbonas-1.jpg

Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh mai; chân dài, người mỏng, trong một bộ lông trắng muốt. Trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong cách ung dung… Con hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người ta gọi tuổi của các cụ là tuổi hạc.

Tết năm nào gia đình tôi cũng lên Đà Lạt nghỉ ngơi tại nhà 1 người anh bà con. Ðằng sau nhà anh tôi có một con đường mòn dẫn tới một công viên. Con đường mòn vào cuối Xuân chớm Hạ thật là đẹp. suối róc rách chảy, cây cỏ xanh mướt, những bông hoa núi nở trắng xóa. Chúng tôi mỗi buổi sáng dắt theo con chó đi bộ, vừa đi vừa trò chuyện.

Tôi bất giác hỏi:
– Sao con người không giống cây cỏ, vào mùa đông héo, úa, rụng, đến xuân, hạ lại hồi sinh nhỉ?
Anh tôi cười, nói:
– Cứ giữ mãi được Xuân, Hạ trong lòng mình là tốt rồi.

Chúng ta những người ở lứa tuổi đang bước vào tuổi già hay đã già. Tinh thần và thể xác không còn như hai mươi năm, mười năm về trước hay thậm chí như mới năm ngoái nữa.

Thông thường bất cứ người mang quốc tịch nào, sinh sống ở phần đất hay hoàn cảnh nào thì khi về già hay ngồi gậm nhấm lại quá khứ. Ở tuổi già, không có phương tiện di chuyển, bị trở ngại trong giao tiếp đã làm một số người sống một cuộc sống tẻ nhạt, từ tẻ nhạt đưa tới trầm cảm, khép kín.
Từ đó sinh ra bao nhiêu bệnh, và khi có bệnh, sự chạy chữa xem chừng không có hiệu quả lắm cho những người này.

Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love & Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc. Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe.

Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ.. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng.

Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy.

Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc.

Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hóa chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ, mất sức đề kháng, dễ cảm cúm.

Như vậy sự cô đơn cũng là chất độc như cholesterol trong những thức ăn dầu mỡ, mà chỉ có sống lạc quan mới cứu rỗi được.

Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra thôi!!!

Tuổi như thế nào thì gọi là già? Chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là ‘hưởng thọ’.   Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.

Chúng ta nên sống thế nào với những ngày ‘phần thưởng’ này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.

Trong “Những lời Phật Dạy” có câu:

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.
Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…

Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý.
Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v… đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau lành hơn.

Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh.

Bác Sĩ Jeff Levin giáo sư đại học North Carolina khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hàng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu những kết quả cụ thể của ” Tín ngưỡng và sức khỏe “!

Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó ông cho biết những người có tín ngưỡng khỏe mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan.

Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là “Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa”  hoặc  “Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được” .

Tôi xin kể câu chuyện Hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos.

Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.

Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..

Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.
Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.

Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ. Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.

Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.
Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.

Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ.

Thi sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói:

” Vô số chuyện xẩy tới từng ngày… Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước “. Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt.

Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là:

+Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu.
+Tinh thần chấp nhận và lạc quan.
+Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày.
+Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe.
+Làm việc thiện nguyện
.

Sinh, bệnh, lão, tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn.

+Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện, đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).
+Tham gia các lớp thể dục: Như Yoga, ngồi thiền, khí công v.v…Và ngay cả chỉ đi bộ với nhau 30 phút mỗi ngày cũng giúp cho tinh thần sảng khoái, sức khỏe tốt hơn là ở nhà nằm quay mặt vào tường.

Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: ‘Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khỏe cho xương cốt.’

Chúc tất cả anh chị em luôn cảm thấy vui khoẻ và trọn vẹn an lành trong tâm hồn

Khuyết Danh

Hai Giáo Hoàng: Một hình ảnh hiếm có!

Hai Giáo Hoàng: Một hình ảnh hiếm có!

Lm. Paul Phạm Văn Tuấn


Vatican – 22.2.2014 – Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã xuất hiện chính thức lần đầu tiên trong buổi lễ tấn phong 19 Hồng Y của Hội Thánh Công Giáo vào sáng thứ bẩy, 22.2.2014 tại đền Thánh Phêrô kể từ khi Ngài từ chức và nghỉ hưu.

Trước khi khai mạc ĐGH Phanxicô đã tiến đến người tiền nhiệm của mình là Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và hai Giáo Hoàng ôm choàng nhau thắm thiết trong tình anh em Giáo Hoàng.

Giây phút gặp gỡ chính thức trước công chúng này của hai Giáo Hoàng đã làm cho thế giới chờ đợi đến gần cả một năm qua, mặc dù trước đó hai Ngài đã gặp nhau tại nhà nghỉ mát Castel Gandolfo và trong nội thành Vatican thì hôm nay mới là lúc mọi người hiện diện trong đền thánh và qua truyền hình trực tiếp được chứng kiến tỏ tường. Nhiều người đã nhỏ lệ nhìn thấy hai vị ôm choàng nhau. Một hình ảnh thật hiếm có như thế.

Kể từ khi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI từ chức vào ngày 28 tháng 2 năm 2013 thì Ngài đã không xuất hiện chính thức cũng như không tham dự các nghi lễ trong đền Thánh Phêrô hoặc các sự kiện công cộng khác, kể cả lúc Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô chính thức nhận sứ vụ mục tử.

Hôm nay Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI mặc áo dòng trắng và bên ngoài khoác áo măng-tô màu trắng cũng như đội nón trắng của Giáo Hoàng. ĐTC Bênêđictô XVI ngồi ở hàng ghế đầu của hàng Hồng Y trên một ghệ đệm màu đỏ giống như tất cả các vị Hồng Y khác. Trước lúc khai mạc nhiều Hồng Y đã đến tận ghế ngồi chào và hỏi thăm Ngài.

Tân Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã đại diện chào mừng ĐTC Bênêđictô XVI: “Chúng con rất biết ơn đối với sự hiện diện của ĐTC đang ở giữa chúng con”. Hồng Y đoàn và mọi người hiện diện vui mừng vỗ tay chào mừng thật dài. ĐTC Bênêđictô XVI mỉm cười và giơ tay vẫy chào lại.

Cho đến nay, ĐTC Bênêđictô XVI chỉ tham dự chung một lần với ĐGH Phanxicô lúc làm phép tượng Thánh Michael trong vườn của Vatican vào tháng 7 năm ngoái.

ĐTC Bênêđictô XVI đã công bố trước ngày từ chức vào cuối tháng Hai năm 2013 là Ngài muốn sống thinh lặng trong nội thành Vatican.

Đối với ĐGH Phanxicô thì đây là lần đầu tiên Ngài tấn phong Hồng Y trong đời Giáo Hoàng đã được bắt đầu từ tháng Ba năm 2013.

Lm. Paul Phạm Văn Tuấn

LÒNG BAO DUNG

LÒNG BAO DUNG

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Tin Mừng Mat-thêu (5, 38-48)

Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu đạo đức.

Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ nầy. Nhiều người vẫn chủ trương: Ai móc mắt tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó…

Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài cầm thú, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!

Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.

Những cách ứng xử như trên thật là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.

Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu “mắt đổi mắt răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.

Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44)

Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.

Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn!

Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!

Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gãy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.

Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: “Nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo để chiến thắng tính hung bạo cứng rắn.

Tha thứ đem lại bình an cho tâm hồn.

Khi oán ghét, giận hờn, căm thù người khác, ta cảm thấy tâm hồn mình như một mặt hồ đang yên bình bỗng nhiên nổi sóng. Ta cảm thấy bực bội, cay cú và như muốn phát khùng. Ta cảm thấy mình đã đánh mất sự bình an trong tâm hồn: ăn không ngon, ngủ không yên, huyết áp lên cao, bệnh tật phát sinh và tất nhiên, nếu cứ lặp lại tình trạng nầy nhiều lần thì ta bị tổn thọ.

Trong khi đó, người bị ta giận ghét thì vẫn sống hồn nhiên, vẫn vui đùa, vẫn thanh thản hạnh phúc như không có gì xảy ra. Nỗi căm hờn giận ghét của ta dành cho y không làm y đau khổ, mà chỉ làm cho ta đau khổ thôi.

Như thế, khi ta nuôi lòng giận ghét căm hờn người khác, là ta tự phạt mình, tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, tự gieo thêm bệnh tật cho mình, tự cắt ngắn tuổi thọ của mình. Làm thế thì chẳng phải là điên rồ, dại dột lắm sao!

Thế thì ta hãy thôi đày đoạ và tự làm khổ mình, hãy trả lại bình an cho tâm hồn mình, trả lại hạnh phúc cho cuộc đời ta bằng cách tha thứ, xoá bỏ và quên đi lầm lỗi của người khác. Chỉ bằng cách nầy, ta mới tìm lại được bình an cho tâm hồn, tìm được hạnh phúc cho cuộc sống.

Lạy Chúa Giê-su,

Hình ảnh đẹp nhất trên đời là hình ảnh của Chúa năm xưa trên đồi Can-vê, dù đang bị đám đông bạo ngược phỉ báng, hành hạ, đóng đinh vào thập giá mà Chúa vẫn tha thiết cầu xin Thiên Chúa Cha thứ tha cho bao kẻ xúc phạm đến Ngài.

Xin ban cho chúng con có đủ yêu thương, có đủ bao dung và thông cảm để sẵn sàng tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con, để yêu thương và cầu nguyện cho họ như Chúa đã nêu gương.

Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng Chúa Nhật 6 thường niên : Mát-thêu 5, 38-48

38 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng.39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài.41 Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm.42 Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi.

43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?47 Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

Ukraina : Phát hiện dinh thự hoành tráng của ông Ianoukovitch

Ukraina : Phát hiện dinh thự hoành tráng của ông Ianoukovitch

Tòa dinh thự nguy nga như một cung điện của tổng thống Ukraina bị phế truất Victor Ianoukovitch ở ngoại ô thủ đô Kiev. Ảnh chụp ngày 22/02/2014.

Tòa dinh thự nguy nga như một cung điện của tổng thống Ukraina bị phế truất Victor Ianoukovitch ở ngoại ô thủ đô Kiev. Ảnh chụp ngày 22/02/2014.

REUTERS/Konstantin Chernichkin

Thụy My

RFI

Mọi chuyện đã diễn biến quá nhanh hôm thứ Bảy 22/02/2014, khi những dấu hiệu cho hồi kết của Tổng thống Victor Ianoukovitch liên tục nhân rộng. Quốc hội nắm lấy quyền hành, truất phế Tổng thống, giải tán nội các và bổ nhiệm những nhân vật thay thế, kiểm soát lực lượng an ninh và phóng thích bà Ioulia Timochenko bị cầm tù từ năm 2011. Một biểu tượng quan trọng cho việc thời thế đã thay đổi : đó là việc dinh thự riêng của Tổng thống được mở cửa cho công chúng vào tham quan.

Thông tín viên RFI tại Kiev Sébastien Gobert tường thuật :

« Đó là giây phút lịch sử, mang dáng dấp một cuộc dạo chơi cuối tuần. Nằm cách phía bắc Kiev ba mươi cây số, dinh cơ Mezhyhyria và 140 hecta bao quanh là tài sản của Nhà nước xô-viết cũ, được tư nhân hóa trong những điều kiện đáng ngờ và trở thành biệt thự riêng của ông Victor Ianoukovitch. Cơ ngơi này là biểu tượng cho những lạm dụng và nạn biển thủ công quỹ mà chế độ đã bị lên án từ năm 2010.

Khi những cánh cửa được mở ra vào sáng thứ Bảy, không hề có bạo động hay phá hoại. Hàng ngàn người dân gồm người lớn và trẻ em trong gia đình, những cặp tình nhân nắm tay nhau, họ lang thang trong khu công viên, mắt mở to sửng sốt trước sự hoành tráng của dinh cơ này. Dmytro là một trong số những người đó, anh nói : « Người ta đến để kiểm soát, để nhìn ngắm cơ ngơi của Tổng thống, tai nghe mắt thấy nhận ra nạn tham nhũng ở Ukraina. Không ai có thể tưởng tượng ra được những thứ này ».

Bên trong các tòa nhà vẫn được các nhóm tự vệ của phe đối lập canh gác, không cho khách tham quan vào để tránh mọi hành động phá phách. Đám đông thưởng ngoạn từ tòa lâu đài xa hoa, du thuyền, sở thú cho đến khu vực tắm hơi, từ nhà kính trồng cam đến ga-ra đậu đầy những chiếc xe hơi sang trọng. Tất cả đều với ý thức đáng nể : người ta khuyên không nên dẫm lên bãi cỏ !

Maria giải thích sự quan trọng của việc bảo tồn cơ ngơi này, để làm nên một địa điểm mang tính biểu tượng cho nước Ukraina mới : « Tôi mong rằng người ta sẽ dùng nơi này làm trung tâm y tế cho trẻ em và những người nghèo khổ. Hoặc là chuyển đổi thành đài kỷ niệm, hay công viên có thu tiền ».

Trong khi Ukraina vẫn là một trong những nước nghèo nhất châu Âu và nền kinh tế đang bên bờ vực phá sản, chuyến tham quan dinh cơ riêng của ông Ianoukovitch đối với nhiều người đã chứng tỏ rằng, cuộc cách mạng dẫn đến việc lật đổ một Tổng thống được bầu lên một cách dân chủ vào năm 2010 là đúng đắn. Cùng với Mezhyhyria, thêm một biểu tượng mạnh mẽ nữa đã sụp đổ »

Xin xem thêm: Dân Ukraine tràn vào tư gia Yanukovych (BBC)

 

Ukraina truất phế tổng thống, nhưng có nguy cơ bị tan rã

Ukraina truất phế tổng thống, nhưng có nguy cơ bị tan rã

Nhà đối lập Timochenko ngỏ lời với những người ủng hộ đối lập tại quảng trường Độc Lập tối 22/02/2014 sau khi được tự do.

Nhà đối lập Timochenko ngỏ lời với những người ủng hộ đối lập tại quảng trường Độc Lập tối 22/02/2014 sau khi được tự do.

Reuters

Thanh Phương

Ukraina vừa lật qua một trang sử mới với việc phế truất tổng thống Viktor Ianukovitch, và việc trả tự do cho nhà đối lập Iula Timochenko. Thế nhưng, cùng với hy vọng thoát khỏi khủng hoảng là mối lo về nguy cơ nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ này bị tan rã.

Hôm qua, 22/02/2014, sau khi quyết định trả tự do ngay lập tức cho nhà đối lập Timochenko, cựu thủ tướng, Quốc hội Ukraina đã thông qua nghị quyết về việc truất phế tổng thống Ianukovitch và tổ chức bầu cử tổng thống trước thời hạn ngày 25/05 tới.

Tuy nhiên, tại thành phố Kharkiv, ông Ianukovitch, đắc cử tổng thống năm 2010 và trên nguyên tắc đến tháng 03/2015 mới hết nhiệm kỳ, tuyên bố là ông không hề có ý định từ chức, đồng thời lên án điều ông gọi là “một cuộc đảo chính”.

Đến đêm hôm qua, không ai biết là tổng thống bị truất phế đang ở đâu. Hôm nay, một phát ngôn viên của lực lượng biên phòng ở Donetsk ( miền Đông Ukraina ) cho hãng tin AFP biết là ông Ianukovitch đã toan hối lộ họ để phi cơ của ông được cất cánh bay sang Nga, nhưng họ đã từ chối nhận tiền. Hiện nay, tổng thống bị truất phế của Ukraina đang lẩn trốn trong vùng Donetsk, quê hương của ông và cũng là một trong những thành trì của phe ủng hộ ông.

Hôm nay, Quốc hội Urkaina vừa bỏ phiếu thông qua nghị quyết chỉ định chủ tịch Quốc hội Olexandre Tourchinov làm tổng thống lâm thời, chiếu theo quy định của Hiến pháp. Theo thông báo của ông Tourchinov, từ đây đến thứ ba tuần tới, các dân biểu Quốc hội phải thành lập một chính phủ mới. Các dân biểu Ukraina cũng thông qua việc việc giao trả tư dinh nguy nga của tổng thống Ianukovitch cho Nhà nước.

Về phần nhà đối lập Timochenko, sau khi được tự do, đã đến quảng trường Độc Lập để ngỏ lời với khoảng 50 ngàn người đứng chật cứng quảng trường. Bà đã kêu gọi những người biểu tình tiếp tục cuộc đấu tranh.

Về phản ứng của quốc tế, nước Nga hôm qua cáo buộc phe đối lập Ukraina “ đã không thực hiện một nghĩa vụ nào” trong thỏa thuận ký hôm thứ sáu với tổng thống Ianukovitch và tố cáo những người mà họ gọi là “thành phần cực đoan vũ trang và những kẻ cướp phá đang đe dọa trực tiếp toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina”.

Phản ứng của châu Âu thì hoàn toàn khác hẳn. Trên trang mạng Twitter hôm qua, Ngoại trưởng Ba Lan Silorski, người đã tham gia vào thương lượng giữa phe đối lập với chính quyền Ukraina cho rằng không hề có đảo chính ở Kiev. Đại diện ngoại giao cao cấp của Liên Hiệp Châu Âu Catherine Ashton hôm qua đã kêu gọi các lãnh đạo Ukraina hành động “một cách có trách nhiệm” để duy trì toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất của đất nước.

Về phần Hoa Kỳ thì hoan nghênh việc trả tự do cho nhà đối lập Timochenko, đồng thời nhắc lại rằng chính người dân Ukraina quyết định về tương lai của họ. Từ Washington, thông tín viên Jean-Louis Pourtet gởi về bài tường trình:

“Trong một bản thông cáo, Nhà Trắng đã hoan nghênh việc làm mang tính xây dựng của Quốc hội Ukraina và kêu gọi nhanh chóng thành lập một chính phủ đoàn kết dân tộc, rộng rãi và bao gồm các nhà kỷ trị. Đối với chính quyền Mỹ, có thể là Ukraina đã gần đạt được mục tiêu đề ra: giảm dần bạo lực, sửa đổi Hiến pháp, thành lập chính phủ liên hiệp và tổ chức bầu cử trước thời hạn. Nhà Trắng cũng hoan nghênh việc trả tự do cho nhà đối lập Timochenko và chúc bà chóng bình phục.

Khi được đài NBC hỏi rằng những diễn biến gần đây có thể đưa Ukraina xích gần lại châu Âu và Hoa Kỳ hay không, đại sứ Mỹ tại LHQ Samantha Power nói rằng :” Hiện giờ, chúng tôi nghĩ trước hết đến nhân dân Ukraina. Dứt khoát phải chấm dứt các vụ bạo động và thực hiện thỏa hiệp. Người dân Ukraina phải thảo luận với nhau để quyết định về tương lai của đất nước họ”.

Hoa Kỳ cũng cam kết sẽ làm việc với các đồng minh, với nước Nga, với các định chế Châu Âu và quốc tế để Ukraina trở thành một quốc gia thịnh vượng, thống nhất và dân chủ”.

Nhưng tương lai của nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ này còn rất mờ mịt. Tại Kharkiv, các lãnh đạo của những vùng thân Nga ở miền Đông đã không nhìn nhận “tính chính đáng” của Quốc hội Ukraina, mà theo họ, đang làm việc “ dưới họng súng”. Họ cho rằng toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina đang bị đe dọa. Quốc gia có 46 triệu dân này cho tới nay vẫn bị phân làm hai, một bên là miền Đông, với dân nói tiếng Nga và thân Nga, chiếm đa số, và bên kia là miền Tây, với dân nói tiếng Ukraina và có tinh thần dân tộc rất mạnh.

 

Ân xá Quốc tế sang Việt Nam đối thoại nhân quyền

Ân xá Quốc tế sang Việt Nam đối thoại nhân quyền

21.02.2014

Đại diện tổ chức Ân xá Quốc tế trong tuần này sang Việt Nam để trao đổi về nhân quyền tiếp nối chuyến thăm của Phó Giám đốc Văn phòng Ân xá Quốc tế tại Hoa Kỳ hồi tháng 3 năm ngoái.

Thông cáo báo chí của Ân xá Quốc tế công bố ngày 20/2 cho biết trong 3 ngày làm việc tại Hà Nội, phái đoàn 4 người đã gặp gỡ các giới chức cao cấp của đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam, các đại biểu quốc hội, chuyên gia từ các viện nghiên cứu, đại diện các tổ chức phi chính phủ, và các nhà ngoại giao nước ngoài.

Trưởng phái đoàn, bà Isabelle Arradon, Phó Giám đốc Chương trình Châu Á-Thái Bình Dương thuộc Ân xá Quốc tế, bày tỏ vui mừng về chuyến đi và cho biết phái đoàn đã có các cuộc trao đổi thẳng thắn, cởi mở về các mối quan tâm nhân quyền với phía Việt Nam.

Bà Arradon nói đây là một bước tích cực và Ân xá Quốc tế mong đợi sẽ có thêm những sự giao tiếp xây dựng với chính phủ Việt Nam.

Các cuộc trao đổi trong chuyến thăm lần này xoay quanh quyền tự do bày tỏ quan điểm, các chính sách về nhân quyền, án tử hình, quyền của người dân tộc thiểu số, nữ quyền, vấn đề lao động di cư và buôn người.

Ân xá Quốc tế nói tất cả những tù nhân lương tâm, những người bị giam cầm chỉ vì bày tỏ quan điểm ôn hòa, phải được phóng thích.

Chuyến thăm diễn ra giữa bối cảnh Việt Nam vừa hoãn thi hành án 1 năm cho nhà bất đồng chính kiến Đinh Đăng Định bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối và y án 30 tháng tù về tội danh ‘trốn thuế’ đối với luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân.

Bà Arradon nhấn mạnh Việt Nam đang tìm kiếm cơ hội củng cố vai trò trong khu vực và trên thế giới, nhưng tham vọng đó phải đi cùng với trách nhiệm tôn trọng, thăng tiến, và bảo vệ nhân quyền.

Ân xá Quốc tế cho hay Hà Nội đã mời họ thực hiện những chuyến thăm kế tiếp. Ân xá Quốc tế dự kiến trong các chuyến thăm sắp tới, họ sẽ trao đổi các sáng kiến về giáo dục nhân quyền, đi tới các khu vực khác ngoài thủ đô Hà Nội, và gặp gỡ với các bên liên quan bao gồm xã hội dân sự.

Việt Nam vừa trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc năm nay và báo cáo nhân quyền tại buổi Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát UPR ở Liên hiệp quốc hồi đầu tháng này.

Nhật ký một bạn tù!

Nhật ký một bạn tù!

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Tôi quen biết cả hai vợ chồng anh Nam. Gia đình chị Nam là nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Cha chị, anh Khoa, là bạn học của tôi ở trưởng tiểu học xã. Lúc tôi làm việc ở Bệnh viện Đà-Nẵng, thì anh là xã trưởng xã Giao Hòa, gần quê tôi. Cha anh bị liệt vào hàng phú nông, đã bị du kích VC ở xã chôn sống, thời chống Pháp, chỉ vì ông chỉ trích biện pháp “tiêu thổ kháng chiến” trong đám giỗ gia đình ông. Người chỉ huy vụ thủ tiêu ông, là cháu kêu ông bằng bác, tên Cội. Cái “giỏi” của Cộng sản, là có thể khơi dậy ở người cháu lòng căm thù, để giết bác ruột. Khoa, lúc ấy, cũng là du kích, chứng kiến cái chết thê thảm của cha, mà không làm gì được. Sau đó, anh lẻn ra vùng Quốc Gia, và thề trả thù cho cha. Anh đã dẫn lính Bảo An, trong đêm tối phục kích tiểu đội du kích VC ở xã, và giết chết Cội. Thời Đệ nhị Cộng Hòa, xã Giao Hòa nằm trong vùng tranh chấp. Ban ngày, Khoa cùng Địa Phương Quân về đóng trong làng, ban đêm rút về quận. Con của Cội, lúc ấy, là “chủ tịch xã” (VC) ban đêm thường hay lẻn về đe dọa dân chúng, và thâu lúa gạo của dân.

Tết Mậu Thân, 1968, con của Cội cùng “bộ đội” miền Bắc đột nhập quận, bắt được Khoa. Chúng dẫn Khoa về làng Giao Hòa, họp dân chúng lại, mở “tòa án nhân dân” xử Khoa, chúng hành hạ Khoa rất tàn nhẫn trước khi giết chết. Chị Khoa, vận đồ tang, về làng xin xác chồng đem về chôn tại quận. Bọn Cộng sản đã không cho, lại giết chết luôn chị Khoa, chỉ vì quá uất hận, chị đã thốt lên những lời mỉa mai trong khi khóc lóc trước mộ chồng.

Hai vợ chồng Khoa chỉ có một cháu gái tên Thu, lúc ấy mới 10 tuổi. Thu bơ vơ được ông Quận trưởng Đại Lộc, Quảng Nam, nhận về nuôi cho đi học. Nam cùng quê với tôi. Cha chết sớm, vì ăn phải nấm độc, trong nạn đói thời “kháng chiến chống Pháp”. Mẹ Nam ở vậy nuôi con. Khi đồng quê mất an ninh, bà ra Đà-Nẵng giúp việc trong nhà cho tôi. Nam đậu Tú tài, vào học trường Nông Lâm Súc. Ra trường, thì bị động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức. Nam được chọn đi học khóa Tâm Lý Chiến, rồi về phục vị tại sư đoàn 1. Ông quận trưởng, cha nuôi Thu nay là Đại tá Trung đoàn trưởng, cấp trên của Nam. Thấy Nam chăm chỉ, hiền lành, ông đã cố ý tạo cơ hội cho Nam và Thu gần nhau, hiểu nhau. Đám cưới hai người do tôi tổ chức vào cuối năm 1974. Hai vợ chồng ông Đại tá không có con, lại có căn nhà lớn ở Đà-Nẵng, nên đôi tân hôn sống chung với ông bà.

Cuối năm 1978, Sĩ quan trại tù Kỳ Sơn chuyển lên trại “cải tạo” Tiên Lãnh. Trước đó mấy ngày, tù chính trị và phần lớn các đội lưu động chuyển đi “trại thôn Năm”, để chỗ cho “trại viên” mới. Một chiều ảm đạm, các trại viên cũ đều bị nhốt lại trong phòng, cửa sổ đóng kín. Nghe tiếng máy nhiều xe cam nhông đổ lại trước cổng trại. Tôi lúc ấy làm y tế trại, được lệnh ra nhận thuốc Tây mà các vị Sĩ quan mang theo, để nhập vảo tủ thuốc ký gửi. Các “cán bộ” trại đang ráo riết lục soát “trại viên” mới. Từng đống áo quần treillis, giày da đi trận, xắc đeo lưng bị tịch thu. Đồng hồ, bút máy, nhẫn đeo tay, tiền giấy phải đem ký gửi. Mỗi người nhận lại hai bộ đồ vải màu xám với một ít dồ dùng cá nhân. Công an đã đánh phủ đầu bằng cách lột sạch di tích tù binh, và nhắc nhở một kỷ nguyên thường phạm khắc nghiệt bắt đầu. Tôi gặp lại Nam, nhìn nhau mà không dám nói một lời. Vài tháng sau, Nam được ra làm chăn nuôi, nhờ có bằng kỷ sư Nông lâm súc. Lúc đầu chỉ ra chăn nuôi ban ngày. Ban đêm phải trở về ngủ chung trong phòng giam. Nam vốn ít nói và hiền lành, lại cứu được nhiều gia súc trong một nạn dịch, nên được “quản giáo” chăn nuôi dần dần tín nhiệm, đưa ra ở hẳn trong trại chăn nuôi. Thường ngày Nam dẫn một đàn bò độ 30 con, đi ăn trên những đồng cỏ quanh trại. Tuy không có thăm nuôi, song Nam không thiếu thốn nhiều về ăn uống. Nhờ lang thang với bầy bò, Nam có dịp “cải thiện” bằng cách bẫy chim và thú rừng, đào sắn. Anh cũng trồng rau, bầu bí quanh khu chăn nuôi. Mỗi khi bò đẻ, Nam lấy nhau nấu ăn. Nam cũng hay cho tôi đồ “cải thiện” mỗi khi có dịp vào trại khám bệnh.

Một lần đi đỡ đẻ cho một sản phụ ở bệnh xá dân, tôi có dịp đi ngang qua gò đất mà Nam hay đem bò ra đó gặm cỏ. Đỉnh gò có một miếu hoang, tường gạch, mái ngói, song mang dấu tàn phá của thời gian. Miếu nằm trọn vẹn dưới bóng mát của một cây đa to lớn, có nhiều rễ phụ. Bên cạnh miếu có một nghĩa địa nhỏ. Nam cho biết là có quen một giáo viên chế độ cũ (VNCH), bị đày lên dạy ở trường tiểu học gần đó. Anh nầy thường gửi thư giúp Nam qua bưu điện, khỏi sự “kiểm duyệt” của trại. Nam dẫn tôi vào miếu và chỉ chỗ kín, để khi nào có dịp ghé qua, mà không có Nam, thì giấu thư vào đấy, và Nam sẽ gửi đi giúp. Tôi đã dùng lối nầy gửi thư về nhà vài lần cho đến khi Nam được phóng thích.

Nam ra trại được hai năm, thì bỗng một hôm, nghe nói có một “trại viên” cũ, treo cổ chết ở một cây đa ngoài trai. Lúc ấy, tôi không còn làm y tế nữa, không có dịp để kiểm chứng người chết là ai, song tôi vẫn ngờ ngợ người ấy là Nam. Cho đến khi tôi dược phóng thích. Tôi trở lại chỗ miếu hoang; vào chỗ kín mà trước kia tôi giấu thơ cho Nam gửi về nhà, xem thử. Nếu quả thật Nam đã trở lại đây tự tử, chắc Nam sẽ để lại cho tôi một lá thư tuyệt mệnh. Nam để lại cho tôi không những một lá thư, mà cả một tập nhật ký, viết trên những tờ giấy rời. Kể từ lúc Nam chết cho đến giờ đã năm năm rồi. Tập nhật ký bị mối mọt đục nhiều chỗ, phải dồn vào một bao nylon. Tôi trở ra, đứng dưới gốc cây đa, xem thử Nam đã treo cổ ở cành nào. Lá đa xanh nghít, xào xạc. Dưới chân đồi con sông lượn khúc, khói lam quyện vào mái tranh một căn nhà ven sông, vươn lên bầu trời xanh thẳm. Nam đã chọn chỗ để an giấc nghìn thu. Mộ Nam là một nấm đất nhỏ, cỏ mọc lưa thưa, trong nghĩa địa cạnh miếu. Một tấm bảng gỗ mang tên họ Nam cùng với ngày tháng chết cắm ở chân mộ. tôi quỳ xuống cầu nguyện cho Nam, mặc dù lúc sống, Nam là một Phật tử. Đang lúc suy tư, tôi nghe tiếng chân đạp trên lá sau lưng. Tôi quay lại, thì một trung niên bước tới giới thiệu. Hóa ra là ông giáo viên tiểu học, thường chuyển thư cho Nam ngày xưa. Ông với Nam đã thành bạn thân. Chính ông đã nhận là bà con với nam và xin với xã được chôn cất Nam trong nghĩa địa bên miếu. Ông kể là Nam đã ở lại nhà ông một đêm. Sáng ra Nam lên đồi và không trở lại nữa. Nam còn cẩn thận gửi cho ông giữ một số tiền vừa đủ để chôn cất Nam, trước khi ra đi. Ông cũng chôn theo Nam lon gô mà Nam đeo trên vai, bên ngoài có ghi: “tro của em yêu dấu”. Tôi cám ơn tấm thịnh tình của ông. Về Saigon, tôi giở nhật ký Nam ra xem:

“02-09-79. Hôm nay “quốc khánh XHCN”. Trước kia, miền Nam không có ngày lễ nầy, vì phe Quốc Gia mặc nhiên xem ngày đó là trò hề, khởi đầu cho “cách mạng vô sản quốc tế”, loại bỏ dần dần mọi tham gia của người yêu nước thuần tuý không Cộng Sản. Tất cả trại viên” đều được nghỉ lao động. Riêng chăn nuôi, thì phải dẫn bò đi ăn. Nằm dưới gốc cây đa, thấy những lá non gió đẩy đung đưa trên nền trời xanh, lại nhớ bài thơ:của Huy Cận

“Nằm im dưới gốc cây tơ,

Nhìn Xuân trải nhựa muôn tờ lá non:

Giữa trời hình lá con con,

Trời xa sắc biển lá thon mình thuyền.

Gió qua là gió triều lên,

Hây hây gió đẩy thuyền lên biển trời.

Chở hồn lên tận chơi vơi,

Muôn chèo của nhạc, muôn lời của thơ.

Bâng khuâng như thể bao giờ,

Lênh đênh nào biết bến bờ là đâu!”

“Cuộc đời có lắm buồn phiền, là bể khổ. Có những phút phiêu diêu như thế này, để quên thân phận tù đày. Vẫn nhớ Thu không nguôi. Lời bài hát “Nắng chiều” làm anh nhớ đến lúc chúng mình mới quen nhau: “Anh nhớ trước đây, dáng em gầy gầy, dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh”. Mẹ đã trở về làng cũ Túy La, sống với gia đình chú Chín, giúp chú làm tằm. mỗi năm mẹ thăm nuôi hai lần, cũng đơn sơ, đạm bạc. Mẹ cũng không có tin tức gì về Thu.

07-10-79. Gửi thư về cho Thu nhiều lần với địa chỉ nhà cũ ở Đà-nẵng, nhưng không có hồi âm. Không biết bây giờ, em trôi giạt về đâu. Chúng mình lạc nhau ngay ở bờ biển Sơn Chà (Sơn Trà) khi nhóm binh sĩ và sĩ quan Biệt động quân đứng thành vòng tròn, mỗi người trên tay một quả lựu đạn đã mở chốt. Khi họ la lên là “đồng bào hãy tránh xa”, anh và em mạnh ai nấy chạy. Nghe một loạt nổ chát chúa và hơi gió tạt từ sau đến. Họ tự tử tập thể, chắc là vì quá tuyệt vọng. Khi anh trở lại hiện trường, thấy cảnh người chết banh thây, mùi máu tanh tưởi, anh vội rời xa, vì nghĩ chắc là em đã thoát. Rất tiếc, là trong lúc hốt hoảng, anh quên không nắm tay em cùng chạy. Mặc dù lúc đó Việt cộng đang ở đèo Hải Vân bắt đầu pháo kích vào Sơn Chà, anh vẫn vừa chạy vừa ẩn núp, để tìm em. Tìm mãi em không được, anh trở về nhà cha nuôi em, song nhà vắng tanh. Anh ở lại đó, chờ em về. Song vẫn biệt tăm. Nghe lịnh “ủy ban quân quản” thành phố, anh ra trình diện, và bị tập trung vào Vĩnh Điện, rồi Kỳ Sơn…” (nhật ký bị rách nát nhiều trang không đọc được).

“… Xa em đã gần bốn năm. Chúng mình sống bên nhau chưa đầy sáu tháng. Những kỷ niệm thân thương không hề phai nhạt:

Bốn năm trời xa em,

Chúng ta mất biết bao ân ái mặn nồng.

Nhớ đến lúc bên nhau hai đứa trần truồng…

Khắn khít uyên ương, thiên đường nguyên thủy…

Anh quỳ bên em ngất ngây thờ lạy,

Vẻ mỹ miều của thân thể trinh nguyên,

Anh hôn lên vầng trán bình yên,

Lên đôi má hây hây say tình e thẹn.

Lên đôi môi nở hoa dâng hiến,

Ôi ngọt ngào là miệng lưỡi của em.

Hơi thở thơm tho, anh mãi mãi thèm…”

(bài thơ lại bị mối đục thủng đoạn kế tiếp). Một mảnh giấy rời, có câu thơ còn đọc được. Bài thơ chắc dài, chỉ còn chục câu, gợi nhớ thương, lo lắng cho vợ lúc đi chăn bò.:

“Gió sớm mai mát rượi, như bàn tay yêu thương,

Biết bao giờ trở lại bên em, ôi cả một thiên đường!

Tiên Lãnh vào Thu, núi rừng đẹp lắm:

Trời lộng xanh cao, cỏ đồi dệt thảm,

Lấp lánh, lao xao, chạy theo nắng ấm,

Vẳng bên tai, chim gió, hát lưng trời.

Cảnh vật an bình, xao xuyến lòng người,

Ngồi dưới gốc cây đa, bên ngôi miếu cổ,

Nhìn đàn bò thong dong gặm cỏ,

Mà tâm hồn bay bổng, hướng về em.

Em ở nơi mô, cuộc sống có êm đềm!

Mà chẳng đến thăm anh tù đày khốn khó?

Lo cho em, chắc nhiều trắc trở,

Xin cầu Trời phù hộ cho em.

20-09-80. Được phóng thích ngày 28-08-80, nhân dịp “quốc khánh”. Trong giấy ra trại cho về nguyên quán làng Túy La. Hai mẹ con dựng một nhà tranh nhỏ, trên miếng đất ngày xưa, sớm chiều có nhau. Kỷ niệm thơ ấu, những ngày hồi cư đói khát, cha chết, không có vải làm khăn tang, trở lại trong giấc ngủ đầy ác mộng. Việc đầu tiên là tìm tông tích của Thu. Lên Giao Hòa hỏi thăm, chẳng có đầu mối gì, chỉ biết thêm là người giết cha mẹ Thu, đã vào tù vì tham nhũng, khi hắn ta làm “chủ tịch Hợp tác xã nông nghiệp quận”. Nghe nói, là hắn “có thể bị xử tử”.

09-10-80. Lo làm ăn, đầu tắt, mặt tối, mà chỉ đủ hai mẹ con, ngày hai bữa, ăn bắp, ghế cơm. Mẹ nhắc hồi nhỏ, mình nói ngọng, kêu bắp là bú, kêu gạo là gụ, và năn nỉ nấu “nửa bú, nửa gụ” cho dễ ăn. Nay hai mẹ con ăn “nửa bú, nửa gụ” thế là tốt rồi. Ra Đà-nẵng nhiều chuyến dò la tin tức Thu. Lúc nào cũng khấn thầm Trời Phật phù hộ tìm ra tông tích nàng. Mộng mị thấy nàng trong giấc ngủ thường xuyên. Tình cờ một hôm vào quán mì Quảng gần chợ Cồn, gặp lại Thúy, bạn học Thu, nay là giáo viên tiểu học. Thúy nói là rất mừng, gặp lại tôi, để thông báo là có thể Thu đã chết trong ngày chạy loạn ở Sơn Chà. Tôi bàng hoàng chết điếng. Em Thu! Em ra đi không một lời từ biệt! Thúy cho biết là cùng Thu chạy về mũi Sơn Chà, giữa rừng người hoảng hốt. Một quả đại bác rơi gần đó. Khi Thúy chổi dậy, thấy chung quang người chết nằm la liệt. Thu nằm bất động, rên khe khẻ, máu rỉ ra từ một vết thương trên trán. Thu thều thào nhờ Thúy báo tin cho Nam. Sau đó Thúy may mắn xuống một thuyền nhỏ ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi, vào được Saigon. Lúc trở về Đà nẵng, thì chẳng biết tôi ở đâu để nhắn tin.

12-10-80. Có người mách là có thể đến bệnh viện Đà-nẵng xem danh sách những người bị thương và chết được xe cứu thương mang về đó trong những ngày cuối thắng 03-75. Tôi đến nhà xác bệnh viện. trong quyển sổ cũ, giấy đã vàng, tôi tìm được tên em. Phải lên nghĩa địa Hòa Khánh để tìm mộ. Song mộ lại dời đi Gò Cà trong đợt dời mộ năm 1976 do “lệnh chung của tỉnh”. Nghĩa địa Gò Cà mênh mông, bao trùm nhiều đồi trọc cát sỏi. Cũng may, là anh ra tù sớm. Mộ bia của em, một tấm gỗ nhỏ, đã ngã nằm ra đất, chữ viết bằng loại sơn xấu đã nhòe nhoẹt dưới nắng mưa. Anh bới mộ em lên. Không nhầm lẫn được: hàm răng dưới em có chiếc răng cời bên trái. Trán còn mang lỗ thủng mà chị Thúy có nhắc đến. Chiếc áo lụa em bận ngày chạy loạn chưa hư nát hết. Lượm từng cái xương của em, mà nước mắt tuôn ra không ngớt. Em nhìn anh bằng cặp mắt của hư vô. Bỏ xương vào một hủ sành, anh mang về Túy La.

11-11-80. Cái thằng thôn trưởng thật hắc ám. Mỗi tuần hắn bắt trình diện một lần và khai báo, mặc dù chẳng có gì lạ. Những tạp dịch trong thôn, hắn bắt mình “xung phong” làm. Ngay chuyện gỡ mìn quanh đồn bót cũ, cũng là mình. Lúc nào cũng coi mình là “thù địch”. Trồng dâu, hái dâu, làm cỏ, nuôi tằm, công việc xoay như chong chóng. Những ngày giữ bò còn “sướng” hơn bây giờ.

Đã đốt xương em, cho vào một lon gô, để ở đầu giường, để được gần gụi em. Tối tối, lại trò chuyện cùng em. Trong lòng anh chẳng ai thay thế được em. Có nhiều cô gái trong thôn tỏ tình, nhưng anh dửng dưng, nguội lạnh. Tâm hồn giống như một ông già. Những lúc cô đơn, hay làm việc một mình, tự nhiên lại thốt lên: “đời sao buồn quá” hoặc ngâm se sẽ: “buồn ơi xa vắng, mênh mông là buồn”. Bái hát của Từ Công Phụng nói về nỗi cô đơn, khi người yêu đã mất nghe thấm thía quá: “kể từ khi em đem cô đơn mọc lên phố vắng, khi em đem nụ cười khỏi đời, từng chiều rơi, ta nghe như cõi lòng tê tái. Nghe giữa đời còn gọi tên nhau”. Đoạn giữa của bài hát đúng như lúc chúng mình đứng ở bãi biển Sơn Chà, một đêm sao sáng đầy trời, em ngước mắt nhìn anh, chờ đón nụ hôn, trong khi bài tình ca du dương, từ một quán xa vọng tới: “ngày ấy cho nhau một lần, một lần tiếng hát đồng lõa, đưa anh vào vùng trời lấp lánh, bằng những ánh sao trời vào đôi mắt ngước trìu mến”. Anh muốn tìm lại ánh mắt của em ở thế giới bên kia!

06-12-80. Những bài học về tư tưởng yếm thế hay quanh quẩn trong đầu. Có một thi sĩ Tầu không nhớ tên, đã viết:

“Tích ngã vị sinh thì,

Minh minh vô khả tri.

Thiên công hốt sinh ngã.

Sinh ngã lục hà vi?

Vô y sử ngã hàn,

Vô phạn sử ngã cơ,

Hoàn nhỉ thiên sanh ngã,

Hoàn ngã vị sinh thì”.

Tạm dịch:

“Khi tôi chưa sinh ra,

Hỗn mang nào có biết.

Trời bỏ tôi ra đời,

Ôi số phận cay nghiệt,

Không áo để che thân

Không cơm đói muốn chết,

Trả lại Trời công sinh

Trả lại tôi thời chẳng biết”.

Cuộc đời bi thảm quá. Chỉ muốn trở về với hư vô, (nhật ký rách vụn nhiều trang). Mấy trang chót còn đọc được:

15-07-82. Mẹ đã ra đi một cách êm thắm. Thường ngày mẹ dậy rất sớm. Song hôm nay mặt trời đã lên cao mà mẹ vẫn chưa thấy dậy. Lại giường mẹ xem sao, thấy sắc mặt hơi tái, sờ tay thấy lạnh ngắt. Thì ra, mẹ đã ra đi trong giấc ngủ. Mẹ lúc nào cũng sống âm thầm như chiếc bóng. Lúc giã từ vĩnh viễn, mẹ cũng không muốn quấy rầy con. Thương mẹ, thương em quá chừng. Ma tang đơn giản. Chôn mẹ cạnh mộ cha sau vườn:

Bởi con nghèo, nên mẹ chết âm thầm,

Kẻ giàu có, thì linh đình ngày xuống huyệt.

Mẹ chết rồi, con không còn gì để ràng buộc với thế gian này nữa. Con muốn trở về gốc cây đa, mà con đã trải qua nhiều giờ phút suy tư về kiếp sống con người, và yên nghỉ cùng Thu. Ở một nghĩa địa cổ Hy Lạp, người ta phát giác một bia mộ ghi những lời sau đây: “hỡi những người qua đường, hãy nhẹ chân, vì đêm nay là đêm cuối cùng ta ngủ được ngon giấc”. Ông ta lúc sống chắc trải qua những khổ đau cùng cực, nên mất ngủ triền miên. Tôi thì không đến nỗi như ông, song giấc ngủ dài yên lặng của nấm mồ, tôi thầm mong ước được như thế”.

Thì ra, nhật ký không viết cho tôi. Mà chỉ là những gửi gắm riêng tư. Nam cũng không ngờ là tôi trở lại miếu hoang nầy. Chiến tranh, chết chóc, chia ly, thời thơ ấu thiếu thốn, đau buồn đã hằn lên tâm hồn Nam nhiều đau thương!

Cha chết sớm, chưa kịp dạy Nam yêu đời. Nếu Thu còn sống, chắc Nam cũng yêu đời như ai.

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

(Trích trong: Tình Yêu Hiện Sinh Một Kiếp Người)