Nelson Mandela: tha thứ và hòa giải

Nelson Mandela: tha thứ và hòa giải

Nguyễn Trọng Nghĩa

clip_image001

Nelson Mandela, tranh Marian Kamensky (internet)

Từ cuộc đời tranh đấu phi thường của Mandela, bài học lớn nhất mà ta có thể rút ra có lẽ là sự tha thứ và quyết tâm hòa giải thực sự của ông vì ông ý thức sâu sắc được rằng đó là cách làm duy nhất nhằm tránh một cuộc nội chiến đẫm máu giữa người da đen và người da trắng ở Nam Phi.

Trong một cuộc họp quan trọng giữa ANC và các tướng lĩnh hưu trí của quân đội và các tổ chức tình báo Nam Phi, Mandela đã nói thẳng với họ rằng: “Nếu các ông muốn chiến tranh, tôi phải lương thiện thừa nhận rằng chúng tôi sẽ không thể đương đầu với các ông trên chiến trường. Chúng tôi không có phương tiện. Cuộc tranh đấu sẽ dài và gian khổ, nhiều người sẽ chết, đất nước có thể rốt cuộc sẽ thành tro bụi. Nhưng các ông đừng quên hai điều. Các ông không thể thắng vì chúng tôi đông người hơn: không thể nào giết hết chúng tôi. Và các ông không thể thắng vì có cộng đồng quốc tế. Họ sẽ đứng về phía chúng tôi và sẽ ủng hộ chúng tôi”.

Chủ trương hòa giải của ông được dựa trên một số ý tưởng không cao siêu gì nhưng vô cùng cơ bản.

Ngay từ lúc trẻ, Mandela đã thấm nhuần tư tưởng bất bạo động (ahimsa) của Gandhi mà ông rất ngưỡng mộ và xem như người thầy của mình. Nhưng đối với ông, bất bạo động không phải là một giáo điều: trong cuốn tự truyện Con đường dài đi đến tự do , ông xác định bất bạo động là một chiến lược, một quyết định thực tế sau khi đã duyệt qua các chọn lựa khác. Theo ông, “để tạo dựng hoà bình với một kẻ thù, ta phải làm việc với kẻ thù này nên anh ta thành người đối tác với ta”.

Có một quan hệ biện chứng mật thiết giữa hai bên: “Tôi không thực sự tự do nếu tôi tước đoạt tự do của kẻ khác. Kẻ bị áp bức và kẻ áp bức cả hai đều bị tước mất nhân tính của mình” ; “… tự do không phải chỉ là tháo bỏ gông cùm, mà là sống theo cách tôn trọng và tăng cường tự do của người khác” ; “Tôi biết rõ rằng người áp bức cũng phải được giải phóng như người bị áp bức. Một người tước đoạt tự do của kẻ khác là tù nhân của sự hận thù, của các thành kiến và của tinh thần hẹp hòi”.

Các tư tưởng trên đã được Mandela rút ra từ quan niệm đạo đức và triết lý nhân bản “Ubuntu” của dân tộc ông: phải ý thức sâu sắc về quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, vì “chúng ta hiện hữu, vậy thì tôi hiện hữu” và vì ”một cá nhân là cá nhân là do (có) các cá nhân khác”.

Khác với nhiều đồng chí của ông, Mandela không xem người Afrikaner là “kiều dân”, mà là người Nam Phi cũng giống như người da đen, vì họ đã lập nghiệp ở nước ông từ hơn ba thế kỷ. Do đó, ở trong tù, ông đã học tiếng afrikaans của người da trắng, nghiên cứu lịch sử và văn hoá của họ. Và; ông cũng đã khuyên các đồng chí của ông làm như thế, vì “sẽ có một ngày, các dân tộc của nước ta, kể cả dân tộc Africaner, sẽ phải hiểu nhau để sống chung với nhau”. Chính nhờ thế mà ông đã hiểu rõ nỗi sợ hãi của người Afrikaner: nếu hủy bỏ chế độ apartheid và nếu có dân chủ, người da đen, do chiếm đa số tuyệt đại, chắc chắn sẽ lên nắm quyền và sẽ tước đoạt tất cả các đặc quyền đặc lợi khổng lồ của họ, thậm chí còn có thể trục xuất, thậm chí tàn sát họ để trả thù sau mấy thế kỷ bị áp bức tàn bạo. Do đó, ông chủ trương phải làm tất cả những gì có thể làm được để trấn an họ.

Cũng như Gandhi hay Martin Luther King, Mandela đã biết chống lại các các xung lực hận thù và bạo động. Và thuyết phục người khác cũng làm như thế. Ông đã tự thắng được mình, nên tạo được cho mình sức mạnh để cùng thắng với kẻ thù, đúng như Lão tử đã viết trong Đạo đức kinh: “Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường” (kẻ thắng người là có sức lực, nhưng kẻ tự thắng mình mới có sức mạnh”. Ông chỉ ra con đường để thoát khỏi cái mà triết gia Pháp René Girard gọi là “bạo lực bắt chước” (violence mimétique), tức là không ngừng trả lời bạo lực bằng bạo lực. Thế mà, theo Mandela bạo lực không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết tranh chấp. Ông chủ trương phải nỗ lực thảo luận với kẻ thù để biến họ thành ngưới đối tác.

Cũng cần nói thêm rằng Mandela là một chính khách thực sự yêu chuộng dân chủ, tự do và công bằng. Năm 1964, trước toà án sẽ kết án ông tù chung thân, ông đã tuyên bố: “Suốt đời tôi, tôi đã tập trung vào cuộc đấu tranh vì nhân dân châu Phi. Tôi đã chống lại sự thống trị của người da trắng và tôi đã chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu lý tưởng có được một xã hội tự do và dân chủ trong đó tất cả mọi người đều sống cùng nhau trong sự hài hoà và với cùng các cơ hội như nhau. Đó là một lý tưởng mà tôi hy vọng sống và hành động vì nó. Nhưng, nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó”.

Theo ông, “không ai có thể an nghỉ chừng nào còn có những người còng lưng dưới sức nặng của đói khát, bệnh tật, thiếu giáo dục, và chừng nào hàng triệu người khác trên thế giới còn sống trong sự mất an ninh và sự sợ hãi hằng ngày”.

Mandela hoàn toàn khác với nhiều nhà giải phóng dân tộc khác hô hào dân chủ, tự do nhưng lại không chấp nhận đối lập (và ngay cả đối trọng), và nhất là lại cấm tự do báo chí, tự do biểu tình, lập đảng… Thực không thể tưởng tượng nổi là, vào thập niên thứ hai này của thế kỷ 21, vẫn còn có những người ra sức duy trì – với bất cứ giá nào – sự thống trị của tập đoàn hay đảng phái của mình, cho đến ngày tận thế !

Viết đến đây tôi chợt nhớ đến nỗi bàng hoàng của tôi khi nghe một trí thức kiêm ca sĩ dõng dạc đọc – với vẻ mặt rực lửa căm thù – đoạn sau đây trích từ bài thơ nổi tiếng “Ba mươi năm đời ta có Đảng” của Tố Hữu, trong một đêm văn nghệ Tết Việt kiều cách đây khoảng 50 năm, khi tôi mới chân ướt chân ráo đến Paris:

“Đường giải phóng mới đi một nửa

Nửa mình còn trong lửa nước sôi

Một thân không thể chia đôi

Lửa gươm không thể cắt rời núi sông

Gươm nào chém được dòng Bến Hải?

Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn?

Căm hờn lại giục căm hờn

Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu!”

Khi động cơ của tranh đấu là căm hờn, thì không đời nào thực hiện được hoà giải, chứ chưa nói đến hoà hợp dân tộc, vì hoà giải là điều kiện tiên quyết cho hoà hợp. Có thể là tôi sai lầm và lạc hậu, nhưng tôi nghĩ không thể xây dựng một hệ thống đạo đức, xã hội, chính trị trên hận thù, mà là trên nhân nghĩa, từ bi, bác ái…

Nelson Mandela (1918-2013)

Tiểu sử tóm tắt

NTN

clip_image002

Nelson Mandela, một ngày sau khi được trả tự do (1990), sau 27 năm bị cầm tù

18.7.1918: Mandela sinh ở làng Mvezo (vùng Transkei) trong một gia đình hoàng tộc thuộc dân tộc Xhosa . Dù có tên riêng là Rolihlahla (kẻ gây rối hay gây vấn đề), ông được cô giáo đặt cho tên khác là Nelson, nhưng người Nam Phi thường thân mật gọi ông là Madiba.

1939: Chống việc gia đình bắt lấy vợ, Mandela bỏ nhà trốn đến Johannesburg làm nghề gác mỏ, rồi làm cho một văn phòng luật sư vừa học hàm thụ luật ở đại học Fort Hare.

1942: tốt nghiệp cử nhân luật.

1943: tiếp xúc với ANC. Ghi tên ở đại học Witwatersrand để lấy bằng luật sư. Sau đó ông tiếp tục học luật ở đại học Witwatersrand

1944: ông gia nhập Đảng Quốc đại Nam Phi (ANC), hoạt động trong Đoàn Thanh niên của đảng. Cũng trong năm này ông lấy bà Evelyn Ntoko-Mase.

1945: ANC đòi phổ thông đầu phiếu phi chủng tộc thay vì chỉ chống phân biệt chủng tộc.

1948: thắng lợi của Đảng Quốc gia kéo theo một chính sách phân biệt chủng tộc mới, cực kỳ tệ hại, được gọi là apartheid . Từ năm 1913 đến 1942, chính quyền của người da trắng (Afrikaner) thông qua nhiều đạo luật bất công: phân biệt cư trú, cấm đình công… và nhất là cấm người da đen sở hữu đất đai bên ngoài các khu cư trú của họ (kết quả là dù chỉ chiếm chưa đến 10 % cư dân, người Afrikaner sở hữu đến 80 % đất canh tác).

1950: ANC lấy lại chương trình của Đoàn Thanh niên thuộc ANC, chủ trương đình công, bất tuân dân sự, tẩy chay và bất hợp tác với chế độ apartheid.

1951: Mandela cùng bạn học là Olivier Tambo trở thành hai luật sư da đen đầu tiên ở Johannesburg.

1952: được bầu làm chủ tịch Đoàn Thanh niên của ANC, Mandela phát động chiến dịch đòi hủy bỏ các đạo luật phân biệt chủng tộc mà đỉnh cao là cuộc biểu tình ngày 6.4.1952: Mandela ở trong số 8500 người bị bắt.

1953: bị kết án 8 tháng tù treo, cấm hội họp, quản thúc tại gia ở Johannesburg

5.12.1956: bị bắt cùng với 155 người khác vì tội phản bội.

1957: li dị với bà Evelyn Ntoko-Mase.

1958: lấy bà Winifred Madikizela.

21.3.1960: tàn sát ỏ Sharpeville (69 người bị giết ). Liên hiệp quốc lên án, đòi Nam Phi phải bỏ chính sách apartheid.

1961: ANC bị cấm. Thành lập Umkhonto we Sizwe (MK), tổ chức vũ trang của ANC do thấy đấu tranh bất bạo động không có hiệu quả trước chính sách đàn áp của chính quyền. Mandela chuyển sang hoạt động bí mật.

5.1961: phát động tổng đình công, rồi phát động chiến dịch phá hoại những mục tiêu biểu tượng nhưng cố không gây thiệt hại nhân mạng.

1962: bí mật sang Anh sáu tháng rồi sang Ethiopia tập luyện quân sự. Sau khi về Nam Phi bị bắt, rồi bị kết án 5 năm tù.

12.6.1964: Mandela và sáu đồng chí khác bị kết án tù chung thân, bị giam 18 năm ở đảo Robben.

6.1976: tàn sát ở Soweto (hơn 300 người bị giết).

1982: chuyển sang nhà tù Pollsmoor và bị giam cách ly trong sáu năm.

2.1985: Mandela từ chối đề nghị trả tự do cho ông của tổng thống Pieter Willem Botha nếu ông từ bỏ đấu tranh vũ trang.

1988: Được đưa vào bệnh viện vì bị lao, rồi được chuyển sang nhà tù Paarl. Mandela trở thành tù nhân chính trị nổi tiếng nhất thế giới trong khi tình hình ngày càng thêm xấu cho chính quyền apartheid: với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự chấm dứt chiến tranh lạnh, nó ngày càng bị các nước phương Tây – kể cả Mỹ – bỏ rơi ; ANC ngày càng hoạt động mạnh ở bên trong cũng như ở ngoài Nam Phi.

7.12.1988: quản thúc tại gia.

6.1988: hòanhạc mừng Mandela 70 tuổi ở Wembley, được 600 triệu người ở 67 nước xem qua truyền hình trực tiếp.

1989: Mandela đề nghị thương thuyết giữa chính phủ Nam Phi và ANC để tránh việc hai phe tàn sát lẫn nhau.  Mandela cho rằng tổng thống Frederik de Klerk là người nghiêm túc và lương thiện nhất trong số các nhà l ãnh đạo da trắng, nên có thể thương thuyết với ông ta.

11.2.1990: được trả tự do sau 27 năm bị cầm tù.

26.2.1990: hô hào các đồng chí của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang.

8.1990: ANC chính thức từ bỏ đấu tranh vũ trang.

30.6.1991: Mandela được bầu làm chủ tịch ANC lại trở thành hợp pháp. Thương thuyết với tổng thống Nam Phi Frederik de Klerk

30.6.1991: Hủy bỏ chế độ apartheid.

11.1991: ly thân với bà Winnie, rồi ly dị trong năm sau.

9.1992: ký kết hiệp định về quốc hội lập hiến và chính phủ chuyển tiếp

Đêm 17.6.1992: ở Boipatong đảng Inkatha Tự do của người Zoulou (đảng này chịu cộng tác với chính quyền apartheid) tàn sát 46 người da đen.

7.9.1992: ở Bisho, đảng Inkatha Tự do lại giết  29 người và làm bị thương 200 người

17.3.1993: với sự ủng hộ của Mandela, de Klerk được 68,7% cử tri ủng hộ trong cuộc trưng cầu ý kiến dân da trắng về việc chấm dứt apartheid.

1993: Mandela và de Klerk được giải Nobel hoà bình năm 1993 nhờ đã hoạt động “nhằm hủy bỏ chế độ apartheid và nhằm xây dựng một nước Nam Phi mới và dân chủ”. Khi nhận giải, Mandela đã tôn vinh sự can đảm của de Klerk

10.4.1993: sau khi Chris Hani, một nhà lãnh đạo của MK, bị ám sát, Mandela kêu gọi dân Nam Phi giữ bình tĩnh. Nhưng nhiều cuộc bạo loạn bùng nổ sau đó.

27.4.1994: tổng tuyển cử đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi. Trước đó, Mandela phải thương thuyết trong ba tháng rưỡi với tướng Constand Viljoen, lãnh tụ của Mặt trận nhân dân Afrikaner (Afrikaner Volksfront) tập hợp nhiều tổ chức bảo thủ hay cực hữu muốn tạo ra một “nhà nước thuần túy chủng tộc” (Volkstaat) cho người Afrikaner và xem de Klerk là kẻ phản bội ; mặt khác ông cũng phải thương thuyết cực kỳ khó khăn với vua của người Zoulou là Goodwill Zwelithini kaBhekuzulu muốn lập ra nước zoulou ở Natal và với đảng Inkatha Tự do của hoàng thân Mangosuthu Buthelezi (cả hai đều đã cộng tác với chính quyền apartheid). Rốt cuộc Mandela thuyết phục được họ chấp nhận tham gia tuyển cử. ANC được 62,6% số phiếu. Được bầu làm tổng thống, ông thành lập chính phủ thống nhất dân tộc với sự tham gia của ANC, Đảng Quốc gia, và đảng Inkatha Tự do. Frederik de Klerk được cử làm Phó tổng thống. Mandela đã mời các cai ngục ở đảo Robben và công tố viên đã đòi ông phải bị kết án tù chung thân tham dự lễ nhận chức tổng thống của ông.

Nelson Mandela với thủ quân đội bóng bầu dục Nam Phi F. Pienaar, 1995

1995: chủ trương “forgive but not forget” (tha thứ nhưng không quên), Mandela cho thành lập Ủy ban sự thật và hoà giải do Tổng giám mục Desmond Tutu làm chủ tịch để thu thập chứng từ về các bạo hành và tội ác đã phạm trước đó không những của chính quyền apartheid mà ngay cả của các tổ chức chống apartheid như ANC. Những người chịu công khai thú tội sẽ được ân xá. Trái lại những người không chịu thú tội sẽ bị đưa ra toà, nếu nhà cầm quyền tìm ra đủ bằng chứng. Để nêu gương, Mandela kể chi tiết các bạo hành của ANC, đặc biệt là ở Angola, trong những năm 1970. Ông công nhận là trong khi đấu tranh, ANC cũng đã vi phạm nhân quyền và phê phán một số người trong ANC đã toan hủy bỏ các thông tin về các sai trái của ANC ghi trong các báo cáo của Ủy ban.

8.1995: Mandela đến tận nhà gặp vợ goá cực kỳ bảo thủ của Hendrik Verwoerd, lý thuyết gia tệ hại nhất của chính sách apartheid. Cũng trong năm này, Mandela kêu gọi dân da đen ủng hộ đội Springboks (mà trước đó họ tẩy chay vì chỉ gồm toàn cầu thủ da trắng) ở giải bóng bầu dục thế giới 1995.

1997: Mandela từ chức chủ tịch ANC.

18.7.1998: kết hôn – vào tuổi 80 – với bà Graça Machel, vợ goá của tổng thống Samora Machel (Mozambique). Ông tuyên bố như sau về mối tình này: “Yêu đương là một trải nghiệm mà mỗi người nên biết. Đối với tôi, đó là một trải nghiệm phi thường”.

1999: sau khi hết nhiệm lỳ, Mandela không tái ứng cử tổng thống để phục vụ nhân dân Nam Phi cho đến chết như nhiều nhà cách mạng khác!

2000: Mandela được bổ nhiệm làm trung gian để giải quyết tranh chấp giữa người Hutu và người Tutsi ở Burundi.

1.2002: Mandela chính thức tích cực tham gia chống bệnh AIDS ở châu Phi.

5.12.2013: Mandela từ trần.

N. T. N.

Nguồn: diendan.org

Ra mắt tập hợp blogger VN ‘vì tự do’

Ra mắt tập hợp blogger VN ‘vì tự do’

Thứ tư, 11 tháng 12, 2013

Buổi ra mắt tại Hà Nội diễn ra khá suôn sẻ, nhưng xảy ra bạo lực tại Sài Gòn

Một tập hợp mới của những người viết blog ra mắt tại Việt Nam để ‘góp phần phát huy nhân quyền, tranh đấu cho tự do’.

Nhóm này mang tên Mạng Lưới Blogger Việt Nam, được nói là một tập hợp các blogger ở nhiều tỉnh thành trong cả nước, từ Hà Nội, Đà Nẵng đến Sài Gòn và cả blogger người Việt ở nước ngoài.

Hôm 10/12, nhân Ngày Quốc Tế Nhân Quyền, họ công khai tổ chức buổi ra mắt ở Hà Nội và Sài Gòn.

Bấm Trang web của nhóm này cho biết 7h tối ngày 10/12 tại Hà Nội, khoảng hai chục blogger có mặt tại cafe Thủy Tạ ven hồ Hoàn Kiếm.

Họ cho biết buổi gặp mặt diễn ra mà không bị công an quấy rối, mặc dù biểu ngữ chào mừng ngày nhân quyền của họ cũng bị an ninh thu giữ.

Buổi ra mắt ở Hà Nội có sự tham dự của TS. Nguyễn Quang A, một nhà bình luận và hoạt động có tiếng ở thủ đô, và nhà nghiên cứu-blogger người Mỹ đang dạy ở Hong Kong, Jonathan London.

Tuyên bố của nhóm viết: “Chúng tôi tin rằng mọi công dân Việt Nam phải có quyền tự do tư tưởng và tự do bày tỏ quan điểm mà không bị can thiệp hay đối xử bất công; tin rằng chúng ta có quyền tìm kiếm, tiếp nhận, phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương cách như đã được xác định bởi Điều 19 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.”

Họ nói thêm “công dân Việt Nam phải có quyền quyết định vận mạng của mình và góp phần quyết định vận mạng của đất nước; và những quyền này không thể là đặc quyền, được giao phó hay bị giành riêng bởi một nhóm người, một tập thể nào trong xã hội”.

Tuyên bố nói công dân Việt Nam phải có quyền tự do tư tưởng

Vị khách nước ngoài, tiến sĩ Jonathan London, nói sự kiện là “một bước tiến lớn của Việt Nam và của chiến dịch vì nhân quyền ở Việt Nam”.

Ông hy vọng sự ra đời của tập hợp “sẽ đánh dấu bước đi đầu tiên trong hàng loạt bước đi hướng tới một Việt Nam thực sự tự do”.

Trong khi đó, cùng ngày tại Sài Gòn, nhóm này nói đã xảy ra bạo lực khi vào 5h chiều, “hàng chục dân phòng, phụ nữ tự quản đã bao vây nhà của blogger Nguyễn Hoàng Vi”.

Khi cô Hoàng Vị cùng một blogger khác, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (biết đến với bút danh Mẹ Nấm) bước ra ngoài, định gọi taxi đến tham dự cuộc gặp mặt, thì bị “đánh túi bụi”.

Nhóm cáo buộc con của cô Như Quỳnh, 13 tuổi, “cũng bị đánh rất đau”.

Hai blogger khác, Hoàng Dũng và Trần Hoàng Hận, cũng được nói là bị đánh và hình ảnh về họ được đưa lên mạng.

Theo giới quan sát, việc ra mắt Mạng Lưới Blogger Việt Nam là diễn biến mới trong cố gắng thách thức biên độ của sự kiểm soát của chính quyền trong bối cảnh việc lập hội vẫn bị giới hạn tại Việt Nam.

Loạn thờ cúng do đâu?

Loạn thờ cúng do đâu?

Tiến sỹ Đoàn Xuân Lộc

Gửi cho BBC Việt ngữ từ London

Thứ tư, 11 tháng 12, 2013

Đi chùa ngày rằm tháng Giêng

Ngày rằm tháng Giêng ở một ngôi chùa

Một xu hướng, hay có thể nói một hiện tượng – thu hút sự chú ý của dư luận trong thời gian qua là tại Việt Nam càng ngày càng có nhiều người – từ dân nghèo tới đại gia đến quan chức, và thậm chí một vài cơ quan nhà nước – ‘đi chùa’, ‘thờ cúng’ hay ‘cầu siêu’.

Nhu cầu tâm linh, ít hay nhiều ai cũng cần, xã hội nào cũng có. Nhưng điều làm dư luận quan tâm là việc thờ cúng tại Việt Nam không chỉ đang xảy ra tràn lan, bất chấp quy cách mà còn bị biến tướng, lạm dụng, gây nhiều phản cảm, phản tôn giáo, phản tâm linh.

Câu hỏi đặt ra là tại sao có ‘hiện tượng’ này và đặc biệt vì đâu có việc ‘loạn thờ cúng’ như vậy?

Thực hư lẫn lộn?

Dù đúng hay sai, ít nhiều phải thừa nhận rằng con người tìm đến với tôn giáo hay coi trọng đời sống tâm linh một phần cũng vì thấy mình bất lực hoặc phải đối diện với nhiều tai ương, khốn khó trong cuộc sống, trong cuộc đời của mình.

Và khi càng thấy mình bất lực, càng gặp nhiều khó khăn người ta lại càng cần đến thần linh hay một đấng vô hình nào đó.

Trong một xã hội nhiều rủi ro – từ thực phẩm đến giao thông – như Việt Nam, chuyện người dân tìm đến chùa chiền hay tổ chức thờ cúng để cầu phước, cầu may cho mình hay cho người thân của mình cũng không khó hiểu.

Theo số liệu thống kê của Ủy ban An toàn Giao thông Việt Nam, trong 10 tháng đầu năm 2013 Việt Nam đã có đến gần 8.000 người tử vong và hàng chục nghìn người bị tàn phế vì tai nạn giao thông.

“Một câu hỏi khác và quan trọng hơn được đặt ra là tại sao Bộ Giao thông – Vận tải – một cơ quan của một nhà nước thế tục, hơn nữa theo ý thức hệ cộng sản và chủ trương vô thần – lại đứng ra tổ chức một nghi lễ tôn giáo như thế?”

Đó là con số không nhỏ chút nào. Khi biết tai nạn luôn rình rập, có thể đến lúc nào, bất cứ ở đâu và với bất cứ người nào, chắc ai cũng muốn cầu mong chính mình và gia đình mình không rơi vào cảnh đau thương, mất mát ấy.

Và xem ra không chỉ người dân mà các quan chức Việt Nam cũng thấy ‘bất lực’ trước tình trạng tai nạn giao thông nhiều và càng ngày càng tăng như vậy.

Giữa tháng 11 vừa qua có một Đại lễ Cầu siêu cho các nạn nhân giao thông tại chùa Bái Đính (Ninh Bình) và được biết đây cũng là lần thứ hai Đại lễ Cầu siêu cho các nạn nhân tử vong vì tai nạn giao thông với quy mô quốc gia được tổ chức tại Việt Nam.

Việc một tôn giáo tổ chức một nghi lễ tín ngưỡng như thế để cầu cho linh hồn, hương linh những người tử vong được siêu thoát hoặc phần nào xoa dịu, an ủi chia sẻ bao mất mát, đau thương với người nhân của những người bị nạn – hay qua một nghi lễ như vậy mời gọi, nhắc nhở mọi người biết ý thức hơn về việc chấp hành luật giao thông – là một điều tốt, nên làm.

Có điều Đại lễ Cầu siêu ấy lại do Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia Việt Nam cùng với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức, và điều này đã làm nhiều người đặt câu hỏi.

Phải chăng Ủy ban An toàn Giao thông và Bộ Giao thông – Vận tải nói riêng đang bó tay, bất lực trước tình trạng tai nạn giao thông tràn lan và phải ‘cầu siêu’ để đối phó với tình trạng ấy?

Một câu hỏi khác và quan trọng hơn được đặt ra là tại sao Bộ Giao thông – Vận tải – một cơ quan của một nhà nước thế tục, hơn nữa theo ý thức hệ cộng sản và chủ trương vô thần – lại đứng ra tổ chức một nghi lễ tôn giáo như thế?

Nếu cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi này chắc ai cũng có tìm thấy được những nguyên nhân khác – gián tiếp hay trực tiếp – dẫn đến tình trạng loạn thờ cúng ở Việt Nam. Trong số đó có sự nhập nhằng, mập mờ, nửa thực, nửa mơ của một nền ‘kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’.

Với những ai quan tâm hay theo dõi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt Nam chắc ít nhiều cũng có cảm giác rằng tại quốc gia này mọi thứ dường như đang lẫn lộn, không biết đâu là giả, đâu là thật.

“Vì luật pháp không rõ ràng, nghiêm minh, vì thiếu cạnh tranh lành mạnh trong kinh tế cũng như chính trị, muốn làm ăn xuôi chảy, muốn có tiền tài danh vọng, muốn được thăng quan tiến chức, người ta phải ‘đi chùa’, phải ‘khấn vái’ cầu may.”

Vì luật pháp không rõ ràng, nghiêm minh, vì thiếu sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh tế cũng như chính trị, muốn làm ăn xuôi chảy, muốn có tiền tài danh vọng, muốn được thăng quan tiến chức, người ta phải ‘đi chùa’, phải ‘khấn vái’ cầu may.

Nếu pháp luật thực sự nghiêm minh, nếu có một xã hội bình đẳng và một cơ chế minh bạch – nơi đó hay qua đó mọi người có thể cạnh tranh lành mạnh, có thể làm giàu hay ‘làm quan’ chính đáng bằng chính nỗ lực, khả năng, tài đức của mình – chắc ít ai phải cần đến ‘âm trợ, dương phù’ như vậy.

Và khi biết mình trở thành ‘đại gia’ hay được ‘làm quan’ nhanh một phần vì ‘nhờ sự hỗ trợ của thần linh’, người ta lại càng cảm thấy mình cần phải đến đền chùa. Đến một phần để ‘tạ ơn’, một phần để xin cho mình giữ được chức, khỏi bị nạn.

Hơn nữa, có thể khi đã có tiền, có quyền nhưng thấy trống vắng, bất an, người ta lại cảm thấy cần đi chùa, cần thờ cúng nhiều hơn để cầu an.

Có người cũng vì giàu quá nhanh, có quá nhiều tiền và muốn để lại ‘công đức’ hay vì muốn tạo ‘tiếng thơm’ cho mình, dòng họ của mình, họ đã bỏ tiền xây dựng những ngôi chùa lớn, hoành tráng ghi tên mình.

Nhưng có thể còn có một lý do khác ít hay nhiều dẫn đến nạn thờ cúng tràn lan và tùy tiện hiện nay ở Việt Nam.

Tượng phật ở Việt Nam

Đảng thành ‘tôn giáo’?

Nếu quan sát các nghi lễ, cách vận hành, tổ chức, hoạt động, lãnh đạo – hoặc đọc các văn kiện – của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, ai cũng có thể nhận ra rằng Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS) không còn là một đảng chính trị thuần túy mà là ‘một tôn giáo’ vì nó có không ít những hành vi, cử chỉ không khác gì một tín ngưỡng, một tôn giáo hay một dòng tu.

Lời Mở đầu của Bản Hiến pháp sửa đổi, vừa mới được Quốc hội Việt Nam thông qua hôm 28/11, viết: ‘Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh … , Hiến pháp này…’.

Đọc đến đây, chắc nhiều người – đặc biệt những ai đã từng xem qua các văn bản quan trọng của các tôn giáo, dòng tu như luật dòng – sẽ có cảm giác rằng mình không phải đang đọc một bản Hiến pháp của một quốc gia mà là một hiến chương hay luật của một tôn giáo, một dòng tu.

Tại những kỳ họp quan trọng, chính thức của ĐCS và các cơ quan Nhà nước hay tại các phòng họp của các công sở hoặc tại các cuộc mítting của các ban ngành ở Việt Nam, đều có một khán đài hay một bàn thờ. Trên đó, luôn có tượng hay hình của ba người – được coi là ba ‘vị thánh tổ phụ’ – là Mác, Lênin và Hồ Chí Minh. Đối với người Việt Nam, vì quá quen nên ít ai quan tâm đến những chi tiết này.

Nhưng với người nước ngoài hay những ai hay để ý, chắc chắn họ cảm thấy như mình đang vào trong một nhà nguyện, một ngôi chùa hay đang tham dự một nghi lễ tôn giáo.

“…Hình tượng của Lênin bị lật đổ, đập vỡ tại nhiều nước Đông Âu khác trước đây – hay như ở Ukraina trong những ngày qua – giới lãnh đạo Việt Nam vẫn quyết đi theo ‘ánh sáng’ của họ và ‘tôn thờ’ họ.”

Gần đây, nhằm chấn chỉnh tình trạng tha hóa, nham nhũng nơi ‘một bộ phận không nhỏ’ quan chức của mình, ĐCS phát động chiến dịch ‘tự kiểm điểm’. Thái độ, hành vi tự kiểm điểm hay tự sám hối cũng là một cử chỉ được nhiều tôn giáo khuyến khích, thực hành.

Hơn nữa, chính quyền Việt Nam còn phát động chiến dịch ‘học tập tư tưởng Hồ Chí Minh’. Việc học hỏi và noi theo các nhân đức của những vị thánh, những vị tiền nhân đầy đức hạnh cũng là một điều thường thấy nơi các tôn giáo.

Chưa hết, tại Việt Nam ảnh tượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được treo, được đặt, được ‘thờ’ hầu như khắp mọi nơi và xác thì được tẩm liệm rồi đặt trong hòm kính và trưng bày trong một lăng lớn nằm ngay giữa quảng trường lớn nhất, quan trọng nhất ở thủ đô.

Xem ra, khi làm như vậy, Đảng và chính quyền Việt Nam ‘thờ’ ông không khác gì – thậm chí còn hơn – những tín đồ của các tôn giáo thờ kính những người sáng lập tôn giáo của mình.

Điểm lại một vài trường hợp trên để thấy rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước họ lãnh đạo vận hành, hoạt động không khác gì một tôn giáo.

Và việc ĐCS và Nhà nước Việt Nam – một đảng và một nhà nước có khuynh hướng hay chủ trương vô thần – lại có những hành vi, cử chỉ, nghi lễ rất tôn giáo, rất tín ngưỡng như thế đã và đang góp phần làm nảy sinh nhiều ‘hiện tượng’ khác trong đó có tình trạng loạn thờ cúng.

Không cần phải có nhiều kiến thức, nếu quan tâm thời cuộc, chắc ai cũng có thể biết chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội mà Mác và Lênin chủ trương, khởi xướng đã thất bại ngay tại nơi chúng được hình thành. Và chắc không ít người trong giới quan chức Việt Nam hiện hành cũng hiểu rõ điều này.

Nhưng trong khi học thuyết, chủ nghĩa của họ bị vứt bỏ và hình tượng của Lênin bị lật đổ, đập vỡ tại nhiều nước Đông Âu khác trước đây – hay như ở Ukraina trong những ngày qua – giới lãnh đạo Việt Nam vẫn quyết đi theo ‘ánh sáng’ của họ và ‘tôn thờ’ họ.

Việc cả một hệ thống chính trị ‘tôn thờ hai vị thánh’ ấy và coi chủ nghĩa của họ là ‘ánh sáng’ chỉ đường khi nhiều người biết nó rất đen tối, mù mờ – hay ngay cả chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thừa nhận đến ‘cuối thế kỷ 21 chưa chắc Việt Nam có Chủ nghĩa xã hội’ trong một phát biểu được báo chí trích thuật và dư luận bình phẩm nhiều gần đây – chuyện quan chức và đặc biệt người dân Việt Nam thiếu hiểu biết về tôn giáo, tín ngưỡng, dẫn đến tình trạng mà có người gọi là ‘cầu cúng, giết mổ, ngoại cảm’ ở Việt Nam hiện nay cũng không có gì lạ.

Hơn nữa, chắc cũng không ít người tự hỏi nếu coi mình là ‘sáng suốt’, ‘quang vinh muôn năm’, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại không bằng chính khả năng, kiến thức, tài đức của mình tìm ra một hướng đi thích hợp, tốt cho mình, cho đất nước và người dân của mình mà phải cứ viện vào ‘ba vị thánh tổ phụ’ ấy và dựa vào chủ nghĩa, tư tưởng của họ.

Trong một lần trả lời phỏng vấn BBC gần đây, Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian đã nhận xét rằng càng ngày càng có nhiều quan chức Việt Nam tìm đến thế giới tâm linh và tự hỏi phải chăng họ làm như vậy vì họ ‘thiếu niềm tin vào bản thân, vào hệ thống chính quyền của mình’.

Nhưng, với việc Đảng Cộng sản Việt Nam luôn dựa vào Mác, Lênin và Hồ Chí Minh để tìm sự chính danh hay nhờ vào ‘ánh sáng’, tư tưởng của họ để vận hành, để duy trì quyền lãnh đạo phải chăng không chỉ từng đảng viên và quan chức Việt Nam thiếu niềm tin vào cá nhân mình, vào đảng của mình mà cả Đảng Cộng sản và hệ thống chính quyền Việt Nam cũng đang thiếu niềm tin vào chính mình?

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Tiến sỹ Đoàn Xuân Lộc, gửi cho BBC Tiếng Việt từ London.

VN bị thúc giục cải thiện nhân quyền

VN bị thúc giục cải thiện nhân quyền

Thứ tư, 11 tháng 12, 2013

Chính quyền Việt Nam giải tán buổi hoạt động cổ súy nhân quyền trong nước hôm 8/12

Anh, Đức, Mỹ vừa đồng loạt ra tuyên bố kêu gọi Việt Nam tôn trọng quyền con người và mở đường cho các thanh sát viên quốc tế về nhân quyền.

Động thái này diễn ra vào dịp ngày kỷ niệm Bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua, ngày 10/12.

Bấm Thông cáo đăng tải trên trang web Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội nói “Hoa Kỳ và Việt Nam đã tái khẳng định cam kết của hai nước về ủng hộ Tuyên ngôn Nhân quyền trong Quan hệ Đối tác Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam được Tổng thống Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang công bố hồi tháng 7”.

“Thông điệp rất rõ ràng: Hoa Kỳ ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập, đồn thời tôn trọng nhân quyền và pháp quyền.”

Tuyên bố của phía Hoa Kỳ nhấn mạnh việc Việt Nam “đạt được tiến bộ rõ ràng về nhân quyền có tầm quan trọng quyết định” trong quan hệ giữa hai nước và “có tác động đến mọi khía cạnh của chính sách đối ngoại”.

“Chúng tôi đều đồng thuận rộng rãi rằng những tiến bộ đáng kể về nhân quyền là điều cần thiết để có quan hệ song phương chặt chẽ hơn và để củng cố vững chắc hơn nữa những lợi ích mà chúng ta đã đạt được trên một loạt các lĩnh vực gồm kinh tế, chính trị, xã hội, và an ninh.”

“Chúng tôi kêu gọi chính phủ Việt Nam thực hiện các bước cụ thể để cải thiện thành tích của mình, bao gồm cả việc trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm, cho phép mọi người Việt Nam được bày tỏ ý kiến của bản thân, và bảo vệ tự do tôn giáo trên toàn quốc.”

Đại sứ Mỹ David Shear cho biết: “Chỉ ít tháng sau cuộc họp giữa Tổng thống và Chủ tịch của hai nước chúng ta, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hiệp Quốc về Chống Tra tấn và đã chủ động liên lạc với Báo cáo viên Đặc biệt về Tự do Tôn giáo và Tín ngưỡng để thu xếp một chuyến thăm Việt Nam vào mùa thu.”

Mở đường cho chuyên viên Liên Hiệp Quốc

“Việc Việt Nam đạt được tiến bộ rõ ràng về nhân quyền có tầm quan trọng quyết định trong quan hệ giữa hai nước và có tác động đến mọi khía cạnh của chính sách đối ngoại”

Tuyên bố của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội

Trong Bấm tuyên bố chung đưa ra hôm 9/12, Đại sứ Cộng hòa Liên bang Đức, Jutta Frasch, và Phó Đại sứ Vương Quốc Anh, bà Lesley Craig, nói việc trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc “đặt Việt Nam trước một cơ hội và trách nhiệm to lớn”.

Đại diện của Anh, Đức thừa nhận “Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong việc thực thi các quyền xã hội và kinh tế”, tuy nhiên, “đáng tiếc là tại Việt Nam, nhiều người bị giam giữ vì công khai bày tỏ chính kiến”.

“Liên minh châu Âu và các nước thành viên ước tính có hàng chục tù nhân chính trị tại Việt Nam, đa số bị giam giữ vì thực hiện quyền tự do chính kiến và tự do hội họp của họ. Các tổ chức phi chính phủ đánh giá thấp Việt Nam trong việc tôn trọng các quyền dân sự và chính trị.”

Qua tuyên bố này, Anh và Đức cũng kêu gọi Việt Nam mở đường cho các thanh sát viên Liên Hiệp Quốc về nhân quyền:

“Liên Hiệp Quốc đã cử ra những chuyên gia khác nhau được ủy quyền tìm hiểu những vấn đề nhân quyền chuyên biệt … Các chuyên gia này chỉ có thể thực hiện một chuyến thăm thực địa tại một nước thành viên nếu có lời mời của nước đó.”

“Trong thực thế nhiều nước đã đưa ra lời mời thường xuyên (standing invitation) đối với các chuyên gia, có nghĩa là một lời mời có giá trị lâu dài. Cho đến nay Việt Nam chưa đưa ra lời mời thường xuyên đó,” tuyên bố viết.

Hồi 12/11, Việt Nam lần đầu tiên giành ghế thành viên Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc với kết quả 184 trên 192 phiếu bầu, xếp cao nhất về số phiếu trong số 14 thành viên mới, trong đó có Cuba, Trung Quốc.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của mọi người trên toàn thế giới và các quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ chính là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.

Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.

Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.

Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.

Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.

Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.

Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.

Do đó, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên Ngôn một cách có hiệu lực, trong các dân tộc của các nước thành viên, và ngay cả trong những người dân sống trên các phần đất thuộc quyền cai quản của các nước đó.

Ðiều 1:
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau trên tinh thần bác ái.

Ðiều 2:
Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do được công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.

Ðiều 3:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.

Ðiều 4:
Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.

Ðiều 5:
Không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay bất kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục.

Ðiều 6:
Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách con người của mình trước pháp luật.

Ðiều 7:
Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy.

Ðiều 8:
Mọi người đều có quyền được bảo vệ và bênh vực bởi các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.

Ðiều 9:
Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc đoán.

Ðiều 10:
Mọi người đều có bằng nhau quyền được phân xử công khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc.

Ðiều 11:

  1. Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.
  2. Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.

Ðiều 12:
Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy.

Ðiều 13:

  1. Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.
  2. Mọi người đều có quyền rời khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở.

Ðiều 14:

  1. Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.
  2. Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm không có tính chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.

Ðiều 15:

  1. Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
  2. Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.

Ðiều 16:

  1. Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.
  2. Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.
  3. Gia đình phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.

Ðiều 17:

  1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.
  2. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.

Ðiều 18:
Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.

Ðiều 19:
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.

Ðiều 20:

  1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn hòa.
  2. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.

Ðiều 21:

  1. Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách tự do.
  2. Mọi người đều có quyền đón nhận những dịch vụ công cộng của quốc gia một cách bình đẳng.
  3. Ý muốn của người dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do.

Ðiều 22:
Vì là thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền an ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa theo phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên căn bản của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, cần thiết cho nhân phẩm và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.

Ðiều 23:

  1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.
  2. Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau cho cùng một công việc.
  3. Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác.
  4. Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của mình.

Ðiều 24:
Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả việc hạn chế hợp lý số giờ làm việc, và các ngày nghỉ định kỳ có trả lương.

Ðiều 25:

  1. Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình.
  2. Các bà mẹ và trẻ con phải được hưởng sự chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng.

Ðiều 26:

  1. Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng.
  2. Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì hòa bình.
  3. Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái mình.

Ðiều 27:

  1. Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia sẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.
  2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.

Ðiều 28:
Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống trong một trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.

Ðiều 29:

  1. Mọi người đều có bổn phận đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới có thể phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình.
  2. Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.
  3. Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.

Ðiều 30:
Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được hiểu và hàm ý cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này.

Liên Hiệp Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1948

Buôn người và cuộc chiến chống nạn nô dịch thời hiện đại

Buôn người và cuộc chiến chống nạn nô dịch thời hiện đại

Một thiếu nữ Bangladesh 14 tuổi hành nghề mại dâm ở thành phố Faridpur, miền trung Bangladesh.

Một thiếu nữ Bangladesh 14 tuổi hành nghề mại dâm ở thành phố Faridpur, miền trung Bangladesh.

 

Faiza Elmasry

07.12.2013

Nạn buôn người có mặt tại hầu hết các nơi trên thế giới – trẻ em, thiếu nữ, kể cả đàn ông – bị lừa và bị ép bán dâm, lao động cưỡng bức và những hình thức nô dịch khác, không thể trốn thoát được. Con số phỏng định mới nhất cho thấy có khoảng 100.000 trẻ em và người lớn bị buôn bán tại Mỹ mỗi năm. Tuy nhiên, nhiều nhà hoạt động khác nhau đang cùng nỗ lực chống lại nạn buôn người.

Cách đây 8 năm, cô Shamere McKenzie là một sinh viên đại học 21 tuổi có nhiều hoài bão ở New York. Nhưng cuối cùng cô sa vào con đường buôn bán tình dục. Cô cho biết:

“Việc này xảy ra khi tôi gặp một người đàn ông mà tôi tin là muốn hẹn hò với tôi. Tôi không bao giờ nghĩ hắn là một tay ma cô vì hắn rất khéo ăn nói, rất quyến rũ. Chúng tôi có những cuộc chuyện trò thú vị về chính trị, về những người làm cha mẹ đơn thân trong cộng đồng, về số lượng lớn những người đàn ông Mỹ gốc Phi bị tù. Do đó với những chuyện như thế, tôi không nghĩ hắn là một tên ma cô. Lúc đó tôi đang có nguy cơ sắp mất học bổng. Tôi cần 3000 đô la để đi học lại, và hắn ta nói, ‘Đừng lo gì cả, anh sẽ giúp em trở lại trường.’”

Tuy nhiên thay vì giúp cô, người này bắt cóc cô và bắt cô đi bán dâm.

“Tôi nghĩ một từ chính xác để định nghĩa bị bắt làm nô lệ là từ ‘tra tấn.’ Tra tấn theo mọi nghĩa của từ này mà bạn có thể tưởng tượng ra nó là gì. Người ta nhiều khi vẫn nghĩ đó là đánh đập, hãm hiếp, nhưng thực ra còn hơn thế nữa. Đối với một số người sống sót thì tra tấn là bị gí đầu lọc thuốc lá vào người. Đối với những người khác thì bị rạch đầu bằng dao rọc hộp giấy,” cô McKenzie nói.

Cô McKenzie bị buộc làm nô lệ trong 18 tháng và cô tìm đủ mọi cách để trốn thoát.

“Tuy nhiên mọi cách đều vô vọng. Tôi không có can đảm giết hắn ta. Tôi tìm cách trốn chạy vài lần nhưng không thành công. Tôi có nghĩ đến việc đầu độc thức ăn của hắn và đại loại như thế để thoát khỏi cảnh này. Tuy nhiên ngay lần đầu tiên tôi nói với hắn là tôi muốn rời đi thì hắn nói nếu tôi mà bỏ đi thì hắn sẽ giết tôi hay gia đình tôi.”

Cho đến khi cảnh sát ập vào bắt giữ tay buôn người này cô mới được giải thoát.

Cô McKenzie hiện đang làm việc với Tổ chức Chia sẻ Hy vọng Quốc tế, một tổ chức tranh đấu chống lại việc buôn bán tình dục và cứu những người bị kẹt trong mạng lưới của những đường dây này.

Bà Taryn Offenbacher, phát ngôn viên của tổ chức, nói họ có một chiến lược toàn diện để hoàn thành sứ mạng:

“Những nỗ lực ngăn ngừa của chúng tôi tất cả đều dựa trên huấn luyện và nhận thức. Trong nỗ lực phục hồi của chúng tôi, chúng tôi có 12 đối tác tại 5 quốc gia và chúng tôi hỗ trợ phục hồi dài hạn, cung cấp nơi tạm trú, chữa trị, thực phẩm và nơi trú ngụ, quần áo, những cơ hội giáo dục và huấn luyện. Các cơ quan tư pháp đối tác có khả năng xử lý thích đáng những tội phạm.”

Dù nạn buôn người có nhiều hình thức khác nhau trên khắp thế giới, bà Offenbacher nói lực đẩy đằng sau nạn buôn người vẫn không thay đổi: nhu cầu.

“Chúng ta biết không có nhu cầu thì sẽ không có nạn buôn người, sẽ không có nạn nhân. Nếu các quốc gia có thể dành ưu tiên cho việc ngăn chặn mức cầu, ban hành luật làm ngăn chặn những người mua và đưa ra những bản án và trừng phạt thích đáng để răn đe tội ác. Và nếu việc này được công nhận là tội ác thì chúng tôi tin rằng sẽ có ít người mua hơn và ít nạn nhân bị bóc lột hơn.”

Đó là thông điệp cô Shamere McKenzie trình bày như là tiếng nói của những nạn nhân bị buôn bán tình dục:

“Tôi nói chuyện với một số cử tọa, tôi nói chuyện tại trường đại học, tại nhà thờ, với những người làm chính sách. Khi tôi nói chuyện với những nam thanh niên, tôi nhấn mạnh việc làm ma cô chẳng có gì là hay ho. Tôi giải thích cho họ biết định nghĩa thực sự của ma cô là gì. Và đối với một số nam thanh niên này, khi họ nghe như vậy thì họ nói ‘những tên ma cô này xấu xa quá.’ Và đối với những thiếu nữ, tôi giải thích cho họ biết là họ dễ bị ma cô bắt như thế nào.”

Giờ gần 30 tuổi, cô McKenzie đang chuẩn bị quay lại trường đại học và theo học luật. Cô hy vọng sẽ truy tố những kẻ buôn người và giúp chấm dứt tệ nạn này.

 

Các nhà ngoại giao phương Tây kêu gọi Việt Nam tôn trọng nhân quyền

Các nhà ngoại giao phương Tây kêu gọi Việt Nam tôn trọng nhân quyền

Giới trẻ tham dự buổi sinh hoạt mừng ngày Quốc Tế Nhân Quyền và cầm các bong bóng màu xanh với hàng chữ 'Quyền con người của Chúng Ta phải được tôn trọng' (Ảnh: Danlambao)

Giới trẻ tham dự buổi sinh hoạt mừng ngày Quốc Tế Nhân Quyền và cầm các bong bóng màu xanh với hàng chữ ‘Quyền con người của Chúng Ta phải được tôn trọng’ (Ảnh: Danlambao)

 

VOA Tiếng Việt

10.12.2013

Các nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ, Đức và Anh tại Hà Nội đã lên tiếng thúc giục Việt Nam cải thiện thành tích nhân quyền và không hạn chế các quyền tự do của người dân.

Phát biểu của Đại sứ Mỹ David Shear, Đại sứ Đức Jutta Frasch và Phó Đại sứ Anh Lesley Craig đồng loạt được đưa ra nhân ngày Nhân quyền Quốc tế 10/12.

Ngày này kỷ niệm Bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948.

Trong thông cáo ra ngày 10/12, ông Shear nêu việc Hoa Kỳ và Việt Nam ‘tái khẳng định cam kết của hai nước về ủng hộ Tuyên ngôn Nhân quyền trong Quan hệ Đối tác Toàn diện Hoa Kỳ – Việt Nam  được Tổng thống Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang công bố hồi tháng Bảy’.

Ðại sứ Shear lặp lại một tuyên bố trước đây rằng Mỹ ‘ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập mà cũng tôn trọng nhân quyền và pháp quyền’.

Ðại sứ Shear lặp lại một tuyên bố trước đây rằng Mỹ ‘ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập mà cũng tôn trọng nhân quyền và pháp quyền’.

Ông Shear cũng lặp lại một tuyên bố trước đây rằng Mỹ ‘ủng hộ một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập mà cũng tôn trọng nhân quyền và pháp quyền’.

Đại sứ Hoa Kỳ nói rằng đạt được tiến bộ rõ ràng về nhân quyền ‘có tầm quan trọng quyết định đối với mối quan hệ của chúng ta, có tác động đến mọi khía cạnh của chính sách đối ngoại’.

Ông cũng kêu gọi Việt Nam ‘trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm, cho phép mọi người Việt Nam được bày tỏ ý kiến của bản thân, và bảo vệ tự do tôn giáo trên toàn quốc’.

Trong khi đó, cơ quan đại diện ngoại giao của Đức và Anh cũng ra chung một thông cáo, trong đó cho rằng ‘Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong việc thực thi các quyền xã hội và kinh tế’.

Nhưng hai nhà ngoai giao của châu Âu cho rằng ở Việt Nam ‘có những người bị giam giữ vì họ công khai đưa ra chính kiến của mình’.

Thông cáo viết: “Việt Nam phải bảo đảm không hạn chế quyền tự do chính kiến, tự do báo chí và tự do hội họp và phải thả ngay tất cả những người bị giam giữ vì tội đã đưa ra những chính kiến của mình”.

Các nhà ngoại giao phương Tây cũng cho rằng việc Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc là cơ hội để Việt Nam chứng minh cam kết đối với Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền bằng lời nói và hành động.

Đại sứ Mỹ nói trong thông cáo: “Cùng là một thành viên trong Hội đồng, Hoa Kỳ sẽ tìm cách cộng tác với Việt Nam trong mọi cơ hội nhằm đạt được các tiêu chuẩn cao này”.

Việc Việt Nam gia nhập Hội đồng này cho thấy ‘Việt Nam muốn nỗ lực hoạt động bảo đảm nhân quyền”.

Hôm 10/12, báo điện tử của chính phủ Việt Nam đã cho đăng bài viết của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh với tựa đề, ‘Bảo vệ quyền con người, chính sách bắt nguồn từ khát vọng của nhân dân’, trong đó đề cập nhiều tới việc Việt Nam trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Ông Minh viết rằng việc Việt Nam ứng cử vào Hội đồng này ‘xuất phát từ chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người và tích cực đóng góp vào hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này’.

Blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Trả lời VOA Việt Ngữ tối 10/12, blogger Mẹ Nấm tức bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh nói rằng việc Việt Nam trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ ‘có ý nghĩa rất lớn’.

“Nó sẽ buộc Việt Nam phải tuân thủ các luật chơi của quốc tế và các nguyên tắc mà các công ước quốc tế đã đề ra, dựa vào các công ước quốc tế để ban hành những nghị định, những luật đúng với luật pháp quốc tế. Điều này nó sẽ có lợi cho toàn bộ người dân Việt Nam. Nhưng mà mọi người biết rồi, Việt Nam luôn có luật chơi riêng. Việc Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc thì điều ý nghĩa nhất  là tất cả các nước mà đã bỏ phiếu bầu chọn cho Việt Nam trách nhiệm và nghĩa vụ phải theo dõi tình hình này”.

Bà Quỳnh từng tới các cơ quan ngoại giao nước ngoài ở Hà Nội để trao tuyên bố của Mạng lưới blogger Việt Nam.

Bà cũng là một trong các thành viên sáng lập Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam mới ra mắt.

Blogger này cho rằng bà nghĩ tình hình nhân quyền ở Việt Nam là một ‘thảm họa’ sau vụ việc xảy ra với bà và một blogger khác hôm 10/12.

“Buổi sáng khi tôi đến Sài Gòn, tôi hy vọng sẽ có một ngày rất là bình thường và sau những gì vừa mới xảy ra thì tôi nghĩ tình hình nhân quyền ở Việt Nam nó là một thảm họa bởi vì khi tôi đến thăm blogger Nguyễn Hoàng Vi xong và chuẩn bị cho ra về và hai chị em đi bộ trên đường thì an ninh, mật vụ mặc thường phục đã nhào vào cướp giật con gấu bông đồ chơi trên tay của Hoàng Vi và sau đó đánh đập Hoàng Vi rất tàn nhẫn, thậm chí là cả tôi và con trai tôi cũng không thoát khỏi những cú đánh đó. Sau đó họ đẩy hai chị em tôi và một em nữa đang có thai vào nhà và khóa trái cửa lại”.

Theo bà Quỳnh, việc bà dự định tham gia buổi ra mắt mạng lưới blogger Việt Nam tại Sài Gòn có thể là lý do dẫn tới sự việc trên.

Một đoạn video đăng tải trên Facebook của bà Quỳnh cho thấy một đám người xô đẩy nhau và to tiếng trước một ngôi nhà, và các hình ảnh cũng cho thấy cửa sau đó bị khóa trái.

Những ngày qua xuất hiện thông tin về việc nhiều blogger bị an ninh xách nhiễu nhưng VOA Việt Ngữ không thể phỏng vấn những người thuộc lực lượng công quyền.

 

Bloggers bị đánh đập dã man tại Saigòn: một cái tát vào HĐ Nhân quyền LHQ

Bloggers bị đánh đập dã man tại Saigòn: một cái tát vào HĐ Nhân quyền LHQ

Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-12-10

Clip video các bloggers bị đánh hội dồng

Clip video các bloggers bị đánh hội dồng

Screen capture

Nhóm các bloggers Mẹ Nấm ( Nguyễn Ngọc Như Quỳnh), An Đỗ Nguyễn ( Nguyễn Hoàng Vi) và Con đường Việt Nam ( Nguyễn Hoàng Dũng) chiều nay tại Sài Gòn bị hành hung một cách vô cớ.
Blogger Mẹ Nấm vào lúc 6 giờ chiều hôm nay khi đang có mặt tại nơi bị khóa cửa và sau khi bị sách nhiễu, chứng kiến cảnh hành hung cho biết như sau:
Gia Minh: Tình trạng của Như Quỳnh và Hoàng Vi ra sao?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Blogger Hoàng Vi bị đánh rất tàn bạo và Hoàng Dũng cũng bị đánh chảy máu.
Gia Minh: Các bạn đang ở đâu và ai đánh?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Chiều nay tôi đến thăm Hoàng Vi, rồi cô ấy đưa hai mẹ con tôi ra về. Trên đường ra về an ninh thường phục và phụ nữ rất đông nhào đến cướp giật con gấu bông trên tay Hoàng Vi; con gấu đó là của con trai tôi. Tôi la lên ‘ăn cướp’ và họ quây cả ba lại và họ đánh rất tàn bạo rồi họ đẩy cả ba trở lại vào nhà và khóa trái cửa lại. An ninh còn giằng con trai của tôi ra khỏi tay tôi. Khi mọi người nghe tin đến ở bên ngoài thì an ninh đánh Hoàng Dũng chảy máu mắt.
Gia Minh: Sự việc bắt đầu lúc mấy giờ và lúc này đang nói chuyện đây là 6 giờ 12 phút rồi?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Lúc khoảng 4:30, 5 giờ kém, cả ba người bị đánh, và cách đây khoảng 5 phút Hoàng Dũng quay lại cũng bị đánh tiếp.
Hôm nay có cuộc gặp của các bloggers tại Quận 3, chúng tôi thì đang ở 24 An Nhơn, Quân Gò Vấp, tức quán Cà phê của Hoàng Vi.
Gia Minh: Cả ba người có đến cuộc gặp mặt của các bloggers được không?

Blogger Hoàng Dũng bị đánh rách mí mắt, chảy máu mặt.

Blogger Hoàng Dũng bị đánh rách mí mắt, chảy máu mặt. Photos mangluoiblogger
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Tôi không có dự định đến, vì con tôi đến giờ ăn chiều, tôi phải đi về. Tôi nghĩ an ninh cho rằng chúng tôi đến, nhưng thực tế Hoàng Vi đưa tôi ra đón taxi để về.
Gia Minh: Như Quỳnh nói Hoàng Vi và Hoàng Dũng bị đánh tiếp, vậy tình trạng hiện nay ba người thế nào?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Mọi người vẫn ở tại 24 An Nhơn, Quân Gò Vấp vì an ninh khóa trái cửa nhốt tất cả chúng tôi mà. Hoàng Dũng đến xem thế nào và đề nghị họ lập biên bản về chuyện khóa trái cửa nhà dân như thế; khi mở cửa ra thì xông vào đánh nhau.
Gia Minh: Đến lúc này tình trạng của cháu, của Như Quỳnh và Hoàng Vi ra sao rồi?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Vì tôi có con nhỏ nên chỉ ra can Hòang Vi. Lúc nãy tôi có dùng điện thoai quay cảnh xô xát thì một an ninh nhào vào cướp điện thoại của tôi. Tôi và Hoàng Vi giựt lại. Họ rất thô bạo cả nhóm an ninh nam nữ cố xô vào cướp cho bằng được điện thoại; nhưng tôi giựt lại được điện thoại.
Bây giờ an ninh đã mở cửa ra, mọi người đã đến và chắc tôi phải về.
Gia Minh: Trước khi ra về, Như Quỳnh có thể chia xẻ trước tình cảnh thế này?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Đây là lần đầu tiên tôi thấy sự thô bạo, mất thú tính như thế của an ninh. Tôi nghĩ đây là một cú tát đối với việc vào Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc.
Gia Minh: Theo các bạn sự hung hãn đó có lý do gì không?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Theo tôi nghĩ sự hung hãn đó của họ là nhằm ngăn cản không cho Hoàng Vi đi tham dự cuộc họp mặt của Mạng Lưới Bloggers thôi.
Gia Minh: Như thế họ xâm phạm điều gì?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Chúng tôi là những công dân không vi phạm pháp luật gì hết, chúng tôi có đủ quyền đi lại; họ giới hạn quyền đi lại của tôi.
Tôi không phát biểu gì nhiều hết, trường hợp như thế này là câu trả lời cho tình trạng vi phạm nhân quyền của Việt Nam. Còn vi phạm quyền gì thì theo tôi nghĩ khi bạn không làm gì vi phạm pháp luật mà họ giới hạn quyền tự do đi lại của bạn chứng tỏ bạn không phải là người tự do và bạn cũng chẳng có quyền gì hết.
Gia Minh: Trong những ngày qua những người quan tâm đến tình hình nhân quyền của Việt Nam đã có những sinh hoạt và đã bị ngăn cản phải không?
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh- Blogger Mẹ Nấm: Vâng ạ.
Gia Minh: Cám ơn Như Quỳnh.

 

Nelson Mandela : Biểu tượng thế giới của hòa giải

Nelson Mandela : Biểu tượng thế giới của hòa giải

Một buổi cầu nguyện, tưởng niệm Nelson Mandela tại Ấn Độ, 06/12/2013.

Một buổi cầu nguyện, tưởng niệm Nelson Mandela tại Ấn Độ, 06/12/2013.

REUTERS/Babu

Tú Anh

RFI

« Tôi không phải là một vị thánh. Trừ phi bạn tin rằng thánh là một kẻ phạm tội đang tự sửa mình ». Tuy không là thánh, nhưng cố Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela đã được toàn thế giới tôn vinh như một biểu tượng mà Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã thu gọn lại trong lời phát biểu :« một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của thời đại chúng ta và của mọi thời đại ».

Từ lúc sinh thời, Nelson Mandela, danh tiếng của khôi nguyên Nobel Hòa bình 1993 đã lan ra ngoài lục địa châu Phi : giải phóng Nam Phi ra khỏi chế độ kỳ thị màu da và cùng lúc từ bỏ mọi hành động trả thù cộng đồng da trắng đã bỏ tù ông suốt 27 năm dài.

Dân tộc yêu mến và thế giới tôn vinh vì Nelson Mandela, từ hành động đến lời nói đều chứng tỏ ông là con người biết tha thứ. Trong cẩm nang chỉ đạo cuộc tranh đấu chống chế độ phân biệt đối xử mang lại dân chủ cho Nam Phi, ông viết : “tha thứ giải thoát tâm hồn và làm tan biến sợ hãi. Do vậy, tha thứ là vũ khí tối thượng“.

27 năm tù khổ sai, nhà tranh đấu mà dân bộ tộc của ông gọi là Madiba (cha già) không lấy oán trả oán. Ngay khi đắc cử Tổng thống, ông đã tiến hành xây dựng một chế độ đa sắc tộc trong đó cộng đồng da trắng vẫn có chỗ đứng, duy trì sức mạnh kinh tế, tài chính, không bị kỳ thị trả thù tước đoạt tài sản nhân danh cách mạng.

Khác với Lênin và thánh Gandhi, ông Nelson Mandela không giới hạn mình trong cái gọi là ý thức hệ cách mạng. Từ thời tuổi trẻ, ông ham mê thể thao và từng là võ sĩ quyền Anh và có tiếng là thích chạy theo các bóng hồng xinh đẹp.

Tự do đối với Nelson Mandela là giá trị cao quý nhất nhất, cho nên khi còn là sinh viên luật đầy triển vọng, ông vẫn bất chấp hậu quả bị đuổi học, thẳng thừng đứng lên tranh đấu chống ban giám hiệu đại học Fort Hare. Tiếp theo đó, để phản đối gia đình buộc ông lấy vợ, Nelson Mandela bỏ nhà trốn về thủ đô Johannesburg nơi đang sôi sục không khí đấu tranh. Dần dần, Nelson Mandela cũng tốt nghiệp luật sư và bắt đầu có ý thức chính trị. Lòng hăng say tranh đấu đã làm Nelson Mandela xa dần người vợ đầu tiên để rơi vào vòng tay của cô nữ y tá trẻ tuổi, xinh đẹp và cũng là một trong những « phát ngôn viên » của giới trẻ nổi dậy.

Cùng với một nhóm thành viên trẻ trong đảng, Nelson Madela nhanh chóng nắm quyền lãnh đạo tổ chức ANC. Cuộc chiến mang lại dân chủ và công lý đã đưa ông vào giai đoạn gian lao nhất, nhiều lần bị bắt, có lần bị kết án tử hình và lần cuối cùng bị đày ra đảo cô lập suốt 26 năm.

Tổng giám mục Anh Giáo Desmond Tutu vinh danh là « biểu tượng thế giới của hòa giải », Nelson Mandela không bao giờ cho mình có vai trò « thiên định ». Ngược lại, ông rất « nhân bản » và xem tình người là cốt lõi của con người. Khôi nguyên Nobel văn học Nadine Gordimer, khi bình luận về người đồng hương của mình đã nói : 26 năm tù khổ đau không làm Nelson Mandela thốt lên lời kêu gọi trả thù, bởi vì ông xem nhân loại là gia đình.

Nelson Mandela tự dặn lòng mình : khi tôi bước ra cổng nhà tù, nhiệm vụ của tôi là giải phóng người bị áp bức lẫn người áp bức.

Đây không phải lời tuyên bố cường điệu của kẻ chiến thắng. Theo AFP, ông đã dành nhiều thời giờ trong nhà tù để học tiếng Afrikanner để tìm hiểu văn thơ của các tác giả nổi tiếng của người da trắng thống trị Nam Phi. Nhờ hiểu mà ông đi sâu vào tâm hồn và thương yêu cộng đồng đã áp bức dân tộc da đen và cuối cùng giải phóng được cả hai bên mở ra một thời đại hài hòa và vô tình được toàn thế giới yêu kính kể cả nhiều nhà độc tài cũng phải nương tựa oai linh đến tận Nam Phi nhân ngày tang lễ.

Khi được tự do vào năm 1990, Nelson Mandela đã thương lượng với chính quyền một giải pháp hòa bình tổ chức bầu cử tự do. Trong cuộc bầu cử năm 1994, ông đắc cử vẻ vang trong tinh thần hòa giải với kẻ thù.

 

Một phép lạ đã xảy ra!

Một phép lạ đã xảy ra!

Một phép lạ đã xảy ra, Ngôi nhà nguyện bên bờ biển Anibong, Leyte thuộc Thành Phố Tacloban, Philippines vẫn đứng vững sau trận bão kinh hoàng tại Haiyan đi qua, mặc dù nơi đây được xem là trung tâm của cơn bão đã chết hàng nghìn người…
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=232125323623627&set=a.198566083646218.1073741828.198547950314698&type=1&relevant_count=1

-Theo: http://instagram.com/p/gif8mOlWF8
-Page: Con Tin Chúa Ơi sưu tầm.

Tại thị trấn ven biển của Tanawan, một bức tượng Chúa Giêsu rất lớn được dựng trên đồi Calvary vẫn còn nguyên vẹn giữa những tàn tích còn lưu lại bởi sự tàn phá của cơn bão Haiyan.Philippines.

Photo: Tại thị trấn ven biển của Tanawan, một bức tượng Chúa Giêsu rất lớn được dựng trên đồi Calvary vẫn còn nguyên vẹn giữa những tàn tích còn lưu lại bởi sự tàn phá của cơn bão Haiyan.Philippines.  - Ảnh: APhttp://thisny.com/this-jesus-statue-survived-typhoon-haiyan-unscathed/ - Page: Con Tin Chúa Ơi Sưu Tầm.

 

Photo: Philippines: Đức Thánh Cha Phanxico gửi viện trợ cho các nạn nhân của cơn bão Haiyan  (Vatican City, 11.11.2013 ) - Đức Thánh Cha đã gửi $ 150,000 thông qua Hội đồng Giáo Hoàng Cor Unum để giúp đỡ nạn nhân của cơn bão Haiyan đổ bộ vào Philippines cuối tuần trước. Cơn bão đã giết chết ít nhất 10.000 người, có nhiều nạn nhân chết đuối, chết do sạt lở đất và do sự sụp đổ của các tòa nhà, đặc biệt là ở các đảo Leyte và Samar. Ở Tacloban, một thành phố trên đảo Leyte, cơn bão đã để lại một cảnh hủy diệt, sau khi quét qua thành phố với vận tốc gió lên đến 315km/h và gây ra con sóng cao tới 6 feet. Khoản tiền ĐTC gửi sẽ được phân phối bởi các Giáo hội địa phương trong khu vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất của cơn bão, để hỗ trợ trong công tác hỗ trợ di dời và hỗ trợ những người bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Với cử chỉ này, ĐTC Phanxico trực tiếp thể hiện sự gần gũi về tinh thần của người cha, và khuyến khích người dân và các vùng lãnh thổ bị tàn phá bởi lũ lụt  Nguồn:http://pt.radiovaticana.va/news/2013/11/11/filipinas:_papa_francisco_envia_ajuda_para_as_vítimas_do_tufão_haiyan/bra-745652

From: ThiênKim & Chị Nguyễn Kim Bằng

Thêm một trí thức từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam

Thêm một trí thức từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam

Toàn cảnh khai mạc kỳ họp Quốc hội Việt Nam tháng 5/2013 - Reuters

Toàn cảnh khai mạc kỳ họp Quốc hội Việt Nam tháng 5/2013 – Reuters

Thanh Phương

RFI

Tiếp theo sau luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Phạm Chí Dũng, đến lượt bác sĩ Nguyễn Đắc Diên, cũng tại Sài Gòn, vừa công khai tuyên bố từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong một thông báo đề ngày 06/12/2013, gởi cho trang mạng Bauxite Việt Nam, bác sĩ Nha khoa ở Sài Gòn, xuất thân từ một gia đình từng là cơ sở Cách mạng ở nội thành, tuyên bố từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong thông báo nói trên, bác sĩ Nguyễn Đắc Diên cho biết ông quyết định như vậy bởi vì, « tất cả những gì mà Đảng Cộng sản đã thể hiện từ ngày Bắc Nam thống nhất khiến tôi đi từ thất vọng đến thất vọng khác ».

Bác sĩ Nguyễn Đắc Diên khẳng định : « Tôi không tin Đảng sẽ dẫn dắt dân tộc cập được bến bờ vinh quang bằng các cương lĩnh kiểu như cương lĩnh 1991, hiến pháp 2013. Bởi đó là những cương lĩnh u ám, những hiến pháp tiểu xảo. »

Đặc biệt, theo bác sĩ Nguyễn Đắc Diên, với thỏa ước Thành Đô tháng 09/1990, Đảng đã « đánh mất cơ hội ngàn vàng trong sự nghiệp bảo toàn chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ khi sống cạnh một nước lớn có tiền sử hàng ngàn năm áp chế dân tộc Việt. »

Bác sĩ Nguyễn Đắc Diên, tuyên bố rằng ông thà « phản bội lời thề trung thành với Đảng còn hơn phải theo Đảng mà phản bội lại quyền lợi dân tộc ».

Bác sĩ Nguyễn Đắc Diên cho biết ông đã ra thông báo nói trên để « hưởng ứng » các lời tuyên bố từ bỏ đảng của luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Phạm Chí Dũng trong cùng ngày 05/12/2013.

Phản ứng việc ông Lê Hiếu Đằng bỏ Đảng

Phản ứng việc ông Lê Hiếu Đằng bỏ Đảng

Quốc Phương

BBC Việt ngữ

Thứ năm, 5 tháng 12, 2013

Ông Lê Hiếu Đằng

Ông Lê Hiếu Đăng tuyên bố ly khai Đảng Cộng sản vì đảng này đã ‘biến chất’, ‘tư lợi’

Diễn biến một quan chức lãnh đạo thuộc Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam có hơn 40 năm tuổi Đảng vừa tuyên bố chính thức ly khai với Đảng Cộng sản thu hút sự quan tâm trong dư luận.

Hôm 05/12/2013, ông Huỳnh Ngọc Chênh, cựu phóng viên của tờ Thanh Niên chào đón tin ông Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ra khỏi Đảng và nói:

“Chuyện ra khỏi Đảng của ông rất cần thiết, nó tạo ra một tiếng vang, nhất là trong thời điểm này, khi mà Đảng vừa ra Hiến pháp bắt toàn dân phải đi theo và đặt toàn dân dưới quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng,” ông Chênh lên tiếng từ Sài Gòn.

Theo blogger này, việc ông Đằng ra khỏi Đảng khác với nhiều trường hợp ly khai khác trước đây vì theo ông Chênh, ông Đằng từ bỏ đảng trên tư cách là một quan chức và người có nhiều năm đóng góp cho chế độ, nhưng đã quyết định từ bỏ các công danh, lợi lộc.

“Cho đến nay vẫn chưa có luật về thành lập và đăng ký các đảng, còn Đảng viên Đảng CSVN muốn rời khỏi đảng thì đó là quyền mà trong điều lệ Đảng CSVN cũng đã cho phép, cho nên cái điều ấy là điều bình thường. Còn việc họ có lập được đảng hay không thì đấy lại là một vấn đề khác”

TS Lê Đăng Doanh

Ông Huỳnh Ngọc Chênh nói: “Ông là người của Đảng, đang hưởng bao nhiêu quyền lợi thì ông lại tuyên bố bước ra khỏi Đảng, thì nó sẽ có những tác dụng lớn để Đảng xem lại đường lối của mình.”

Hôm thứ Tư, ông Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TPHCM, công bố trên mạng Internet một văn bản tuyên bố ông rời bỏ Đảng Cộng sản và cho biết nguyên nhân.

“Tôi tên Lê Hiếu Đằng là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hơn 40 tuổi Đảng,” tuyên bố viết.

“Nay tôi tuyên bố công khai ra khỏi Đảng CSVN vì: ĐCSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân.”

Tiếp nhận tin này, ông Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, cho rằng đây là một quyết định mà ông Đằng đã dự kiến trước.

Vị tướng nói với BBC hôm thứ Năm từ Hà Nội: “Đấy chỉ là quyết định cá nhân của cụ ấy, chứ không có gì đặc biệt. Bởi vì cụ ấy đã tuyên bố lần trước là thành lập một đảng mới,

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

“Thì đây là ý của cụ ấy muốn ra đảng để thành lập một đảng mới, lúc trước cụ ấy đã có ý kiến như thế rồi, bây giờ người ta phản ứng cụ ấy, thì cụ ấy xin ra Đảng thôi.”

Cũng hôm thứ Năm, trả lời câu hỏi liệu đảng viên đảng cộng sản rời bỏ đảng này để ra ngoài thành lập đảng mới có bị coi là phạm pháp ở Việt Nam hay không, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ nói:

“Cho đến nay vẫn chưa có luật về thành lập và đăng ký các đảng, còn Đảng viên Đảng CSVN muốn rời khỏi đảng thì đó là quyền mà trong điều lệ Đảng CSVN cũng đã cho phép, cho nên cái điều ấy là điều bình thường. Còn việc họ có lập được đảng hay không thì đấy lại là một vấn đề khác…

‘Chưa hề đăng ký’

Ông Lê Hiếu Đằng

Ông Lê Hiếu Đằng đề nghị chính quyền VN chấp nhận đa đảng, đa nguyên và kêu gọi lập chính đảng mới

Tuy nhiên, theo Tiến sỹ Doanh, chính Đảng Cộng sản đã được thành lập mà chưa hề đăng ký ở đâu cả.

Ông nhấn mạnh: “Việt nam chưa có luật về đảng và bản thân Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không hề có đăng ký, và cũng chưa hề có một cái luật về Đảng Cộng sản Việt Nam.”

“Bình thường ở các nước, một đảng được lập ra thì sau đó phải đăng ký để hoạt động, và như ở nước Đức thì nếu Đảng đó có được trên 5% phiếu được bầu vào Quốc hội, thì sẽ được có những chế độ giúp đỡ về tài chính, rồi ủng hộ các hoạt động của họ trong khuôn khổ Nghị viện và ở ngoài xã hội.”

Cũng hôm 05/12, blogger Nguyễn Lân Thắng nói với BBC về việc ông Đằng ‘bỏ Đảng’. Ông đưa ra bình luận từ Hà Nội:

“Trước hết tôi xin chúc mừng ông Lê Hiếu Đằng đã trở về với nhân dân. Những việc của ông Lê Hiếu Đằng làm từ trước tới nay gây ra rất nhiều tranh cãi, và chính bản thân tôi tôi cũng chưa thể tin được ông khi mà ông vẫn còn đứng ở trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản”

Blogger Nguyễn Lân Thắng

Theo blogger này diễn biến bỏ Đảng của cựu quan chức Mặt trận Tổ quốc là ‘một chuyện rất lớn’ và cũng ‘sẽ có ‘một tác động rất lớn về mặt xã hội’.

“Và (việc này) tác động chính đến những người Đảng viên vẫn đang còn nấn ná, vẫn đang còn chưa chịu dứt mình ra khỏi những danh vọng, những quyền lợi ở Đảng Cộng sản và tôi nghĩ đây sẽ là một bước ngoặt rất lớn để thay đổi xã hội Việt Nam.”

Ông Thắng giải thích thêm về nguyên nhân của sự lưỡng lự hay ‘nấn ná’ này: “Những người nấn ná chưa ra khỏi Đảng theo tôi không phải chỉ vì quyền lợi hay danh vọng… mà còn do sự sĩ diện nữa… tự thừa nhận sai lầm rất khó…”

Vẫn hôm thứ Năm, blogger Huỳnh Ngọc Chênh cho rằng đang có những dấu hiệu làm thay đổi bản chất của Đảng Cộng sản, ông nói:

“Số lượng có thể tăng lên, nhưng cái chất thay đổi và sự tồn tại của đảng này không phải là sự tồn tại của Đảng Cộng sản, mà nó là một đảng gì đó mà giới mới vào sẽ dần dần hướng vào hướng đó và sẽ đặt lại tên gì đó, nếu như họ còn tiếp tục tồn tại.”

Vào tháng Tám năm nay, ông Lê Hiếu Đằng đã bày tỏ quan điểm trong Bấm một bài viết được công bố rộng rãi trên mạng đề nghị Việt Nam chấp nhận chế độ đa nguyên đa đảng và kêu gọi thiết lập một chính đảng mới.

Quan điểm của ông nhận được sự quan tâm và ủng hộ của nhiều giới, trong đó là các nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền và vận động cho nhà nước pháp quyền cùng xã hội dân sự, tuy nhiên ông cũng đã gặp phải sự công kích mạnh mẽ từ truyền thông do Nhà nước quản lý, với một số ý kiến gọi quan điểm của ông là ‘chệch hướng’, ‘lệch lạc’ hay ‘tha hóa tư tưởng’.