Thánh Stêphanô

Thánh Stêphanô
(c. 36?)
26 Tháng Mười Hai

Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Ðồ 6 và 7. Ðiều đó đã đủ để biết về con người của ngài.
“Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: ‘Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy thần khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.’ Ðề nghị trên
được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy
Thánh Thần,…” (CVTÐ 6:1-5)
Sách Công Vụ kể tiếp Stêphanô là một người đầy ơn sủng và sức mạnh, đã làm nhiều việc phi thường trong dân chúng. Một vài người Do Thái thời ấy, là thành viên của hội đường nhóm nô lệ được giải phóng, tranh luận với Stêphanô nhưng không thể địch nổi sự khôn ngoan  và thần khí của ngài. Họ xúi giục người khác lên án ngài là lộng ngôn, xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài bị bắt và bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng.


Trong phần trình bày, ngài nhắc lại sự dẫn dắt của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, cũng như việc thờ tà thần và bất tuân phục Thiên Chúa của dân này. Sau đó ngài cho rằng những người bách hại ngài cũng giống như vậy. “Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy” (CVTÐ 7:51b).
Lời ngài nói đã làm họ tức giận. “Nhưng [Stêphanô], tràn đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Ðức Giêsu Kitô đứng bên hữu Thiên Chúa, và thánh nhân nói, ‘Kìa, tôi nhìn thấy thiên đàng mở ra và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa.’… Họ đưa ngài ra ngoài thành và bắt đầu ném đá ngài… Trong khi họ ném đá ngài, thánh nhân kêu lớn, ‘Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con… Lạy Chúa, xin đừng nhớ tội của họ'” (CVTÐ 7:55-56, 58a, 59, 60b).

Lời Bàn
Thánh Stêphanô đã chết như Ðức Kitô: bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm. Một cái chết “sung sướng” lúc nào cũng giống nhau, dù chết âm thầm như Thánh Giuse hay chết đau khổ như Thánh Stêphanô, đó là cái chết với sự can đảm, sự tín thác hoàn toàn và với tình yêu tha thứ.
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

MÙA VỌNG VÀ NIỀM TIN

MÙA VỌNG VÀ NIỀM TIN

Nguyễn Tiến Cảnh, MD

nguồn: Conggiaovietnam.net

Ngày 12 – 12 – 2012, trong giờ triều yết công chúng tại phòng Paul VI, Đức Biển Đức
XVI đã nói về Mùa Vọng và Đức Tin

. Năm nay là Năm Đức Tin, nên xin được chia sẻ về Đức Tin một cách tóm gọn qua bài hướng dẫn suy niệm của Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI khuyến khích người công giáo nên nuôi dưỡng đức tin của mình bằng cách tìm hiểu về sự trung tín của Thiên Chúa và nghiền ngẫm những hành động của Người trong lịch sử loài người. Ngài nói:

– Đức Tin sẽ được nuôi dưỡng và triển nở nhờ ở chỗ chúng ta biết cố gắng tìm hiểu và ghi nhớ Thiên Chúa là đấng luôn luôn trung thực, đấng hướng dẫn lịch sử, đồng thời là nền tảng vững chắc và bảo đảm cho đời sống con người.
Ngài tiếp tục suy niệm về Thiên Chúa mạc khải.

Đức Thánh Cha nói: Thiên Chúa mạc khải thể hiện trong lịch sử như là “một cuộc đối thoại với loài người bằng tình thương”, một chương trình của Thiên Chúa, trong đó Chúa đưa ra cho mọi người “ một ý nghĩa mới cho cuộc hành trình của toàn thể nhân loại”.

Đức Thánh Cha nhắc đi nhắc lại là, năm nay là Năm Đức Tin, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu Thánh Kinh cho thật thấu đáo, bởi vì Kinh Thánh là “nơi tốt nhất để tìm hiểu và học hỏi những biến cố của cuộc hành trình này”.

“Đọc Cựu Ước –ngài nói- chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân Chúa chọn và ban giao ước cho họ như thế nào. Đó không phải là những dữ kiện đã qua thì cho nó đi vào quên lãng luôn, nhưng ngược lại phải biến nó thành “một ký ức sắc bén và tươi mát”. Góp nhặt lại tất cả những dữ kiện đó chúng ta sẽ có một ‘lịch sử ơn cứu độ’, sống động trong ý thức của dân Israel qua việc họ ca ngợi tung hô những biến cố cứu độ ấy”.

“Dĩ nhiên, Đức Thánh Cha nói tiếp, Cựu Ước đã được hoàn thành nơi Chúa Kito, là một loại lịch sử tột đỉnh của lịch sử giữa Thiên Chúa và loài người”.

Cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều là những chứng nhân của những giai đoạn của “chương trình tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa”, một chương trình cứu độ nhân loại duy nhất đã được từ từ biểu lộ và thực hiện bởi quyền năng của Thiên Chúa.”

MÙA VỌNG

Đức Biển Đức XVI kết luận bài suy niệm bằng cách gợi ý cho mọi người là Mùa Vọng là thời gian đặc biệt để cho chúng ta suy gẫm một cách hiệu quả nhất về những tác động lịch sử của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ của Ngài.

“Như tất cả chúng ta đều biết -ngài diễn nghĩa- danh từ “Mùa Vọng / Advent” có nghĩa là ‘đang đến’, ‘ hiện diện’, và nghĩa nguyên thủy đặc biệt của nó là “ông vua hay hoàng đế đang đến một lãnh thổ/vùng đặc biệt nào đó”. Đối với chúng ta là những Kito hữu, nó lại có nghĩa là một thực tế quá sức lạ lùng: Chính Thiên Chúa đã tự bước ra khỏi Thiên Quốc để xuống với loài người. Ngài đã thiết lập một liên minh để cùng đi vào lịch sử của một dân tộc. Ngài là vị vua đã đi vào một lãnh thổ đáng thương là trái đất này và ban cho chúng ta một tặng vật qua chính cuộc viếng thăm của Ngài bằng cách lấy chính máu thịt của chúng ta để trở nên con người giống như chúng ta”.

Ngài nói tiếp: “Mùa Vọng như mời gọi chúng ta bước theo con đường của Chúa và nhắc nhở chúng ta nhiều lần rằng Thiên Chúa sẽ không ly khai chúng ta; Ngài không vắng mặt, không bỏ chúng ta cô đơn một mình, nhưng Ngài đến với chúng ta dưới nhiều dạng thức khác nhau mà chúng ta cần phải học hỏi để nhận biết ra Chúa. Đồng thời, với niềm tin, hy vọng và đức ái, hàng ngày chúng ta cũng có thể nhận ra được Chúa và làm chứng cho sự hiện diện của Ngài trong một thế giới thường là hời hợt và cuồng loạn. Nhờ đó cuộc sống của chúng ta mới được chiếu sáng bằng chính ánh sáng đã từng lan tỏa trong hang đá nơi Bethlehem hang lừa.”

NB- Có thể coi nguyên bản tiếng Anh bài suy niệm của ĐTC Biển Đức XVI tại

http://www.zenit.org/article-36161?l=english

Fleming Island, Florida

Dec 18, 2012

NTC

Tác giả: Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Một thời để Người Kitô hữu nhập thế

Một thời để Người Kitô hữu nhập thế

Bài của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI
Đan Quang Tâm dịch
Giáng sinh là một thời gian vui vẻ hân hoan và một dịp để suy tư sâu sắc, Đức
giáo hoàng Bênêđictô XVI nói
“Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” là câu trả lời của
Đức Giêsu khi được hỏi về việc đóng thuế. Dĩ nhiên, những kẻ hỏi Người đang gài
bẫy Người. Họ muốn buộc Người phải đứng về phía nào trong cuộc tranh luận chính
trị nảy lửa về việc cai trị của Rôma tại đất nước Israel. Cái bẫy nằm ở chỗ
này: Nếu Đức Giêsu quả thực là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu, thì Người chắc
chắn sẽ chống lại những kẻ thống trị Rôma. Cho nên câu hỏi đã được suy tính
nhằm làm cho Đức Giêsu phải lộ diện như một mối đe dọa đối với chế độ hoặc như
một kẻ lừa đảo.
Câu trả lời của Đức Giêsu khéo léo chuyển cuộc tranh luận lên một bình diện cao
hơn, nhẹ nhàng khuyến cáo đừng có chính trị hóa tôn giáo lẫn thần thánh hóa quyền lực nhất thời, để mà mê mải tìm kiếm của cải.
Những kẻ đang nghe Người nói cần được nhắc nhở rằng Đấng Mêsia không phải là Xêda, và Xêda không phải là Thiên Chúa. Vương quốc mà Đức Giêsu đã đến để thiết lập thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn cao hơn. Như Người đã bảo Phongxiô Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”.
Những câu truyện Giáng sinh trong Tân ước nhằm chuyển tải một sứ điệp tương tự.
Đức Giêsu sinh vào thời có chiếu chỉ “kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ”
của Xêda Augúttô, vị hoàng đế nổi tiếng với việc mang Pax Romana (nền hòa bình
của đế quốc Rôma – người dịch) đến các vùng đất dưới quyền thống trị Rôma. Thế
nhưng, hài nhi này, được sinh ra ở một góc hẻo lánh và xa xôi của đế quốc, sẽ
cống hiến cho thế giới một nền hòa bình lớn lao hơn nhiều, có phạm vi thực sự
mang tính hoàn vũ và vượt trên mọi giới hạn về không gian và thời gian.
Đức Giêsu được trình bày với chúng ta như người thừa kế của Vua Đavít, thế
nhưng sự giải thoát mà Người mang lại cho dân Người lại không phải về việc đánh
đuổi quân thù; sự giải thoát của Người là về việc chiến thắng vĩnh viễn tội lỗi
và sự chết.
Việc Đức Kiô giáng sinh thách thức ta đánh giá lại các ưu tiên của ta, các giá trị của ta, chính cách sống của ta. Hiển nhiên Giáng sinh là một khoảng thời gian để ta vui vẻ hân hoan, nhưng đó cũng là một dịp để ta suy tư sâu sắc, thậm chí để ta vấn tâm xét mình. Vào cuối một năm rất khó khăn về kinh tế đối với nhiều người, ta có thể học được gì từ cảnh khiêm hạ, nghèo khó, đơn sơ của hang Bêlem?
Giáng sinh có thể là thời gian để ta học đọc Tin Mừng, học biết Đức Giêsu không
những chỉ là hài nhi nơi máng cỏ, mà còn là  hài nhi trong đó ta nhận ra Thiên Chúa đã làm người. Chính nơi Tin Mừng các Kitô hữu tìm thấy nguồn linh hứng cho cuộc sống hàng ngày của mình và tham gia các việc trần thế – cho dù tại Quốc hội hay thị trường chứng khoán. Người Kitô hữu không được xuất thế xa lánh thế gian; họ cần nhập thế. Thế nhưng việc họ tham gia chính trị và kinh tế cần phải vượt lên trên mọi hình thái ý thức hệ.
Người Kitô hữu đấu tranh chống nghèo đói, xuất phát từ sự nhìn nhận phẩm giá
tối cao của mỗi con người, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được dành
ban cho sự sống đời đời. Họ cộng tác nhằm chia sẻ công bằng hơn các tài nguyên
của trái đất, xuất phát từ niềm tin rằng – với tư cách người quản lý các tạo thành của Thiên Chúa – chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc những người yếu nhất và dễ bị thương tổn nhất. Các Kitô hữu chống lại sự tham lam và bóc lột, xuất phát từ niềm xác tín rằng sống quảng đại và yêu thương vô vị kỷ, như Đức Giêsu Thành Nazareth đã dạy và đã sống, là con đường dẫn đến sự sống viên mãn. Niềm tin vào vận mệnh siêu việt của mỗi người khiến cho công tác cổ vũ hòa bình và công lý cho mọi người trở nên khẩn cấp.
Vì các mục tiêu này được biết bao người chia sẻ, nên việc hợp tác sinh hoa kết
quả giữa các Kitô hữu và những người khác là điều có thể thực hiện được. Thế
nhưng người Kitô hữu chỉ trả lại cho Xêda những gì thuộc về Xêda, chứ không
phải những gì thuộc về Thiên Chúa. Trong lịch sử, đôi khi người Kitô hữu không
thể tuân thủ những đòi hỏi của Xêda. Từ thói tôn thờ hoàng đế thời cổ đại Rôma
đến những chế độ toàn trị trong thế kỷ qua, các Xêda đã cố chiếm đoạt vị trí
của Thiên Chúa.
Khi người Kitô hữu từ chối cúi mình trước các thần ngụy tạo được đề xuất thời nay, thì điều đó không xuất phát từ một thế giới quan cũ mèm. Sở dĩ như vậy là vì họ hoàn toàn tự do thoát khỏi những kiềm tỏa của ý thức hệ, và được linh hứng bởi tầm nhìn về vận mệnh con người, cao quý đến nỗi họ không thể nào thỏa hiệp với bất kỳ điều gì đe dọa tầm nhìn đó.
Tại Ý, người ta dựng nhiều cảnh hang Bêlem nổi bật trước hậu cảnh các phế tích
dinh thự Rôma thời cổ đại. Điều này cho thấy sự ra đời của hài nhi Giêsu đã
đánh dấu sự kết thúc trật tự cũ, thế giới ngoại giáo, trong đó các yêu cầu của
Xêda hầu như không thể tranh cãi được. Bây giờ đã có một vì vua mới, vị vua này không cậy vào sức mạnh của vũ khí, nhưng dựa vào sức mạnh của tình yêu.
Người mang hy vọng đến cho tất cả những ai, cũng giống như Người, đang sống bên
lề xã hội. Người mang hy vọng đến cho tất cả những người dễ bị thương tổn trước
các biến động kinh tế của một thế giới bấp bênh. Từ máng cỏ, Đức Kitô kêu gọi chúng ta hãy sống như những công dân của nước trời do Người lập, một vương quốc mà tất cả các người thiện chí đều có thể góp phần xây dựng tại đây, trên trái đất.
Tác giả là Giám mục Rôma và tác giả “Đức Jesus Thành Nazareth:  Các Trình
Thuật Thời Thơ Ấu”
Đan Quang Tâm dịch

TRUNG THÀNH VÀ CHÂN THẬT

TRUNG THÀNH VÀ CHÂN THẬT

Tác giả: Sr. Minh Nguyệt

nguồn:thanhlinh.net

… Cách đây vài năm, vào dịp Lễ Giáng Sinh, tờ ”Ecco tua Madre – Đây là Mẹ con” đăng chứng từ của anh Jean – cựu tù nhân – về một vị Linh Mục anh dũng người Hoa. Vị Linh Mục là đan sĩ cao niên dòng Xitô. Anh Jean là tín hữu Công Giáo người Pháp. Xin giới thiệu trọn chứng từ.

Nơi trại tù lao động cải tạo Trung Cộng ở phía nam Bắc Kinh, vào cuối năm 1961,
tôi nhìn thấy vị Linh Mục lần chót. Từ đó đến nay bao năm trôi qua, nhưng cứ
mỗi độ Giáng Sinh về, khuôn mặt gầy guộc của vị Linh Mục lão thành người Hoa
lại hiện lên rõ nét trong ký ức tôi. Đó là một khuôn mặt nhăn nheo với đôi mắt
tinh anh không dễ bị chế ngự. Tôi có cảm tưởng như lại trông thấy vị Linh Mục
đứng đó, trong cơn gió lạnh, tay cầm bánh và rượu giơ lên đọc Lời Truyền Phép,
với ý thức rõ ràng mình sẽ gặp hiểm nguy nếu bất chợt bị khám phá điều đang
làm.

Tôi biết Cha Xuân – tạm gọi tên vị Linh Mục người Hoa – vào đầu năm xa xôi ấy,
khi một toán tù nhân đông đảo được chuyển đến trại chúng tôi dưới sự canh chừng
khe khắt của ông cai tù tên Giang. Tôi được chỉ định làm trưởng nhóm tù nhân
gồm 18 người. Chúng tôi có nhiệm vụ rửa chuồng heo, khuân vác các bao phân bón
và chôn cất người chết. Cha Xuân ngủ trên chiếc chiếu nằm bên cạnh tôi.

Ngay từ ngày có mặt giữa chúng tôi, Cha Xuân trở thành đối tượng khiến mọi
người phải lo âu. Cha mang dáng dấp của một cụ già thật yếu ớt, vậy thì làm sao
có thể chu toàn các công tác lao động vô cùng nặng nhọc? Hơn thế nữa – và đây
mới là mối bận tâm lớn lao nhất của chúng tôi – Cha là một đan sĩ Xitô và vì
thế, Cha luôn luôn nói với chúng tôi về THIÊN CHÚA. Cha nhắc chúng tôi nhớ rằng
THIÊN CHÚA sẽ luôn luôn trợ giúp chúng tôi nếu chúng tôi không đánh mất Đức Tin
nơi Ngài.

Mà thật sự thì chúng tôi bỏ mất Đức Tin từ lâu lắm rồi! Chính những người cộng
sản vô thần đã nghĩ đến điều này và đã lo liệu cho chúng tôi. Đối với người
cộng sản thì tôn giáo là thuốc phiện mê dân, là mê tín dị đoan và nó đã hoàn
toàn bị tước bỏ khỏi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc rồi! Nếu có ai còn ngoan cố tin
vào sự hiện hữu của một quyền lực cao hơn quyền lực của ông chủ tịch
Mao-Trạch-Đông, thì người ấy sẽ bị nghiêm khắc trừng phạt, bị kết án tử! Nói
tóm lại, các Kitô hữu bị bách hại cũng chỉ vì cái tội dám công khai thờ lạy
THIÊN CHÚA của đế quốc thực dân!

Cha Xuân – là người hơn ai hết – phải biết rõ hiểm nguy đó, vì Cha bị kết án 20
năm tù cải tạo lao động chỉ vì cái tội duy nhất là làm Linh Mục!

Vậy mà Cha không sợ hãi gì hết. Cha cứ tiếp tục cầu nguyện và sống đạo, dũng
mạnh y như Kitô Giáo của Cha. Tất cả tù nhân chúng tôi biết thế, nên để Cha yên
và dĩ nhiên là tìm cách xa lánh Cha. Chúng tôi đã có quá nhiều nguy hiểm rồi,
không cần gánh thêm cái hiểm nguy đến từ tôn giáo của Cha Xuân! Nhưng Cha Xuân
không mảy may khiếp sợ. Tôi không biết làm thế nào mà Cha Xuân khám phá ra tôi
là tín hữu Công Giáo duy nhất trong nhóm tù nhân, ngoài Cha ra.

Một ngày trong lúc nghỉ xả hơi, Cha Xuân tiến lại gần tôi và nói:

– Con vẫn luôn là tín hữu Công Giáo tốt phải không? Nhất là con vẫn giữ đạo
trong lòng phải không?

Tôi mệt mỏi cau có trả lời:

– Tôi là tù nhân, ông lão ơi! Hãy để tôi yên thân!

Cha Xuân có vẻ như không nghe lời tôi nói nên vẫn tiếp tục:

– Chúng ta có thể cầu nguyện chung, Jean à! Rồi Cha cũng có thể nghe con
xưng tội nữa!

Tôi tỏ ra sừng sộ – vì sợ mấy tù nhân chung quanh có thể nghe lời ông cụ già
điên khùng này – nên tôi nói:

– Nếu ông muốn tự đưa đầu cho người ta chém thì đó là chuyện của ông. Còn tôi,
tôi muốn cứu lấy mạng sống tôi. Ông có hiểu không?

Nhưng lời nói vô lễ của tôi vẫn không làm Cha Xuân phật ý. Cha dịu dàng tiếp
tục:

– Không sao hết con à, Cha hiểu! Cha chỉ muốn con nhớ rằng Cha là bạn của con.

Rồi Cha Xuân lãng ra xa để lấy cái bao phân bón mang đi. Đôi môi Cha mấp máy
đọc lời Kinh Mân Côi.

Mặc dầu thân xác gầy gò ốm yếu, nhưng người ta không thể hiểu được làm sao mà
Cha Xuân lại có thể gánh hai bao phân – mỗi bao nặng 35 ký – và bước đi trên
đường đất gồ ghề. Người Cha như gập làm đôi dưới sức nặng quá lớn. Chưa hết.
Chẳng những Cha thi hành công tác dành cho Cha mà còn làm thêm công tác của
những người ốm yếu hơn Cha! Thật là chuyện không thể tưởng tượng được! Có lần
một người trong chúng tôi đặt câu hỏi:

– Ai biết điều gì ban sức mạnh cho cụ già vẫn tiếp tục tiến bước không?

Một người nhanh nhẹn trả lời:

– Chính THIÊN CHÚA! Khi ông cai tù không canh gác thì THIÊN CHÚA ngự xuống
và vác cái bao phân bón cho cụ già!

Câu giải thích khiến mọi người cất tiếng cười vang. Chúng tôi có rất ít dịp để
cười! Chúng tôi lao động từ sáng sớm tới chiều tối mà phần ăn thì thật ít ỏi.
Tối đến thì ngủ trong cái chòi giam đầy dẫy ruồi muỗi kêu vo ve. Mỗi ngày đều
phải chôn cất người chết. Chúng tôi phải mang xác chết leo lên đồi để chôn ở
nghĩa trang.

Mùa hè năm ấy tôi nghĩ là đã đến lượt tôi sẽ được chôn cất nơi nghĩa trang. Tôi
bị suy nhược vì lao động quá mức và vì thiếu dinh dưỡng. Tôi bị ngất xỉu nhiều
lần nên được mang lên bệnh xá. Trong mấy ngày liền tôi mê man bất tỉnh.

Rồi một đêm, khi tỉnh lại, tôi thấy Cha Xuân đang ngồi cạnh tôi và quạt gió mát
lên mặt tôi. Cha lén lút đút vào miệng tôi cháo nóng được nấu bằng gạo và rau.
Sau mỗi muỗng cháo, tôi cảm thấy như sức lực dần dần hồi phục trong tôi. Rồi
Cha Xuân thì thầm vào tai tôi:

– Họ có thể hành hạ và giết chết thân xác chúng ta, con à. Nhưng họ không
thể nào chạm đến linh hồn chúng ta. Chính chúng ta có nhiệm vụ gìn giữ linh hồn
chúng ta. Hơn thế nữa, còn có Đức Mẹ MARIA trợ giúp chúng ta.

Sau đó Cha Xuân còn đến thăm tôi ba lần nữa và mỗi lần đều mang theo cháo nóng.
Chỉ vào tháng 9 khi đủ sức trở lại lao động với nhóm tù nhân, tôi mới biết Cha
Xuân đã thành công trong việc cổ động các tù nhân khác tìm kiếm rau cỏ ăn được
trong các giờ nghỉ, còn chính Cha thì lén lút lấy trộm mỗi khi một ít gạo, rồi
để dành cho đến lúc đủ số lượng nhỏ thì bắt nồi lên nấu cháo. Tôi cảm động cám
ơn Cha Xuân và hổ thẹn vì đã cư xử bất nhã bất kính đối với vị Linh Mục lão
thành.

Một ngày, Cha Xuân kể cho tôi nghe câu chuyện Cha bị bắt giam.

Vào năm 1947, mấy người cộng sản hùng hổ tiến vào chiếm quyền cai trị nơi thành
phố quê sinh của Cha. Cha vắng mặt ở Đan Viện Xitô, và lúc trở về thì thấy các
anh em đan sĩ đã bị giết chết, còn đan viện thì bị đập phá tan tành. Các người
lính cộng sản sát máu trông thấy Cha liền bắt Cha tống giam. Sau khi bị tra
khảo trong vòng 2 năm trời, Cha bị kết án 20 năm tù ”cải tạo bằng lao động”.
Nghe xong tôi nhẹ nhàng nhận xét:

– Thôi thì ít ra là Cha vẫn còn sống!

Cha nhìn thẳng mặt tôi và nói:

– Cha còn sống bởi vì Chúa muốn thế. Cha tin rằng Chúa muốn trao cho Cha một
sứ vụ. Nếu không phải như thế thì Cha ao ước được thông phần số phận của các
đan sĩ anh em của Cha hơn!

Tháng 11 cùng năm ấy – 1961 – ông cai tù Giang chỉ định tôi làm trưởng nhóm tù
nhân có nhiệm vụ chuẩn bị cánh đồng lúa ở trại 23. Một thời ngắn sau đó ông gọi
tôi đến và nói rằng có người báo cáo cho ông biết là Cha Xuân cầu nguyện lén
lút vào ban đêm. Rồi ông hét lớn:

– Có đúng vậy không?

Tôi mỉm cười nói vớt vát:

– Không phải vậy đâu, đó chỉ là chuyện một ông già lao lực suốt ngày nên đêm
đến thì mệt mỏi và nói ú ớ trong giấc ngủ thôi!

Ông Giang nhìn chằm chặp mặt tôi dò xét hồi lâu rồi nói với giọng hăm dọa:

– Nếu ngày nào tôi biết được là ông ấy đọc kinh thì tôi sẽ nghiêm khắc trừng
phạt cả nhóm và đặc biệt là hai người. Phải nói cho ông ta biết như thế.

Vừa về đến chòi giam tôi tìm gặp ngay Cha Xuân và nói:

– Xin Cha ý tứ. Con có thể bị biệt giam vài tháng. Nhưng Cha thì .. mạng sống
lâm nguy.

Cha Xuân bình thản nhìn tôi và nói:

– Mạng sống của Cha quan trọng đến thế sao?

Rõ thật khổ, không có cách gì làm cho cụ già này lý luận bình thường được!

Tháng 12 đến. Trời lạnh cắt da và gió buốc thổi từ đông bắc đến. Một ngày gần
cuối tháng 12, Cha Xuân tìm đến gặp tôi nơi bờ ruộng và hỏi xem Cha có thể nghỉ
ngơi vài phút không. Tôi nói:

– Còn chút nữa thì đến giờ nghỉ. Cha không đợi được sao?

Cha đáp:

– Không, bởi vì sau đó thì tới giờ lính canh đến.

Có lẽ Cha muốn nói thêm điều gì đó nhưng không biết nói sao nên Cha hỏi tôi:

– Con có biết hôm nay ngày gì không?

Tôi khó chịu trả lời:

– Thứ hai 25 tháng 12!

Nói xong tôi bỗng im lặng vì trong tích-tắc tôi hiểu rằng, không phải chỉ là Lễ
Giáng
Sinh mà là cụ già muốn cầu nguyện! Tôi nói gần như khẩn khoản:

– Cha biết rõ đây là hiểm nguy mà!

Cha Xuân bình tĩnh nói:

– Nhưng Cha phải cầu nguyện. Rồi Cha cũng muốn con cầu nguyện với Cha nữa,
bởi vì chỉ với riêng hai chúng ta thì ngày này mới có một ý nghĩa gì đó. Đức
Chúa GIÊSU đã sinh ra từ Đức Trinh Nữ MARIA!

Tôi nhìn quanh quất. Không thấy lính canh, còn tù nhân gần nhất thì đang đứng ở
giữa đường từ trại đến. Tôi nói:

– Cha xuống cái hố khô nước đi. Con chỉ cho Cha 15 phút thôi. Không hơn đâu
nhé!

Cha hỏi:

– Con không xuống sao?

Tôi đáp:

– Con đứng ở đây!

Thật là những giây phút kinh hoàng tiếp theo đó. Cứ mỗi lần nghe tiếng gió rít,
tôi có cảm tưởng như nghe tiếng hét của lính canh. Thế rồi, không hiểu một cái
gì đó giúp tôi thắng vượt nỗi sợ hãi và đẩy nhanh tôi xuống cái hố. Và điều tôi
trông thấy như muốn đè bẹp tôi.

Lần đầu tiên từ bốn năm qua – tôi quên bẵng ông cai tù Giang và trại tù – để
chỉ còn nhớ thế nào là điều thật ý nghĩa khi tin tưởng vào một cái gì đó cao cả
hơn là cuộc sống bình thường.

Dưới cái hố khô nước, Cha Xuân đang cử hành Thánh Lễ. Thánh Đường là mảnh đất
hoang nằm ở miền Bắc Trung Quốc. Bàn Thờ là cụm đất cứng lạnh. Áo Lễ là chiếc
áo tù nhân. Chén Lễ là cái tách bể. Rượu Lễ được vắt từ mấy trái nho được cẩn
thận cất giữ. Bánh Lễ là một miếng bánh khô. Không có nến cháy nhưng thay vào
đó là cành củi cháy. Ca Đoàn là tiếng gió rít liên tục như làm thành bản Thánh
Thi. Hình như ngọn lửa nhỏ mang lời cầu nguyện của vị Linh Mục lão thành anh
dũng bay đến tận Trời Cao và ngọn gió mang đi phân phối đến tận bốn gốc bể chân
trời.

Trong phút chốc tôi bỗng cảm thấy niềm ao ước sâu xa được san sẻ Đức Tin của
Cha Xuân. Tôi nghĩ rằng không nơi nào trên thế giới, kể cả trong những thánh
đường đồ sộ nguy nga nhất của Kitô Giáo, không ai có thể cử hành – vào đúng
ngày Lễ Giáng Sinh – một Thánh Lễ ý nghĩa như thế.

Một cách vô thức không ngờ, tôi bỗng cất cao lời thánh thiêng:

– Et cum spiritu tuo – Và ở cùng Cha!

Không hề lộ vẻ ngạc nhiên Cha Xuân đọc tiếp như khích lệ tôi:

– Ite Missa est – Lễ đã xong!

Miệng tôi phát ra lời kinh tưởng chừng như quên bẵng từ rất lâu:

– Deo gratias – Tạ ơn Chúa!

Thánh Lễ đã kết thúc.

Cha Xuân nói với tôi:

– Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta và hiểu rằng chúng ta không thiếu sự tôn
kính. Đây chỉ là cách thức thích hợp nhất cho hoàn cảnh của chúng ta!

Tôi thấy cổ họng nghẹn cứng. Nỗi sợ hãi lớn lao nhất của Cha Xuân không phải là
sợ bị bắn chết mà là sợ xúc phạm đến THIÊN CHÚA! Sau cùng, điều

mà vị Linh Mục lão thành cố gắng làm cho tôi hiểu suốt trong thời gian này
chính là:

– Sự sống còn – như bất cứ loài động vật nào – tạo nên từ sự khéo-léo ma-lanh
và làm cho khiếp đảm, thì không thể đủ cho con người. Con người cần phải có cái
gì khác bên trên chính con người để có thể sống còn, như một giấc mơ, một niềm
tin chẳng hạn.

Tôi nói với Cha Xuân:

– Con tin là Chúa sẽ hiểu và sẽ tha thứ cho chúng ta.

Cha Xuân đáp:

– Cám ơn con, Jean à! Xin THIÊN CHÚA bảo vệ con. Xin Đức Mẹ MARIA chúc lành cho
con.

Và lần đầu tiên kể từ bốn năm qua, tôi tin rằng lời Cha Xuân nói đã ứng nghiệm.
Vừa lúc đó thì tôi trông thấy ông cai tù tên Giang đang đạp xe về hướng cái hố
khô nước. Trong chớp nhoáng tôi đủ giờ để nhảy xuống hố và làm bộ giơ tay trên
ngọn lửa như tìm cách sưởi ấm, trước khi ông ta kịp nhìn xuống hố nghi ngờ dò
xét. Ông ta hạch hỏi:

– Mấy người làm gì dưới hố?

Tôi trả lời đánh trống lãng kèm theo nụ cười ngây thơ:

– Cụ già muốn làm chút lửa để sưởi ấm.

Ông Giang hét lớn:

– Công việc chỉ được ngừng khi đến giờ nghỉ, chứ không phải trước giờ nghỉ! Hãy
trở lại với công việc đang làm!

Vài ngày sau biến cố trên đây diễn ra cuộc thay đổi và di chuyển tù nhân.

Cha Xuân không còn ở chung đội tù với tôi nữa. Và từ đó trở đi tôi không còn
trông thấy Cha Xuân nữa. Nhưng cái ngày đáng ghi nhớ ấy vẫn ghi khắc trong ký
ức tôi suốt trong thời gian kinh hoàng còn lại của cuộc sống lao động tù đày.
Nó nằm sâu nơi một góc nhỏ an toàn kín ẩn trong trái tim tôi mà không một ai có
thể lọt vào, kể cả ông cai tù Giang và các tên lính canh. Thật an toàn và không
sợ hãi.

Có lẽ hôm nay khi tôi viết những hàng này thì Cha Xuân vẫn còn sống. Hay có lẽ
Cha đã trở thành người thiên cổ. Nhưng cho dầu những người cộng sản Trung Hoa
đã giết chết Cha, thì họ cũng chỉ có thể giết chết thân xác Cha mà thôi, còn
hồn thiêng bất tử của Cha, họ vẫn không thể nào chạm tới.

… ”Bấy giờ tôi thấy Trời rộng mở: kìa một con ngựa trắng, và người cỡi
ngựa mang tên là ”Trung Thành và Chân Thật”, Người theo công lý mà xét xử và giao chiến. Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều vương miện, Người mang một danh hiệu viết trên mình, mà ngoài Người ra chẳng ai biết được. Người khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: ”Lời của THIÊN CHÚA”. Các đạo quân thiên quốc đi theo Người, họ cỡi ngựa trắng, mặc áo vải gai mịn trắng tinh. Từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén để chém muôn nước.
Chính Người sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt chúng. Người đạp trong bồn đạp nho chứa thứ rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của THIÊN CHÚA Toàn Năng. Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: ”VUA các vua, CHÚA các chúa”

(Sách Khải Huyền 19,11-16)
.

(”PRO DEO ET FRATRIBUS – Famiglia di Maria”, Veniva nel mondo La Luce Vera,
Novembre/Dicembre 2009, Publicazione mensile, Anno 20, N 144-145, trang 8-13)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn:vietvatican.ne

 

Đức Giáo Hoàng cầu nguyện cho hòa bình trong thông điệp Giáng Sinh

Đức Giáo Hoàng cầu nguyện cho hòa bình trong thông
điệp Giáng Sinh

Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh lễ Đêm Giáng Sinh tại Đại giáo đường Thánh Phê-Rô, 24/12/2012.
25.12.2012
Đức Giáo hoàng Benedicto 16 đã cầu nguyện cho hòa bình, nhất là ở vùng Trung Đông, trong thánh lễ Đêm Giáng Sinh, giữa lúc tín đồ Cơ đốc giáo trên khắp thế giới mừng ngày Chúa Giê Su ra đời hơn 2.000 năm trước.
Phát biểu trước các tín đồ tại Đại giáo đường Thánh Phê-Rô đông nghẹt người hồi
tối thứ hai, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chấm dứt đổ máu ở Syria, Li Băng, Iraq và
các nước láng giềng.
Ngài cũng cầu nguyện cho Israel và Palestine có thể chung sống hòa bình với nhau.
Hàng vạn du khách trên khắp thế giới tụ tập ở thị trấn Bethlehem ở Vùng Tây
Ngạn để mừng ngày lễ ở nơi mà người ta tin là Chúa Giê Su chào đời.
Người Palestine chủ nhà đặc biệt vui mừng trong lễ Giáng Sinh năm nay vì tháng
trước Palestine được Liên hiệp quốc thừa nhận là một quốc gia độc lập.
Trong bài thuyết giảng trước Giáng Sinh hàng năm, Giám mục Fouad Twal, chức sắc
hàng đầu của Giáo hội Thiên chúa giáo La mã trong khu vực, đã tán dương thành
tựu đó của người Palestine và thúc giục họ làm việc chung với người Israel để
chấm dứt cuộc xung đột dường như không có hồi kết trong khu vực.

THIÊN ĐÀNG (TRỜI)

THIÊN ĐÀNG (TRỜI)

Thánh Kinh thường dùng Nước Trời (Trời) chỉ dùng từ Thiên Đàng 3 lần. Lần thứ nhất, khi Đức Giêsu đã nói đến thiên đàng khi hứa hẹn với người trộm ăn năn trở lại trên thập giá (Lc 23,43). Lần thứ hai, Thánh Phaolô nói: “Tôi biết có một người môn đệ Đức Ki-tô, trước đây mười bốn năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba -có ở trong thân xác hay không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên Chúa biết. Tôi biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận thiên đàng -trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa biết và người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại” (2Cr 12,1-4). Lần thứ ba, Sách Khải Huyền nói đến lời hứa ban thưởng cho người chiến thắng, và cho những ai hoàn tất các điều Ðức Giêsu đã truyền (Kh 2,26). Phần thưởng ấy là được ăn quả cây sự sống trồng ở trên thiên đàng (Kh 2,7) không hề bị cái chết thứ hai làm hại  (Kh 2,11).
Thánh Kinh phân biệt rõ ràng bầu trời vật lý có cùng bản chất với đất, “trời và đất”; còn trời của Thiên Chúa là trời không phải là đất. Tuy nhiên ý niệm bầu trời vật lý thường cho phép con người suy tưởng đến trời của Thiên Chúa.
1. Trời và đất
Người Do thái cũng như chúng ta quan niệm rằng trời là một phần của vũ trụ, khác biệt với đất nhưng lại tiếp giáp với trái đất. Trời là một bán cầu bao trùm trái đất và cùng với trái đất tạo thành vũ trụ. Vì thiếu danh từ để đặt tên cho vũ trụ nên người Do thái gọi vũ trụ là “trời và đất” (St 1,1; Mt 24,35).
2. Trời không phải là đất
Nhìn vũ trụ vĩ đại, bao la nhưng có trật tự, điều hòa, kỳ diệu và huyền bí, nên con người thường cho rằng tất cả những gì chất chứa vũ trụ này đều mang mầu nhiệm không thể biết hết được. Con người không thể dò thấu các chiều kích sâu thẳm của trái đất và đại đương mênh mong được (G 38,4-16). Vì vậy, những gì không hiểu thấu kia của bầu trời, con người cho đó là trời mà chưa ai lên đó (Ga 3,13; Cn 30,4; Rm 10,6), chỉ Thiên Chúa Chúa ngự ở trên đó mà thôi, “Trời là trời của Chúa nhưng Ngài đa ban trái đất cho con cái Ađam” (Tv 115,16).
3. Trời, nơi Thiên Chúa ngự
Sau khi mở rộng cõi trời như trải rộng tấm lều, Thiên Chúa đã xây cung điện Ngài trên sóng nước (Tv 104,2tt) từ đó Ngài thăng ngự tận cõi mây ngàn (Tv 68,5.34; Đnl 33,26) và tiếng Ngài vang dội uy hùng trên sóng nước đại dương giữa các tiếng gầm vang trong gió bão (Tv 29,3). Ngài đặt ngai tòa trên đó và hội họp triều thần của Ngài hay còn gọi là “đạo binh thiên quốc”, để loan truyền và chu toàn mệnh lệnh của Ngài tới tận cùng thế giới (1V 22,19; Is 6,1tt; G 1,6-12). Ngài thật là Thiên Chúa của trời (Nkm 1,4; Đn 2,37). Thiên Chúa ngự trên trời gợi lên tính chất siêu việt bất khả xâm phạm của Ngài đồng thời cho biết sự hiện diện rất gần của Ngài nữa, tựa như Ngài có
mặt khắp nơi của bầu trời trái đất với con người vậy.
Vì Thiên Chúa của Israel là một vị Thiên Chúa cứu thế và Ngài ngự ở trên trời cao nên Ngài luôn tuôn đổ nguồn ơn cứu rỗi xuống mặt đất. Cụ thể, từ trời cao Gabriel xuống trên Đaniel (9,21) để hứa hẹn sự kết liễu thời kỳ tủi nhục (9,25). Con Người phải xuất hiện trên mây trời để trao ban vương quốc cho các đấng thánh ( Đn 7,13). Và sau hết từ trời cao, Gabriel được sai đến với Zacaria (Lc 1,11-19) và với Maria (Lc 1,26-38), và chính trời cao các thiên thần xuống mặt đất để ca tụng và loan tin “vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Sự
hiện diện của các thiên thần Thiên Chúa giữa chúng ta là dấu chỉ Thiên Chúa đã
thực sự vạch xé mây trời đến ngự giữa chúng ta, Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở
cùng chúng ta.
3. Trong Đức Giêsu Kitô, trời hiện diện trên mặt đất
a. Đức Giêsu nói về trời
Đức Giêsu luôn nói về Trời nhưng Trời ở đây không bao giờ chỉ một thực tại tự hữu, độc lập với Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến phần thưởng dành trên trời cho những ai vâng giữ và thi hành Lời Chúa (Mt 5,12), đó là cả một kho tàng vô cùng quí báo đã được tạo lập trên trời (Mt 6,20; 19,21). Trời ở đây cũng chính là sự hiện diện của Chúa Cha tuy vô hình nhưng ân cần, ôm ấp cả thế  gian và chim trời (Mt 6,26), bao phủ người công chính lẫn tội nhân (Mt 5,45) với lòng nhân từ vô bờ của Ngài (Mt 7,11). Con người không nhận ra sự hiện diện này nhưng chỉ nhờ Đức Giêsu đến nói cho chúng ta biết và minh chứng điều Ngài đã thấy ở trên trời (Ga 3,11).
b. Đức Giêsu từ trời đến
Đức Giêsu vốn ở trên trời (Ga 3,13) nên Người mang định mệnh trên trời xuống cho con người và rồi trở về trời (Ga 6,62). Vì vậy các công trình của Ngài đều thuộc về trời và công trình thiết yếu là hy lễ bằng thịt bằng máu Người, đó là bánh Thiên Chúa ban cho chúng ta, bánh từ trời xuống (Ga 6,33-58) và là bánh thông ban sự sống đời đời, sự sống của Chúa Cha, sự sống ở trên  trời.
c. Dưới đất cũng như trên trời
Đức Giêsu từ trời xuống và trở về trời dĩ nhiên người Kitô hữu cũng về trời cùng với Người, và Chúa Cha đã phục sinh cho họ và cho họ đồng bàn trên Nước Trời (Ep 2,6; Cl 2,12). Dù thế, công trình của Đức Giêsu vẫn được tiếp tục. Công trình này hệ tại ở chỗ liên kết đất với trời một cách bền vững để cho Nước Trời ngự đến, ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời (Mt 6,10) và để nhờ Người mà mọi vật được hòa giải dưới đất cũng như trên trời (Cl  1,20). Khi sống lại, Đức Giêsu lãnh nhận mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18), Ngài vào trong đền thánh Thiên Chúa tức là trời ( Dt 4,14), được tôn lên cao hơn các tầng trời ( Dt 7,26) và ngự bên hữu Thiên Chúa. Người đã đính kết một giao ước mới giữa trời và đất (Dt 9,25) và Người ban cho Giáo Hội quyền lực của Người khi Người hoàn tất trên trời các hoạt động mà Giáo Hội thực hiện dưới đất (Mt 16,19; 18,19).
d. Các tầng trời mở ra
Nhờ sự hòa giải mà Đức Giêsu thực hiện, nhiều dấu chỉ được bày tỏ cho chúng ta: Các tầng trời mở ra (Mt 3,16), Thần Khí Thiên Chúa đa ngự xuống trên Con Người (Ga 1,31), và các Tông đồ (Cvtđ 2,2).
4. Niềm hy vọng lên trời
Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy  mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người(Pl 3,20). Tất cả đặc điểm của bầu trời hy vọng Kitô giáo đều được kết tụ nơi đây: một thành đô, một cộng đoàn được thành lập cho chúng ta, một Giêrusalem mới (Kh 3,12). Giêrusalem mới này là vũ trụ mới (Kh 21,5) do trời mới đất mới tạo nên, như vũ trụ của chúng ta đây (2Pr 3,13) trong đó sẽ không còn chết chóc, lệ sầu, rên siết, khổ cực (Kh 21,4), ô uế (21,27), đêm tối (Kh 22,5) nhường chỗ cho hạnh phúc và niềm vui bất tận đó là sự hiệp thông với Chúa (1Tx 4,17)
Maria Thanh Mai gởi

Niềm tin người ngoại đạo

Niềm tin người ngoại đạo

Trầm Thiên Thu
Giáng Sinh luôn có điều gì đó kỳ diệu mà người ta khó có thể diễn tả một cách trọn vẹn. Theo thiển ý của tôi, điều kỳ diệu đó rất có thể là NIỀM TIN. Vì niềm tin vô hình và trừu tượng nên khó nhận biết, khó nhận biết nên khó diễn tả. Ngay cả những người không có niềm tin tôn giáo hoặc vô thần cũng vẫn có niềm tin, nhất là khi người ta cảm thấy bất lực, đành thúc thủ, người Công giáo gọi niềm tin đó là Đức Tin.
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (1) không là người Công giáo nhưng vẫn ảnh hưởng “điều
kỳ diệu” của Lễ Giáng Sinh, bằng chứng là ông đã viết ca khúc “Lạy Chúa, con là
người ngoại đạo”.
Tuy là người ngoại đạo, nhưng ông xác định: “Lạy Chúa tôi, con người không đạo,
nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Ca khúc này được viết trong thời chiến tranh tại
Việt Nam, ông đã thổ lộ với Đức Chúa về thực tại lúc đó: “Con nghe trong đêm
Việt Nam tối tăm, những mìn bom hoen dấu”. Chỗ nào cũng thấy dấu đạn, mìn,
bom,… Đáng sợ thật! Không ai làm gì được. Và ông thắc mắc: “Lạy Chúa trên cao
Chúa ở nơi nào?”. Không chỉ người ngoại đạo “thắc mắc” mà chính những người
mang danh Kitô hữu cũng đã có những lúc “thắc mắc” như vậy khi gặp vấn nạn mà
Ông Trời vẫn im lặng!
Tuy có vẻ “mơ hồ” như vậy, nhưng ông vẫn tin: “Lạy Chúa tôi, tuy người không
đạo, nhưng yêu nhớ lắm nhạc chuông khuya”. Ông không nói rõ, mà ông chỉ nói
theo cách diễn tả của một nhạc sĩ rằng ông “yêu và nhớ nhạc chuông khuya”. Nhạc
chuông khuya không phải nhạc chuông điện thoại reo lúc đêm khuya, mà đó là
“chuông nhà thờ đổ vang lúc cử hành Thánh lễ đêm Giáng Sinh”. Nhiều năm trôi
qua, ông đã quen và thấy nhớ tiếng chuông đó.
Vì thấy thiếu cái gì đó, ông lại hướng tâm lên Đấng mà ông tin: “Khi con bơ vơ
chắp tay nguyện cầu cho người thương còn xa mãi xa, mà suốt đêm dài ánh sáng
chưa qua”. Người thương mà ông cầu nguyện cho có thể là người yêu, người thân,
hoặc chính những người Việt ở khắp đất nước bốn ngàn năm văn hiến này.
Bản thân ông cũng là một binh sĩ thời chiến, nhưng ông hoạt động trong lĩnh vực
tâm lý chiến, ông mô tả một thực tế đau thương: “Xác người nào trôi sông, quay
đầu về biển Đông, những bước chân nào đi, có khi không trở lại. Đứa nhỏ ngồi ôm
em, không còn nghe đạn nổ, một người phơi tóc bạc, đếm thầm 20 năm”. Chiến
tranh là thế, có người đi mà không hẹn ngày về, đứa bé ngồi ôm đứa em chết trên
tay, cha mẹ già chờ con mòn mỏi đến nỗi tóc bạc phơ màu thời gian. Gia cảnh
buồn biết bao!
Những điều thực tế đó cho thấy con người hoàn toàn bất lực, do đó mà người ta
phải tin tưởng trọn vẹn vào một Đấng-Ngự-Trên-Cao. Ông bày tỏ
niềm-tin-của-người-ngoại-đạo: “Chúa ơi, Chúa ơi, con người không đạo, nhưng tin
Chúa giúp đời thương đau”. Không ai có thể cứu giúp cuộc đời đầy đau thương
này, ngoại trừ Thiên Chúa. Và rồi ông dẫn chứng: “Như con tin trong một lần đã
lâu, những hờn đau thu ngắn, để đám mây hồng âu yếm giăng ngang”.
Rõ ràng đã có lần ông tin Đấng-Ngự-Trên-Cao, rồi ông được giảm bớt đau khổ, và
lại còn được “đám mây hồng âu yếm giăng ngang” – tức là ông thực sự cảm thấy sự
bình an trong tâm hồn. Vậy là Thiên Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của ông, và đó
cũng chính là phép lạ dành cho ông – một con người thương nước, thương dân, và
luôn khao khát hòa bình.
Khi NS Trần Thiện Thanh chưa đi định cư tại Hoa Kỳ, tôi có dịp gặp ông 2 lần
tại Saigon, khi ông đi hát ở mấy tụ điểm ca nhạc, những nơi mà tôi sinh hoạt về
âm nhạc. Ông rất bình dị và hay cười, điều đó chứng tỏ ông là người có tâm hồn
tốt lành. Thiết tưởng, cuộc sống của NS Trần Thiện Thanh rất gần với Thiên
Chúa, vì ông là người-ngoại-đạo-có-niềm-tin-vào-Chúa.
Nói về niềm tin, hẳn có nhiều người biết bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo
Tím” của Thi sĩ Kiên Giang (2). Bài thơ nổi tiếng này đã được một nhạc sĩ phổ
nhạc và cũng khá phổ biến. Thi sĩ Kiên Giang cũng có niềm tâm sự của một
người-ngoại-đạo-có-niềm-tin. Khổ thơ cuối của bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên
Áo Tím” được ông kết bằng một lời cầu nguyện chân thành:
Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!
Ngay cả những người ngoại đạo cũng phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi,
huống chi những người đã và đang có niềm tin vào Thiên Chúa, biết tín thác vào
Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế từ trời sinh xuống gian trần.
Kinh thánh cũng cho biết một số người ngoại đạo mà lại liên quan niềm tin tôn
giáo. Trên đường lên Can-vê, Chúa Giêsu đã được ông Simon vác đỡ Thập giá. Ông
Simon là người ngoại đạo thuộc xứ Kyrênê (Lc 23:26).
Và rồi một hôm, khi Đức Giêsu vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội
trưởng đến gặp Người và nài xin: “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm
liệt ở nhà, đau đớn lắm”. Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó”. Viên đại đội
trưởng đáp: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói
một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8:5-8). Chúa Giêsu đã khen đức tin
của viên đội trưởng, rồi Ngài nói thẳng: “Từ phương đông phương tây, nhiều
người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước
Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó
người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8:11-12).
Thánh sử Luca kể: Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa
hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, có mười người phong hủi
đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ
lòng thương chúng tôi!” (Lc 17:13). Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình
diện với các tư tế”. Vì hồi đó, bệnh nhân phong nào cũng bị coi là ô uế. Đang
khi họ đi thì họ được sạch. Phép lạ nhãn tiền. Thấy mình được khỏi thì một
người trong số họ liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta
sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Mà anh ta lại là người Samari, tức là
người ngoại đạo. Thấy vậy, Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều
được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh
Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17:17-18). Rồi Người nói với
anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17:19).
Người ngoại đạo không chỉ có đức tin mạnh và còn biết trở lại để tạ ơn Chúa sau
khi được ơn. Còn 9 người có đạo lại “qua cầu rút ván”, phủi tay là xong, không
hề biết tạ ơn.
Lại một người ngoại đạo khác biết thể hiện đức tin qua việc yêu thương và giúp
đỡ người khác: Có một người trên đường đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc
đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi,
để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, một thầy tư tế đi qua con đường ấy,
trông thấy nạn nhân, nhưng ông ta tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một
thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy nạn nhân nhưng cũng tránh qua bên kia mà đi.
Sau đó, một người Samari kia đi ngang qua chỗ ấy, cũng thấy nạn nhân, và thấy
chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, băng bó vết thương cho người ấy, rồi đặt
người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy
ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có
tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” (Lc 10:35).
Người ngoại đạo mà sống đức tin cụ thể như vậy đó. Còn những người có chức vụ
và quyền hành trong Giáo hội lại nhẫn tâm làm ngơ, giảng hay mà làm không hay.
Chúng ta mệnh danh là Kitô hữu nhưng cũng chỉ là cái “mác”, là “nhãn hiệu”,
hành động có khi còn trái ngược! Những người hoạt động Lòng Chúa Thương Xót và
Giáo huấn Xã hội Công giáo cũng chưa thực sự khá hơn. Đức tin bị mai một hay đã
chết?
Chúa Giêsu hỏi: “Trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã
bị rơi vào tay kẻ cướp?” (Lc 10:36). Lúc đó, người thông luật trả lời: “Chính
là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy” (Lc 10:37a). Đức Giêsu bảo
ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10:37). Lời này cũng là lời
Chúa Giêsu nói riêng với mỗi chúng ta.
Thánh sử Gioan nói: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nổi đã ban Người Con
Một, để ai tin nhận Người Con đó thì sẽ không phải chết nhưng được sống muôn
đời” (Ga 3:16). Tin bằng môi miệng thì ai cũng tin được, tin bằng hành động cụ
thể mới là điều Chúa muốn. Vậy mà nhiều người ngoại đạo đã làm được. Bạn có
thấy xấu hổ không?
Ngay đêm Chúa Giáng Sinh, một Ánh Sao Lạ xuất hiện trên bầu trời Belem. Những
người tai to mặt lớn, chức quyền cao sang đã tìm những chuyên gia cắt nghĩa lời
ngôn sứ, nhưng họ chỉ như vịt nghe sấm, miệng chữ A và mắt chữ O. Tới khi những
người ngoại đạo từ phương xa tới và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở
đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng
tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2). Vua Hêrôđê lúc đó mới tá hỏa tam tinh!
Tại Belem năm ấy, tại nhiều nơi ngày nay cũng đã và đang có những người thốt
lên lời cầu nguyện chân thành như NS Trần Thiện Thanh: “Lạy Chúa, con là người
ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao”.
Trầm Thiên Thu

Chính tình yêu là một tặng phẩm hoàn hảo

 

Chính tình yêu là một tặng phẩm hoàn hảo

Trầm Thiên Thu

Hai tuần trước lễ Giáng Sinh, tôi rời khu ngoại ô với một ít bạn bè để rảo quanh các đường phố Los Angeles. Tôi vừa đi vừa hát nhỏ: “Chuông leng keng, chuông leng keng, chuông giáo đường âm vang…”. Nhưng tôi không thấy những đứa trẻ cười và người qua lại, nụ cười ẩn giấu sau nụ cười”.

Tôi gặp hàng trăm người vô gia cư, những con nghiện tụ tập chỗ này chỗ nọ. Họ
xách theo những chiếc bịch ni-lông chứa các vật dụng thường, trong khi những
dãy nhà, những người mua sắm tranh thủ về nhà từ các cửa tiệm.

Không có gì mang vẻ ngày nghỉ. Tôi mong chờ Chúa can thiệp và nhắc nhớ tôi về
mùa lễ hội.

Qua ngày thứ hai của hành trình, người hướng dẫn mời chúng tôi nhìn ngắm khu
Metro Kidz. Chúng tôi theo chiếc xe đẩy phát bữa trưa, được vẽ những hình nghệ
thuật thánh graffiti, khi xe vòng quanh khu nhà nghèo. Âm nhạc âm vang từ những
chiếc loa và kéo theo hàng trăm trẻ em tới một hẻm cụt tĩnh lặng. Đủ lứa tuổi,
từ chập chững tới thiếu niên, chúng ùa theo. Mọi người cùng phát quà cho chúng.

– Em nào muốn chơi trò chơi?

– Con, con. – Một đứa trẻ nói với giọng tự tin.

– Để con, để con. – Cả đám đồng thanh hô theo.

Niềm vui lan tỏa và tôi mỉm cười.

– Được rồi. Chúng ta sẽ chơi và có thưởng. Tôi muốn kể chuyện Giáng sinh. Bao
nhiêu người đã từng nghe chuyện về Hài nhi Giêsu?

Hầu như mọi cánh tay đều giơ lên. Tôi ngồi bắt chéo chân giữa những đứa trẻ nói
cười khúc khích, có một đứa bé bò vào lòng tôi và ngủ ngon lành. Có gì đó chạm
vào cạnh sườn tôi. Quay lại tôi thấy một bé gái xinh xắn có mái tóc xoăn. Bím
tóc có chiếc kẹp hình cầu vồng đa sắc. Đôi mắt sáng và to. Tôi hỏi:

– Chào con. Tôi là Sandy. Con tên gì?

Nó có vẻ bẽn lẽn, mắt nhìn xuống đất, nói nhỏ:

– Con tên Erika.

– Con bao nhiêu tuổi? – Vừa hỏi tôi vừa đặt tay lên vai nó.

Erika vừa cười vừa nói:

– Con 5 tuổi.

– Con muốn chơi hả?

Nó nắm tay tôi, lắc đầu và nói:

– Không.

– Được rồi. Chúng ta ngồi xem nha.

Phần thưởng là đồ ăn, đồ chơi và sách được trao cho những em dự thi. Người
thắng nhận phần thưởng và giơ cao lên cho mọi người thấy.

Chúng nói với nhau:

– Xem bạn có gì nè!

Cuối cùng, đến lúc nghe truyện Giáng sinh và học những câu kinh thánh mới.

– Nghe đây! Chúng ta có vài phần thưởng nữa. Lắng nghe cho kỹ và trả lời nha
các con!

Ngồi giữa những đứa trẻ nghèo ở đường phố Los Angeles, Tôi rất vui và hạnh
phúc. Tôi nghe truyện về hai cha mẹ phải ở trong chuồng bò vì không còn quán
trọ cho họ. Tôi cảm thấy đứa bé ngủ trong lòng tôi như đứa trẻ được bọc trong
khăn và bú mẹ.

Erika lắng nghe câu chuyện đêm vọng Giáng sinh và nhích tới một chút. Nó chăm chú
nhìn và kiên nhẫn chờ phần thi.

– Hôm nay là câu kinh thánh trong thư thánh Giacôbê 1:17. Tôi sẽ đọc và các con
lặp lại nha. Mỗi món quà tốt đẹp và hoàn hảo đều đến từ Chúa Cha.

– Mỗi món quà tốt đẹp và hoàn hảo đều đến từ Chúa Cha. – Các em đồng thanh lặp
lại.

– Cảm ơn con đã lắng nghe. Con được nhận phần thưởng.

Erika giơ cao món quà gói giấy đỏ. Tôi chú ý mặt nó ngời sáng và miệng cười
tươi. Các em khác mở quà của mình ra xem, nhưng Erika không mở quà. Nó nhìn đứa
bé ngủ trong lòng tôi, rồi nó nói nhỏ vào tai tôi:

– Hôm nay con có quà Giáng sinh cho em con rồi.

Không biết đó là món quà gì, nó trao quà cho em nó. Tôi cảm động và rơi nước
mắt. Tấm lòng của Erika như Chúa Giêsu vậy. Mới 5 tuổi nhưng nó biết yêu thương
là món quà hoàn hảo, và tặng phẩm tốt nhất là biết yêu thương người khác.

(Chuyển ngữ từ Chicken Soup for the Soul)

Trầm Thiên Thu

Mừng Chúa Giáng Sinh

Mừng Chúa Giáng Sinh

Đăng bởi lúc 8:38 Chiều 24/12/12

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (24/12/2012) – Sài Gòn- Giáng Sinh có nhiều điều để
nói, nhiều cảm xúc để viết, nhiều chuyện để hàn huyên, nhiều tâm sự để chia
sẻ,… Giáng Sinh cũng có nhiều bài hát dù không phải là Thánh ca, một trong số
đó là ca khúc “Mừng Chúa Ra Đời” của NS Tô Thanh Tùng (*).Ca khúc này
được viết ở âm thể Trưởng nhưng lại không vui rộn ràng, cũng không trĩu buồn,
mà giai điệu lại nghe rất giống Thánh ca với những ca từ rất Công giáo ngay cái
tựa đề: “Mừng Chúa Ra Đời”.

NS Tô Thanh Tùng dẫn thính giả đi từ Thành Thánh: “Thành phố Giêrusalem trong
một đêm lạnh giá giăng đầy, nghìn ánh sao trời bỗng một vì sao rơi ngời sáng.
Mẹ Maria nơi hang đá Belem, vinh danh Chúa sinh ra đời, Thiên thần chắp cánh
vây quanh”
.

Ông có tầm nhìn của các Đạo Sĩ: “Nghìn ánh sao trời bỗng một vì sao rơi ngời
sáng”
. Mùa sao sáng nên có rất nhiều sao lấp lánh trên nền trời tối đen,
nhưng đặc biệt có một ngôi sao sáng nhất, đó là “ngôi sao lạ” dẫn đường các Đạo
Sĩ đến hang Belem để thờ lạy Vương Nhi Giêsu. Thấy trong hang đá có Mẹ Maria và
các thiên thần, và ông thầm nguyện: “Vinh danh Chúa sinh ra đời”.

Dòng nhạc cứ chảy, ca từ giản dị mà sâu lắng. Ông có niềm vui như một nốt nhạc trầm: “Mùa Giáng sinh năm nay tôi lại vui mừng Chúa ra đời, mừng Chúa ra đời có
muôn màu hoa đăng ngập lối”
. Lòng người vui hòa chung với hoa đăng muôn màu
giăng khắp các ngả đường, nhưng niềm vui trong lòng người khác lạ vì đó là niềm
vui của niềm tin Kitô giáo, niềm tín thác vào một Thiên Chúa toàn năng và bất
biến: “Một niềm tin Chúa ở ngôi cao, Chúa luôn ban phép cho người muôn đời
mãi mãi thương nhau”
. Là Thiên Chúa và mệnh danh Tình Yêu, Ngài cũng làm
cho mọi người mãi mãi thương nhau. Dù là người bình thường, không có niềm tin
tôn giáo thì cũng vẫn luôn muốn yêu và muốn được yêu.

Ca khúc này được ông viết trong thời chiến, vì thế ông đặt mình vào vị trí một
người lính đang trấn giữ biên cương để bảo vệ tổ quốc và giữ hòa bình cho người
dân, ông cầu nguyện: “Chúa ơi, Chúa ơi, mùa đông nghe giá lạnh về, con đang
trấn miền biên giới xa xôi. Đêm nay, đêm nay, Chúa sinh ra đời, con nhìn từng
hỏa châu rơi, từng vì sao rơi, con nguyện cầu hai tiếng “Chúa ơi!”
.

Trong chiến tranh, người lính đang làm nhiệm vụ luôn mang nhiều tâm sự, nhất là trong đêm Chúa giáng sinh, nhìn những ánh sao mà tưởng những ánh hỏa châu, nhìn những ánh hỏa châu mà tưởng những ánh sao. Sự lẫn lộn đó nói lên niềm khao khát hòa bình của con người. Nhưng con người bất lực, chỉ còn biết hướng tâm lên, tin
tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, và thân thưa: “Chúa ơi!”. Lời cầu nguyện giản dị và ngắn gọn, nhưng chứa đầy nỗi niềm. Thiên Chúa chỉ chờ con người tâm phục khẩu phục như vậy để Ngài ban ơn bình an.

Cuối cùng, ông cầu nguyện cho quê hương Việt Nam: “Lạy Chúa ban ơn cho Việt Nam bền vững muôn đời, hạnh phúc lâu dài, xây đắp một quê hương đổi mới”. Đổi
mới là canh tân, điều này luôn cần thiết trong cuộc sống đời thường, nhất là trong đời sống tâm linh. Có tích cực đổi mới thì mọi sự mới khả dĩ hanh thông và tốt đẹp: “Và từ đây trên khắp nơi nơi vang tiếng ca non nước thanh bình, quên những ngày chinh chiến điêu linh”.

Hòa bình luôn cần thiết, hòa bình trong tâm hồn, trong gia đình, trong xã hội,
trong đất nước, trong thế giới. Muốn có hòa bình đích thực thì công lý phải
được tôn trọng triệt để. Vẫn còn cảnh áp bức, bóc lột, gian lận, tham nhũng,
hối lộ, kỳ thị,… thì chưa có hòa bình đích thực.

Đất nước hòa bình, xã hội hòa bình, gia đình hòa bình,… nhưng lòng người chưa hòa
bình thì cũng chưa có hòa bình đích thực. Mỗi cá thể phải hòa bình với tập thể,
với cộng đồng, và mỗi con người phải hòa bình với Thiên Chúa, đó mới là hòa
bình đích thực.

Lạy Chúa Hài Đồng, chúng con hân hoan và rộn ràng mừng Chúa ra đời, xin giúp chúng con biết trang trí hang-đá-tâm-hồn bằng những dây kim-tuyến-nhân-đức và ánh-sáng-đức-tin để Ngài giáng sinh và ở lại mãi mãi, đồng thời xin giúp chúng con biết sống trong tình liên đới hòa bình đích thực ngay tại thế gian này, hôm nay và suốt đời. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp giáng sinh và cứu độ của Ngôi Hai Thiên Chúa. Amen.

Trầm Thiên Thu

 

_________________________________

(*) NS Tô Thanh Tùng sinh năm 1944 tại Hồng Ngự (Đồng Tháp). Năm 19 tuổi, ông có sáng tác đầu tiên là bài “Hồng Ngự Mang Tên Em”. Năm 20 tuổi, ông lên Saigon
học trường Luật. Ở quán cà phê gần trường, ông quen một cô gái thu ngân tên
Diễm nhờ viết bài “Mắt Diễm Buồn” cho ca sĩ Elvis Phương hát ở quán. Bốn
năm sau, cuộc tình giữa ông và cô gái này kết thúc, ông viết bài “Giã Từ” nhưng
không xuất bản.

Năm 1971, ông quen một cô gái ở Sa Đéc, ông đưa cô này lên Saigon để hát thử bài
“Giã Từ”. NS Quốc Dũng đã phối âm, nhưng khi đem trình cho nhạc sĩ Lê
Dinh (lúc đó là trưởng phòng văn nghệ Đài phát thanh Saigon), NS Lê Dinh
không đồng ý cho phát trên đài. Tuy nhiên, sau khi nghe băng cassette, NS Lê
Dinh lại đồng ý cho phát vào “giờ vàng” Chủ nhật. Bài hát lập tức gây chú ý cho
khán giả Saigon lúc bấy giờ. Nhà xuất bản Minh Phát lập tức ký độc quyền phát
hành bài “Giã Từ”. Sau đó, Tô Thanh Tùng viết tiếp một loạt bài như: Xót Xa,
Mừng Chúa Ra Đời, Sao Anh Nỡ Đành Quên, Nhớ Người Tình Phụ,… Bài “Sao Anh Nỡ Đành Quên” nói về một mối tình khác của ông.

Sau năm 1975, ông được giữ chức Trưởng ban văn nghệ thị trấn Hồng Ngự 3 năm. Sau đó khó khăn ông phải bán đủ thứ, từ xà bông, dầu gió, nước mắm,… cho đến phụ tùng xe đạp, để sống qua ngày. Năm 1979, ông cho phát hành album cassette “Tình Ca Hương Lúa” với một số bài như: Người hàng xóm, Hồng Ngự mang tên em,… do
Nhật Trường và Bảo Yến hát. Có thể nói Tô Thanh Tùng là nhạc sĩ nhạc vàng đầu
tiên trong nước sau năm 1975 đã phát hành album nhạc ngợi ca quê hương. Album
bị nhiều người cho là “nhạc vàng đội mồ sống dậy” nhưng vẫn được Sở VH-TT Đồng
Tháp đồng ý cho phát hành. Hiện nay, ông vẫn chưa lập gia đình và sống ở Thủ
Dầu Một (Bình Dương).

Một số ca khúc khác của ông cũng được biết đến nhiều: Người Hàng Xóm (phổ thơ
Nguyễn Bính), Mẹ Của Tôi, Giăng Câu, Về Miền Tây, Xót Xa,…

Một ngày trong trại lao cải thời Xô Viết

Một ngày trong trại lao cải thời Xô Viết

Thứ ba, 20 tháng 11, 2012

Cuốn Một ngày trong đời Ivan Denisovich

Một ngày trong Đời Ivan Denisovicht của Solzhenitsyn là một trong những tác phẩm nổi bật nhất thế kỷ 20

Một ngày trong Đời Ivan Denisovich, tiểu thuyết kinh điển của Solzhenitsyn, được xuất bản vào tháng này 50 năm trước. Câu chuyện ngắn gọn đơn giản kể về người tù cố gắng sống sót trong Gulag – hệ thống trại cải tạo của Liên Xô – nay được coi là một trong những cuốn sách nổi bật nhất thế kỷ 20.

Trời vẫn tối, dù một luồng sáng màu xanh lá đã bừng lên ở phía đông. Làn gió mảnh, gian trá lén lút tiến về cùng hướng. Chẳng có khoảnh khắc nào tồi tệ hơn lúc anh phải có mặt để xếp hàng trong đoàn người đi lao động buổi sáng. Trong bóng tối, trong cái lạnh cứng người, mang theo bụng rỗng và cả ngày đang chờ phía trước. Anh mất đi sức mạnh phát ngôn…

Tháng 11/1962, cuốn truyện đã làm rung chuyển cả đất nước Xô Viết.

Alexander Solzhenitsyn miêu tả một ngày trong đời của tù nhân Ivan Denisovich Shukhov.

Nhân vật là hư cấu. Nhưng có cả  triệu người như ông ta – những người dân vô tội, cũng như chính tác giả, từng bị đẩy tới Gulag trong làn sóng kinh hoàng thời Joseph Stalin.

Gulag

  • Tên  Gulag xuất phát từ chữ viết tắt của Tổng cục Lao Cải Liên Xô
  • Khoảng  14 triệu người từng bị giam trong các trại này giai đoạn 1929 – 1953.
    Trong đó có 1.6 triệu người chết trong trại
  • Các  trại Gulag bắt đầu đóng cửa sau cái chết của Stalin năm 1953, chính thức
    chấm dứt năm 1960

Kiểm duyệt và nỗi sợ hãi đã cản trở sự thật về những khu trại này tới được công chúng, riêng quyển này vẫn được in. Liên Xô không bao giờ trở lại được như xưa.

“Chúng tôi hoàn toàn bị tách biệt khỏi thông tin, và ông ta bắt đầu làm chúng tôi mở mắt,” nhà văn, nhà báo Vitaly Korotich nhớ lại.

Cuộc sống trong trại từng là những điều “chẳng dám nghĩ tới”, ông nói. “Tôi đọc đi đọc lại cuốn sách và tôi chỉ nghĩ tới một điều đơn giản là ông ấy dũng cảm làm sao. Chúng tôi có rất nhiều nhà văn nhưng chưa từng có người nào dũng cảm thế.”

Chính là lãnh đạo Xô Viết Nikita Khrushchev đã phê chuẩn cho xuất bản tiểu thuyết của Solzhenitsyn, khoảng một thập niên sau cái chết của Stalin.

Ông ta nghĩ rằng, cho phép cuốn sách về Gulag ra đời sẽ giúp hạ bệ sự tôn sùng Stalin. Nhưng chuyện không chỉ dừng ở đó.

“Sau khi xuất bản, không gì có thể kìm hãm được nó,” Korotich kể lại. “Chúng tôi ngay lập tức nhận được bao nhiêu tài liệu bị cấm xuất bản. Nhiều người từng trong tù bắt đầu nhớ lại thời kỳ đó.

“Lúc đó không phải là thời của máy tính và máy in. Sách được in trên giấy cuốn thuốc lá, là cách duy nhất để in được số lượng lớn. Xô Viết bị phá hủy bởi thông tin, và chỉ một thông tin. Và làn sóng này bắt đầu từ cuốn Một ngày của Solzhenitsyn.”

Tom Courtenay played Ivan Denisovich in a 1970 film adaptation

Tom Courtenay đóng vai chính Ivan Denisovich trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết năm

Theo tài liệu của ông ta thì Shukhov phải vào đây vì âm mưu phản quốc. Ông ta đã thú nhận trong một cuộc điều tra – phải, ông ta đã đầu hàng để phản bội lại đất nước và quay về từ trại tù chiến tranh để thực hiện nhiệm vụ tình báo cho Đức. Nhiệm vụ này là gì, cả Shukhov lẫn người thẩm tra ông ta cũng chẳng tưởng tượng được. Họ để ngỏ nó ở đấy – chỉ là “một nhiệm vụ”. Các cậu trai của công tác phản gián đánh ông rã người. Lựa chọn cũng đơn giản: đừng ký và mặc áo khoác gỗ, hay là ký và sống lâu hơn được chút đỉnh…

Các nhà theo học thuyết cộng sản chủ nghĩa cố ẻm đi vụ này. Nikita Khrushchev bị phế truất, các hoạt động phô bày tội ác của Stalin bị ngừng, và đến năm 1974 Solzhenitsyn bị bắt và trục xuất.

Nhưng điều đó cũng không cứu được Liên Xô. Một khi Liên Xô tan rã, toàn bộ tội ác của Stalin trở nên rõ ràng.

Bên rìa Moscow, Anatoly Mordashev chỉ cho tôi thấy 13 nấm mộ tập thể trải dài khoảng một cây số trên cánh đồng.

Alexander Solzhenitsyn 1918 – 2008

Từng phục vụ xuất sắc ở Hồng binh trong Thế chiến II

Bị kết án tám năm lao động năm 1945 do viết chỉ trích về Stalin

Một số tác phẩm khác gồm có Cancer Ward and The Gulag Archipelago, ba tập truyện không hư cấu

Giải Nobel văn chương năm 1970

Tước quyền công dân Xô Viết và bị trục xuất năm 1974

Sống ở Hoa Kỳ tới năm 1994 rồi trở lại Nga từ đó

Điều xảy ra ở đây, trường bắn Butovo, được giữ bí mật trong suốt hơn nửa thế kỷ.

Giữa tháng 8/1937 và tháng 10/1938, 20.760 phạm nhân bị chuyển tới đây và bị cảnh sát mật của Stalin tử hình. Người dân sống xung quanh được trả lời về tiếng súng nổ là do người ta tập bắn.

Những người bỏ mạng ở đây là công nhân và nông dân Xô Viết, là nhà khoa học và dân chơi thể thao, là kỹ sư và nhân viên văn phòng. Họ bị tuyên là kẻ thù của nhân dân.

Mà đây chỉ là một trong số rất nhiều cánh đồng chết của kỷ nguyên Stalin trải trên khắp Liên Xô.

Mordashev nói với tôi, bây giờ thì nước Nga đã biết sự thật, họ sẽ không bao giờ làm ngơ với những gì đã xảy ra.

Nhưng nước Nga bắt đầu quên rồi.

“Ở cấp quốc gia, không ai từng tuyên bố cộng sản chủ nghĩa là tội ác, hay Stalin là kẻ bạo ngược khơi dậy chiến tranh trong chính nhân dân của mình.”

Natalya Dmitrievna, vợ tác giả Solzhenitsyn

Tôi tới thăm trường học ở Moscow và nói chuyện với vài học sinh tầm 16 tuổi. Chúng vẫn chưa được học về Stalin trên lớp.

Cuốn Một ngày trong Đời Ivan Denisovich nằm trong chương trình giảng dạy của trường, nhưng chỉ có ba trong số 21 học sinh từng đọc. Vậy chúng biết gì về Stalin?

“Tôi cũng không thể nói là mình có thích ông ta hay không vì tôi không biết nhiều,” một học sinh thừa nhận.

“Ở thời Stalin, mọi người chắc chắn là khi học xong đại học thì sẽ tìm được việc làm và họ có thể sống được,” đứa khác nói. “Nhưng thời này thì mọi người còn chẳng chắc được việc đó, họ còn không biết là mình có được đi làm hay không.”

Học sinh thứ ba nói với tôi: “Tôi khá chắc là Stalin thực sự muốn đưa Liên Xô thành quốc gia lớn, có ảnh hưởng mạnh tới tất cả mọi người. Ông là hình tượng vĩ đại. Nhưng màu sắc cá tính của ông thì khá đen tối.”

Trong cuộc trò chuyện của tôi với mấy học sinh, cảm giác như chúng tôi đang bàn luận về một nhân vật lịch sử xa xôi nào đó, tách biệt hẳn hiện tại cả nhiều thế kỷ – một lãnh đạo như Oliver Cromwell hay Ivan Bạo chúa chẳng hạn. Nhưng Stalin chỉ qua đời chưa đầy 60 năm trước.

Theo cuộc khảo sát gần đây, 48% người Nga ngày nay tin rằng Stalin có ảnh hưởng tích cực tới đất nước. Chỉ có 22% cho là tiêu cực.

Thánh giá đặt ở trường bắn Butovo nơi tù nhân bị tử hình

Người vợ góa của Solzhenitsyn, Natalya Dmitrievna, trách các lãnh đạo thời hiện đại của Nga, trong đó có Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin, thất bại trong việc đưa đất nước đối diện với quá khứ.

“Họ chẳng có hoạt động phô bày tội ác thời Stalin,” bà nói với tôi. “Ở cấp quốc gia, không ai từng tuyên bố cộng sản chủ nghĩa là tội ác, hay Stalin là kẻ bạo ngược khơi dậy chiến tranh trong chính nhân dân của mình. Giờ đã quá muộn cho tất cả các ngôn từ,” bà nói.

“Toàn bộ Đông Âu thời hậu Liên Xô cố gắng kết thúc bằng cách sống cộng sản, ở Ba Lan, ở Đức, ở khắp nơi,” Korotich nhớ lại.

“Ở đây thì không. Chúng tôi cần có Nuremberg như từng xảy ra ở Đức. Nhưng chúng tôi chưa từng có nó. Và cho tới khi chúng tôi bàn về các vấn đề chủ nghĩa cộng sản ở cấp độ mà Solzhenitsyn khởi đầu từ 50 năm trước, chúng tôi sẽ vẫn sống ở đất nước bán-Xô Viết này, cố gắng hòa nhập với nhân loại, nhưng lại sợ lộ thông tin về lịch sử của chính mình.