Sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam

Sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc

30.04.2014

Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.

Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.

Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.

Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.

Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.

Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.

Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.

Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.

Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.

Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.

Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.

Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.

Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.

Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.

Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.

Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.

Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.

Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.

Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với quần chúng.

Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.

 

Hội thảo về Tự do thông tin dưới ánh sáng của GHCG tại Dòng Chúa Cứu thế

Hội thảo về Tự do thông tin dưới ánh sáng của GHCG tại Dòng Chúa Cứu thế

RFA-01-05-2014

Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng của Giáo huấn xã hội Công giáo

Thông báo Hội thảo Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng của Giáo huấn xã hội Công giáo ở Dòng Chúa Cứu Thế

Dòng Chúa Cứu Thế

Vào lúc 3 giờ 30 chiều hôm nay 1 tháng 5 năm 2014 cuộc Hội thảo chuyên đề Tự do thông tin dưới ánh sáng của Giáo hội Công giáo được nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế tổ chức với sự tham dự đông đảo của những người quan tâm.

Linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh người điều hợp chương trình cho chúng tôi biết lý do cuộc hội thảo này thành hình như sau:

Ngày hôm nay truyền thông Chúa Cứu thế tổ chức hội thảo chuyên đề về tự do thông tin dưới ánh sáng của Giáo Hội Công giáo. Thứ nhất ngày mùng 3 tháng 5 tới là ngày tự do báo chí thế giới và trong tháng 6 này Hội thánh cũng có kỷ niệm ngày Truyền thông xã hội lần thứ 48. Sở dĩ chúng tôi không chọn đúng ngày mùng 3 hay vào dịp tháng Sáu là do hôm nay là ngày nghỉ lễ nên mọi người dễ dàng sắp xếp thời gian hơn.

Cuộc hội thảo bắt đầu với phần dẫn nhập chủ đề của linh mục An tôn Lê Ngọc Thanh sau đó là bài tham luận của luật sư Lê Công Định với đề tài: Ở Việt Nam có tự do báo chí hay không. Bài tham luận của luật sư Định được gửi đến buổi hội thảo bởi ông còn bị quản chế không ra khỏi khu vực cư trú được. Một người nữa cũng có chung tình trạng tương tự như luật sư Định là giảng viên Phạm Minh Hoàng, ông cũng có bài tham luận nhưng do công an không cho phép nên ông cũng chỉ có thể gửi tới đóng góp bằng một video clip.

Người thứ ba đọc tham luận trong buổi hội thảo là TS nhà báo Phạm Chí Dũng, với đề tài “Thực trạng và kiến nghị về một nền báo chí tự do tại Việt Nam”.

Phát biểu cuối do một đại diện của Article 19 từ Hoa Kỳ gửi về một Video đóng góp ý kiến của một người quan tâm về tự do báo chí cho Việt Nam.

Linh mục Lê Ngọc Thanh cho biết thêm về cách thức góp ý trao đổi giữa những người tham dự hôm nay:

Phòng tổ chức chúng tôi chỉ khoảng 100 người thôi nhưng bây giờ đã đầy. Chúng tôi có dành sẵn khoảng 1 tiềng đồng hồ để cho mọi người. Thảo luận nhóm chia từng nhóm nhỏ để ai cũng có thể nói được và sau đó chúng tôi có hẳn một tiếng để đúc kết nên chắc chắn có giờ để trao đổi ý kiến.

Hội thảo này là hoạt động ý nghĩa và rất cần thiết cho một nền báo chí tự do tại Việt Nam. Hai người trong buổi hội thảo hôm nay vừa được tổ chức Phóng viên không biên giới công nhận là anh hùng thông tin trong danh sách 100 người toàn thế giới là linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh và TS nhà báo Phạm Chí Dũng.

 

Công an ‘ăn’ hối lộ trước mặt chuyên viên chống tham nhũng của LHQ

Công an ‘ăn’ hối lộ trước mặt chuyên viên chống tham nhũng của LHQ
Wednesday, April 30, 2014

Nguoi-viet.com
ÐẮK LẮK (NV) Các giới chức công an Việt Nam đang điên đầu vì vụ hai cảnh sát giao thông tỉnh Ðắk Lắk “ăn” tiền “mãi lộ” ngay trước mặt chuyên viên Liên Hiệp Quốc chống tham nhũng. Nạn nhân là tài xế lái chiếc xe taxi của hãng Quyết Tiến đưa ông chuyên viên Liên Hiệp Quốc đi từ phi trường Buôn Ma Thuột đến trung tâm tỉnh lỵ Ðắk Lắk.

Ông Jairo Accuna Alfaro, cố vấn chính sách về Cải Cách Hành Chính và Chống Tham Nhũng của Liên Hiệp Quốc chứng kiến từ đầu đến cuối việc hai cảnh sát giao thông Buôn Ma Thuột đòi tiền “mãi lộ” một cách trắng trợn.



Ông cố vấn Liên Hiệp Quốc vô tình làm nhân chứng cho một vụ đòi tiền hối lộ trắng trợn của cảnh sát giao thông Buôn Ma Thuột. (Hình: báo Tiền Phong)

Người phụ tá của ông cố vấn đi cùng trên xe cũng tròn mắt ra nhìn cảnh ông tài xế taxi móc 200,000 đồng, tương đương 10 đô la ra nộp cho hai cảnh sát giao thông, mà không biết mình đã phạm lỗi gì.

Ðã vậy, ông tài xế không nhận được cả biên lai thu tiền.

Sự kiện trên xảy ra vào đêm 20 tháng 4, 2014. Ðến ngày 22 tháng 4, 2014, toàn bộ câu chuyện được tung lên báo Tiền Phong với tiêu đề “Mãi lộ trước mặt chuyên gia chống tham nhũng.” Ðến đây thì mọi thứ mới nóng một cách bất ngờ.

Chỉ một ngày sau khi bài báo được phát hành, ông đại tá phó văn phòng Bộ Công An Việt Nam ra một văn bản, chỉ thị giám đốc Công an tỉnh Ðắk Lắk “kiểm tra, xử lý thông tin trên.”

Ngày 26 tháng 4, 2014, tức ba ngày sau khi nhận được chỉ thị của cấp trên, ông Trần Hiếu, phó chủ tịch chính quyền tỉnh Ðắk Lắk yêu cầu công an tỉnh phối hợp với Sở Thông Tin và Truyền Thông “điều tra, làm rõ, phản hồi cho cơ quan báo chí và xử lý các nội dung thuộc thẩm quyền.”

Ngày 29 tháng 4, 2014, ông Trần Hiếu mở cuộc họp báo khẩn cấp nói rằng, vì sự việc liên quan đến danh dự của tỉnh nên phải được “xử lý sớm, đúng và nghiêm khắc.”

Báo Tiền Phong cho biết, cuộc điều tra được xúc tiến sau đó đã xác định được danh tính của hai cảnh sát giao thông nọ. Hai người này đã nhận lỗi, nhưng cho rằng hành vi nhận tiền mãi lộ “không hoàn toàn đúng” như lời kể của viên tài xế taxi.

Báo Tiền Phong cho hay, công an tỉnh Ðắk Lắk hứa hẹn “sẽ thông báo kết quả xử lý sự việc” ngay trong tuần lễ đầu tháng 5 này. Người ta đang chờ xem liệu hai “anh” cảnh sát giao thông nọ sẽ được “xử” đến cỡ nào. (PL)

 

Chuyện Quanh Lòng Chảo Điện Biên

Chuyện Quanh Lòng Chảo Điện Biên

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Với tôi, cái lòng chảo Điện Biên chỉ là một vạc dầu oan nghiệt u mê, ấu trĩ, cuồng tín.

Trần Hồng Tâm

Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Sáu mươi năm đã qua  nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện:

Niềm tự hào và hãnh diện này, tiếc thay, đã không nhận được sự đồng tình chia sẻ bởi tất cả mọi người. Nguyễn Khải là một trong những người như thế: “Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận.”

Ông nhà văn nói đúng nhưng (tưởng) cũng nên nói thêm là những kẻ bại trận sau Thế Chiến Thứ II, ở khắp mọi nơi – chắc chắn – không đâu và không ai phải trải qua một cuộc sống thảm hại, khốn cùng như người dân ở Điện Biên hiện tại:

– Báo Hà Nội Mới, 13 tháng 4 năm 2014: Lội sông đến trường, 7 học sinh ở Lai Châu bị nước cuốn trôi.

– Báo Tuổi Trẻ, 17 tháng 3 năm 2014: Vào mùa lũ, các thầy cô giáo, học sinh ở bản Sam Lang (Điện Biên) phải                chui vào túi nilông và nhờ người biết bơi kéo qua suối.

Soha News: Ngày hôm nay (3/4) trên mạng xã hội đã xuất hiện một bức ảnh rất cảm động về một em                           bé được cho là ở Điện Biên. Bức ảnh đã lột tả rất chân thực về nỗi kham khổ của trẻ em nghèo. Tuy tuổi đời                 còn rất nhỏ (khoảng 3,4 tuổi – PV) nhưng đứa bé đã sớm phải xuống ruộng để mò cua bắt ốc…

Em bé Điện Biên. Ảnh: Soha News

Tuổi thơ là một thành quả đặc thù thế kỷ XX. Trước đó, nhân loại phải dồn hết nỗ lực vào việc mưu sinh nên trẻ con chỉ là một người lớn thu nhỏ (miniature adult) với trách nhiệm đè nặng lên vai gần như bố mẹ. Nhân loại đã bước vào thế kỷ 21 nhưng một số người dân ở Điện Biên thì dường như đang đi thụt lùi. Một số khác, tuy đang bước tới nhưng lại nắm bắt những “phó sản văn minh” của thời đại mới – theo Điện Biên TV, xem được hôm 6 tháng 9 năm 2013:

“Trong những năm qua, Điện Biên luôn được xác định là địa bàn trọng điểm, phức tạp về ma túy ở cả 3 khía cạnh: mua bán, vận chuyển và tàng trữ trái phép chất ma túy… Theo số liệu thống kê, trong năm 2012 và 8 tháng năm 2013, lực lượng chức năng Công an tỉnh đã phát hiện, bắt giữ 962 vụ với 1.158 đối tượng. Tang vật thu giữ 79,625kg thuốc phiện, 13.379 viên + 71,5g ma túy tổng hợp, 77,98g cần sa, 8,9kg quả thuốc phiện, hơn 9 tỉ đồng, 141.500 USD, 04 xe ô tô, 417 xe máy, 729 điện thoại cùng nhiều tang vật khác.”

Báo Điện Biên Phủ, số ra ngày 1 tháng 6 năm 2013, còn trích dẫn lời của quan chức bầy tỏ sự âu lo về sợ nghèo đói ở địa phương này vì tính lười biếng của người dân:

“Bên cạnh những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo, cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Điện Biên còn đặc biệt quan tâm đến việc tìm ‘thuốc’ cho ‘bệnh lười’ đang tồn tại trong không ít người dân.”

Không chỉ lười mà dân chúng nơi đây còn “ẩu” nữa nha. Trong khi qúi vị lãnh đạo đang tìm “những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo” (nên chưa kịp làm cầu) thì họ đã liều lĩnh chui vào bao ni lông hay bơi qua sông để đến trường nên mới bị nước cuốn trôi oan mạng!

Tên tuổi một danh nhân rất tăm tiếng (và tai tiếng) được găn liền với địa danh Điện Biên là tướng Võ Nguyên Giáp, người vừa từ trần vào hôm 4 tháng 10 năm 2013. Trong một cuộc phỏng vẫn dành cho báo Tin Nhanh Việt Nam, khi được hỏi về việc “về việc chọn con đường mang tên Đại tướng,” nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết:

“Có người đặt vấn đề, đổi tên những con đường đã có tên thành tên Đại tướng. Điều này nên hết sức tránh, nhất là việc những tên phố cũ cũng rất ý nghĩa, đáng lưu danh. Còn nếu là đường mới thì cũng phải xứng tầm với Đại tướng. Đây cũng là bài toán không dễ vì trên thực tế chúng ta chưa chuẩn bị gì cả.”

Nói nào ngay thì dù có “chuẩn bị” chăng nữa cũng rất khó mà chọn một con đường để “xứng tầm với Đại tướng” vì mọi nẻo đường ở Việt Nam, hôm nay, đều nhan nhản tội ác cùng với tệ đoan xã hội và sự bất an:

– “Xôn Xao Chợ  Mãi Dâm đường Điện Biên Phủ” – báo Tiền Phong.

– “Cướp Giật Có Súng trên phố Điện Biên Phủ” – báo An Ninh Hải Phòng.

– “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng” – báo Người Đưa Tin

– “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ” – báo VietNamNet

– “Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng”    báo An Ninh Thủ Đô

– “Xe Buýt Lại Tông Người Trên Đường Lê Duẩn” – báo Người Lao Động

– “Xuất Hiện Hố Tử Thần Trên Đường Trần Quốc Hoàn” – báo Lao Động

– “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh” – báo Dân Trí

Thiệt là ớn chè đậu. Biết còn chỗ nào “xứng tầm” với ông Đại Tướng Điện Biên đây, Trời? Thôi thì đành chọn đường Điện Biên Phủ, thuộc phường Đa Kao, Sài Gòn – nơi vừa cắt băng khánh thành khai mạc quán ăn McDonald’s đầu tiên ở Việt Nam.

Nó không những đắc địa mà còn mang nhiều ý nghĩa lịch sử lớn nữa. Tập đoàn hàng ăn McDonald’s giữa thành phố H.C.M quang vinh, nằm trên một con đường mang tên V.N.G, sẽ nhắc nhở mọi người không bao giờ quên được máu xương của hàng triệu binh sĩ (dưới quyền) mà Đại Tướng đã “hy sinh” cho công cuộc cuộc chống đế quốc Mỹ xâm lược vừa qua.

Theo Báo Mới , số ra ngày 8 tháng 2 năm 2014, ghi nhận (và in đậm) như sau:

“Giá một chiếc burger cỡ lớn làm nên thương hiệu của McDonald’s có tên là Big Mac sẽ có giá 85.000 đồng. Mức giá này tương đương với gần 4 USD, thấp hơn so với tại Mỹ tuy nhiên lại cao hơn so với nhiều nước trong khu vực như Singapore, Indonesia, Philippines hay Malaysia.”

Em bé Điện Biên, hôm nay, chắc phải mò cua bắt ốc nguyên tháng mới đủ tiền để mua một cái Bic Mac của McDonald’s. Thảo nào mà giữa kèn trống trong “quốc tang” dành cho Đại Tướng, vẫn xen lẫn những tiếng đời dị nghị: “Năm triệu người thiệt mạng để Ông khai sinh ra một chính quyền. Nhưng chính quyền của Ông lại tồi tệ hơn những chính quyền mà Ông đã khai tử.”

 

LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT, KHÓ LẮM ! THẬT VẬY SAO ?

LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT, KHÓ LẮM ! THẬT VẬY SAO ?

Trích Ephata 607

Cách đây không lâu, một lá thư được phổ biến từ Việt Nam và nói rằng tác giả là một “du học sinh người Nhật” đưa ra những nhận xét ngay thẳng về đất nước và con người Việt Nam ngày nay. Lá thư không dài, với nội dung như sau:

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”. Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ.

Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân.

Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi ?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4.000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4.000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách balô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mung, lọc lừa.

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sĩ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi ?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi ?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm ! Thật vậy sao ?”

Một du học sinh người Nhật ( ? )

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG ?

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG ?

PM. CAO HUY HOÀNG

Trích Ephata 607

“Em Đạo dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội em không từ nan một việc gì khi giúp các Đấng. Đến thời cha mẹ em cũng đóng góp không biết bao nhiêu là thời gian cho việc Nhà Chúa. Vợ chồng em cũng theo gương ấy mà cộng tác đủ các việc Nhà Thờ…. Nhưng, lắm lúc buồn lắm anh ạ. Nhìn lại cái cảnh nhà mình, không giống ai. Ông xã em với chiếc xe cánh én hơn 20 năm rồi, cọc ca cọc cạch đi Lễ đi làm việc Nhà Thờ. Có mấy lần bị “thiên hạ” mời đến trụ sở để “làm việc” và bị hỏi: “Làm ở Nhà Thờ lương tháng bao nhiêu mà hăng vậy ?” Thấy mà thương ! Mấy đứa nhỏ đi học ở Sàigòn, đứa nào cũng phải tự bươn trải, vừa học vừa làm kiếm tiền học phí, tiền ăn, tiền nhà trọ… Tội nghiệp !

Mấy hôm nay chuẩn bị Lễ Lòng Chúa Thương Xót, có vài người đến nói với chồng em xin cho họ được làm chứng về Lòng Chúa Thương Xót trong Đại Hội. Nghe chuyện vài người kể với nhà em, người thì được ơn chữa lành, người trúng đất, người mới mua được đất, người mua được xe…, đủ các thứ mà người ta cho là Lòng Chúa Thương Xót đã… thương xót họ ! Hầu hết đó là những người mà trong con mắt em, họ chẳng ra chi, hoặc là người tân tòng mới theo Đạo vài năm mà ra vẻ, hoặc là người đã từng tội lỗi công khai, giang hồ, tai tiếng, mà nay đi đâu cũng bô bô Chúa Xót Thương, Chúa Thương Xót…

Trong số những người xin làm chứng, đáng kể nhất là một người tân tòng: một chị, lấy chồng Đạo được 9 năm nay, kể rằng: Ban đầu, chị đến với Lòng Chúa Thương Xót nhờ mấy chị bạn rủ đi đọc kinh và chị đã kêu cầu Chúa như vái tứ phương, cầu may, hên xui. Không ngờ Chúa đã ban cho chị được như ý. Ông bố của chị, vốn là người vô thần, ghét đạo kinh khủng, đến mức đã không cho chị theo đạo, rồi khi chị có đứa con trai là thằng cu Bin, vợ chồng chị đem con đi rửa tội và mời ông ngoại sang ăn đầy tháng. Ổng không đến, không cho bà ngoại đến, cấm các cậu các dì đến, còn chửi em thậm tệ: “Mới đẻ, nó có tội gì mà đè nó ra xối nước rửa ?” Từ đó, ổng từ chị luôn. Đến với Lòng Chúa Thương Xót, chị chỉ xin là “Nếu bố con có ghét Chúa thì kệ ổng, chỉ ráng xin cho ổng đừng ghét con thôi”.

Thế rồi hơn sáu tháng chị van vái cầu may, chị thấy bố thay đổi. Chiều Thứ Năm Tuần Thánh năm ấy, tự động ổng đến thăm Cu Bin, nay đã 7 tuổi rồi, cho cu Bin 100 ngàn. Ổng nói: “Mai là ngày Chúa tụi mày chết, rồi nghe nói được vài hôm thì ổng sống lại. Tao qua thăm tụi mày. Cho Cu Bin 100 ngàn nè. Nói với ổng nếu tao có chết, thì cho tao sống lại với nghen”. Thế là chị nghĩ Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót chị. Chuyện ba với Chúa thì chưa biết, nhưng ít là ba của chị đã đến thăm con, thăm cháu…

Anh nghĩ xem, có phải thấy mà phát ghét, nghe mà phát ganh, nhìn mà phát điên tiết không ! ? ! Chúa có Lòng Thương Xót như vậy sao ? Thiệt bất công quá đi ! Em Đạo dòng… Xin Chúa hoài mà chẳng thấy Chúa ban cho điều gì. Còn mấy cái thứ người kia…”

Vậy đó, chợt nghĩ, trong chúng ta không ít người có lòng ganh tỵ như người kể chuyện trên đây. Có khi phản ứng bất bình với Chúa còn hơn như vậy nữa. Phát ghét, còn đỡ hơn là không ít kẻ thấy người khác được Chúa xót thương mà đâm ra thù hận, tìm cách hại người ta mới ghê !

Ước gì mỗi chúng ta đều nhận ra Lòng Chúa đang thương xót từng người, và ban ân lộc cho từng người, “như mưa xuống trên ruộng người lành, lẫn ruộng kẻ dữ”. Thiên Chúa không bất công nhưng Ngài khôn ngoan và cân nhắc cho con cái Ngài từng chút một, từng việc nhỏ. Ngài luôn dành cho chúng ta những gì tốt nhất theo ý Ngài, không phải tốt nhất theo ý của chúng ta. Mà, ý tốt nhất của Thiên Chúa là “để chúng ta được cứu rỗi”, “để chúng ta được sống đời đời”, kẻo uổng công trình trút hết đến giọt máu, đến giọt nước cuối cùng để chết đi vì yêu, rồi sống lại vì yêu, sống lại để người mình yêu được sống lại.

Trở lại câu chuyện của chị Đạo dòng, thiết tưởng, chị phải nhận ra rằng Chúa đã ban cho cả họ tộc của chị, và cho chồng chị nữa một ơn đặc biệt là sống nghèo hèn thanh thoát trước của cải phù vân, sống cho Danh Thiên Chúa cả sáng, cho Nước Thiên Chúa trị đến… là đã sống trước cuộc sống phục sinh ngay trên dương thế này rồi. Như vậy, chắc hẳn sẽ khác với những người đang sống ở trần gian mà không tin có đời sau, không tin sự sống lại, không dám chắc một cuộc sống mai hậu chứ ? Hơn nữa, của cải vật chất Chúa ban cho là để chúng ta sử dụng trong việc tìm kiếm Nước Trời, để được sống đời đời, chứ nào phải để chúng ta hưởng dùng cho thoải mái ở đời này đâu !

Tôi không dám giải thích gì cho chị, người kể chuyện ấy. Nhưng bất ngờ, qua một chị bạn của chị, tôi mới hiểu một nguyên nhân vui vui là: “Người ta lên đời cả rồi, bạn chị, đứa thì Air Blade, đứa thì Atila, đứa còn có chiếc xe con 7 chỗ, còn chị, ngồi sau chiếc Honda cánh én cũ rích mà mắc cỡ…”

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có thể giống như chị kia, luôn than thở trách móc Lòng Chúa Thương Xót bất công quá. Xin cho chúng con nhận ra lòng Chúa Xót Thương không bao giờ bất công cả, vì Chúa là Đấng Khôn Ngoan, luôn dành cho mỗi chúng con điều tốt nhất là cho chúng con được phục sinh trong Nước Thiên Chúa. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG

 

Nỗi buồn không thể gọi tên

Nỗi buồn không thể gọi tên

Chuacuuthe.com

VRNs (30.4.2014) – Sài Gòn – Có một nỗi buồn không thể gọi tên, có những nỗi đau không thể nói thành lời. Trước tiên, xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của những người lính và những người dân vô tội đã chết trong cuộc chiến phi nghĩa giai đoạn 1954-1975.

Nỗi buồn không thể gọi tên là khi tôi tận mắt nhìn thấy những Thương Phế Binh (TPB), cho tôi được phép viết hoa danh xưng đó vì tôi dành cho họ một tình thương cảm khác.
Tôi đứng đó, nhìn thấy họ từng con người, từng hoàn cảnh cứ xuất hiện dần trong tôi như một màu sắc khác của cuộc sống mà đến giờ tôi mới biết nó tồn tại.
Họ chưa bao giờ xuất hiện hay tồn tại trong ký ức tôi. Vì sao thế? Không phải tôi không học hỏi mà những điều đó tôi không được học. Nếu có thì những điều người ta cho tôi biết về họ là những người nhu nhược, sống bám bằng đồng đô la Mỹ, là đội quân hèn nhát…
Với tôi họ mờ nhạt, rất rất mờ nhạt, để rồi hôm nay đây tôi phải nghẹn đắng và sống mũi cay cay. Tôi khóc. Khi nhìn thấy họ- những người TPB ở chính mảnh đất họ chiến đấu.
Tôi chỉ biết đến sự hi sinh nhiều vô kể của hàng triệu lính Bắc Việt mà không hề biết đến sự hi sinh của những người lính Việt Nam Cộng Hoà.
Tôi chỉ biết đến những người thương binh của miền Bắc cũng có những hoàn cảnh khó khăn được trao ít quà mỗi dịp nào đó. Nhưng những đồng tiền hay món quà đó đã bị chặn đầu chặn đuôi rất nhiều. Và họ cũng khổ, nhưng chí ít họ được nhắc nhớ.
Còn rất nhiều điều tôi biết mà hoá ra không biết để rồi ngày hôm đó (28/4/2014) tôi mới hiểu thêm được một trang sử khác, khác rất nhiều những trang sử tôi được đọc, được học.
Chiến tranh phút này còn, giây của phút sau đã mất. Sự tàn khốc của chiến tranh là điều không ai phủ nhận. Vậy tại sao lại phủ nhận rất nhiều nhân chứng lịch sử của cuộc chiến tranh ấy?
Không có sự thật lịch sử nhưng có những dữ kiện lịch sử mới làm nên bức tranh lịch sử chân thực. Cộng sản Việt Nam đã viết một trang lịch sử bằng máu đỏ. Màu đỏ ấy đã chiếm hết lịch sử để rồi giờ đây không chỉ tôi mà có rất nhiều người trẻ không biết đến một màu cờ vàng từng tồn tại phồn vinh và tự do trên mảnh đất hình chữ S.
Tôi đứng đó chết lặng khi nhìn thấy những người mất hết tay chân, đi trên đôi nạng gỗ, những người mù mắt vì xác pháo bắn vào, đa số họ đã mất khả năng lao động nhưng vẫn phải mưu sinh vì miếng cơm manh áo hàng ngày.
Họ đã một thời là những thanh niên khoẻ mạnh dũng cảm. Họ là những người lính có những phút giây lãng mạn của thời thanh niên trai tráng, có những mẹ già, em thơ hay một hình bóng người con gái… Tôi chợt nhận ra họ rất người nhưng sao họ không được đối xử công bằng? Họ phải đi tù cải tạo, bị đối xử rất tồi tệ có thể điều đó cũng khiến họ buồn, nhưng điều đáng buồn hơn cả là họ bị lãng quên.

Một ông thương phế binh VNCH thới tham dự ngày họp mặt Tri ân các thương phế binh hôm 28.4 vừa qua. Ảnh Đức Hiệp

Một ông thương phế binh VNCH thới tham dự ngày họp mặt Tri ân các thương phế binh hôm 28.4 vừa qua. Ảnh Đức Hiệp

Tôi hiểu vì sao 30/4 lại là ngày quốc hận.

Hình ảnh thứ hai tôi xúc động là giọt nước mắt của Cha Giám tỉnh Vinh Sơn. Tôi không nghĩ một người như Ngài có thể khóc, bởi tôi gặp người lần nào cũng là sự vui vẻ và những câu chuyện khiến tôi cười không dứt. Những người anh em cùng thời với Cha, người còn, người mất và bị xã hội này cố tình lãng quên. Để hôm nay đây, bất chấp sự độc ác của chế độ này lần thứ hai Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức gặp mặt để họ ôn lại những điều đáng nhớ.
Tôi thấy họ hào hùng hơn bao giờ hết khi họ hát lên bài “Việt Nam quê hương ngạo nghễ”. Tôi thấy được hình ảnh của họ thời đó, một chút gì đó trong họ sống lại. Tôi thấy giọt nước mắt xúc động của không chỉ một mà rất nhiều các ông, các bác và các chú TPB hôm nay.
Chỉ trong khoảng bốn tiếng đồng hồ tôi được nhìn thấy một bức tranh khác về lịch sử. Tôi tự hỏi những người thương binh Bắc Việt có biết có những người giống hệt hoàn cảnh của họ.
Tôi đã thấy hình ảnh khác của người lính không phải “ba lô, súng, mũ tai bèo” nữa.
Tôi thương cảm cho những anh linh của những người lính đã ngã xuống ở hai phía. Nhưng đôi khi cái chết đó có khi còn may mắn hơn là sống dưới chế độ này, họ bị coi rẻ, họ bị tâm lý của “bên thua cuộc”, song có một sự thật khác họ cũng không hơn gì những người thương binh của “bên thắng cuộc”.
Cuộc chiến phi nghĩa ấy đã khiến cho mảnh đất hình chữ S một trang sử đen tối. Nếu thực sự muốn hoà giải, cộng sản nên hoà giải với người sống trước, đừng chỉ hoà giải với người đã chết.
Cộng sản luôn nói đến hoà giải nhưng tôi chưa thấy họ làm được điều gì đáng cho 1 điểm trong việc này. Đừng nhắc đến chữ hoà giải khi những ngày này vẫn còn nói về sự “chiến thắng”.

Vân Hà, cộng tác viên VRNs

 

Nắng sao như nắng đời xưa ấy

Nắng sao như nắng đời xưa ấy

Chuacuuthe.com

VRNs (30.04.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ Ba năm A 04-5-2014

“Nắng sao như nắng đời xưa ấy,

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lc 24: 13-35

Nhà thơ vẫn thấy nắng đời xưa ấy cứ như nắng vàng con mắt chẳng thấy duyên. Nhà Đạo có theo chân đồ-đệ Chúa trên đường Emmaus, cũng chẳng thấy được nắng “thủy tinh” vàng rực cả tâm hồn, mà không biết

Truyện kể hôm nay về đồ-đệ rong ruổi “trên đường Em-maus” đã thành văn bản song hành so với bản văn Tân Ước chứa đựng nội dung ta cử hành Tiệc Thánh Thể mỗi tuần. Điều này có lẽ sẽ khiến nhiều người ngạc nhiên, khi nghĩ: Tiệc Tạ Từ của Chúa đâu giống thế. Nhưng ở trình thuật hôm nay, thánh Luca nhắc nhở cộng đoàn lúc ấy cũng như bây giờ, rằng: họ cũng bị cản ngăn không gặp được Chúa, nhưng mọi người vẫn có kinh nghiệm sống đích thực là Ngài đang hiện diện quanh ta và với ta.

Trong hành trình tin-yêu, môn đệ đã gặp gỡ Chúa như họ từng có kinh nghiệm. Đây là chi tiết sống động trong trình thuật hôm nay. Quả vậy, nơi trình thuật, Đức Giê-su đã lắng nghe những gì họ mong mỏi, hy vọng và cả những chán chường tuyệt vọng cho đến khi họ bộc lộ thực trạng, Đức Kitô mới tỏ lộ Kinh thánh, để họ nhớ. Làm thế, Ngài lấy đi các huyễn hoặc và giúp họ thấy được mối nối kết dẫn đưa vào trình thuật cứu độ. Và, điều này dẫn họ vào hy vọng. Cả vào lúc đó, họ mới nhận ra Ngài. Nhận ra được Ngài, vào lúc Ngài bẻ bánh. Và bằng vào bẻ bánh, Ngài tỏ cho họ biết Ngài là Đấng, họ ngóng trông. Và, kinh nghiệm ấy đã dẫn họ về lại Giê-ru-sa-lem, làm chứng cho việc Ngài thật sự đã Phục Sinh.

Mỗi Chúa nhật, thành phần của hành trình tin-yêu ta dấn bước trên đường đến Em-mau, có Chúa. Có chi tiết nào đưa ta đến đây, để tự hào mà nói: ta khác nhiều với những gì mình thực sự cảm nghiệm. Khác nhiều với những gì mình thực sự đang sống niềm tin ấy. Đức Chúa thấy được tâm can và tâm trí của mỗi người. Ngài gặp gỡ mỗi người chúng ta qua lớp bụi lẩn vẩn của cuộc sống, dù những thứ ấy có mang mặc hình hài khác lạ. Truyện kể về “Con đường Em-mau” dạy cho ta biết Đức Giê-su, trước nhất, muốn lắng nghe ý lòng chúng ta trước khi Ngài muốn ta lắng nghe Lời Ngài.

Tuy vậy, truyện “Con đường Em-mau” không chỉ nói về đồ đệ Chúa và cuộc sống của các thánh, thôi. Hệt một kiểu như thế, Tiệc Thánh Thể cũng không chỉ diễn tả cuộc sống của ta một cách đơn thuần mà Đức Kitô đã mở Kinh thánh cho ta thấy mỗi tuần, để ta có thể tạo cho kinh nghiệm sống của ta có được ý nghĩa. Để ta thấy được con đường Chúa hiện diện, cũng như vắng mặt. Và như thế, mới thấy được sự khùng điên của mỗi người, trong ta. Cũng giống môn đệ trên đường Em-mau, ta được chào đón. Được ngồi vào cùng bàn tiệc của Đức Chúa. Ở bàn tiệc ấy, ta nhận ra Ngài qua việc bẻ bánh. Và nhận ra chén cứu chuộc. Tiệc Thánh Thể, vẫn giúp ta sau khi rời khỏi nơi đây vào cuối bữa, để ra đi rao báo cho mọi người biết rằng ta đã gặp Đức Kitô. Ngài đã thực sự sống lại và Ngài sống lại rồi.

Một trong những điều mà Hội thánh ngày nay rất trân trọng, là: việc nối kết với các kinh nghiệm sống của Hội thánh thời ban sơ. Đích thực là như thế và thật là vinh dự. Vinh dự, nhắc nhớ những gì ta thường làm ở đây, mỗi Chúa Nhật. Nhắc để ta nhớ những gì có khả năng vun đắp niềm tin yêu nơi ta. Những gì ta đang cử hành và tiếp tục làm thế, qua nhiều thế hệ, là điều hệ trọng. Giống “Em-mau.

Cho dù, nhiều điều diễn ra, có thể rất khác. Khác vì văn hoá sắc tộc mỗi người khác nhau. Nhưng, khi thực hiện Tiệc Lòng Mến ở khắp nơi, vẫn có những điều giống hệt nhau. Những điều vẫn được lưu giữ, ở lại. Chính Đức Kitô Phục Sinh, Đấng vẫn tháp tùng cùng đi với ta đi bên ta, trong hành trình của cuộc sống. Ngài vẫn lắng nghe mỗi người. Ngài vẫn mở rộng lòng trí của mỗi người, để nhớ lại những điều nói trong Kinh thánh. Ngài vẫn mời ta ngồi vào bàn tiệc của Ngài. Vẫn gửi ta ra đi về với thế giới nhân trần, cho họ biết: Ngài đích thực đã sống lại từ cõi chết.

Đây là cách hay nhất để ta hiểu được chính mình theo “truyền thống của người Công Giáo” ở khắp nơi. Như thế, ta sẽ chia sẻ với các thế hệ ngàn năm trước/sau, cũng một lửa ngọn của tình yêu của Đức Chúa đang bừng bừng, làm cháy nóng tâm can ta, khi ta được chào đón mỗi tuần ở đây nơi Tiệc Lòng Mến mỗi tuần. Nơi, ta được lắng nghe, được giáo huấn, nuôi dưỡng và gửi đi để làm một chút gì rút từ chính con người mình hầu biến Vương Quốc Nước Trời của Đức Chúa thành hiện thực.

Đó chính là ý nghĩa của trình thuật “Trên đường Em-mau”. Của Tiệc Thánh Thể, rất hôm nay.

“Nắng sao như nắng đời xưa ấy,

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu

Muốn gửi thương về người cổ độ,

Mà sao tình chẳng nói cho đau.”

(Hàn Mặc Tử – Buồn ở đây)

Nhà thơ “buồn ở đây” vì “tình chẳng nói cho đau”. Con dân nhà Đạo cũng chẳng cần nói đến Tình bởi có nói vẫn cứ đau, vì người người đã có tình. Tình yêu-thương, giùm giúp chí ít là người trong Đạo, vẫn giữ đạo suốt đời mình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

GS Stephen Young kể chuyện đưa người Việt tị nạn vào Mỹ

GS Stephen Young kể chuyện đưa người Việt tị nạn vào Mỹ
Tuesday, April 29, 2014

Nguoi-viet.com


Hà Giang/Người Việt


LTS:
Cách đây gần 40 năm, trong thời gian gần 30 Tháng Tư, khi chiến tranh Việt Nam sắp chấm dứt, viễn ảnh miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản ngày càng gần, Giáo Sư Stephen Young, một người có vợ Việt Nam, yêu quê hương của vợ, cùng một nhóm thanh niên trẻ làm việc trong nhiều vị trí quan trọng tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, qua Việt Nam sinh sống, đã băn khoăn về việc Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam, và tìm cách vận động chính phủ cho phép một số người Việt Nam được vào Hoa Kỳ tị nạn. Sự vận động thành công của họ mở đầu cho quy chế tị nạn vào thập niên 1980. Nhân một dịp đến thăm tòa soạn, Giáo Sư Stephen Young kể lại cho nhật báo Người Việt về thời gian này, qua một cuộc phỏng vấn, tóm lược dưới đây.



Giáo Sư Stephen Young trả lời phỏng vấn tại tòa soạn nhật báo Người Việt. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Hà Giang (NV): Kính chào Giáo Sư Stephen Young, được biết trong thời gian gần 30 Tháng Tư năm 1975, giáo sư là một trong những người đóng vai trò quan trọng trong việc vận động chính quyền Mỹ đón nhận người tị nạn Việt Nam. Ông có thể kể lại câu chuyện hầu như rất ít người biết này?

GS Stephen Young: Tôi không phải là một chuyên viên về luật di trú nhưng đại khái theo tôi nhớ trước năm 1980, Hoa Kỳ không có một quy chế về người tị nạn gì hết. Thỉnh thoảng vì nhu cầu chính trị hay vì nhu cầu ngoại giao, thì chính phủ cho phép một số người của một nước nhập vào nước Mỹ nhưng họ không có Visa, vì luật của nước Mỹ là không có Visa cho người di cư trước năm 1980. Lúc đó thì họ gọi là Parole Authority, là một cái phép đặc biệt là bên Bộ Tư Pháp phải thương lượng với Quốc Hội, thì họ định là sẽ cho vào bao nhiêu người không có Visa. Theo tôi nhớ thì sau Thế Chiến Thứ Hai thì Mỹ đón một số người Ðông Âu, Do Thái, bị Hitler muốn tiêu diệt, sau đó có một nhóm người Hungary, hình như là ba mươi mấy ngàn người thôi, sau đó nữa thì có người Cuba đến sau khi Castro lên, áp dụng chế độ Cộng Sản ở nước họ, những người Cuba họ lấy tầu thủy họ trốn qua Florida.

Ðến năm 1975, thì thoạt đầu chính phủ Mỹ không có luật nào để đón người di cư từ Việt Nam, và như thế trên nguyên tắc, trừ những người được cấp Visa, Mỹ không nhận người di cư nào hết sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.

NV: Vào khoảng cuối Tháng Năm, 1975, Quốc Hội cho ra đời một đạo luật gọi là “Indochina Immigration and Refugees Act,” thì vai trò của giáo sư trong việc dự luật này ra đời, và được Tổng Thống Ford phê chuẩn là gì?

GS Stephen Young: Theo tôi nhớ thì việc cho người Việt vào Mỹ đã được quyết định cuối Tháng Tư rồi, 30 Tháng Tư thì đã có phép rồi, nhưng hồi đó có hai trại lớn là Fort Chaffee ở Florida và Indiantown Gap ở Pennsylvania, thì phải có một chương trình nào đó có người giúp họ mua thức ăn, lo cho họ lúc ban đầu. Chế độ bảo trợ qua những tiểu bang, chính phủ cần một đạo luật để chi tiền. Chính phủ Mỹ không thể chi tiền nếu không có Quốc Hội chấp thuận.

Không ai ngờ sẽ mất miền Nam trong vòng một tháng, hình như Ðà Nẵng mất cho Cộng Sản ngày 30 Tháng Ba, nhà tôi là người Việt, nên tôi rất quan tâm đến tình hình Việt Nam, lúc đó tôi nhớ rõ là một ngày Chủ Nhật, nghe đài phát thanh thấy mất Ðà Nẵng thì hết hồn, vì tôi biết là mất Ðà Nẵng tức là uy tín của Tướng Ngô Quang Trưởng mất rồi, và thứ nhì thì ông Thiệu không còn giữ được miền Nam nữa, chỉ có thể hy vọng là ông Trưởng lên thay thế ông Thiệu. Thành ra ngày Thứ Hai, tôi không đi làm, tôi đi Washington, DC, để nhờ một số người bạn phát động một phong trào di cư, vì tôi thấy là bây giờ người Mỹ có bổn phận vì danh dự, vì quyền lợi, nhất là vì danh dự một nước Hoa Kỳ tranh đấu cho tự do và nhân quyền cho thế giới, mà đã có mấy triệu người Việt Nam nhờ vào Mỹ để giúp họ, mà nếu mình không giúp được họ thì mình cũng không được bỏ quên luôn, vì bỏ quên luôn thì là một hành động hèn quá, không thể chấp nhận được. Mà tôi biết là cứ để yên thì ông Kissinger và ông Ford sẽ không cứu được người nào, bằng chứng là Cambodia, chị nhớ mà, nước Mỹ không mang ai ra. Tôi nhớ là vào giờ chót, khoảng 15, 16 Tháng Tư thì khi ông đại sứ Mỹ rời Phnom Penh đem ra 17 gia đình, còn mấy người Miên kia thì cứ để lại cho bị bắt.

NV: Vâng trở lại vào cái ngày Thứ Hai sau khi ông nghe tin Ðà Nẵng đã mất, lúc đó ông đang làm gì?

GS Stephen Young: Lúc đó tôi khoảng 30 tuổi, đang là luật sư, đang làm việc cho một hãng luật, mới làm việc được năm đầu tiên, thành ra là tôi đi Washington, DC. Tôi nhớ là mình đến đó mới gọi điện thoại cho một người bạn là Paker Borg. Parker với tôi học tiếng Việt cùng với nhau một năm trước khi đi qua Việt Nam để cùng làm việc cho chương trình Bình Ðịnh Phát Triển Nông Thôn, nhưng lúc đó Parker là phụ tá của Ngoại Trưởng Henry Kissinger, thì tôi nghĩ là tôi phải nói chuyện với Parker, gợi ý cho Parker, rồi Parker nhờ có ảnh hưởng trong Bộ Ngoại Giao xin vận động cho một chương trình tị nạn Việt Nam. Ông Parker lúc đó nói với tôi rằng: “Xin lỗi tôi không thể giúp được.” Tôi hỏi: “Tại sao anh lại không giúp?” Parker nói rằng ông đã từ chức Thứ Sáu vừa rồi, vì không thể tiếp tục làm việc với ông Henry Kissinger, vì “ông ta là người không tốt.”

Parker hơn tôi hai tuổi. Chị phải hiểu là một thanh niên cỡ 32, 33 tuổi, làm việc trong ngành ngoại giao mà lúc đó được làm phụ tá cho ngoại trưởng là đường công danh rộng mở lắm, nhưng nếu mình từ chức, mà nhất là sếp của mình là Kissinger nữa, thì coi như là tàn sự nghiệp rồi, bởi vì ông Kissinger sẽ “nhớ đời” cái việc này. Tôi nghe chuyện vừa thấy phục Parker mà vừa tức. Tôi năn nỉ Parker, nói chúng ta không thể buông xuôi được, ít nhất chúng ta cũng phải giúp một số gia đình qua, nếu không thì họ sẽ bị giết chết. Bởi vì một người thầy của tôi là Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, bị chính Lê Duẫn ra lệnh là phải ám sát ông ấy. Nói tóm lại, tôi nói một hồi thì Parker nói: “Steve, việc này tốt nhưng khó quá, nhưng chính phủ không làm thì mình làm. Tối nay mình sẽ đi gặp ông Lionel Rosenblatt.” Lionel Rosenblatt hồi đó cũng làm ở Bộ Ngoại Giao, phụ tá cho phó ngoại trưởng. Thế là tối hôm đó ba chúng tôi vừa uống rượu vừa tìm cách giúp người Việt Nam.

NV: Rồi sau đó thì làm sao thưa giáo sư?

GS Stephen Young: Sau đó thì Thứ Ba chúng tôi một nhóm thanh niên gặp nhau, toàn những người cùng tuổi, cùng làm việc ở Việt Nam, toàn ghét Cộng Sản, trong đó có ba người là con rể Việt Nam (có vợ Việt Nam). Có lẽ vì thế chúng tôi không thể dửng dưng với những gì sẽ xảy ra cho quê hương của vợ. Ngoài ra gia đình của vợ tôi cũng gặp nhiều khó khăn vì liên hệ với tôi.

Nói tóm lại, nhóm thanh niên chúng tôi, hăng hái nhất là ba người con rể Việt Nam, gồm tôi, Ken Quinn và Al Adams, viết thư đi khắp nơi nhờ mọi người giúp. Rồi chúng tôi bầu Parker Borger làm người lãnh đạo, vì Parker từ chức rồi, không có việc làm (cười), nhưng Parker quen biết nhiều, lại dùng điện thoại trong Bộ Ngoại Giao từ phòng làm việc của Lionel Rosenblatt để liên lạc, vận động. Chúng tôi may mắn được Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy tích cực tiếp tay vận động hộ, cuối cùng thì chúng tôi có được một “Administrative Action” đồng ý cho phép khoảng 150,000 người, bằng số người Cuba trước đó được nhận vào Mỹ. Và đó là khởi đầu của việc chính quyền Hoa Kỳ cho phép người Việt Nam được vào nước Mỹ, dẫn đến đạo luật gọi là “Indochina Immigration and Refugees Act” sau này, mà khi rảnh hơn chúng ta sẽ nói chuyện rõ thêm.

NV: Cảm ơn ông đã dành thì giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn.

 

440 thương phế binh VNCH dự “Tri ân” ở Sài Gòn

440 thương phế binh VNCH dự “Tri ân” ở Sài Gòn
Monday, April 28, 2014

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) .- Buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần thứ hai vừa diễn ra ở Tu viện Dòng Chúa Cứu thế, nằm trên đường Kỳ Đồng, quận 3, Sài Gòn.

Sân Hiệp Nhất của Tu viên Dòng Chúa Cứu thế, nằm trên đường Kỳ Đồng, quận 3, Sài Gòn trong buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa”. (Hình: website chuacuuthe.com)

Đây là hoạt động do Hội đồng Liên Tôn Việt Nam tổ chức, theo sáng kiến của Thượng tọa Thích Không Tánh (Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất). Buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần đầu, diễn ra hồi tháng 8 năm ngoái.

Năm ngoái, khi tổ chức “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần đầu, Ban Tổ chức giải thích, thương phế binh và tử sĩ Việt Nam Cộng hòa cũng cần được tri ân và tưởng nhớ giống như ngày 27 tháng 7 hàng năm, nhà cầm quyền CSVN tổ chức các hoạt động “nhớ ơn” những thương binh, liệt sĩ đã hy sinh tính mạng, xương máu của họ cho việc áp đặt chính thể cộng sản trên toàn cõi Việt Nam.

Năm ngoái, số thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh tham dự “tri ân” chỉ có hơn 100 vị. Năm nay, do tài chính eo hẹp, Ban Tổ chức dự tính chỉ nhận 200 thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh tham dự. Nhưng giờ chót, số thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh lên đến hơn 400 vị. May mắn là giờ chót, nhiều ân nhân ở cả trong và ngoài Việt Nam nhiệt tình tiếp sức nên Ban Tổ chức không phải từ chối vị nào.

Có 60 tình nguyện viên là thanh niên, sinh viên của một số tổ chức tôn giáo, dân sự ở Sài Gòn đã ghi danh hỗ trợ Ban Tổ chức phục vụ các thương phế binh Việt Nam Cộng hòa. Một thương phế binh Việt Nam Cộng hòa cho biết, gần 40 năm qua, ông và bạn bè sống bên lề xã hội, ông không ngờ sẽ có ngày được giúp đỡ để hội ngộ với nhau, Không ngờ sự hy sinh của mình sẽ còn được nhắc đến, chứ không bị lãng quên.

Tình nguyện viên giúp đỡ các vị là thương phế binh Việt Nam Cộng hòa đến dự buổi “tri ân”. (Hình: website chuacuuthe.com)

Ông Nguyễn Hữu Cầu, cựu đại úy Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cựu tù chính trị vừa được trả tự do, tâm tình, ông bị “cải tạo” 5 năm, ở tù thêm 32 năm nữa. Đôi khi ông thấy sự khốn khổ, nhục nhằn mà ông phải gánh chịu rất lớn lao nhưng khi biết đến những cay đắng, tủi nhục, gian khổ mà các thương phế binh Việt Nam Cộng hòa gánh chịu gần 40 năm qua, ông thấy sự khốn khổ, nhục nhằn của ông chẳng đáng gì. Đặc biệt là dù tàn phế, kiếm sống khó khăn nhưng những thương phế binh Việt Nam Cộng hòa vẫn ngẩng mặt, can đảm để sống phần đời còn lại của mình.

Ngoài việc nghe chia sẻ tâm tình tri ân vì đã đóng góp xương máu cho dân tộc và xứ sở, xem văn nghệ, dùng cơm và hàn huyên với nhau, mỗi vị trong 440 vị là thương phế binh Việt Nam Cộng hòa được tặng một phần quà trị giá một triệu đồng. Sự hỗ trợ của các ân nhân còn đủ để hỗ trợ một phần chi phí di chuyển cho những vị ở xa.

Giờ chót có hai nhân viên của Văn phòng Caritas thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn tìm đến, thông báo, Văn phòng có nhã ý ráp chân giả miễn phí cho những quý ông là TPB thương phế binh Việt Nam Cộng hòa có nhu cầu.

Theo tường thuật của truyền thông Dòng Chúa Cứu thế, có một vài trường hợp không phải là thương phế binh nhưng vẫn đòi tham dự “tri ân” và bộ phận tiếp tân đã giải thích cặn kẽ để từ chối đón tiếp. (G.Đ)

Một số hình ảnh ngày Tri ân quý ông thương phế binh (Dòng Chúa cứu thế)

DSC_0040 Một thương phế binh được người nhà bế từ nơi để xe vào khu vực họp mặt

DSC_0036 Bloger Hoàng Dũng giúp một thương phế binh

DSC_0252

Một số ông thương phế binh tranh thủ chụp tấm hình trước hàng chữ “Tri ân quý ông thương phế binh”

 

TÂM LÝ ĐỘC TÀI

TÂM LÝ ĐỘC TÀI

Tôi nghe, không phải một lần, mà là khá nhiều lần; từ không phải một người, mà là khá nhiều người, chủ yếu là những Việt kiều, vì thiện chí, về Việt Nam làm việc và có cơ hội tiếp xúc với nhiều người trong giới lãnh đạo, than thở: “Nói chuyện với giới lãnh đạo Việt Nam khó lắm. Khen thì mấy ổng cười toe toét. Nhưng chê, dù là chê những chuyện có vẻ hiển nhiên và với giọng điệu nhẹ nhàng nhất, mấy ổng cũng sầm mặt xuống ngay tức khắc. Sau đó muốn gặp lại cũng khó. Khó lắm!”

Khi tôi kể lại những lời than thở trên cho một số bạn bè từ Việt Nam sang; mọi người – tất cả đều thuộc giới trí thức khá cao cấp, có người còn nắm giữ những chức vụ khá cao trong guồng máy hành chính – đều xác nhận. Họ thừa nhận, là, họ, chính họ, các trí thức và cán bộ trong nước, cũng không thể nói thẳng và nói thực với cấp trên: Không ai muốn nghe cả. Không những không muốn nghe, người ta còn giận. Nghĩ là mình lập trường không vững hay có ý đồ gì không tốt.

Nhưng, tôi để ý là, sau khi than thở hoặc thừa nhận như thế, tất cả, từ Việt kiều đến những người trong nước, đều cố biện minh: “Cũng tại mấy ổng già quá rồi. Người già thường khó tính.”

Tôi không tin và cũng không thích những lời biện hộ kiểu đó. Tôi cho đó chỉ là một nguỵ biện. Lại là thứ nguỵ biện nguy hiểm. Nguỵ biện: Không phải người già nào cũng không thích nghe sự thực. Vả lại, phần lớn giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay cũng không thực quá già. Trên thế giới có vô số nhà lãnh đạo lớn tuổi mà vẫn thoải mái tiếp nhận những sự phê phán từ người khác. Nguy hiểm: Chính những sự nguỵ biện kiểu như thế đã dung dưỡng cho thái độ nhắm mắt và bịt tai của những người đang cần được nghe nói thực nhất.

Tôi muốn gọi đúng tên cái chứng không thích nghe về cái xấu, cái dở ấy: độc tài.

Lâu nay, nói đến độc tài (authoritarianism), chuyên chế (dictatorship) hay toàn trị (totalitarianism), chúng ta thường nghĩ ngay đến cơ chế (mechanism), đến bộ máy khép kín và nặng nề của đảng và nhà nước. Đành là đúng. Độc tài (hay những thứ cùng loại đã kể), trước hết, là một cơ cấu quyền lực chỉ cho phép một người, hoặc một nhóm nhỏ, được quyền quyết định tất cả. Không có đối lập. Thậm chí, không có gì được độc lập, kể cả hai thành phần cần được độc lập nhất: tư pháp và truyền thông.

Tuy nhiên, độc tài không phải chỉ là vấn đề cơ chế.

Độc tài còn là vấn đề tâm lý. Tâm lý độc tài là tâm lý chỉ tin vào chính mình, chỉ muốn sử dụng quyền lực để bảo vệ niềm tin của mình, và từ chối nghe bất cứ một ý kiến gì khác với mình. Người độc tài, như thế, ở một trạng thái khá mâu thuẫn: một mặt, họ tự tôn, cho mình, chỉ có một mình mình, là đúng; nhưng mặt khác, lại thiếu tự tin: họ sợ những thách thức đến từ người khác; họ tránh đương đầu; họ không muốn hoặc không dám sử dụng lý trí để thuyết phục người khác và bênh vực cho quan điểm của mình.

Người độc tài, do đó, không phải là những người mạnh mẽ. Và họ cũng biết họ không mạnh mẽ. Biết, nên họ thích sử dụng những biện pháp phi-lý trí để áp đặt và cưỡng chế người khác bằng cách xây dựng những cơ chế bảo vệ cái quyền không dùng lý trí của mình. Cái cơ chế ấy không cần lý lẽ, hơn nữa, nhằm loại trừ mọi lý lẽ. Trong cơ chế ấy, chỉ có một nguyên tắc được vận hành: bạo lực.

Tâm lý độc tài, do đó, là tâm lý sùng bái bạo lực. Tâm lý độc tài nào cũng tìm kiếm và cố duy trì một cơ chế độc tài: với người chồng hoặc người bố có tâm lý độc tài, cơ chế ấy là quyền gia trưởng; với người lãnh đạo một quốc gia, đó là tính chất độc quyền. Cơ chế thuộc chính trị. Tâm lý thuộc văn hoá. Thay đổi cơ chế độc tài cần có những vận động chính trị mạnh mẽ và quyết liệt. Thay đổi tâm lý độc tài cần những cuộc vận động lâu dài và sâu sắc nhằm thay đổi cách nhìn và cách nghĩ. Trong cái gọi là cách nhìn và cách nghĩ ấy, có hai điều quan trọng nhất: chấp nhận sự khác biệt và chấp nhận đối thoại.

Đối thoại chứ không phải độc thoại.

ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA

ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA

GM Giuse Vũ Văn Thiên

EucharistIII

Chúng ta đã long trọng mừng lễ Phục Sinh.  Mọi ồn ào của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống. Những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua.  Đối với nhiều người, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết.  Điều còn lại có thể chỉ là những lời bình phẩm về cách tổ chức lễ năm nay có gì hơn hay kém năm ngoái.  Để tránh lối suy nghĩ lệch lạc đó nơi các tín hữu, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu.  Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau.  Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I).  Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ và chứng kiến những điều tốt lành họ đang làm.

Tuy vậy, vấn đề người chết sống lại, xưa cũng như nay, được coi là một câu chuyện hoang đường, không thể chấp nhận.  Ngay như các môn đệ là những người đã cùng sống với Chúa và đã được nghe Người tiên báo về sự phục sinh, mà các ông còn chưa dễ dàng tin vào sự kiện này.  Thánh Máccô ghi lại sự nghi ngờ đến mức cứng lòng của các ông: khi bà Maria Mácđala kể với các ông là bà đã gặp Chúa phục sinh, các ông cũng không tin.  Các ông cũng không tin khi hai môn đệ từ Emmau trở về quả quyết đã gặp Chúa (x. Mc 16, 9-13).

Lời Chúa hôm nay dẫn chứng một nhân vật cụ thể nữa, đó là Tôma.  Ông không có mặt khi Chúa hiện ra với các môn đệ.  Điều các bạn kể lại không thể thuyết phục ông chấp nhận một điều “ngược đời”. Dấu đinh ở tay, vết thương ở cạnh sườn Chúa… là những điều ông đã chứng kiến như bằng cớ của việc Chúa Giêsu đã chết.  Đối với ông, việc được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thủng là bằng chúng xác thực về việc Chúa sống lại.  Thực ra, Tôma không thách thức Chúa, ông chỉ cần bằng chứng thiết thực để ông tin.

Chúa Giêsu đã đáp trả những điều kiện Tôma đã đưa ra.  Tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện đến với các ông với những thương tích trên thân thể Người.  Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa mời ông thực hiện những điều ấy.  Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa.  Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”  Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin.”  Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay.  Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp.  Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin.  Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”  Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục.  Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình.

Trong trình thuật của mình, thánh sử Gioan hai lần nói đến chi tiết “các cửa đều đóng kín,” để diễn tả Đức Giêsu phục sinh không còn bị giới hạn bởi không gian, nghĩa là Người trở nên thiêng liêng giữa thế giới của chúng ta.  Cũng như Người có thể vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, hôm nay Người đang hiện diện nơi dung mạo và cuộc đời của những ai mang tên Người, tức là các Kitô hữu. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin.  Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II)

Chúa Giêsu phục sinh hôm nay đang hiện diện cách huyền nhiệm nơi cuộc đời này.  Sự hiện diện của Chúa có thể được chứng tỏ qua đời sống đạo đức yêu thương của các tín hữu.  Xin cho mỗi chúng ta biết nhận ra Người đang sống giữa chúng ta để hăng hái nhiệt thành làm chứng cho Người.  “Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).

GM Giuse Vũ Văn Thiên

ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi