Văn nghệ ‘vô cảm’

Văn nghệ ‘vô cảm’
June 02, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương
“Nhìn cái xấu cái ác mà không bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi ai lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy!”

Những dòng chữ các bạn vừa đọc không phải là một định nghĩa lấy ra từ một cuốn từ điển nào mà chỉ là những ý tưởng của một em học sinh lớp 9 tại Việt Nam, trình bày trong một bài luận văn về tính “vô cảm,” là tĩnh từ mới, không thấy trong những tự điển cũ để nói về một trạng thái thờ ơ, tê cứng của tâm hồn trước những những điều đang xảy ra chung quanh mình, được thấy hoặc được nghe.

Một thanh niên tham gia biểu tình gần Tòa Ðại Sứ Trung Quốc ở Hà Nội bị công an chìm bắt đi. (Hình minh họa: An Nam/AFP/Getty Images)

Thái độ này là thái độ của kẻ bàng quan đứng ngoài cuộc, cũng có thể xem là thái độ “tọa sơn quan hổ đấu,” mặc dù không có tính cách thủ lợi như trong một thành ngữ của Trung Quốc ngày xưa, nhưng rõ ràng là một thái độ thờ ơ, không thân thiện, không có trách nhiệm cũng không muốn dây dưa phiền toái đến mình. Một đứa trẻ qua đường bị xe đụng, bị thương nằm giữa đường, tài xế đã vô trách nhiệm bỏ chạy, khách qua đường cũng để mặc, thờ ơ, đi thẳng. Thái độ này phát sinh từ tâm trạng một phần không muốn dính líu đến sự việc như phải khai báo, làm chứng, mặt khác đã mất thời giờ mà chẳng lợi ích gì cho cá nhân mình. Ðây chính là lối sống “ung dung tự tại,” hay kiểu “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại,” “sống chết mặc bây” mà chúng ta vẫn thường nghe thấy.

Ðối với quần chúng, nhất là trong các quốc gia thiếu văn minh, không được hưởng một nền “công dân giáo dục,” chuyện này cũng dễ hiểu, nhưng đối với các nhà lãnh đạo, nhất đối với những người tự cho mình là kẻ sĩ, điều này không thể tha thứ được.

Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư kể chuyện Vua Lý Thánh Tông, một năm trời trở lạnh, nhà vua nghĩ đến những phạm nhân đang chịu án trong ngục thất, ra lệnh cho các quan đem chăn chiếu phát thêm cho tù và nói rằng: “Trẫm ở trong cung, ăn mặc thế này mà còn thấy rét, những kẻ nghèo khó, những tù phạm phải trói buộc, cơm không có đủ ăn, áo không có mà mặc, thì khổ sở đến đâu!” Trong một câu chuyện khác, nhà vua nhân một buổi du hành ban đêm mùa Ðông ra ngoài cung điện, thấy một kẻ ăn mày nằm co ro lạnh lẽo ở vệ đường, vua bèn cởi long bào đắp cho người ấy.

Những câu chuyện kể này có thể chỉ là giai thoại, nhưng quả thật nếu cấp lãnh đạo không biết thương dân, không biết nghĩ đến quyền lợi của dân, lo cho dân no ấm, “vô cảm” với nỗi nhục nhằn của dân thì chẳng khác chi một lũ cướp ngày có quyền lực trong tay.

Trong xã hội, kẻ sĩ là người dẫn đầu. Khổng Phu Tử yêu cầu kẻ sĩ sống phải có trách nhiệm với xã hội, với cuộc đời, với đồng loại, với con người. Dù xã hội này, cuộc đời này có thế nào đi chăng nữa thì kẻ sĩ vẫn phải tận lực nhập thế, nỗ lực dấn thân vào cuộc đời chứ không thể lấy lý do “tránh đời ô trọc” để lẩn tránh trách nhiệm kẻ sĩ: con người không thể tồn tại ngoài thế giới người, cũng tức là, con người không thể sống ngoài xã hội của chính mình. Tiêu chuẩn đầu tiên của kẻ sĩ này là biết nhục, biết xấu hổ, hiểu rõ rằng không biết nhục không phải là người.

Giới văn nghệ được xem như thành phần của kẻ sĩ dù xưa hay nay. Người trí thức, văn nghệ sĩ náu mình, thoát ly thực tế đời sống, ôm ấp những tri thức của sách vở, xa rời thực tế, được gọi là văn nghệ sĩ sống trong “tháp ngà.” Ở đây chúng tôi không nhắc lại các quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” và “nghệ thuật vị nghệ thuật” đã được tranh luận nhiều. Nhưng nếu thực sự văn chương, kịch nghệ là một điều gì không ăn nhập với thời thế, nhất là thời thế hiện nay thì quả thật đó là một thứ trang trí không cần thiết cho con người. Thời bình, chúng ta đã nghe định nghĩa về một người nghệ sĩ là một kẻ “ru với gió, mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây” nhưng trong một đất nước đã đau khổ vì – chiến tranh, tù đày, chia ly, chết chóc và ngày nay, là áp bức, bất công, khốn cùng, sa đọa, vô đạo-văn chương, kịch nghệ có còn là thứ đứng bên lề cuộc chiến, bên lề cuộc đời, “trùm chăn,” không thấy, không nghe, không nói, không muốn dính dấp đụng chạm gì đến nỗi vui buồn của vận nước, hay “không dính đến chính trị” như cách nói của nhiều ca sĩ “mất trí nhớ” đương thời.

Bài thơ “Thạch Hào Lại”của Ðỗ Phủ lại tả cảnh bắt lính của thời chiến tranh trong một đêm khi nhà thơ ghé qua Thạch Hào thôn, là một bài thơ hay được truyền tụng, vì mô tả được hoạt cảnh của một thời, để lại trong ta chút ngậm ngùi:

“Ðêm khuya tiếng nói im rồi,
Vẫn nghe nức nở tiếng người khóc thương.

Sáng mai khách bước lên đường,
Chỉ cùng ông lão bẽ bàng chia tay.”

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Ðỗ Mục, một đêm trăng ghé qua bến Tần Hoài, buồn trách bọn xướng ca không nhớ đến nhục mất nước, bên sông vẫn đàn ca xướng hát:

“Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng ‘Hậu Ðình Hoa.’”

Nhà phê bình Nguyễn Mạnh Trinh đã viết về nhà văn Phan Nhật Nam, như là một nhà văn nhập thế, chia sẻ những nỗi đau của đồng đội, đồng bào: “Tôi muốn nói về một người lính và viết văn có lửa. Những tác phẩm của ông là kết tinh của xương máu, tủy, da của một người lính đã trải qua những thống khổ của cuộc chiến. Văn chương của ông không phải là một thứ cưỡi ngựa xem hoa mà là cuộc đời thực, của cảm xúc thực.”

Phải xem Việt Khang, một người nhạc sĩ trẻ ở trong nước như một kẻ sĩ:

“Tôi không thể ngồi yên
Khi nước Việt nam đang ngả nghiêng
Dân tộc tôi sắp đắm chìm
Một ngàn năm hay triền miên tăm tối.

(Việt Nam Tôi Ðâu?)

Trước năm 1960, ở miền Nam chúng ta có kịch tác gia Vũ Ðức Duy với những vở kịch ngắn nói về hiện trạng xã hội và thẳng thắn nói đến những thói hư tật xấu của con người. Ở miền Bắc, Lưu Quang Vũ với những vở kịch lừng danh, phê phán thẳng vào con người trong xã hội, cũng được coi như kê kích thẳng vào chế độ cộng sản, đã đổi lại sự “dấn thân” của ông với cái chết của chính ông, vợ, Xuân Quỳnh, và một đứa con.

Tại hải ngoại, kịch nói không có cơ hội phát triển, có thể nói thảm cảnh chiến tranh, tù binh, vượt biển, những cảnh đổi đời sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975 ở hải ngoại và trong nước là những đề tài xúc động vô tận mà các nhà viết kịch có thể khai thác, nhưng tiếc thay, chúng ta thiếu những nhà viết kịch có tài. Khán giả dễ dãi bằng lòng với những vở kịch “xưa hơn trái đất” như “Trà Hoa Nữ” (La Dame aux Camélias) cả 166 năm, hay thời Pháp thuộc như “Ông Cò Quận 9,” “Lá Sầu Riêng,” “Ðời Cô Lựu!”

Trong khi ngư dân của chúng ta bị đánh đập, xô đẩy, mất mạng ngoài Biển Ðông, dân oan và người biểu tình quằn quại dưới roi vọt của nhà cầm quyền Hà Nội, thì ở trong nước cũng như hải ngoại, trên sân khấu, ca sĩ vô cảm vẫn oằn oại với trong những tư thế khích dục, lõa lồ, có khi phơi bày cả “nội y.”

Trong khi mỗi ngày chúng ta nghe những nguồn tin về phận người xót xa ở trong nước, thì trên màn ảnh người ta dễ dãi với những tràng cười không dứt với những lời nói châm chọc, thậm chí chửi bới nhau giữa hai anh hề diễu, không bài bản, không biên kịch và không hề có một ý nghĩa nào. Trong khi tàu giặc đã vào Biển Ðông, thảm họa mất nước đã đến nơi thì thương nữ, văn nhân còn muốn về làm đẹp cho chế độ, ca hát, vẽ vời cho cái nơi chốn mà họ đã trốn chạy lúc ra đi.

Câu nói mà chúng ta đã nghe quá nhiều lần này, lại là của Karl Marx: “Chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi khổ đau của đồng loại mà chăm lo riêng cho bộ lông của mình.”

Sự quay lưng đó chính là thái độ “vô cảm” của những nhà lãnh đạo, sĩ phu và trí thức trong hiện tình đất nước hôm nay: “Nhìn cái xấu cái ác mà không bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Thấy cảnh tượng bi ai lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can!”

 

LỬA THÁNH THẦN

LỬA THÁNH THẦN

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ.  Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu.  Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài.  Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt.  Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài.  Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới.  Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy.  Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.

Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ.  Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp.  Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa.  Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi.  Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa.  Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.

Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi.  Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm.  Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới.  Đường đi xuất hiện rõ ràng.  Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.

Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu.  Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa.  Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.

Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía.  Các ngài phải trốn chạy.  Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu.  Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái.  Các ngài sống như tựa như đã chết.  Các ngài giống như cái xác không hồn.  Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống.  Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ.  Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh.  Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa.  Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng.  Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.

Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết.  Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố.  Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta.  Thế giới hôm nay đầy những bóng tối.  Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi.  Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt.  Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.  Amen!

TGM Ngô Quang Kiệt

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

“Em gắng chờ khi nào anh về,”

“Em gắng chờ khi nào anh về,”

Dù cho bao năm bao tháng có lê thê.

Xuân đến Hè sang rồi Thu lạnh lùng,

Vẫn bên lòng một nỗi nhớ nhung.”

(Văn Phụng – Chung Thuỷ)

(RTm 12: 12-13)

Kể ra thì cũng lạ. Lạ ở chỗ, là: tác giả viết lên nhạc bản ở trên lại cứ nhắn với người “em” của mình: hãy “gắng chờ khi nào anh về”, dù đời người có lê thê, hay gì gì đi nữa, người vẫn “bên lòng một nỗi nhớ nhung”. Nhớ nhung đây, chỉ một nỗi mà thôi, chứ không đếm tới hai, ba bao giờ. Chao ôi là âm nhạc! Ối dào, là thi ca! Những là, tình tứ, mong chờ nhiều nỗi nhớ.

Hát thế vẫn chưa xong, người anh của đàn “em” trong làng nhạc lại cứ hát thêm:

“Em vẫn chờ khi nào anh về,

Về thôn xưa nghe tiếng sáo đê mê.

Bên mái nhà tranh hàng cau thơm vàng,

Vui êm đềm đời sống mơ màng.”

(Văn Phụng – bđd)

Thế đó, là thuỷ chung/chung thủy, ở thời trước. Còn hôm nay, nếu có ai hỏi rằng: còn chăng những người anh và “em” như thế nữa không? Thì đây, câu trả lời xin dành cho bạn và cho tôi, là bầu bạn đang nghe ý-kiến rất phản hồi này như câu tiếp “phê” hơn, vẫn bảo rằng:

“Nhớ chăng bên giàn hoa?

Vẫn còn chim yến vẫn còn sơn-ca.

Nhớ chăng bên bờ ao?

Vẫn hòn đá cũ vẫn hàng cây cao.”

(Văn Phụng – bđd)

Hôm nay đây, bần đạo sẽ thôi không còn hỏi câu tương-tự, với ai hết. Nhưng, chỉ dám thưa với bạn đọc và bạn nghe đọc ở đây rằng: ta nên đi dần vào chốn lan-man tình-tứ, cũng rất “phiếm”. Phiếm nhiều điều, cả về đạo lẫn đời, để cho qua đi những tháng ngày vất vả vật-lộn với giòng tư-tưởng những là thần-học và học rất thần (sầu) mãi về sau.

Hôm nay nữa, sau những ngày rong chơi tản-mạn rất nhiều chốn miền xa xôi có nền văn-minh gần gũi với người mình, bần đạo thấy mình thật nhỏ bé cả về hình tượng lẫn tâm-thân, đành im hơi lặng tiếng, không còn dám hứa hẹn viết lách gì nhiều về các cuộc rong chơi với bất cứ ai.

Cảm tạ Ơn Trên, bần đạo được đi đây đó cũng khá nhiều, không những chỉ biết được nhiều thứ của xứ người, lại còn thưởng-thức cái hay cái đẹp cũng như những cái còn chưa đẹp của người ở xứ khác. Tuy nhiên bần đạo lại chẳng có được năng-khiếu ghi chép thành ký-sự, nên chỉ dám mời bạn/mời tôi, ta vào xem các bài tường-thuật do cây viết có tên là Anthony Trần ở “Duc in Altum” trên trang mạng Gia Đình An Phong, sẽ biết về các chuyến đi xa của bần đạo, rất nhộn-nhạo. Ở đó, bầu bạn sẽ gặp thấy các thiên phóng-sự “nóng hổi” của cây viết rất trẻ này.

Nói thế rồi, nay bần đạo bầy tôi lại xin “đổi đề tài”, để mời bà con ta đi xa hơn chút nữa mà vào vườn cây khô khan những học thần/thần học quả thật sơ-cứng. Vườn này, bạn và tôi ta sẽ thấy toàn những cây khô đét-đèn-đẹt được gọi là “triết-thần”, hoặc học về thần cho lắm rồi chỉ nói toàn chuyện triết-lý viển vông, lông ngông không bông đùa.

Quả thật rất đúng. Trong lúc bần đạo thấy “lúng túng” đặt mãi vấn đề cốt lõi là: làm sao ta đi Đạo cho vui tươi, sung sướng, nhẹ nhàng, lại đã bắt gặp ngay câu dặn dò của chàng trai nào đó có kinh-nghiệm yêu-thương vợ hiền mình đến độ ly-dị vợ rồi mới thấy cần thiết thương-yêu “bà xã” mình nhiều hơn nữa. Biết rồi, chàng mới có câu nói mà bần đạo đây thấy có thể áp-dụng chuyện đạo rất triết/thần như sau:

“Đừng có mà khùng điên/dại khờ mà tự hành-hạ mình một cách quá ư là nghiêm-khắc. Hãy cười cho thật nhiều và hãy làm mọi cách để người-mình-yêu-dấu cũng cười thành tiếng, giống như mình. Bông đùa/cười vui, sẽ khiến mọi việc trở nên nhẹ nhõm, dễ chịu.”

Dĩ nhiên, những người hoặc những điều mình thương-yêu hôm nay không hẳn là chuyện đạo những triết/thần rất “thần-học”, mà học mãi vẫn chỉ thấy vẩn vơ lưng chừng, mà thôi. Nói cách khác, nếu đi vào địa hạt thần-học rất Thánh-kinh mà không mang tính vui tươi/bông đùa chút nào, hẳn người học thần và triết sẽ không bị khùng điên/dại khờ là may lắm rồi.

Nay, bần đạo mời bạn và tôi, ta đi vào địa-hạt thần-học và triết-lý hoặc thánh kinh với một đề-nghị đừng dở khùng dở điên nữa, nhưng hãy vui tươi, nhẹ nhàng một khẳng-định đầy quyết tâm, như khẳng-định mới đây của vị cựu Giám-tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Úc từng viết như sau:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa tạo một tầm nhìn mới cho Giáo hội mình. Ngài muốn tặng cho Giáo-hội một thứ “đổi-thay dáng vẻ bề ngoài” cho dễ nhận. Dễ nhận diện, ở chỗ: nay ta phải ra khỏi tính nghiêm-khắc khó lay-chuyển để về với Đạo Chúa từng biết tự kỷ, ngõ hầu chuyển lay/thay đổi cho đúng nghĩa. Đức Giáo-hoàng Phanxicô muốn Giáo hội mình trở-thành “hiền-thê” mang dáng vẻ trong sáng, nổi bật, nhiều sắc mầu tươi vui hơn trước. Dáng vẻ này, không chỉ là vẻ là dáng có thoáng chốc hiện-diện trước ống-kính máy hình, có đèn nháy chỉ một chốc lát để bắt mắt thiên-hạ thôi. Nhưng, một Giáo-hội được thêu-đan cẩn-thận bằng đường nét tinh-tế mà Đức Kitô muốn Giáo hội phải như thế, với thế-giới thời hậu-cận-đại.

Bằng vào tông-thư “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Phanxicô đã phác-hoạ nên chiến-lược cho Giáo hội tương-lai mai ngày. Chiến-lược đây, không để chinh-chiến hoặc đấu-tranh giành lợi-lộc mà đưa ra lời chỉ-dẫn để Giáo-hội sống Phúc Âm giữa thế kỷ 21 đầy thách-thức. Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn căn-dặn Giáo-Hội ta phải mãi mãi đi vào trạng-thái thừa-sai/mục-vụ rất phục-vụ. Là Kitô-hữu, mỗi người và mọi người sẽ quyết-tâm ra ngoài để đến với những người từng xa rời Giáo-hội và cả những người bị xã-hội bỏ bê, chê-bai, vùi dập. Không ai được phép loại-trừ bất cứ người nào khỏi Giáo-hội, tức: cộng-đoàn tình-thương của muôn người. Mỗi người và mọi người có bổn-phận tỏ-bày với tất cả chúng-dân gần xa niềm thương-yêu xót xa, đầy trìu mến. Và, cho phép mình tự-do trở thành người cận thân và cận lân với tất cả mọi chúng-dân. Ta làm thế, vì Chúa đã và đang hướng-dẫn ta mang Tin Mừng vui-tươi hạnh-đạo đến với mọi loài. Ta làm thế với xác-tín rằng: Tin Mừng lành thánh, vẫn cống-hiến cho nhân-loại cung-cách lành-đẹp để cùng sống. Và, Tin Mừng đối với ta là những kẻ rất tin-tưởng chuyện ấy, đã và sẽ là nguồn hoàn-thành chức-năng lớn của con người” (Xem Lm Michael Gilbert, A Joyful Church, The Majellan Family, April-June 2014, tr. 1-5).

Chính đó là vấn đề của thế hệ ngày hôm nay. Thế đấy, là bận tâm của con người hiện tại, cả ở trong Đạo lẫn ngoài đời. Bận-tâm chính, là: làm sao “đem vui tươi vào chốn sầu buồn”, cả đời người. Nghĩ thế rồi, nay mời bạn/mời tôi ta đi thêm vài bước nữa mà phiếm cho sâu cho sát, để rồi ở cuối con đường tăm tăm-tối, sẽ thấy loáng thoáng ngọn đèn suy-tư,hầu tìm ra chút ánh sáng của niềm vui.

Suy tư, là suy-nghĩ rất tư-lự bằng vào ý-kiến của nhiều người như tôi, như bạn trong cõi đời đầy những “phiếm”. Nhưng, trước khi “phiếm loạn” điều gì, lại cũng xin đề-nghị bạn và tôi, ta nghe câu tiếp ở nhạc-bản về những đợi chờ, thuỷ chung, lung linh tình tứ như sau:

“Khi nắng chiều hôm ngả chân đồi

Lòng bâng khuâng em trông ngóng xa xôi

Mơ thấy nhạc vang lừng khúc khải hoàn

Tim rộn ràng tưởng bóng anh về (anh đã về).”

(Văn Phụng – bđd)

Hát thế rồi, nay ta dõi-theo ý-kiến của một đấng-bậc khác từng có vai vế, nay chỉ muốn những vế và vai kéo dài đến mọi người bằng cảm-kích viết thành lời, rằng:

“Bạn Homer Simpson thân mến,

Tôi vẫn nghĩ là bạn sẽ chẳng nề-hà gì khi tôi viết cho bạn những giòng chữ sau đây với tư-cách một người cha gửi đến một người cha khác, để trao-đổi.

Trước tiên, phải nói ngay ở đây rằng: tôi cần ý-kiến bạn để tư-vấn. Bởi, con cháu tôi chúng bỏ quá nhiều giờ ra nghe bạn nói chuyện hơn ngồi nghe cha mẹ chúng dạy dỗ. Cả tôi nữa, tôi từng chào thua và nhận ra được là: bạn có nhiều cái mà tôi không thể nào tạo ra cho mình được. Tôi cũng có máy truyền-hình và ghế bành để ngả dài ra mà thưởng ngoạn chương-trình cười vui của bạn. Nhưng, chỉ có bạn mới là người khiến nhiều kẻ giống như tôi đã xài tối-đa hai thứ đó, mà không tiếc tiền. Bạn từng bảo với người nghe, rằng: “Thật khó đánh lừa được các bà bầu hoặc các đứa trẻ đang gặp rắc rối với nhiều nhiều chuyện; nhưng, tôi có thể lấp kín 8 tiếng đồng hồ một ngày dài bằng chuyện tiếu-lâm trên truyền-hình!” Thêm vào đó, nếu bạn không ngại để cho tôi nói thêm đôi lời, thì: tôi sẽ bảo với bạn rằng: bạn không là người để lại ấn-tượng của kẻ lanh-lợi nhất hành-tinh này từng sống hoặc không sống giống tôi hoặc làm bất cứ thứ gì thích-hợp để vẽ lên cá-tính của nhân-vật trong hoạt-hình. Tôi nhớ cái lần gặp tình-trạng khẩn-cấp hôm ấy, bạn cứ ới gọi người quay phim mà hét lên rằng: “Ấy ông thu hình ơi, gọi gấp cho tôi số điện-thoại khẩn-cấp 911 ngay được không?”…

Đa số các bậc cha mẹ sống thực trên đời, đang phải sống khổ sở vì chứng căng-thẳng thần-kinh mình gặp phải và cứ mong đợi mãi mà chẳng thấy được cái ngày giờ họ ở vào địa-vị thực để mà sống. Trong khi đó, thì bạn lại quay về hướng đối nghịch với họ, để rồi cứ khơi khơi nói rằng: chẳng cần phải làm như thế mới sống vui, sống khoẻ.  Bạn thuộc loại bậc thày chuyên đi đường tắt, vẫn không ngừng khai-thác chỗ nước cạn của đời sống để biết được đâu là chiều sâu của đời sống. Biếng nhác như bạn là thế, mà bạn cũng sản-sinh được đến hơn 500 phim tập. Mỗi tập phim Simpsons đưa ra là để bạn có thể giảng và dạy dỗ rất sâu rất sát, cả chuyện đạo đức của tôn-giáo nữa, cũng không gờm.

Homer bạn hiền quí mến,

Tôi đây rất thích cung-cách làm cha làm mẹ của bạn khi bạn ứng-xử với bọn trẻ con trong xóm. Bạn chẳng bao giờ thiếu lời khuyên-nhủ dành cho chúng, thế mà một số nhỏ trong bọn chúng lại toả ánh vượt xa cả gia đình chúng nữa, là khác. Có lần bạn có nói với Lara, con gái yêu của bạn, rằng: “Nếu con không thích các công-việc mình làm, thì đừng phấn-đấu nữa mà làm gì. Hãy cứ bước vào đó mỗi ngày, rồi chỉ cần làm phân nửa công việc thôi, là được rồi. Và, đó là cung-cách mà người ở Mỹ vẫn làm thế đấy”.

Tôi dám cá rằng: người từng dàn dựng nên chương-trình này thường vẫn sử-dụng lời tư-vấn của bạn để châm-chích cung-cách làm cha làm mẹ cách tuyệt-hảo mà lâu nay vẫn được cổ-suý. Điều này khiến một số cha mẹ đâm nghi-ngờ và lo-ngại cho khả-năng của họ nữa, ít ra, thì bạn cũng từng làm mẫu cho một ông bố tồi-tệ đến là thế. Bọn tôi đây vẫn thấy mình ở “trên cơ” của bạn rất nhiều. Còn nhớ, có lần bạn còn nói với vợ mình rằng: “Em à, em đừng làm thằng bé nhà mình nó nản-chí nam-nhi đấy nhé! Như như con chồn chui ống với những việc quan trọng hơn cả chuyện học hành, nữa là khác. Đó là điều tách bọn mình ra khỏi giống vật, ngoại trừ con chồn chui ống, thôi.”

Dưới đây, còn nhen-nhúm cả một chỉ-dẫn rất “bá-đạo” hơn thế nhiều, như câu nói mà bạn từng bảo với con mình: “Con à, nếu con thật sự muốn có thứ gì trên đời này, thì phải làm việc cho cật-lực để đạt được điều con muốn. Nay, thì hãy câm mồm lại! Kìa, họ đang công bố số lô-tô trúng giải độc-đắc kia kìa!…”

“Này bọn con trẻ, phải chăng bọn con vẫn muốn làm tốt hết mọi sự, chứ? Nhưng, tất cả sẽ thất-bại một cách thảm não, cho mà coi! Hãy học nơi đây bài học này, là: đừng bao giờ thử thời-vận như thế hết.”

“Nay ta muốn truyền cho các con ba điều ngắn ngủi, con cần phải giữ suốt đời mình. Thứ nhất, là: Hãy bảo vệ lấy chính mình! Thứ hai, là: Ý-kiến hay đấy, ông chủ à! Và, thứ ba, là: Cái đó giống như khi ta tới đó, rồi cũng biết thôi.”

“Này Bart, với 10 ngàn đô-la, ta sẽ trở-thành triệu-phú chỉ mấy hồi! Nghĩa là, ta có thể mua tất cả mọi thứ rất hữu sự, như: tình yêu! Đấy à nghen”

“Sách vở là những thứ vô-tích-sự, chẳng lợi lộc. Ta đây, lâu rày, chỉ đọc mỗi cuốn: “Hãy giết con chim nhại tiếng người! mà thôi; nhưng rồi sách-vở cũng chẳng mang đến cho ta ý-tưởng gì để giết những con chim nhại tiếng người kia ấy. Đúng rồi. Nó dạy ta, không chỉ có mỗi cách-thức phê-bình người khác qua màu da của họ…, nhưng bằng những gì tốt đẹp mà người ấy đem đến cho ta, thôi.”

Homer à,

Đôi khi tôi đây lại cũng nghĩ, rằng: lý do khiến con cháu của tôi chúng thích nghe lời bạn hơn cả tôi nữa, chỉ vì bạn chuyên môn tìm phương-cách nào dễ chịu để mọi người thực hiện, cho thoải mái. Trong khi đó, bọn tôi cứ buộc phải nói,đó cũng là thách-thức không nhỏ, đối với bọn trẻ. Thế đó, là công việc tôi phải làm. Và tôi đây, sẽ khiến bọn trẻ chúng nó chán ngấy cả tôi nữa, khi tôi chỉ thích dán mũi vào màn ảnh truyền hình hơn là lo chuyện giáo-dục bọn trẻ con. Nhưng tôi chẳng nề-hà gì khi phải cho chúng biết là: đi học về đến nhà, là phải bỏ bao bị xuống, sắn tay áo ra mà rửa bát dĩa, rồi tự tổ-chức sắp xếp hầu chuẩn-bị cho ngày mai lại lên trường, và làm bài tập ở nhà cho xong rồi cả nhà mới được xem chương-trình “The Simpsons” nửa tiếng, cũng không sao…” (xem Michael McGirr, A Letter to Homer Simpson, Australian Catholics số Summer 2014, tr. 8).

Điều mà nhà mô-phạm Michael McGirr muốn nói với tay hài thời đại là Homer ở phim hoạt hoạ nhiều tập The Simpsons mỗi điều này: không biết tại sao nhà-giáo chúng tôi học bao nhiêu thứ trên đời, để rồi cố truyền lại cho đám trẻ nhà mình, mà sao bọn chúng chẳng thích thứ nào do bọn tôi đưa ra hết. Phải chăng: bọn tôi vẫn còn thiếu chất “hài” là cái hấp-dẫn nhất trên đời? Phải chăng đó là món thời-thượng cho mọi người được dễ sống chuỗi ngày đáng nản?

Hỏi thế, khác nào trở về với câu của con trẻ từng đưa ra với cha cố bé ở nhà thờ hôm đó, rằng: Thưa cha/thưa cố, giữ đạo Chúa và đi nhà thờ hôm nay cũng là một thứ, phải không ạ? Và hôm nay đi nhà thờ có gì vui không mà sao người lớn cứ bắt con đi như thế tối ngày, vậy?

Thật ra thì, câu hỏi của trẻ bé nghe qua cứ tưởng chỉ là chuyện của con trẻ, chẳng cần suy-nghĩ làm gì cho bận trí óc với tâm-can. Nhưng, thời đại hôm nay, nếu diễn rộng, có thể đó cũng là câu để đời, khiến ta suy-tư mà tự cật vấn. Cật và vấn, để rồi tự mình tìm ra câu trả lời cho thoả-đáng, rất hữu-dụng.

Hỏi thế, có là hỏi nhau những câu hỏi rất thường-thức, trong Đạo/ngoài đời rất như sau:

-Danh hài nào là người mà bạn thích nhất, trên sân khấu cuộc đời?

-Những gì trong đời làm ta cười vui, nhiều nhất? Bạn có giống thế không?

-Tại sao cứ bảo: vui tươi/cười đùa là quà tặng mình tạo cho đời?

-Cười vào chính mình có là chuyện dễ làm hơn cười vào người khác?

-Hãy thử lấy ví-dụ thế nào là vui tươi/cười đùa dù xấu/tốt?

-Có bao giờ ta nghĩ: Chúa cũng hóm hỉnh, cười vui như con người?

Trả lời cho các câu hỏi này, nhiều vị cũng không ngại đưa ra thêm câu trả lời, rất để đời. Như, Đức Bênêđíchtô thứ 16 có lần nói: “Tôi tin một cách chắc-chắn rằng Thiên-Chúa của ta cũng đầy tính hóm-hỉnh, cười vui như mọi người. Ngài vẫn muốn mọi người coi mọi sự nhẹ nhàng, dễ chịu để còn sống” (x. Anne Rennie, The Life of the party, Australian Catholics số Summer 2014, tr. 15).

Nhìn vào Kinh Sách, hẳn người người đều thấy rõ: Đức Giêsu cũng từng lân-la ăn uống với tất cả mọi hạng người, từ giới bê tha, thấp hèn, phường đĩ điếm, cũng đâu sao! Ngài chắc cũng là nghệ-sĩ rất đáng kể mới lôi cuốn cả ngàn người đến nghe Ngài giảng dạy đến độ bụng đói cồn cào mà vẫn cứ đi theo. Ngài còn có tài kể chuyện ngụ ngôn, nhẹ nhàng, dễ nghe khiến giới “mày râu nhẵn nhụi” như Kinh Sư Biệt Phái, phải khó chịu?

Đức Giêsu phải là người vui vẻ hết mình mới dám “khuyến mại” về Vương Quốc Nước Trời của Ngài đã gần kề? Mới khuyên bảo được mọi người hãy hối cải, đổi đời và trỗi dậy làm cuộc sống mới. Ngài phải là Đấng có tài ăn nói cuốn hút mọi người quyết tâm đi vào cuộc sống triệt-để có hồi tâm, canh cải để “chui qua lỗ kim nhỏ” của Nước Chúa, đầy vui tươi?

Trả lời được các câu vấn-nạn cho đời mình như thế, ắt hẳn người người sẽ hồi-tâm biến đời mình thành những chuỗi ngày vui có bạn bè vây quanh, mỗi ngày đều là ngày của Chúa, chứ?

Và, khi người người đi Đạo đã có thể biến cuộc sống mỗi ngày của mình thành những ngày vui có Chúa, có anh có em ở với mình rồi, thì khi ấy tha hồ mà kể cho nhau nghe những câu truyện tưởng rằng đứng-đắn, khó khăn, nhưng dễ cười như truyện đời được kể, như sau:

“Tôi và bạn gái tôi đã hẹn hò được hơn một năm. Và, chúng tôi đã quyết-định đi đến hôn-nhân trong thời-gian tới. Mọi thứ đều tươi đẹp đối với tôi trong thời-gian này, chỉ duy có một điều làm tôi phân tâm, đó là… cô em gái dịu dàng, xinh đẹp của vị hôn-thê của tôi.

Cô em vợ tương lai của tôi năm nay 22 tuổi, có “gu” ăn mặc gọn gàng, lại rất “chuẩn” về tính đài-các, nết na, lẫn sắc đẹp. Ngoài những điều ấy ra, cô còn tỏ ra rất dễ chịu với mọi người kể cả những vị rắp ranh làm anh rể của cô nữa.

Một ngày đẹp trời nọ, cô em vợ tương-lai bé bỏng đẹp xinh của tôi đã gọi điện-thoại cho riêng tôi và mời tôi đến nhà để kiểm-tra giấy mời và thiệp báo hỷ cho đám cưới của tôi và chị cô. Khi tôi đến, thấy chỉ có mình cô ở nhà. Cô đến gần bên tôi rồi thì thầm đôi điều rằng: chính ra cô cũng rất yêu tôi và không thể cưỡng lại được tình-cảm riêng-tư của mình… Cô còn nói: cô muốn gần-gũi tôi dù chỉ một vài phút phù-du trong đời, trước khi tôi làm đám cưới với người chị của cô.

Lúc ấy, tôi không thốt ra được lời nào và càng lung-túng hơn nữa, khi cô nói: “Bây giờ em lên phòng riêng của em trên gác, nếu anh không ngại thì hãy lên đó với em một chốc lát, nhé.

Tôi đứng im như pho tượng gỗ và nhìn cô thoăn thoắt bước lên gác, trước một mình. Tôi cứ đứng đó một lúc, không biết phải làm gì cho xứng hợp với thân-phận mình. Cuối cùng, tôi quyết-định thẳng bước tiến ra cửa trước. Tôi mở cửa và đi thẳng đến chiếc xe của mình, dự tính lấy cái gì đó làm bằng, cho xong.

Vừa quay lại, thì lạ chưa, trước mắt tôi là cả gia đình nhà vợ chưa cưới của tôi đang đứng đó vỗ tay cười. Với đôi mắt hơi rơm rớm nước mắt và bằng một giọng nói xúc động, bố vợ tương-lai của tôi bảo với tôi, rằng: “Gia đình ta cảm-thấy rất vui khi con đã vượt qua được bài kiểm-tra nhỏ của ta. Ta sẽ không thể tìm đâu ra được một người rể tốt lành và xứng-đáng hơn cho con gái ta. Chào mừng con đến với gia-đình!” Tôi đã vượt qua được bài “kiểm” trước đám cưới. Thật hú vía và … tôi quả là người may mắn nhất trong đời. Đời của con người cố sống tốt lành với… nhà vợ!” (trích bài chia-sẻ tâm-tình của một người trong buổi “Thăng Tiến Hôn-Nhân”, rất tận tình).

Truyện kể ở trên cũng “tếu”, cũng “buồn cười” và cũng “bé cái lầm” nhưng không “buồn” và “cứng” như bao câu truyện kể của đấng bậc giảng dạy vào các Tiệc Thánh Thể ở nhà Đạo.

Nói cho cùng, suốt đời đi Đạo nghe giảng dạy mà không vui tươi, cười đùa thì cũng chưa hẳn là đã tuân theo lời dặn dò của bậc thánh-hiền cho đúng cách, khi thánh-nhân từng bảo ban:

“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh

đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rm 12: 12-13)

Nói cho cùng, thì: để ra một đời đi đạo, mà chẳng có được giây phút vui tươi, bông đùa, cười giỡn thì cũng uổng. Uổng, cho những tháng ngày có cầu mà không nguyện, cũng không biết. Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta hãy vùng đứng, trỗi dậy mà hát lên những câu ca nhè nhẹ, ngăn ngắn có chút vui, như sau:

“Khi nắng chiều hôm ngả chân đồi

Lòng bâng khuâng em trông ngóng xa xôi

Mơ thấy nhạc vang lừng khúc khải hoàn

Tim rộn ràng tưởng bóng anh về (anh đã về).”

(Văn Phụng – bđd)

Hát thế rồi, bạn và tôi, ta cứ ra đi mà truyền-bá những điều vui đi Đạo, để người người mãi rồi sẽ phấn-chấn với tháng ngày nguyện cầu rất chuyên-chăm. Hạnh đạo.

Trần Ngọc Mười Hai

Và một quyết-tâm

Cũng nhẹ nhàng như thế.

Để sống đạo.

 

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,”

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,”

“Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.”

(Dẫn từ thơ Thâm Tâm)

Ga 3: 16-18

Sương rơi quá, nhưng lòng anh nay bình-thản lại rồi, và tâm-tư anh nay cũng đã khác. Lòng nhà Đạo, lại không thế. Vẫn không khác và không đổi, vì Ba Ngôi Đức Chúa vẫn diễn tả một tình thương tuy suộc sống nhiều diễn biến.

Trình-thuật tác giả thánh hôm nay cũng ghi lại một diễn biến rất sinh động trong cuộc sống thường nhật. Sống thường nhật, nhiều lúc con người vẫn hiểu rằng ngôn ngữ và biểu tượng không thể diễn tả được các chân lý sâu thẳm của con người, cho đúng đắn. Nhất thứ, là khi chân lý ấy lại thuộc địa hạt tín lý, thần học.

Nhiều năm trước, tôi đã có dịp đến với các em học sinh lớp nhỏ thuộc trường tiểu học công lập, ở Tiểu bang. Đến, để rút kinh nghiệm giảng dạy môn giáo lý cơ bản cho các em trong/ngoài nhà Đạo. Hôm ấy, tôi bắt đầu giờ dạy bằng một câu hỏi rất ngắn để xem các em có tiếp cận được các kiến thức sơ đẳng, hay không. Câu hỏi tôi chọn, chỉ đơn giản có thế này: “Mỗi khi làm dấu thánh giá, các em đọc gì?” Cả lớp nhao lên: “Thưa, nhân danh Cha, Con và Thánh Thần!”

Cũng khá! Sẵn đà, tôi hỏi luôn: “Các em tuyên xưng: Cha, Con và Thánh Thần. Thế thì, ý nghĩa của lời tuyên xưng ấy, như thế nào?” Cả lớp đều lặng thinh. Tôi bèn thay đổi, bằng câu khác dễ hiểu hơn: “Mỗi lần làm dấu thánh giá, các em nghĩ gì?” Cả lớp lại im lặng. Thứ im lặng dễ sợ, tôi hằng ngao ngán.

Bỗng một chú bé con, xem ra có vẻ thông minh, giơ tay nói: “Dạ thưa, cũng giống như một cụ già, một tay hảo hán và con chim trắng!” Tôi cảm thấy hỡi ôi khi nghe em nói, nhưng không dám trách móc ai, vì biết chắc có người lớn nào đó đã nhét vào đầu em, hình ảnh Ba Ngôi Đức Chúa, thật thiếu xót. Thật nghèo nàn.

Nhiều người lớn, lâu nay vẫn mang trong đầu những hình ảnh sai lạc, có được từ tranh vẽ hoặc ảnh tượng, do nghệ nhân nào đó, nghĩ ra. Sự huyền nhiệm về Ba Ngôi Đức Chúa -còn gọi là Nhiệm tích Đức Chúa Trời Ba ngôi – hàm ngụ trong câu nói của em bé, chứng tỏ là ta đã hình-tượng-hóa Cha, ConThánh Thần Chúa theo kiểu cách không xứng hợp, và không diễn tả đủ ý nghĩa của nhiệm tích.

Không ai hình dung ra được một ảnh hình chính xác, về Đức Kitô. Các bức ảnh ta có, cũng như ngôn từ ta sử dụng để nói về Ba Ngôi Đức Chúa, phần lớn đều do những suy nghĩ rút từ sự tin tưởng, mà ta hằng bồi đắp; hơn là, chân lý chung cuộc, về Đức Chúa.

Sự thật về Ba Ngôi Đức Chúa, lúc nào cũng đầy tràn sự sung mãn vượt trên các danh xưng ta đặt cho Ngài; và, siêu thăng ở trên mọi ý niệm triết học, ta suy diễn. Nhận thức đặc biệt, mà ta tập trung mừng kính hôm nay để mừng Chúa Ba Ngôi, là trọng tâm ý thức giúp ta nhận biết Đức Chúa là ai? Ba Ngôi là gì?

Các tín hữu Hội thánh tiên khởi, phải mất 400 năm mới nhận biết được lý lẽ: tại sao Đức Giê-su luôn đề cập đến tương quan Ngài vẫn có, với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Các tín hữu phấn đấu lắm, mới hiểu được lý do tại saotheo cung cách nào Đức Chúa có tới 3 diện mạo, mà lại hiện hữu trong cùng chỉ một hữu thể.

Ba Ngôi yêu thương sống động chỉ như Một. Ba Ngôi vẫn hành xử như Một. Và, cộng đoàn Dân Chúa, đã cảm nhận được bản chất của Ba Ngôi Đức Chúa, qua các chỉ dẫn cho ta biết ngôi vị của Đức Chúa rõ ràng “cùng đồng đều”, “cùng thực tiễn” “cùng vĩnh hằng”, như nhau.

Các tín hữu tiên khởi, đã thẩm định được “tại sao” Đức Chúa lại có đến Ba Ngôi. Định được như thế, là nhờ có suy tư và kinh nghiệm, rằng: tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một thách thức của Tình thương. Cộng đoàn tiên khởi nhận thức rất rõ bản chất nòng cốt của Đức Chúa, không phải là một ý niệm suông; hoặc, một nguyên tắc cứng ngắc; nhưng là tương quan sống động. Và, các tín hữu hiểu ra rằng: họ được mời gọi để tháp nhập vào tương quan này.

Những gì là sự thật đối với tín hữu tiên khởi, cũng là chân lý cho chúng ta, hôm nay. Và chân lý ấy, là như thế này: Đức Chúa đã tạo dựng, cứu độ và bảo bọc thế giới con người. Ngài luôn tìm cách gặp gỡ chúng ta để kêu mời chúng ta tháp nhập vào tương quan sinh động của Ngài. Tức là kết hợp với tình yêu thương của Ngài.

Làm như thế, Ngài đem đến cho ta giá trị cao quý nhất. Đồng thời, hành động của Ngài hối thúc chúng ta san xẻ lời mời gọi gửi đến những người mà ta vẫn gặp gỡ trong cuộc đời. Thử hỏi, còn gì ưu ái hơn? Có gì quý trọng hơn lời mời gọi ấy? Có vị thần linh nào như Đức Chúa không?

Cũng nên thêm một điều: nếu các tương quan trong đời người, được đưa vào trọng tâm tương quan giữa Ba Ngôi Đức Chúa; và, nếu chúng ta biết chấp nhận lời mời tháp nhập vào tương quan của Ba Ngôi Đức Chúa, thì mọi tương quan ta có với mọi người, cũng sẽ mang ý nghĩa của tình thương yêu, nòng cốt. Có như thế, chúng ta sẽ không bị tách lìa khỏi tương quan lòng mến của Đức Chúa, nhờ vào niềm tin yêu ta có. Và nhờ vậy, chúng ta mới trở thành người con ngoan, mới được làm môn đệ dấu yêu, của Ba Ngôi Đức Chúa.

Cuối cùng, có am hiểu thấu đáo ý nghĩa của lễ hội mừng kính Ba Ngôi Đức Chúa hay không; và, am hiểu đến mức độ nào, điều này còn tùy thái độ của ta, có quan tâm bày tỏ tương quan mật thiết với người khác không. Và, cũng tùy theo tương quan ta thực hiện, có mang tính xã hội, thân mật và chuyên môn, không? Có đượm mầu sắc dân gian, hoặc quốc tế hay không?

Mỗi khi làm bất cứ việc gì, để thiết lập tương quan mới cho tốt đẹp, hãy nhớ đến những tương quan lâu nay gãy đổ. Hãy tiếp tay, hàn gắn giúp đỡ họ. Hãy tái tạo, tình yêu sâu thẳm và dồi dào cho họ.

Một cách chí tình hơn, hãy vui hưởng các tương quan tốt đẹp, ta đang có. Bởi, ta vừa khám phá ra chân lý nền tảng này, là: lễ Ba Ngôi Đức Chúa là lễ hội đem lại cho ta những tâm tình thân thương, đầy khích lệ. Tâm tình này, các thánh đã hơn một lần khẳng định:

“Đức Chúa đã thương yêu loài người đến độ Ngài phú ban Con Một Ngài, cho ta. Ngài không chỉ ban Con Một Ngài mà thôi, nhưng cả Thánh Thần của Con Một Ngài, đã được kết thành nơi hình hài Đức Kitô. Thánh Thần Chúa ở trong ta, để ta kêu lên:“Abba! Lạy Cha! để biểu tỏ tương quan Ba Ngôi Đức Chúa, là: Cha, Con và Thánh Linh.”

Chúng ta có hiểu được điều ấy không? Chúng ta có cổ vũ tương quan này không? Và, chúng ta có trân trọng lẫn nhau không? Đó chính là tinh thần của lễ hội hôm nay.

Trong tâm tình cảm và thong những điều vừa diễn-tả, cũng nên ngâm nga lời thi-ca, rằng:

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,

Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.

Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi,

Niềm uất hận của một thời lưu-lạc.”

(Thâm Tâm – Dang Dở)

Sương có rơi, trời có lạnh, nay lòng anh đã bình-thản lại rồi. Bình thản hơn, khi anh lại nhận ra được tình Chúa thương-yêu hết mọi người, như Ba Ngôi Đức Chúa vẫn yêu-thương nhau suốt mọi thời, thật vĩnh cửu. Và, tình thương nơi Ba Ngôi sẽ còn dàn trải mãi đến muôn người, trong mọi chiều.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

CHÚA THÁNH THẦN VỚI NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

CHÚA THÁNH THẦN VỚI NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

Thánh Phaolô dạy : Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ. Thật vậy,

Chỉ có một Thiên Chúa,

Chỉ có một Đấng trung gian

Giữa Thiên Chúa và loài người,

Và cũng là người thật, Đức Giêsu Kitô,

Đấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người.

(I Tm 2,4-6)

như vậy, mạc khải đã khẳng định tuyệt đối : mọi người được ơn cứu độ là nhờ Đức Giêsu Kitô mà thôi, không có ơn được cứu độ ngoài trung gian duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đáng Cứu độ nhân loại . Ta tin vào Chúa Kytô , ta tin mình đươc cứu độ , còn số phận dân ngoại ?

Giáo lý của Công đồng Vatican II nói về dân ngoại :

Sau cùng, những ai chưa lãnh nhận Phúc âm cũng được an bài bằng nhiều cách để thuộc về dân Thiên Chúa” (Lumen gentium, số 16)

Điều nói trên (hoạt động của Thánh Thần và ơn Phục Sinh) không phải chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng cho tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn. Thưc vậy, Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực sự là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào Mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi” (Gaudium et Spes, số 22, Bản dịch của Giáo Hoàng học viện).

Rõ ràng Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người Kitô hữu thì Chúa Thánh Thần cũng hoạt động nơi người chưa biết Chúa Kitô để họ có khả năng tham dự Mầu Nhiệm Phục Sinh, để họ được ơn cứu độ.

Cũng vậy, đối với các  tôn giáo ngoài Kitô Giáo

Những kẻ đang tìm kiếm Chúa trong bóng tối và qua ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Ngài cũng không xa họ, bời vì chính Ngài ban cho họ sự sống, hơi thở và tất cả mọi sự (x. CvTđ 17,25-28), và vì là Đấng Cứu Thế, Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi (x 1 Tm 2,4). Thực thế, những kẻ vô tình không nhận biết Phúc âm  của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu độ” (Lumen Gentium, số 16).

Từ xưa tới nay, người ta nhận thấy nơi nhiều dân tộc khác nhau một cảm thức về quyền lực tiềm ẩn trong vòng chuyển biến của sự vật và trong những biến cố của đời người, đôi khi cảm thấy cả sự nhìn nhận một vị thần Linh Tối Cao hay một Người Cha. Cảm thức và sự nhìn nhận đó làm cho cuộc sống họ thấm nhuần ý nghĩa tôn giáo. Phần các tôn giáo có liên quan mật thiết với tiến bộ văn hóa thì cố gắng giải đáp những vấn đề trên bằng những ý niệm cao siêu và bằng thứ ngôn ngữ ngày càng tinh tế… Giáo hội công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiếu điểm khác nhau với chủ trương mà giáo Hội duy trì, nhưng cũng đem lại ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi mọi người” (Tuyên ngôn Nostra Aetate. Số 2, Bản dịch của Giáo Hoàng học viện).

Rõ ràng Giáo Hội Chúa Kitô rất tôn trọng các tôn giáo ngoài Kitô Giáo. Ơn Chúa hoạt động trong các tôn giáo đó. Đối với các tín hữu theo các tôn giáo đó, trước Công Đồng vatican II, thần học  vẫn nghĩ rằng nếu họ sống tốt lành theo tiếng nói lương tâm ngay thật của họ, họ được ơn cứu độ vì vô tri bất khả thắng, Công Đồng vatican II xem những người thuộc tôn giáo đa thần là “kẻ tìm kiếm Thiên Chúa qua ngẫu tượng” (Lumen Gentium, số 16), Thiên Chúa hiện diện nơi họ.

Công Đồng không giải thích ơn cứu độ làm sao có trong các tôn giáo ngoài Kitô Giáo.

một số thần học gia đưa ra lý thuyết Đức Kitô hiện diện trong các tôn giáo (théorie de la présence du Christ dans les religions) do Chúa Thánh Thần hoạt động .

Dĩ nhiên các truyền thống tôn giáo của nhân loại là hiện tượng xã hội và đâm rễ sâu trong xã hội,  ảnh hưởng tới xã hội và đã tạo ra những hình thức xã hội nữa, tạo ra thể chế xã hội.  Tôn giáo  lấy con người làm cứu cánh, giúp con người sống tốt dẹp  trừ ra có tôn giáo  tạo ra giai cấp , một thứ định mệnh khắc nghiệt cho con người.

Nhờ sự hiện diện của Chúa Kytô và hoạt động của Chúa Thánh Thần  các tôn giáo có giá trị cứu độ  nghĩa là Chúa Kitô hoạt động, Chúa Thánh  Thần ban ơn mặc dầu họ không có kinh thánh mạc khải, không có Tin Mừng của Chúa Kitô. Đây là các tôn giáo (ngoài Kitô Giáo) có ơn cứu độ không có Phúc Âm. Không thể nói các tôn giáo đó có ơn cứu độ không cần Chúa Kitô. Nhà thần học Karl Rahner gọi là “Kitô giáo vô danh” (Christianisme anonyme).

Như vậy, Chúa Kitô thật  là Đấng cứu độ cho mọi người. Ngài chết cho mọi người và sống lại để ban phát ơn cứu độ cho mọi người.

Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Chúa Kitô mang lấy vật chất, Ngài “thần linh hóa vũ trụ”, Ngài mang lấy bản tính nhân loại, Ngài thu hút tất cả mọi người. Trong Mầu nhiệm Phục Sinh, cường độ nhập thể và nhập thế của Ngài không còn bị cản trở. Dầu mầu nhiệm Nhập thể và Phục Sinh mới được thực hiện sau này, nhưng đã ảnh hưởng tới tất cả trong quá khứ của vũ trụ và đã hướng tất cả về mầu nhiệm đó. Do đó, chỉ có một lịch sử do Thiên Chúa và cũng do con người tạo ra.

Chúa Kitô mạc khải về Chúa Thánh Thần như là Đấng Bảo Trợ (Paraklêtos) khác ( x. Gioan  14,16) , từ Chúa Cha gửi đến  (Gioan  14,16) và chính Chúa Kytô cũng là Đấng Bảo trợ  (I Gioan 2,1) trước tòa Thiên Chúa. Chính Ngài dạy các môn đệ ở lại thành cho đến khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần  (x. Lc 24,49 ; CvTđ  1,8) rồi hãy thi hành lời Ngài dạy :” Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt  28,19-20) .

Sách Tông đồ Công vụ đã cho ta thấy hoạt động của Chúa Thánh Thẩn khi hiện xuống : biến đổi các Tông đồ thành người  học thức (nói tiếng lạ),  giảng dạy có khả năng thu hút lòng người , can đảm. làm phép lạ .

Thành công đầu tiên đưa khoảng ba nghìn người Do Thái vào Đạo Chúa, rồi đến người Samaria,  và các dân ngoại .  Ngày nay, sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại vẩn còn đó, nhất là giúp cho người có Đạo sống Đạo :  phải trung thành với lời Chúa Kytô dạy tức lá  nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn .

Lời nguyện trong tháng sáu nầy : Giáo Hội cầu nguyện cho những người thất nghiệp và cầu cho lòng tin ở Âu châu(Xin cho châu Âu  tìm lại được nguồn cội  Kitô giáo của mình nhở chứng từ Đức tin của người tín hữu ). Cụ thể, người Âu châu vẫn tin Chúa nhưng họ không tới nhà thờ ….Xem đá banh thì khán già chật ních sân trường , năm nào cũng vậy , thế mà đến nhà thờ thì không ! Giá mà không có n.t để các linh mục coi xứ phải làm tạm thời một nhà gần sân banh rồi dùng loa mời người  ta đến sân banh hãy đến dự lễ , trước giờ vào sân ……Gương của các nhà truyền giáo cầu nguyện cho công việc truyền giáo rồi đi đến nơi giúp người ta hiểu Chúa , Không đến với họ, chác chắn chẳng có ai trở lại ?  Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con đang ở Việt Nam giáo dân đến nhà thờ ngày Chúa nhật có nơi đật tới 120% (có người đi hai lễ) đừng rơi vào cảnh ngày Chúa nhật ở Âu châu .

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

 

Tổng thống Ukraina Porochenko tuyên thệ nhậm chức

Tổng thống Ukraina Porochenko tuyên thệ nhậm chức (RFI)

Tổng thống đắc cử Ukraina, ông Petro Poroshenko trong lễ tuyên thệ nhậm chức tại Quốc hội ở Kiev ngày 07/06/2014.

Tổng thống đắc cử Ukraina, ông Petro Poroshenko trong lễ tuyên thệ nhậm chức tại Quốc hội ở Kiev ngày 07/06/2014.

REUTERS/Anastasia Sirotkina

Thanh Phương

Hôm nay, 07/06/2014, tân Tổng thống Ukraina Petro Porochenko đã chính thức nhậm chức. Trong bài diễn văn nhậm chức đọc trước Quốc hội, ông Porochenko cam kết sẽ duy trì toàn vẹn lãnh thổ cho Ukraina và đưa đất nước tiến tới gia nhập Liên Hiệp Châu Âu.

Ngỏ lời với người dân vùng công nghiệp Donbass, vùng nói tiếng Nga mà phần lớn hiện đang bị quân ly khai thân Nga chiếm đóng, ông Porochenko hứa sẽ thi hành chính sách phân cấp lập quyền và bảo đảm cho họ được tự do sử dụng tiếng Nga. Ông tuyên bố sẽ sớm đến thăm vùng này.

Tuy nhiên, tân Tổng thống Ukraina nhìn nhận rằng không thể tái lập hòa bình cho Ukraina nếu không bình thường hóa quan hệ với Nga. Nhưng ông Porochenko khẳng định quy chế của vùng Crimée, mà đã bị Nga sáp nhập, cũng như đường lối thân Châu Âu của Ukraina là những vấn đề « không thể thương lượng được ». Tổng thống Ukraina cho biết là khi gặp tổng thống Putin bên lề các buổi lễ kỷ niệm 70 năm cuộc đổ bộ của quân đồng minh lên Normandie hôm qua, ông đã nói rõ : « Crimée đã, đang và sẽ vẫn là lãnh thổ Ukraina ». Các dân biểu Ukraina đã đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt tuyên bố này của ông Porochenko.

Tổng thống Ukraina cũng hứa sẽ nhanh chóng ký kết vế kinh tế của hiệp định liên kết với Liên Hiệp Châu Âu và thiết lập một chế độ miễn visa cho công dân Ukraina. Đối với ông Porochenko, đây sẽ là bước đầu tiên tiến đến việc Ukraina gia nhập Liên Hiệp Châu Âu.

 

Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-06

namnguyen06062014.mp3

thien-an-mon-vne-305B.jpg

Bài báo đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên báo mạng VNExpress trước khi bị gỡ xuống hôm 4/6/2014.

RFA Screen Capture

Trong bối cảnh Trung Quốc xâm lấn chủ quyền Việt Nam hạ đặt giàn khoan HD 981 đã hơn một tháng, ngày 4/6/2014 hàng loạt thông tin và hình ảnh kinh hoàng đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên các báo mạng đã đồng loạt bị gỡ xuống.

Nhận định về sự kiện này, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội dân sự phát biểu:

“Rất ngạc nhiên trong việc báo chí đưa tin về một sự thực đã xảy ra đúng một phần tư thế kỷ và người ta không bịa đặt bất kể cái gì, mà cảnh sát tư tưởng ở Việt Nam, tức bên tuyên giáo của đảng cộng sản lệnh cho các báo đã đăng phải rút bài đó xuống. Điều đó chứng tỏ rằng những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để họ làm như vậy.”

Thái độ của nhà cầm quyền VN

Tin ghi nhận các báo điện tử như VnExpress, Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục và nhiều trang mạng khác đã phải gỡ bỏ những bài về vụ thảm sát Thiên An Môn 4/6/1989. Bức ảnh 200.000 người biểu tình đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn đầy ấn tượng, hoặc hình ảnh hàng trăm xe tăng mở trận càn giải tán người biểu tình, hình ảnh xác người chết chồng chất trên xe tải, xe kéo, trên đường phố dường như đã chỉ xuất hiện được trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó người đọc không còn truy cập được nữa.

Nhận định về sự kiện báo chí Việt Nam bị gỡ bài và hình ảnh vụ thảm sát Thiên An Môn, nhà báo Nguyễn Quốc Thái nguyên Tổng Thư Ký báo Doanh Nghiệp từ Saigon phát biểu:

“Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm được nhớ lại, nhắc lại và đưa trên báo chí và bị gỡ xuống là một điều cần phải suy nghĩ về sự chọn lựa và thái độ của nhà cầm quyền VN trong quan hệ với TQ.
-Nguyễn Quốc Thái”

“Vụ Thiên An Môn là một vết nhơ trong lịch sử của Trung Quốc. Những người Trung Quốc tử tế và có lương tâm khi nhớ lại sự kiện này họ đều xấu hổ. Xấu hổ vì văn minh của loài người bị chà đạp, tự do của con người đã bị phỉ nhổ một cách tàn tệ. Việc báo chí Việt Nam mà không đưa được lâu dài thời lượng về vụ Thiên An Môn, tôi nghĩ rằng có thể vì nhà cầm quyền Việt Nam vẫn nói đó là tình hữu nghị giữa hai nước. Nhưng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói là không thể có sự hữu nghị viển vông. Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm được nhớ lại, nhắc lại và đưa trên báo chí và bị gỡ xuống là một điều cần phải suy nghĩ về sự chọn lựa và thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc.”

Bên cạnh việc sợ mất lòng Trung Quốc, có những ý kiến cho rằng Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam lo ngại hình ảnh hàng trăm ngàn người biểu tình đòi dân chủ ở Thiên An Môn và bị đập tan bằng vũ lực, còn có thể tác động lên phong trào biểu tình vừa phản kháng Trung Quốc vừa đòi dân quyền ở Việt Nam. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái nhận định:

“Ông nghĩ là những hình ảnh đó che dấu được nhân dân Việt Nam sao? Không một tờ báo, không một mạng truyền thông nào đưa hình ảnh đó lên thì từ 25 năm qua những hình ảnh đó vẫn không rời khỏi tâm trí người Việt Nam yêu tự do và dân chủ. Tôi không nghĩ đưa hình ảnh đó lên hay không đưa hình ảnh đó lên là một sự lựa chọn khôn khéo của nhà cầm quyền. Bởi vì nhà cầm quyền biết rằng không thể nào che dấu được hình ảnh bi tráng đó ở quảng trường Thiên An Môn cách đây 25 năm, nghĩ rằng những hình ảnh đó được chuyển tải lại trong lúc này thì không thích hợp với tình hình ở Việt Nam. Tôi nghĩ suy nghĩ đó là một suy nghĩ non nớt.”

Không tuân thủ hiến pháp?

thien-an-mon-vne-250B.jpg

Màn hình sau khi chính quyền Việt Nam cho gỡ Bài báo đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên báo mạng VNExpress hôm 4/6/2014. RFA Screen Capture.

Một ngày sau thời điểm 25 năm sự kiện Thiên An Môn mà báo chí bị gỡ bài, chiều 5/6/2014 Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo quốc tế ở Hà Nội để cập nhật tình hình Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam kéo dài đã hơn 1 tháng. Người phát ngôn Lê hải Bình cho biết phía Trung Quốc vẫn tiếp tục và có hành vi hung hăng hơn và cũng đưa ra những luận điệu sai trái về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Tại cuộc họp báo, các giới chức Việt Nam đã trả lời vòng vo câu hỏi của các nhà báo nước ngoài, về việc chính quyền ngăn cản người dân biểu tình phản kháng Trung Quốc. Ông Lê Hải Bình phủ nhận việc này và nói rằng người dân Việt Nam hoàn toàn có quyền biểu thị lòng yêu nước của mình theo đúng qui định pháp luật. Khi được hỏi thế nào là biểu tình đúng pháp luật ông Lê Hải Bình nói rằng Việt Nam có những qui định pháp luật về biểu tình.

Nhận định về vấn đề vừa nêu TS Nguyễn Quang A từ Hà Nội phát biểu:

“Sở dĩ mà họ phải nói lắt léo như vậy là vì họ không dám thừa nhận rằng họ không muốn có bất kể một cuộc biểu tình nào. Trong khi quyền biểu tình được hiến định rành rành từ các Hiến pháp trước chứ không phải chỉ từ Hiến pháp bây giờ. Thay vì họ phải ra Luật để tạo điều kiện cho người dân được biểu tình một cách văn minh thì họ không làm như vậy. Họ ra một Nghị định mà Nghị định ấy thực sự là cấm biểu tình, họ gọi là tụ tập đông người. Như vậy lỗi hoàn toàn thuộc về nhà cầm quyền họ đã coi thường người dân, coi thường quyền của người dân. Họ đã không làm được chức năng chính của họ là tuân thủ Hiến pháp tuy rằng còn chưa ra gì do chính họ thông qua.”

Đáp câu hỏi của chúng tôi, nghĩ gì về những lời tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình xác định là nhà nước không cấm dân chúng biểu tình, khi mà cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc dự kiến vào ngày 18/12014 đã bị dẹp từ trong trứng nước. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái thuộc nhóm nhân sĩ trí thức TP.HCM, người từng tham gia nhiều cuộc biểu tình phản kháng Trung Quốc và bị trấn áp phát biểu:

“Tôi không nhắc đến ngày 18/1/2014 hôm đó không có một cuộc biểu tình nào xảy ra ở Việt Nam, bởi vì trước đó nhà nước đã dùng tất cả các phương tiện truyền thông sẵn có trong tay và cơ quan an ninh khuyến cáo nhân dân không xuống đường vào ngày đó. Nhưng những cuộc xuống đường trước ngày 18/1/2014 và trong ba năm trở lại đây không có một cuộc biểu tình chống Trung Quốc nào được lực lượng an ninh của Việt Nam yểm trợ cả. Chắc ông có thể nhìn thấy cảnh những người biểu tình bị đàn áp đánh đập, thậm chí chưa đi biểu tình cũng bị đàn áp đánh đập như cá nhân tôi chẳng hạn. Như vậy nói không có đàn áp người biểu tình là nói dối nhân dân. Bởi nhân dân họ chứng kiến những người xuống đường bị đàn áp, bị đánh đậy bị bắt giữ, hà cớ gì phải chối những điều mình đã dám làm, thiếu một sự dũng cảm đó là điều đáng khinh.”

” Họ đã coi thường người dân, coi thường quyền của người dân. Họ đã không làm được chức năng chính của họ là tuân thủ Hiến pháp tuy rằng còn chưa ra gì do chính họ thông qua.
-TS Nguyễn Quang A “

Tại cuộc họp báo ngày 5/6 tại Hà Nội, trả lời câu hỏi của hãng thông tấn nước ngoài là phía Việt Nam có kỳ vọng vào Mỹ sẽ đóng vai trò hỗ trợ Việt Nam bảo vệ chủ quyền của mình. Người phát ngôn Lê Hải Bình đáp lời rằng: “Việc duy trì ổn định, an ninh và an toàn hàng hải của khu vực là lợi ích, là nghĩa vụ của tất cả quốc gia liên quan trong và ngoài khu vực.

Mỹ là cường quốc của thế giới, cùng với cộng đồng quốc tế, Mỹ cũng có tiếng nói nhằm ổn định an ninh khu vực. Chúng tôi mong muốn Mỹ có hành động mạnh mẽ hơn, đóng góp vào an ninh, an toàn hàng hải khu vực, giải quyết tranh chấp của khu vực thông qua luật pháp quốc tế.”

Có mặt trong cuộc họp báo ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia khi trả lời bao chí đã hàm ý cho thấy ít có khả năng Việt Nam khởi động biện pháp lý đối với Trung Quốc. Ông Hải nói các vụ kiện quốc tế đều rất phức tạp, nếu chủ tàu Đà Nẵng kiện Trung Quốc là vụ án dân sự. Nhưng vụ giàn khoan liên quan đến chủ quyền, cần chọn phương án nào tối ưu nhất bảo vệ quyền lợi đất nước.

Nhận định về vấn đề vừa nêu, TS Nguyễn Quang A từ Hà Nội phát biểu:

“Cũng tương tự như chuyện về Thiên An Môn, tôi nghĩ rằng chắc chắn phải có ý kiến của Bắc Kinh thì người ta mới run sợ và người ta bảo báo chí phải rút xuống. Có lẽ cũng tương tự như thế Bắc Kinh như ông tướng Vịnh đã nói, Bắc Kinh nhiều lần yêu cầu Việt Nam là không được đưa ra kiện. Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.”

Công luận Việt Nam đang đặt câu hỏi với đảng Cộng sản và nhà nước về các biện pháp tiếp theo mà cho đến nay chưa hé lộ. Vì đã hơn 5 tuần lễ, Trung Quốc vẫn duy trì giàn khoan trong vùng biển chủ quyền Việt Nam, đã khoan thăm dò và dịch chuyển đến vị trí khác vẫn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Người dân lo ngại nhịn nhục mãi, coi chừng chẳng còn tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển nào lành lặn mà chấp pháp trên biển.

Giới học giả và trí thức nói rằng, những biện pháp tiếp theo có gì bí mật đâu mà không thể công bố, hay nó cũng bí mật như thỏa thuận Thành Đô 1990 giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bí mật gì ghê gớm đến vậy, khiến Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc đó từng phải thốt lên: “Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự.”

Trung Quốc gom sạch gạo miền Tây của Việt Nam

Trung Quốc gom sạch gạo miền Tây của Việt Nam
June 06, 2014

Nguoi-viet.com

CẦN THƠ (NV) Một sự kiện lạ lùng chưa từng có, tàu vận chuyển gạo tấp nập ra-vào tại cảng Cần Thơ trong những ngày qua. Số lượng tàu bốc dỡ gạo tại đây đếm được trung bình mỗi ngày khoảng 30 chiếc.

Báo Một Thế Giới dẫn lời ông Trương Thanh Phong, cố vấn Hiệp Hội Lương Thực Việt Nam, viết tắt là VFA nói rằng, có thể vì lo ngại tình hình căng thẳng ở biển Ðông mà thương nhân Trung Quốc hối hả mua gạo Việt Nam để dự trữ. Họ có mặt tại cảng Cần Thơ đích thân chỉ huy việc thu mua, gom vét gạo thường và cả gạo tấm của nông dân Việt Nam. Gạo được chuyển đến cảng Cần Thơ, bốc lên tàu rầm rộ chuyển ra biên giới phía Bắc.

Gạo Việt Nam ồ ạt xuống tàu sang Trung Quốc. (Hình: báo Một Thế Giới)

Báo Một Thế Giới cho hay, việc thương nhân Trung Quốc ồ ạt thu mua gạo của Việt Nam những ngày qua đã làm giá gạo tại thị trường nội địa vọt lên 2.5%, từ 8,100 đồng, lên 8,300 đồng, tương đương 41 cent một kí. Theo ông Trương Thanh Phong, cố vấn Hiệp Hội Lương Thực Việt Nam, đây là hiện tượng lạ chưa từng xảy ra tại Việt Nam suốt thời gian qua.

Dư luận đồn rằng thương nhân Trung Quốc sợ tình hình biển Ðông căng thẳng ảnh hưởng đến lưu lượng gạo nhập cảng từ Việt Nam nên lo vét mua gạo đưa về nước.

Một số thống kê cho thấy, Trung Quốc đang dẫn đầu các quốc gia nhập cảng gạo Việt Nam nhiều nhất thế giới 5 tháng đầu năm 2014. Tổng số gạo Việt Nam được nước này nhập cảng 5 tháng qua lên tới xấp xỉ 1 triệu tấn, trị giá hơn 10 tỉ đồng, tương đương 500,000 đô la. Riêng trong năm 2013, Việt Nam đã bán cho Trung Quốc 2.2 triệu tấn gạo chính ngạch, chiếm 33% tổng lượng gạo của Việt Nam xuất cảng khắp thế giới.

Theo tài liệu của VFA, số lượng gạo của Việt Nam xuất cảng trong 5 tháng đầu năm 2014 đã tăng thêm 50% so với cùng giai đoạn của năm 2013. Ðó là chưa tính số lượng gạo xuất cảng qua con đường phi mậu dịch qua các cửa khẩu phía Bắc, sang Trung Quốc.

Dư luận cho rằng, tín hiệu trên là không đáng mừng. Thực tế cho thấy, các thị trường truyền thống của hạt gạo Việt Nam là Châu Phi, nay đã rơi vào tay các đối thủ cạnh tranh, nhất là Thái Lan. Tình trạng này xảy ra vì gạo Việt Nam không còn chiếm ưu thế về giá cả cũng như về phẩm chất, so với các quốc gia lân bang thuộc vùng Ðông Nam Á. (PL)

Tâm sự của một VK đã sống trên đất Nhật…(Huỳnh Vũ)

Tâm sự của một VK đã sống trên đất Nhật…(Huỳnh Vũ)

Huynh Vu

Người Việt trên TV Nhật.

Anh Khuê kính,

Xin cám ơn anh về link anh gửi

Tôi không bênh vực những tiếp viên hàng không bằng lí do ngô nghê là họ phải đút lót để đựơc có việc làm trong Air VN nên họ phải buôn lậu chuyển hàng ăn cắp để gỡ vốn
Tôi thực sự thương hại họ, vì ” Quít trồng Giang Nam thì ngọt, trồng Giang Bắc lại chua”
Ngay khi chào đời, họ đã bị sinh ra trong một bệnh viện “ăn cắp”, bác sĩ, tá “ăn cắp” phong bì của bệnh nhân, “ăn cắp” thuốc tiêm chủng ngừa bằng cách chia phân lượng thuốc tiêm ra nhiều phần, không đủ tiêu chuẩn, “ăn cắp” thủy tinh thể nhân tạo của Mĩ và tha thế bằng sản phẩm Ấn Độ để “ăn cắp” giá tiền sai biệt

Khi lớn lên, họ lại đi học trong những trường học “ăn cắp”, giáo sư “ăn cắp” công trình trí tuệ của người khác, học sinh, sinh viên “ăn cắp” bảng điểm, “ăn cắp” bằng cấp bằng phong bì.
Khi bắt đầu bước vào xã hội, bước đầu tiên, họ đã bị lãnh đạo “ăn cắp” tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quĩ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục hình
Anh Khuê ơi,

Vì vậy , khi tôi nhìn thấy những cô ca sĩ, hoa hậu, người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe khủng , nhà khủng, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị “ăn cắp” trinh tiết, bị “ăn cắp” phẩm giá, anh ạ . Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm.
Khi về VN, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi còi, rồi công an vòi vĩnh , xòe tay cầm tiền hối lô. Tôi rơi nước mắt, họ còn nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của mình, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của mình . Những người công an trẻ đó cũng bị “ăn cắp” lương tâm , phải không anh?

Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt.

Khi những phóng viên, bẻ cong ngòi bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đã gọi đó là “Bút Máu” đấy anh ơi

Khi những quan tòa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lí có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị “ăn cắp” nhân tính mất rồi.
Trong xã hội, toàn là “ăn cắp”, vậy thì kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, Vì ăn hóa “giả vờ” là đồng lõa cho xã hội ăn cắp.

Cán bộ lãnh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng giả vờ” đó là công sức lao động tay chân và trí tuệ hay quà tặng của cô em “kết nghĩa”. Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm “con kết nghĩa ” của cô ta quá. Thế mà có những lãnh đạo, ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, UỶ Ban Diều Tra, Quan Tòa “Thiết Diện Vô Tư”, Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ tin vào quà tặng của “cô em kết nghĩa” đó!
Còn có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà khủng, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không tìm ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa…

Công chúa mặc áo đầm hồng ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ công chúa là một chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghiệm.

Toàn đảng đều “giả vờ” tin rằng các Hoàng tử, Công chúa đều là thiên tài không đợi tuổi, mặt trẻ ranh mà nhảy lên ngồi trên đầu các nhà cách mạng lão thành, và ai nấy đều “giả vờ” tán tụng khen thơm.

Thượng bất chính, hạ tắc loạn
“Thanh tra, thanh mẹ, thanh gì?
Hễ có phong bì thì Nó “Thank you”

Anh Khuê ơi,

Tôi buồn lắm, có đôi khi quá tuyệt vọng, tôi tự hỏi, mình có nên quên mình là người VN như con đà điểu vùi đầu trong cát, như quả chuối ngoài vàng, trong trắng, vì tôi yêu nước Mĩ quá rồi. Nước Mĩ chưa, và có lẽ không bao giờ hoàn hảo, nhưng ở đây, ít nhất không ai có thể “ăn cắp” lương tâm, phẩm giá và nhân tính của tôi. Tôi được sống như một “CON NGƯỜI” không phải chỉ “giả vờ ” “làm người” đang sống

Cám ơn anh Khuê đã chia sẻ và cho tôi cơ hội đươc chia sẻ
Liên Hoa, Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Nếu có thì giờ xin các anh chị coi link dưới đây mà tôi vừa nhận được.
Miễn bàn. (hình như trên đài TBS lúc 6 giờ chiều chủ nhật 30/3)
Khuê

https://www.youtube.com/watch?v=1INR9-A7B8o

ベトナム人窃盗団を追う(日)

 

LK Lam Phương – Elvis Phương, Họa Mi & Chuyến Đò Vĩ Tuyến -Lam Phương -Hoàng Oanh & Chieu Tan – Lam Phuong – Ngoc Lan

LK Lam Phương – Elvis Phương, Họa Mi.

httpv://www.youtube.com/watch?v=inbLzzD-yaw&list=PLuUrrk8zYVhNVR_npGrNPdbHQHrILgRba&index=62

Chuyến Đò Vĩ Tuyến -Lam Phương -Hoàng Oanh

httpv://www.youtube.com/watch?v=nE-H-j_Sfr0&list=PLuUrrk8zYVhNVR_npGrNPdbHQHrILgRba&index=9

Chieu Tan – Lam Phuong – Ngoc Lan

httpv://www.youtube.com/watch?v=ynRRKfptfKg&list=PLuUrrk8zYVhNVR_npGrNPdbHQHrILgRba&index=16

Nhà văn Đặng Phú Phong bị cấm xuất cảnh về lại Mỹ

Nhà văn Đặng Phú Phong bị cấm xuất cảnh về lại Mỹ
June 05, 2014

Nguoi-viet.com
Lý do: “An ninh quốc gia”


WESTMINSTER, Calif (NV) – Nhà văn Đặng Phú Phong, Việt kiều, tên chính thức là Đặng Kevin Q., hiện đang ở Việt Nam, vừa fax biên bản cấm xuất cảnh của công an cửa khẩu Tân Sơn Nhất qua California cho một thân hữu báo tin ông bị giữ lại tại phi trường này khi chuẩn bị rời Việt Nam.

Biên bản do công an cửa khẩu Tân Sơn Nhất lập khi cấm nhà văn Đặng Phú Phong xuất cảnh hôm 2 tháng Sáu. (Hình: Người Việt)

Biên bản do Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh, Đồn Công An Cửa Khẩu Tân Sơn Nhất, lập ngày 2 tháng Sáu, 2014, ghi rõ là nhà văn Đặng Phú Phong, quốc tịch Hoa Kỳ, không được lên chuyến bay BR392 của hãng hàng không EVA, bay đi Taipei (Đài Loan) lúc 11:50 giờ sáng, với lý do thuộc diện tạm hoãn xuất cảnh vì lý do an ninh quốc gia.

Vẫn theo biên bản này, người quyết định cấm nhà văn Đặng Phú Phong rời Việt Nam tên là Phạm Tất Hưng, cấp bậc Thương Tá, chức vụ Phó Trưỏng Đồn công an Cửa Khẩu Tân Sơn Nhất.

Sau năm 1975, nhà văn Đặng Phú Phong bị nhà cầm quyền CSVN cầm tù đến cuối 1982 mới được trả tự do. Ông hiện định cư tại nam California, ông làm thơ, viết văn, viết báo, cộng tác với các trang VanchuongViet.org, Damau.org, và thường sinh hoạt với Hội Ái Hữu Tây Sơn Bình Định.

Cho đến giờ báo lên khuôn, nhật báo Người Việt chưa liên lạc được với nhà văn Đặng Phú Phong hoặc thân nhân của ông. (H.G.)

 

Lần đầu tiên, ngư dân kiện Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam

Lần đầu tiên, ngư dân kiện Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam (RFI)

Tàu cá Việt Nam rời cảng Đà Nẵng ra khơi Biển Đông - Reuters

Tàu cá Việt Nam rời cảng Đà Nẵng ra khơi Biển Đông – Reuters

Thụy My

Ngày 26/05/2014, chiếc tàu cá mang số hiệu Đna 90152 lúc đang đánh bắt trên vùng biển Hoàng Sa đã bị tàu Trung Quốc vỏ sắt to gấp bốn lần bất ngờ lao thẳng vào đâm hai cú rất mạnh làm thủng, khiến chiếc tàu bị lật úp và chỉ năm phút sau là chìm hẳn cùng với toàn bộ ngư lưới cụ và hải sản. Luật sư Đỗ Pháp trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ.

Mười ngư dân trên tàu bị rơi xuống biển suýt mất mạng, nhưng may mắn được một tàu cá khác cứu sống. Đến chiều 29/5, xác chiếc tàu cá bị đánh đắm này đã được lai dắt về đảo Lý Sơn.

Hành động vô nhân đạo trên gây căm phẫn trong dư luận. Bà Huỳnh Thị Như Hoa, chủ tàu đã ủy quyền cho Hội Nghề cá tiến hành các thủ tục đòi bồi thường, và Hội đã nhờ Văn phòng luật sư Đỗ Pháp (Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng) hỗ trợ.

Hôm qua 05/06/2014, bà Huỳnh Thị Như Hoa đã cung cấp các tài liệu để Văn phòng hoàn thiện hồ sơ pháp lý khởi kiện chiếc tàu số hiệu 11209 của Trung Quốc. Trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ hôm nay, luật sư Đỗ Pháp cho biết thêm về tiến trình này.

Luật sư Đỗ Pháp 06/06/2014

 

06/06/2014

 

Nghe (06:50)