THÁNH NỮ BRIGITTE THỤY-ĐIỂN, QUAN THẦY ÂU CHÂU

 THÁNH NỮ BRIGITTE THỤY-ĐIỂN, QUAN THẦY ÂU CHÂU

23-7:                                                         nguồn:   Đài Vatican

Ngày 1-10-1999 trong bối cảnh Thượng Hội Đồng Giám Mục Âu Châu, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005) đã tôn phong thánh nữ Brigitte Thụy Điển (1303-1373) làm Quan Thầy Âu Châu cùng với 2 thánh nữ khác. Đó là thánh nữ Caterina thành Siena (1347-1380) và thánh nữ (Edith Stein) Teresa Benedetta Thánh Giá (1891-1942).

Khuôn mặt thánh nữ Brigitte ghi đậm nơi người đương thời hình ảnh một phụ nữ đầy nghị lực và can đảm, cùng lúc, rất giản dị, tươi vui và niềm nỡ. Nơi thánh nữ, kết tụ nhiều đức tính gần như khó dung hợp. Chẳng hạn, vừa có tinh thần chiêm niệm thần bí vừa là bà mẹ gia đình gương mẫu, sống giữa cung điện nhà vua. Thánh nữ còn được mệnh danh là ”Nữ Tiên Tri Xứ Bắc Âu”.

1. Bà Mẹ Công Giáo Gương Mẫu

Brigitte lập gia đình rất sớm – vào năm 16 tuổi – với quan đại thần Ulf, làm việc trong triều đình Thụy Điển. Bà Brigitte sinh hạ 8 người con: 4 trai và 4 gái. Mặc dù hết lòng chia sẻ những phận vụ chính trị của phu quân nơi hoàng cung, bà Brigitte không bao giờ quên nhiệm vụ chính yếu là giáo dục con cái theo tinh thần Kitô. Trong 4 con trai, hai người chết khi tuổi còn thơ. Còn lại 6. Mỗi đứa con là một nét đẹp và một tính tình rất khác biệt, đem lại nhiều niềm vui đồng thời kéo theo bao nỗi sầu.

Trưởng nam Charles có tính tình ương ngạnh, ích kỷ, nhưng nhanh nhẹn tươi vui và có biệt tài quyến dũ người khác. Thứ nam Birger, trái lại, điềm đạo, bao dung và chừng mực. Charles lập gia đình nhưng không hạnh phúc vì tính tình ”bay bướm” của chàng. Chàng không hết lòng yêu vợ nên cũng không được vợ đáp trả. Do đó, chàng thường tìm kiếm an ủi nơi những mối tình ngoài hôn nhân. Thánh nữ Brigitte biết rõ điều này. Và Charles cũng biết rõ hiền mẫu trông thấy tất cả.

Ngày 25-5-1371, thánh nữ Brigitte nhận lệnh THIÊN CHÚA, lên đường hành hương Giêrusalem, qua ngả Roma. Hai con trai Charles và Birger tháp tùng thân mẫu. Sau khi đến Roma, cả gia đình lấy thuyền đi Napoli (Nam Ý). Thánh nữ xin vào hội kiến nữ hoàng Giovanna I (1326-1382). Đúng theo nghi thức ngoại giao, Birger cúi mình sát đất chào nữ hoàng. Charles, trái lại, đứng im tại chỗ. Sắc đẹp của nữ hoàng lôi cuốn tức khắc trái tim ”hào hoa” của chàng. Chàng tiến thẳng đến gần nữ hoàng và đặt nụ hôn trên môi nữ hoàng. Các lính canh tuốt gươm định phản ứng. Nhưng nữ hoàng Giovanna I giơ tay dung thứ cho chàng hiệp sĩ xứ Bắc Âu!

Thánh nữ Brigitte bàng hoàng trước tư cách phóng túng của Charles. Trong khi đó, nữ hoàng Giovanna I lại say mê Charles và muốn cùng chàng kết nghĩa trao duyên. Thánh nữ Brigitte liền nhắc nữ hoàng nhớ rằng, Charles đã lập gia đình và không được phép thành hôn với nữ hoàng. Nhưng nữ hoàng trả lời sẽ khắc phục mọi khó khăn cản trở. Nghe vậy thánh nữ Brigitte chỉ còn biết chạy đến Chúa, kêu xin Ngài giơ tay can thiệp.

Ngày 24-2-1372, nữ hoàng Giovanna I chờ đợi vị hôn phu của mình giữa tiếng ca điệu vũ. Nhưng chờ hoài mà không thấy bóng dáng vị hôn phu xuất hiện. Thì ra, Charles bị sốt liệt giường không dậy được. Bên cạnh chàng có mẹ và em. Khi mở mắt, chàng trông thấy gương mặt dịu hiền thánh thiện của mẹ. Charles chấp nhận thánh ý THIÊN CHÚA và ra đi bằng an trong ơn nghĩa Chúa. Tình mẫu tử của thánh nữ Brigitte đã kết hợp cùng kho tàng ơn cứu độ vô biên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, để cứu quí tử khỏi rơi vào hố sâu tội lỗi.

Trước đó, tình mẫu tử này cũng biểu lộ trong buổi diện kiến với Đức Giáo Hoàng Urbano V (1362-1370). Đức Giáo Hoàng ưu ái tiếp kiến riêng thánh nữ Brigitte cùng hai con Charles và Birger. Birger oai hùng như các dũng sĩ Bắc Âu. Charles rực rỡ trong y phục của một chàng trai Thụy Điển, mang dáng dấp cao lớn của một người Đức. Đức Urbano V thân mật nói với Birger:
– Con đúng là con trai của Brigitte!

Quay sang Charles, Đức Giáo Hoàng nói:
– Còn con, con là chàng trai của thế kỷ!

Thánh nữ Brigitte quỳ sụp dưới chân Đức Giáo Hoàng và thưa:
– Xin Đức Thánh Cha ban phép xá tội cho hai con của con.

Đức Urbano V giơ tay chạm đến cái thắt lưng lộng lẫy của Charles và hỏi:
– Mang y phục nặng nề như vầy, không đủ để đền tội sao?

Thánh nữ Brigitte ngước đôi mắt van lơn nhìn Đức Thánh Cha và thưa:
– Xin Đức Thánh Cha xóa tội lỗi của con con, phần con, con xin hứa sẽ tước bỏ khỏi con con bộ y phục lộng lẫy này!

Thế nhưng, nếu trưởng nam Charles mang lại cho thánh nữ Brigitte nhiều âu lo sầu khổ, thì trái lại, ái nữ Catherine là suối nguồn của an ủi thánh thiện. Góa chồng rất sớm vào năm 20 tuổi, Catherine sống phần lớn quảng đời còn lại tại Roma. Sau khi thân mẫu qua đời năm 1373, Catherine mang xác mẹ về Thụy Điển và vào tu nơi tu viện Vadstena, do chính thánh nữ Brigitte thành lập. Catherine trở thành Bề trên tu viện và nên thánh giống như mẹ, dưới danh hiệu thánh nữ Catherine Thụy Điển.

Có thể nói rằng, toàn cuộc sống gia đình thánh nữ Brigitte Thụy Điển đắm chìm trong bầu khí đạo đức và chiêm niệm. Trong kinh nguyện dâng lên THIÊN CHÚA, thánh nữ thường van xin:
– Xin Chúa tước bỏ tính kiêu căng khỏi lòng con và đừng để con chỉ yêu thương chồng con cùng gia đình bạn hữu bằng một tình yêu thuần túy tự nhiên. Xin Chúa biến đổi tình yêu tự nhiên thành tình yêu siêu nhiên để mang lại lợi ích thiêng liêng cho những người thân yêu của con.

2. Nữ Tiên Tri xứ Bắc Âu

Phu quân thánh nữ Brigitte là quan đại thần Ulf, làm việc trong triều đình vua Magnus. Thánh nữ cũng là chị em họ hàng với nhà vua. Do đó, sau thời gian rời cung điện và sau khi hiền phu qua đời, thánh nữ Brigitte nhận lời làm quản gia hoàng cung Thụy Điển.

Khi chấp thuận trở lại hoàng cung, thánh nữ Brigitte ý thức nhiệm vụ vừa tế nhị vừa khó khăn. Hoàng cung Stockholm lúc đó gần như sống trong sa đọa. Bao quanh nhà vua và hoàng hậu là những cận thần thiếu tư cách lãnh đạo, thiếu thiện tâm phục vụ dân lành. Vừa khi đặt chân vào hoàng cung, thánh nữ Brigitte nghiêm khắc lớn tiếng loan báo ”cơn thịnh nộ của Chúa”. Cả triều đình Thụy-Điển, từ vua, hoàng hậu cho đến các quan đại thần đều rúng động trước lời cảnh cáo. Thánh nữ vạch rõ cho vua Magnus thấy các bất công nhà vua và triều đình giáng xuống dân lành.

Dân chúng sống trong cùng khốn mà triều đình đánh thuế quá cao. Triều đình lại phung phí tiền thuế bóp cổ dân nghèo vào việc ăn chơi sa đọa. Thánh nữ vạch rõ cho vua Magnus thấy đã phạm trọng tội giết hại người vô tội như thế nào. Sau cùng, để thối thúc nhà vua quyết định phá đổ mọi tệ nạn, thánh nữ Brigitte tìm cách đánh thẳng vào trái tim nhà vua. Thánh nữ giơ tay chỉ Charles và Birger rồi nghiêm khắc nói với vua Magnus:
– Đây là hai con tôi. Xin Ngài bắt chúng làm con tin giao nộp cho các chủ nợ, thay vì đánh thuế bóp cổ dân nghèo để có tiền trả nợ. Bởi vì, làm như thế, tức là nhà vua xúc phạm đến THIÊN CHÚA, khiến THIÊN CHÚA buộc lòng trừng phạt nhà vua và triều đình!

Trong số các cận thần của vua Magnus, có người anh em họ với thánh nữ Brigitte. Đó là kỵ sĩ Magnus d’Eka. Magnus d’Eka giàu sang, đẹp trai và kết hôn với phụ nữ chàng yêu mến. Từ tổ uyên ương hạnh phúc ra đời những người con kháu khỉnh thông minh. Magnus d’Eka ngụp lặn trong biển tình hạnh phúc. Nhưng thánh nữ Brigitte cho gọi chàng kỵ sĩ tài hoa đến và tiên báo:
– Hiền đệ sẽ chứng kiến cái chết của vợ và các con. Sau đó hiền đệ sẽ trở thành Linh Mục và làm viện trưởng một đan viện!

Lời tiên báo quá phủ phàng. Nhưng thánh nữ thấy rõ tâm hồn em họ, nên biết chắc tín hữu trung tín này sẽ can đảm cúi đầu chấp nhận thánh ý THIÊN CHÚA. Và lời tiên tri của thánh nữ Brigitte ứng nghiệm sau đó.

Bên cạnh ảnh hưởng tinh thần đối với vua Magnus và triều đình Thụy Điển, thánh nữ Brigitte còn giữ vai trò quan trọng đối với hàng giáo phẩm Thụy Điển và với cả vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ là Đức Giáo Hoàng Clemente VI (1342-1352). Các vị giám mục Thụy-Điển lúc bấy giờ lắng nghe tiếng nói của thánh nữ, đặc biệt hai vị Giám Mục hai giáo phận Kinkoeping và Vexioe. Nhờ ảnh hưởng thánh nữ Brigitte, hai vị trở thành những chủ chăn thánh thiện và gương mẫu.

Đây cũng là thời kỳ Giáo Hội Công Giáo bị khủng hoảng trầm trọng với việc các vị giáo hoàng dời ngai tòa thánh Phêrô về Avignon, bên Pháp. Theo lệnh của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, thánh nữ Brigitte viết cho Đức Giáo Hoàng Clemente VI những bức thư thống thiết. Thánh nữ van xin Đức Giáo Hoàng phải bỏ Avignon và đưa ngai tòa thánh Phêrô về lại Roma. Roma mới là trung tâm của Giáo Hội Công Giáo, theo ước muốn của chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Thánh nữ Brigitte Thụy-Điển trút hơi thở cuối cùng ngày 23-7-1373, hưởng thọ 70 tuổi, sau khi thành lập cho Giáo Hội một dòng tu nữ. 18 năm sau, Đức Giáo Hoàng Bonifacio IX (1389-1404) đã nâng nữ tôi tớ tiên tri của Chúa lên hàng hiển thánh.

… ”Người kính sợ THIÊN CHÚA sẽ được Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan sẽ ra đón người ấy như mẹ. Đức Khôn Ngoan sẽ tiếp nhận người ấy như vợ trinh khiết. Đức Khôn Ngoan nuôi dưỡng người ấy bằng bánh thông minh và cho uống nước Khôn Ngoan. Người ấy dựa vào đức Khôn Ngoan và không sa ngã, gắn bó với đức Khôn Ngoan và không phải xấu hổ. Đức Khôn Ngoan khen ngợi người ấy hơn các bạn hữu. Đức Khôn Ngoan sẽ mở miệng người ấy giữa đại hội. Người ấy vui mừng hoan hỷ và nổi tiếng muôn đời” (Sách Giảng Dạy 15,1-6).

(MISSI, Magazine d’Information Spirituelle et de Solidarité Internationale, 4-5/1991, trang 175-178)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Niềm tin vượt thắng bất an xã hội

Niềm tin vượt thắng bất an xã hội

                                                              An Thanh, CSsR

nguồn: dongchuacuuthe

              nuvuongcongly.net

 

Posted on Tháng Bảy 23, 2012

VRNs (23.07.2012) – Sài Gòn – Đây là kinh nghiệm của bảy học viên lớp giáo lý Dự Tòng đặc biệt do chúng tôi phụ trách. Một người đã rửa tội từ cuối tháng 6 vừa qua (Maria Lê Diễm Mi), một người vừa được cha Giuse Đinh Hữu Thoại rửa tội tại Tam Kỳ, Quảng Nam (Mary Huỳnh Thục Vy). Sáng hôm qua, chúng tôi rửa tội cho bốn người (Matthew Rchơm Sơ, Maria Đỗ Thị Mỹ Hạnh, Geradina Lê Thị Bích Vân và Maria Nguyễn Hoàng Vi). Rồi tuần sau, nếu không có gì thay đổi, chúng tôi sẽ rửa tội cho Monica Trịnh Kim Tiến.

Đối với Maria Diễm Mi, việc rửa tội là đương nhiên, vì nhiều năm nay cô đã đi lễ đều đặn hàng tuần. Việc gặp gỡ Chúa đã làm cho cô được giải thoát trước biết bao nhiêu nguy nan trong cuộc sống. Còn đối với Monica Kim Tiến thì chúng tôi muốn giữ bí mật để kể chuyện vào kỳ sau.

Kỳ này, chúng tôi chỉ kể về năm người kia.

Lý do theo đạo?

Trước khi lãnh nhận bí tích rửa tội hai tuần, Huỳnh Thục Vy viết cho chúng tôi: “Con tin rằng cuộc đời con người không phải do con người quyết định mà được. Lúc con bị bắt, con tự nhiên thấy mình luôn được chở che. Con chưa hiểu vì sao con lại có cảm giác ấy. Nhưng con hy vọng nếu có một Đấng cao vời mà con chưa từng biết thì con mong các cha giúp cho con một cơ hội để bước vào con đường nhận biết Ngài. Đó là những lời con nói thật lòng mình”.

Còn Nguyễn Hoàng Vi thì cho biết muốn theo đạo là muốn chu toàn đạo hiếu với ba: “Lúc đầu, con tìm về với Chúa chỉ vì muốn hoàn thành tâm nguyện của ba con ngày còn sống (vì ba con là người có đạo, mẹ thì không và con cũng không có đạo) chứ không hề có một cảm nhận gì về Chúa. Con chỉ nhớ ngày còn sống mỗi sáng mùng Một Tết hàng năm, ba vẫn thường một mình lặng lẽ dẫn con đi nhà thờ và có đôi lần ba đã nhắc nhở gia đình rằng: ‘Chỉ có con người bỏ Chúa chứ không bao giờ Chúa bỏ con người’. Lúc ba hấp hối, tâm nguyện của ba là mong các con mình tìm về với Chúa. Một ngày, khi đã mệt mỏi với những bon chen của cuộc sống, con dừng lại và mong muốn tìm về với Chúa để hoàn thành tâm nguyện của ba nhen nhóm lên trong suy nghĩ con một cách rất tự nhiên”.

Mỗi người mỗi cảnh, anh Rchơm Sơ thì cả gia đình đã theo đạo từ lâu, đến giờ học đại học ở Sài Gòn mới thấy mình phải tìm Chúa, thế là xin học đạo.

Cô dược sĩ Lê Thị Bích Vân là mẫu người khát khao tìm lẽ sống mãnh liệt. Cô nhận xét cuộc sống của mình: “Mâu thuẫn. Đấu tranh. Dục vọng và Lí trí. Đúng và sai. Nên và không nên. Luôn gồng mình lên để sống, đôi lúc tôi tưởng chừng như người điên. Và tôi luôn tìm, tìm kiếm hạnh phúc, sự bình yên trong tâm hồn. Hy vọng một nơi nào đó, một ai đó hoặc thậm chí là bất kì một thứ gì mở lối thoát cho tôi. Vì tôi muốn sống như đúng nghĩa là một cuộc sống”.

Chị Đỗ Thị Mỹ Hạnh là mẹ của hai người con, một đã đi làm, một đang học công nghệ thông tin. Chị là con của gia đình theo đạo Cao Đài, rồi khi lấy chồng thì về gia đình theo truyền thống Phật giáo. Đạo Cao Đài cũng tôn kính Đức Mẹ Maria, nên ngay từ bé chị đã thường cầu nguyện với Đức Mẹ. Đến khi có chồng có con, lúc hạnh phúc lúc buồn tủi, chị tìm đến với Đức Mẹ và mong muốn mình theo đạo nào mà có Đức Mẹ. Người em út của chị giới thiệu cho chị làm quen với những người Công giáo.

Động lực theo đạo nơi năm người này không ai giống ai, nhất là bốn trong năm trường hợp theo đạo không vì bổn phận của hôn nhân, mà thực sự muốn tìm một giá trị sống.

Niềm xác tín

Maria Nguyễn Hoàng Vi viết: “Một ngày, con bỏ ngang việc học giáo lý để xuất cảnh, kiếm kế mưu sinh cho gia đình thì con lại bị chính quyền cấm con xuất cảnh với lý do hết sức vớ vẩn. Ngay khi ấy, con tin rằng đó là ý định của Chúa muốn con trở về với tình yêu thương của Ngài. Những lúc lòng con cảm thấy bất an, bối rối nếu là trước đây con sẽ rơi vào tình trạng không lối thoát nhưng bây giờ qua lời dạy của cha, con cảm nhận được sự dạy bảo, chở che, ủi an của Chúa mà lòng lại cảm thấy bình an”.

Hoàng Vi, từ hơn một năm qua đã bị công an mật vụ vô cớ tấn công ba lần. Họ đẩy cô từ một người không quan tâm gì đến xã hội, đến truyền thông phải nhập cuộc để bảo vệ chính mình. Maria Nguyễn Hoàng Vi viết: “Mỗi khi đứng trước thế lực ma quỷ, con cảm nhận được nguồn sức mạnh vô cùng to lớn mà Chúa đã ban tặng cho con, giúp con vượt qua một cách an vui, không sợ hãi. Với những thủ đoạn và việc làm xấu xa mà chính quyền cộng sản làm với con chỉ vì con đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền. Trước khi đến với Chúa, con luôn sống trong lo sợ. Nhưng giờ đây mỗi khi họ làm việc xấu với con, làm cho con mất tất cả, cuộc sống bấp bênh, tính mạng luôn trong tình trạng nguy hiểm, họ tưởng rằng họ đã chiến thắng. Nhưng không! Đứng trước những gì họ đối xử với con, con lại cảm thấy bình an một cách lạ thường”.

Đối với Geradina Lê Thị Bích Vân, một dược sĩ, thì việc theo đạo đối với cô không phải lần đầu. Trước đây cô đã học, những sau đó không cảm thấy gì khá hơn, nên bỏ. Một thời gian sau, nhờ người chị, cô lại đến với lớp giáo lý đặc biệt của chúng tôi. Cô kể: “Những buổi học đầu tiên tôi không thỏa mãn về những điều mình được học. Hai tuần, tôi vẫn chưa có cái gì vào đầu”.

Phải hướng dẫn những người như thế này đối với chúng tôi thật là thú vị, chẳng phải nhờ họ mà chúng tôi đào sâu thêm hiểu biết của mình đâu, nhưng với kinh nghiệm, chúng tôi biết thế nào Chúa cũng làm một điều bất ngờ cho họ và đó là cách Chúa dạy chúng tôi về đức tin. Bích vân nói: “Ngày 16.05.2012, có một thứ đã làm tôi thay đổi – “Chúa YÊSU của con, con đã hiểu…” – tôi hiểu vì sao Người lại yêu thương chúng ta đến vậy, vì sao Người lại lấy thân mình để cứu chuộc chúng ta… Chúa của tôi, tôi yêu Người, yêu vô cùng. Nhìn Người trên thập giá tôi thấy lòng mình đau nhói”.

Đến giờ phút này, chúng tôi không thể nhớ đã nói gì, để rồi cái giây phút đó khiến Vân phải nhớ cả ngày tháng, như là cột mốc không thể quên trong cuộc đời, vì đã nhận ra Chúa Yêsu.

Chị Maria Đỗ Thị Mỹ Hạnh có kinh nghiệm khác hẳn các cô Vi và Vân. Chị kể: “Con chiêm bao thấy hình Mẹ có ánh hào quang. Con kể cho người em út nghe, và em con lại đem kể cho một chị có đạo, đó là chị Dung, hiện giờ chị trong lớp Kinh Thánh ở Mai Khôi và chị ấy đã dẫn con vào giờ sống nhóm ở nhà thờ Mai Khôi và con được chị Thu nhóm trưởng cho học giáo lý ở nhà thờ Chợ Quán. Học xong sắp rửa tội, thì con bị chồng mình cản trở, thế là con không được rửa tội vào đạo, lúc đó con buồn lắm nhưng nhờ các chị khuyên, cầu nguyện phó thác, chương trình của Chúa cứ dâng lên và xin một ngày đẹp lòng Chúa sẽ cho và con cũng làm theo”.

Riêng đối với Matthew Rchơm Sơ, anh này chọn ngay câu Lời Chúa của Chúa Yêsu nói trong vườn cây dầu, lúc sắp chịu nạn làm hướng sống: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái; nhưng xác thịt lại yếu đuối” (Mt 26, 41). Rồi anh nói: “Tôi vẫn âm thầm cầu nguyện và ở đó ánh hào quang xuất hiện trong tôi mà tôi không hề hay. Chúa luôn mời gọi tôi, Ngài luôn chỉ đường và khuyên bảo trong bước đường tôi đi, những lúc gian nan nguy khó hay ốm đau thì Ngài luôn ở bên cạnh để bảo vệ tôi như thể tôi thấy được tiếng nói của Ngài. Từ đó tôi nhận ra rằng tôi phải đến với Ngài, đến với Hội thánh Chúa, đến cảm nghiệm cuộc sống trong Ngài”.

Đức tin lớn lên

Trong thánh lễ cử hành tại Tam Kỳ, cha Giuse Đinh Hữu Thoại đã chia sẻ với cộng đoàn và chính Mary Huỳnh Thục Vy như sau:

“Đây là thời điểm khó khăn cho đời sống cá nhân cũng như đời sống quốc gia, chúng ta phải biết cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa để chiến thắng ác thần (x. Ep 6, 12).

Với nước rửa tội, chúng ta chết cho tội lỗi, mặc cảm và những vướng bận với sự huỷ hoại trong cái chết của Người Công Chính – Yêsu Kitô, và tức khắc mang lấy sự sống mới của Thụ Tạo Mới – Yêsu Kitô. Đau đớn, khổ nhục và sự chết chỉ có thể đe doạ những ai còn quyến luyến với tội lỗi và còn muốn quy phục sự ác. Còn những ai tin vào sự sống mới – sự sống ấy đã đến rồi, mà hôm nay chúng ta chứng kiến trong người chị em sẽ được thanh tẩy – thì sẽ không còn sợ hãi, nhất là sợ những đe doạ của thế lực ác thần, dù núp dưới bất cứ danh hiệu nào.

Lời cầu nguyện và chúc lành của Kitô hữu không chỉ hữu hiệu cho những người đã tin, mà còn cho mọi người mà mình muốn hướng đến. Đó là ông bà, là mẹ, là những người thân yêu đã tạ thế lâu ngày tháng, và cả những người đang sống đang yêu thương mình. Người Kitô hữu có trách nhiệm hàng ngày dâng của lễ cầu nguyện và chúc lành cho mọi người và cho thế giới”.

Còn trong thánh lễ tại Sài Gòn sáng hôm qua, chúng tôi mời gọi mọi người nhìn lại hạt giống đức tin tiềm ẩn trong cuộc đời mỗi người trong nhân loại này. Hạt đức tin được gieo lúc thuận tiện cũng như khi không thuận tiện. Hạt đức tin lớn lên không ai hay biết cho đến lúc bừng sáng thì ai cũng ngạc nhiên. Bốn anh chị em đón nhận các bí tích gia nhập Kitô giáo hôm nay đều có kinh nghiệm đó.

An Thanh, CSsR

Ảnh:  Vũ Sỹ Hoàng

Phép Lạ Ngày 13 Của Tôi

Phép Lạ Ngày 13 Của Tôi

Sat, 15/10/2011                                             Anthony Lê Ngọc

                                                                    nguon: thanhlinh.net

  Vào khoản tháng 2 năm 2007, sau khi được bác sĩ kiểm nghiệm và xác nhận tôi đã bị chứng bệnh Ung thư gan vào thời kỳ thứ 4 ( tức là thời kỳ cuối của căn bệnh) . Tôi biết không còn hy vọng nhiều, tôi chỉ biết cầu nguyện phó thác vào sự quan phòng của Chúa và trông cậy vào Mẹ Maria, mặt khác tôi cố gắng làm mọi việc theo sự điều trị mà bác sĩ yêu cầu , vì tôi tin tưởng Chúa sẽ làm việc qua tay bác sĩ hoặc bằng một cách nào đó.
       Sau một thời gian trị liệu khoản 8 tuần lễ , bác sĩ cho biết thuốc đã không giúp gì cho bệnh gan của tôi, bác sĩ đưa cho gia đình tôi 2 điều kiện để chọn , vì ông đã bó tay với căn bệnh của tôi.
       Điều kiện 1 là sẽ ngưng điều trị vì thuốc đã không giúp được bệnh mà còn hành tôi đau đớn.
       Điều kiện 2 là sẽ thử loại thuốc khác (thuốc này ông biết là không giúp gì như thuốc kỳ trước) với lại sự phản ứng thuốc này mạnh gấp mươi lần .
       Tôi đã quyết định điều kiện 2 , vợ và các con tôi cũng ủng hộ theo tôi như vậy . Bên cạnh đó chúng tôi cầu nguyện nhiều hơn nữa , gia đình ở Việt nam của tôi cũng nhờ các Hội đoàn cùng cầu nguyện cho tôi. Hằng ngày chúng tôi thường lần chuỗi Lòng thương xót Chúa và chuỗi Mân côi. Chúng tôi đọc kinh chung qua mạng v..v…
        Và sau lần trị liệu tiêm thuốc đầu tiên của thuốc kỳ 2, trong người tôi đã không bị hành đau đớn như lời bác sĩ báo trước, nên ông đã cho tôi tiêm thuốc thêm liền tuần lễ kế tiếp (thay vì tiêm 1 tuần và nghỉ 3 tuần rồi mới tiêm lại theo chu kỳ ). Và tôi được tiêm 2 tuần rồi nghĩ 1 tuần.
        Cho đến ngày 13 tháng 5 năm 2007 , chúng tôi cũng cầu nguyện như thường lệ , khi tái khám lại ngày 14 tháng 5 2007, thì bác sĩ xác nhận tôi đã qua thời kỳ nguy hiểm, vì cục bứu ung thư đã teo dần và sức khỏe tôi đang tiến triển tốt hơn. Tôi biết Chúa đang làm viêc trên căn bệnh của tôi qua lời cầu bàu của Mẹ.
        Tôi muốn chia sẽ niềm vui này của tôi để ca ngợi Thiên Chúa và Mẹ Maria. Không phải chỉ lần này mà đã nhiều lần trong đời tôi được ơn vào ngày 13.
        “GiêSu , Maria , Giuse , con mến yêu. xin cứu chữa các bệnh nhân.”

Anthony Lê Ngọc

TRƯỚC THIÊN CHÚA

TRƯỚC THIÊN CHÚA

                                                tác giả:  CHU TẤT TIẾN

 

Trước Thiên Chúa,

Giá trị Con Người không bằng hạt cát biển kia

Cho dù có thiên tài hay vua chúa, đội mão, đi hia

Chỉ một cơn sóng lên, đã không còn hiển hiện

Dù là Roosevelt, Churchill,  Stalin, Hitler, các thiên tài hùng biện

Hay  Goebbels,  Mussolini, hoặc Francisco Franco

Những triết gia lừng danh Marx, Nietzsche, Socrates, Plato

Những khoa học gia Einstein, Pascal, Von Braun, Pasteur

Người chế bom Nguyên Tử: Robert Oppenheimer

Những anh hùng lẫm liệt Bonapart, Charlemagne, Afred the Great,

Hay Henri V, Joan of Arc, Tào Tháo, Justinian the Great

Và những người khai phá Darwin, Rousseau, Columbus..

Tất cả, tất cả đã đi vào một chỗ “MUST”

Đó là HƯ VÔ, ẢO ẢNH, VÔ THƯỜNG

Dáng dấp xưa được ca ngợi, nay chỉ còn xương

Hay đã thành bụi, chờ một cơn gió thổi qua, tan biến.

Trước Thiên Chúa,

Núi lửa cũng chỉ là một ánh đèn điện

Sóng thần cao ngút là sóng hồ bơi

Động đất 8 độ Richter: một lần Ngài thở hơi

Vì tất cả vũ trụ là đồ chơi của Thượng Đế.

Trước Thiên Chúa,

Hạnh phúc, khổ đau, vinh quang, khoe mẽ

Trống trận, kèn vang, các Tu Sĩ với lọng vàng

Từng đoàn hùng binh, tiếng hát vang vang

Cũng chỉ là một cơn mưa sa mạc

Ầm ĩ đấy, rồi phút sau tan tác

Xác người chồng lên như cỏ rạc đêm sương

Bao mộng mơ, ân oán, yêu thương

Một giây phút bỗng trở thành mộng ảo

Đã biết bao công trình kiêu ngạo

Vút tận trời rồi chốc lát thành tro

Titanic kiêu hùng hơn triệu giấc mơ

Tưởng vĩnh viễn, ai ngờ chìm đáy biển

Tòa tháp đôi, biểu trưng của thành công hiện diện

Nay còn đâu? Một khoảng trống thiên thu…

Trước Thiên Chúa,

Mắt nhân loại như đui mù

Không nhìn thấy tương lai toàn thế giới

Không nhìn thấy đời mình trong bước tới

Sẽ hụt chân? Vấp ngã? Chết như chơi…

Biết bao triệu người, khi chết vẫn mỉm cười

Vì phút trước, đang hân hoan, vui sướng

Mới mua xe, vừa cưới vợ, vinh thăng Tướng

Vừa đậu xong, mới trúng số, trúng đề

Bao tuổi xuân mà nhựa sống tràn trề

Cũng nhắm mắt cùng trưởng huynh lọm khọm

Trước Thiên Chúa,

Nếu con người không tự mình bé mọn

Không khiêm nhường, sống giản dị, tránh bon chen

Không biết chìa tay với kẻ đứng bên

Không chia xẻ với người già, yếu đuối

Không hiếu thảo, yêu thương, sám hối

Thì bất ngờ…. đời sẽ biết về đâu?

Một hôm nào, tóc bạc, yếu đau

Chân run rẩy, mong một nụ cười bên cạnh

Sẽ thấy… ôi! Cuộc đời sao ghẻ lạnh!

Chẳng ai thương, cho ly nước cầm hơi

Rồi lúc trái tim cảm thấy rã rời

Lo sợ, hãi hùng, thì… chao! Đã trễ..

Những kẻ ác tâm sẽ kinh hoàng muôn vẻ

Vì khi xưa từng nhạo báng loài người

Giờ thấy lừng lững Thần Chết đến nơi..

Muốn cúi lạy cũng không còn kịp giấc…

Vậy, trước Thiên Chúa

Xin chân thành lột xác

Chỉ biết Yêu Người, giúp đỡ tha nhân

Giúp người bần hàn, dù chẳng thiết thân

Những người đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ

Giúp quê hương được an vui ngày cũ

Để mai sau, thanh thản chốn quê nhà

Và yên vui những ngày cuối an hòa

Bên những nụ cười, đầy tình yêu chất ngất…

CHU TẤT TIẾN

Tháng 6, 2012

 

KIẾP NGHÈO & NGHĨ VỀ bài thơ KIẾP NGHÈO

 KIẾP NGHÈO,
                                      Song Như.

 
Không biết ngày mai sẽ ra sao?
Quê hương tôi đó như thế nào?
Bao nhiêu em bé nghèo lam lũ,
Bao kẻ đói hèn sống lao đao…

Sáng nơi phố chợ người mua bán,
Nhiều trẻ ăn xin bước lang thang,
Củ khoai lượm được mừng lót dạ,
Trưa đói hoành hành biết sao kham…

Chiều ra thùng rác kiếm bánh rơi,
Rau trái, cơm thừa chẳng gọi mời,
Tối ôm hốc cây nhìn sao sáng,
Mộng mị quay về giấc chơi vơi…

Đến trước bao người ngửa tay xin,
Người ngoảnh mặt đi không chút tình,
Kiếp nghèo chuyên chở đời gian khổ,
Sáng tối đêm ngày… bị người khinh…

Liverpool.19/7/2012.
Song Như.

 
NGHĨ VỀ bài thơ KIẾP NGHÈO của Song Như .

                                                           Machanvi ( Nguyễn Tấn Ich)

Song Như là bút danh của nhà thơ Kim Trọng cư ngụ tại Liver Pool , anh
là một doanh nhân nhưng có máu yêu thơ từ trong lòng mẹ . Quê hương
Việt Nam thân yêu của anh là vùng đất nhiều danh lam thắng cảnh hữu
tình , nên đã in sâu trong lòng anh từ thuở bé thơ . Giờ đây làm
người dân của một nước nhược tiểu nên luôn phụ thuộc vào các cường
quốc về nhiều lãnh vực . Bởi thế mà người dân luôn bị các thế lực bành
trướng chiếm đóng lâu đời nhất là bốn nghìn năm lệ thuộc quân Tàu , mà
dân Tàu thì họ rất nham hiểm và thủ đoạn lúc nào cũng muốn Việt Nam
là lệ thuộc họ .
Cho đến bây giờ Trường Sa, Hoàng Sa cũng như miền cao nguyên rừng
vàng biển bạc ấy họ đã ngấm ngầm chiếm đóng . Người nông dân và ngư
dân giờ phải lao đao vì mưu ma chước quỹ của họ .
Xót đau trước hoàn cảnh đất nước và nỗi đau tột cùng của dân Việt anh
chỉ biết nói lên tiếng lòng mình với đồng bào đang tột cùng khổ cực ở
quê nhà và bài thơ KIẾP NGHÈO đã ra đời đúng vào thời điểm đó ngày
19/7/2012 .
Ta hãy đi sâu vào cảm nghĩ của song Như .
Bài thơ KIẾP NGHÈO được chia làm bốn đoạn mỗi đoạn 4 câu
Đoạn mở đầu anh viết :
Không biết ngày mai sẽ ra sao?
Quê hương tôi đó như thế nào?
Bao nhiêu em bé nghèo lam lũ,
Bao kẻ đói hèn sống lao đao….
Hằng ngày anh luôn theo dõi trên báo đài nên rất ưu tư về vận mạng của
đất nước quê hương , nhất là những người dân nghèo và các trẻ thơ
luôn phải đối diện với cảnh đói cơm rách áo . Người dân miền núi thì
rừng chúng mua và lũ quan bất nhân ấy đã đẩy họ vào cuộc sống bần
cùng không nơi nương tựa. Ngoài khơi thì ngư dân luôn bị cướp lưới
cướp tàu phải nợ nần thiếu thốn . Cuộc sống của họ như thế thì làm sao
con cái họ được mỗi ngày cắp sách đến trường đành phải lang thang
kiếm sống giang hồ phiêu bạt .

Sáng nơi phố chợ người mua bán,
Nhiều trẻ ăn xin bước lang thang,
Củ khoai lượm được mừng lót dạ,
Trưa đói hoành hành biết sao kham…

Viết đến đoạn thơ này tôi lại nhớ về thi sĩ Hữu Loan , một nhà thơ nổi
tiếng trong làng văn học thế kỷ 20 -21 này. Người đã từng bỏ cả sự
nghiệp công danh khi biết được con đường mình đang đi là phản lại dân
tộc quê hương . Cũng chính vì thế ông đã bị trù dập phải đi thồ đá để
kiếm sống nuôi vợ con mà còn không yên với bọn gian manh thủ đoạn .
Mà người vợ sau này đã sống lượm từng củ khoai sống ăn đỡ đói qua ngày
khi cha mẹ mình bị đấu tố không còn ai nương tựa . Cũng chính người
con gái ấy đã cùng ông đi trọn cuộc hành trình gian khổ để nuôi các
con trưởng thành trong cảnh sống dỡ chết dỡ này .
Song Như đã xót xa vô cùng cho thế hệ nối tiếp cha anh đã bị bọn
người bành trướng ngu dân muốn các em cháu mình sau này phải lệ thuộc
vào chúng . Đây cũng là cảnh báo cho những ai vẫn còn mê ngủ trong hồn mình khi
vẫn coi ông bạn láng giềng là 4 tốt 16 chữ vàng

Chiều ra thùng rác kiếm bánh rơi,
Rau trái,cơm thừa chẳng gọi mời,
Tối ôm hốc cây nhìn sao sáng,
Mộng mị quay về giấc chơi vơi….
Trong đoạn này dù chưa được nhuần nhuyễn trong nghệ thuật diễn đạt về
vần điệu , tiết tấu , nhạc và âm thanh , song anh đã nói lên rất chân
tình với quê hương về đồng bào ruột thịt nhất là những đứa bé mồ côi
cách này hay cách khác đã phải sống trong cảnh tột cùng trong cảnh
bất hạnh này

Đến trước bao người ngửa tay xin,
Người ngoảnh mặt đi không chút tình,
Kiếp nghèo chuyên chở đời gian khổ,
Sáng tối đêm ngày… bị người khinh…..
Nếu đã sống trong những ngày khổ đau này mà con người còn có tình
thương yêu đùm bọc nhau thì nỗi đau ấy cũng phần nào được an ủi mà vơi
bớt nỗi sầu sầu . Nhưng không xã hội hôm nay con người phần đông đã
dường như vô cảm. Họ sẳn sàng quay mặt đi khi đồng loại mình đang cần cứu giúp .

Do đâu đã gây ra cảnh này. Qua diễn đạt của tác giả tôi nghĩ rằng tác giả đã
thấy được phần nào nguyên nhân sâu xa đó là sai lầm của một học thuyết
vật chất sinh ý thức .

Tóm lại sở dĩ có điều này là do văn chương bị lưu đày , người ta
đã đầu độc để văn chương không còn gióng lên tiếng chuông thức tỉnh
những ai đã mê say với danh vọng và tiền tài vì sợ họ quay về với
tình yêu thiêng liêng cao quý mà ngàn đời tổ tiên họ để lại .
Viết đến đây tôi lại nhớ đến lời nói của một danh nhân : Thời mạc của
thi ca 1939 của B.Brecht và cảm ơn tấm lòng cao quý của Song Như với
tổ quốc quê hương và đồng bào ruột thịt chúng ta .,.
Machanvi ( Nguyễn Tấn Ich)

Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: chứng nhân tình yêu và hi vọng

 

 Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: chứng nhân tình yêu và hi vọng

 July 20, 2012

                                                                                            Thiên Triệu giới thiệu

 

WHĐ (19.07.2012) – Hãng thông tấn Zenit đã có cuộc trò chuyện với tiến sĩ Waldery Hilgeman, cáo thỉnh viên trong tiến trình phong chân phước cho Đức Cố hồng y Phanxicô Xaviê. Khi được hỏi về điều gì gây chú ý nhất trong cuộc đời của ngài, ông nói: “Điều đánh động tôi trong linh đạo của ngài là tình yêu liên lỉ đối với tha nhân. Ngài bị cầm tù và khi ở trong tù, ngài vẫn không ngừng yêu thương những người bách hại ngài, từ những viên chức cao nhất của chế độ đến anh lính canh thấp bé nhất”.

Đức hồng y Văn Thuận là Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn khi thành phố này bị cộng sản kiểm soát năm 1975. Không lâu sau đó, ngài bị giam giữ trong trại cải tạo suốt 13 năm. Theo tiến sĩ Hilgeman, ngài là một tù nhân phải chịu sự bất công, “theo nghĩa là đã không có sự tố cáo thực sự, cũng không có xử án, kể cả bản án. Do đó có thể nói rằng đối với chúng tôi, ngay cả việc ngài bị tố cáo về tội gì cũng là một vấn đề. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, có nhiều khía cạnh dẫn đến việc coi vị giám mục này là người nguy hiểm cho chế độ, một chế độ trống rỗng như chế độ cộng sản. Tuy nhiên đã không có sự tố cáo chính thức nào.”

Trong thời gian bị giam cầm, ngài đã bí mật viết những sứ điệp cho các tín hữu, nhiều năm sau này được gom góp lại và xuất bản. Trong những sứ điệp này, Đức hồng y Văn Thuận nhận ra ngay từ đầu rằng “Thiên Chúa đòi hỏi ngài hiến dâng tất cả cho Chúa, từ bỏ mọi sự và sống cho Chúa”. Hilgeman nói: “Vì Đức hồng y đã hiểu được rất mạnh mẽ điều này – đặc biệt trong giai đoạn bị cầm tù – là: công việc của Chúa là chính Chúa. Là tổng giám mục phó, ngài đã sống cho những công việc của Chúa. Và ngài nhận ra rằng khi bị cầm tù, Chúa đòi hỏi ngài rời bỏ công việc để chỉ sống cho Chúa mà thôi”.

Về những giai thoại trong thời gian Đức hồng y bị cầm tù, tiến sĩ Hilgeman nhắc lại sự hoán cải của nhiều lính cai tù. Ông nói: “Bằng tình yêu hoàn toàn cho họ, Đức hồng y đã cho thấy thế nào là tình yêu của Đức Kitô. Không được giảng, không thể trực tiếp nói với những người này về Đức Kitô, nhưng bằng mẫu gương của Đức Kitô nhập thể, ngài đã có thể hoán cải họ, đây là điều rất độc đáo”. Do bối cảnh chính trị của Việt Nam, thật khó để phỏng vấn những người lính canh này, nhưng vị cáo thỉnh viên cho biết chứng từ của những người này có thể được đưa vào tiến trình điều tra.

Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận được ra khỏi trại giam năm 1988 mặc dù vẫn bị quản thúc tại gia. Ngài được phép đi Rôma năm 1991 nhưng không được trở lại Việt Nam cho đến năm 2001 khi ngài được vinh thăng hồng y. Nói về những đóng góp của Đức hồng y trong tư cách là Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình, tiến sĩ Hilgeman cho rằng Chúa đã chuẩn bị cho Đức hồng y vào tác vụ của ngài tại giáo triều Rôma. “Có thể nói rằng với việc ngài đến Rôma, chúng ta hiểu rõ hơn những biến cố trong đời ngài. Vai trò của Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình là vai trò cực kỳ nhạy cảm, vì phải quan tâm nhiều đến kinh tế, công lý, nạn đói trên thế giới, hòa bình, tình liên đới và những điều tương tự; nghĩa là bao hàm toàn bộ giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Do đó, một giám mục đến từ một xã hội rất nghèo như Việt Nam lúc đó, và là người đã từng bị cầm tù, đã trải nghiệm nơi chính bản thân sự bất công của thế gian chỉ vì mình là người công giáo. Chắc chắn là Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho Đức hồng y rất tốt để ngài làm nhiệm vụ tại Rôma”.

Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận đã qua đời tại Rôma vào tháng 9 năm 2002 vì bệnh ung thư. Nói về tiến trình phong chân phước, tiến sĩ Hilgeman cho biết đã phỏng vấn trên 130 nhân chứng, từ các hồng y và giám mục cho đến tu sĩ và giáo dân. Theo ông, tiến trình đang diễn ra rất tốt.

Về việc nhiều tín hữu đạo đức hi vọng Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận sẽ được phong thánh, vị cáo thỉnh viên suy nghĩ những lời Đức hồng y nói về hi vọng: “Trong các tác phẩm và bài viết của ngài, có một từ mà ngài thường xuyên nhắc đến, và xem ra những chứng nhân cũng nói như thế khi đến trước Tòa án Rôma, đó là Hi Vọng, đừng đánh mất hi vọng vào Chúa. Và có lẽ ngài sẽ được gọi là vị thánh của hi vọng

nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi

Sự Bình Yên

Sự Bình Yên

 

Một vị vua treo giải thưởng cho họa sĩ nào vẽ được bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công.. Nhà vua ngắm tất cả những bức tranh, nhưng ông chỉ thích có hai bức, và phải chọn lấy một.

 

Trong hai bức tranh đó, một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ với những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng bồng bềnh, trôi lững lờ. Tất cả những ai ngắm bức tranh đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo. Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi, nhưng là những ngọn núi trần trụi và lởm chởm đá. Bên trên, bầu trời giận dữ đổ mưa như trút, kèm theo sấm chớp ầm ầm. Bên vách núi là dòng thác cuồn cuộn nổi bọt trắng xóa. Thật chẳng bình yên chút nào! Nhưng sau khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Nơi đó, giữa dòng thác trút nước xuống một cách giận dữ, có con chim mẹ đang thản nhiên đậu trên tổ của mình, bên cạnh đàn chim con ríu rít… Bình yên thật sự… “Ta chấm bức tranh này!” – nhà vua công bố. “Sự bình yên không có nghĩa là không ồn ào, không giận dữ. Bình yên có nghĩa là ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp, ta vẫn cảm thấy còn có sự yên tĩnh hiện diện trong trái tim mình. Đó mới là ý nghĩa thực sự của sự bình yên”.

                                                                      *   *   *

…Có khi nào bạn cảm thấy thật cô đơn, mặc dù xung quanh bạn vô cùng ồn ào, náo nhiệt? Bởi vì bạn chẳng nhận được chút thân thiện nào từ đám đông ấy cả… …Nhưng cũng có lúc bạn cảm thấy vô cùng ấm áp, hạnh phúc, dù bên cạnh bạn chỉ có một người? Đó là khi trái tim bạn vừa nhận được một tín hiệu thân thương từ người ấy – một người mà bạn vô cùng yêu mến…

Mh

Bình An Thiên Chúa Có Đáng Gì Không?

Bình An Thiên Chúa Có Đáng Gì Không?

CN 16 TN, Năm B

                                                                        tác giả: Tuyết Mai

Ồ tôi thiết nghĩ Trần Gian và Bình An của Chúa, đối với rất nhiều người thì họ luôn chọn trần gian và những gì quý báu thuộc về nó.   Chứ có mấy ai lại thích chọn Bình An của Chúa bao giờ.   Thưa rất dễ hiểu thôi, bởi Bình An của Chúa chẳng đổi thành cơm bánh được! Và nhất là Bình An của Chúa lại chẳng cho ai sự giầu sang phú quý, chức phận địa vị, tiền của hay danh vọng.   Bình An của Chúa là chúng ta không thể buôn bán làm thương mại được.   Bởi Bình An của Chúa không đi đôi với việc làm gian lận, lươn lẹo, mồm miệng, gian xảo, lọc lừa; có nói không, không nói có, và tin tưởng vào mấy ông bà Phong Thủy lẫn Thầy Bói.  

Ai sống trên trần gian muốn chọn để có được Bình An của Chúa, thưa chỉ có những ai được Chúa Gọi cách đặc biệt, thì mới có sự hưởng ứng tích cực mà đi theo để được Bình An của Người.   Sự Bình An ấy thưa không dễ để có đâu nhưng phải là những người Chúa chọn và biết nghe theo sự chỉ dẫn của Chúa mới được!.   Thưa đó là Trước Kính Chúa sau là yêu người như chính mình.   Kế đến là hãy học Từ Bỏ, để Của dư của mình trở thành là của chung.   Sau hết là không nên dính bén Của trần gian.   Nếu được cho rất giống Chúa, thì những ai muốn theo Chúa chỉ cần giữ những gì rất căn bản rất cần thiết mà Cây Gậy và Đôi Dép là hai vật tượng trưng cho sự căn bản vào thời chưa có văn minh đó.  

Ở đây tôi thích nhất lời của Thánh Phao-lô nói với anh em như sau: “Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người, tức là bãi bỏ lề luật cũ với những thể lệ để kiến tạo cả hai nên một người mới, đem lại bình an, dùng thập giá giải hoà hai dân tộc trong một thân thể với Thiên Chúa. Nơi Người, mối thù nghịch đã bị tiêu diệt, và Người đã đến loan báo Tin Mừng bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí”. (Ep 2, 13-18). 

Lời của Thánh Phao-lô trên đây đã làm cho tôi cảm thấy rất thoải mái để yêu người một cách thoải mái yêu đời hơn.   Vì nhờ Người mà bức tường ngăn cách đã bị phá đổ.   Vì nhờ Người mà lề luật cũ đã bị bãi bỏ.   Để cả hai nên một người mới.   Tùy anh em suy nghĩ ra sao thì suy, chứ theo tôi thì tuy trí óc và sự thông minh của chúng ta chưa được tỏ tường và thấu đáo, nhưng nếu chúng ta biết sống trong hòa thuận trong yêu thương mà tìm được Bình An trong tâm hồn, thì đó là món quà thực sự Chúa ban cho tất cả những ai cảm nhận và đang có đó, là họ đang đi đúng đường.

Nếu nói về luật lệ của con người thì ôi thôi không biết bao nhiêu nhà sách chứa cho hết?.   Nhưng Luật của Chúa thì chỉ có bấy nhiêu, đơn giản như đang giỡn vậy! Chỉ có vỏn vẹn hai điều nhưng trên trần gian này có mấy ai thực thi cho được? Chỉ bởi hết thảy chúng ta còn quá dính bén với những gì thuộc về trần gian.   Mà vì chúng ta còn quá nặng lòng với những sự tầm thường ấy, nên Bình An của Chúa không thể đến với chúng ta được, có thế thôi!.

Để tôi cắt nghĩa thực tế nhất cho anh chị em hiểu tỉ dụ như cuộc sống trên đất Mỹ này hay bất kỳ nơi đâu, hẳn chúng ta ai cũng muốn có cái tâm an bình là hằng ngày chúng ta được nuôi, cách đầy đủ.   Mà Cách tốt nhất hữu hiệu nhất là nếu sau vườn chúng ta có một cây ăn trái thôi, nhưng quanh năm nó cho trái xum xuê và bán được, thì không bao giờ chúng ta muốn đốn cây ấy đi cả! Vì nhờ nó mà cả gia đình được dư đủ để sống qua ngày.   Cách trồng trọt này đối với tôi là tốt nhất, hay nhất, kết quả nhất, và là thành thật nhất.   Vì ta có trồng trọt, có đổ mồ hôi nước mắt trong công việc, thì Chúa sẽ thưởng công, bằng cách có trồng thì có ngày trông đợi đến ngày có quả.   Và khi Chúa thưởng công cho thì cứ thế mà sống quanh năm với cái nghề trồng trọt ấy và có thể cái nghề ấy được truyền đạt từ đời cha đến đời con.   Được thế thì Bình An của Chúa luôn tuôn đổ trên gia đình ấy!.

Còn cách sống cho qua ngày mà chúng ta không đổ mồ hôi, không ra công làm việc, mà do công lao của người khác đóng góp cho chúng ta hưởng dùng, thì đó không đẹp Lòng Chúa và đẹp lòng người.   Ngay cả chúng ta cũng sẽ không cảm thấy hay nhận được Bình An thực sự của Chúa đâu!.   Bình An mà chúng ta có cảm nhận được cách giả tạo hằng ngày đó là loại Lấy Của Người để làm của Mình, thì đó là sự đánh lừa chính mình và Bình An ấy không có thực nơi tâm hồn của chúng ta.   “Bởi con tim chân chính không bao giờ biết nói dối và làm điều gian dối” không biết ai nhớ được bài hát tiền chiến này?.   Thì hà huống gì chúng ta có thể lọc lừa Thiên Chúa của chúng ta?.   Đối với con mắt của Chúa thì một đồng xu cũng phải trả cho hết thì Thiên Đàng mới họa may gần tầm tay với của chúng ta.  

Bởi sự Bình An của Chúa rất khó để chúng ta có được là thế đấy!.   Bởi cái giả cái thật, cái gian cái lành, thì Thiên Thần Bản Mệnh đều cho chúng ta biết hết cả! Nhưng để gạn lọc Lưới Trời thì cái lông cũng không thoát khỏi!?.   Anh chị em có công nhận rằng ở thời buổi của ngày nay vì cái khó nó bó cái khôn nên sự Lợi Dụng luôn luôn đầy dẫy ở khắp mọi nơi.   Cái gian lận nó trở thành một thói quen cho nên không ai nhận rằng đó là cái tội nặng, vì tội ăn cắp của chung, vì ăn cắp một cách có sự chỉ dẫn rất tài tình, và rất dễ để qua mắt mọi người.   Nên cho đến chết chúng ta vẫn chưa trả được cái tội ăn cắp ấy, nếu chúng ta tính sổ với Chúa từ cái ngày chúng ta có hay làm được cái sự gian lận và hưởng dùng sự gian lận đó thì biết bao nhiêu tiền mà kể, thưa có phải?.   Quốc gia cạn tiền, thâm thủng, và bị suy thoái một cách trầm trọng cũng vì nhiều những con sâu làm rầu nồi canh này mới ra cái nông nỗi.

Thật phải trần gian là những điều mà không mang lại cho con người Sự Bình An thật sự được!.   Nhất là chúng ta mang tiếng là con cái Chúa thì lại làm gương xấu nhiều hơn cả, trong đó có tôi!.   Chẳng ai dám nói mình là hay là tốt cả, nhưng chỉ có Con Mắt của Chúa mới biết rõ con người gian dối của chúng ta.   Bởi vì là con người trần gian cho nên Thánh Phêrô đã chối Chúa đến 3 lần?.   Bởi vì là con người trần gian nên con cái Chúa mới lột trần, phỉ nhổ, và vả vào mặt Chúa.    Đội mão gai trên đầu, tra tấn đánh đập Chúa cách dã man, và sau cùng là đóng đanh Chúa vào Thập Giá.   Để Ngài Giêsu chết đi cho tội lỗi của hết thảy con người chúng ta.

Hạnh phúc thay cho những ai con Chúa cảm nhận được Sự Bình An đích thực của Chúa ban cho nhân loại cách rất nhưng không!.   Không tiền của nào trên trần gian này có thể so sánh cho bằng Bình An của Chúa được cả!.   Sự Bình An này theo tôi hiểu là hết thảy chúng ta phải có sự cố gắng sống với nhau trong yêu thương và trong sự công bằng.   Để người có dư sẽ san sẻ với người không có.   Và tất cả sẽ là sự bình đẳng trong con mắt con người đối xử tử tế với nhau.   Để khi ấy Niềm Vui mà Chúa muốn hết thảy chúng ta có và nhận lãnh là Tình Yêu, là sự Tri Ân của con người dành cho Thiên Chúa, một Đấng duy nhất muôn đời quyền năng.  

Được thế thì Sự Bình An của Thiên Chúa đã thật sự ở trong tâm hồn và trong lòng của mỗi người chúng ta rồi!!!!.   Amen.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

     http://www.youtube.com/watch?v=fsDuwtjHnK4

     (Có Chúa Sẽ Sống Đời Bình An)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(07-18-12)

Padre Pio, vị đại thánh của Đức Mẹ Fatima

Padre Pio, vị đại thánh của Đức Mẹ Fatima  

7/16/2012                                                                 Lm. Nguyễn Hữu Thy

                                                                                                   trích: Vietcatholic.net

Cách đây đúng 125 năm, vào ngày 25.5.1887, Padre Pio, một tu sĩ Dòng Kapuziner (một chi nhánh của Dòng Phanxicô), cất tiến khóc chào đời tại xứ đạo Pietrelcina thuộc tỉnh lẻ Benevent, Kampanien, miền Nam Ý. Vì cha mẹ ngài vốn có lòng tôn kính thánh Phanxicô Assisi đặc biệt, nên khi đem con đi rửa tội, các ngài đã lấy tên thánh Phanxicô để đặt tên cho con. Và như vị đại thánh, Đấng sáng lập Dòng các Anh Em Hèn Mọn, đã từng canh tân và củng cố đức tin Kitô giáo trong thời trung cổ một cách sâu rộng và hiệu quả, Padre Pio cũng là một trong các vị đại thánh của Giáo Hội trong thời tân tiến ngày nay. Qua lời khuyên bảo và giảng dạy, qua đời sống thánh thiện và qua các hành động lạ lùng của ngài, vị tu sĩ đơn sơ thuộc Dòng Kapuziner ở San Giovanni Rotondo này đã dẫn đưa hằng triệu người trở lại với đức tin của Giáo Hội. Và thánh Padre Pio – cũng như thánh Phanxicô, Đấng sáng lập Dòng, đã được diễm phúc mang 5 dấu đanh của Chúa trên mình – rất có lòng yêu mến Mẹ Maria và hằng ngày lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ. Nhất là đối với Đức Mẹ Fatima, Padre Pio đã có một mối liên lạc hết sức đặc biệt. Cách đây mười năm, vào ngày 16.6.2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tấn phong Padre Pio lên bậc Hiển Thánh.  

 

 Vào ngày 24.4.1959 Padre Pio bị lâm trọng bệnh. Nhưng ngày hôm ấy cũng chính là ngày tượng Đức Mẹ Fatima thánh du đến nước Ý, để trong nhiều tháng tiếp sau đó lần lượt được hàng vạn tín hữu cung nghinh và chào đón tại nhiều Thánh Đường ở các thành phố khác nhau trên lãnh thổ nước Ý. Bắt đầu từ ngày ấy trở đi, bệnh tình của Padre Pio mỗi ngày mỗi thêm trầm trọng. Các bác sị chuẩn đoán là ngài bị bệnh sưng phổi và bị ung nhọt trong phổi. Bệnh tình khiến cha không còn có thể cử hành Thánh Lễ hay ngồi tòa giải tội được nữa. Và ngày 6.4.1959, khi tượng Đức Mẹ Fatima thánh du được nghinh đón tại San Giovanni Rotondo, nơi cha Pio ở, và dừng lại ở đây trong vòng mấy tháng trời. Cha Pio đã đón nhận tin vui đó như một „ơn đặc biệt“. Vì thế, bắt đầu ngày 27.7.1959, cha đã làm Tuần Chín Ngày để kính nhớ cuộc thăm viếng của Đức Mẹ.

Ngày 6.8.1959, các Thầy Dòng trong Tu Viện đã chở Padre Pio vào phòng thánh nhà thờ Tu Viện để cha có thể chào kính tượng Đức Mẹ Fatima. Dù đang bị bệnh nặng, cha cũng đã cố gắng đem hết sức lực để âu yếm ôm hôn tượng Đức Mẹ và dâng kính Đức Mẹ một chuỗi tràng hạt. Nhưng vì sức khỏe quá yếu, nên Padre Pio đã không thể ở lại lâu bên tượng Đức Mẹ được. Vào buổi chiều cùng ngày, khi chiếc trực thăng cất cánh để chở tượng Đức Mẹ tới một Nhà Thờ khác, cha Pio đã xin các anh em Tu Sĩ trong Dòng giúp đưa ngài đến bên cửa sổ phòng của ngài, để ngài có thể giả từ tượng Đức Mẹ thánh du. Khi nhìn chiếc trực thăng chở tượng Đức Mẹ cất cánh bay lên, cha đã không cầm nỗi nước mắt. Cha đã khóc và thầm thì cầu nguyện: „Lạy Mẹ dấu yêu, Mẹ đã tới thăm nước Ý còn con thì đau ốm. Nhưng bây giờ Mẹ lại ra đi, Mẹ muốn bỏ lại con cứ đau ốm thế này một mình sao?“. 

 

 Trong giây lát ấy, bỗng chốc người phi công tự nhiên quay trực thăng lại và bay ba vòng trước cửa sổ phòng Padre Pio, rồi mới bay đi luôn. Sau này chính vị sáng lập Đạo Binh Xanh Đức Mẹ người Ý lúc bấy giờ cũng ngồi trong chiếc trực thăng ấy đã kể lại: „Lúc ấy khi chúng tôi vừa cho trực thăng bay lên và định bay đi luôn, thì người phi công bỗng vặn tay lái cho chiếc trực thăng quay trở lại và bay đi lượn lại trên Tu Viện San Giovanni Torondo mấy vòng nữa rồi mới bay đi hẳn. Thấy vậy tôi đã hỏi người phi công là tại sao anh lại hành động như thế, thì anh đã trả lời là có một sức mạnh vô hình bắt anh phải quay trực thăng lại và bay vòng trên cửa sổ Tu Viện, nơi Pdre Pio đang đứng.“ Và trong khi chiếc trực thăng chở tượng Đức Mẹ bay mấy vòng đặc biệt trước cửa sổ vòng cha Pio ở như thế, thì đã xảy ra một hiện tượng lạ lùng: Cha Pio hoàn toàn được khỏi bệnh. Sau này, cha giải tội của Padre Pio tường trình: „Trong lúc bấy giờ, cha Pio cảm thấy trong mình tràn ngập một sức mạnh vô hình và ngài đã gọi các Thầy lại và nói: „Tôi đã được khỏi bệnh rồi! Đức Mẹ Fatima đã chữa lành cho tôi. Khi đứng ở cửa sổ tôi cảm thấy khắp các xương cốt trong người run lên và tôi lập tức được khỏi bệnh.“ Và về sau, ngài còn kể: „Tôi cảm tạ Đức Trinh Nữ Fatima. Trong chính ngày Đức Mẹ giả từ chúng ta ở đây, tôi lại cảm thấy trong người rất dễ chịu.“ Quả thật, từ giây phút ấy trở đi, Padre Pio lại khỏe mạnh bình thường như thể ngài chưa bao giờ bị bệnh tật gì cả.

Khi một phóng viên hỏi ngài là tại sao Đức Mẹ được chở từ Fatima bay sang San Giovanni Torondo mà lại không tới thánh địa nổi danh tôn kính Tổng lãnh Thiên Thần Michael tại núi Sant´Angelo ở gần đó, thì người tôi tớ Chúa đã trả lời một cách hết sức đơn sơ dí dỏm: „Đức Mẹ Fatima đến San Giovanni Torondo là vì Đức Mẹ muốn chữa bệnh cho cha Pio.“

Trong suốt đời ngài, thánh Padre Pio luôn gắn bó mật thiết với Đức Mẹ Fatima và sứ điệp của Mẹ. Padre Pio đã sống và thực thi lời kêu mời của Mẹ „Các con hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày“ một cách rất nghiêm chỉnh. Vì thế, người ta nhìn thấy thánh nhân luôn cầm tràng chuỗi Mân Côi trong tay, và ở bất cứ nơi nào ngài đến, thánh nhân đều quảng bá phép lần hạt Mân Côi. Có lần một khách hành hương nữ nói với ngài: „Thưa cha, người ta nói rằng ngày nay mà còn lần hạt Mân Côi là không hợp thời, và trong nhiều nhà thờ người ta cũng bỏ không còn lần hạt nữa.“ Padre Pio đã trả lời: „Chúng ta hãy làm điều cha ông chúng ta đã từng làm, rồi mọi sự lại tốt đẹp thôi“. „Nhưng Satan đang thống trị thế giới“, người khách hành hương nữ đáp lại. Bấy giờ Padre Pio liền nói: „Bởi vì thế giới muốn để cho Satn cai trị mình! …Ai siêng năng cầu nguyện, thì được rỗi, còn ai lười biếng cầu ngyện, thì sẽ gặp nguy hiểm. Còn những người không hề cầu nguyện, sẽ mất linh hồn.“

Ngày 23.9.1968, khi đang trong cơn hấp hối tại Tu Viên San Giovanni Torondo, cha Pio đã thì thầm nói với các anh em Tu Sĩ của ngài: „Anh em hãy yêu mến Mẹ Maria và hãy truyền bá tình yêu ấy ra cho mọi người! Hãy luôn luôn lần hạt Mân Côi!“

Đó là những lời cuối cùng, và đồng thời cũng là những trăn trối của của Padre Pio, của một đại thánh thời đại chúng ta ngày nay. Và tất nhiên, trong lúc hấp hối thánh nhân vẫn cầm chặt trong tay chuỗi tràng hạt Mân Côi và ngài sẽ cầm chặt như thế mãi cho tới khi vượt qua biên giới cuộc đời tạm bợ này để bước vào cuộc sống vĩnh cửu trên Quê Trời, vì ngài là một vị đại thánh của Đức Mẹ Fatima!

(Trích từ Nguyệt San „Fatima Ruft“, 2/2012, số 217)

Lm Nguyễn Hữu Thy

Khoa học làm sáng tỏ bí mật Đức Mẹ Guadalupe sau hơn 400 năm

Khoa học làm sáng tỏ bí mật Đức Mẹ Guadalupe sau hơn 400 năm

Đăng bởi cheoreo1 lúc 3:30 Sáng 17/07/12

                                                                                               nguồn: chuacuuthe.com 

 

 

VRNs (17.07.2012) – all-about-the-virgin-mary  – Một ngày đẹp trời 12-12-1531, Juan Diego – một trong những người gia nhập Công giáo sớm nhất ở Mexico – không thể mơ có một ngày ông lại có thể được đặt trên bàn thờ cho Giáo Hội hoàn vũ tôn kính.

Juan Diego trên đường tới nhà thờ sáng sớm hôm đó thì ông lại nghe tiếng nói ngọt ngào của một Phụ Nữ Đẹp hiện thực trước mắt mình tại chân đồi Tepeyac ở ngoại ô TP Mexico vào hai ngày trước.

Phụ Nữ Đẹp ấy lặp lại ước muốn của Bà là có một teocali (nhà nguyện) được xây nơi Bà hiện ra. Juan Diego nói với Phụ Nữ Đẹp rằng ĐGM Juan Zumarraga đòi bằng chứng xác thức về yêu cầu này. Đức Mẹ đã bắt buộc. Theo hướng dẫn của Đức Mẹ, Juan Diego lấy một bó hoa hồng Castilian mà Đức Mẹ xếp trên tilma (khăn choàng) của Người. Ông sẽ đưa bó hoa hồng đó cho ĐGM. Những đóa hồng Castilian lạ lùng nở vào mùa Đông! Juan Diego vội vã đến gặp ĐGM. ĐGM và mọi người có mặt đều sửng sốt trước những đóa hồng thơm ngát khi Juan Diego mở khăn choàng ra và có hình vẽ một Phụ Nữ Đẹp cao 143 cm với nước da hơi sẫm.

Đó là câu chuyện hay về Đức Mẹ Guadalupe. Hình ảnh Đức Mẹ được bao quanh bằng những tia nắng, dưới chân Đức Mẹ có vầng trăng lưỡi liềm và một thiên thần nâng Đức Mẹ lên. Đức Mẹ mặc áo choàng màu xanh có những ánh sao vàng, bên trong là áo dài hồng kết những nụ hồng viền vàng. Chiếc đai lưng màu đỏ tía thắt quanh eo như các thai phụ Aztec vẫn sử dụng.

Đức Mẹ yêu cầu Juan Diego gọi Đức Mẹ là coatloxopeuh (theo tiếng Aztec Ấn độ ở vùng Nahuatl nghĩa là “người đạp rắn”). Về lịch sử, đó là một phần văn hóa Aztec thời đó, hàng năm có ít nhất 20.000 đàn ông, phụ nữ và trẻ em làm vật hy sinh tế thần. Nhờ Đức Mẹ Guadalupe hiện ra với Juan Diego, hàng triệu người đã trở lại Kitô giáo, như vậy việc đạp con rắn là sự sùng bái thần tượng (idolatry). Khăn choàng đầu của Juan Diego được làm bằng sợi thô, không hoàn toàn thích hợp để vẽ. Nghiên cứu khoa học đã tìm hiểu khăn choàng đó từ năm 1666 với các họa sĩ, bác sĩ và khoa học gia. Các phát hiện của họ cho thấy như sau: Các đặc điểm lạ lùng của hình ảnh đó vượt ngoài tầm hiểu biết của khoa học; hình ảnh đó không thể do con người vẽ; màu sắc “kết hợp chặt chẽ” vào thớ vải; chất màu được dùng không rõ nguồn gốc. Hơn nữa, tấm khăn choàng đó làm bằng sợi đặc biệt, chỉ có loại đó còn sau 476 năm.

Renzo Allegri, trong bài viết Messenger of Saint Anthony (Sứ giả của Thánh Antôn), cho biết rằng hiện tượng gây ngạc nhiên nhất đã gợi sự tò mò khoa học quan tâm hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe, quan tâm cái gì đã được phát hiện trong đồng tử mắt của Đức Mẹ. Năm 1929, Alfonso Gonzales, nhiếp ảnh gia của Đền thờ Guadalupe, sau khi nghiên cứu âm bản phim, thấy rằng cái có vẻ là hình ảnh rõ nét một đàn ông có râu phản ánh ở mắt bên phải. Sau hơn 20 năm, một nhiếp ảnh gia khác của Đền thờ Guadalupe là Carlos Chavez đã tuyên bố rằng ông thấy một hình người trong mắt bên trái và mắt bên phải của Đức Mẹ Guadalupe. Từ năm 1956 tới 1958, Rafael Torija Lavoigner thực hiện 5 cuộc nghiên cứu, dùng các loại kính lúp và kính soi đáy mắt (ophthalmoscopes), ông xác nhận có hình người trong hai mắt của Đức Mẹ.

Hiện tượng lạ như vạy trở nên “giật gân” hơn khi mắt Đức Mẹ được nghiên cứu khi dùng các kỹ thuật tinh vi hơn có nối kết với máy vi tính.

Năm 1979, TS Jose Aste Tousman, một kỹ sư giỏi chuyên ngành vi tính ở Hoa Kỳ, đã đến Mexico. Ông là một trong các nhà nghiên cứu hàng đầu về mắt của Đức Mẹ Guadalupe. Allegri viết rằng công việc của TS Tousman làm trong 23 năm là điều khác thường; ông đã dùng các thiết bị cập nhật hóa và tinh vi nhất, các loại mà NASA vẫn dùng để giải mã hình ảnh chụp qua vệ tinh. TS Tousman phóng to hình ảnh mắt của Đức Mẹ Guadalupe tới 2.500 lần, dùng 25.000 màu để minh họa cho mỗi mm vuông.

Sau khi chọn lọc và xử lý hình ảnh kỹ thuật số, TS Tousman phát hiện toàn cảnh được “chụp” trong mắt của Đức Mẹ Guadalupe. Trong đó có khoảng 11 người. Có một người Mexico ngồi xếp hai chân và tóc dài được tết thành đuôi sam. Kế ông là một người đàn ông lớn tuổi, hói đầu, râu trắng, mũi thẳng, lông mày rậm và dài xuống hai má. Đặc điểm này được xác định là ĐGM Juan Zumarraga. Bên trái là người phiên dịch, tức là Juan Gonzales. Có một ông già có râu và ria, mũi to kiểu người La Mã, gò má cao, mắt sâu và môi nửa khép nửa mở – rõ ràng là người Ấn Độ bản xứ – đang mở khăn choàng khi ông quay mặt về phía ông già. Rõ ràng là Juan Diego, đam những đóa hồng trong khăn choàng cho ĐGM. Cũng có những người khác không xác định gồm cha mẹ, ông bà, và 3 đứa trẻ.

Mắt Đức Mẹ đã “chụp” lại tất cả, vì Đức Mẹ biết sự hạn chế của khoa học kỹ thuật thời đó. Đức Mẹ biết điều này sẽ được phát hiện vài trăm năm sau, khi con người có thể sáng chế các thiết bị tiến bộ.

Sứ điệp của Đức Mẹ Guadalupe là gì qua các phát hiện khoa học kỹ thuật? TS Aste Tousman có phản ánh này. Sự hiện diện của những người không xác định kia có thể là sự nhấn mạnh vào tầm quan trọng của gia đình và các giá trị gia đình. Hai người đàn ông da trắng và những người Ấn Độ là sự hiện diện của các dân tộc, có thể đó là việc cảnh báo về việc chống phân biệt chủng tộc và là lời kêu gọi tình huynh đệ. Phát hiện này là lời mời gọi dùng kỹ thuật để phát triển Lời của Đức Kitô.

Juan Diego đã được chân phước Gioan Phaolô II phong thánh tại Mexico. Con người Ấn Độ khiêm nhường và giản dị này không thể nghĩ rằng Phụ Nữ Đẹp Guadalupe mà ông đã nói chuyện ở đồi Tepayac sẽ có nhiều bí mật khác được phát hiện như ngày nay, dự trữ cho các thế hệ tương lai. Trong cách nghĩ đơn giản của ông, ông không thể hiểu thấu điều này. Đủ để nói rằng ông đã vâng lời và yêu mến Đức Mẹ, Đức Mẹ cũng yêu ông vì ông có tâm hồn giản dị và thanh khiết.

Điều này có thể lạ đới với một khoa học gia, nhưng với tôi, bức ảnh gốc thật kỳ lạ. Nghiên cứu hình ảnh là công việc thú vị của đời tôi. Càng nghiên cứu tôi càng có cảm giác lạ như khi nghiên cứu Khăn liệm Turin. Tôi tin cách giải thích hợp lý tới một mức nào đó. Nhưng không có cách giải thích hợp lý đối với cuộc sống. Người ta có thể chia sự sống thành các nguyên tử, nhưng sau đó thì sao? Ngay cả bác học Einstein cũng chân nhận là CÓ THIÊN CHÚA.

PHILIP CALLAHAN (*)

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

(*) Giáo sư Philip Callahan là khoa học gia xuất chúng, ĐH Florida.

10 BÍ QUYẾT GIỮ TÂM BÌNH AN

10 BÍ QUYẾT GIỮ TÂM BÌNH AN
 
 

 

 Sưu tầm

1.  Giảm thời lượng đọc sách báo, xem ti vi.

2.  Tránh xa những cuộc đối thoại tiêu cực và người tiêu cực.

3.  Đừng ôm ấp hận thù và sự giận dữ. Học cách quên lãng và biết tha thứ.

4.  Đừng ganh tị với người khác. Ganh tị có nghĩa là chúng ta có tự trọng thấp, và tự xem mình thấp hơn người khác. Điều nầy một lần nữa làm cho thiếu vắng sự an bình nội tại.

5.  Hãy chấp nhận những gì không  thể thay đổi. Điều nầy tiết kiệm rất nhiều thời gian, năng lượng và lo lắng.

6.  Mỗi ngày chúng ta đối diện với vô số sự phiền phức, sự cáu kỉnh, và những tình trạng ngoài sự kiểm soát. Nếu chúng ta có thể thay đổi chúng,điều ấy thật tốt, nhưng điều nầy không phải luôn luôn có thể thực hiện chúng, phải học gói ghém những thứ như vậy và chấp nhận chúng một cách thân ái..

7.  Hãy học kiên nhẫn hơn và tha thứ bao dung hơn với con người và sự việc.

8.  Đừng ôm lấy mọi thứ một cách quá cá nhân, một số cảm xúc và vô tư tinh thần là đáng mong ước. Hãy cố gắng nhìn cuộc đời chúng ta và những người khác hơi vô tư hơn và ít liên lụy hơn. Vô tư không phải là dững dưng, thiếu sự thích thú hay lạnh lùng. Nó là khả năng để suy nghĩ  và phán đoán công bằng, hợp lý. Đừng lo lắng nếu chúng ta thất bại lần nầy rồi lần nữa trong biểu hiện vô tư. Hãy giữ sự cố gắng .

9 .  Hãy để dĩ vãng trôi vào quên lãng. Hãy quên đi quá khứ và tập trung vào giây phút hiện tại. Không cần phải khơi dậy ký ức không vui và tự đắm mình trong chúng.

10 . Thực hành một số bài thực hành tập trung. Điều nầy giúp chúng ta loại bỏ những suy tư không vui và lo lắng phiền muộn đã đánh cắp tâm tư hòa bình của chúng ta. Hãy thực hành Thiền quán. Ngay cả một vài phút trong một ngày sẽ làm nên sự thay đổi trong đời sống của chúng ta.


nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Ðức Bà Núi Camêlô

Ðức Bà Núi Camêlô

                                                                                                         16 Tháng Bảy

Từ thế kỷ 12, ở núi Camêlô đã có các vị ẩn tu sống gần một suối nước mà Tiên Tri Elijah từng sinh sống ở đây. Họ xây một nguyện đường dâng kính Ðức Mẹ. Cho đến thế kỷ 13, họ được gọi là “Các Tiểu Ðệ của Ðức Bà Núi Camêlô.” Sau đó, họ dành một ngày đặc biệt để mừng kính Ðức Maria. Vào năm 1726, ngày lễ ấy trở nên chính thức trong Giáo Hội hoàn vũ dưới tên Ðức Bà Núi Camêlô. Qua nhiều thế kỷ, các tu sĩ Camêlô tự coi mình có liên hệ đặc biệt với Ðức Maria. Các thần học gia và các thánh vĩ đại của dòng Camêlô thường cổ động lòng sùng kính Ðức Maria và bênh vực cho đặc tính Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Maria.

Thánh Têrêsa Avila gọi Dòng Camêlô là “Dòng của Ðức Trinh Nữ.” Thánh Gioan Thánh Giá cho rằng Ðức Maria đã cứu ngài khỏi chết đuối khi còn nhỏ, đã dẫn dắt ngài đến dòng Camêlô và đã giúp ngài thoát khỏi tù ngục. Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu tin rằng Ðức Maria đã chữa ngài khỏi bệnh. Vào ngày Rước Lễ Lần Ðầu, ngài dâng mình cho Ðức Maria. Trong những ngày cuối đời, ngài thường nói về Ðức Maria.

Có một truyền thuyết nói rằng Ðức Maria đã hiện ra với Thánh Simon Stock, một bề trên Dòng Camêlô, và đã trao cho ngài một khăn choàng, bảo ngài hãy cổ động lòng sùng kính khăn ấy. Khăn choàng là một hình thức biến đổi của áo Ðức Bà. Nó tượng trưng cho sự bảo vệ đặc biệt của Ðức Maria và kêu gọi người mang khăn ấy hãy tận hiến cho ngài trong một phương cách đặc biệt. Hiển nhiên, điều này không có nghĩa được cứu chuộc một cách lạ lùng. Ðúng hơn, khăn choàng nhắc nhở chúng ta nhớ đến lời mời gọi của Phúc Âm là hãy siêng năng cầu nguyện và hãm mình đền tội — là lời mời gọi mà Ðức Maria đã thể hiện một cách tốt đẹp nhất.
Lời Bàn

Ngay từ thuở ban đầu, các tu sĩ dòng Cát Minh thường được gọi là các “Tiểu Ðệ của Ðức Bà Camêlô.” Danh xưng này có nghĩa, các ngài không chỉ coi Ðức Maria như một “người mẹ”, mà còn là một “người chị”. Chữ chị nói lên ý nghĩa Ðức Maria rất gần với chúng ta. Ngài là người con của Thiên Chúa và do đó có thể giúp chúng ta trở nên con cái xứng đáng của Thiên Chúa. Ngài còn giúp chúng ta quý trọng tha nhân như anh chị em mình. Ngài giúp chúng ta nhận thức rằng mọi người đều thuộc về một gia đình của Thiên Chúa. Chỉ khi nào mọi người đều tin tưởng như vậy thì nhân loại mới hy vọng tìm thấy con đường dẫn đến bình an.
Lời Trích

“Nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa mà Giáo Hội đã chấp nhận trong khuôn khổ giáo lý lành mạnh và chính thống, tùy theo khuynh hướng và sự hiểu biết của người tín hữu, để đảm bảo rằng, trong khi người mẹ được tôn vinh thì người Con cũng được nhận biết cách xứng hợp, được kính mến, được vinh danh và các giới răn của Người được tuân giữ, vì qua Người mà muôn vật được tạo thành (x. Col. 1:15-16) và trong Người mà Thiên Chúa Cha hài lòng vì tất cả được viên mãn nơi Người (x. Col. 1:19) (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, 66).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi