Nghệ sĩ Quỳnh Giao qua đời, hưởng thọ 68 tuổi

Nghệ sĩ Quỳnh Giao qua đời, hưởng thọ 68 tuổi
July 23, 2014

Nguoi-viet.com


FOUNTAIN VALLEY, California (NV)
Nghệ sĩ Quỳnh Giao qua đời sáng sớm Thứ Tư, 23 Tháng Bảy, tại nhà riêng ở Fountain Valley, California, sau một thời gian bạo bệnh, hưởng thọ 68 tuổi.

Nhà bình luận Nguyễn Xuân Nghĩa, phu quân của bà, cho nhật báo Người Việt biết.



Cố nghệ sĩ Quỳnh Giao. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Quỳnh Giao tên thật là Nguyễn Ðoan Trang, Pháp Danh Như Nghiêm, sinh năm 1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế, là con gái của nữ danh ca tân nhạc Minh Trang.

Khi mới 5 tuổi, thân phụ của bà qua đời, và người mẹ tái giá với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.

Nghệ sĩ Quỳnh Giao nổi tiếng ngay từ lúc thiếu thời, từng hát trên đài phát thanh quốc gia Sài Gòn, trong các chương trình của Ban Nhi Ðồng Kiều Hạnh.

Nghệ sĩ Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa lớp dương cầm, và được một nhạc sĩ của Trung Tâm Văn Hóa Pháp, Alliance Française, hướng dẫn về thanh nhạc và opera.

Từ tuổi 15, Quỳnh Giao đã trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp, là một trong những ca sĩ quan trọng trong các chương trình của các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Ðội và Tiếng Nói Tự Do.

Trong những năm đầu thập niên 1970, Quỳnh Giao cũng với các em gái là Vân Quỳnh, Vân Khanh và Vân Hòa thành lập ban tứ ca Bốn Phương, chuyên hát tại vũ trường Ritz và thu âm cho các trung tâm băng nhạc Jo Marcel, Phạm Mạnh Cương và Premier.

Bà sang Mỹ năm 1975, định cư đầu tiên tại tiểu bang Virginia, đến thập niên 1990 thì chuyển về sống tại California.

Nghệ sĩ Quỳnh Giao cùng với hai ca sĩ Mai Hương và Kim Tước lập ban Tiếng Tơ Ðồng ở hải ngoại và thu được nhiều thành công.

Ngoài ra, bà luôn luôn hỗ trợ các sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật trong cộng đồng, và cũng cộng tác với nhiều cơ quan truyền thông Việt ngữ. Nghệ sĩ Quỳnh Giao phụ trách mục Câu Chuyện Âm Nhạc trên nhật báo Người Việt và Người Việt TV trong nhiều năm.

Vài tháng cuối đời, vì sức khỏe yếu, bà không còn viết nữa. Tuy nhiên, chỉ cách đây vài tuần, bà đã viết bài viết – có lẽ là cuối cùng trong đời – về âm nhạc Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, cho số báo đặc biệt kỷ niệm 60 Năm Hiệp Định Geneva, đăng trên Người Việt. (Ð.D.)

 

7 kinh nghiệm kinh doanh thành công của Quốc Việt Foods®

7 kinh nghiệm kinh doanh thành công của Quốc Việt Foods®
July 23, 2014

Nguoi-viet.com

Thiên An/Người Việt

ORANGE, California (NV) – Đầu năm 2002, ông Tuấn Nguyễn quyết định nghiên cứu để sản xuất thực phẩm Việt Nam với phẩm chất cao cho người Việt hải ngoại. Quốc Việt Foods®, công ty đầu tay của ông Tuấn Nguyễn và người thân, nhanh chóng chiếm được thị trường, và ngày một lớn mạnh trong suốt 12 năm hoạt động.

Ông Tuấn Nguyễn và một trong những sản phẩm của công ty. (Hình: Thiên An/Người Việt)

Từ những ngày đầu khi ông Tuấn và vợ, bà Theresa Hương Nguyễn, cặm cụi trong garage, hầm hết nồi phở này sang nồi phở khác nhằm tìm ra công thức nấu hoàn hảo nhất, đến nay, cái tên Quốc Việt Foods® và các sản phẩm cốt thực phẩm của công ty đã phổ biến khắp nơi.

Bắt đầu với ba mặt hàng đầu tiên là Cốt Phở Bò®, Cốt Phở Gà®, và Cốt Bún Bò Huế®, phân phối trong một xưởng rộng chưa đến 900 sq ft, công ty Quốc Việt nay sản xuất hơn 16 loại cốt thực phẩm và hàng chục mặt hàng trà thiên nhiên (organic), cà phê hột/xay, cà phê nước và các loại Cốt Sinh Tố™ trái cây. Hiện nay, xưởng sản xuất của Quốc Việt ở thành phố Orange, rộng hơn 32,000 sq ft và đang trong giai đoạn mở mang lớn hơn.

Giá trị tổng số hàng bán ra ước tính vào khoảng $1 triệu mỗi tháng, sản phẩm Quốc Việt xuất hiện ở tất cả các tiểu bang tại Hoa Kỳ.

Hiện nay, hai hệ thống siêu thị của Mỹ là Costco Wholesales® và Albertsons® cũng đang phân phối hàng Quốc Việt. Riêng trong ngành kinh doanh nhà hàng, hàng của Quốc Việt do hệ thống Sysco® Los Angeles và Riverside bán sỉ. Ngoài thị trường Mỹ, công ty phân phối hàng cho nhiều quốc gia khác như Canada, Anh, Na Uy , Hòa Lan, Thụy Sĩ …

“Công ty Quốc Việt tuy là công ty đầu tay của chúng tôi và tuổi đời còn rất mới so với nhiều công ty khác, nhưng chúng tôi có một tham vọng lớn,” ông Tuấn Nguyễn chia sẻ. “Chúng tôi mong rằng, trong một ngày không xa, ai cũng có thể dễ dàng nấu được những món ẩm thực Việt Nam, và chúng ta sẽ có một thương hiệu mà mọi gia đình Việt hay Mỹ đều biết đến và dùng trong bếp để thưởng thức món Việt bất kỳ khi nào họ muốn.”

Ông Tuấn Nguyễn và bà Theresa Nguyễn, hai sáng lập viên và hiện giữ vai trò điều hành của công ty Quốc Việt.(Hình: Thiên An/Người Việt)

Trò chuyện cùng ông Tuấn và bà Theresa, hai sáng lập viên và hiện giữ vai trò điều hành của công ty Quốc Việt, phóng viên ghi lại một số điều mà hai ông bà cho là căn bản để một doanh nghiệp thành công trong thị trường Hoa Kỳ và thế giới.

1-Phải vững kỹ thuật

“Sự khác biệt của Quốc Việt nằm ở kỹ thuật chuyên môn cao,” ông Tuấn nói. Ngoài bằng cao học về Khoa Học Thực Phẩm (Food Science), bản thân ông có hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc cho các công ty thực phẩm tại Hoa Kỳ.

“Những sáng lập viên khác của Quốc Việt cũng là người dày dặn kinh nghiệm trong nghề,” ông Tuấn nói thêm. “Trước khi có hàng bán trên thị trường, Quốc Việt tìm kiếm nhu cầu của thị trường, nghiên cứu và dùng sự hiểu biết về kỹ thuật để tạo ra một sản phẩm hoàn toàn thích hợp với nhu cầu.”

2-Đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng

“Công ty Quốc Việt hiểu được nhịp sống ở Mỹ. Giới trẻ ngày nay không có thời gian nấu ăn. Họ chuyên về công việc của họ, và không giỏi nấu ăn như một đầu bếp, như bà, mẹ chúng ta ngày xưa. Mà thức ăn lại là nhu cầu quan trọng trong cuộc sống hằng ngày,” ông Tuấn nói.

Ông kể lại những ngày chưa thành lập công ty Quốc Việt: “Đi chợ thấy các hộp gia vị giúp nấu món Việt Nam toàn nhập từ nước ngoài và mình trong nghề, mình biết rằng mình có thể làm các loại nước súp cô đặc cho các loại phở và bún Việt Nam ngon hơn và an toàn hơn.”

3-Nắm rõ các luật liên quan

Vị giám đốc công ty Quốc Việt nhấn mạnh việc phải nắm rõ các luật lệ trước khi bắt đầu các kế hoạch kinh doanh. “Luật của Mỹ, không thể nói ‘tôi không biết’ là xong. Người kinh doanh phải tìm hiểu thật kỹ hoặc tìm trợ giúp từ giới chuyên môn để không phải gặp các rắc rối về luật pháp về sau này,” ông chia sẻ.

Ông lấy ví dụ: “Tất cả những tên như Cốt Phở Bò®, Cốt Phở Gà® của công ty Quốc Việt đã được đăng ký bản quyền cho các loại nước cốt cô đặc.* Bất kỳ những công ty khác đều không được sử dụng những tên này nếu không có phép. Vì những tên này trở nên phổ biến trong những năm qua do Quốc Việt đã bỏ ra một số tiền rất nhiều để quảng bá. Đây không phải là một danh từ chung hay nhóm từ chung như một số khách hàng nghĩ. Hiện nay, Quốc Việt đã đăng ký bản quyền cho hơn 30 tên sản phẩm của Quốc Việt và một số công ty khác phạm lỗi và đang sử dụng mà không biết mình đang vi phạm bản quyền.”

“Việc hiểu rõ các luật lệ và quy định đặc biệt cần thiết khi làm việc với các đối tác lớn,” ông Tuấn nhấn mạnh.

Quốc Việt không ngần ngại chia sẻ kinh nghiệm khi tham gia vào hệ thống bán hàng của Costco Wholesale®.

Ông nói: “Những hệ thống này có quy định gắt gao và giai đoạn kiểm định hàng hóa rất kỹ. Giấy tờ rất nhiều, mình phải tìm hiểu kỹ. Họ sẽ dùng một công ty độc lập đến để kiểm tra trước khi ký hợp đồng, về mọi mặt, từ hàng hóa đến cách chăm sóc nhân viên… Mình phải tuân thủ luật lệ và tất cả các tiêu chuẩn lao động.”

4-Đặt chữ tín hàng đầu

Vị giám đốc cho biết: “Từ ngày thành lập, đường lối kinh doanh của công ty không thay đổi. Nếu hàng bị hư hại vì bất kỳ lý do gì, chúng tôi sẽ đổi cho khách. Chất lượng phải được bảo đảm 100%.”

Có lẽ vì thế mà khi phóng viên hỏi có sự khác biệt giữa khách hàng Mỹ và khách hàng Việt không, ông Tuấn trả lời ngay: “Công ty không phân biệt Mỹ hay Việt hay những sắc dân khác. Khi mình phục vụ, mình phục vụ tất cả. Mình không nghĩ là người Việt thì dễ chịu và Mỹ thì khó. Phải phục vụ tối đa. Muốn cạnh tranh được với tất cả các công ty khác thì cách phục vụ phải bảo đảm cho từng khách hàng đều hài lòng.”

5-Kiên nhẫn để thu phục khách hàng mới

Bà Theresa chia sẻ: “Các ý kiến đóng góp của khách đều phải được lắng nghe. Cách làm việc của chúng tôi tốt hơn cũng nhờ góp ý của khách hàng. Ngay cả sản phẩm cũng vậy, các loại nước súp cô đặc trước khi xuất hiện trên thị trường đều được khảo sát ý kiến ẩm thực của rất nhiều người.”

“Vạn sự khởi đầu nan,” bà nói.

Ông Tuấn kể lại những năm đầu đầy khó khăn khi Quốc Việt mới đưa ra những sản phẩm đầu tay.

“Lúc đầu còn quá mới, công ty phải có quảng cáo ‘demo’ nấu cho khách ăn vào mỗi cuối tuần để giới thiệu sản phẩm cho cộng đồng. Mình phải bình tĩnh giải thích đây không là hóa chất, mà là những nguyên liệu tự nhiên qua công nghệ của các nhà khoa học thực phẩm được chế biến để có thể lưu trữ trong nhiều năm và không dùng hóa chất,” ông chia sẻ.

Ông nói tiếp: “Các bác nói là mấy năm trên kệ mà không hư là phải có chất bảo quản, Quốc Việt phải giải thích khoa học thực phẩm cho các bác. Đó là, vi khuẩn không thể sống mà không có nước, mình tách nước ra khỏi các nguyên liệu thì thức ăn sẽ không hư hại. Mình phải giải thích khoa học sao cho dễ hiểu, rồi mấy bác mới tin được.”

“Tụi này quảng cáo như vậy khoảng gần một năm. Giới trẻ trong độ tuổi đi làm hoặc có con nhỏ, họ chịu thử. Họ thích sản phẩm và sẵn sàng mua và dùng nhiều. Họ chính là người giới thiệu và giải thích lại cho các bác nghe. Sau đó các bác lại giới thiệu cho nhau tìm Quốc Việt để mua. Sau khoảng hai năm đầu, hàng hóa bắt đầu đều đặn được các chợ nhận vào,” ông Tuấn thổ lộ.

Ông thêm: “Khi bắt đầu, các chợ chưa có dạng hàng nước lèo cô đặc như của Quốc Việt. Giá thành nước cốt cô đặc sản xuất ngay tại Mỹ chắc chắn đắt hơn giá gia vị của các nước nhập vào. Ban đầu, các chợ không chịu bán, chê đắt. Nay thì nhiều chợ lại dùng sản phẩm Quốc Việt để bán khuyến mãi nhằm thu hút khách hàng đến chợ mình.”

6-Đừng ngại giúp đỡ cộng đồng

Bà Theresa, cũng phụ trách đối ngoại cho Quốc Việt, chia sẻ: “Hàng năm, công ty ủng hộ cộng đồng bằng nhiều cách, giúp nhiều hội đoàn, tham gia vào các sinh hoạt của chùa, nhà thờ… Mình kinh doanh lâu dài mà, đâu phải ngày một ngày hai, quan hệ với cộng đồng rất quan trọng với công ty Quốc Việt.”

Sắp tới, đích thân hai ông bà dùng xe tải của công ty để làm thiện nguyện tại Đại Hội Thánh Mẫu ở Missouri. Tại đây, công ty Quốc Việt sẽ làm 30,000 ly sinh tố để gây quỹ giúp một ca đoàn thiếu nhi có tiền tham dự sự kiện này. Được biết, ca đoàn gồm gần 100 em nhỏ từ California sang trình diễn nhạc.

“Trước đây cha mẹ các em phải bỏ tiền túi ra. Lần này, Quốc Việt hy vọng gây quỹ đủ để giúp chi phí cho các em. Cho một rồi mai này mình nhận được mười,” bà Theresa nói.

7-Đam mê thực sự

“Khi đó, mấy người chúng tôi có ít vốn lắm. Mấy ai làm kinh doanh mà dám chắc 100% mình sẽ thành công. Nhưng không hiểu sao khi đó chúng tôi không hề nghĩ đến thất bại. Niềm đam mê quá lớn khiến mình chỉ nghĩ đến mục tiêu và tập trung vào làm cho bằng được mới thôi,” ông Tuấn Nguyễn chia sẻ.

“Đi làm hãng Mỹ, cứ cuối tuần là anh Tuấn đi chợ mua cả chục kí thịt và xương nấu phở đến nỗi người bán nói ‘sao nhà mê ăn phở dữ vậy?'” bà Theresa cười, kể. “Cô con gái của chúng tôi khi đó mới một, hai tuổi thôi, rất thích ăn phở và từ bé đến giờ cũng vẫn mê nhất món này. Chúng tôi hay gọi đùa bé là ‘Phở Girl’ của bố mẹ.”


Liên lạc tác giả: vu.an@nguoi-viet.com

*Tất cả các tên công ty và tên nhãn hiệu đã đăng ký và có bản quyền (Registered Trademarks) liên bang Hoa Kỳ nêu trong bài viết là tài sản sáng kiến (Intellectual Property) của công ty Quốc Việt Foods®, Costco Wholesales®, Albertsons® và Syco®.

 

Một Giấc Mơ

Một Giấc Mơ

Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 và là người sáng lập viên của dòng Nữ Tử thừa sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo và hấp hối, đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:

“Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường.  Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng.  Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng.

Ngài nói như sau: “Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng.  Thiên Ðàng không có nơi cùng khổ”.

Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng”.

Tội nghiệp thánh Phêrô.  Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho ngài được ở yên phút nào.  Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu.  Thiên Ðàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ…

Giai thoại trên đây của Mẹ Têrêxa Calcutta như muốn nói lên một chân lý : không ai nên Thánh một mình, không ai lên Thiên Ðàng một mình.

Ðức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình tại Hoa Kỳ, đã có lần phát biểu như sau: “Không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng, nếu ở đó không có ai nói với chúng ta : chính tôi đã giúp đỡ để bạn được vào Thiên Ðàng”.

Ai cũng có thể là một trợ giúp để đưa chúng ta vào cửa Thiên Ðàng.

*        Họ có thể là những người cùng khổ mà chúng ta chìa tay để san sẻ, để giúp đỡ.

*        Họ cũng có thể là những người cách này hay cách khác làm cho chúng ta đau khổ.

*        Nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những người chúng ta cố gắng làm cho hạnh phúc.

Chính những người đó là kẻ giúp đỡ chúng ta được vào Thiên Ðàng.  Nhưng Thiên Ðàng không đợi chờ ở đời sau.  Hạnh phúc cũng không chỉ dành lại cho đời sau, Thiên Ðàng và Hạnh Phúc có thể đến với chúng ta ngay từ cõi đời này.

Và Thiên Ðàng và Hạnh Phúc ấy là gì nếu không phải là mỗi lần chúng ta cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Canada kiện Việt Nam bán phá giá thép mạ kẽm

Canada kiện Việt Nam bán phá giá thép mạ kẽm
July 22, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV)Các nhà sản xuất của Canada vừa kiện Việt Nam cùng với một số quốc gia xuất cảng thép mạ kẽm bán phá giá vào nước này.

Sáng ngày 22 tháng 7, 2014, Cục Quản Lý Cạnh Tranh của Bộ Công Thương Việt Nam xác nhận tin nói rằng, loại thép mạ kẽm của Việt Nam bị nhà sản xuất của Canada kiện bán phá giá. Ngoài Việt Nam, loại thép mạ kẽm của các quốc gia khác như Ðài Loan, Ấn Ðộ, Indonesia, Philippines, Nam Hàn, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine cũng bị kiện tương tự.


Thép Việt Nam xuất cảng bị kiện bán phá giá. (Hình: web: chongbanphagia.vn)

Theo phúc trình của Cục Quản Lý Cạnh Tranh của Bộ Công Thương Việt Nam thì đây là vụ điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp thứ hai mà Canada nhắm vào Việt Nam, và là vụ thứ bảy mà Việt Nam bị kiện trên thế giới theo luật chống trợ cấp.

Trước đó, máy biến thế của Việt Nam cũng đã bị Canada đệ nộp hồ sơ kiện bán phá giá. Trong vài năm trở lại đây, có nhiều loại sản phẩm của Việt Nam bị các nước kiện bán phá giá, từ đinh thép cho đến con tôm, cá basa…

Tài liệu của trang web chongbanphagia.vn cho hay, riêng trong vụ thép mạ kẽm này, nguyên đơn là công ty tư nhân trách nhiệm hữu hạn BlueScope Steel của Úc. Công ty này cho rằng, Việt Nam đã xuất cảng hàng sang Úc với giá thấp hơn giá trị thông thường, và việc bán phá giá này gây thiệt hại đáng kể cho ngành công nghiệp của Úc, như suy giảm lợi nhuận, suy giảm tỉ lệ hoàn vốn đầu tư, giảm việc làm, giảm khả năng tăng vốn tái đầu tư. Ðơn kiện cũng nói rằng, Việt Nam đã xuất cảng sang Úc khoảng 12,524 tấn thép cuộn cán nguội, chiếm gần 7% thị phần nhập cảng của Úc.

Báo mạng VOV của Việt Nam cho biết, mới đây thôi, đinh thép Việt Nam bị công ty Hoa Kỳ kiện bán phá giá. Ðây là vụ kiện “Chống bán phá giá và chống trợ cấp” thứ tư của các nhà sản xuất của Hoa Kỳ nhắm vào các sản phẩm Việt Nam, sau túi nhựa, ống thép hàn carbon, mắc áo bằng thép.

Trong các vụ kiện như thế, mức thuế đánh vào sản phẩm của Việt Nam nhập cảng vào Hoa Kỳ có thể bị đẩy lên rất cao, bao gồm thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp. (PL)

 

Nước khoáng ở Tân Sơn Nhất lấy từ… toa lét?

Nước khoáng ở Tân Sơn Nhất lấy từ… toa lét?
July 22, 2014

Nguoi-viet.com
SÀI GÒN (NV) Sáng ngày 21 tháng 7, 2014, xuất hiện trên mạng hình chụp một nhân viên chuyền nước từ vòi ở phòng vệ sinh nam vào bình nước khoáng tinh khiết, tại phi trường Tân Sơn Nhất.

Tấm hình được một hành khách chụp được, sau đó tung lên mạng, đã gây chấn động dư luận. Nhiều người phẫn nộ cho rằng, Công Ty Dịch Vụ tại Tân Sơn Nhất làm ăn tắc trách khi cho một nam nhân viên, làm việc tại khu vực quốc nội của phi trường, chuyền nước từ vòi trong nhà vệ sinh nam vào bình nước khoáng.


Ảnh chụp nhân viên Dịch Vụ Sân Bay Tân Sơn Nhất chuyền nước vào bình nước khoáng từ vòi trong phòng vệ sinh nam của phi trường. (Hình: báo Zing)

Cách đó chưa đầy một tuần lễ, đáp ứng lời kêu gọi của Cục Hàng Không Việt Nam, đại diện Cảng Hàng Không Tân Sơn Nhất khoe sẽ lắp ngay hai trụ cung cấp nước uống miễn phí cho hành khách ra, vào phi trường Tân Sơn Nhất. Báo Dân Trí dẫn lời đại diện Cảng Hàng Không Tân Sơn Nhất cho biết, hai trụ nước uống sẽ được đặt tại khu vực cách ly của nhà ga quốc tế và quốc nội để phục vụ hành khách đến và đi từ sân bay.

Ðây là một trong một số biện pháp được cho là “cải cách” để phục vụ hành khách của Cảng Hàng Không Tân Sơn Nhất. Biện pháp được áp dụng đồng thời với sự kiện này là việc giảm giá thức ăn, nước uống giải khát bán tại các cửa hàng ở Tân Sơn Nhất kể từ ngày 15 tháng 7, 2014.

Một bức ảnh khác còn cho thấy có 5 bình nước khoáng đã được đong đầy, đặt trên xe đẩy có lẽ chờ mang ra ngoài lắp vào trụ cung cấp nước uống miễn phí của sân bay.

Theo báo mạng Tri Thức, một cán bộ đại diện trung tâm thương mại dịch vụ SASCO của sân bay xác nhận, bức ảnh trên chụp được hôm 21 tháng 7 tại nhà vệ sinh nam của nhà ga quốc nội. Tuy nhiên, ông này biện minh rằng, nhân viên của ông lấy nước đựng trong bình nước khoáng, mang đến khu vực đang sửa chữa nhà ga quốc nội để… rửa sàn, chứ không phải để dùng làm nước uống cho khách hàng tại sân bay. Ông này cho hay, đã chỉ thị nhân viên của công ty dùng sô để đựng nước lau rửa sàn, thay vì đựng trong bình nước khoáng, để tránh bị hiểu lầm.

Lời giải thích nói trên của cán bộ có trách nhiệm thực hiện các dịch vụ phục vụ khách hàng tại Tân Sơn Nhất càng làm dư luận hoang mang, vì không mấy người tin đó là sự thật.

Trước đó, người dân phản đối mạnh khiến một số công ty đã phải giảm khoảng 15% giá một số món ăn, thức uống bán tại khu vực cách ly của phi trường Tân Sơn Nhất, trong đó có SASCO. Giá một tô phở từ 65,000 đồng, tương đương 3 đô la, giảm xuống còn 55,000 đồng, tương đương 2.2 đô la, cho phù hợp với túi tiền của phần đông khách hàng Việt Nam. (PL)

 

Chuyện cảnh sát giao thông và người dân

Chuyện cảnh sát giao thông và người dân

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-07-21

07212014-traffic-poli-n-peop.mp3

Cảnh sát giao thông, bạn dân. Ảnh minh họa

Cảnh sát giao thông, bạn dân. Ảnh minh họa

Photo soha.vn

Với một quốc gia bất kì và bình thường nào nhất, cảnh sát là lực lượng bảo an của nhân dân và là biểu tượng về an ninh của xã hội, đặc biệt, lực lượng cảnh sát giao thông luôn là tiêu điểm để hướng đến một trật tự chung nhằm duy trì an toàn trong lưu thông.

Nhưng, ở Việt Nam, trong thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa, lực lượng cảnh sát nói chung và cảnh sát giao thông nói riêng chưa bao giờ nắm giữ đúng vai trò và chức năng này. Với người dân, lực lượng cảnh sát giao thông luôn là nỗi ám ảnh và khi bóng áo vàng xuất hiện trên đường, sự rối loạn cũng xuất hiện đồng thời.

Người dân luôn lo sợ bởi cảnh sát

Một cư dân quận 7, Sài Gòn, tên Phúc, chia sẻ: Không riêng gì cảnh sát giao thông mà mọi thứ công cụ cảnh sát khác đều khiến dân sợ hãi hết. Dân họ cúi đầu lặng lẽ sống để được yên ổn. Trong cách sống người Việt Nam mình vậy thôi, người ta khinh bỉ và sợ hãi nhưng yên lặng để sống yên ổn. Một khi nó thổi thì không lỗi thì cũng thành có lỗi!

Theo ông Phúc, nếu như những năm trước 1975 ở Sài Gòn, hình ảnh người quân cảnh luôn làm cho người dân yên tâm mỗi khi ra đường. Đặc biệt, nếu gặp cướp, chỉ cần la to hai chữ “quân cảnh” thì nhất định tên cướp có ăn gan trời cũng phải chùng tay trong phút chốc để quan sát. Hoặc nếu lúc đó có quân cảnh ở gần đó thì bằng mọi giá, lực lượng quân cảnh cũng truy lùng cho được tên cướp để đưa về bốt. Còn Sài Gòn những năm sau 1975 thì hoàn toàn khác, mọi sự rối loạn nhen nhóm hình thành và cuối cùng là bùng phát dữ dội.

Hiện tại, nếu ra đường gặp cướp, dù có đang bị cướp ở vị trí rất gần đồn công an thì người dân cũng chỉ bằng mọi giá giữ lấy sinh mạng và tài sản nếu được, chuyện hô to kêu cứu chỉ có giá trị nếu gặp một vài cảnh sát chìm nào đó còn lương tri, họ sẽ truy đuổi, nếu không gặp những cảnh sát chìm như thế, chuyện mất mát là đương nhiên. Mà Sài Gòn hiện tại, lực lượng cảnh sát chìm có mặt trên mọi nẻo đường nhưng họ có mặt không phải để duy trì an ninh cho nhân dân mà là để đề phòng và phát hiện những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng. Chính vì thế, khi có một cuộc biểu tình nhỏ vừa diễn ra thì ngay lập tức có công an bao vây và dập tắt. Số lượng công an chìm nổi nhiều vô kể.

Cảnh sát giao thông trên đường di sản Hà-Nội. RFA

Cảnh sát giao thông trên đường di sản Hà-Nội. RFA

” Không riêng gì cảnh sát giao thông mà mọi thứ công cụ cảnh sát khác đều khiến dân sợ hãi hết. Dân họ cúi đầu lặng lẽ sống để được yên ổn. Trong cách sống người Việt Nam mình vậy thôi, người ta khinh bỉ và sợ hãi nhưng yên lặng để sống yên ổn. Một khi nó thổi thì không lỗi thì cũng thành có lỗi!

Một cư dân quận 7″

Nếu so sánh giữa mức độ kêu cứu khi gặp cướp và mức độ hô hào biểu tình của một nhóm nhỏ, bao giờ mức độ kêu cứu cũng có cường độ âm thanh to và khẩn cấp hơn nhiều. Thế nhưng tiếng kêu cứu bị bỏ ngoài tai công an, cảnh sát nhưng tiếng hô của người biểu tình sẽ được phát hiện ngay tức khắc, thậm chí không hô, chỉ trương khẩu hiệu, biểu ngữ vẫn bị phát hiện như thường. Đó là trường hợp ngành công an nói chung, nếu xét riêng ngành công an giao thông thì mức độ gây sợ của họ đối với người dân còn cao hơn nhiều.

Bất kì con đường nào đang có xe cộ lưu thông một cách bình thường, nhịp nhàng, chỉ cần những áo vàng xuất hiện cộng thêm vài áo xanh của cảnh sát cơ động thì mọi chuyện trở nên phức tạp, người đi đường trở nên bất an, nháo nhào và dáo dác…
Trong một số trường hợp, cảnh sát giao thông chơi trò núp lùm, ngồi trong các bụi cây để bắn tốc độ hoặc ngồi phục kích ở những vị trí khuất tầm mắt, đợi cho các cô nữ chạy xe ngang qua thì nhảy xổ ra thổi còi một phát nghe đinh tai nhức óc và chỉ thẳng gậy vào mặt đối phương, làm cho đối phương bị bất ngờ, khủng hoảng tâm lý trong giây lát và dừng xe, không hiểu chuyện gì. Sau đó là hàng loạt cáo buộc của cảnh sát đối với người đi đường mà nếu người đi đường biết điều nhét cho cảnh sát vài trăm ngàn thì mọi chuyện sẽ êm xuôi, chuyến đi được tiếp diễn.

Và cứ như thế, nạn mãi lộ đối với cảnh sát giao thông trở thành một hoạt động thường nhật ở Việt Nam, nơi nào có cảnh sát giao thông, tất nhiên nơi đó có mãi lộ, việc mãi lộ đã ăn sâu vào tiềm thức và lâu ngày, trở thành một loại văn hóa của dân tộc. Hay nói cách khác, sợ cảnh sát giao thông khi ra đường đã trở thành một loại tâm lý tập thể của người Việt.

” Ai cũng mong được đứng đường. Việc đứng đường của cảnh sát giao thông là một cơ hội ăn nên làm ra, nó cũng giống như một cô gái điếm thì phải ra đường đứng vẫy khách, một công an giao thông phải ra đường, phải chỉ gậy mới có thể kiếm ăn, mới ăn nên làm ra, có của dư của để”

Đầu tư để được đứng đường

Một cựu nhân viên ngành công an giao thông, yêu cầu giấu tên, chia sẻ: Mãi lộ cũng là thứ tham nhũng nhỏ nhỏ thôi chứ gì đâu. Đại khái là thứ tham nhũng nhỏ nhỏ đó nó đã tràn ngập xã hội rồi. Không phải nghĩa là có cảnh sát giao thông lả an toàn mà không có thì không an toàn. Người đi đường mà ý thức thì không có cảnh sát giao thông cũng tốt thôi! Cảnh sát nó núp trong lùm cây nó bắn tốc độ, đâu cần ở xa, ngay ở Sài Gòn, cảnh sát đầy đường đầy sá mà trộm cắp, cướp giật như rươi vậy thôi!

Theo ông này, tuy cảnh sát giao thông phải núp lùm, phải đứng đường và đại đa số là tạo ra hình ảnh xấu trong mắt nhân dân và có thể bị nhân dân phản ứng, đánh đập hoặc đánh đập nhân dân bất kỳ giờ nào nhưng đã là cảnh sát giao thông, ai cũng mong được đứng đường. Việc đứng đường của cảnh sát giao thông là một cơ hội ăn nên làm ra, nó cũng giống như một cô gái điếm thì phải ra đường đứng vẫy khách, một công an giao thông phải ra đường, phải chỉ gậy mới có thể kiếm ăn, mới ăn nên làm ra, có của dư của để.

” Chỉ cần được đứng ở các trạm này, mỗi đêm, thu nhập của mỗi cảnh sát thấp nhất cũng được năm triệu đồng, nếu trúng thì con số lên mười triệu, thậm chí vài chục triệu nếu bắt trúng những xe chở hàng lậu hoặc động vật quí hiếm. Cứ chia ca với nhau, mỗi người đứng từ một đến ba đêm và ba ngày mỗi tuần”

Chính vì vậy mà phần đông các cảnh sát giao thông có đạo đức trong ngành hoặc cô thế, bị trù dập đều phải ngồi văn phòng đến mòn ghế và ăn lương chay ba đồng ba cọc, khó có cơ hội mà phất lên được. Còn những cảnh sát giao thông biết ăn chia, biết liều lĩnh và biết ép phạt đều tìm cách để được đứng đường. Thậm chí có những trạm đứng đường như trạm Hàng Xanh, trạm số 2 Thủ Đức là những trạm mà muốn được đứng đó, các cảnh sát phải tự đấu giá ngầm với nhau, phải chung chi tiền tỉ mỗi năm để được đứng đường.

Chỉ cần được đứng ở các trạm này, mỗi đêm, thu nhập của mỗi cảnh sát thấp nhất cũng được năm triệu đồng, nếu trúng thì con số lên mười triệu, thậm chí vài chục triệu nếu bắt trúng những xe chở hàng lậu hoặc động vật quí hiếm. Cứ chia ca với nhau, mỗi người đứng từ một đến ba đêm và ba ngày mỗi tuần. Có thể nói con số thu nhập của các cảnh sát này là con số khủng. Bởi chỉ cần một chiếc xe tải bình thường đi qua trạm, nếu có chở hàng thì cách gì cũng dừng lại để chung từ hai trăm đến năm trăm ngàn đồng. Mà lưu lượng xe trung bình trên đường phải là con số hàng ngàn chiếc, cứ như vậy nhân lên sẽ thấy ngay thu nhập của các cảnh sát đứng đường.

Đó là chưa nói đến những vụ tai nạn giao thông được dàn xếp “công bằng” bởi cảnh sát giao thông, họ cũng được hưởng đậm trong các vụ tai nạn. Và sở dĩ ngành cảnh sát giao thông có thể ăn tàn bạo mà không nói được gì là vì trên một tuyến xe, tất cả mọi trạm đều có chung chi cho cảnh sát giao thông, vì phải chung chi, người chủ xe buộc phải độn thêm hàng cho quá trọng tải cho phép mới bù được khoản chung chi này, mà một khi đã độn thì cái lỗi đã đeo trước ngực nên không chung không được. Ngược lại, nếu không độn quá tải thì sẽ bị hạch họe đủ thứ, từ cái còi cho đến cái đèn, gương chiếu hậu và giấy phép lái xe, cảnh sát sẽ hạch họe bao giờ lòi ra lỗi mới thôi.

Chính vì thế, với người dân, cảnh sát giao thông nói riêng và công an nói chung là một thứ gì đó đáng kinh sợ và luôn gây rối loạn, bất an trên đường đi cũng như trên đường đời.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

 

Nếu Đảng vì tổ quốc thì mọi việc đã khác !

Nếu Đảng vì tổ quốc thì mọi việc đã khác !

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-07-22

07222014-vn-comm-at-turn-poin.mp3

Lá cờ đỏ sao vàng

Lá cờ đỏ sao vàng

AFP

Trung Quốc âm mưu thôn tính biển Đông khóa chặt Việt Nam trong vòng lệ thuộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng giữa ngã ba lịch sử, thân Trung Quốc để giữ đảng và vai trò độc quyền cai trị hay chấp nhận cải tổ chính trị, dân chủ hóa đất nước tìm chỗ dựa bảo vệ chủ quyền.

Liên minh và không liên minh

Sự kiện Nhà nước Việt Nam khẳng định không liên minh với ai để chống nước thứ ba, được các nhà phản biện gọi là sự không tưởng trong tư duy chiến lược, hoặc biểu lộ sự nhu nhược chủ hòa với kẻ xâm lăng bá quyền Trung Quốc.

Ông Lê Phú Khải, nhà báo kỳ cựu từng ở trong guồng máy thông tin tuyên truyền của nhà nước Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

“ Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được, chưa nhìn thấy rõ kẻ thù thâm độc như thế nào, vẫn còn lấn cấn không thoát Trung ra được, không dứt khoát nên mới đưa ra chiến lược như thế.”

Theo ông Nguyễn Trung, một cựu Đại sứ của chế độ Hà Nội, Việt Nam trong thể chế hiện nay, nếu có nài xin cũng chẳng có nước nào muốn liên minh. Trong bài viết được phổ biến trên các trang mạng xã hội, ông Nguyễn Trung cho rằng: “… Nếu dân tộc ta, nước ta còn chưa đủ bản lĩnh sống vì chính ta, thì ai dám liên minh với ta? Xin hãy tự hỏi mình: Bản thân chúng ta có dám kết thân với kẻ ba, bốn mặt, hư, ăn bám và èo uột không.”

” Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được

nhà báo Lê Phú Khải”

Cùng về vấn đề liên quan, TS Phạm Chí Dũng thành viên sáng lập Hội Nhà Báo Độc Lập từ TP.HCM phân tích:

“ Trừ phi người Việt Nam biến thành người Philippines và tự đứng bằng đôi chân của mình và sau đó thì mới nhờ tới người Hoa Kỳ. Khi người Hoa Kỳ thấy người Philippines tự đứng bằng đôi chân của họ, tự dám bắt tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải thì lúc đó Manila mới có được Hiệp định tương trợ quốc phòng đối với Mỹ. Còn Việt Nam bản lĩnh quá kém, cả thế giới coi thường không muốn có bất kỳ mối tương trợ quân sự nào về mặt thực chất, cho dù Việt Nam đã có hàng chục đối tác chiến lược toàn diện mà trong đó đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất, có ý nghĩa nhất chính là Trung Quốc và Trung Quốc đang trở mặt với Việt Nam.”

Trong bài viết góp ý với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới được phổ biến trên mạng, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cảnh báo những kịch bản đen tối nhất có khả năng xảy đến cho Việt Nam. Ông Nguyễn Trung kêu gọi Đảng đấu tranh, cắt đứt cái thòng lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực, cũng như sự cám dỗ của của mọi lợi ích tội lỗi, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân. Từ đó Việt Nam cùng các nước trong khu vực tranh đấu thắng lợi trước bá quyền Trung Quốc, tránh được chiến tranh. Vẫn theo ông Nguyễn Trung, nếu chọn lựa con đường này, chế độ toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó sẽ không còn nữa, Đảng CSVN phải trở thành một đảng khác, hoặc sẽ không tồn tại nữa.

Không còn cách nào khác

Trò chuyện với chúng tôi, nhà báo Lê Phú Khải nhận định:

“ Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh. Đây là điều Đảng Cộng sản Việt Nam phải lựa chọn không có cách nào khác.”

” Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh

nhà báo Lê Phú Khải”

Đáp câu hỏi của chúng tôi là, có khả năng nào cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam vào kỳ Đại hội Đảng lần thứ XII sắp tới sẽ chọn lựa tổ quốc thay vì độc quyền cai trị. Nhà báo Lê Phú Khải nhận định:

“ Đây là câu hỏi khó vì nó là chính trị, nó biến động, đa dạng và nó bất ngờ, không ai có thể đoán được. Nhưng tôi nghĩ và theo những gì tôi cảm nhận được thì Đảng Cộng sản không thay đổi đâu, bây giờ số phận của đất nước tùy thuộc vào nhân dân thôi.”

Vận mệnh đất nước đang ở trong tay nhân dân như cách nhìn thế sự của nhà báo lão thành Lê Phú Khải. Nhưng nhân dân đâu có quyền lực cũng chẳng có lãnh tụ để đấu tranh. Tuy vậy ông Lê Phú Khải nói là ông vẫn tin vào xu thế thay đổi của thời đại. Ông nói:

“ Tôi nghĩ là thời đại này là thời đại thông tin, xã hội dân sự nó sẽ hình thành và nó sẽ phát triển, nhưng tất nhiên sẽ chậm. Dân trí như thế này thì nó chậm nó lâu, còn nếu đảng cầm quyền đứng ra cải tổ thì nó mau. Nhất định xu thế của thời đại là xu thế dân chủ rồi. Ngay cả Trung Quốc cũng không mạnh và chế độ toàn trị cũng không mạnh, sớm muộn cũng phải thay đổi không thể như thế này mà tồn tại được.”

Khi cảnh báo với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cũng đề cập tới khả năng Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường chủ hòa theo kiểu đầu hàng, không kiện ra quốc tế, chấp nhận đàm phán song phương cho vấn đề Biển Đông, gác tranh chấp cùng khai thác, để tạm thời tránh được chiến tranh bảo vệ quyền lực và tài sản của riêng họ. Ông Nguyễn Trung gọi cách chủ hòa như thế là phương án chấp nhận chết dần từng nấc về thể xác, nhưng chết ngay và chết hẳn về nhân cách một quốc gia, một dân tộc. Nhân dân Việt Nam sẽ phản kháng quyết liệt và dù Đảng có dùng nội chiến để đàn áp nhân dân đi nữa, thì theo vị cựu Đại sứ, trước sau và cuối cùng vẫn sẽ là cái chết nhục nhã của quyền lực.

Về phần nhà báo Lê Phú Khải, ông nói  người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận đầu hàng Trung Quốc dưới bất cứ hình thức nào. Cho nên sẽ là thảm họa khi nhân dân không còn chấp nhận chính phủ của mình.

 

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

Nghe (20:24)

RFI

Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Trọng Nghĩa

Sau hơn hai tháng cho giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngoài Biển Đông, khuấy động quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội, ngày 15/07/2014 vừa qua, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam. Quyết định – được Bắc Kinh loan báo một hôm sau đó – đã làm cho tình hình bớt căng thẳng – nhưng cũng làm dấy lên nhiều câu hỏi về dụng tâm thực sự của Trung Quốc.

Giới chuyên gia đều ghi nhận là việc Bắc Kinh « cho rút » giàn khoan diễn ra ít lâu sau khi Thượng viện Mỹ, trong một cử chỉ hiếm thấy, đã bỏ phiếu nhất trí thông qua một Nghị quyết lên án hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và yêu cầu Bắc Kinh trả lại hiện trạng cho khu vực, và sau một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Quyết định rút sớm hơn thời hạn dự trù ban đầu cũng được đưa ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Khối ASEAN và các đối tác tại Miến Điện, đặc biệt là hội nghị thường niên của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), trong bối cảnh có tin là Mỹ sẽ nêu bật các hành động của Trung Quốc.

Còn đối với Việt Nam, việc Trung Quốc hạ nhiệt căng thẳng cũng diễn ra vào lúc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị hội nghị bàn về Biển Đông và cân nhắc khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế.

Trong những ngày qua, đã có rất nhiều chuyên gia phân tích về động thái hạ nhiệt của Trung Quốc ngoài Biển Đông. Hôm nay, RFI xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông tại trường Đại Học Maine, Hoa Kỳ.

Đối với Giáo sư Long, tham vọng khống chế toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi, và Việt Nam vẫn là đối tượng cần tấn công để thực hiện ý đồ đó. Theo Giáo sư Long, quyết định rút giàn khoan còn nằm trong một âm mưu lôi kéo Việt Nam vào con đường đàm phán song phương để giải quyết căng thẳng do chính Bắc Kinh tạo ra, đồng thời thúc giục Việt Nam từ bỏ ý định kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về vấn đề Biển Đông.

Đó là những cái bẫy mà Việt Nam không nên rơi vào nếu muốn bảo vệ lợi ích dân tộc.

Mời quý vị nghe toàn văn bài phỏng vấn Giáo sư Ngô Vĩnh Long.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long – Đại học Maine (Hoa Kỳ)

 

21/07/2014
by Trọng Nghĩa

 

Nghe (19:59)

 

 

 

Giàn khoan đến và đi đều nhằm mục tiêu chính trị : Uy hiếp Việt Nam

Ngay từ đầu khi Trung Quốc cắm giàn khoan cách đảo Tri Tôn khoảng 18 dặm, và nói rằng nó hoạt động trong vùng biển “không có tranh chấp” của quần đảo Hoàng Sa “của Trung Quốc”, lý do chính là lý do chính trị : Uy hiếp Việt Nam, đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cũng như để dò xét phản ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Động thái dịch chuyển giàn khoan hiện nay của Trung Quốc cũng là để thử xem phản ứng của Việt Nam và của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, để Trung Quốc quyết định các bước tiếp theo.

Nếu Trung Quốc thực sự rút giàn khoan về đảo Hải Nam, đó cũng là để chứng minh rằng Trung Quốc đã hoặc đang hạ nhiệt, do đó Việt Nam không nên kiện Trung Quốc nữa mà nên đàm phán tay đôi với Trung Quốc.

Hạ nhiệt để “dụ dỗ” Việt Nam đàm phán tay đôi và không kiện Trung Quốc

Tôi nghĩ rằng đây là việc dẫn dụ, dụ dỗ Việt Nam, và tôi cũng hơi lo là vì ngày 16/07, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết là Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để giải quyết các vấn đề tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông với Trung Quốc – lẽ dĩ nhiên là trên cơ sở luật pháp quốc tế – và cũng yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan HD-981 quay trở lại.

Nhưng nếu Trung Quốc không đưa HD-981 mà đưa bốn, năm cái giàn khoan nhỏ trở lại thì lúc đó Việt Nam làm gì ? Cho nên tôi nghĩ đây là vấn đề Trung Quốc muốn thử xem Việt Nam phản ứng như thế nào.

Nếu Việt Nam đàm phán song phương với Trung Quốc, việc này sẽ giúp cho Trung Quốc biện hộ rằng tranh chấp ở Biển Đông chỉ liên quan đến hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà thôi, và không một nước nào khác được can dự vào.

Trung Quốc đã nhiều lần nói công khai với Mỹ là không được xía vào công việc nội bộ của các nước trong khu vực. Cho nên, nếu Việt Nam cho thế giới biết, hay là thế giới nghĩ lầm Việt Nam muốn thông qua đàm phán song phương để giải quyết vấn đề, thì việc đó sẽ làm hỏng cẳng Mỹ và đồng minh, đặc biệt trong vấn đề họ muốn đưa căng thẳng ở Biển Đông ra Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), vào tháng tới ở Miến Điện.

Mưu đồ của Trung Quốc : Làm Mỹ hụt chân

Ngoài việc muốn làm hụt cẳng Mỹ tại Diễn đàn ARF vào tháng tới, Trung Quốc cũng muốn làm cho Việt Nam mất đi sự ủng hộ của các nước khác ở trong khu vực nếu đi đàm phán song phương với Trung Quốc, đặc biệt là chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Philippines.

Ngoài ra, vừa qua, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí nói rằng Trung Quốc không nên tiếp tục gây hấn và hy vọng rằng Trung Quốc đưa mọi việc trở về vị trí cũ, tức là trước ngày 02/05. Thì Trung Quốc di chuyển giàn khoan như để nói với Thượng viện Mỹ rằng « tôi đã hạ nhiệt rồi, thì các anh không nên tiếp tục làm áp lực trên tôi »….

Nếu Thượng viện Mỹ thấy rằng không cần phải làm áp lực trên Trung Quốc nữa, có thể là chính quyền Obama cũng không làm áp lực trên Trung Quốc nữa. Mà áp lực của Mỹ là quan trọng nhất, Mỹ mà nới tay thì Trung Quốc thấy rằng họ có cớ lấn tới thêm, không những đối với Việt Nam, mà cả đối với Mỹ.

Bài học cho Việt Nam : Trung Quốc mềm nắm rắn buông

Bài học đầu tiên là Trung Quốc thường “mềm nắn rắn buông”. Trung Quốc hiện tỏ thái độ « buông » trước hết là vì phản ứng của người dân Việt Nam. Tôi nghĩ là Trung Quốc biết phản ứng của các lãnh đạo Việt Nam như thế nào, nhưng họ không ngờ rằng phản ứng của người dân Việt Nam mạnh như thế.

Thành ra lúc này Trung Quốc hạ nhiệt chút xíu để cho giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là thành phần thiên về Trung Quốc – đang trong thế yếu – có tiếng nói mạnh hơn.

Ngoài ra, Việt Nam sắp có Hội nghị Trung ương để bàn riêng về tình hình Biển Đông và về việc có nên kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế hay không. Trung Quốc hạ nhiệt để chính quyền Việt Nam và Hội nghị Trung ương thôi không bàn đến chuyện kiện Trung Quốc nữa, và như vậy, Trung Quốc có thể tiếp tục ép Việt Nam.

Bài học là Việt Nam mà yên lặng hơn, thì Trung Quốc sẽ đẩy tới hơn. Và nếu chính phủ Mỹ, Quốc hội Mỹ và các nước khác Nhật, Úc cũng thấy là vấn đề đã tạm yên rồi thì họ có thể cứ để cho yên và Trung Quốc trước sau gì cũng sẽ quay trở lại, và lần sau sẽ làm mạnh hơn một chút.

Xu hướng thân Bắc Kinh trong giới lãnh đạo Việt Nam

Việc cắm giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam là một chính sách uy hiếp giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ Chính trị chia thành ba nhóm, số đông thân Trung Quốc, số « trung lập » không biết nghiêng về ai, và số ít hơn thì muốn kiện Trung Quốc. Cho nên khi cắm giàn khoan, Trung Quốc muốn thử xem phản ứng của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào…

Phản ứng của Việt Nam cho thấy là Bộ Chính trị chưa có một chính sách đàng hoàng để kiện Trung Quốc.

Đó là trong lúc tình hình đang căng thẳng. Còn bây giờ Trung Quốc hạ nhiệt và làm giảm sự căng thẳng đi, thì có thể là Việt Nam sẽ không quyết định kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, chung với Philippines hay là riêng rẽ.

Nguy cơ mất đi hậu thuẫn của người dân Việt Nam và của quốc tế

Nếu như vậy, Chính quyền Việt Nam không những mất đi sự ủng hộ của dân chúng trong nước, mà cũng sẽ mất sự ủng hộ của các nước trong khu vực và của nhân dân trên thế giới. Việc đó sẽ làm suy yếu các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, và Nhà nước Việt Nam nói chung.

Và nếu như vậy thì Trung Quốc đã kéo thêm được Việt Nam sâu thêm vào quỹ đạo của Trung Quốc, và nếu mọi người đều nghĩ rằng Việt Nam đã bị  kéo sâu thêm vào trong quỹ đạo của Trung Quốc, thì có thể là họ sẽ từ bỏ Việt Nam và đi đêm với Trung Quốc…

Vấn đề kiện Trung Quốc không phải là vấn đề thắng hay là thua, mà là vấn đề vận động chính trị. Nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc, tức là Việt Nam đã chứng minh cho thế giới là Việt Nam chịu thua Trung Quốc, và nếu như vậy thì những nước khác sẽ suy nghĩ lại và có chính sách riêng của họ…

 

BỆNH VÔ CẢM

BỆNH VÔ CẢM

BÀI VĂN 9,5 ÐIỂM VỀ “BỆNH VÔ CẢM”

Những câu văn của em Phan Hoàng Yến , học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội đã gây ấn tượng mạnh với người đọc không chỉ bởi đề tài em lựa chọn mà còn bởi cách hành văn rất tinh tế và sắc sảo. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét :”Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý.”

—————————————–

ÐỀ BÀI :

TRÌNH BÀY SUY NGHĨ CỦA EM VỀ MỘT SỰ VIỆC HOẶC HIỆN TƯỢNG Ở ÐỊA PHƯƠNG HOẶC TRƯỜNG, LỚP (ÐẶT NHAN ÐỀ CHO BÀI VIẾT)

BỆNH VÔ CẢM

Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.

Chỉ lạ một điều: Ðó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Ðó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.

Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?

Trước hết là về cái đẹp, bây giờ ra ngoài đường, hiếm ai có thể bắt gặp một người đàn ông đạp xe ung dung dạo mát, thưởng ngoạn cái không khí trong lành, tươi mát dưới những hàng cây cổ thụ vàm bóng quanh bờ hồ; một người con gái dịu hiền, yêu kiều trong chiếc váy thanh thoát tản bộ trên những con đường hoa sấu, hoa sữa đầy mộng mơ mà hầu hết là những dòng người tấp nập, vội vã, chen lấn xô đẩy trên đường, xe buýt.

Lúc ấy cũng chính là lúc mà con người ta mất một phần tâm hồn đẹp đẽ đã bị chôn vùi dưới lớp cát. Phải chăng cũng vì như thế mà họ càng lúc càng khép chặt cánh cửa trái tim mình lại, không còn biết hưởng thụ cái đẹp mà chỉ nghĩ đến tiền, đến công việc ngày mai?

Vô cảm với cái đẹp mới chỉ là bước đầu.

Một khi người ta đã không biết ngưỡng mộ, không biết say mê, rung động trước những điều đẹp đẽ thì trái tim cũng dần chai sạn rồi đến đóng băng. Khi ấy, không chỉ là cái đẹp mà đứng trước những hành động ác độc, vô lương tâm, con người ta cũng cảm thấy bình thường, không oán trách cũng không cảm thông, động lòng với những nạn nhân bị hại.

Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán. Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình.

Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện.

Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy.

Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Ðó là những con người “không dại gì” và cũng chính “nhờ” những người “không dại gì” đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan. Vô cảm còn là con đường trực tiếp dẫn đến những cái xấu, cái ác.

Nó là một căn bệnh lâm sàng (sơ khởi) mà trong đó, não của người bệnh vẫn hoạt động nhưng trái tim lại hoàn toàn băng giá. Người ta đã vô cảm thì làm sao có thể thấu hiểu được nỗi đau, tình cảm của người khác. người ta chỉ nghĩ đến mình và lợi ích của riêng mình mà thôi. Nếu không vô cảm, tại sao các cô giáo ở trường mầm non lại nhẫn tâm giật tóc, đánh đập, bịt miệng các cháu bé còn ngây thơ, nhỏ tuổi?

Tại sao một người còn chưa qua tuổi trưởng thành lại vô tư chém giết cả nhà người ta để lấy của cải? Xa hơn nữa là các công chức bình thản ăn tiền ủng hộ, trợ giúp những số phận đau thương, bất hạnh của người dân để kiếm lợi cho riêng mình. Và còn nhiều, còn nhiều hành động xấu xa hơn nữa. Tất cả những điều vô lương tâm ấy đều xuất phát từ căn bệnh vô cảm mà ra.

Chúng ta biết bệnh vô cảm vô cùng nguy hiểm nhưng lại đặt ra câu hỏi: Rốt cuộc thì nguyên nhân tại sao? Suy cho cùng, tình cảm là điều chi phối tất cả. Những người vô cảm là những người bị thiếu hụt tình yêu thương. Chính vì không cảm nhận được tình yêu thương mà người ta ngày càng lạnh giá. Một phần nữa cũng là do xã hội hiện đại quá bận rộn và đòi hỏi con người phải làm việc, làm việc và làm việc mà bỏ quên thời gian để trao nhau hơi ấm của tình thương, để ươm mầm cảm xúc.

Tình cảm như những hạt mưa, hạt mưa càng to, càng nặng thì càng dập tắt được những ngọn lửa của lòng thù hận, ghen ghét, bi ai và nó cũng như một ngọn lửa thổi bùng cháy mãnh liệt trong tâm hồn để nuôi dưỡng tiếp nguồn sống cho chúng ta. Vì vậy, điều duy nhất chúng ta có thể làm để cho căn bệnh vô cảm “không còn đất sống” là hãy biết mở cửa trái tim để biết cảm nhận, biết yêu ghét, thương giận và chia sẻ những điều tinh túy đó cho những người xung quanh mình.

“Con người ta không phải là cái đồng hồ và trái tim ta cũng không phải là cái lò xo”- một giáo sư người Anh đã nói như thế.

Tóm lại, ta nhận thấy rằng căn bệnh vô cảm đang lan tràn ngày càng rộng lớn và trở nên vô cùng nguy hiểm, biến con người thành một cỗ máy vô tri chỉ biết vận động. Ðừng để điều đó xảy ra mà hãy đấu tranh để giành lại phần “người”, giành lại “trái tim” mà Thượng Ðế, mà tạo hóa đã ban cho chúng ta, đào thải căn bệnh vô tình quái ác ra khỏi xã hội.

Hòa Lan đòi sớm đưa xác nạn nhân MH17 về nơi an toàn

Hòa Lan đòi sớm đưa xác nạn nhân MH17 về nơi an toàn
Monday, July 21, 2014

Nguoi-viet.com

HRABOVE, Ukraine (AP) – Các chuyên viên giảo nghiệm Hòa Lan hôm Thứ Hai yêu cầu thành phần nổi dậy thân Nga hãy để cho các toa xe lửa chứa đầy xác của các nạn nhân trong vụ bắn rơi phi cơ hàng không Malaysia được đưa về nơi an toàn. Các chuyên viên Hòa Lan có trách nhiệm thu hồi và nhận dạng tử thi cũng yêu cầu phía nổi dậy niêm phong các toa xe lửa đông lạnh này, hiện đậu trong thị trấn Torez do phiến quân kiểm soát.

Hoa tưởng niệm đặt trước cửa Tòa Ðại Sứ Hòa Lan tại Hoa Kỳ, 21 Tháng Bảy. (Hình: AP Photo/Manuel Balce Ceneta)

Bốn ngày sau khi chiếc phi cơ hàng không dân sự Malaysia bị bắn rơi, các điều tra viên quốc tế vẫn tiếp tục gặp khó khăn khi vào hiện trường, vì bị các tay súng nổi dậy thân Nga ngăn cản.

Sự giận dữ về các trì trệ này và khả năng có việc xóa bỏ chứng cớ ở hiện trường đang gia tăng trên khắp thế giới, nhất là ở Hòa Lan, nơi 192 trong số 298 nạn nhân trên phi cơ là người gốc Hòa Lan, và một người khác song tịch Hòa Lan-Mỹ.

Các phóng viên ngoại quốc cho hay mùi hôi thối rất nặng nề ở nhà ga xe lửa Torez hôm Thứ Hai. Trước đó, một nhân viên hỏa xa Ukraine nói rằng hệ thống điện trên các toa xe đông lạnh gặp trở ngại mấy tiếng đồng hồ trong đêm nhưng sau đó được tái lập vào sáng sớm ngày Thứ Hai.

Ông Peter Van Vilet, người đứng đầu cơ quan thu hồi và nhận diện tử thi (LTFO) của chính phủ Hòa Lan, cho hay việc chứa các xác chết được coi là tốt đẹp nhưng muốn các toa xe đông lạnh này được di chuyển về thành phố Kharkiv, nơi do chính phủ Ukraine kiểm soát, càng sớm càng tốt.

Tại Kharkiv, một toán chuyên gia quốc tế khác cũng vừa tới nơi, gồm có 23 người Hòa Lan, 3 Úc, 2 Ðức, 2 Mỹ và một người Anh.

Ở nơi rớt phi cơ tại làng Hrabove, các nhân viên cứu nạn thu hồi thêm 21 xác hôm Thứ Hai, nâng tổng số xác thu được lên 272, theo thủ tướng Ukraine, ông Arseniy Yatsenyuk.

Giao tranh tiếp diễn hôm Thứ Hai giữa quân nổi dậy và quân chính phủ ở thành phố Donetsk, cách đó chỉ vào khoảng 50 km về hướng Tây. Giới chức thành phố nói rằng các cuộc chạm súng diễn ra gần phi trường.

Chính phủ Úc trong khi đó kêu gọi có một nghị quyết của Liên Hiệp Quốc yêu cầu không cản trở việc điều tra ở nơi rớt phi cơ và đòi hỏi sự hợp tác của mọi quốc gia liên hệ, kể cả Nga.

Tại Anh, Thủ Tướng David Cameron nói rằng ông hy vọng Nga sẽ ủng hộ nghị quyết của Hội Ðồng Bảo An về việc này.

Chính phủ Mỹ mới đây cũng cung cấp các “chứng cớ mạnh mẽ” cho thấy phía nổi dậy bắn rơi chiếc phi cơ Boeing 777 với hỏa tiễn địa không Buk do Nga chế tạo. Các chứng cớ đó gồm hình ảnh video về giàn phóng, thiếu mất một hỏa tiễn trên giàn phóng được đưa ra khỏi nơi nghi ngờ là địa điểm phóng, hình ảnh việc phóng hỏa tiễn, các đoạn băng ghi âm nói chuyện khoe khoang việc bắn rơi phi cơ và sau đó là thảo luận cách che dấu việc này sau khi biết là đã bắn lầm phi cơ dân sự. (V.Giang)

 

Đi cùng Thánh Giá sang phía Tự Do – Kỷ Niệm 60 Năm Di Cư

Đi cùng Thánh Giá sang phía Tự Do – Kỷ Niệm 60 Năm Di Cư

Hà Giang (tổng hợp)

Ngày 21 Tháng Bảy, 1954, nhật báo The Los Angeles Times đi tin lớn: “Armistice signed ending fighting in Indo-China, Vietnam to be split in 2 Zones” (Hiệp định đình chiến được ký kết, chấm dứt chiến tranh Ðông Dương, Việt Nam bị chia đôi).

Trang đầu nhật báo The Los Angeles Times số ra ngày 21 Tháng Bảy, 1954, với bản tin lớn nhất có tựa đề: “Armistice signed ending fighting in Indo-China, Vietnam to be split in 2 Zones.” (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Nhật báo The New York Times cũng đi tin lớn: “Indochina armistice is signed; Vietnam split at 17th parallel; US finds it can “respect” pact” (Hiệp Ðịnh Ðình Chiến đã được ký kết, Việt Nam chia đôi ở vĩ tuyến 17, Hoa Kỳ tôn trọng thỏa thuận.)

Tại Pháp, đài phát thanh Hirondelle của quân đội Pháp vang lên lời loan báo: “Hiệp Ðịnh Ðình Chiến đã được ký kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng nguyên câu ấy trên trang nhất bằng chữ lớn.

Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế nào việc này cũng sẽ đến.

Thôi, thế là không còn gì để phải băn khoăn về tình hình đất nước!

Giờ đây, điều khẩn cấp nhất mà nhiều người cần quyết định là ở lại đất Bắc hay đưa gia đình vào Nam. Và nếu đi, thì phải làm gì cho kịp thời hạn. Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng thì có 300 ngày cho mọi người di tản.

Người muốn di cư vào Nam thường là vì lý do chính trị, kinh tế, hay những kinh nghiệm đau thương từng có với Việt Minh – tức Cộng Sản. Họ thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.

Hãm hại người Công Giáo muốn ra đi

Giới tư sản lo gia tài của họ có nguy cơ bị tịch thu. Thành phần trí thức không thích Chủ Nghĩa Cộng Sản. Người theo đạo Công Giáo thấy rằng không thể tiếp tục sống nơi họ không được thờ phượng Chúa.

Cũng có người từng là nạn nhân trực tiếp, hay có người thân bị đấu tố, tài sản bị tước hết trong cuộc cải cách ruộng đất từ năm 1953. Cả những đồng bào Thượng ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, trước đây theo quân đội Pháp chống Việt Minh cũng tràn về Hà Nội để tìm đường vào Nam lánh nạn.

Ký giả Gertrude Samuels, trong bài “Passage to Freedom in Vietnam,” đăng trên ấn bản Tháng Sáu, 1955 của The National Geographic, viết về trường hợp của ông Ngô Văn Hội, một người mà ông mô tả là “còm cõi trong chiếc áo rách nát và quần cụt đen,” như sau: “Gia đình tôi có nhiều người bị giết, cả vì bom của Pháp lẫn vì bị Việt Minh sát hại. Chúng tôi còn bị cộng sản cấm đi nhà thờ.”

Và kết luận: “Ðó là lý do tại sao ông Hộ mang vợ và 7 con đến nhà thờ Hưng Yên, nơi ông cùng nhiều người khác trong cùng xứ đạo, bắt đầu cuộc hành trình hơn 1,600 cây số đi tìm tự do.”

Theo ghi chép của ông Ðức Khương, trong tài liệu “Người Công Giáo di cư, khúc quanh lịch sử,” Giáo Phận Thái Bình có 80,000 giáo dân cùng hơn 60 linh mục đi theo làn sóng di cư.

Trong khi đó, cũng trong tài liệu này, sổ tay của ông ÐÐK, một người Công Giáo Thái Bình, sau này định cư tại Hố Nai, ghi lại: “Sáng ngày 27 Tháng Bảy 1954, cha Chánh Xứ Ðaminh Ðỗ Ðức Thụ cùng toàn thể dân xứ hiệp dâng Thánh lễ cuối cùng tại nhà thờ nhà xứ Lai Ổn để xin ơn bình an cho cuộc lữ hành. Sau Thánh lễ, cha xứ bùi ngùi lên tiếng từ giã thầy xứ và những giáo dân ở lại, từ giã ngôi thánh đường thân yêu, giã từ quê hương yêu dấu là nơi tổ tiên đang an nghỉ, làm nhiều người mủi lòng và khóc nức nở.”

“Ðúng 13 giờ cùng ngày, cha xứ dẫn đoàn chiên lên đường, đoàn người lũ lượt theo nhau, tay xách, nách mang ra đi trong thinh lặng buồn bã. Họ bỏ lại sau lưng tất cả nhà cửa, trâu bò, ruộng vườn, mồ mả tổ tiên. Hành trang quý nhất họ mang theo là một “niềm tin.” Thỉnh thoảng, người ta ngoảnh đầu lại ngắm nhìn làng xã thân yêu mỗi lúc một xa dần, rồi mất hút. Sau ba cây số, qua sông Luộc rồi họ nghỉ đêm tại Phụ Dực. Sáng ngày, một đoàn xe đến chở dân xứ sang An Thổ, nghỉ lại đây một đêm, cha xứ cho giết con ngựa quý của mình đãi giáo dân một bữa tiệc.”

“Ngày hôm sau, đoàn xe lại đến chở dân xứ ra Xuân Sơn (Kiến An), nghỉ lại đây 25 ngày tại giáo xứ Liễu Dinh để chờ đón những người trong xứ đi sau. Ở đây, tất cả mọi người đều được chích ngừa và chủng đậu. Ngày thứ 25, xe lại đến chuyển dân xứ ra Hải Phòng tá túc qua đêm. Sáng sớm hôm sau, dưới cơn mưa dầm, đoàn xe tiếp tục chuyển bánh ra bờ biển, sau đó mọi người được hướng dẫn xuống tàu ‘há mồm.'”

Ký giả Gertrude Samuels, theo sát cuộc di cư kéo dài gần một năm, cho biết, ở nhiều nơi, cả làng kéo nhau đi, và câu hỏi chung của ông với nhiều người “tại sao lại bỏ hết để đi vào Nam,” đã được đáp lại bằng những câu trả lời tương tự:

“Vì chúng tôi muốn sống tự do.”

“Vì chúng tôi sợ chủ nghĩa Cộng Sản!”

“Vì muốn con cái chúng tôi được tự do theo Ðạo.”

“Vì chúng tôi bị bắt phải bỏ Ðạo.”

Nhiều tài liệu, tuy đưa ra những con số khác nhau, đều cho rằng việc cấm Ðạo là nguyên nhân khiến phần lớn người Bắc di cư vào Nam là tín đồ Công Giáo.

Trang đầu nhật báo The New York Times số ra ngày 21 Tháng Bảy, 1954 nói về Hiệp Ðịnh Geneva: “Indochina armistice is signed; Vietnam split at 17th parallel; US finds it can “respect” pact.” (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Bác Sĩ Tom Dooley, viết về thời gian phục vụ trên chiến hạm USS Montague trong công tác đưa người di cư vào Nam trong cuốn “Deliver Us From Evil” (Xin Cứu Chúng Con Khỏi Mọi Sự Dữ), xuất bản năm 1961, kể lại một chuyện đàn áp tôn giáo hãi hùng. Ông viết: “Một hôm người ta đưa đến trại tị nạn (ở Hải Phòng) bảy em trai bị thương ở hai tai, máu chảy lênh láng, và một người đàn ông miệng bê bết máu đã ngất xỉu, để xin cấp cứu.”

“Tôi đã dùng thuốc trụ sinh, và mọi phương tiện khó khăn lúc đó, để cứu sống những nạn nhân này, nhưng họ vẫn bị tàn tật suốt đời.”

“Một người được chứng kiến câu chuyện, sau đó kể cho chúng tôi biết là, hôm đó Việt Minh kéo vào làng, họ đến ngôi trường mà một thầy giáo bị tố cáo là đã lén lút tổ chức những lớp học giáo lý vào buổi tối.”

“Bảy học sinh và thầy giáo bị lôi ra khỏi lớp. Tất cả bị bắt ngồi xuống đất và hai tay bị trói ra đằng sau.”

“Hai người công an đi đến từng đứa trẻ. Một người dùng hai tay nắm chặt lấy đầu đứa bé. Người kia lấy một chiếc đũa bằng tre chọc mạnh sâu vào cả hai đôi tai, máu các em chảy ròng ròng, và cả làng có thể nghe thấy tiếng kêu hét kinh hoàng của những nạn nhân khốn khổ.”

“Sau khi đã phải chứng kiến cảnh từng học trò của mình bị chọc hỏng tai, thầy giáo bị trừng phạt bằng một hình phạt nặng nề hơn. Một công an nắm chặt đầu ông, còn người kia banh miệng ông ra, dùng kéo cắt đi chiếc lưỡi đã dám rao giảng những giáo điều đi ngược với chính sách của đảng. Những em học trò này từ nay không thể nghe được lời rao giảng nào nữa, và thầy giáo bị câm thì không còn bao giờ nói được những điều bị cấm.”

Bác Sĩ Tom Dooley tâm sự: “Lúc đó tôi mới chỉ là một bác sĩ giải phẫu còn non tay nghề, nhưng đã phải đối phó với nhiều trường hợp mà sách vở nhà trường chưa bao giờ nói đến: chẳng hạn phải làm gì cho trẻ em đã bị chọc đũa vào lỗ tai, cho các bà cụ mà xương cổ vốn đã xốp còn bị đập giập vì báng súng, và cho một linh mục bị đóng đinh vào đầu, vì bị Việt Minh chế nhạo việc chúa Giê Su bị đội vòng gai trên đầu khi chịu chết trên Thánh Giá.”

Lập thành trì chống Cộng tại miền Nam

Có nhiều con số khác nhau liên quan đến số người Công Giáo di cư từ Bắc vào Nam.

Theo bản tường trình 14 trang về tình hình người tị nạn ở Bắc Việt của Giám Mục Phạm Ngọc Chi (địa phận Bùi Chu), gửi Bộ Truyền Giáo Roma, tháng 10, 1955, thì trong tổng số 860,206 người di cư vào Nam, có 676,348 giáo dân.

Tác giả Jean Marvier trong cuốn “Les combattants de Dieu” cho rằng 100% người di cư là người Công Giáo.

Theo tác giả Piero Ghedo, trong cuốn “Catholiques et bouddhistes au VietNam,” xuất bản năm 1970, thì thống kê của Giám Ðốc Ủy Ban Tị Nạn Sài Gòn cho rằng có tổng số 928,152 người di cư, trong đó 794, 876 là người Công Giáo.

Tác giả Chester Cooper trong “The lost crusade, America in VietNam,” đưa ra con số 85% người Bắc di cư là người Công Giáo.

Hai tác giả J. Buttinger trong “VietNam, a dragon embattled,” và Bernard Fall trong “Les deux VietNam,” cùng đưa ra con số là 65% hay khoảng 650,000 trong 1 triệu người di cư là người Công Giáo.

Dù con số là bao nhiêu, 65%, 78% hay 85%, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của người Công Giáo trong cuộc di cư của gần 1 triệu người Bắc vào Nam cách đây 60 năm.

Và khẳng định mạnh mẽ nhất vai trò then chốt này của người Công Giáo trong việc di cư, không ai khác hơn, lại chính là Việt Minh, thông qua thực tế là họ tìm đủ mọi cách ngăn cản người Công Giáo đồng loạt theo nhau vào Nam vào thời gian ấy.

Tập tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Ba Lan, có tên “Tường trình về hoạt động của phái đoàn Công Giáo tại Việt Nam từ ngày 13 Tháng Tư đến ngày 30 Tháng Năm, 1955, Hà Nội,” mang chữ ký của Wojciech Ketrzynski, cho chúng ta thêm nhiều chứng cớ về tầm quan trọng của việc người Công Giáo di cư, đối với Việt Minh.

Tập tài liệu nói trên do Tiến Sĩ Trần Thị Liên, tiến sĩ sử học tại Pháp, dịch và phổ biến năm 2005. Ngay từ đầu, tài liệu đã hé lộ cho thấy ngay sau khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, nước Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan đã được phía Việt Minh yêu cầu giúp giải quyết vấn đề người Công Giáo ồ ạt di cư vào Nam.

Là một thành viên phái đoàn Công Giáo Ba Lan được Việt Nam mời qua thăm vào mùa Xuân 1955, ông Wojciech Ketrzynski kết luận bản tường trình nói trên bằng câu: “Trong tổng thể các vấn đề chính trị của Việt Nam, yếu tố Công Giáo tuy không giữ vai trò quan yếu nhất, nhưng vì là nhóm tôn giáo có tổ chức, thuần nhất và lớn mạnh nhất, Công Giáo có một trọng lượng nhất định trong cán cân quyền lực chung.”

Trước cuộc di cư, dân số miền Bắc khoảng 12 triệu người, so với dân số khoảng 11 triệu người ở miền Nam. Con số 1 triệu người di cư vào Nam, với Việt Minh, vừa là một sự mất mặt, vừa là một đe dọa lớn.

Một mặt họ đàn áp người Công Giáo, vì chống đối họ, mặt khác lại tìm đủ mọi cách để đe dọa, ngăn cản, thậm chí hãm hại người Công Giáo tìm cách di cư vào Nam, vì không thể đứng yên nhìn cán cân quyền lực nghiêng về phía đối phương.

Người Công Giáo di cư còn đóng vai trò lớn vì họ không chỉ đi từng người, từng nhà, mà là đi từng làng một. Việc họ đi theo các vị linh mục, lãnh đạo tinh thần, và chăm lo cho cả đời sống xã hội của họ, là một điều hết sức tự nhiên. Thái độ tôn kính và vâng lời gần như tuyệt đối của con chiên với các cha, các giám mục của cộng đồng người Công Giáo miền Bắc cũng gây một ảnh hưởng lớn trong việc tái định cư và hòa nhập của người Bắc di cư vào xã hội miền Nam.

Nhiều thống kê cho thấy, ngoại trừ Hà Nội là một trong 2 điểm tập trung cho quá trình di cư, giáo phận nào có giám mục chọn ra đi thì số linh mục và giáo dân cũng ra đi đông đảo; ngược lại giáo phận nào mà giám mục chọn ở lại thì số ra đi cũng ít hơn.

Khi đã vào Nam rồi, người Công Giáo lại tiếp tục sống quây quần sinh hoạt với nhau trong những giáo xứ, giáo phận, tạo thành một cộng đồng có bản sắc riêng, và tạo nên những thành trì chống Cộng vững chắc cho miền Nam. (H.G.)