Thư Gừi Ông Chủ Tịch TLĐLĐVN

Thư Gừi Ông Chủ Tịch TLĐLĐVN

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Công đoàn độc lập không thể là một tổ chức hữu danh vô thực như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) và các cấp công đoàn cơ sở của hệ thống nhà nước, khi các tổ chức này đã chỉ được biết đến như một khâu trung gian hưởng thụ 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp mà chưa hề đồng thuận với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.

Tuyên bố ngày 8/6 của Các Hội Đoàn Dân Sự Về Công Đoàn Độc Lập Việt Nam

Tưởng gì chớ cái nghèo thì tôi quen lắm. Những cảnh đời nghèo/ khó, nghèo/ khổ, nghèo/hèn – tất nhiên – tôi cũng cũng đều rành tuốt luốt. Tôi sinh ra và trưởng thành trong một đất nước nghèo khốn mà. Người Việt chúng tôi không chỉ mang nỗi sầu vạn cổ mà còn đeo cái nghèo vạn cổ nữa cơ.

Nghèo triền miên cũng có điểm hay là nó giúp cho mình khỏi bị nao núng, hay sợ hãi trước những cảnh đời cùng quẫn. Tôi vẫn nghĩ như thế cho đến khi nhìn thấy bức ảnh chụp nơi cư trú của công nhân ở quận Bình Tân, Sài Gòn:

Ảnh:N.B/ Tuổi Trẻ Online

Dù đã trải qua nhiều trại lính, trại tù, và trại tị nạn nhưng tôi vẫn vô cùng ái ngại khi nghĩ đến gia đình, vợ chồng, con cái của những con người phải chui rúc dưới những mái tranh mục nát thế này? Họ sinh hoạt (ăn uống, giải trí, nghỉ ngơi, làm tình, và bài tiết) ra sao cạnh một nơi bùn lầy nước đọng như vậy?

Hiếm họa công luận mới được tiếng kêu thương lẻ loi (và vô vọng) về điều kiện sinh sống và làm việc của giới công nhân Việt Nam. Cách đây vài năm, báo Lao Động, số ra ngày 1 tháng 6 năm 2010, có đăng tải bức thư của bà Nguyễn Thị Thắm  gửi đến ông Đặng Ngọc Tùng – Chủ Tịch Tổng LĐLĐVN. Xin ghi lại một vài đoạn chính:

Kính gửi: Ông Chủ tịch Tổng LĐLĐVN

Tôi tên: Nguyễn Thị Thắm – Công nhân (CN) kiểm hàng (QC) của Cty TNHH Hansoll Đồng Nai – Khu công nghiệp (KCN) Bàu Xéo – Trảng Bom – Đồng Nai.

CN chúng tôi ở đây có rất nhiều bức xúc mà không biết đi đâu để tìm ra lẽ công bằng. Tôi cũng đã tìm sự giúp đỡ từ các tổ chức xã hội nhưng chưa thấy hồi âm. Sau thời gian tìm địa chỉ, tôi cũng đã suy xét kỹ càng và quyết định viết lá thư này gửi đến ông. Không! Tôi không “kiện” Cty, tôi viết ra tiếng nói của tôi – NLĐ, mong ông bớt chút thời gian để lắng nghe và thấu hiểu tiếng “than ôi” trong lòng chúng tôi. Mong ông đặt mình vào vị trí của tôi – NLĐ để cảm thông cho số phận CN, cương vị Chủ tịch Tổng LĐLĐVN nhận xét xem công dân của nước Việt đang làm việc trong cảnh thế nào.

Trước khi viết ra những bức xúc, tôi có lời xin lỗi trước. Nói một cách chua chát thì Cty lấy “tiền” dán “miệng thiên hạ” để che đậy cho cái gọi là “áp bức, bóc lột sức lao động”. Sự thiếu tri thức và hiểu biết Luật Lao động đã xiềng xích quyền lợi hợp pháp của NLĐ. Chúng tôi đã phải vất vả lao động, trái lại đồng lương thì ít ỏi mà “luật” thì quá nhiều. Cty yêu cầu CN đi sớm để họp “trước giờ”, nhưng về trễ thì chẳng có thêm đồng nào, làm hành chính nghỉ trưa 1h mà cũng bị “chém đầu, chém đuôi” 20 phút.

Vào giờ là làm đến có chuông mới được rời vị trí đi ăn cơm, trong giờ đi tiểu hoặc uống nước còn bị dòm ngó, chửi bới. Chính tôi đây kiểm hàng một mình một làn, vội đi vệ sinh để trống bàn, chuyên gia người Hàn Quốc (tôi cũng chưa biết tên) la lối ầm lên, chưa được 5 phút tôi đã quay ra và được giội xối xả những câu chửi tiếng Hàn, bực quá tôi cũng nạt lại “đi vệ sinh mà cũng cấm sao” mặc bà ấy muốn nói thêm gì thì nói…

Ông Đặng Ngọc Tùng, ỦyViên Trung Ương Đảng, Chủ Tịch TLĐLĐVN. Ảnh: Dân Việt

Có người rơi nước mắt vì miếng cơm, lấy khay cơm mà như thể xin ăn. Phần ăn thì chẳng khác phần cho “mèo” ăn, không hiểu Cty có xem CN chúng tôi là “con người” hay không.

Thưa ông, ông cảm thấy thế nào khi các chuyên gia người Hàn chửi mắng CN chẳng tiếc lời và còn ném cả áo vào mặt CN? Chính bản thân các chuyên gia, quản lý họ chưa làm ra được sản phẩm tốt, họ ép CN may đạt 100%, không làm được thì họ chửi mắng chẳng cần biết đúng sai, có tình có lý. Quản lý bị chửi thì chửi lại các tổ trưởng, tổ trưởng lại trút cơn giận lên CN còn CN tức tưởi “nuốt” nỗi tủi nhục ấy…

Bất công quá, CN bỏ việc nhưng họ cũng chẳng giải quyết với bất cứ lý do gì, CN đành bỏ ngang và chấp nhận mất mấy ngày lương và sổ bảo hiểm (nếu có). Còn và còn rất nhiều những bất công mà chúng tôi phải chịu đựng. Tôi nghĩ với cương vị Chủ tịch Tổng LĐLĐVN, ông cũng từng nghĩ đến cảnh tình này của CN, nhưng ông có cảm nhận được cái uất nghẹn đang trào lên trong ruột gan chúng tôi, đã đấu tranh, có đình công nhưng chẳng thay đổi được gì.

Chính tôi đây không cam tâm, tôi tìm đến toà soạn báo Đồng Nai, báo Người Lao Động, báo Lao Động nhờ giúp đỡ về mặt pháp lý, nhưng chưa thấy hồi âm. Tôi nghĩ với bề dày kinh nghiệm ông sẽ hiểu những thứ đang “lung lay” trong lòng NLĐ, mong rằng nó sẽ không phải tiếng “oán trách”.

Tôi cũng như toàn thể CN ở đây mong ông hiểu được cái quyền bình đẳng, quyền được tôn trọng, quyền nhân sinh đang bị người sử dụng lao động chà đạp, chúng tôi không biết phải làm sao, đấu tranh hay không, nếu đấu tranh thì như thế nào là đúng đắn, dựa vào ai, tin vào ai? Tôi luôn chờ nghe lời hồi âm, ít ra tôi cũng tự hào rằng mình là người VN, thừa hưởng tinh thần kiên cường của cha ông mình.

Cuối thư xin cảm ơn vì ông đã lắng nghe!

Ông Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động VN (e) là chả có nghe ngóng gì ráo trọi, nói chi đến chuyện “lắng nghe” cho nó rườm rà. Bằng chứng là với thời gian cuộc sống của giới công nhân mỗi lúc một thêm thảm hại – theo tường trình của Các Hội Đoàn Dân Sự Về Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, đọc được trên trang Dân Luận vào ngày 8 tháng 6 vừa qua:

“Không những không được cải thiện, mức thu nhập bình quân của công nhân còn bị giảm tương đối 25-30% trong khi mặt bằng giá cả tăng vọt từ 2-3 lần từ ít nhất năm 2011 đến nay. Tại nhiều nhà máy và xí nghiệp, công nhân phải làm việc ít nhất 10 giờ mỗi ngày và sáu ngày một tuần, nhưng mức thu nhập hoàn toàn không đủ sống. Tình trạng thảm thương đó vẫn tiếp tục tăng tiến bất chấp Việt Nam đã có cơ hội tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ năm 2007, nhưng đã chỉ trở thành cơ hội để hố phân hóa giữa 5% số người có thu nhập cao nhất với 5% người nghèo nhất ước tính lên đến ít nhất 60-70 lần.”

Trước đó, trên báo Dân Việt –  số ra ngày 16 tháng 02 năm 2014 –  cũng có bài viết với nhiều tình tiết hơn (“Nghiệt Ngã Phận Đời Làm Công Nhân”) của nhà báo Khánh Hoà:

“Rời bỏ quê lên thành phố lập nghiệp với mong ước có một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng nghiệt ngã thay, nhiều bạn trẻ đi làm công nhân đã bị vướng cái vòng luẩn quẩn nơi phố phường hoa lệ là thu không đủ chi. Tiền lương công nhân trung bình khoảng trên dưới 3 triệu đồng/người/tháng dường như là quá ít so với cuộc sống thị thành, nhất là thời gian gần đây, mọi thứ đều tăng giá một cách chóng mặt…

Hiện nay, chuyện những người công nhân đi làm phải tăng ca ban đêm đã là rất bình thường, thậm chí nhiều người còn mong mỏi xin được tăng ca, được làm thêm để có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống nhưng vì tình hình kinh tế chung đang trong giai đoạn suy thoái nên nhiều nơi, công ty chỉ hoạt động cầm chừng, có muốn tăng ca cũng không có.

Thế nên, những công nhân này, ban ngày đi làm, chiều tan ca về thì đàn ông lại xách xe đi chạy xe ôm ở mấy ngã ba, ngã tư hòng kiếm thêm vài chục ngàn đồng. Ngoài ra, nhiều người phải nhận hàng về nhà làm thêm ban đêm hoặc đi bốc vác, phụ bồi bàn ở các quán ăn, quán cà phê ban đêm với mong muốn kiếm thêm chút đỉnh. Riêng với những công nhân nữ, dù biết là tội lỗi, là nhục nhã nhưng nhiều người vì miếng cơm, manh áo vẫn nhắm mắt đưa chân để làm cái việc nhơ nhuốc là đi bán dâm, như một cứu cánh duy nhất trong cơn cùng quẫn…”

Ông Đặng Ngọc Tùng, ỦyViên Trung Ương Đảng, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động VN chắc chắn không nghe, không thấy, không biết gì về những cảnh đời cùng quẫn như trên. Chỉ hai tuần lễ trước khi xẩy ra vụ hàng chục ngàn công nhân đình công và bạo động ở Bình Dương, vào ngày 13 tháng 5 năm 2014, ông vẫn lạc quan, mạnh miệng hô hào khẩu hiệu (như thể là kẻ đang từ  trên trời rớt xuống đất nước Việt Nam) theo như tường thuật của Người Lao Động:

“… phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về lịch sử ngày Quốc tế Lao động; 85 năm xây dựng, trưởng thành của tổ chức CĐ Việt Nam, truyền thống đấu tranh cách mạng của giai cấp CN; kết hợp các hoạt động với tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong CNVC-LĐ, nhất là việc triển khai 4 chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI CĐ Việt Nam; tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, nhất là ở trong các KCX-KCN, khu lưu trú nhằm tạo không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết, gắn bó trong đoàn viên CĐ, CNVC-LĐ…”

Rồi ba tuần lễ sau, sau biến cố Bình Dương, chân của ông Đặng Ngọc Tùng (dường như) vẫn chưa chạm đất – theo lời của ký giả Lê Thanh Phong:

“Trong phiên thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội tại Quốc hội vừa qua, liên quan đến giàn khoan Hải Dương 981, Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Đặng Ngọc Tùng nhận định: “Hoàn toàn bất ngờ, không có trong dự báo, trong khi phản ứng, đối phó của chúng ta là không linh hoạt và chậm.”

Riêng cá nhân ông Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Đặng Ngọc Tùng, xem chừng, lại “linh động” quá. Ông có thể “tạo không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết, gắn bó trong đoàn viên” ngay cả khi họ bán dâm hay bán máu để sống qua ngày.

Tôi không quan niệm rằng Đảng CSVN là mọi nguyên nhân, cũng như tác nhân, của tất cả những tội ác và tệ trạng xẩy ra ở xứ sở này. Tuy nhiên, tôi vẫn cam chắc rằng bao giờ mà giai cấp công nhân vẫn còn bị Đảng nắm chặt trong tay (như hiện nay) thì đời sống của họ vẫn còn khốn khổ và khốn nạn.

 

Nực cười, phẫn nộ, nhưng không dễ đương đầu

Nực cười, phẫn nộ, nhưng không dễ đương đầu

Việt-Long- RFA
2014-06-13

vtgtt061114.mp3

map-of-paracels

Bản đồ của Cục bản đồ thuộc phủ Thủ tướng Việt Nam ghi Hoàng Sa và Trường Sa là Tây sa và Nam sa

Internet document

Nực cười- phẫn nộ- ngạc nhiên!

Trước hết là nực cười, rồi phẫn nộ. Đó là cảm tưởng của hầu hết, nếu không nói là toàn thể 100% người Việt trong nước và khắp thế giới, khi nghe tin Trung Quốc tố cáo Việt Nam đâm va vào các tàu của họ 1416 lần!

Nực cười là vì cung cách hành xử của một nước lớn, giàu mạnh trong thế kỷ 21 mà không khác nào một nước Cộng Sản lạc hậu trong thời chiến tranh lạnh, thản nhiên đổi trắng thay đen, trắng trợn nói không làm có. Và phẫn nộ vì Trung Quốc trước sau vẫn trơ trẽn không khác nào một quốc gia lạc hậu về văn minh, chẳng khác gì Bắc Hàn ngày nay. Việc này có thể còn gây chút ngạc nhiên cho những ai từng ngưỡng mộ sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc trong mấy thập niên qua.

Nhưng đó là cảm tưởng chủ quan của những người Việt Nam, trong khi hầu hết các nước khác lại không bày tỏ chút gì gọi là nực cười hay phẫn nộ trước cung cách hành xử kiểu “Chí Phèo Bắc Hàn” của Trung Quốc. Phải chăng một cái nhìn khách quan sẽ đưa đến kết luận khác?

Câu trả lời là hầu hết các chính phủ nước ngoài không thể phán xét như người Việt Nam trong cuộc, dù họ biết rõ hành động của Trung Quốc là thô bạo, áp bức nước nhỏ hơn, chỉ vì ảnh hưởng về mọi mặt của Trung Quốc trên trường quốc tế, nhất là đối với khối ASEAN.

ship-hit-400

Tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam, bị nói ngược lại – Courtesy of thanhnien.com

Người Việt Nam dù khách quan tới đâu cũng thấy rõ và biết rất chính xác rằng Trung Quốc đã cướp đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bây giờ khư khư giành chiếm chủ quyền, thi hành chiến thuật tằm ăn dâu và thay đổi hiện trạng, lại dùng những thủ đoạn thấp kém đổi trắng thay đen, trong khi ai ai cũng phải thấy thực tế không thể chối cãi là phía Việt Nam là phía bị ức hiếp, bị đàn áp trên mặt biển với những chứng cứ rõ ràng, dưới sự chứng kiến của các phóng viên quốc tế.

Điềm gở?

Một nước lớn đang tranh đua làm cường quốc hàng đầu thế giới mà hành xử như vậy thì chỉ chứng tỏ trình độ trí não vẫn còn ở dưới mức kém cỏi, chưa thể gọi là văn minh ngang hàng những cường quốc cùng ngồi trong Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc với họ.
Điều này càng chứng tỏ Trung Quốc khó lòng vươn lên tới hàng cường quốc văn minh. Từ thời Đặng Tiểu Bình là lúc Trung Quốc đã thức tỉnh và nay đang hiện đại hóa với một tốc độ ít ngờ, thì cung cách đó quả là đã kéo lùi Bắc Kinh về với tinh thần thời chiến tranh lạnh, chẳng khác nào Bắc Hàn ngày nay vẫn còn là một xã hội cô lập, ngủ quên trên thời gian, hệt như đang dừng lại bên một cái đồng hồ chết, và cứ thế mà vùi đầu mãi trong các thập niên 1950-1970

Tuy nhiên, không phải tất cả các nước đều có thái độ e dè thụ động như vậy. Người ta không quên là  Nhật và Mỹ đều mạnh mẽ đả kích Trung Quốc và bênh vực Việt Nam. Riêng Châu Âu thì đang chết dở với đống đổ nát của nền tài chính, lại căng thằng thần kinh vì vấn đề Ukraine với Nga, nên không bụng dạ nào nói đến chuyện biển Đông.

Những dữ kiện khó giải thích

Thế nhưng trong khi công luận có thể coi thường Bắc Kinh ở sự tố giác Việt Nam một cách thô thiển như vậy, thì điều đáng suy nghĩ cho Việt Nam là việc Trung Quốc đã cùng lúc trưng dẫn và phổ biến tại Liên Hiệp Quốc những tài liệu về hành động của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đây trong các lãnh vực ngoại giao cũng như giáo dục, mà được Bắc Kinh coi là đã chính thức và toàn tâm toàn ý nhìn nhận chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc.

geo-text

Bài địa lý lớp 9, 1974, do Việt Nam biên soạn – Annex 5/4 of Chinese document to the UN

Cho đến nay, ngày thứ sáu 13 tháng 6, 2014, báo chí và truyền hình truyền thanh ở Việt Nam không có tin tức hay nhận định nào nói một tí gì cụ thể đến những tài liệu giáo dục nói trên, đi kèm với bản tuyên bố về lãnh thổ của Trung Quốc năm 1958 và văn thư liên quan của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, thì người ta hiểu rằng đó là điểm yếu của Việt Nam trong cuộc tranh biện quốc tế về chủ quyền và hành vi xâm lấn.

Biện trạng của Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa bằng những chứng cứ lịch sử thì có thể không mang giá trị pháp lý khi ra trước công luận quốc tế hay tòa án quốc tế, nhưng những văn thư liên quan đến hành động công nhận của Việt Nam đối với chủ quyền đó của Trung Quốc là điều rất khó xử cho Việt Nam.

Trung Quốc đã nhiều lần nói đến bản tuyên bố 1958 của Bắc Kinh và văn thư tán thành của Hà Nội đối với bản tuyên bố ấy, nhưng đến nay mới trưng dẫn trước Liên Hiệp Quốc những tài liệu chứng minh Hà Nội thực sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa ngay trong hành động của bộ ngoại giao Việt Nam và các tài liệu giáo dục của Việt Nam, không phải chỉ ở văn thư ngoại giao chính thức.

Bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc ghi rằng chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố bề rộng của hải phận Trung Quốc là 12 hải lý; nhưng quan trọng hơn thế, văn thư viết: “Điều khoản này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của CHNDTH, bao gồm… quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và tất cả các quần đảo khác thuộc về Trung Quốc.”

Văn thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi ngày 14 tháng 9 năm 1958 viết rằng: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Công hòa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.” Đoạn sau viết rằng VNDCCH tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.

vnam-pm-letter

Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai, 14 tháng 9, 1958

Nhìn qua ngôn từ của Việt Nam, người ta cho rằng Hà Nội có thể cũng còn chỗ xoay sở trước một tòa án quốc tế, tuy rằng chỗ khá chật hẹp. Nên Bắc Kinh cẩn thận kèm thêm những tài liệu kia làm phụ lục của bản tuyên bố trước Liên Hiệp Quốc mới đây.

Bản tuyên bố ngày 8 tháng 6, 2014 tại Liên Hiệp Quốc của Trung Quốc, dịch sang Anh ngữ, viện dẫn hai văn thư nói trên của CHNDTH và VNDCCH, viết rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”.

Kèm theo đó, Trung Quốc còn trưng dẫn bài học địa lý lớp 9 niên khóa 1974 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và tập bản đồ thế giới do Cục đo đạc và bản đồ thuộc phủ Thủ tướng xuất bản, ghi là tại Hà Nội 1972.

Bài học địa lý lớp 9 tựa đề “Nước CHNDTH” có đoạn viết về biên giới Trung Quốc :”Phía đông mở rộng ra Thái Bình Dương, giáp các biển Bột Hải, Hoàng hải, Hoa đông và Hoa nam …. Vòng cung dẫn từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài Loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn… làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc…

Tập bản đồ 1974 thì có bản đồ “Phi Líp Pin, Ma Lai Xi a, In đô Nê Xi a, Xin Ga Po” có chú giải quần đảo Hoàng Sa là “Q.đ. Tây Sa”, và quần đảo Trường Sa là “Q.đ. Nam Sa”.

Vẫn còn cơ hội

Có lẽ chính những yếu tố này đã khiến Việt Nam phải thận trọng và chậm bước để tham khảo giới chuyên môn cùng những thành phần ủng hộ Việt Nam trước khi muốn đưa Trung Quốc ra đối diện với pháp lý quốc tế.

Ý kiến của các chuyên gia về pháp lý quốc tế, cả người Việt Nam lẫn ngoại quốc, có nhiều khác biệt, có khi mâu thuẫn, về luận cứ mà Việt Nam có thể đưa ra trước tòa cũng như về cơ hội thắng kiện của Việt Nam.

Trong khi đó Bắc Kinh từng tỏ ra rất e ngại về chuyện bị đưa ra trước một tòa án quốc tế. Bắc Kinh từng nhắc Việt Nam đừng làm theo Philippines mà kiện họ ra tòa trọng tài quốc tế.

Trước thái độ đó của Trung Quốc, và cân nhắc, so sánh nhiều ý kiến của giới chuyên gia, có thể nói Việt Nam vẫn có cơ hội thắng kiện.

Vì thế dù Bắc Kinh có phủ nhận mọi phán quyết, hay không hầu tòa khiến phiên tòa không diễn ra được, Việt Nam vẫn phải tiến hành hành động pháp lý đối với Bắc Kinh.

Dường như Việt Nam trì hoãn và chờ đến thời hạn tháng 8 để xem động tĩnh của Trung Quốc ra sao với cái giàn khoan HD-981.

Giả sử Hà Nội tin rằng Bắc Kinh không rút, thì có thể họ vẫn muốn chờ qua thời điểm đó để hành động pháp lý được mạnh hơn về chính nghĩa và về mặt tinh thần tôn trọng hoà bình và hữu nghị, khi Trung Quốc đã chứng tỏ họ hết mực ngoan cố.

 

Tinh Cha -Ngoc Son -Quang Le & TINH CHA NHAN NHU -Tho Quynh Vi – Nhac Andre Rieu & GỞI CON YÊU DẤU – Thơ Huy Phương

HAPPY FATHER’ S DAY

Tinh Cha -Ngoc Son -Quang Le

httpv://www.youtube.com/watch?v=9TTKk4KqTMM&index=1&list=PLD62E11EE07BA43AF

TINH CHA NHAN NHU -Tho Quynh Vi – Nhac Andre Rieu

httpv://www.youtube.com/watch?v=5lkgUXPTF3w&list=PLD62E11EE07BA43AF&index=4

GỞI CON YÊU DẤU – Thơ Huy Phương

httpv://www.youtube.com/watch?v=xLTTz3oqt3M&index=10&list=PLD62E11EE07BA43AF

Vé độc đắc như chén rượu độc!

Vé độc đắc như chén rượu độc!

Chu Nguyen

Cuối tháng 03, 2013, giới truyền thông Anh quốc được phen giới thiệu một bi hài kịch của một chàng trung niên của vương quốc sương mù. Nhân vật Roger Griffiths đang sống cuộc sống bình thường của một trí thức bậc trung, kinh tế ổn định hạnh phúc bên vợ là Lara và hai con gái kháu khỉnh thông minh, bỗng nhiên trúng số với vé trúng 1,8 triệu bảng Anh tương đương với khoảng 2,6 triệu Mỹ kim. Nhưng trong thời gian chưa đầy 6 năm, anh ta chỉ còn có 7 bảng Anh hay vào khoảng 10 Mỹ kim.

Trúng số thay đổi cuộc đời, có thể tốt hơn hay xấu hơn có khá nhiều thí dụ trong đời sống thường ngày. Nhưng có điều chắc chắn, trúng số đã khiến người ta thay đổi cuộc đời và áp lực thay đổi khiến nhiều nhà tân triệu phú mất hẳn cái bản sắc, cá tính vốn có lúc chưa trúng số.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng từng viết truyện Trúng số độc đắc. Nhân vật chính là Nguyễn văn Phúc, thất nghiệp bị gia đình và vợ khinh bỉ, xin việc thì bị chủ Tây vứt đơn vào sọt rác. Nhưng bỗng nhiên chàng trai trúng số và bắt đầu cảm thấy có sự đổi thay nơi bản thân, cả thế giới bên ngoài như đổi hẳn cách nhìn anh ta. Từ đó, tạo ra biết bao bi hài kịch của một người khố rách áo ôm chỉ vì bỗng nhiên trở nên giàu có.

Truyện đời thực không nhằm mỉa mai đời mà tập trung vào người trong cuộc. Hai vợ chồng cầm trong tay món tiền từ trên Trời rơi xuống và rất thường tình, họ bàn tán có nên bỏ việc không, làm cách nào làm giàu thêm nhờ có vốn nhưng rồi tiền bạc làm thay đổi cách sống của họ, “ăn theo thuở ở theo thời” nên chỉ trong thời gian ngắn là tiêu hết của hoạnh tài và đôi lứa “không nhìn về một phía” nữa mà nhìn nhau, trách móc nhau.

Roger Griffiths bào chữa trước lời chỉ tích của vợ: “Cô ấy trách tôi làm tiêu tan 1,8 triệu bảng… nhưng sao cô ấy không nhớ đã tiêu biết bao nhiêu ở Louisvutton ?”
Nguyên nhân nào khiến tiền bạc trôi nhanh như nước chảy về đông? Không phải kẻ bàng quan đoán mò mà chính người trong cuộc đã cho báo chí biết tình trạng của họ.

Vinh hoa kéo dài 6 năm:

Đôi vợ chồng trẻ Roger Griffiths trước 2005, sống êm đềm và đầy đủ trong một căn nhà bốn phòng ở Boston Spa ở West Yorkshire, Anh quốc, và chẳng bao giờ đóng trễ tiền mortgage. Người chồng kiếm 38.000 bảng mỗi năm. Lương người vợ cũng xấp xỉ. Có thể nói vợ chồng Griffiths “trông lên không bằng ai nhưng trông xuống cũng nhiều kẻ không bằng mình” vì lương của chồng, giám đốc một bộ phận tuyển dụng trong ngành IT, và lương vợ, giáo sư môn nghệ thuật tại một trường trung học, đủ để họ sống hết kiếp trong sung túc. Nhưng họ không tri túc mà muốn trở thành phú ông, sống như triệu phú, và cách duy nhất để nuôi hy vọng là mua vé số quốc gia. Mỗi tuần Griffiths để ra 2 bảng để đánh số. Có trúng số mới được làm triệu phú và sống vô giới hạn nghĩa là tự do, thoải mái và có thể đạt được giấc mơ trong đời mình.
May cho họ, thần tài gõ cửa vào 2005 với vé độc đắc trúng 1,8 triệu bảng Anh.

Đêm nghe tin trúng độc đắc, vợ chồng Griffiths đã tung tiền ra cho dạ tiệc và tưới sâm banh vào chiến thắng. Tiếp đó mua ngay chiếc Audi giá 18.000 bảng và Lara thì vội vàng tổ chức du lãm Dubai cùng chồng con bằng hạng dành cho kỹ nghệ gia và ở khách sạn 5 sao cho thỏa thích. Roger nhớ lại và có ý tự hào về sự xài sang: “Trong mười ngày chúng tôi đã xài hết 15.000 bảng”.

Roger còn kể thêm, Lara thì thích sắm đồ và cả ngày lượn quanh khu bán sắc tay loại xịn Louis Vuiton bất chấp giá cả hoặc chọn trang sức hột xoàn đắt tiền. Còn anh, anh khiêm tốn hơn… chỉ thích chơi xe sang và ăn mặc bảnh bao..

Trở về Anh họ tính mua nhà và chọn một kiến trúc ở Whetherby. Họ đã bỏ ra 18.000 bảng để tân trang như ý và 25.000 bảng để sắm đồ đạc.

Không ngừng tại đó, Roger thay xe Porsshe cho xứng vời danh hiệu phú ông, còn Lara thì đổi Audi sang Lexus. Hai cô con gái cũng được đổi trường, Ruby, giờ đã 9 tuổi, còn Kitti, 6, lập tức được chuyển trường tư, tốn phí 20.000 bảng mỗi năm.
Giàu thì phải sống như triệu phú mới được, họ thường tổ chức đi du lịch, sau Dubai, là New York, Florida và Rome và luôn luôn chọn khách sạn hạng sang như Royal Suite of St. Regis vì có người quản lý riêng.

Thứ bảy nếu buồn, vợ chồng tân triệu phú lên London thuê khách sạn thứ xịn là One Aldwych để hưởng thụ cho tiện nhưng giá không rẻ đâu nhé vì tới 300 bảng một đêm vui. Không sao vì họ có dịp gặp những ngôi sao màn bạc nổi danh và chụp ảnh chung làm kỷ niệm.
Vốn đẹp trai nhưng có tiền thì nên đánh bóng cho hình thức thẩm mỹ như làm trắng bộ răng ám thuốc lá, xài 300 bảng mỗi lần cho việc bơm Botox, tốn hơn 500 bảng xăm hình, trong đó trên bắp vế có cả tên người vợ là Lara.

Roger Griffiths không phải chỉ tung tiền ra mua những xe sang trọng nhất, mà còn toan đầu tư kiếm lời chứ không bằng lòng với số lợi nhuận do tiền gửi ngân hàng trả hằng tháng vào khoảng 340 bảng Anh một ngày, nhất là hai vợ chồng đã bỏ việc mà muốn chơi sang.
Có tiền thì muốn thực hiện giấc mộng khi còn tay trắng mộng đầy, Griffiths có máu nghệ sĩ, anh ta nhớ lại lúc còn học ở đại học cùng bạn bè lập một băng nhạc nhưng không có tiền để phát triển băng này nên sau khi rời trường thì thành viên tan tác. Griffiths bèn tập hợp bạn bè cũ lại và cho ra album mới sau khi đầu tư £25,000 (50.000 Mỹ kim) nhưng số xui, quảng cáo ra rả nhưng chỉ bán được 600 đĩa CD.

Không phải Griffiths không có ý đầu tư. Vợ chồâng anh ta đã bỏ ra 200.000 bảng Anh để lập thẩm mỹ viện, lấy tên là The Spa Lounge ở Boston Spa.
Griffiths cho biết đã làm cật lực để đưa Spa lên nhưng chỉ mấy tháng kinh doanh đầu tiên có lời rồi thì kinh tế khủng hoảng khiến vợ chống anh ta thua lỗ.

Như thế lỗi không hoàn toàn ở Roger Griffiths mà do thời cuộc đã làm tan giấc mộng vàng của vợ chồng anh. Hơn thế nữa, hình như đồng tiền xổ số mang lại không phải không có chút bất hạnh. Trước hết là thân phụ Lara lâm bệnh, chết năm 2009 rồi đêm trừ tịch Tết Tây 2010 một đám cháy bất ngờ phát ra làm tiêu tan biết bao tài sản trong tổ ấm của vợ chồng Griffiths. Cặp này lại bảo hành không đủ mặt nên phải móc túi ra cho việc sửa chữa. Hai tháng sau khi trở về nhà cũ và Lara đau đớn phát giác trong email của chồng có dấu hiệu ngoại tình. Roger chối và bị vợ cật vấn thì cuộc cãi nhau bùng nổ và chàng khăn gói ra đi.

Như trên đã nói, một cuộc đầu tư vụng trong thời gian kinh tế khủng hoảng, đã khiến Griffiths không những mất tiền, mất nhà và hôn nhân tan vỡ. Giờ đây chàng trai nợ nần cùng mình đi làm cũng để trả nổi những “bill” khi có tiền vung tay quá trán và giờ đây, thất thế đành ngửa tay xin tiền cha mẹ giúp lúc cùng đường. Cựu triệu phú tâm sự: “Số tiền giờ đây tôi kiếm được không đủ dùng để trả hóa đơn chồng chất cái thuở hoàng kim. Nếu không có gia đình giúp đỡ thì tôi nguy rồi. Nhìn lại mới thấm thía cầm vé số độc đắc chẳng khác gì nhận ly rượu độc”.
Hoàn cảnh Lara vô cùng áp lực. Không còn chọn lựa nào khác ngoài tiếp tục bơm tiền vào dịch vụ bằng cách cầm cố nhà lấy tiền củng cố cửa hàng. Những lỗ này tiếp theo lỗ khác nên nhà có cơ nguy bị tịch thu.

Trước đó, Roger Griffiths lại bay bướm, tìm của lạ khi có tiền trong tay và khi vỡ nợ thì gánh nặng tiền bạc đổ vào đầu Lara, chàng ta nhanh chóng dọn ra ngoài thuê phòng trọ, còn nàng nuôi con và kiếm tiền hằng tháng nhưng không đủ trang trải nợ nần và có cơ nguy mất nhà.
Cuộc tình 14 năm tan vỡ, chồng đổ cho vợ, vợ đổ tội cho chồng về việc tiêu quá nhanh “món tiền trời cho” và hậu quả tới nước trắêng tay lại mang nợ.

Lara nghĩ tới lần trúng số mà tê tái. Nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt Lara tâm sự với một ký giả: “Tôi đã nhận ra trúng số không tốt như người ta tưởng đâu. Một số người sau khi trúng số lại tệ hơn lúc trước khi hưởng độc đắc, chỉ vì chúng ta thắng được món tiền chứ không kiếm ra nó. Tôi không những phải làm lại từ đầu mà hoàn cảnh còn tệ hại hơn trước khi trúng số”.
Lara cho đến nay khi nhắc lại thất bại của đời mình đều đổ tại chồng vụng tính. Bà than thở: “Anh ấy đưa giấy tờ đầu tư mỹ viện nhưng tôi không đọc và chỉ biết ký tên và khi biết thì đã muộn phải gánh chịu hậu quả thua lỗ”.

Ngày nay Lara phải làm việc với vai trò chuyên viên thẩm mỹ cho mỹ viện mà trước kia của mình nhưng sau này phải bán sau khi lỗ 500.000 bảng Anh.
Trở lại cảnh nghèo sau khi tỉnh giấc mộng nam kha lẽ ra cả hai vợ chồng Roger Griffiths có thể đối phó được nếu Roger vẫn là chàng trai thuở ban đầu. Lara nhớ lại, cả hai gặp nhau khi cùng học ở Đại học Lanscaster và lấy nhau vào năm 1997. Lara tâm sự: “Trong dịp kỷ niệm 10 năm lễ cưới anh ta gửi cho tôi một tấm thiếp cho tôi biết anh tự hào vì có tôi và rằng mỗi giây trôi qua tình yêu của anh dành cho tôi càng tăng thêm”.

Nhưng sau khi trúng số Roger đã biến thành một người khác xa lạ với Lara. Hờ hững và đôi khi nặng lời với vợ, theo đuổi vụng trộm cô gái khác, lạnh lùng với con. Những biểu hiệu này làm hôn nhân từng kéo dài 14 năm tan vỡ. Lara tâm sự: “Tôi chấp nhận lấy Roger vì anh ta là người biết suy nghĩ và rất tốt. Anh ấy săn sóc tôi và con cái và là người cha ưu tú… Giờ đây nhìn lại chúng tôi chỉ trao đổi ý kiến qua text và nhiều khi “gặp nhau ghé nón chạm vai chẳng chào”.

Phải chăng tiền bạc vun xới ái tình và chính nó có thể dập tắt lửa tình và trúng số có thể xây dựng lâu đài hạnh phúc nhưng cũng đôi khi xói mòn chân móng hạnh phúc.

5 câu chuyện hay về người Cha

5 câu chuyện hay về người Cha

Câu chuyện thứ 1: Con có còn dư đồng nào không?

Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi. Từ nhà đếnchỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:”Có dư đồng nào không con?”. Tôi đáp:”Còn dư bốn ngàn ba ạ”. Ba nói tiếp:”Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa”. Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng…
(ST)

Câu chuyện thứ hai: Quà con tặng bố

Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà màu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp giấy.

Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ vẫn mang hộp quà đến nói với cha: “Con tặng bố!”. Người cha cảm thấy bối rối vì cơn giận dữ của mình tối hôm trước, nhưng rồi cơn giận dữ lại bùng lên khi ông mở ra, thấy cái hộp trống rỗng.

Ông mắng con gái. Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, thưa: “Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào hộp để tặng bố mà!”.
Người cha giật mình. Ông vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ cầu xin con tha thứ.

Đứa con gái nhỏ, sau đấy không bao lâu, qua đời trong một tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn khư khư giữ cái hộp giấy bên mình, mỗi khi gặp chuyện nản lòng, ông lấy ra một nụ hôn tưởng tượng và nghĩ đến tình yêu mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.

Trong cuộc sống, chúng ta đã và sẽ nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy tình yêu và những nụ hôn vô tư từ con cái của chúng ta, từ bạn bè, gia đình. Trên đời này, chúng ta không thể có được tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu vô tư như thế.(ST)

Câu chuyện thứ ba: Ngọn nến không cháy

Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ, hạnh phúc. Một hôm, đứa bé gái chẳng may bị bệnh và ra đi mãi mãi. Người cha quá đau khổ , tuyệt vọng, quay lưng lại với tất cả mọi người. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống nữa. Ông tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi.

Một hôm, ngưòi cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước đèn. Tất cả ngọn đèn đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé cuối. Đứa bé ấy cầm một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là đứa con gấi bé bỏng của mình.

Ông tiến lại gần và hỏi con rằng: ” Tại sao nến của con lại không cháy?”. Bé gái đã đáp rằng: ” Con đã cố lắm nhưng không được cha à! Mỗi lần con thắp lên ngọn nến thì những gịot nước mắt của cha lại dập tắt hết ngọn nến của con”.

Đến đó thì người cha choàng tỉnh. Từ đó, ông lấy lại thăng bằng, lại sống vui vẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh bởi ông không muốn những giọt nước mắt của ông lại dập tắt ngọn nến hi vọng của con ông.

Nước mắt chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể làm tan biến hoàn toàn nỗi mất mát lớn lao. Hãy cứ khóc khi bạn cần, nhưng hãy đứng lên vững vàng bạn nhé! Bởi ngoài kia, đâu đó, ở một nơi nào đó, người thân của bạn đang nhìn bạn mỉm cười
(ST)

Câu chuyện thứ tư: Tô mì

Vào một buổi chiều mùa xuân lạnh lẽo, trước cửa quán xuất hiện hai vị khách rất đặc biệt, một người cha và một người con. Nói đặc biệt là bởi vì người cha bị mù. Người con trai đi bên cạnh cẩn mẫn dìu người cha. Cậu con trai trạc mười tám mười chín tuổi, quần áo đơn giản, lộ rõ vẻ nghèo túng, nhưng từ cậu lại toát lên nét trầm tĩnh của người có học, dường như cậu vẫn đang là học sinh..

Cậu con trai tiến đến trước mặt tôi: “Cho hai bát mì bò!”, cậu nói to. Tôi đang định viết hoá đơn, thì cậu ta hướng về phía tôi và xua xua tay. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta, cậu ta nhoẻn miệng cười biết lỗi, rồi chỉ tay vào bảng giá treo ở trên tường, phía sau lưng tôi, bảo tôi rằng chỉ làm 1 bát mì cho thịt bò, bát kia chỉ cần rắc chút hành là được. Lúc đầu, tôi hơi hoảng, nhưng sau đó chợt hiểu ra ngay. Hoá ra, cậu ta gọi to hai bát mì thịt bò như vậy là cố tình để cho người cha nghe thấy, thực ra thì tiền không đủ, nhưng lại không muốn cho cha biết. Tôi cười với cậu ta tỏ vẻ hiểu ý.

Nhà bếp nhanh nhẹn bê lên ngay hai bát mì nóng hổi. Cậu con trai chuyển bát mì bò đến trước mặt cha, ân cần chăm sóc: “Cha, có mì rồi, cha ăn đi thôi, cha cẩn thận kẻo nóng đấy ạ!”. Rồi cậu ta tự bưng bát mì nước về phía mình. Người cha không vội ăn ngay, ông cầm đũa dò dẫm đưa qua đưa lại trong bát. Mãi lâu sau, ông mới gắp trúng một miếng thịt, vội vàng bỏ miếng thịt vào bát của người con. “An đi con, con ăn nhiều thêm một chút, ăn no rồi học hành chăm chỉ, sắp thi tốt nghiệp rồi, nếu mà thi đỗ đại học, sau này làm người có ích cho xã hội.” Người cha nói với giọng hiền từ, đôi mắt tuy mờ đục vô hồn, nhưng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn lại sáng lên nụ cười ấm áp. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên đó là, cái cậu con trai đó không hề cản trở việc cha gắp thịt cho mình, mà cứ im như thóc đón nhận miếng thịt từ bát của cha, rồi lại lặng lẽ gắp miếng thịt đó trả về.

Cứ lặp đi lặp lại như vậy, dường như thịt trong bát của người cha cứ gắp lại đầy, gắp mãi không hết. “Cái quán này thật tử tế quá, một bát mì mà biết bao nhiêu là thịt.” Ông lão cảm động nói. Kẻ đứng ngay bên cạnh là tôi, chợt toát hết cả mồ hôi, trong bát chỉ có vài mẩu thịt tội nghiệp, quắt queo bằng móng tay, lại mỏng chẳng khác gì xác ve. Người con trai nghe vậy vội vàng tiếp lời cha: “Cha à, cha ăn mau ăn đi, bát của con đầy ắp không biết để vào đâu rồi đây này. ” “Ừ, ừ, con ăn nhanh lên, ăn mì bò thực ra cũng có chất lắm đấy.”

Hành động và lời nói của hai cha con đã làm chúng tôi rất xúc động. Chẳng biết từ khi nào, bà chủ cũng đã ra đứng cạnh tôi, lặng lẽ nhìn hai cha con họ. Vừa lúc đó, cậu Trương đầu bếp bê lên một đĩa thịt bò vừa thái, bà chủ dẩu dẩu môi ra hiệu bảo cậu đặt lên bàn của hai cha con nọ. Cậu con trai ngẩng đầu tròn mắt nhìn một lúc, bàn này chỉ có mỗi hai cha con cậu ngồi, cậu ta vội vàng hỏi lại: “Anh để nhầm bàn rồi thì phải?, chúng tôi không gọi thịt bò.” Bà chủ mỉm cười bước lại chỗ họ: “Không nhầm đâu, hôm nay chúng tôi kỉ niệm ngày mở quán, đĩa thịt này là quà biếu khách hàng. ” Cậu con trai cười cười, không hỏi gì thêm.

Cậu lại gắp thêm vài miếng thịt vào bát người cha, sau đó, bỏ phần còn thừa vào trong một cái túi nhựa. Chúng tôi cứ im lặng chờ cho hai cha con ăn xong, rồi lại dõi mắt tiễn hai cha con ra khỏ quán. Mãi khi cậu Trương đi thu bát đĩa, đột nhiên kêu lên khe khẽ. Hoá ra, đáy bát của cậu con trai đè lên mấy tờ tiền giấy, vừa đúng giá tiền của một đĩa thịt bò, được viết trên bảng giá của cửa hàng. Cùng lúc, Tôi, bà chủ, và cả cậu Trương chẳng ai nói lên lời, chỉ lặng lẽ thở dài, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.”
(ST)

Câu chuyện thứ năm: Đấu giá cuối cùng (đã phổ biến)

Có một người đàn ông yêu thích mỹ thuật. Ông ta say mê đến mức gần như sống vì niềm say mê của mình. Sưu tập tranh là mục tiêu cả đời của ông.

Ông làm việc rất chăm chỉ để dành tiền tiết kiệm nhằm mua thêm các tác phẩm hội họa cho bộ sưu tập của mình. Ông mua rất nhiều tác phẩm của các họa sỹ nổi tiếng.

Người đàn ông này đã góa vợ. Ông chỉ có một người con trai. Ông đã truyền lại cho con mình niềm say mê sưu tầm đó. Ông rất tự hào về con trai của mình khi anh ta cũng trở thành một nhà sưu tầm nổi tiếng như ông.

Một thời gian sau, đất nước bỗng có chiến tranh. Người con trai, cũng như mọi thanh niên khác, lên đường tòng quân. Và sau một thời gian thì câu chuyện xảy ra…

Một hôm, người cha nhận được một lá thư thông báo rằng người con đã mất tích khi đang làm nhiệm vụ. Người cha đau khổ đến tột cùng. Thật là khủng khiếp khi người cha không thể biết được điều gì đang xảy ra với con mình. Vài tuần sau ông nhận được một lá thư nữa. Lá thư này báo với ông rằng con ông đã hy sinh khi làm nhiệm vụ. Ông gần như chết đi một nửa người. Thật khó khăn khi đọc tiếp lá thư đó, nhưng ông vẫn cố. Trong thư, người ta báo rằng con ông đã rút lui đến nơi an toàn. Nhưng thấy trên bãi chiến trường vẫn còn những đồng đội bị thương, con ông đã quay lại và đưa về từng thương binh một. Cho đến khi đưa người cuối cùng về gần đến khu vực an toàn thì con ông đã trúng đạn và hy sinh.

Một tháng sau, đến ngày Noel, ông không muốn ra khỏi nhà. Ông không thể hình dung được một Noel mà thiếu con trai mình bên cạnh. Ông đang ở trong nhà thì có tiếng chuông gọi cửa. Đứng trước cửa nhà là một chàng trai tay cầm một bọc lớn.

Chàng trai nói “Thưa bác, bác không biết cháu, nhưng cháu là người mà con bác đã cứu trước khi hy sinh. Cháu không giàu có, nên cháu không biết đem đến cái gì để đền đáp cho điều mà con bác đã làm cho cháu. Cháu được anh ấy kể lại rằng bác thích sưu tầm tranh, bởi vậy dù cháu không phải là một họa sỹ, cháu cũng vẽ một bức chân dung con trai bác để tặngcho bác. Cháu mong bác nhận cho cháu.”

Người cha đem bức tranh vào nhà, mở ra. Tháo bức tranh giá trị nhất vẫn treo trên lò sưởi xuống, ông thay vào đó là bức chân dung người con. Nước mắt lưng tròng, ông nói với chàng trai “Đây là bức tranh giá trị nhất mà ta có được. Nó có giá trị hơn tất cả các tranh mà ta có trong căn nhà này.” Chàng trai ở lại với người cha qua Noel đó rồi hai người chia tay. Sau vài năm, người cha bị bệnh nặng. Tin tức về việc ông qua đời lan truyền đi rất xa. Mọi người đều muốn tham gia vào cuộc bán đấu giá những tác phẩm nghệ thuật mà người cha đã sưu tầm được qua thời gian.

Cuối cùng thì buổi bán đấu giá cũng được công bố vào ngày Noel năm đó. Các nhà sưu tầm và những nhà đại diện cho các viện bảo tàng đều háo hức muốn mua các tác phẩm nổi tiếng. Toà nhà bán đấu giá đầy người.

Người điều khiển đứng lên và nói “Tôi xin cám ơn mọi người đã đến đông đủ như vậy. Bức tranh đầu tiên sẽ là bức chân dung này…”

Có người la lên “Đó chỉ là chân dung đứa con trai ông cụ thôi! Sao chúng ta không bỏ qua nó, và bắt đầu bằng những bức có giá trị thật sự?”
– Người điều khiển nói “Chúng ta sẽ bắt đầu bằng bức này trước!”
– Người điều khiển bắt đầu “Ai sẽ mua với giá $100?”
– Không ai trả lời nên ông ta lại tiếp “Ai sẽ mua với giá $50?”
– Cũng không có ai trả lời nên ông ta lại hỏi “Có ai mua với giá $40?”

Cũng không ai muốn mua. Người điều khiển lại hỏi “Không ai muốn trả giá cho bức tranh này sao?” Một người đàn ông già đứng lên “Anh có thể bán với giá $10 được không? Anh thấy đấy, $10 là tất cả những gì tôi có. Tôi là hàng xóm của ông cụ và tôi biết thằng bé đó. Tôi đã thấy thằng bé lớn lên và tôi thật sự yêu quý nó. Tôi rất muốn có bức tranh đó. Vậy anh có đồng ý không?”

Người điều khiển nói “$10 lần thứ nhất, lần thứ nhì, bán!”

Tiếng ồn ào vui mừng nổi lên và mọi người nói với nhau “Chúng ta có thể bắt đầu thật sự được rồi!” Người điều khiển nói “Xin cảm ơn mọi người đã đến. Thật là vinh hạnh khi có mặt những vị khách quý ở đây. Bữa nay chúng ta sẽ dừng tại đây!”

Đám đông nổi giận “Anh nói là hết đấu giá? Anh vẫn chưa đấu giá toàn bộ các tác phẩm nổi tiếng kia mà?” Người điều khiển nói “Tôi xin lỗi nhưng buổi bán đấu giá đã chấm dứt. Mọi người hãy xem chúc thư của ông cụ đây, NGƯỜI NÀO LẤY BỨC CHÂN DUNG CON TÔI SẼ ĐƯỢC TẤT CẢ CÁC BỨC TRANH CÒN LẠI! Và đó là lời cuối cùng!”

 

“Lướt theo chiều gió,”

“Lướt theo chiều gió,”

Một con thuyền, theo trăng trong

Trôi trên sông thương, nước chảy đôi giòng.”

(Đặng Thế Phong – Con Thuyền Không Bến)

(Lc 6: 36)

Thuyền trên sông Thương hay sống “Mến” có nước chảy đôi giòng, mà lại không có bến, thì chỉ có nước cứ lênh đênh ba chìm bẩy nổi, rất long đong. Thuyền nhà Giáo hội, lại cũng là thuyền trên giòng sông Yêu-thương xưa nay vẫn có bến/có bờ, chẳng nghi ngờ gì một tình-huống long đong rất như thế.

Thuyền Hội-thánh Công-giáo La Mã hôm nay, chắc cũng không giống như câu hát tiếp:

“Ðêm nay thu sang cùng heo may

Ðêm nay sương lam mờ chân mây

Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng

Như nhớ thương ai chùng tơ lòng.

Trong cây hơi thu cùng heo may

Vi vu qua muôn cành mơ say

Miền xa lời gió vang thông ngàn

Ai oán thương ai tàn mơ màng.”

(Đặng Thế Phong – bđd)

Vâng. Thuyền không bến bờ, mà lại hát “ai oán thương ai tàn mơ màng” như thế, chắc sẽ mãi mãi chẳng thấy bờ bến thương yêu, mỹ-miều ở đâu hết. Thuyền Hội thánh, thật ra tuy chẳng hát nhiều nhưng vẫn thấy nhà Đạo khẳng định tình thương xót xa rất thánh-hội, như ý-kiến của Đức Hồng Y Walter Kasper qua câu trả lời phỏng vấn do nhà báo đặt ra như sau:

Nhà báo: Thưa Đức Hồng Y, trong cuốn có tựa đề là “Mercy: The Essence of the Gospel and the Key to Christian Life”, ngài có viết: “Tình Thương Yêu Xót Xa, là bản-chất của Thiên-Chúa. Vậy, làm sao để người đọc hiểu được Lòng thương-xót của Chúa, đây?

Hồng Y Kasper: Tín-điều Chúa gửi đến với ta, là do ta hiểu-biết về bản-thể của Chúa rất như thế. Thiên-Chúa, đương nhiên là thế, và còn hơn thế nữa. Điều này không có gì là sai quấy hết. Nhưng, Kinh Sách Đạo Chúa hiểu một cách sâu-sắc và tư riêng hơn. Chẳng hạn: trong chuyện kể về Bụi Cây Bốc Cháy ở Cựu Ước, tương-quan giữa Giavê Thiên-Chúa với Môsê qua Lời Ngài khẳng-định bảo rằng: “Ta có” mà là: “Ta có với ngươi. Ta có là cho ngươi. Ta cùng đi với người”. Trong bối cảnh này, lòng xót thương đã đặt nền tảng kiên cố ở Cựu-Ước. Thiên-Chúa của Cựu-Ước không là Đức Chúa chuyên giận-dữ mà là Đức Chúa chuyên tỏ lòng xót thương, nếu đọc kỹ. Và, các Thánh vịnh còn cho thấy rõ điều này nữa.

Lối hiểu-biết tận thâm căn về Thiên-Chúa khi xưa cũng khá mạnh đến độ Thiên-Chúa được xem là Đấng Công-Chính, chứ không là Đấng Đầy Xót Thương. Thánh Tôma Akinô từng nói rõ: tình thương mang ý-nghĩa căn-bản/triệt-để hơn, bởi lẽ Thiên-Chúa không là lời đáp-trả cho các đòi hỏi nơi qui-định của con người. Lòng Thương Xót là tính-chất rất đáng tin-tưởng của Thiên-Chúa đối với bản-thể đầy tính thương-yêu của Ngài. Bởi lẽ, Thiên-Chúa là Tình-yêu. Và, lòng xót thương là Tình-yêu bày tỏ cho ta bằng hành-động và lời nói rất cụ-thể. Thế nên, lòng xót thương trở nên không chỉ là thuộc-tính trọng-yếu của Thiên-Chúa mà thôi, nhưng còn là chìa khoá cho lòng Đạo rất hiện-hữu nữa.

Thành thử, hãy tỏ lòng thương-xót với mọi người như Thiên-Chúa đầy lòng xót-thương. Và, ta vẫn cứ phải học đòi bắt chước Lòng Chúa xót-thương mới được.

Nhà báo: Thưa Đức Hồng Y, tại sao hôm nay, Giáo hội cần phải nói lại cho mọi ngươòi hiểu điều đó, thế?

ĐHY Kasper: Thế kỷ thứ 20 là một thế-kỷ đầy tăm-tối với 2 cuộc chiến thế-giới, lại qui-tụ nhiều hệ-thống độc-tài toàn trị, những đảo ngục tù kiểu gulag, trại tập-trung, nạn diệt chủng người Do-thái, vv… Và, thế-kỷ thứ 21 khởi-đầu một cách không mấy tốt đẹp hơn trước. Chúng dân cần được thương-xót và thứ tha. Đó, cũng là lý-do khiến Đức Giáo Hoàng Gioan 23 có viết trong cuốn tiểu-sử linh-đạo trong đó ngài có nói: lòng xót thương là “thuộc-tính” đẹp nhất của Thiên-Chúa. Và, trong bài phát-biểu mở đầu Công Đồng Vaticăng 2, ngài lại nói: Giáo-hội Chúa luôn cưỡng-chống lại các sai sót của thời-đại, thông thường với tất cả tính nghiêm-túc cần có, nhưng ngày này ta lại cứ phải dùng đến thang thuốc của lòng xót thương, để làm thế. Đây là một bước nhảy rất lớn lao. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị đã sống xuyên suốt qua giai-đoạn cuối của Thế Chiến thứ 2 và rồi cũng đã ngang qua chế độ Cộng-sản ở Ba Lan. Thế nên, ngài thấy rõ nỗi khổ của dân ngài và của chính nỗi khổ-tâm ngài từng gánh chịu, trong đời. Với ngài, lòng xót thương là yếu-tố rất quan trọng, trong đời người. Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16 lại cũng ra tông-thư đầu tay qua đó ngài nhất mực khẳng định: Thiên-Chúa là Tình-Yêu. Và nay, thì Đức Giáo hoàng Phanxicô, từng sống trải-nghiệm với chúng dân ở Nam Bán Cầu, nơi đó lại có đến hai phần ba người Công Giáo đang sống trong cảnh thiếu thốn, khó nghèo. Thế nên, ngài cũng đã coi lòng xót thương là trọng-điểm cho triều-đại giáo-hoàng của ngài. Theo tôi, thì đây là câu trả lời cho các dấu chỉ của thời đại ta đang sống…” (xem Matthew Boudway và Grant Gallicho, Phỏng vấn Đức Hồng Y Walter Kasper, 7/5/14)

Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng: Đức Hồng Y nhà mình nhận-định về lòng xót thương mà dân con trong Đạo từng am hiểu qua nhiều năm tháng ngày giờ như thế rất không sai. Nhưng hỏi rằng: dân con trong đạo hiểu và sống thế nào, về lòng xót thương của Chúa, lại là chuyện khác.

Và, trước khi nghiên-cứu những chuyện rất khác thế, cũng nên về với thi ca mà hát rằng:

“Biết đâu bờ bến

Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu?

Trên con sông Thương, nào ai biết nông sâu?

Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng

Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng

Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong

Ánh trăng mờ chiếu, một con thuyền trong đêm thâu

Trên sông bao la, thuyền mơ bến nơi đâu?”

(Đặng Thế Phong – bđd)

Nói gì thì nói. Hát gì thì hát, cũng nên hát và nói những lời vàng được thánh sử Luca từng ghi lại: 

“Anh em hãy có lòng nhân từ thương xót,

như Cha anh em

là Đấng nhân từ xót thương.”

(Lc 6: 36)

Nay hỏi rằng, “lòng nhân từ thương xót” được thánh-sử ghi lại ở trên có là khẳng-định “ắt và đủ” cho dân con nhà Đạo, chăng? Và, dân con Đạo mình có thực-thi điều đó hay không? Và, các nhà thần-học cùng chú giải Kinh thánh, nói thế nào về những điều này?

Và đây, là một trong các ý-kiến của đấng bậc nhà Đạo, từng giảng-giải về “lòng thương xót Chúa cho đi hết mình Ngài, như sau:

“Chúa cho đi, không phải sự sống của Ngài, cho bằng cả “tâm-thân” Ngài. Và, Ngài tặng ban “tâm-thân” Ngài hiểu theo nghĩa cụm-từ “Lytron” bên tiếng Hy-Lạp, là từ-vựng chính buộc ta phải xem xét ngay với tự-vựng tiếng Aram là ‘hoi polloi”, tức khối lượng những người không mang bất kỳ tên gọi một ai hết. Đây là sự-việc nói về “tình yêu dành cho tha-nhân” được hiểu một cách không hạn-hẹp về sự chết của Ngài, nhưng bao gồm mọi thứ thuộc toàn-bộ con người của Ngài và toàn-bộ tất cả những gì Ngài làm trong đời, cả bản-thể Ngài cũng như những gì Ngài làm trong cuộc sống có Phục sinh/trỗi dậy. Đây là sự “cho đi” chính bản-thể của Ngài, chứ không chỉ mỗi cuộc sống rất xác-phàm của Ngài mà thôi. Đó là tính-cách “lytron”, ban đầu được sử-dụng để đưa ra ý-nghĩa về một “thế-chấp bảo-kê” cho những ai được đưa vào tương-quan giao-ước rất miên trường. Họ là ai? Là chúng dân ở khắp nơi, bất cứ nơi nào cũng có họ ở đó. Họ là những người bị bỏ rơi, quên lãng, tức những kẻ bị hạ giá/xuống cấp ở bất cứ xã-hội nào đặt dưới hệ-thống quyền-lực hoặc cơ-chế của đế-quốc.” (xem Lm Kevin O’Shea, CSsR Ơn Cứu Chuộc  và thần-học lịch-sử từ Thánh Kinh, www.giadinhanphong.blogspot.com 01-4-2014).

Và, đã nói thì phải nói cho cùng, cho xuyên suốt một ý-nghĩa thần-học về lòng xót thương của Đức Chúa, để chứng-minh cho cái chết Ngài chấp-nhận cho riêng Ngài, không phải chỉ để đền bù mọi lỗi tội của người phàm trần, mà là để xác-chứng lòng thương xót vô bờ bến của Ngài, như đấng bậc ở trên, lại đã viết rất như sau:

“Hỏi rằng: Đức Giêsu chết đi phải chăng là để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không?

Câu trả lời, là: Đúng thế! Nhưng, không theo cách rất chung chung như ta thường thấy. Đức Giêsu minh-chứng cho ta thấy tình-thương-yêu mà loài người không thể tưởng-tượng được của Thiên-Chúa với người nghèo hèn/bé nhỏ, bị áp-bức. Và, bằng vào tình thương-yêu thần thánh của Ngài, Thiên-Chúa luôn khước-từ mọi quyền-lực dù chỉ để chống lại những kẻ từng bức-bách đám “thân-cô thế cô”, đi nữa. Khi nói Đức Giêsu chết đi để chứng-tỏ tình-thương-yêu của Ngài với con người, nói như thế không làm giảm-suy những gì Ngài từng thực-hiện. Nếu so sánh với ý-tưởng về “tình yêu” thông-thường ở đời, thì Tình-thương-yêu của Ngài, ở đây, cần được thăng-hoa dàn trải thật lớn rộng.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-Chuộc và Khúc cuối một Giòng Suy-Tư, bđd 08/5/2014).

Lại có đấng bậc khác, quan niệm Lòng Xót Thương của Chúa diễn tả rất rõ ở truyện kể Tin Mừng về “Người Con Đi Hoang”, đã bảo rằng:

“Điều dễ hiểu lầm là nhiều người vẫn rằng: dù ta làm gì tệ phạm đi nữa, cuối cùng rồi Chúa cũng xót thương, tha thứ. Vậy nên, cứ tha hồ làm điều xấu. Trong tương quan với Đức chúa, có hai việc cần minh định. Trước nhất, Chúa yêu thương mọi người chúng ta. Tình yêu của Ngài không mang điều kiện nào hết. Chẳng cần biết ta là ai? Ta có làm gì chống Chúa, chống anh em? Tình yêu Ngài đối với ta, tuyệt nhiên không suy xuyển.

Thứ đến, có điều chắc chắn, là: chẳng phải vì ta hiền lành/thánh thiện mà Ngài sẽ yêu hơn hoặc nếu ta phạm lỗi, Ngài yêu ít đi. Thiên Chúa là Tình yêu. Tình Ngài yêu ta rất trọn vẹn. Dù là, đối với các vị thánh như Mẹ Têrêsa. Hoặc, với các kẻ độc tài, hình sự. Bởi nếu không, thì Ngài cũng thiên vị, như ai. Chính vì thế, Ngài mới bảo: “Có là người bệnh mới cần đến thầy lang.”

Dầu sao, việc Chúa thứ tha mọi tội, là hành xử vô điều kiện. Điều này thấy rõ nơi dụ ngôn “người em đi hoang” có thái độ của người con đã trót dại: “thích lang thang, ngổ ngáo với đời” và “thích phiêu bạt rong chơi”, như nhà thơ diễn tả. Dù rồ dại, Cha vẫn yêu đứa con “hoang tàng”. Cha không mang thành kiến, hoặc kỳ thị các con: “mãi từ xa trông thấy, Cha đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ người con, và hôn lấy hôn để…” Tình yêu của Cha là như thế. Nhưng tình thương yêu tha thứ của Cha chỉ nên trọn vẹn, khi con biết tỉnh giấc, quay về. Nói khác đi, chỉ có thứ tha trọn vẹn khi có hoà giải. Khi vết thương chia cách được chữa lành. Đây chính là ý nghĩa của bí tích hoà giải, thứ tha.

Trong hòa giải với Chúa, bước dấn thân đầu tiên như “người em đi hoang” đã nghĩ là bước quan trọng. Quan trọng, vì biết chắc Cha sẽ giang rộng đôi tay già ra chào đón ta trở về. Chẳng còn chữ “nếu”, chữ “nhưng”. Chẳng điều kiện, cũng không dè chừng. Không hình phạt, cũng chẳng đòi bồi thường. Điều này, được thánh Phao-lô mạnh dạn nói rõ: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giê-su đã đến thế gian, để cứu người tội lỗi, mà kẻ đầu đàn là tôi.” (1Tm 1: 15).

Cũng thế, đường lối Chúa đón nhận “người em đi hoang” trở về, phải được chứng xác bằng tương quan ta có với người khác nữa. Trong lời cầu Chúa dạy, rõ ràng ta vẫn quyết: “Xin tha cho con mọi lỗi lầm trót phạm, cũng một kiểu như con đã làm cho người anh em.”

Cuối cùng ra, khi đã được tha thứ, cũng nên nhớ thêm Lời Ngài đã phán: “Hãy trở nên trọn lành, vì Cha của chúng ta trên trời là Đấng trọn lành”. Điều này mang ý nghĩa rất sáng tỏ: hãy yêu thương hết mọi người, một cách vô điều kiện, như Chúa hằng yêu ta. Và, hãy sẵn sàng tha thứ cũng như hòa giải với từng người như Ngài đã từng làm như thế, với từng người một.

Việc này không dễ. Nhưng không phải là chẳng thể làm được. Nhưng với sự trợ giúp của Cha, ta luôn hy vọng. Vào tiệc lòng mến  hôm nay, ta cứ hân hoan và hy vọng. Hy vọng là Chúa vẫn thứ tha. Hy vọng là ta cũng sẽ tha thứ hết mọi người. Từ “người em đi hoang” thích phiêu bạt giang hồ, cho chí người anh “vẫn hầu hạ Cha, chẳng khi nào trái lệnh”, và tất cả mọi người.” (xem Lm Richard Leonard sj, Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 24 thường niên năm C, www.suyniemloingai.blogspot.com 15/9/2013)

Hiểu theo ý-hướng thần-học thì như thế. Còn lại, là tâm-tưởng của dân thường ở huyện nghĩ ra sao? Để trả lời, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên đi vào vùng trời truyện kể để lắng nghe câu chuyện diễn tả rất xa xa về ý-hướng, ý-nguyện của người dân thường, như bên dưới

“Có người thợ mộc già nọ làm việc rất chuyên cần và hữu-hiệu lâu năm cho hãng thầu xây cất nọ. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia-đình. Tuy không còn lãnh lương nữa, nhưng ông muốn nghỉ ngơi để an-hưởng tuổi già. Hãng đề-nghị ông cố-gắng ở lại giúp hãng xây một căn nhà chót trước khi thôi việc. Ông nhận lời. Nhưng, vì biết mình sẽ giải-nghệ lại bị miễn-cưỡng làm việc, nên ông làm một cách tắc-trách qua quít, xây nhà bằng vật-liệu tầm thường kém phẩm-chất, miễn có bề ngoài đẹp là được.

Mấy tháng sau, khi xây dựng xong căn-nhà cuối cùng ấy, ông được chủ hãng mời tới, đưa cho ông chìa khoá nhà và nói: “Ông đã tận-tụy phục-vụ hãng rất nhiều năm, để trả công cho những đóng góp của ông cho sự thịnh-vượng của hãng, nay xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!” Thật bàng hoàng. Nếu người thợ xây như ông biết là mình sẽ xây căn nhà cho chính mình, thì ông đã làm việc cẩn-thận và chọn vật-liệu có phẩm-chất tốt hơn. Lối làm việc tắc trách cho căn nhà ấy chỉ mình ông là biết tới, và nay thì ông đành phải sống trong căn nhà mà chỉ riêng ông mới biết là nó kém phẩm-chất.” (trích truyện kể từ điện-thư vừa mới nhận hôm rồi).

Truyện kể vỏn vẹn chỉ mỗi thế. Không thêm hoa lá cành và cũng chẳng lý-luận, phân bua gì hết. Nhưng, người kể hôm nay, lại muốn chia sẻ một bài học rút từ câu chuyện răn đời ở đây: Chuyện kể đây cũng giống chuyện đời người của mọi người. Mọi người đều giống ông thợ già kể ở trên, tạo cuộc sống xa hoa/hào nhoáng, rất tạm bợ, lại cứ đua đòi nhiều thứ, chứ không chú tâm vào phẩm-chất của mọi sự.

Nhiều lúc ngồi nghĩ về hành-xử của mình trong quá khứ, ta thấy mình cứ phải cam chịu hậu-quả do việc mình làm. Đời người, là công-trình kiến-trúc do mình tạo ra. Đời sống hiện-tại vẫn là kết-quả của mọi tạo-dựng ta làm nên trong quá-trình sống. Cuộc sống tương-lai, lại là kết quả của những gì ta tạo-dựng ngay từ hôm nay. Hãy xây dựng đời mình cho đúng đắn, để rồi không hối-hận gì nữa hết, cho mai ngày.

Quyết thế rồi, giờ đây mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên-ngang, đứng thẳng người mà tuyên-bố với mọi người rằng: lòng thương xót Chúa là gương-lành để ta bắt chước, chứ không phải để mình chiêm-ngưỡng theo cung-cách bái lạy đưa lên bàn thờ mà thờ phượng, như thần tượng. Một thứ tượng-thần mới, khi xưa ít thấy có, nhưng nay lại đã thấy ở khắp khung trời mở ngỏ của nhà Đạo.

Chuyện còn lại, vẫn là chọn lựa của tôi, của bạn và của mọi người trong sống đời thương yêu, thương xót hết mọi người như Lời Chúa từng căn dặn ở nhiều nơi.

Nhận định thế rồi, sá gì một vài phút giây để tôi cùng bạn, ta lại hát lên câu ca ở trên làm đoạn kết một cuộc tình, rất xót thương và cũng thương xót, như sau:

“Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng

Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng

Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong

Ánh trăng mờ chiếu, một con thuyền trong đêm thâu

Trên sông bao la, thuyền mơ bến nơi đâu?”

(Đặng Thế Phong – bđd)

Vâng. Sự thật là như thế. Như thế, cũng như thể cuộc đời người cứ như con thuyền không bến không bờ, nếu thiếu đi tình xót thương vô bến bờ, thiếu đợi chờ và vấn vương.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ nhủ người

Và tự nhủ

Đừng quên sót

Lòng xót thương vô bến bờ

Với mọi người.

 

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”

“Ta với đời, thực sự chẳng nương nhau.

Ta với đời, tất nhiên là thua cuộc,

Vì áo cơm, là những ngọn lao nhanh.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Ga 6: 51-58

Với nhà thơ, cuộc đời người chỉ cần mỗi cơm áo gạo tiền có ngọn lao nhanh vút đâm thấu đời lạnh giá. Nơi nhà đạo, cuộc sống ở Nước Trời nào cần đến tiền bạc lẫn cơm áo, nhưng chỉ cần người người biết thương yêu sẻ-san khi đói kém, thiếu thốn mỗi tình người, mà thôi.

Có lần, Đức Gioan Phaolô II từng đặt chân đến Lima, thủ đô nước Pêru thăm dân tình ở đây, ngài cũng cảm-nghiệm được tình-thế của dân con đói nghèo cả cơm áo lẫn tình thương hơn thế. Thoạt lúc ngài đến, có khoảng hai triệu người tìm đến gặp ngài. Thông thường, vào những buổi viếng thăm như thế, hai vị Tổng thống ngoài đời và Hồng Y Giáo chủ trong đạo nước này đều sẽ ra nghênh tiếp và chào mừng Đức Giáo Hoàng, rất êm vui.

Nhưng hôm ấy, lại thấy cặp nam nữ giáo dân bình thường là Irene và Viktor Charo, là hai người nghèo sinh sống tại khu nhà ổ chuột, tiến lên máy vi âm để đạo đạt ý kiến cùng Đức Giáo Hoàng. Vào lúc cả quảng trường chìm lắng trong thinh lặng, hai người đại-diện đã tiến về phía Đức Gioan Phaolô II vỏn vẹn nói mấy câu sau đây:

“Thưa Đức Thánh cha, dân chúng đây đang bị nạn đói hoành hành. Nhiều người trong chúng con đang ốm đói, thiếu ăn, thiếu mặc. Có người không có công ăn việc làm. Con cháu chúng con đang chết dần mòn vì suy dinh dưỡng. Hôm nay, chúng con lên đây để thưa với Đức Thánh Cha, là: chúng con vẫn mạnh mẽ tin vào Đức Chúa của sự sống. Nhưng, cũng xin Đức Thánh Cha biết cho rằng: chúng con đang ốm đói, thèm có gạo/bánh để mà ăn cho đỡ đói bụng”.

Cả triệu người vẫn im lặng như tờ, chờ xem Đức Giáo Hoàng sẽ ứng xử làm sao trước một tình huống ra như thế. Bấy giờ, Đức Gioan Phaolô II lên tiếng hỏi dân chúng bằng ngôn-ngữ Tây Ban Nha:

Phải chăng quý vị muốn nói: dân chúng ở đây đang thiếu ăn, không?”

Cả triệu người đồng thanh đáp lại:

-Dạ, đúng thế! Đúng là như thế!”

Đức Gioan Phaolô II lại hỏi tiếp:

Quý vị cũng nói rằng quý vị đang đói Chúa, có phải không?”

Mọi người đáp:

Dạ, đúng! Đúng là như thế!”

-Thế thì, hôm nay, Cha mong những người đang đói Chúa vẫn cứ vậy nhé. Và, Cha cũng mong cho người đang thèm khát của ăn/thức uống được no đầy, mãn nguyện!”

Lúc ấy, Đức Gioan Phaolô II quay mặt về phía các tướng lãnh và chính-trị-gia ăn no mặc ấm mà phần đông là người Công-giáo ngoan đạo mà nói bằng một giọng đanh-thép, rõ ràng:

“Hôm nay, tôi không chỉ đơn giản nói rằng tôi muốn quý vị san xẻ những gì mình đang có cho người nghèo đói. Nhưng, tôi muốn khẳng định với quý vị là: Hãy trả lại cho họ. Hãy trả tất cả lại cho họ. Vì thức ăn và của cải ấy là của họ, của những người nghèo.”

Quả là, lời lẽ Đức Gioan Phaolô II nói hôm ấy thật khác thường. Hệt như Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay về Thánh-Thể còn khác thường, gấp nhiều lần. Chương 6 Tin Mừng thánh Gioan, cũng cho thấy rất nhiều người đã sửng sốt khi thấy Đức Kitô tỏ bày Ngài đang thực-sự hiện-diện nơi Thánh-Thể. Và, họ cắt đứt không theo Ngài nữa.

Thật ra, thánh-sử Gioan đã nối-kết việc Đức Kitô ban tặng chính Thân Mình Ngài là vì Vương Quốc Nước Trời. Và, Ngài làm thế là để cứu độ dân con loài người. Thành thử, qua hiệp-thông rước Chúa vào lòng, ta thật-sự sẻ-san Thân Mình Chúa bằng việc tham-dự Tiệc Thánh-thể mỗi tuần.

Tiếp nhận Chúa Phục-sinh vào lòng, qua hiệp-thông rước Mình Máu Chúa, là biểu-tượng hùng-hồn chứng-minh rằng: Ngài đang hiện-diện, ở trong ta. Đây, là “dấu-chỉ” để ta thấy Ngài thực-sự sống-động trong ta như thế nào.

Chính vì thế, nên mỗi khi đón nhận Mình Máu Chúa, ta thưa “Amen!” là ta công-nhận đấy là Thân Mình đích-thực của Chúa. Bởi, chính Đức Kitô cũng đã chấp-nhận ta cùng kiểu-cách như thế. Ngài trao ban cho ta chính Mình Ngài, để rồi có như thế ta mới biến-đổi chính con người mình hầu tháp-nhập vào với Thiên-tính của Đức Kitô. Nói theo ngôn-ngữ thời-đại, thì: đó là đón nhận Ngài vào Tiệc thánh, khi ấy Chúa sẽ nói với ta như sau:

Này bạn, Tôi đây. Tôi đang xé nát tâm can Tôi và đổ đầy tình-yêu cho bạn đây. Bạn hãy tiếp nhận Tôi đi. Tôi có mặt ở đây là vì bạn đấy”.

Cái nguy của mọi quà tặng và ở nơi quà này, là: ta rất dễ ngộ-nhận cho rằng quà mà Chúa trao ban là chỉ cho mỗi mình ta, thôi. Nhưng, đây phải là phút giây thân-tình thắm-thiết giữa ta với Chúa. Đúng là như thế. Và, còn hơn thế nữa. Ngày 9 tháng 8 năm 413, trong bài san-sẻ Lời Chúa về ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể , thánh Augustin có nói:

Thánh lễ bao giờ cũng gồm 3 yếu tố: sự tốt lành, tình hiệp thông và lòng thương yêu lẫn nhau”. Và, để quảng-bá tư-tưởng nêu ở trên, thánh-nhân lại xác quyết rằng:

“Giả như ta không sống tốt lành, cũng chẳng hoạt động cho sự hiệp-nhất và không có lòng yêu thương đích-thực mà vẫn tham-dự Tiệc Thánh mỗi tuần, thì Tiệc ấy sẽ mất hết ý nghĩa và lý do tồn tại nữa rồi.”

Thành thử, giống như Đức Gioan Phaolô II đã nói nhân ngày ngài đến với Lima, thủ-đô của Pêru, thì: nhiều người đã nối-kết việc nhận Bánh Hằng Sống ở Tiệc Thánh với việc ban phát cơm bánh để duy-trì sự sống, sau bữa Tiệc.

Tính bình quân, thì hiện nay trên thế giới, mỗi ngày có đến 26 ngàn người chết vì đói hoặc khát. Năm 1961, tổng thống John F Kennedy cũng đã nhận-định về nạn đói khi ông bảo: “Chỉ một thứ giữa ta và việc xóa-bỏ nạn đói kém nên tồn-tại là niềm ước-ao thấy việc ấy được thực hiện”. Thật ra, chúng ta có thể nuôi-dưỡng được nhiều người. Nhưng thật lòng, lại không muốn làm thế.

Trong buổi hội thảo về Tiệc Thánh Thể, cố Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, là cha Pedro Arrupe có nói: “Bao lâu thế giới này vẫn còn người đói và khát, thì bấy lâu Tiệc Thánh Thể mà ta cử hành vẫn còn có điều gì đó, rất thiếu xót.”

Nói thế, ngài không có ý bảo rằng: việc ta tề-tựu cử-hành thánh-lễ đây là chuyện vô bổ. Nhưng, cố linh-mục Pedrp Arupe chỉ muốn nhấn mạnh một điều, là: khi ta quay-quần quanh bàn Tiệc đây là để nhận của ăn rất thánh, thì thực tế, trên thế giới còn rất nhiều người vẫn đói ăn, tức: vẫn thiếu mất cái gì đó rất cần cho sự sống. Vẫn có một thứ trống rỗng nào đó, ở quanh đây.

Quả là trống rỗng ấy đang mời ta dấn-bước vào trong đó để đong cho đầy. Chúa đến với ta ở buổi Tiệc Thánh qua của ăn đích-thực Ngài tặng, rằng: điều mà Đấng Thánh nhắn nhủ ta trong Kinh Sách, vẫn còn đó: “Khi Ta đói, các con có cho Ta ăn đâu?”

Câu nói này, muốn xác-định một điều, là: Chúa cho ta no đầy thế nào, thì ta vẫn có thể và vẫn cần phải giúp-đỡ nhau cho thật đầy thật no, giống như thế. Mong sao Lễ hội Mình Máu Chúa hôm nay đem đến cho ta sức mạnh và niềm xác tín rất thật.

Cầu mong sao, thực-phẩm đích-thực mà ta cung-cấp  -lấy từ bàn Tiệc thánh này-  chứng-tỏ cho thế giới thấy được rằng: uy-lực của Thánh-Thể đã biến-cải ta thành người tốt, biết hiệp-thông, yêu-thương lẫn nhau. Cầu và mong sao, ta xác-tín thêm rằng: những gì ta đã và đang sẻ-san cho người nghèo, sẽ không là thứ cơm thừa canh cặn, ta có dư dật. Nhưng, đó chính là thực phẩm lẽ đáng là của họ và ta cần trao trả lại cho họ.

Có như thế, mọi cảnh đói nghèo sẽ không còn tồn-tại trên thế-giới đầy những những thèm khát vì đói ăn hoặc thiếu mặc, nữa.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm về một quyết-tâm như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,

Mỗi nụ tình ẩn chứa một loài sâu.

Và, khi em thấm nhuần ê ẩm,

Ta sợ tài ta đã rũ nhầu.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Vài đoạn viết ở Đinh Tiên Hoàng)

Viết gì thì viết. Viết ở nơi nào rày cũng thế. Miễn là, người viết chớ có ưu-tư “nụ tình ẩn chứa một loài sâu”, nữa. Nhưng, đã biết liên-tưởng đến tình người sẻ-san nhiều thứ và nhiều sự cho mọi người. Cả những người túng thiếu lẫn người thấp hèn kém, rất thiếu ăn. Chính đó, là xã hội đầy tình người. Là, Nước Trời nay có Chúa chở che để mọi người sống vững mạnh suốt nhiều thời, trong đời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ ƠN KÍNH SỢ THIÊN CHÚA

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ ƠN KÍNH SỢ THIÊN CHÚA

Tác giả: Phaolô Phạm Xuân Khôi

Ơn kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta ý thức được rằng tất cả mọi sự đến từ ân sủng, và rằng sức mạnh thực sự của chúng ta là chỉ đi theo Chúa Giêsu và để cho Chúa Cha có thể đổ trên chúng ta sự tốt lành và lòng thương xót của Ngài.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 11 tháng 6 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC kết thúc loạt bài về Bảy Ơn Chúa Thánh Thần bằng cách giải thích về Ơn Kính Sợ Thiên Chúa.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em.

Ơn kính sợ Thiên Chúa, mà chúng ta nói đến hôm nay, kết thúc loạt bài về bảy ơn Chúa Thánh Thần.  Ơn này không có nghĩa là sợ hãi Thiên Chúa: chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và yêu thương chúng ta cùng muốn cứu độ chúng ta, và luôn luôn tha thứ, luôn luôn; do đó không có lý do gì để phải sợ Ngài!  Tuy nhiên, ơn kính sợ Thiên Chúa, là hồng ân của Chúa Thánh Thần, nhắc nhở chúng ta rằng mình nhỏ bé ra sao trước mặt Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, và rằng sự tốt lành của chúng ta là do việc phó thác cho Ngài với lòng khiêm nhường, kính trọng và tin tưởng trong bàn tay của Ngài.  Đó là kính sợ Thiên Chúa: phó thác vào sự tốt lành của Cha chúng ta, là Đấng yêu thương chúng ta rất nhiều.

1. Khi Chúa Thánh Thần đến ngự trong lòng chúng ta, ban cho chúng ta sự an ủi và bình an, và làm cho chúng ta cảm nhận được mình là gì, là nhỏ bé, với thái độ đó – như Chúa Giêsu khuyên nhủ trong Tin Mừng – về những người đặt mọi lo âu và ước vọng của mình nơi Thiên Chúa và cảm thấy được bao bọc và nâng đỡ bởi hơi ấm và sự che chở của Ngài, như một em bé với cha mình!  Đó là Chúa Thánh Thần ở trong tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy như những đứa con ở trong vòng tay của Cha mình.  Như vậy, theo nghĩa này, chúng ta hiểu rõ về ơn kính sợ Thiên Chúa tạo ra trong chúng ta sự ngoan ngoãn, lòng biết ơn và chúc tụng, đổ đầy hy vọng vào tâm hồn chúng ta như thế nào.  Thực ra, nhiều lần chúng ta không hiểu thấu được kế hoạch của Thiên Chúa, và ý thức rằng chúng ta không thể tự đảm bảo cho mình hạnh phúc và sự sống đời đời.  Tuy nhiên,  chính trong kinh nghiệm về những giới hạn và sự nghèo nàn của chúng ta mà Chúa Thánh Thần an ủi chúng ta và giúp chúng ta cảm nhận được rằng điều quan trọng duy nhất là để cho mình được Chúa Giêsu dẫn dắt trong vòng tay của Cha Người.

2. Đó là lý‎ do tại sao chúng ta cần ơn này của Chúa Thánh Thần như vậy.  Ơn kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta ý thức được rằng tất cả mọi sự đến từ ân sủng, và rằng sức mạnh thực sự của chúng ta là chỉ đi theo Chúa Giêsu và để cho Chúa Cha có thể đổ trên chúng ta sự tốt lành và lòng thương xót của Ngài.  Hãy mở tâm hồn ra, bởi vì lòng nhân lành và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với chúng ta.  Đó là điều Chúa Thánh Thần làm với ơn kính sợ Thiên Chúa: mở các tâm hồn. Mở lòng ra để ơn tha thứ, lòng thương xót, lòng nhân lành, sự vuốt ve của Chúa Cha đến với chúng ta, bởi vì chúng ta là những đứa con đang được Ngài yêu thương vô cùng.

3. Khi chúng ta được thấm nhuần bởi ơn kính sợ Thiên Chúa, thì chúng ta có khuynh hướng đi theo Chúa với lòng khiêm nhường, ngoan ngoãn và vâng lời.  Tuy nhiên, đó không phải là với thái độ cam lòng, thụ động và ta thán, nhưng với sự kinh ngạc và niềm vui của một em bé nhận ra rằng mình được Cha phục vụ và yêu thương.  Vì thế, Ơn kính sợ Thiên Chúa không làm cho chúng ta thành các Kitô hữu nhút nhát, dễ bảo, nhưng tạo ra trong chúng ta lòng can đảm và sức mạnh!  Nó là một ơn làm cho chúng ta thành các Kitô hữu xác tín, nhiệt tình, không phục tùng Chúa vì sợ hãi, nhưng vì được tình yêu của Ngài đánh động và chinh phục! Được chinh phục bởi tình yêu của Thiên Chúa!  Và đây là một điều tốt đẹp.  Để cho mình bị chinh phục bởi tình yêu của Chúa Cha, Đấng yêu thương chúng ta rất nhiều, Ngài yêu thương chúng ta với tất cả con tim của Ngài.

Nhưng chúng ta hãy cẩn thận, bởi vì hồng ân Thiên Chúa, ơn kính sợ Thiên Chúa cũng là một “lời cảnh báo” trước sự ngoan cố trong tội lỗi.  Khi một người sống trong sự dữ, khi phạm thượng chống lại Thiên Chúa, khi khai thác những người khác, khi áp chế họ, khi chỉ sống vì tiền tài, vì hư danh, hay quyền lực, hoặc kiêu căng, thì khi đó sự kính sợ thánh thiện đối với Thiên Chúa cảnh báo chúng ta: hãy cẩn thận!  Với tất cả quyền lực này, với tất cả tiền bạc này, với tất cả kiêu hãnh này của mi, với tất cả hư danh này của mi, mi sẽ không có hạnh phúc đâu.  Không ai có thể mang với họ sang (đời sống) bên kia dù là tiền bạc, dù là quyền lực, dù là hư danh, dù là kiêu hãnh.  Không mang được gì cả!  Chúng ta chỉ có thể mang theo tình yêu mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta, những vuốt ve của Thiên Chúa, được chúng ta chấp nhận và đón nhận với tình yêu.  Và chúng ta có thể mang theo những gì mà chúng ta đã làm cho tha nhân.  Hãy cẩn thận đừng đặt hy vọng vào tiền tài, kiêu hãnh, sức mạnh và hư danh, bởi vì tất cả mọi thứ ấy không thể hứa bất cứ điều gì tốt đẹp với chúng ta!  Tôi đang nghĩ đến những người có trách nhiệm với những người khác và để cho mình trở thành tham nhũng chẳng hạn; anh chị em có nghĩ rằng một người tham nhũng sẽ được hạnh phúc ở đời sống bên kia không?  Không, tất cả những thành quả tham nhũng của người ấy đã làm hư hỏng trái tim người ấy và sẽ rất khó để đến với Chúa.  Tôi nghĩ đến những kẻ sinh sống nhờ nạn buôn người và nô lệ lao động; anh chị em có nghĩ rằng những kẻ đối xử tệ với con người, khai thác con người bằng việc nô lệ lao động có tình yêu của Thiên Chúa trong trái tim họ không?  Không, họ không có lòng kính sợ Thiên Chúa và không hạnh phúc.  Họ không.  Tôi nghĩ đến những người sản xuất vũ khí để gây ra chiến tranh; nhưng anh chị em nghĩ xem công việc này là nghề gì?  Tôi chắc rằng nếu bây giờ tôi hỏi: có bao nhiêu người trong anh chị em đang chế tạo vũ khí?  Không, không một ai.  Những nhà sản xuất vũ khí này không đến để nghe Lời Chúa!  Những người ấy sản xuất cái chết, họ là những con buôn sự chết và chế tạo hàng hóa sự chết.  Ước gì ơn kính sợ Thiên Chúa làm cho họ hiểu rằng một ngày nào đó tất cả sẽ kết thúc và họ sẽ phải tính sổ trước mặt Thiên Chúa.

Các bạn thân mến, Thánh Vịnh 34 cung cấp cho chúng ta lời cầu nguyện như sau: “Chính kẻ cùng khổ này đã kêu cầu, và Chúa đã nghe lời, cùng cứu nó khỏi mọi điều gian khổ.  Thiên sứ của Chúa đồn quân quanh những ai kính sợ Ngài, và giải thoát họ” (các câu 7-8).  Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn biết kết hợp tiếng nói của chúng ta với tiếng nói của người nghèo, để đón nhận ơn kính sợ Thiên Chúa và có thể nhận ra mình, cùng với họ, được bao bọc bởi lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa, Đấng là Cha chúng ta, Cha của chúng ta.  Chớ gì được như vậy.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/

Vẫn còn 168 triệu lao động trẻ em trên thế giới

Vẫn còn 168 triệu lao động trẻ em trên thế giới

Chuacuuthe.com

VRNs (13.06.2014) – Sài Gòn – Hôm 12.06, là Ngày Thế giới chống Lao động trẻ em, vẫn còn phổ biến trên thế giới. Có 168 triệu lao động trẻ em trên thế giới, với khoảng 85 triệu tham gia vào một số hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em gồm có nô lệ, buôn bán, gán nợ, mại dâm và công việc nguy hiểm khác thậm chí đặt chúng vào nguy cơ tử vong.

4

Theo tờ PeninsulaMetropolis Daily cho biết, một bé gái 16 tuổi người dân tộc Yi đã được gửi trả về làng mình ở tỉnh Tứ Xuyên sau khi thanh tra lao động tìm thấy cô và một số lao động vị thành niên khác trong một nhà máy ở Đông Quan, Quảng Đông. Cô cho biết trước đây cô làm việc tại một nhà máy ở Thâm Quyến. Họ đã phải làm việc hơn 12 giờ một ngày và không được phép nói chuyện hoặc kiểm tra tin nhắn điện thoại di động trong giờ làm việc. Họ được trả 12 nhân dân tệ (gần 1,5 euro) một giờ, trong đó có 3 tệ là tiền hoa hồng cho các đại lý đã môi giới việc làm.

Tiến sĩ Liu Kaiming, giám đốc Viện Contemporary Observation, cho biết: “Chính quyền trung ương không có số liệu thống kê công khai. Tại các tỉnh miền Trung và miền Tây, tỷ lệ bỏ học của các học sinh trung học cơ sở có thể cao gần 10 phần trăm”.

Mới hôm thứ Tư 11/06, Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi tiếp kiến ​​chung chủ đề “kính sợ Thiên Chúa”, đã lên tiếng mạnh mẽ tệ nạn khai thác lao động trẻ em: “Hàng triệu trẻ em bị buộc phải làm việc trong điều kiện tồi tệ, sống trong tình trạng nô lệ và bị khai thác, lạm dụng, ngược đãi và phân biệt đối xử.” “Tôi thiết tha hy vọng cộng đồng quốc tế có thể gia tăng bảo trợ xã hội cho trẻ vị thành niên để diệt trừ tai họa này. Chúng ta phải canh tân sự dấn thân của chúng ta, đặc biệt là các gia đình, để đảm bảo mọi trẻ em đều được phát triển về nhân phẩm và sức khỏe. Tuổi thơ hồn nhiên sẽ giúp cho trẻ em có cái nhìn tự tin về cuộc sống và tương lai”.

Tuy nhiên, ngày nay, Ấn Độ có khoảng 10 triệu lao động trẻ em, là con số nạn nhân lớn nhất. Các nhà thầu hoạt động công khai khi buôn bán người và các gia đình, đưa các em đi làm việc trong các ngành công nghiệp vải, gạch và các ngành khác nuôi dưỡng nền kinh tế Ấn Độ. Nhiều câu chuyện do những em được giải cứu hay trốn thoát kể lại được phổ biến rộng rãi và kinh khủng. Những lao động trẻ này bị nhốt trong các bức tường của sự sợ hãi và bị đe dọa nếu dám trở về làng.

Hơn một thập kỷ sau khi một loạt các công ty sô-cô-la nổi tiếng hứa với Quốc hội Mỹ sẽ xóa bỏ nạn lao động trẻ em tại các trang trại ca cao ở Bờ Biển Ngà, trẻ em vẫn đang làm việc một cách công khai, thường xuyên bị buôn bán phải sống xa gia đình.

Các số liệu mới nhất của ILO ước tính có khoảng 168 triệu lao động trẻ em trên toàn cầu, với khoảng 85 triệu tham gia vào một số hình thức tồi tệ nhất, như làm nô lệ, bị buôn bán và gán nợ, mại dâm và những công việc nguy hiểm khác đặt trẻ em vào nguy cơ bệnh tật, chấn thương, thậm chí tử vong.

Chúng tôi đã đưa ra các dự án cho hai khu vực khác nhau. Ví dụ, ở Campuchia và Ấn Độ, việc phục hồi chức năng của lao động trẻ em bao gồm việc cung cấp những hướng dẫn, giáo dục, các kỹ năng sống và đào tạo nghề. Một mạng lưới đã được thành lập để nâng cao nhận thức về vấn đề này và thúc đẩy quyền trẻ em. Vấn đề hỗ trợ sinh kế đã được cung cấp dưới dạng các dịch vụ tài chính vi mô.

Hoàng Anh

 

Trung Quốc dùng sách giáo khoa của Việt Nam ‘đòi chủ quyền’

Trung Quốc dùng sách giáo khoa của Việt Nam ‘đòi chủ quyền’
June 12, 2014

Nguoi-viet.com

NEW YORK (NV) .- Ngoài công hàm 1958, Trung Quốc còn dùng tập bản đồ mà Việt Nam in năm 1972,  sách địa lý lớp 9 mà Việt Nam dùng để dạy cho học sinh để chứng minh chủ quyền trên biển Đông.

Bản đồ minh họa yêu sách chủ quyền “Lưỡi Bò” của Trung Quốc ở biển Đông. TQ dẫn một số tài liệu cho thấy CSVN từng công khai ủng hộ yêu sách này. (Hình: Đời sống – Pháp luật)

Hôm 9 tháng 6, Trung Quốc từng gửi cho Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một văn bản, cáo buộc Việt Nam vi phạm chủ quyền của Trung Quốc, cản trở hoạt động của tập đoàn dầu khí Trung Quốc trên biển Đông.

Đại diện Phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc chuyển văn bản này cho 193 thành viên của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, cáo buộc Việt Nam “vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển”.

Văn bản vừa kể đính kèm một số tài liệu, trong đó ngoài công hàm mà ông Phạm Văn Đồng ký năm 1958, còn có tập bản đồ mà Việt Nam in năm 1972, sách địa lý lớp 9 của Việt Nam in cách nay 40 năm và cả ba tài liệu này cùng cho thấy, chính quyền CSVN từng công khai thừa nhận các yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc tại biển Đông.

Ông Vương Dân, Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, người gửi văn bản và tài liệu cho Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, tuyên bố, đó là sự thật là Trung Quốc muốn trình bày với cộng đồng quốc tế để sửa lại cách hiểu sai của cộng đồng quốc tế về chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông.

Đại sứ của Việt Nam tại LHQ đã gặp Chủ tịch Đại hội đồng LHQ “thông báo cụ thể tình hình, đồng thời phản bác tất cả thông tin trong những văn bản của Trung quốc”, phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng CSVN Phạm Bình Minh nói với báo chí hôm Thứ Năm về những điều mà ông gọi là “Trung quốc vu vạ Việt Nam”.

Trả lời VOA, ông Nguyễn Nhã, một người chuyên nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông, xác nhận, sách địa lý mà Việt Nam sử dụng cách nay 40 năm để dạy học sinh lớp 9 từng viết rằng quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa,  thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Tuy nhiên theo ông Nhã, tài liệu này không có giá trị pháp lý.

Ông Nhã giải thích thêm rằmg lúc đó, hai miền Nam – Bắc Việt Nam đang đối đầu với nhau và miền Bắc có tâm lý “ủng hộ đồng chí, đồng minh của mình” nhưng sự ủng hộ này vô giá trị vì lúc ấy, quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.

Sau khi Việt – Trung đối đầu, tố cáo lẫn nhau tại Liên Hiệp quốc, ông Stephane Dujarric, Phát ngôn nhân của Liên Hiệp Quốc vừa cho biết, Liên Hiệp Quốc sẵn sàng làm trung gian để hòa giải những bất đồng về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ông Dujarric nói thêm rằng, Liên Hiệp Quốc mong muốn cả Việt Nam lẫn Trung Quốc sẽ giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế.

Giới quan sát nhận định, việc Trung Quốc đưa tranh chấp chủ quyền với Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc là điều rất đáng chú ý, bởi trước nay, Trung Quốc chủ trương chỉ “đàm phán song phương” và chỉ trích “quốc tế hóa các tranh chấp song phương”.

Giới này phán đoán, việc Trung Quốc đột ngột nộp hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc có thể vì lo ngại các lân bang sử dụng luật pháp quốc tế để triệt tiêu ưu thế quân sự của Trung Quốc trong các tranh chấp tại biển Đông.

Trên tờ The Diplomat, ông Zachary Keck nhận định, luận cứ của Trung Quốc đối với chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa có vẻ vững chắc hơn Việt Nam. Có thể Trung Quốc hy vọng, do đuối lý, Việt Nam sẽ từ bỏ ý định đưa tranh chấp quần đảo Hoàng Sa ra Tòa án Trọng tài Quốc tế và điều này sẽ khiến những quốc gia khác ngần ngại trong việc sử dụng luật pháp quốc tế để chống lại Trung Quốc.

Ông Keck cũng nói thêm rằng, khi Trung Quốc đi theo con đường “quốc tế hóa tranh chấp”, nâng cao vị trí của luật pháp quốc tế, lấy đó như cơ sở cho các yêu sách về chủ quyền và giải quyết tranh chấp thì yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở phần lớn biển Đông sẽ gặp rủi ro vì yêu sách đó hoàn toàn trái ngược với luật pháp quốc tế. (G.Đ)

Xem thêm:

TQ đưa sách giáo khoa VN ra làm chứng về chủ quyền Biển Đông ( VOA )

Chậm khởi kiện Trung Quốc vì nội bộ chia rẽ?

Chậm khởi kiện Trung Quốc vì nội bộ chia rẽ?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-12

06122014-vn-public-impati-wt-lawsui.mp3

Chúng ta loay hoay cứ như có lỗi khi kiện Trung Quốc vậy? (trang web của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)

Hình minh họa chụp từ trang web của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.

Screen capture

Công luận thể hiện qua báo chí và các diễn đàn trên mạng từng rất nôn nóng về việc chính quyền Việt Nam khởi kiện Trung Quốc xâm lấn biển đảo, đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam từ hơn 1 tháng qua.

Người dân Việt Nam sau những tuần lễ phấn khởi bắt đầu chuyển sang thái độ sốt ruột và hoài nghi về khả năng Việt Nam làm quyết liệt, khởi kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế theo Công ước Luật biển hoặc Tòa án Công lý Quốc tế để bảo vệ chủ quyền vùng biển của mình.

Không đồng thuận và thiếu quyết tâm

Trước đó các phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, về việc không đánh đổi chủ quyền đất nước lấy hữu nghị viển vông và xem xét việc sử dụng biện pháp pháp lý đối với Trung Quốc, đã làm cho nhân dân tưởng rằng việc loan báo chính thức khởi kiện sẽ sớm diễn ra. Điều mong đợi là sẽ có vụ kiện ngay trong lúc giàn khoan HD 981 và lực lượng tàu vũ trang máy bay bảo vệ của Trung Quốc đang quấy rối trên vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc từng nói là giàn khoan sẽ hoạt động thăm dò địa chất từ 2/5 tới 15/8/2014. Liệu trong vòng 2 tháng sắp tới Việt Nam sẽ khởi kiện hay không, đây là câu hỏi chờ đợi được giải đáp.

Trả lời Nam Nguyên tối 11/6/2014 TS Trần Đình Bá, thành viên Hội khoa học kinh tế Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

” Đơn giản là ngay từ đầu nhà nước Việt Nam không quyết tâm kiện và họ làm điều đó chẳng qua là vì áp lực dư luận, áp lực của số đông và áp lực của những người trong chính nội bộ của họ mà thôi, nhưng mà họ không quyết tâm kiện.
-TS Phạm Chí Dũng “

“ Mọi người rất sốt ruột về vấn đề chủ quyền biển Đông, Việt Nam khẳng định có quyền chủ quyền, quyền tài phán thì Trung Quốc cũng nói như vậy. Cho nên bây giờ nên đưa ra phân xử để bảo vệ chủ quyền của mình bằng biện pháp đấu tranh hòa bình. Tôi cũng như mọi người dân Việt Nam mong muốn là nhân sự kiện này phải kiên quyết đòi bằng được Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm. Đây là cơ hội đưa ra tòa án quốc tế để đòi lại chủ quyền Hoàng Sa, với nỗi hận 4 thập kỷ qua nhân dân Việt Nam muốn đòi lại vùng đất của cha ông mà bao nhiêu thế hệ đã gìn giữ.”

Sự chậm trễ khởi kiện Trung Quốc mà quyền quyết định thuộc Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy một sự thiếu đồng thuận ở thượng tầng chính trị. TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập hiện sống và làm việc tại TP.HCM nhận định:

Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam. RFA files:UNCLOS-CIA

Vị trí của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa của Việt Nam. File Photo.

“Đơn giản là ngay từ đầu nhà nước Việt Nam không quyết tâm kiện và họ làm điều đó chẳng qua là vì áp lực dư luận, áp lực của số đông và áp lực của những người trong chính nội bộ của họ mà thôi, nhưng mà họ không quyết tâm kiện. Đó là chưa biết họ có củng cố hồ sơ cho có những cơ sở chắc chắn đủ để kiện Trung Quốc hay không. Nhưng mà tinh thần yếu kém trong việc chuẩn bị hồ sơ và thiếu quyết tâm đã làm giảm sút đáng kể nhiệt huyết của những người đi kiện.

Nếu đưa ra tòa án quốc tế thì tôi nghĩ việc này không thể thành công ngay được, thậm chí nhiều khả năng sẽ kéo dài rất lâu. Trong khi đó, chúng ta thấy được sự rạn nứt chia rẽ khá lớn ngay trong nội bộ nhà nước Việt Nam, về các quan điểm khác nhau, đường lối đối ngoại khác nhau. Và trong vụ kiện với Trung Quốc cũng đặc biệt xuất hiện những quan điểm trái chiều, đó là một sự giằng kéo và rất có thể làm cho vụ kiện này sẽ không đi tới được.”

Chưa kiện hay không kiện?

Trong khi đó, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự nêu nghi vấn về việc nhà nước Việt Nam nghe theo khuyến cáo của Trung Quốc là không được khởi kiện. Từ Hà Nội, TS Nguyễn Quang A nhận định:

“ Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.”

” Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.
-TS Nguyễn Quang A “

Trên báo chí Việt Nam nhiều giới chức nhà nước vẫn còn lập đi lập lại tình hữu nghị 16 chữ vàng và 4 tốt giữa Việt Nam và Trung Quốc và cho rằng việc khởi kiện giống như đổ bát nước đầy xuống đất. Ngoài ra nhiều giới chức nhà nước còn lo ngại Trung Quốc cấm vận kinh tế nếu Hà Nội muốn thoát vòng kềm tỏa của Bắc Kinh.

TS Trần Đình Bá từ Hà Nội bày tỏ ý kiến:

“ Nói tình hữu nghị thì họ đã không làm những chuyện vượt quá đạo lý quốc tế, ví dụ như đâm tàu vào ngư dân hành động rất man rợ mà cả thế giới người ta lên án, khi xem băng ghi hình ai cũng phẫn nộ. Tính mạng của ngư dân trên biển làm sao để bảo vệ? Bây giờ phải kiên quyết đấu tranh bằng pháp lý, Trung Quốc cũng phải có lương tâm để nhận ra vấn đề, họ là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thì càng phải gương mẫu chấp hành Luật biển, trong quan hệ quốc tế không thể dùng uy thế nước lớn ép nước nhỏ, bắt nạt nước nhỏ. Thời thế bây giờ là của thế giới phẳng, mọi việc đều công khai với quốc tế và đưa lên màn hình, mọi việc không thể giấu diếm được nữa. Nguyện vọng của bao nhiêu người Việt Nam đều mong muốn đưa ra giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.”

Giới luật gia, học giả trí thức tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài đã bày tỏ rất nhiều ý kiến về khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam. Qua vụ giàn khoan HD 981 Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế theo Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc hoặc Tòa án Công lý Quốc tế. Philippines thừa biết vụ kiện không mang lại những kết quả cụ thể vì Trung Quốc không ra tòa hoặc phán quyết không có tính cách ràng buộc nhưng Manila vẫn kiên quyết hành động.

Những vướng mắc liên quan đến công hàm Phạm Văn Đồng 1958, hoặc thỏa thuận bí mật Thành Đô 1990 được cho là những rào cản trên con đường khởi kiện của Việt Nam. Tuy vậy đã có rất nhiều góp ý để hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng hoặc chỉ kiện về giàn khoan hạ đặt bất hợp pháp mà không kiện về chủ quyền. Về rào cản thứ hai, nếu như không có một thỏa thuận ngầm tại Hội nghị Thành Đô 1990 như lời đồn đại, thì vì cớ gì mà Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam lại không dám công khai thông tin về Hội nghị này dù đã trải qua 24 năm.

 

Trung Quốc đưa ra bằng chứng: Sách Địa Lý Lớp 9 Việt Nam nói Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc

Trung Quốc đưa ra bằng chứng: Sách Địa Lý Lớp 9 Việt Nam nói Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc

nguồn:  http://huynhngocchenh.blogspot.com

Hồi đó để đánh chiếm cho được miền Nam thì dân Việt Nam cần thiết phải hy sinh đến người cuối cùng, Trường Sơn cũng thiêu rụi thì ăn thua gì mấy hòn đảo trên biển Đông. Công hàm cũng ký được thì nhằm nhò gì mấy trang sách giáo khoa.

Dân Luận
Ngày 8/6/2014, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc ra bản tin với tựa đề “Hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981: Sự khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc“. Trong bản tin ngoài công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, bản tin còn dẫn sách Địa Lý lớp 9 do Nhà xuất bản Giáo Dục phát hành năm 1974 nói Tây Sa và Nam Sa, tức là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là một phần của Trung Quốc:

Chương về Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
… Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn… làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung quốc…
Trích Sách địa lý lớp 9 (1974)

Đây là một phần tài liệu mà Trung Quốc chuyển tới Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông Ban Ki-moon, và yêu cầu ông này chuyển tới tay các quốc gia thành viên vào hôm thứ Hai 9/6/2014. Đây là lần thứ hai Trung Quốc đệ trình tài liệu lên Liên Hiệp Quốc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, lần thứ nhất là vào tháng 5/2014.

annex5-5-2.jpg

annex5-5-3.jpg

annex5-5-4.jpg