Thủy điện ở Việt Nam: ‘Bên nào cũng khóc’

Thủy điện ở Việt Nam: ‘Bên nào cũng khóc’
August 05, 2014

Nguoi-viet.com


VIỆT NAM (NV)
Bộ Công Thương Việt Nam vừa tuyên bố sẽ tổ chức một hội nghị với chính quyền các tỉnh có công trình thủy điện để bàn bạc cách thức quản lý thủy điện tốt hơn.

Tuyên bố vừa kể được đưa ra sau khi đập tạm để chặn nước làm đập chính của thủy điện Ia Krel 2 tại huyện Ðức Cơ, tỉnh Gia Lai bị vỡ lần thứ hai vào ngày 1 tháng 8.


Thủy điện Ia Krel 2. (Hình: Tuổi Trẻ)

Ðập tạm này từng bị vỡ hồi tháng 6 năm ngoái, gây thiệt hại khoảng ba tỉ đồng. Theo chủ tịch huyện Ðức Cơ, thiệt hại của lần vỡ thứ hai chắc chắn sẽ gấp vài lần thiệt hại hồi năm ngoái.

Vụ đập tạm để chặn nước làm đập chính của thủy điện Ia Krel 2 bị vỡ khiến chủ đầu tư bàng hoàng. Ðến bây giờ, ông Nguyễn Ngọc Ẩn, phó giám đốc công ty Bảo Long Gia Lai – doanh nghiệp chuyên kinh doanh vật liệu xây dựng và phụ tùng xe vận tải nhưng không hiểu sao vẫn được chính quyền tỉnh Gia Lai cấp giấy phép đầu tư ba công trình thủy điện tại Gia Lai, trong đó có thủy điện Ia Krel 2 – chính thức thú nhận: “Chúng tôi không thể ngờ! Chúng tôi không lường hết được sự việc! Chúng tôi chưa có kinh nghiệm!”

May mắn là thủy điện Ia Krel 2 đang xây dựng, chưa tích nước, nếu đập chính vỡ khi hồ chứa nước đã tích đủ nước, hậu quả sẽ rất thảm khốc.

Vụ đập tạm của thủy điện Ia Krel 2 vỡ lần thứ hai khiến dân chúng Tây Nguyên và miền Trung thêm lo âu. Từ cuối năm 2012 đến nay đã xảy ra bốn vụ đập chặn nước của các công trình thủy điện ở Tây Nguyên và miền Trung bị vỡ. Ngoài đập tạm của thủy điện Ia Krel 2 bị vỡ hai lần, trong vòng chưa đầy hai năm, còn có đập chặn nước của thủy điện Ðak Mek 3 ở Kon Tum và đập chặn nước của thủy điện Ðakrong 3 ở Quảng Trị bị vỡ.

Ðến nay, việc cho phép thực hiện ồ ạt hàng ngàn dự án thủy điện đã tạo ra một thảm họa mới cả về kinh tế, môi trường lẫn dân sinh, đặc biệt là tại khu vực Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam.

Các dự án thủy điện đã làm Tây Nguyên mất 80,000 héc ta đất, gây xáo trộn sinh hoạt, sinh kế của 26,000 gia đình, phần lớn là người thiểu số.

Những dự án thủy điện được cấp giấy phép để thực hiện tại Tây Nguyên và miền Trung được xem là nguyên nhân tăng thêm đói nghèo, đẩy dân chúng tới tột đỉnh của sự bần cùng, vì gây ra hạn hán nghiêm trọng vào mùa khô, lũ lụt thường xuyên vào mùa mưa.

Chưa kể chuyện xả lũ vô tội vạ sau các trận bão hồi năm ngoái đã làm 41 người chết, 5 người mất tích, 74 người bị thương, 410 ngôi nhà bị nước cuốn, 425,573 ngôi nhà bị ngập. Chưa kể thiệt hại do ruộng vườn mất trắng vì lũ. Hậu quả thiên tai thêm trầm trọng.

Cũng năm ngoái, sau khi thẩm tra các dự án thủy điện, Ủy Ban Khoa Học-Công Nghệ-Môi Trường của Quốc Hội Việt Nam cho biết, việc quản lý chất lượng, an toàn tại các công trình thủy điện tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường. Khoảng 30% đập chắn nước của các công trình thủy điện chưa được kiểm định. Khoảng 66% đập chắn nước chưa được duyệt phương án bảo vệ. Khoảng 55% chủ đập chưa có phương án phòng chống lụt bão.

Sau khi Quốc Hội Việt Nam yêu cầu chính phủ Việt Nam báo cáo về “Quy hoạch tổng thể cho thủy điện,” đại diện chính phủ Việt Nam loan báo đã loại bỏ 424 dự án thủy điện. Trừ đi các dự án bị loại bỏ, tại Việt Nam vẫn còn 815 dự án, công trình thủy điện, trong đó có 205 dự án đang thi công hoặc dự kiến sẽ khai thác cho đến 2017.

Dù vậy những thảm họa đi kèm các dự án thủy điện vẫn lơ lửng trên đầu hàng chục triệu người cư trú ở Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam.

Các hồ chứa nước của một số công trình thủy điện như Sông Tranh 2, Ðăk Ðrinh, Ðakrong nay là gốc rễ của vài chục trận động đất xảy ra liên tục ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam; huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum; huyện Ðakrong, tỉnh Quảng Trị.

Các dự án thủy điện còn là nguyên nhân gây ra xung đột giữa chính quyền thành phố Ðà Nẵng, chính quyền tỉnh Quảng Nam, chính quyền tỉnh Phú Yên với Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, Bộ Công Thương do bất đồng về qui trình tích nước trong mùa khô và xả nước trong mùa lũ. Từ năm ngoái đến nay, những viên chức lãnh đạo ngành nông nghiệp-phát triển nông thôn của các tỉnh vừa kể, liên tục lên án hai Bộ Tài Nguyên-Môi Trường và Công Thương là vô trách nhiệm khi đặt lợi ích của thủy điện lên hàng đầu và bỏ qua lợi ích của hàng ngàn gia đình vùng hạ du. (G.Ð)

 

Nhân quyền tại Miến Điện được mổ xẻ trong hội nghị ASEAN

Nhân quyền tại Miến Điện được mổ xẻ trong hội nghị ASEAN

RFI

Miến Điện : số phận cộng đồng hồi giáo Rohingya vẫn làm quốc tế quan ngại.

Miến Điện : số phận cộng đồng hồi giáo Rohingya vẫn làm quốc tế quan ngại.

Reuters

Thụy My

Miến Điện, nước chủ nhà hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN diễn ra trong tuần này có nguy cơ bị lên án, khi bạo động tôn giáo và vi phạm tự do báo chí đã làm mờ nhạt đi các cải cách thực hiện từ ba năm qua.

Những cải cách chính trị và kinh tế do một chính phủ hầu như dân sự đưa ra từ khi tập đoàn quân sự cầm quyền tự giải tán năm 2011 đã được phương Tây rất hoan nghênh, do đó đã dỡ bỏ hầu hết các biện pháp cấm vận. Nhưng cộng đồng quốc tế gần đây lo ngại trước các vụ bắt bớ nhà báo, và xu hướng dân tộc chủ nghĩa Phật giáo đang lên kèm theo các vụ xung đột đẫm máu giữa người Phật giáo và Hồi giáo.

Các Ngoại trưởng 10 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ họp lại vào thứ Sáu 8/8 tới tại Naypyidaw, trước khi họp riêng vào thứ Bảy 9/8 với Trung Quốc, Hoa Kỳ và các đối tác quan trọng khác của khối ; rồi đến một hội nghị với toàn thể các quốc gia khách mời vào Chủ nhật 10/8. Các cuộc thảo luận chủ yếu tập trung vào vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển giữa Bắc Kinh và nhiều thành viên ASEAN tại Biển Đông.

Nhưng một số thành viên cũng sẽ nêu ra những câu hỏi về vấn đề nhân quyền đối với nước chủ nhà, nhất là Ngoại trưởng Mỹ John Kerry. Ông sẽ kêu gọi chính phủ Miến Điện bảo vệ tất cả mọi công dân và « thiết lập những bảo đảm tốt nhất về nhân quyền và các quyền tự do căn bản ». Danny Russel, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương cho biết như trên.

Sean Turnell, trường đại học Macquarie của Úc nhấn mạnh : « Nhiều cường quốc phương Tây đã nỗ lực rất nhiều cho một sự chuyển đổi thành công của Miến Điện. Các vấn đề như bạo động tôn giáo và vi phạm tự do báo chí đã gây khó khăn cho cố gắng này ».

Các chỉ trích đối với chính phủ Miến Điện có thể được đưa ra trong cuộc họp kín. Tuy nhiên Trung Quốc, vốn đã bị mất đi vị trí một đồng minh không thể thay thế trong thời kỳ tập đoàn quân sự cầm quyền, nhờ đó sẽ có được cơ hội lại đóng vai trò lá chắn cho nước láng giềng.

Từ khi chính quyền quân sự giải thể, hàng trăm tù chính trị đã được phóng thích, kiểm duyệt được bãi bỏ và nhà đối lập Aung San Suu Kyi từng bị quản thúc suốt 15 năm, đã trở thành dân biểu. Nhà nước bị cô lập trước đây nay thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư quốc tế, với nguồn lợi thiên nhiên dồi dào và dân số 60 triệu người.

Nhưng Miến Điện luôn bị ảnh hưởng bởi những trận đánh lẻ tẻ ở miền cực bắc giữa quân đội và phe nổi dậy người thiểu số Kachin, đã ngăn trở kế hoạch ngưng bắn trên toàn quốc với tất cả các phe sắc tộc. Bạo động giữa người Phật giáo và Hồi giáo đã làm trên 250 người chết tại nhiều vùng kể từ năm 2012 cũng gây quan ngại cho cộng đồng quốc tế.

Bên cạnh đó là bản án 10 năm tù khổ sai dành cho năm nhà báo hồi tháng Bảy vì một bài báo lên án một nhà máy quân sự sản xuất ra vũ khí hóa học. Và theo một nhà ngoại giao phương Tây, gần đến kỳ bầu cử quan trọng năm 2015 mà đảng của bà Aung San Suu Kyi chiếm ưu thế, truyền thông Miến Điện có nguy cơ phải chịu đựng áp lực ngày càng cao.

Ông David Mathieson của Human Rights Watch bình luận : « Tôi nghĩ rằng ông Kerry nhận ra ông đến không phải để ca ngợi vì sẽ khó nói ». Về phía Soe Thein, Bộ trưởng phụ trách Văn phòng Tổng thống mới đây đã yêu cầu « thông cảm » trước một số cải cách đã không tiến hành như dự kiến. Ông hứa hẹn : « Chúng tôi tiến bước trên con đường dân chủ, và sẽ không quay trở lại ».

Xác nạn nhân Ebola chất đống trong lúc số tử vong gia tăng

Xác nạn nhân Ebola chất đống trong lúc số tử vong gia tăng

Nhân viên y tế khiêng thi thể nạn nhân tử vong vì Ebola tại Kenema, Sierra Leone.

Nhân viên y tế khiêng thi thể nạn nhân tử vong vì Ebola tại Kenema, Sierra Leone.

05.08.2014

Các giới chức Liberia đang chật vật ứng phó với số người chết vì dịch Ebola ngày càng nhiều nhưng chưa được chôn cất tại những cộng đồng có dịch.

Truyền thông địa phương cho biết hệ thống y tế bị quá tải khiến cho nhiều thi thể bị mang vất ở một số cộng đồng và không được mai táng trong vòng nhiều ngày. Một bản tin cho biết có đến 37 xác được phát giác hôm chủ nhật tại một khu vực của thủ đô Monrovia.

Bộ trưởng Thông tin Liberia, ông Lewis Brown, cho đài VOA biết rằng chính quyền cảm thấy bất ngờ trước việc một số cộng đồng không muốn xác nạn nhân Ebola được chôn cất tại cộng đồng của họ.

Ông Brown cho biết Tổng thống Ellen Johnson Sirleaf đã ra lệnh hỏa thiêu xác những người thiệt mạng vì Ebola.

Tổ chức Y tế Thế giới cho biết số tử vong của trận dịch Ebola hiện nay là 887 người, trong đó có 255 người ở Liberia.

Trong khi đó, một chiếc máy bay được thiết kế đặc biệt đã chở một nhà truyền giáo Mỹ nhiễm Ebola ra khỏi Liberia sáng sớm hôm nay.

Bà Nancy Writebol dự kiến sẽ về tới Mỹ xế ngày hôm nay và sẽ được chữa trị tại Bệnh viện Đại học Emory ở thành phố Atlanta cùng với một Bác sĩ Mỹ khác bị nhiễm vi rút nguy hiểm này trong lúc chữa trị bệnh nhân ở Liberia.

Hôm qua, các giới chức của một bệnh viện ở New York cho biết một người đàn ông bị sốt cao và đau bụng đã vào phòng cấp cứu và đã được cách ly ngay.

Họ cho biết bệnh nhân này hồi gần đây đã du hành tới một nước ở Tây Phi đang có dịch và đang được xét nghiệm. Chưa có chi tiết nào khác về người này được công bố.

Bịnh Dịch Ebola

Bịnh Dịch Ebola

Bùng phát gần 6 tháng, Ebola đã giết chết 729 người, nhiều người khác đang nguy kịch, bệnh nhân nhiễm Ebola sẽ tử vong khi máu liên tục chảy ra từ mũi, mắt, tai, miệng và bất cứ vết hở nào trên cơ thể

 

ebola
Đây là cánh tay của một bệnh nhân mắc bệnh Ebola giai đoạn cuối. Các cục máu đông bắt đầu vỡ, bệnh nhân chết vì mất máu nhiều.

Ebola tấn công cơ thể thế nào?

Virus Ebola tấn công cơ thể một cách có hệ thống, có nghĩa là nó tấn công mọi cơ quan và tế bào của cơ thể, ngoại trừ xương và cơ xương.

Theo các nghiên cứu của Trường đại học Y Pennsylvania, Ebola đã vô hiệu hóa protein tetherin, loại protein có chức năng ngăn chặn sự lây lan của virus từ tế bào này sang tế bào khác, từ đó đẩy lùi hệ miễn dịch của cơ thể.

ebola
Hình ảnh virus Ebola qua kính hiển vi.

Sau đó, chúng lấy tế bào này làm nơi sản xuất một lượng lớn virion (hạt virus). Những virion này sau đó sẽ được phóng ra để nhiễm vào các tế bào khác và ngày càng lan rộng ra khắp cơ thể.

Virus Ebola gây ra các cục máu đông nhỏ trong máu của bệnh nhân; cục máu ngày càng nhiều lên và dòng chảy của máu chậm lại. Các cục máu đông bị tắc vào các mạch máu hình thành lên các đốm đỏ trên da bệnh nhân.

Những đốm đỏ này sẽ ngày càng to khi bệnh càng nặng. Ngoài ra, chúng còn cản trở dòng máu đi nuôi các cơ quan trong cơ thể như gan, não, phổi, thận, ruột, mô vú, tinh hoàn…của bệnh nhân.

Đến giai đoạn cuối, bệnh nhân sẽ bị chảy máu từ miệng, mắt, tai, mũi và những vết hở trên da. Bệnh nhân sẽ chết do mất quá nhiều máu, suy thận, hoặc bị sốc.

Bệnh có tỷ lệ tử vong lên tới 90%, chưa có thuốc đặc trị và chưa có vắc-xin phòng bệnh. Do đó, điều cần làm lúc này là phòng bệnh.

Dưới đây là một số biện pháp để ngăn chặn dịch bệnh Ebola theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO).

1. Không ăn thịt sống

Con người có thể bị nhiễm virus Ebola khi tiếp xúc gần với máu, dịch tiết, các cơ quan hoặc những chất dịch khác của động vật bị nhiễm bênh.

Ở châu Phi, đã có trường hợp bị nhiễm bệnh khi xử lý những động vật đang bị nhiễm bệnh hoặc đã chết vì nhiễm bệnh trong rừng như: tinh tinh, khỉ đột, dơi ăn quả, linh dương, nhím…

ebola
Một bệnh nhân đang bị xuất huyết do Ebola. Ảnh: Reuters.

Thường xuyên khử trùng và dọn dẹp các trang trại, chuồng lợn, khỉ…bằng sodium hypochlorite hoặc các chất tẩy rửa khác.

2. Cách ly người bệnh

Ebola cũng có thể lây từ người sang người do tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết, các cơ quan hay các chất dịch khác của người bị nhiễm, và tiếp xúc gián tiếp với môi trường bị nhiễm những dịch tiết này.

Do đó, cần phải kiểm tra và tạm thời cách ly những người đã từng tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với người nhiễm bệnh. Người nhiễm bệnh cần được cách ly hoàn toàn. Đồng thời, cần có biện pháp khử trùng nơi ở, vật dụng cá nhân của những bệnh nhân đã tử vong hay nhiễm Ebola.

3. Xử lý kịp thời và đúng quy trình thi thể bệnh nhân tử vong do Ebola

Người tiếp xúc với thi thể bệnh nhân tử vong do nhiễm Ebola cũng có thể bị nhiễm bệnh. Do đó, cần xử lý kịp thời và đúng quy định về an toàn thi thể bệnh nhân bị tử vong do Ebola.

Thậm chí, virus Ebola có thể tồn tại trong tinh dịch tới 7 ngày sau khi người nhiễm bệnh đã bình phục.

4. Mặc quần áo bảo hộ y tế

Nhiều nhân viên y tế đã bị nhiễm bệnh khi điều trị cho những bệnh nhân bị nhiễm Ebola vì đã không thực hiện nghiêm ngặt các quy định về bảo hộ y tế.

Nội dung được thực hiện qua tham khảo trang web của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trang cộng đồng các chuyên gia Brighthub và trang Sciencedaily của Mỹ.

Theo infonet

Tin tức từ chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CÓ HỎA NGỤC KHÔNG, VÀ Ở ĐÂU ?

CÓ HỎA NGỤC KHÔNG, VÀ Ở ĐÂU ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Trích Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam số 226

Trong niềm tin Kitô Giáo, căn cứ vào Kinh Thánh và Giáo lý của Giáo Hội thì chắc chắn phải có nơi gọi là hỏa ngục ( Hell) đối nghịch với nơi gọi là Thiên Đàng.

Nếu Thiên Đàng là nơi dành cho những ai , khi sống trên trần gian này, đã quyết tâm đi tìm Chúa và sống theo đường lối của Người, để xa lãnh mọi sự dữ, sự tội và bước đi theo Chúa Kitô, là : “Con đường là Sự thật và sự Sống”  ( Ga  14: 6) thì hỏa ngục phải là nơi dành cho những kẻ đã hoàn toàn khước từ Thiên Chúa để sống theo ý muốn của mình , và buông  mình theo  những quyến rũ của ma quỉ và thế gian để làm những sự dữ như giết người, cướp của , và dâm ô thác loạn  mà không hề biết ăn năn sám hối và từ bỏ nếp sống tội lỗi.

I- Thánh Kinh đã cho ta biết về nơi gọi là hỏa ngục như sau :

Khi ra vê, mọi người sẽ thấy xác những kẻ phản loạn chống lại Ta,vi giòi bọ  rúc tỉa, chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tàn lụi. Chúng sẽ là đồ ghê tởm cho mọi người phàm. ( Ís 60:24)

Khi đến trần gian rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đã nói đến hỏa ngục và hình phạt ở nơi này như  sau:

Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi sa ngã, thì móc nó đi; thà chột một mắt  mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi  giòi bọ không hề chết, lửa không hề tắt.” ( Mc 9: 47-48)

Nơi khác, Chúa còn nói rõ hơn nữa :

anh  em đừng sợ những kẻ giết chết thân xác mà không giết được linh hồn.   Đúng hơn , anh  em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục ( Mt 10: 28; Lc 11: 4-5)

 

II– Giáo lý của Giáo Hội về Hỏa ngục

Giáo lý của Giáo Hội nói rõ hỏa ngục  là “ nơi này dành cho những ai-  cho đến lúc chết- vẫn từ chối tin và trở lại. Đó là nơi cả hồn lẫn xác sẽ bị hư mất . Và danh từhỏa ngục “ được dùng để chỉ tình trạng ly khai chung cuộc khỏi mọi hiệp thông với Thiên Chúa và các Thánh ở trên Trời”, ( x. SGLGHCG số 633, 1033).

Vì thế, Giáo Hội luôn cảnh giác các tin hữu về thảm họa đáng sợ này để mong mọi người  ý thức rõ và quyết tâm sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này hầu tránh hậu quả phải hư mất đời đời trong  nơi gọi là hỏa ngục. Cụ thể , giáo lý của Giáo Hội nói rõ thêm như sau:

“ linh hồn của những người chết trong tình trạng đang có tội trọng, sẽ lập tức xuống hỏa ngục, lửa vĩnh viễn.” ( x. SGLGHCG số 1035)

 

III- Hỏa ngục đang có ở đâu ngay trên trần gian này ?

Nhìn vào thực trạng sống của con người ở khắp nơi trong thế giới vô luân  tục hóa ngày nay, chúng ta có thể thấy rõ hỏa ngục đang  có mặt ở những nơi sau đây:

1- Buôn người, Mãi dâm và ấu dâm (prostitution & child prostitution):

Mãi dâm thì đã có từ khi có con người trên trần thế này.Nhưng buôn bán phụ nữ   cho nô lê tình dục  ( sexual slavery)   và  ấu dâm ( child prostitution) thì mới có trong thời đại vô luân  tục hóa ngày nay mà thôi.

Thật vậy, ở khắp nơi đang có   những kẻ đi tìm thú vui xác thit nơi các trẻ em còn thơ dại và nơi những phụ nữ bị lừa dối ,dụ dỗ  cho đi làm có lương ,  nhưng thực tế là để làm nô lệ tình dục  do bọn ma cô và tú bà khai thác để làm tiền trên thân sác và tinh thần đau khổ của các nạn nhân. . Đây là tội ác vô cùng khốn nạn đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả ở  Hoa Kỳ.  Và Việt Nam, là một trong những nguồn cung cấp trẻ em  và phụ nữ  cho hoạt động đầy tội ác này.

Điều  buồn hơn nữa là  có những cha mẹ đã mất hết lương tri, và bản chất con người ( human nature) nên đã lạm dụng tình dục với chính con cái của mình. Tệ hại hơn nữa là có những người cha đã hiếp dâm con gái của mình mới 4-5-5-7  tuổi rồi bán chúng cho bọn buôn người đem đi bán lại cho bọn ma cô, tú bà đang hành nghề “ấu dâm” ở trong và ngoài nước;  theo như tin cho biết của một linh mục đang dấn thân lo cứu giúp các trẻ em nạn nhân này.

Như thế, tất cả cha mẹ liên hệ, bọn ma cô buôn người và các kẻ đi tìm thú vui vô cùng  khốn nạn và tội lỗi trên,  đều đang sống trong hỏa ngục do chính chúng  tạo ra  ngay ở trên trần gian này,  chứ không  cần phải đợi đến chết mới  được  xuống hỏa ngục để bị thiêu đốt đời đời. Tội lỗi của bọn này  thật ghê sợ vì không những chúng  tạo  hỏa ngục  cho chúng,  mà còn mang hỏa ngục  đó đến cho các nạn nhân đáng thương,  là những trẻ thơ còn trong trắng, nhưng đã bất hạnh sa vào cạm bẫy tội lỗi của chúng, khiến thể xác bị thương tật và tinh thần bị trấn thương nặng . Đây là tội ác chỉ có trong thời đại vô luân vô đạo hiên nay mà thôi. Và những kẻ đang làm sự dữ này  đã phỉ nhổ vào mọi niềm tin có  Thượng Đế, có Thiên Chúa là Đấng cực tốt cực lành, đầy yêu thương, nhưng chê ghét mọi tội lỗi và sự dữ.

Cho nên, chúng xứng đáng để nghe lời chúc dữ sau đây của  Chúa Giêsu :

Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã. Những khốn  cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã. Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho  nó hơn  là để nó làm cớ cho một trong những  kẻ  bé mọn này vấp ngã. ( Lc 17: 1-2)

Thánh Phaolô cũng lên án tội dâm ô và các tội khác như sau :

“ Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ : đó là dâm bôn ô uế, phóng đãng …và những điều khác giống như vậy. Tôi báo trước cho mà biết, như tôi đã từng  bảo : những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” ( Gl  5: 19-21)

Những  sự dữ mà bọn người nói trên đang làm là một  tội vô cùng lớn lao,  vì nó  đi ngược lại hoàn toàn  với  bản chất  thánh thiện , trọn tốt trọn lành của Thiên Chúa, và  chỉ thích hợp với bản chất của ma quỷ, tức  bè lũ Sa tăng, kẻ thù của Thiên Chúa, của  các Thánh, các Thiên Thần trên Trời mà thôi.

Thực tế đã cho biết là các đường dây buôn người, buôn bán phụ nữ và trẻ em đang hoạt động mạnh  ở trong và ngoài nước  để  cung cấp thú vui vô luân vô đạo cho bọn người đang bán linh hồn cho  ma quỉ  và  giữ chỗ trước trong hỏa ngục đời sau.

Tại sao lại có  những cha mẹ  đem bán con cái ( con gái) của mình cho bọn buôn người  nói trên ???.  Thật là điều đau buồn mà những ai còn chút lương tri phải rùng mình ghê sợ và lên án, vì đây  là  thảm trạng chưa từng thấy trong xã hội loài người từ xưa đên nay.Chỉ có loài thú vật mới không biết gì là liêm sỉ, vì không có lý trí và  lương tâm  nên chúng có thể ăn thịt nhau và làm tình lẫn lộn với nhau mà không hề biết xấu hổ.

Nhưng là con người , và là cha mẹ  mà đem bán cái cái cho bọn buôn người , nhất là lại  hãm hiếp con gái trước  khi bán chúng cho bọn bất lương, thì quả thật là điều ghê tởm không thể tưởng tượng  được, như đang xẩy ra trong hoàn cảnh của một xã hội phi luân, vô đạo hiện nay.Những  cha mẹ này cùng với bọn ma cô, tú bà  và những  kẻ đi tìm thú vui vô cùng khốn nạn kia quả thực  đang sống trong hỏa ngục trần gian do chúng tạo ra cho chúng  và nhẫn tâm  xô đẩy  biết bao trẻ em thơ dại,và phụ nữ bị lường gạt  vào cái hỏa ngục của bọn chúng. Do đó,  những vui thú  mà bọn người  man rợ  kia đi tìm  –  tức khách mua vui đủ mọi lớp tuổi,   cùng với  tiền bạc  mà  bọn  buôn người , bọn ma cô tú bà kiếm được nhờ  hoạt động  tội lỗi này,   đã giúp cho bọn chúng  có dư  điều kiện  để mua lò hỏa ngục tối tân   cho chúng được thiêu đốt  đời đời  mai sau.Chắc chắn như vậy

Nhưng tại sao lại có loại hỏa ngục  này ?

Phải chăng vì môi trường xã hội đã quá hư thối  không còn chất  luân lý, đạo đức nào như thực trạng  bên nhà , hoặc vì tự do quá trớn và luật pháp có nhiều khe hở như ở Hoa kỳ này,  đã làm phát sinh  những thảm họa như  nạn buôn người- hay nói đúng hơn, là buôn phụ nữ và trẻ em  bán cho bọn ma cô tú bà  hành nghề mãi dâm và ấu dâm ở rất  nhiều  nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Á  Châu, như  Trung cộng, Ấn Độ, Cambốt  Thai Lan, Lào, Sri Lanka,  Phi luật Tân,  Mã lai và Việt Nam ?

Theo thống kê  không chính thức thì có khoảng 31 triệu nạn nhân của nạn buôn người ( human traffickers ) buôn  bán trẻ em cho kỹ nghệ  nô lệ tình dục, mãi dâm  và ấu dâm  trên khắp thế giới hiện nay ! Đây là hỏa ngục mà bọn bất lương kia đang tạo ra cho các nạn  nhân đáng thương của chúng, đặc biệt là cho các trẻ em dưới tuổi thành niên.Tạo hỏa ngục cho các nạn nhân đó  là giữ chỗ trước cách chắc chắn cho bọn chúng được vào hỏa ngục để bị thiêu đốt sau này .

2- Nạn bất công, bóc lột và hà hiếp người thấp cổ bé miệng:

Thiên Chúa là sự công bằng, chính trực  tuyết đối, nên ai bất công, bóc lột  sức lao động  và tiền bạc  của người khác là xúc pham đến sự  công bằng của Chúa.

Thật vậy, chỉ vì  có những kẻ muốn vơ vét của cải cho đầy túi tham mà nạn bóc lột xảy ra trong chế độ cai trị hà khắc, bất công, vô nhân đạo  và  bạo tàn. Đây là thứ hỏa ngục khác đang tồn tại ở những nơi có bất công xã hội, vắng bóng luân lý và đạo đức, vì người cai trị cố bám lầy quyền bính để  kéo dài  sự đau khổ và bất công cho người dân  không may rơi vào ách thống trị  của tập đoàn  trộm cướ p, núp dưới danh nghĩa  cai trị  dân,  nhưng  thực chất chỉ để thỏa mãn tham vọng  quyền lực và vơ vét của cải , làm giầu cho bọn chúng  trên xương máu của người dân xấu số. Chúng  không có lương tri nên không hề quan tâm gì đến phúc lợi của người dân, cách riêng của người nghèo đói, nạn nhân của chế độ bóc lột và bất công như thực trạng đang phơi  bày ở nơi có hỏa ngục này.

3- khủng bố vì cuồng tin tôn giáo và tham vọng chính trị:

Thế giới đang sống trong đe dọa của khủng bố ( terrorism), vì bọn cuồng tín tôn giáo muốn độc tôn giáo phái của mình, nên tìm  mọi cách để triệt hạ tôn giáo khác bằng hành động khủng bố, bắt cóc, giết  người  và đốt phá cơ sở thờ phượng của các  tôn giáo khác. Đây là tai họa đang xảy   ra  cho các Kitô hữu ( Christians) thuộc các  Giáo hội Công Giáo Đông Phương, Chính Thống giáo và Tin Lành ở các nước Iraq, Iran, Ai Cập, Syria ,Lybia ,  Sudan…mà cộng đồng thế giới , đặc biệt là  Mỹ và Âu Châu, đang làm ngơ khiến cho các Kitô hữu thiểu số ở các nước có đông Hồi giáo nói trên  phải khốn khổ vì  bị bách hại bởi những kẻ cuồng tín muốn tiêu diệt KitôGiao( Christianity)  để độc quyền thống trị cả về tôn giáo lẫn chính trị. Đây là hỏa ngục mà bọn cuồng tín kia đang gây ra cho những người mà chúng coi là kẻ thù phải thanh toán,  để chúng được độc tôn truyền bá tôn giáo và tham vọng chính trị của chúng .Đây là hỏa ngục do chúng tạo ra cho người khác  , vì không một Thượng Đế nào-mà những kẻ cuồng tín kia muốn nhân danh-, lại  có thể chấp nhận được chủ trương bạo động để tiêu diệt các tôn giáo khác, như  bọn chúng đang làm và gây đau khổ cho biết bao nạn nhân từ mấy năm nay.

Sau hết, những kẻ đang cai trị độc ác , cha truyền con nối ở  một số  nơi trên thế giới, cũng tạo hỏa ngục cho chính người dân chẳng may sống dưới ách  cai trị  độc đoán và bất lương của chúng.  Bọn cai trị độc ác này cũng đang  mua trước cho  chúng  một chỗ an nghỉ đời đời trong chốn hỏa ngục , nếu chúng  không biết ăn năn sám hối kịp thời để từ bỏ con đường gian ác.

Tóm lại, trong thế giới tục hóa, vô luân  ngày nay, con người đã tạo hỏa ngục  ở nhiều nơi cho chính mình và cho người khác, chẳng may sa vào  vòng tay tội lỗi của họ. Dù họ có niềm tin hay không, nhưng cách sống của họ chắc chắn đã  vô tình  nói lên khát vọng muốn được thiêu đốt đời đời trong nơi gọi là hỏa ngục. Và chắc chắn phải có nơi này, vì tội ác của những kẻ đang làm những sự dữ nói trên sẽ dẫn đưa  chúng  cuối cùng phải dừng chân ở chốn này,  để được thiêu đốt cho xứng với những sự dữ mà chúng  đang làm, đang tạo hỏa ngục cho người khác – đặc biệt là cho các trẻ  em  nạn nhân của thú  “ấu dâm”vô cùng khốn nạn, cũng như cho  các   nạn nhân  của  bọn cuồng tín tôn giáo và độc tài chính trị.

Chúng ta cùng  tha thiết cầu nguyện để xin Chúa sớm phá tan  những sự dữ nói trên,  hầu cho  con người ở khắp nơi được sống trong lành mạnh,  an bình, tự do và nhân ái  để phát huy  mọi giá trị tinh thần và đạo đức, xứng đáng với nhân phẩm và phù hợp với  niềm tin có Thiên Chúa  hayThượng Đế,  là  Đấng tối cao chê ghét mọi tội lỗi và sự dữ do ma quỷ xúi dục và con ngưởi mất lương tri  đang tích cực cộng tác  ở khắp nơi trên thế giới  phi nhân và phi luân  này.

Lm Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn.

Phạm Chí Dũng : Nhà nước cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của xã hội dân sự

Phạm Chí Dũng : Nhà nước cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của xã hội dân sự

RFI

Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.

Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.

DR

Thụy My

Nhà báo Phạm Chí Dũng – Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (Hội NBĐLVN) – vừa nhận hai giấy triệu tập liên tiếp của Cơ quan an ninh điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu anh phải đến trụ sở cơ quan này vào 8h sáng các ngày 4/8 và 5/8 để “trả lời các bài viết trên Internet”.

Được biết ngày 4/8 cũng là thời điểm một cuộc sinh hoạt định kỳ của Hội NBĐLVN được tổ chức tại Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Ngày 5/8 là ngày họp mặt các nhóm xã hội dân sự tại Saigon.

Với giấy triệu tập lần 1, nhà báo Phạm Chí Dũng đã từ chối không đến, nhưng đành vắng mặt trong buổi họp vì bị ngăn chặn. Còn hôm nay 05/08/2014, anh đã chấp nhận đến trụ sở công an để làm việc. Sau khi kết thúc buổi làm việc này, anh cho đài RFI biết:

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Một chi tiết thú vị là tôi lại gặp chính ông Lê Đình Thịnh – điều tra viên mà vào năm 2012 đã tham gia bắt và hỏi cung tôi. Lần này, điều tra viên hỏi khá nhiều về Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nội dung xoay quanh mục đích tôn chỉ của Hội và một số vấn đề khác. Có vẻ họ rất quan tâm đến tiêu chí “hoạt động ôn hòa” của Hội và cố gắng dò tìm xem hội này thực sự ôn hòa hay có định xách động dân chúng không.

Tôi trả lời thẳng là Hội NBĐLVN là tổ chức nghề nghiệp về báo chí, đã tuyên bố hoạt động ôn hòa tức sẽ luôn ôn hòa về quan điểm, trong đó có quan điểm chính trị. Nhà nước Việt Nam luôn đa nghi, nhưng sẽ hoài công vì Hội NBĐLVN chẳng bao giờ có ý định “lật đổ chế độ”.

Tuy nhiên, mục tiêu chính của Hội là phản biện, và Hội chấp nhận các luồng quan điểm và ý kiến đa chiều, kể cả trái chiều giữa các hội viên để tạo nên một môi trường đa nguyên tư tưởng theo đúng nghĩa.

Về ngày thành lập 4/7 của Hội NBĐLVN trùng với ngày Quốc khánh Mỹ, ngay từ đầu chúng tôi đã xác định đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên nhưng rất ý nghĩa, vì điểm thời gian này tương hợp với Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hơn hai trăm năm trước – năm 1776. Nhưng không thể lấy sự trùng hợp về thời điểm như thế để quy cho Hội NBĐLVN là “theo đuôi Mỹ”.

Họ cũng cho rằng có thể tôi bị “cuốn theo đô la và ảo vọng”, tức “khen Mỹ” nhiều quá. Tôi trả lời thẳng là: “Các anh có chứng minh được chúng tôi dùng nguồn tiền bất hợp pháp cho hoạt động của Hội NBĐLVN không? Các anh có bao giờ thấy tôi hoang tưởng chính trị không? Vừa qua sau vụ giàn khoan HD 981 của Trung Quốc, nếu không có sự lên tiếng mạnh mẽ của Hoa Kỳ và phương Tây thì liệu Trung Quốc có nhượng bộ Việt Nam không? Như vậy cần thấy rằng phải cố mà xây cho được mối quan hệ đồng minh với Mỹ chứ. Quan hệ này không chỉ bảo toàn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam mà còn có lợi cho cả đảng của các anh đấy”.

Nội dung hỏi và trả lời chỉ có thế. Sau đó họ đề nghị tôi ký xác nhận vào những bài viết của tôi trên mạng Internet, nhưng tôi yêu cầu họ về nhà tôi để tôi tự in các bài viết từ trên mạng rồi mới có thể ký được.

Điều đọng lại cuối cùng nhưng ấn tượng nhất đối với tôi sau buổi làm việc hôm nay là Cơ quan ANĐT không hề đề cập đến việc hình thành Hội NBĐLVN là đúng hay sai luật pháp, cũng không đả động gì đến việc “xử lý vi phạm” hay bắt bớ nào đối với các hội viên của Hội NBĐLVN.

Họ cũng không đề cập đến cụm từ “đối lập chính trị” mà giới dư luận viên đã luôn dùng để công kích và quy chụp Hội NBĐLVN trong gần ba chục bài viết trên mạng trong một tháng qua, hay truy tìm nguồn tài chính của Hội mà có thể họ luôn cho rằng không minh bạch. Và Cơ quan ANĐT cũng chỉ hỏi về hoạt động của cá nhân tôi chứ không đề cập đến bất cứ người nào khác trong Hội NBĐLVN.

Tôi cho rằng đã đến lúc Nhà nước Việt Nam cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của các hội đoàn dân sự độc lập, và thay vì điều tra xét hỏi và triệu tập liên miên mà có thể phạm vào việc lạm dụng quyền lực, họ nên đối thoại với chúng tôi về những giải pháp cho đất nước.

Nhà báo Phạm Chí Dũng – Saigon

 

05/08/2014
by Thụy My

 

Nghe (03:04)

 

 

 

 

Sài Gòn là điểm trung chuyển nạn nhân buôn người

Sài Gòn là điểm trung chuyển nạn nhân buôn người
August 04, 2014

Nguoi-viet.com
SÀI GÒN (NV) – Ðó là lời thừa nhận của chính quyền thành phố Sài Gòn khi sơ kết tình hình an ninh trật tự ở thành phố này trong sáu tháng đầu năm 2014.


Chùa Bồ Ðề ở Hà Nội, một nơi chuyên nuôi trẻ mồ côi và người già. Công an Việt Nam đang điều tra hoạt động mua bán trẻ em tại ngôi chùa này. Ðã có hai bảo mẫu bị bắt hôm 3 tháng 8. (Hình: xahoi.com.vn)

Ðại diện nhà cầm quyền thành phố cho biết là đã và đang là nơi được các nhóm buôn người dùng làm điểm “tập kết” để trung chuyển nạn nhân từ các tỉnh khác ra ngoại quốc.

Các nhóm buôn người thường dụ dỗ thiếu nữ bằng cách hứa giúp họ tìm việc làm có thu nhập cao ở ngoại quốc, khi đã đưa họ ra ngoại quốc thì bán họ cho những nhóm buôn người khác, cưỡng ép họ làm gái mại dâm, bóc lột tình dục. Ða số nạn nhân cư trú tại các tỉnh hoặc từ các tỉnh tìm về Sài Gòn kiếm sống.

Giới chức này nói thêm rằng họ vẫn chưa dẹp được tệ nạn môi giới hôn nhân trái phép với đàn ông ngoại quốc vì các hoạt động của các nhóm này càng ngày càng tinh vi và liên tục thay đổi phương thức hoạt động.

Sài Gòn hiện cũng là nơi mà các nhóm chuyên mua bán trẻ em hoạt động. Những nhóm này thường đến những nơi chăm sóc, nuôi dạy trẻ mồ côi, bệnh viện phụ sản, móc nối với nhân viên làm việc tại các cơ sở này gạ gẫm những phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, mang thai ngoài ý muốn bán trẻ sơ sinh cho chúng.

Trong sáu tháng đầu năm 2014, công an Sài Gòn đã tiếp nhận để điều tra bảy vụ bán phụ nữ sang Trung Quốc, ba vụ môi giới hôn nhân trái phép, bốn vụ mua bán trẻ em – giải cứu sáu đứa trẻ.

Cho đến nay, Việt Nam vẫn bị xem là một trong những điểm nóng về tệ nạn buôn người. Nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế liên tục cảnh báo về sự phát triển của tệ nạn này tại Việt Nam song chính quyền Việt Nam bất lực trong việc giải quyết thực trạng nhức nhối này.

Kết qủa điều tra về thực trạng buôn người 2014 do chính phủ Hoa Kỳ thực hiện và công bố cách nay vài tháng, ghi nhận Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể nhưng hiện tượng phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán sang các nước ở Châu Á để làm nô lệ tình dục vẫn rất đáng ngại. Nơi các nạn nhân này thường bị đưa đến là Trung Quốc, Campuchia, Malaysia và Nga.

Nạn nhân của tệ nạn buôn người tại Việt Nam không chỉ có phụ nữ và trẻ em. Thanh niên và đàn ông Việt Nam cũng bị biến thành hàng hóa để mua bán.

Hồi đầu năm nay, Walk Free – một tổ chức quốc tế chuyên tranh đấu cho nhân quyền, công bố kết quả một cuộc khảo sát-phân tích, xếp hạng về “chỉ số tình trạng nô lệ 2013.” Theo đó, Việt Nam bị xếp thứ 64/162 trên bình diện toàn cầu. Còn xét riêng khu vực Châu Á, Việt Nam xếp thứ 9. Nếu xếp theo tổng số nô lệ, Việt Nam đứng thứ 15 trên thế giới.

Con số nô lệ tại Việt Nam được Walk Free ước đoán nằm trong khoảng từ 240 ngàn đến 260 ngàn. Walk Free nhận định, tình trạng người Việt bị cưỡng ép lao động phổ biến cả ở bên ngoài lẫn bên trong Việt Nam.

Trước đây, chuyện lừa gạt, cưỡng ép làm việc và dùng nhiều biện pháp khác nhau để cầm giữ người lao động, cột chặt họ với giới chủ chỉ xảy ra với những người Việt đi làm thuê ở nước ngoài và những người Việt là nạn nhân của nạn buôn người. Nay, điều đó đang xảy ra trên khắp Việt Nam.

Thỉnh thoảng các tờ báo ở Việt Nam lại đưa tin, vừa có hàng chục, hàng trăm người, đa số là thành viên các sắc tộc thiểu số, bị gạt, bị đưa đến đâu đó ở Việt Nam, bị cưỡng ép làm việc như nô lệ. Chính quyền Việt Nam gần như làm ngơ, không can thiệp vào những vụ này. (G.Ð)

 

Tác hại của tuyên truyền

Tác hại của tuyên truyền

GS Nguyễn Văn Tuấn

04-08-2014

Theo cách hiểu thông thường, tuyên truyền là truyền bá những thông tin lệch lạc để quảng bá một mục tiêu chính trị hay một quan điểm. Theo cách hiểu này tôi thấy ở VN có nhiều hiểu lầm hay lệch lạc về các sự kiện lịch sử chỉ vì những sản phẩm của tuyên truyền.

Năm nay kỉ niệm đúng 50 năm ngày 3 tàu hải quân VN đụng độ với tàu khu trục Maddox của Mĩ (2/8/1964). Báo chí VN mô tả trận đánh đó như là một “chiến thắng giòn giã” của hải quân VN (1) vì đã đuổi được tàu Maddox. Nhưng tôi nghĩ đây là một sản phẩm tiêu biểu của tuyên truyền, và nó sẽ làm lệch lạc sự thật lịch sử.

Trong thực tế, cuộc đụng độ không tương xứng đó làm cho 3 tàu của VN đều bị hư hỏng, 4 thuỷ thủ bị tử vong, 6 người bị thương. Còn tàu của Mĩ chẳng hề hấn gì; họ thậm chí phản công gây nhiều tổn hại cho VN. Tàu Maddox cũng chẳng “chạy trốn” mà nó còn quay lại với một tàu khác cùng máy bay oanh kích và gây tổn thất khá lớn trên đất liền. Đã 50 năm rồi, chẳng có gì phải giấu diếm, nên nói thật cho công chúng biết. Không nói thì họ (cũng như tôi đây) vẫn có thể tìm trên mạng để đọc và biết.

Trong quá khứ, tuyên truyền đã làm sai lệch lịch sử. Một trong những sản phẩm tuyệt vời của tuyên truyền là nhân vật Lê Văn Tám. Đó là một cậu bé được hư cấu hoàn toàn, mà tác giả của nó là Trần Huy Liệu (2), lúc đó (1946) là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và Cổ động của VNDCCH. Ông Liệu sáng tác ra một thiếu niên 18 tuổi tên Lê Văn Tám, vì căm thù giặc Pháp, đã tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè vào ngày 1/1/1946. Người sáng tác câu chuyện Lê Văn Tám cho biết Tám chạy 50 mét để vào đến kho xăng. Nhưng người sáng tác có vẻ hơi cường điệu. Làm sao một đứa bé 10 tuổi, với sức nóng dữ dội của xăng, có thể chạy đến 50 mét? Nhưng sau này chúng ta biết rằng đó chỉ là hư cấu, chứ không có nhân vật Lê Văn Tám. Tác giả của nó thú nhận một cách chống chế: “Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyền nên tôi viết tài liệu này, sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa.” Ấy vậy mà Lê Văn Tám đã đi vào lịch sử, vào sách giáo khoa, có tên công viên và đường phố. Mặc cho tác giả trần tình, rất nhiều người vẫn không tin rằng Lê Văn Tám là nhân vật hư cấu!

Tuyên truyền có thể gieo căm thù cho cả một cộng đồng. Ngày xưa ở miền Bắc VN, tôi đoán người ta tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó đã thành công gieo được vào đầu óc của người dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến nỗi họ ăn gan uống máu người; sĩ quan và quan chức Nguỵ sống phè phỡn, bê tha, truỵ lạc, trong khi đó thì người dân đói khổ đến nỗi không có chén để ăn cháo. Có lẽ người dân ngoài Bắc tưởng là thật, nên có lí do để vào Nam giải phóng cho dân miền Nam. Có lẽ tin là quân Nguỵ ác ôn, nên mới có tình trạng khi tù cải tạo từ miền Nam bị áp tải ra ngoài Bắc bị dân chúng quăng đá ném gạch và chửi rủa thậm tệ. Có vài người chết vì đòn thù này. Không biết bao nhiêu là đạo diễn (như thời Cải cách ruộng đất) và bao nhiêu là căm thù thực sự, nhưng hệ quả của tuyên truyền quả là ghê gớm.

Cũng vì tuyên truyền mà đến nay người dân VN vẫn tin rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hoá thế giới do UNESCO công nhận. Sự thật thì UNESCO không có văn bản nào công nhận ông hay bất cứ ai là “danh nhân văn hoá thế giới” (3). Vậy mà báo chí và giới lãnh đạo vẫn cứ dùng cụm từ “danh nhân văn hoá thế giới”. Có lẽ họ đã bị nhập tâm cái sản phẩm tuyên truyền đó và nói như là một quán tính.

Còn rất nhiều tác hại của tuyên truyền mà rất khó liệt kê hết ở đây. Có những câu nói gần như đi vào tâm tưởng của người dân mà khi nói ra họ cũng không để ý đến tính hợp lí của nó. Trước đây, có người phàn nàn về câu “Mừng đảng, mừng xuân, mừng đất nước” người ta mới giật mình thấy có cái gì không đúng. Hay như từ một bài ca “đảng đã cho ta mùa xuân” đi vào câu khẩu hiệu mà chẳng ai để ý mùa xuân là kết tinh của đất trời hội tụ chứ có ai cho đâu. Tương tự, câu “Nước CHXNCN Việt Nam muôn năm” nếu nghĩ kĩ cũng khó có thể vì trên thế gian này chẳng có cái gì tồn tại vĩnh viễn cả. Các hoàng đế Tàu ngày xưa cũng thích “vạn tuế” mà có ai đạt được đâu. Những sản phẩm tuyên truyền đó nó được gieo vào tâm trí của nhiều thế hệ để rồi theo thời gian nó trở thành một loạt sự thật giả tạo.

Có thể nói không ngoa rằng VN là một xứ sở của tuyên truyền. Bật tivi, mở radio, đọc báo, tất cả đều có bóng dáng và cái air của tuyên truyền, đặc biệt là các bản tin và bài viết liên quan đến chính trị, xã hội, sử, văn học. Đó là chưa kể đến những pano nền đỏ chữ vàng xuất hiện trên khắp đường phố từ nông thôn đến thành thị, từ lộ nhỏ đến đường cao tốc đều mang nội dung tuyên truyền. Cái gì cũng tuyên truyền, từ chính trị, đóng thuế đến có con đều tuyên truyền. Tuyên truyền hàng phút, hàng giờ, hàng ngày, và ở bất cứ nơi nào. Thử tưởng tượng, người dân phải bị “exposed” (phơi nhiễm) với cường độ tuyên truyền như thế thì trước sau gì cũng bị nhiễm. Tổ sư về tuyên truyền của Đức Quốc Xã là Joseph Goebbels từng nói rằng một lời nói dối nếu được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành chân lí. Điều này rất đúng với VN.

—–

(1) http://danviet.vn/xa-hoi/50-nam-ngay-hai-quan-thang-tran-dau-dam-quyet-dam-danh-465658.html

(2) Ông Trần Huy Liệu được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ nhận ấn kiếm của Vua Bảo Đại vào năm 1945. Bảo Đại mô tả ông Liệu như là “Một người gầy gò trông rất thảm hại, đeo kính đen để giấu cặp mắt lé”.
http://www.viet-studies.info/kinhte/BaoDai_HCM_DL.htm

(3) http://unesdoc.unesco.org/images/0007/000769/076995E.pdf
Records of the General Conference Twenty-fourth Session Paris, 20 October to 20 November 1987 (xem trang 135)

Nạn bức cung, nhục hình vẫn phổ biến

Nạn bức cung, nhục hình vẫn phổ biến

Nghe (13:21)

RFI

 

Ảnh minh họa. Đã có ít nhất 9 người chết trong đồn công an trong sáu tháng đầu năm nay ở Việt Nam.

Ảnh minh họa. Đã có ít nhất 9 người chết trong đồn công an trong sáu tháng đầu năm nay ở Việt Nam.

Thanh Phương

Trong những năm gần đây nạn bức cung, nhục hình ở Việt Nam trở nên phổ biến một cách đáng ngại. Thỉnh thoảng báo chí trong nước lại loan tin có người chết tại đồn công an, mà vẫn được mô tả là do “tự tử”, do “đột tử”…, nhưng trên thực tế ai cũng biết đó là do bạo lực của công an đối với các bị can hay người bị câu lưu, tạm giữ.

Chẳng hạn như vụ anh Nguyễn Công Nhựt ở Bình Dương, bị cho là đã “tự tử” tại đồn Công an Bến Cát vào năm 2011, vì đã chết trong tư thế treo cổ. Cho tới nay, gia đình của anh Nhựt vẫn không chấp nhận kết luận điều tra cho rằng anh đã “tự nguyện” ở lại đồn công an, rồi sau đó tự tử, để lại một “lá thư tuyệt mệnh”, với nét chữ không giống với nét chữ bình thường của anh.

Một trong những vụ được dư luận chú ý nhất là vụ anh Ngô Thanh Kiều bị 5 công an đánh chết tại đồn Công an Phú Yên năm 2012. Dư luận càng phẫn nộ khi thấy là trong phiên xử sơ thẩm vào tháng 4 năm nay, 5 công an này chỉ bị tuyên án từ 12 tháng tù treo đến 5 năm tù giam. Trước sự phản đối mạnh mẽ của dư luận, vào đầu tháng 7 vừa qua, tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã hủy án sơ thẩm để điều tra lại vụ này.

Nạn nhân thậm chí là những người chỉ phạm tội vặt vãnh, như trường hợp của anh Cao Văn Tuyên (thôn Suối Lách, xã Khánh Trung, huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hoà), đã bị công an xã dùng dùi cui đánh chết khi bị bắt về đồn để thẩm vấn vào đầu tháng 7 năm 2013. Nguyên nhân vụ bắt giữ chỉ là anh Tuyên thèm thịt gà mà không có tiền mua, nên ăn trộm gà hàng xóm.

Riêng trong năm 2014, chỉ tính đến tháng 6, đã có ít nhất 9 người dân chết trong đồn công an khi bị hỏi cung, căn cứ theo thông tin trên báo chí chính thức. Gần đây nhất, ngày 11/06, ông Trần Đình Toàn đã chết chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi bị đưa về trụ sở công an phường Hạ Long, Nam Định, vì bị nghi tàng trữ ma túy.

Khi đưa xác ông Toàn về để mai táng, gia đình phát hiện trên ngực ông có nhiều vết thâm bất thường, nên nghi là ông đã bị đánh chết. Còn theo Công an Nam Định, các bác sĩ tham gia cấp cứu cho ông Toàn khẳng định, những dấu vết trên là do trong quá trình cấp cứu, các bác sĩ đã ép lồng ngực ông này.

Trong số những nạn nhân chết trong đồn công an từ đầu năm 2014 đến nay, ngoài ông Toàn, có một số người khác cũng được cho là « tự tử », như trường hợp của anh Đỗ Văn Bình tại trụ sở công an huyện Hòa Vang, Đà Nẳng vào tháng 4 hay, của cô Bùi Thị Hương ở trụ sở công an ở tỉnh Bình Phước vào tháng 3.

Trong số còn lại có một người « bò » về đến nhà thì chết, đó là ông Huỳnh N. , ở xã Đạo Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Vào tháng 2, ông đã bị bắt về trụ sở công an về hành vi trộm cắp. Theo gia đình, lúc đi thì ông khoẻ, nhưng lúc công an xã cho về nhà để hôm sau lên « làm việc » tiếp với công an, thì trên người ông có hơn 30 vết thương, vết bầm tím và sáng hôm sau, nạn nhân đã tử vong.

Có người thì chết bị cho là do « đột tử » như trường hợp của ông Đỗ Duy Việt, bị mời lên trụ công an huyện Thường Xuân để điều tra về vụ xâm hại tình dục trẻ vị thành viên. Gia đình nghi nạn nhân đã bị công an đánh chết vì sức khoẻ của ông rất tốt, nhưng không thể nào biết được chuyện gì xảy ra sau khi ông bị bắt giữ.

Vấn đề là ở chỗ đó. Những người bị bắt lên đồn công an chỉ có một mình đối đầu với những đại diện cơ quan công quyền, thường là cấp xã, huyện. Những gì xảy ra ở đó rốt cuộc chỉ do các công an tham gia thẩm vấn, hỏi cung khai báo, chứ không có lời chứng của một bên thứ ba như gia đình, bạn bè, luật sư.

Cách đây vài ngày, bộ Công an Việt Nam vừa ban hành một thông tư “về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân”. Thông tư này, sẽ có hiệu lực kể từ ngày 25/08/2014, “nghiêm cấm bức cung, mớm cung hoặc dùng nhục hình dưới bất kỳ hình thức nào.”

Thông tin này đã mặc nhiên thừa nhận là tệ nạn này vẫn diễn ra phổ biến mà gần như không có công an nào bị trừng trị đích đáng, mặc dù Hiến pháp cũng như Luật hình sự nghiêm cấm bức cung, nhục hình, cũng như quy định những hình phạt rất rõ ràng đối với người vi phạm.

Mặt khác, như đã nói ở trên, một số vụ người chết là xảy ra ở trụ sở công an xã do bị công an xã hỏi cung « quá trớn », trong khi theo pháp lệnh công an xã (do Chủ tịch nước ban hành ngày 02/12/2008), công an ở cấp này chỉ có quyền « lấy lời khai ban đầu các vụ việc, nhưng không được tạm giữ hình sự, hỏi cung các nghi can, nghi phạm ». Nếu vụ việc có dấu hiệu tội phạm phải chuyển nghi can lên cơ quan công an cấp trên…

Thế nhưng, Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự – hiện đang được thảo luận – lại dự trù là công an xã sẽ có quyền « tiến hành kiểm tra, xác minh ban đầu », tức là có thể tiến trành một số hoạt động điều tra ban đầu. Việc « tản quyền » cho công an cấp cơ sở khiến nhiều người sợ rằng nạn bức cung, nhục hình gây chết người ở trụ sở công an xã sẽ xảy ra nhiều hơn nữa, nhất là tại nhiều xã, công an gần như nắm quyền sinh sát trong tay đối với người dân. Như thế chẳng khác gì tăng thêm « quyền nhục hình » cho công an xã.

Theo tờ Người Lao Động ngày 13/07 vừa qua, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Đình Quyền, cho biết lả trong tháng 8, cơ quan này sẽ tổ chức điều trần về trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến việc truy bức, nhục hình trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong thời gian qua.

Nhưng theo ý kiến của luật sư Hà Huy Sơn ở Hà Nội, trả lời phỏng vấn RFI ngày 28/07 vừa qua, một trong những giải pháp đầu tiên để ngăn chận nạn nhục hình, đó là phải tôn trọng quyền của người bị bắt được mời luật sư đến chứng kiến việc thẩm vấn tại trụ sở công an. Nhìn xa hơn, theo luật sư Hà Huy Sơn, chỉ có một Nhà nước pháp trị thật sự mới có thể ngăn chận nạn nhục hình tại trụ sở công an. Sau đây mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với luật sư Hà Huy Sơn.

LS Hà Huy Sơn, Hà Nội

 

31/07/2014

 

Nghe (07:03)

 

 

 

Những phận đời ly hương mưu sinh giữa Sài Gòn

Những phận đời ly hương mưu sinh giữa Sài Gòn

image

Không nơi nào lực lượng hàng rong đông như ở Sài Gòn. Hàng rong từ chỗ mưu sinh nay đã thành một nghề nghiêm túc của nhiều người. Từ những vùng quê nghèo khó, nhất là miền Trung “cát trắng gió Lào”, người bán hàng rong đổ về thành phố với bao nỗi lo toan, từ cơm áo nợ nần đến chữ nghĩa cho con cái đều trông chờ vào việc góp nhặt những đồng tiền lẻ ở vỉa hè, quán nhậu.

Một ngày tháng 8 Sài Gòn mưa sụt sùi, theo chân những người bà, người chú, người chị bán hàng rong dọc ngang phố xá tôi mới thấm thía nỗi vất vả nhọc nhằn, cả những hiểm nguy của họ trong cuộc mưu sinh.

image

Hàng rong Sài Gòn

Theo chân người bán rong

Hình ảnh đôi gánh hàng rong, những chiếc xe đạp với lỉnh kỉnh bánh kẹo, cá viên chiên đã không còn quá xa lạ với người Sài Gòn. Bất kể nắng hay mưa, từ hẻm sâu đến đường lớn, những bước chân phụ nữ, đàn ông đầy lam lũ vẫn lặng lẽ quẩy đôi quang gánh kĩu kịt trên vai, lội bộ cùng đôi dép mòn vẹt gót giữa dòng xe cộ tấp nập.

Sống ở Sài Gòn gần chục năm, tôi đã gặp không biết bao nhiêu đôi quang gánh, đã nghe kể những câu chuyện đời, chuyện người sau mớ cóc, ổi, xoài… buồn, vui lẫn lộn nhưng đều có điểm chung là thấm đẫm mồ hôi, nước mắt dọc dài năm tháng đời bán rong.

image

Còn nhớ, ngày 17.7.2008, UBND TP.HCM ra quyết định cấm bán hàng rong trên 15 tuyến đường trọng điểm tại Q.1 (về sau nâng lên thành 53 tuyến đường trên toàn thành phố). Từ đó, bán hàng rong trở thành hành vi phạm pháp. Thấp thỏm, lén lút và âu lo là tâm trạng thường trực của những kiếp nghèo tha phương.

Nhiều người trong số họ còn chọn buôn thúng bán bưng ngay cả vào thời điểm nửa đêm về sáng dù biết nguy hiểm luôn chực chờ mình. Bị cấm, nơm nớp lo chạy đội trật tự, nhưng lời rao da diết đến não lòng từ những gánh hàng rong vẫn khiến không ít người xúc động. Để hiểu hơn về cuộc sống của những phận đời ấy, tôi đã theo chân họ nhiều ngày, rảo qua không biết bao nhiêu con đường Sài Gòn mùa mưa.

image

Dù trời mưa tầm tã nhưng các chị vẫn lặn lội đi bán hàng rong

Sáng nào cũng vậy, mặt trời chưa ló dạng, khu vực Nhà điều hành xe buýt Bến Thành (Q.1) đã đông nghẹt người. Hành khách già, trẻ, nam, nữ vội vã chen chân lên tuyến xe sớm nhất. Người đi làm, đi học, người tung tăng đi chơi. Không ai còn thời gian để tâm đến cái dáng lầm lũi, bơ phờ của các bà, các chị đang quẩy gánh hàng rong đi qua phía đối diện, trên đường Phạm Ngũ Lão (Q.1). Đằng sau gánh hàng với không quá 400.000 – 500.000 đồng tiền vốn là bao phận đời éo le, cơ cực.

Tôi biết chị Trần Thị Trang cách đây bốn năm. Hồi đó, chị quẩy gánh hàng rong với lỉnh kỉnh cóc, ổi, xoài, bánh tráng trộn… đi bán ở công viên 23.9 (Q.1). Chị người Bình Định, mới 47 tuổi mà tóc đã bạc nhiều, gương mặt đen sạm và hai mắt lúc nào cũng thâm quầng vì mất ngủ.

Chị thuê trọ, mà nói thuê trọ cũng chưa đúng, chẳng qua chỉ là “mua” chỗ ngủ đêm giá 8.000 đồng/đêm. 3 giờ sáng, chị tất tả ra chợ mua bánh, trái rồi gánh bán đến tận 1 giờ sáng hôm sau mới về. Ăn vội phần cơm nguội, tắm, giặt, chưa kịp ngả lưng đã lại quầy quả đi. Thành ra, trông chị lúc nào cũng như kiệt sức tới nơi. Dạo đó, tôi hay ghé công viên chơi, thăm chị. Hai chị em ngồi nói đủ thứ chuyện. Chị khoe 2 đứa con ở nhà học giỏi, ngoan ngoãn, khoe tháng vừa rồi chị bán được, chắt chiu gửi về nhà cho chồng, con cả triệu.

image

Thi thoảng, ngớt khách, chị ngồi bó gối, trầm ngâm, vừa nhìn xe cộ vừa thủ thỉ: “Chị ước hai đứa nhỏ nhà chị có cơ hội biết giảng đường đại học, biết Sài Gòn đặng tương lai bớt khổ”. Mỗi lần nhắc đến con, trong mắt chị ánh lên nhiều niềm vui. Chị bảo, lăn lộn kiếm từng đồng bạc lẻ như thế này không khiến chị khổ tâm bằng việc phải cho con thôi học. Bởi vậy, cực mấy chị cũng ráng chịu, chỉ cần các con chăm ngoan, học giỏi. Quen lâu, tôi chưa nghe chị than vãn hay mơ ước điều gì cho riêng mình. Tất cả đều vì con.

Hôm rồi gặp lại, chị cười hiền, khoe: “Hai đứa nhỏ nhà chị vô đại học hết rồi đó em”. Tôi mừng cho chị. Mừng những nhọc nhằn của chị đã được đền bù xứng đáng. Nhưng, hình như con càng học lên cao, chị càng cực. Bằng chứng là bữa cơm trắng quẹt với muối ới, mấy năm rồi vẫn vậy, không có gì khá hơn. Đôi dép lào mòn vẹt, cái nón lá rách bươm ngày xưa thấy chị ghi số điện thoại của con lên đó giờ chị còn đội trên đầu.

Tôi ngỏ ý xin theo chị bán hàng rong vài buổi. Chị lắc đầu nguây nguẩy, nói: “Thôi, thôi, sức đâu mà bán hả em. Sài Gòn đang mùa mưa, đường sá ngập nước tùm lum hết à, cái gánh này dòm vậy chớ nặng lắm, em kham không nổi đâu”. Tôi kham không nổi thật. Vừa kề vai vào, chực đứng dậy đã ngã nháo nhào. Mấy chị em cười ứa nước mắt. Chị Trang xuýt xoa: “Khổ chưa. Thôi, nếu muốn biết thì cứ theo chị, khỏi gánh gồng gì hết”. Đi cả buổi chiều, mưa không ngớt. Khách vắng, lạnh và đói meo.

image

Những người bán hàng rong trong đêm Sài Gòn

Chúng tôi ngang qua đường Nguyễn Thông (Q.3), trời bỗng đổ mưa ào ào. Trong mái hiên nhỏ, người đàn ông tóc bạc ngồi bó gối, không biết vì mệt hay vì lạnh. Tôi lân la hỏi chuyện, ông Huỳnh Văn Khương (61 tuổi, người Phú Yên) trải lòng: “Tôi vô Sài Gòn bán đậu phộng luộc 5 năm nay. Nhà có 4 đứa con, mần ruộng không đủ ăn nên phải đi thôi. Tôi thuê trọ dưới quận Bình Thạnh, chừng 4 giờ sáng là dậy nhận đậu đi bán đến 9-10 giờ đêm. Ngày nào cũng như ngày nào, lội bộ riết nên hai bàn chân từ chỗ sưng, đau thành ra chai luôn rồi”.

Ngoài thúng đậu phộng, bọc ni-lông, trong túi ông Khương còn có mớ thuốc Tây. Thấy lạ, hỏi mang theo thuốc chi vậy? Ông Khương bộc bạch: “Bệnh nhiều lắm cô à. Tôi bị tăng-xông, mệt trong người, phải mang theo thuốc đề phòng lỡ lên cơn đau đột ngột giữa đường thì còn biết xử trí”.

image

Mưa càng lúc càng nặng hạt. Ngoài đường, vài chị trùm áo mưa mỏng dính, tiếp tục quày quả đi. Cũng có người chở hàng bằng xe đạp, nhưng chủ yếu dắt bộ chứ chẳng ai dám ngồi lên xe chạy. Chị Trang nói vui: “Dắt bộ đặng mời khách chứ chạy ào ào thì bán cho ai. Những đêm ế khách, bọn chị hay ngồi chuyện trò rôm rả và so sánh coi chân ai chai hơn, “lì đòn” với mưa, nắng và sỏi đá hơn. Giả sử có cái giải thi gánh mướn, lội bộ đường dài chắc tụi chị trúng giải lớn quá”. Chị đùa mà tự dưng thấy nước mắt chảy.

Chập chờn giấc ngủ đêm

image

Lang bạt giữa Sài Gòn, không nhà, không người thân, tất nhiên phải ở trọ. Nhưng thực tế cho thấy, rất ít người bán hàng rong có đủ khả năng thuê một căn phòng tươm tất, sạch sẽ để ngả lưng sau ngày làm việc vất vả. Bởi vậy, ăn uống kham khổ, đến ngủ cũng kham khổ là tình cảnh chung của những người bán hàng rong.

Dì Tám (bán hàng rong tại công viên 23.9) tình thiệt: “Ôi, ăn còn không dám nói chi thuê phòng hả cô! Tụi tui chỉ mướn một chỗ ngủ vài ba giờ đồng hồ thôi. Hồi xưa giá có 6.000- 8.000 đồng/đêm, giờ thì 10.000- 15.000 đồng/đêm rồi. Nếu muốn sạc pin điện thoại thì phải trả thêm tiền. Nói chung, hở ra là tiền nên tiết kiệm được khoản nào hay khoản đó”.

Theo dì Tám, mấy xóm trọ trên đường Rạch Bùng Binh (Q.3), Cầu Ông Lãnh (Q.1) và cả dưới quận Bình Thạnh, Thủ Đức đều có những ngôi nhà cho người bán rong “mua ngủ” qua đêm. Bất kể già, trẻ, nam, nữ gì cũng có thể đi mua ngủ bởi giá thuê phòng trọ ở những quận này rất mắc. Hơn nữa, tâm lý chung của người bán hàng rong là “mỗi ngày ngủ chừng 2, 3 tiếng đồng hồ là nhiều, thuê phòng chi cho tốn kém”.

Phải năn nỉ mãi, chị Trang mới chịu đưa tôi về chỗ trọ mà chị đã tá túc mấy năm qua. Cái lý của chị nghe thương lắm: “Em là con gái, chỗ đó chẳng thích hợp cho em đâu. Đàn ông, phụ nữ, già, trẻ gì cũng chen vô ngủ, không có khoảng cách, không chăn, màn chi cả, đến cựa mình cũng khó khăn. Sợ vừa thấy cảnh đó, em lại nằng nặc đòi ra thì khổ. Đi bán như chị, miễn có được chỗ nằm nghỉ tí là mừng rồi, không dám đòi hỏi gì thêm”. Tôi quả quyết, dù thế nào cũng sẽ ngủ với chị một đêm.

Vậy là lại lẽo đẽo theo chị về khu vực Cầu Ông Lãnh. Chúng tôi dừng chân trong một căn nhà tối bưng, ẩm thấp và nồng nặc những mùi gián, chuột, thuốc lá. Nhà vệ sinh, nhà tắm dùng chung. 1 giờ sáng mà có cả chục người đứng, ngồi chờ đến lượt “giải quyết nhu cầu”. Chị Trang phân bua: “Đi bán cũng gặp nhà vệ sinh công cộng nhưng mình vô là mất 2.000 đồng/lượt chứ ít gì. Bởi vậy, ai cũng ráng nhịn em à, chừng nào chịu không thấu mới bấm bụng bỏ ra 2.000 đồng thôi. Riêng tắm, giặt thì chờ về đây, tắm phải dè xẻn từng ca nước.

image

Dù đã khuya nhưng những người phụ nữ bán hàng rong vẫn miệt mài với công việc của mình

Dạo này mưa, đi lang thang ngoài đường, người hết ướt rồi lại khô. Ngày mấy bận như vậy rất dễ bị cảm lạnh. Mà cảm thì cảm, hôm sau vẫn gắng dậy đi bán chứ không dám nghỉ”. Đứng cạnh chúng tôi, chị Phạm Thị Tâm (người Quảng Ngãi) xắn quần ống thấp, ống cao, mặt mũi bơ phờ. Chị thủ thỉ: “Nhiều khi, 2- 3 người phải vô nhà vệ sinh chung một lượt. Biết sao giờ, mình đi mua ngủ mà, có chỗ tắm táp, giặt giũ là may lắm rồi”.

Căn phòng mấy chục mét vuông mà cả trăm người chen chúc. Tiếng thở dài, tiếng ngáy, ho và cả những tiếng rì rầm chẳng rõ nghĩa vọng lại trong đêm. Tôi hỏi, có ngủ được không? Chị Trang cười: “Chập chờn thôi em. Từ ngày vô Sài Gòn đến giờ, chị chưa biết cảm giác ngả lưng xuống giường, chiếu, có gối, có mền nó thế nào. Thời gian đầu, buồn và tủi thân dữ lắm. Nhiều lúc muốn bỏ hết, về quê với chồng con, nhưng nghĩ đến cảnh ruộng ít, nhà lụp xụp, về thì tiền đâu đóng học phí, mua sách vở cho con, vậy là đành ở lại”.

Trong những ngày theo chân các bà, các chị bán hàng rong, tôi ngỡ ngàng nhận ra, đối với họ, mua chỗ ngủ qua đêm xem như vẫn còn may. Nhiều người vì không “xí” được một khoảng nền bé tẹo trong các nhà trọ đành ra quán cóc vỉa hè thuê võng, ghế ngủ ngồi. Có dịp ghé chợ đầu mối Bình Điền, Thủ Đức hay chợ Bình Tây lúc nửa đêm về sáng, sẽ không khó bắt gặp những phận đời ngủ ngồi giữa tiếng xe cộ ồn ào, khói thuốc lá nặng mùi và tiếng ngáy o o của cánh đàn ông.

image

Ông Khương cho biết: “Tôi thuê chỗ ngủ dưới Bình Thạnh, mấy trăm nghìn một tháng. Anh, em nằm, ngồi la liệt. Nhưng như vậy là mừng lắm rồi. Tôi đi bán mấy năm, gặp nhiều anh em khổ hơn nhiều. Họ ngủ ngoài đường, trong nhà chờ xe buýt hoặc mấy quán cà phê, người ta tính giá ghế, theo loại nước mình gọi, võng thì mắc hơn, chừng 10 ngàn/chiếc”.

Người xa quê, chọn nghề buôn thúng bán bưng giữa Sài Gòn là vậy. Họ luôn cố gắng tiết kiệm đến hết mức có thể. Ví như chị Trang, chị Tâm mỗi ngày chỉ ăn đúng một bữa. Thức ăn thường trực của họ là muối ớt, năm khi mười họa mới dám mua hộp cơm có thịt, cá. Không thuê phòng trọ, giấc ngủ luôn trong cảnh “thiếu trước hụt sau”.

Những ngày dọc ngang qua mấy công viên, thỉnh thoảng tôi lại gặp một bà, chị ngồi ngủ gật ngay bên gánh hàng của mình. Đến chừng giật mình dậy, gương mặt của họ hãy còn phảng phất cái sự “thèm ngủ”. Vậy mà, chẳng thấy ai than vãn điều gì. Họ cứ lặng lẽ đi, về như con ong chăm chỉ. Chị Trang bảo người bán rong dù là nam hay nữ gì cũng vậy, giấc ngủ luôn luôn thiếu.

Và những hiểm nguy

“Đã nghèo còn gặp eo” là câu nói tôi hay nghe các bà, các chị rỉ tai trong những ngày theo chân họ. Nào bị cụt vốn vì khách ăn quỵt, xin đểu, nào cướp giật, móc túi, đủ cả những điều bất an. Thế nhưng, lỡ có gặp nạn cũng cắn răng chịu chứ không biết cầu cứu ai. “Đã chọn nghề này thì phải chấp nhận rủi ro”- chị Trang kết luận.

image

Ghé Hồ Con Rùa vào đêm mưa, tôi chạnh lòng bắt gặp hình ảnh một người phụ nữ nằm co ro ngủ bên gánh hàng ế ẩm. Gọi mãi chị mới giật mình ngồi dậy. Rồi như nhớ ra điều gì khẩn cấp lắm, chị dụi mắt, hì hục lục lọi trong mấy lớp áo cũ tìm vật gì đó. Đến khi lôi ra được cái túi vải xỉn màu, chị mới thở phào: “Lội bộ từ quận Bình Thạnh lên tới công viên Lê Thị Riêng rồi qua đây, tôi kiệt sức, ngủ lúc nào không hay.

Mấy bận trước cũng thế này, tỉnh dậy thì không chỉ bánh, trái mất mà ngay cả tiền bọc trong túi cũng mất sạch”. Nói rồi, chị lại khẽ thờ dài. Chị tên Dinh, người Quảng Ngãi, 45 tuổi, tóc đã bạc và đôi mắt rất buồn. Chị bảo, hành trình buôn thúng bán bưng của mình mới đó mà đã ngót chục năm. Chị Dinh cho biết: “Mình phụ nữ chân yếu tay mềm, đi bán ban đêm nguy hiểm lắm. Có lần, một nhóm 5, 6 thanh niên tóc đỏ, tóc vàng ghé lại kêu tôi làm bánh tráng trộn. Tôi mừng quá chừng vì nghĩ mình gặp mánh, bán được nhiều. Ai dè, đang lúi húi thì một cậu đâu 20, 21 tuổi gì đó, kề dao sát cổ tôi, kêu có nhiêu tiền đưa ra, im thì sống. Vậy là, tôi có dám ú ớ câu nào đâu. Bao nhiêu vốn liếng bay hết chỉ trong vòng một phút.

Đau lắm! Tụi nhỏ bỏ đi, tôi ngồi khóc như mưa. Thấy thương mình quá!”. Ngồi gần chị Dinh, chị Nguyễn Thị Gái (người Bình Định) góp chuyện: “Làm nghề này, ngoài vất vả ra, rủi ro cũng rất nhiều. Hôm rồi, tôi ngồi bán bên công viên 23/9, có hai thanh niên tới mua cóc, xoài và bánh tráng trộn. Vừa làm xong, chưa kịp nói gì thì cả hai hè nhau giật phăng mấy gói bánh bỏ chạy. Vậy là mất tiền. Tôi đâu thể chạy theo, phần biết sức mình đuổi không kịp, phần lo, lỡ hớ ra, mấy đứa có đồng bọn đằng sau chạy tới trút luôn cái gánh thì cụt đường buôn bán chứ chẳng chơi”.

image

Bị móc túi, ăn quỵt chưa phải là những mối lo duy nhất của người bán hàng rong. Việc mua chỗ ngủ qua đêm cũng thường trực bất an cho họ. Tôi chưa kịp ngả lưng xuống nền, chị Tâm đã dặn dò: “Em có mang theo tiền bạc hay điện thoại thì nhớ cẩn thận kẻo bị móc mất, sáng dậy không còn gì đâu”. Chị Trang kể: “Người mua chỗ ngủ đủ mọi thành phần, biết ai mà lần. Chuyện kẻ xấu trà trộn vô ngủ để móc túi xảy ra thường xuyên. Chị bị mất một lần rồi. Về sau, kinh nghiệm là mình phải chia tiền ra, bỏ trong nhiều túi, chẳng may mất cái này thì còn cái khác”.

Bán hàng rong ban đêm, giá có nhỉnh hơn ban ngày 1.000- 2.000 đồng/loại hàng. Không chỉ vậy, ban đêm, khách ghé công viên chơi, ra bờ kè nhậu nhẹt nên các loại trái cây, đậu phộng, trứng cút, trứng gà bán được nhiều. Do dó, người bán hàng rong thường chấp nhận cảnh đi sớm, về khuya những mong có thêm ít tiền lời. Theo tìm hiểu của tôi, không chỉ cánh phụ nữ mà đàn ông cũng gặp phải cảnh xin đểu, trấn lột giữa đêm như thường.

Bán cá viên chiên, trứng cút chiên ngót 8 năm, anh Ngô Văn Thành (30 tuổi) không thể nhớ hết số lần mình bị ăn quỵt, xin đểu. Anh Thành kể: “Nhiều khi do đông khách, mình lơ là nên mấy tên choai choai ghé mua rồi bỏ chạy khi chưa trả tiền, nhưng phần lớn là chúng đi thành nhóm, 3- 4 tên, kề dao, kim tiêm vào cổ mình xin “chút đỉnh”. Những lúc như vậy, rất khó phản ứng kịp”.

image

Kham khổ nhiều, nguy hiểm cũng lắm nhưng khi tôi hỏi tính chừng nào về quê hẳn thì các bà, các chị, cá chú lại lắc đầu: “Chắc còn lâu lắm. Chờ tụi nhỏ học hành thành tài cái đã rồi mới tính. Ai chẳng muốn sum họp bên gia đình, nhưng về quê thì lấy gì sống?”. Câu hỏi nghe nhẹ hều mà chẳng ai trả lời được. Và như thế, họ lại lầm lũi sống những ngày đơn độc, vắt kiệt sức bên những gánh, thúng hàng rong. Với những phận đời ấy, đường về quê xa lắc!

Nhật Nguyệt

Hàng rong Sài Gòn hơn 100 năm trước

image

Gánh phở, xe kem, thùng tào phớ… trên vai, bộ bưu ảnh tái hiện nhiều ký ức thân quen ở Sài Gòn – Chợ Lớn đồng thời cho thấy cảnh sôi động của thành phố ngay từ đầu thế kỷ 20.

Đô thị Sài Gòn- Chợ Lớn, một trong hai thành phố quan trọng nhất Việt Nam sau khi Pháp chiếm Đông Dương vào cuối thế kỷ 19. Các nhà nhiếp ảnh người Pháp nhanh chóng phát hiện ra hoạt động buôn bán kiểu di động- hàng hoá, thức ăn được lưu thông dựa vào sự dẻo dai của đôi chân người bán hàng, có mặt ở khắp các ngóc ngách của thành phố. Bộ bưu ảnh hàng rong ở Sài Gòn- Chợ Lớn tái hiện một phần đời sống kinh tế- xã hội cũng như văn hoá của người Việt hồi đầu thế kỷ 20.

image

Phở là món ăn truyền thống của người Việt xuất hiện đầu tiên trên các gánh hàng rong. Thành phần đơn giản, chỉ gồm nước lèo, bánh phở, một vài miếng thịt và các lọ gia vị. Đây là một gánh phở dạo khác của người Sài Gòn xưa, người bán hàng gánh cả bếp lò, nồi nước sôi đi khắp nơi phục vụ.

image

Bánh gạo, một loại bánh phổ biến ũng được bán rong trên các khu phố. Bánh được làm từ gạo trộn cùng một số loại ngũ cốc khác cho có mùi vị, cho thêm bột kết dính rồi ép dẹp, sau đó hấp chín.

image

Cháo, mì hay hủ tiếu được người Pháp gọi chung là súp. Các gánh hàng loại này khá cồng kềnh, nặng nề nên chủ gánh thường chọn một góc phố đông người, ngã tư để tiện buôn bán.

image

Hình ảnh khá thú vị về một xe bán kem của người Hoa Sài Gòn những năm đầu thế kỷ 20. Kem được làm mát bằng đá lạnh xếp xung quanh, sát thùng là một lớp xốp mỏng để giữ đá lâu tan. Người bán sẽ “thu hút” khách bằng một cái chuông nhỏ gắn sát tay lái bên phải.

image

Khu vực Chợ Lớn tập trung đông đúc người Tàu theo đường biển vào lập nghiệp ở Việt Nam từ thời các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi. Người Hoa là những người giỏi buôn bán, chịu khó nên các gánh hàng của họ thường đông khách. Hình ảnh chú “Khách”- một cách gọi người Hoa của người Việt bán với đôi quang gánh bán dạo các món ăn như mì, cháo, tào phớ… rất quen thuộc và tồn tại cho đến những năm 70 của thế kỷ 20.

image

Hình ảnh điển hình của gánh tào phớ xưa. Người bán thường gánh một thùng gỗ đựng tào phớ, một chạn gỗ đựng chén bát, muỗng, và những vật dụng khác. Người bán tào phớ có tiếng rao rất đặc biệt, chỉ có một chữ ” phớ…” kéo dài.

image

Quán bán nước giải khát trên vỉa hè. Người bán hàng ngồi trên ghế cho thấy quán hàng kiểu này là cố đinh, khách hàng là khách qua đường, các bác phu xe kéo nghỉ chân uống chén trà xanh hay một loại nước trái cây nào đó như dừa, được trồng nhiều ở ngay tại vùng Sài Gòn- Chợ Lớn.

image

Những thực khách ngồi xổm thưởng thức món mỳ của một người bán hàng rong người Hoa ngay trên đường. Các gánh hàng kiểu này vẫn duy trì nhiều ở Sài Gòn cho đến tận những năm 1970.

image

Nón lá, hình ảnh đặc trưng của người Việt, được làm từ lá cọ lợp trên nên khung tre nhỏ hình chóp nhọn dưới có quai đeo, nón rộng vành nên che kín mặt và rất mát. Nón của người Việt khác với nón người Trung Quốc hay đội với cái chóp nhọn đặc trưng.

image

Sài Gòn xưa cũng có những khu phố tập hợp các loại gánh hàng rong để người dân và khách thuận tiện ăn uống. Vào buổi sáng khu phố rất náo nhiệt thu hút cả người Tây sống ở thuộc địa.

image

Họp chợ trên đường phố là một thói quen cố hữu của người Việt. Buôn bán nhỏ, mang bán từng mớ rau, con cá nuôi được nên người Việt tiện đâu bán đấy. Những hình ảnh này cho thấy các bà các chị đang mua bán nông sản, thực phẩm rất sôi động trên phố phường Sài Gòn xưa.

image

Một người Việt với chiếc nón lá đặc trưng quẩy đôi quang gánh trên đường phố Sài Gòn. Trong đôi sọt đan bằng lá của người đàn ông này thường có nhiều loại nông sản do chính gia đình trồng được để mang đi bán.

Bác sỹ người Mỹ nhiễm virus Ebola về nước

Bác sỹ người Mỹ nhiễm virus Ebola về nước

Bác sỹ Kent Brantly (trái) chữa trị cho một bệnh nhân nhiễm virus Ebola ở Liberia.

Bác sỹ Kent Brantly (trái) chữa trị cho một bệnh nhân nhiễm virus Ebola ở Liberia.

02.08.2014

Một bác sĩ nhiễm virus Ebola khi giúp những nạn nhân tại Liberia đã trở về Mỹ, trở thành bệnh nhân Ebola đầu tiên trên đất Mỹ.

Bác sĩ Kent Brantly được chở từ Liberia đến tiểu bang Georgia ở miền nam hôm nay, trên một chiếc máy bay thuê bao được trang bị các dụng cụ y tế đặc biệt.

Sau khi đến một căn cứ quân sự ở Georgia, ông được chuyển sang một xe cứu thương trong một đoàn xe đến Bệnh viện của trường đại học Emory, một cơ sở y tế tại thành phố Atlanta.

Video truyền hình từ bệnh viện cho thấy hai người ra khỏi xe cứu thương mặc bộ đồ bảo hộ màu trắng phủ toàn thân và vào bệnh viện.

Bệnh viện này là một trong 4 bệnh viện duy nhất tại Mỹ được trang bị để chữa trị những trường hợp này.

Bác sĩ Brantly sẽ được chữa trị trong một phòng cách ly hoàn toàn khỏi những khu vực bệnh nhân khác.

Bác sĩ Brantly và một người Mỹ khác là bà Nancy Writebol, là những nhân viên cứu trợ tại Liberia khi bị nhiễm virus Ebola. Virus này đã làm hơn 700 người thiệt mạng tại Tây Phi kể từ tháng Ba năm nay.

Bà Writebol sẽ đến Mỹ trong vòng vài ngày nữa và sẽ được chữa trị tại cùng một bệnh viện ở Atlanta.

Các giới chức y tế sẽ sử dụng cùng chiếc máy bay phản lực để chở bà Writebol. Chiếc máy bay nhỏ này chỉ có thể chở mỗi lần một người bị cách ly mà thôi.

Một bác sĩ Atlanta thuộc toán chữa trị cho bác sĩ Brantly cho biết ông không đồng ý về ý tưởng cho rằng virút Ebola được mang vào Mỹ.

Bác sĩ Jay Varkey nói ông xem bác sĩ Brantly như là một bệnh nhân cần được sự giúp đỡ của toán bác sĩ chữa trị.

 

Chính quyền Việt Nam mắc nợ ‘khủng khiếp’

Chính quyền Việt Nam mắc nợ ‘khủng khiếp’

August 03, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Ông Trịnh Tiến Dũng, một chuyên gia kinh tế khẳng định, các doanh nghiệp nhà nước nợ “khủng khiếp” và chính quyền Việt Nam không thể phủ nhận đây là nợ của mình.

Tuy phủ nhận trách nhiệm đối với chuyện nợ nần của các doanh nghiệp nhà nước nhưng những khoản nợ này vẫn tồn tại như các trái bom có thể nổ bất kỳ lúc nào. (Hình minh họa: Báo Dân Trí)

Ông Dũng là cựu trợ lý của trưởng ban cải cách khu vực công của Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại Việt Nam.

Hồi Tháng Sáu vừa qua, Bộ Tài Chính Việt Nam công bố báo cáo về sử dụng vốn vay, quản lý nợ công của chính quyền Việt Nam.

Theo báo cáo vừa kể, tính đến hết năm ngoái, Việt Nam nợ 1,913,000 tỷ đồng, tương đương 53.4% GDP, trong đó nợ của chính phủ Việt Nam là 1,488,000 tỷ đồng, tương đương 41.5% GDP.

Tính đến hết năm 2013, tổng số dự án được chính phủ Việt Nam bảo lãnh để vay là 104 dự án, trong đó có 23 dự án đã trả xong nợ.

Riêng năm ngoái, chính phủ Việt Nam bảo lãnh cho tám dự án vay $3.161 tỷ từ các tổ chức tín dụng ngoại quốc hoặc phát hành trái phiếu quốc tế.

Cả Bộ Tài Chính lẫn chính quyền Việt Nam liên tục khẳng định, những khoản nợ khác của các doanh nghiệp nhà nước không thể xem là nợ của chính quyền. Các doanh nghiệp nhà nước tự vay và tự trả.

Nhiều chuyên gia kinh tế khẳng định đó là một kiểu ngụy biện. Chính quyền Việt Nam ngụy biện như thế để trấn an mọi người rằng, nợ nần của chính quyền Việt Nam chưa vượt quá mức 65% GDP.

Theo khuyến cáo của nhiều tổ chức quốc tế, nếu nợ nần vượt quá mức 65% GDP thì an ninh tài chính quốc gia không còn an toàn.

Theo ông Dũng, dù những khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước được chính quyền Việt Nam bảo lãnh rồi được gộp vào khối nợ chung của chính quyển, chỉ chừng 4.2% đến 6.9% tổng nợ quốc gia nhưng tỷ lệ đó không phản ánh đúng thực chất nợ nần và thực tế vay trả.

Tại một cuộc hội thảo về nợ công, diễn ra hồi trung tuần tháng trước, ông Dũng đưa ra nhiều dẫn chứng để bác bỏ lập luận, các doanh nghiệp nhà nước tự vay và tự trả nợ. Nợ của các doanh nghiệp nhà nước không liên quan đến nợ nần của chình quyền.

Ví dụ rõ ràng nhất là trường hợp Vinashin. Năm 2009, tập đoàn nhà nước này phá sản và để lại khoản nợ 89,000 tỉ đồng, tương đương 52% GDP của năm 2009. Sau đó, chính quyền Việt Nam đã tổ chức chuyển nợ của Vinashin cho Vinalines và Petro Vietnam, bổ sung vốn, khoanh nợ. Tuy Vinashin “tự vay” nhưng rõ ràng trả là do chính quyền Việt Nam, kể cả phát hành trái phiếu để bù đắp và vì thế khiến ngân sách thâm thủng.

Không riêng ông Dũng, hai ông Phạm Thế Anh và Ðinh Tuấn Minh cũng đã sử dụng nhiều số liệu để chứng minh rằng, tổng các khoản nợ của hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã vay mà không được chính quyền Việt Nam bảo lãnh, nên không được kể là nợ công, tương đương 40.9% GDP.

Nếu tính đúng, tính đủ, cộng cả nợ nần chính thức lẫn nợ nần của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, những khoản chưa thanh toán khi thực hiện các công trình hạ tầng, nợ nần của chính quyền Việt Nam hiện nay xấp xỉ 98.2% GDP.

Hai ông Phạm Thế Anh và Ðinh Tuấn Minh khẳng định, các khoản vay ngoại quốc, vay các nhân hàng trong nước, vay lẫn nhau của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, dù không được chính quyền Việt Nam bảo lãnh vẫn đe dọa an ninh tài chính quốc gia.

Nếu không muốn những quả bom này phát nổ, việc cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa những doanh nghiệp này phải “triệt để,” không thể “hình thức” nhưng thực tế cho thấy, đến nay, cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa những doanh nghiệp này vẫn như trò đùa. (G.Ð.)