Trên Biển Đời

Trên Biển Đời

Tác giả: Lm Nguyễn Hữu An

Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do thái rời bỏ Ai cập đến Biển Đỏ thì quân Ai cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển.

Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê.

Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).

Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.

Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.

Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền.

Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an : “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống nên kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ : “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi ?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng : “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”.

Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.

Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên.

Trên biển đời, có biết bao bão tố phong ba bủa vây, tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài, chúng ta sẽ sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời. Hãy vững tin và tín thác nơi Chúa Giêsu.

1- Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an

Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ.

Nhiều người Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần ma quỷ, nhiều khi còn mê tín dị đoan nữa. Hãy tin tưởng rằng: quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta. Nếu biết lắng nghe, trong giông bão cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra tiếng Chúa “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Chúa hứa thì sự hiện diện của Chúa sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết (Pl 4,13).

Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bão của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách.

Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.

2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu

Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải : sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người.  Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng ; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người : Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy. Một tỉ lệ thuận ngàn năm bất biến: tín thác vào Chúa, bình an tâm hồn.

Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, luôn có được bình an nội tâm. Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin

giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng

về Chúa. Amen (Mana).

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời

“Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời,”

Sàigòn ơi, thôi đã hết thời-gian tuyệt vời.

Giờ còn đây, những kỷ-niệm sống trong tôi,

Những nụ cười nát trên môi, những giọt lệ ôi sầu vắng.”

(Nam Lộc – Sàigòn ơi vĩnh biệt)

(Mt 10: 34-35)

Tác giả: Trần Ngọc Mười Hai

Nói lời vĩnh-biệt, mà sao anh lại cứ hát: “Sàigòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về!”. Hát thế rồi, anh còn cam kết: “Người tình ơi! Anh xin giữ trọn mãi lời thề…” Những lời như thế, đã được ca-sĩ Khánh-Ly hát thay cho tác-giả Nam Lộc khi cả hai vị đều có mặt vào buổi diễn ở hội-trường sân-khấu có tên gọi rất “Belle Vue” ở Bankstown, Sydney hôm 21/6/2014 vừa qua. Nhạc sĩ Nam-Lộc điều-khiển chương-trình nhạc-hội tối hôm đó, đã tuyên-bố: anh viết bài này, cho riêng anh và gia-đình, mà thôi.

Viết cho ai thì viết, chỉ cần biết là: anh đã hứa và đã xin “giữ trọn lời thề”, rất như thế. Riêng bần-đạo bầy tôi đây, trước đó chừng tuần lễ, cũng được đấng bậc vị-vọng là đương-kim Giám mục phó quản-cai giáo phận Vinh có ngỏ ý mời về thăm quê-hương cũ để chứng-kiến xứ sở mình, nay đâu còn những “giọt lệ ôi sầu vắng”, lại vẫn là “thời-gian tuyệt vời” trên cả mức tuyệt-diệu từ xưa nay.

Được lời như cởi tấm lòng, bần-đạo đây chợt nhớ Sàigòn rất “hoa-lệ” của mình và của người vào những ngày thành-phố này được gọi là “Hòn ngọc Viễn-Đông”, nhưng không phải là “Nước mía Viễn-Đông” bên hông Bộ Công Chánh thuở trước cạnh đại-lộ Lê Lợi, lúc mà quán xá chiều hôm cứ bày bán những là phá-lấu với bò bía, gỏi bò khô… thôi thì đủ mọi món hàng ở gần bên.

Sở dĩ bần-đạo dài giòng nhắc lại địa điểm vẫn gợi nhớ dễ như thế, là vì: bản thân mình cũng đã hai lần “rồi đến rồi đi, tôi vẫn xin tạ ơn đời, tạ ơn người, tạ ơn ai đã cho tôi “một thời để nhung nhớ.

Vâng! Đã hai lần, bần đạo từng đến với Sàigòn-hoa-lệ rất “Hòn Ngọc Viễn-Đông” một thời thuở ấy. Lần đầu, là cùng với thân-phụ ghé bến Sàigòn năm 1949 để cụ làm việc vài năm với Nhà Giây Thép Tân Định, rồi sau đó lại đã ra đi trở về Hànội vào năm 1952 khi cụ thân-sinh qua đời. Lần thứ hai, lại cùng thân-mẫu và gia-đình lại đến với Sàigòn năm 1954, để rồi lại đã rời xa Sàigòn dấu yêu vào năm 1991, thật rất nhớ.

Vâng. “Rồi đến/rồi đi” như thế những 2 lần, nên lần này dù được đấng bậc vị vọng ở xứ “Trời Đất đầy Vinh…Quang Chúa” khẩn-khoản mời da diết như thế, bần-đạo chỉ mỗi cười trừ rồi hát tiếp:

“Dù thời-gian có là một thoáng đam mê,

Phố phường vạn ánh sao đêm,

Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Chính là như thế! Rồi đến rồi đi” tuy rất nhiều lần, nhưng làm sao quên được một “Sàigòn-Hoa-Lệ” rất diễm-lệ nhưng lại không đầy những lệ châu rơi lã chã, bao giờ cả.

Vâng, làm sao có thể hết quên rồi hát lời ca đầy hứa-hẹn, những là: “Sàigòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về”, rồi còn chêm thêm câu tiếp theo, thật ai-oán là câu: “Người tình ơi! Tôi xin giữ trọn mãi lời thề” được, khi mà ngày mai đây, tôi và bạn lại cũng chẳng biết được mình sẽ ra sao? Có còn “những nụ cười nát trên môi”, hoặc “những giọt lệ ôi sầu đắng…” đi chăng nữa.

Vâng. Cũng thật khó nói lắm, giời ạ! Bởi, bần-đạo đây, bây giờ, cũng giòng giống như tác giả bài ca ai oán ở trên, lại vẫn hát câu âu sầu, tiều-tụy rằng:

“Tôi giờ như con thú hoang lạc-đàn,

Từng ngày qua, từng kiếp sống quên thời gian

Kiếp tha hương lắm đau thương, lắm chua cay,

Tôi gọi tên ai mãi thôi…”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Đúng ra, thì cũng y như thế. Nghĩa là: tâm-trạng của bần-đạo không khác là bao cùng một tâm-trạng của tác-giả là nhạc-sĩ Nam Lộc, có viết nhiều nhạc-bản hoặc có làm thật nhiều câu thơ thật hay, cũng chỉ để viết cho riêng mình. Tức: một mình mình hiểu, một mình mình vui, mà thôi. Hoạ hoằn, được ai thân-thương thông-cảm, cũng coi đó như ân-huệ Trời cho rất to đùng, oai hùng như biển Đông, đáng ghi nhớ.

Vâng. Bần-đạo đây vẫn nhớ như in, rằng: hôm ấy chính mình còn chẳng dám hát hoặc nói lời gì để đời như: “Sàigòn ơi! Tôi xin hứa rằng tôi trở về” với đấng bậc vị vọng là Đấng vị vọng rất Giám mục ở trên, mà chỉ dám cười trừ rồi lắc lư cái đầu như thể “lắc lư con tầu đi”, đi mãi không biết có ngày nào đó đến được bến bờ đại dương có “hòn ngọc viễn đông” năm nào, hay không nữa. Có cười trừ hay thêm vào lời hát nhái, hát đại và hát mãi hay không, cũng chẳng nhớ. Chỉ nhớ có mỗi điều như người viết nhạc từng viết những điều khi xưa đầy nhung nhớ, như:

“Sàigòn ơi, nắng có còn vương trên đường?

Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về.

Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống công viên?

Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng?

Hay đã khóc thương cho người yêu?”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Có nói nhiều và hát mãi hát dài dài như thế, bần đạo đây thật chỉ muốn nhắn với bạn và tôi rằng: khó có thể hứa điều gì, trong lúc này, vì nhiều lý-do. Thành thử, cứ thế này đi. Thế này, là: cứ để lòng mình rộng mở để Thánh Thần dẫn đưa con tầu mình về chốn nào tuỳ ý Ngài. Nói thế rồi, nay xin trở về với “chuyện phiếm” về cõi đời của người và mình vẫn còn đó rất nhiều vấn-đề.

Đời mình, thì đã có vấn-đề là như thế. Còn đời người, thì như: còn có những vấn-đề đặt ra rất thời-thượng như sau:

“Cách nay không đầy một năm, tên tuổi của con người nổi tiếng mang tên Nigella Lawson từng tạo ánh nhìn khá quyến rũ với giới thưởng ngoạn chương-trình truyền-hình thuộc hạng sang gửi đến khán-giả thích nấu-nướng hầu tạo cho gia đình cuộc sống hài hoà, êm ả rất đáng sống.

Nay thì vấn-đề tạo nguyên-nhân cho để cô ly-dị người chồng nổi tiếng với kỹ-nghệ quảng-cáo là trùm khuyến-mại có tên là Charles Saatchi được lên ảnh phổ biến khắp thế-giới với hàng chữ dùng làm đề-tựa khiến mọi người sửng sốt đến chết ngạt, như: “Saatchi và đôi tay xiết chặt cổ họng người đẹp Negelia”, đã làm cô chết lặng, chẳng nói được một lời.

Chết lặng hơn cả, là tập phim truyện truyền-hình nói nhiều về các nhóm người vẫn còn đang chiến đấu chống lại cảnh bạo-hành trong gia-đình. Những điều lâu nay còn ẩn- tàng bên dưới lớp sương mù ảnh hình không để lộ cho khán-giả biết nhiều về những điều mà lâu nay thiên hạ cứ cho rằng: bạo-hành trong gia-đình là chuyện của xã-hội trọng nam khinh nữ cứ để đàn ông xài xể phụ nữ hoặc những người thuộc phái yếu…

Vừa qua, một chuyên-gia lão luyện trong địa hạt nghiên-cứu khảo-sát có dấy lên một cao-trào để mọi người ở Úc thấy được rằng vấn-đề bạo-hành trong gia-đình không chỉ là vấn-đề của phụ-nữ hay thành-viên nào đó trong cộng-đoàn nhỏ thôi, nhưng còn là chuyện của hết mọi người, nam cũng như nữ. Và, tác-giả nhấn mạnh rằng: thật ra nạn-nhân lại chính là nam-nhân nhiều hơn nữ-giới…

Tác-giả đưa ra lời xác chứng với nhận-định, rằng: lâu nay các nghiên-cứu khảo-sát đều không ngừng cho thấy đa phần thì phụ-nữ là nạn-nhân của bạo-hành trong một xã-hội gồm các đàn ông chuyên thống-lĩnh. Nói như thế, hẳn người đọc tin cứ đinh-ninh là như vậy rồi vội tin. Nhưng, sự thật không thế. Bạo-hành xảy đến với người phối-ngẫu không chỉ nghiêng về phía phụ-nữ hoặc về một giới tính, mà ngay đến phụ-nữ cũng từng sách-nhiễu nam-giới cũng rất nhiều. Các khảo-sát mới đây ở Úc cho thấy có khoảng một phần ba nạn-nhân của các vụ này là đàn ông, con trai.

Dự án có tên là Nhận-thức Sách-nhiễu Người Phối Ngẫu viết tắt là PASK thực hiện với 1700 người ở Mỹ, do tạp-chí mang tên The US Journal Partner Abuse cho biết trong thời gian từ tháng Tư năm 2012 đến tháng Tư năm 2013, cho thấy hầu hết các vụ sách-nhiễu này là do phụ-nữ là thủ phạm và hầu hết nam giới mới là nạn-nhân. Kết quả được tóm-tắt như sau:

– 24% cá-nhân những người bị người phối-ngẫu bên kia tấn công ít nhất một lần trong đời mình (23% do phụ nữ chủ chốt và 19.3% do nam-giới gây ra).

– 25.3% trong số những người sách-nhiễu người phối-ngẫu của mình, thì tỉ-số phụ nữ vi-phạm nhiều hơn nam-giới.

– 80% những người có kinh-nghiệm bị sách-nhiễu về tình-cảm và chủ-động đáp trả mọi khiêu-khích hoặc có chiến-thuật khống-chế hoặc đe-doạ người phối-ngẫu của mình. Qua nghiên cứ/khảo sát, thì 40% là phụ-nữ (trong sách-nhiễu cảm-xúc) còn phía nam-nhân chỉ đếm được có 32% thôi. Về sách-nhiễu mang tích miễn cưỡng thì 41% thuộc phái nữ và 43% thuộc phái nam.

– Đa số các vụ bạo-hành đều tương-tác cả hai phía. Nếu tính các nước có số dân đông đúc, thì việc bạo-hành giữa vợ-chồng được tường-trình là có đến 57% về cả hai phái nam/nữ. 41% chỉ một phái bị và trong số này thì 13.8% là do nam-giới chủ-động đối với nữ-giới, 28.3% do nữ-giới chủ-động đối với nam-giới.

– Cả hai phái nam lẫn nữ đều là thủ-phạm chủ-động trong các cuộc bạo-hành trong gia-đình là do cùng một động lực như nhau, trước nhất thường là về cảm-xúc do bị căng-thẳng thần-kinh hoặc ghen tương; hoặc do cảm-xúc tức-giận và những lý do nào khác mà tự họ không thể dùng lời nói hoặc cách-thức trao-đổi cùng đối-thoại để kéo sự chú ý của người phối-ngẫu phía bên kia.

Các khám phá từ khảo-sát/nghiên-cứu này đều nói cách chung chung rất rộng nghĩa, nhưng cũng đủ để thách-đố các nhận-định thông-thường cho thấy nam-giới là thủ-phạm trong các baọ-hành ở gia-đình. Thế thì, tại sao không kể về những cái tát tai, đấm vào mặt hoặc bắt nạt về tâm-lý do phụ-nữ đối-xử với phái nam, trong cuộc sống. Lý-do là vì phụ-nữ thường bị thương-tích nhiều hơn nam-giới trong các vụ cãi cọ, ẩu đả xảy ra trong gia-đình, đến độ phải đi nhà thương cấp-cứu. Nói tóm lại, khảo-sát này chú trọng nhiều đến nạn-nhân các vụ bạo hành-trong gia-đình hơn lý-lẽ bênh-vực phái này hoặc phái khác…” (x. Carolyn Monahan, The Fearful Symmetry of Family Violence, (MercatorNet 23/5/2014).

Thật ra thì, ý-kiến trên đây về bạo-hành trong gia-đình, không cần đặt lại xem ai là nạn nhân ai là thủ-phạm, ai chịu nhiều thiệt-thòi, vv. Là của tác-giả bài viết dẫn ở trên, chứ không của bần-đạo, đâu đấy. Bởi lẽ, đặt vấn-đề về bạo-hành trong gia-đình hoặc nội-bộ cộng-đoàn mình chung sống, là bàn về những điều không hay và không phải. Hoặc, như người nghệ-sĩ vẫn cứ gọi đó bằng câu hát: “Tôi đã mất người trong cuộc đời”, hoặc “thôi đã hết thời gian tuyệt vời”, rồi lại hát: “Tôi như con thú hoang lạc đàn…”

Hoặc ít nhất cũng là: “Những kỷ niệm sống trong tôi”, nay không còn “những nụ cười nát trên môi” , hoặc “những giọt lệ ôi sầu đắng.” Sầu và đắng, là bởi những người đang sống trong cảnh bạo hành ở nhà hoặc trong cộng-đoàn, nay cảm thấy “Kiếp tha hương, lắm đau thương, lắm chua cay…” để rồi: “Tôi gọi tên ai mãi thôi…!”

Sầu và đắng, trong cuộc sống ở cộng đoàn nhỏ là gia-đình xào xáo, cãi tranh, tranh giành này nọ đã khiến nguời người lại nhớ lời vành Kinh Sách từng loan báo:

“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất;

Thầy đến không phải để đem bình an,

nhưng để đem gươm giáo.

Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ

giữa con trai với cha,

giữa con gái với mẹ,

giữa con dâu với mẹ chồng.

Kẻ thù của mình chính là người nhà.”

(Mt 10: 34-35)

Lời Chúa báo động thì như thế. Nhưng, vấn-đề đặt ra để bạn và tôi, ta suy-tư vào những ngày trời đẹp hoặc mây mù u ám vây quanh có những câu hỏi được bạn Đạo đưa ra về việc sống thực Lời Chúa, ghi nhận như sau:

“Hỏi: làm sao thày lại đoan quyết rằng: lời thánh-sử viết Tin Mừng không có ý trích-dẫn Lời Chúa nói như sự thật đã hoặc sẽ xảy ra? Vậy thì ý của thánh-sử khi viết thì thế nào?

Đáp: Có lẽ người đọc Tin Mừng các thánh Mát-thêu, Mác-cô, Luca và Gioan viết, hầu hết vẫn nghĩ rằng những gì được viết ra là sự-kiện hoặc câu chuyện hoặc lời nói có thật từ Đức Giêsu theo tính lịch sử. Đọc Tin Mừng, ta cần hiểu rõ, rằng: tín-hữu Đạo Chúa thời tiên-khởi từng trải-nghiệm rằng Đức Giêsu vẫn có mặt ở giữa họ cả sau khi Ngài chết đi. Nói như thế, phải hiểu ý-nghĩa về sự có mặt liên-tục của Chúa đã tạo cho người chuyển-giao truyền-thống Phúc Âm một thứ tự-do rất sáng-tạo. Các tác-giả không viết nhiều về Đức Giêsu từng sống thế nào mà chỉ viết về Đức Giêsu đang sống với ta.

Viết như thế, không để diễn-tả xem Đức Giêsu từng nói và từng làm những gì, mà là Ngài đang nói gì và làm gì cho ta và với ta. Thành thử, các tác-giả Phúc Âm đều thấy lúng-túng khi diễn-tả lời nói và hành-xử của Đức Giêsu theo cách ăn-khớp với nhu-cầu tư-riêng của thời đại và cộng đoàn trong đó các ngài từng sống.

Nói như thế, tôi không có ý chối bỏ giá-trị của Phúc Âm như vẫn có. Điều tôi muốn nói là: các truyện được kể trong Kinh Sách không phải là chuyện lịch-sử, cũng không là tiểu-sử được kể lại, nhưng là lối chú-giải về thời buổi, địa điểm và cộng-đoàn nào đó, cách riêng. Thế nên, muốn biết xem Đức Giêsu lịch-sử, phải xem xét những gì tác-giả Tin Mừng muốn nói đến bên sau các chú-giải ấy, mới hiểu được”. (x. Richard G. Watts & John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press Louisville Kentucky 1996 tr. 6-7)

Xem thế thì, sống Lời Chúa là phải sống như thế nào? Có phảo là: sống như thể giữ cho đúng nghi-thức phụng-vụ các ngày lễ trọng-đại mà quên trở về với cuộc sống bình thường và thông-thường ở đời không? Để trả lời, cũng nên nghe thêm lời diễn-giải của đấng bậc thày dạy trong Đạo, có những lời sẻ-san như sau:

“Sống trong đời dù chỉ gặp những điều tầm-thường về “sự việc” hoặc “sự thể” đơn giản chỉ nói về “nó” hoặc “cái đó” thôi cũng là điều tốt, bởi Thiên-Chúa tạo-dựng theo cách như thể để cho ta và Ngài chúc lành cho tất cả, bằng cả đặc-tính tích-cực của Ngài, nữa. Quả là, Thiên-Chúa vui-thích những thứ “đó” và Ngài muốn ta cũng vui-hưởng mọi điều ở trong “đó”. Theo cách này, ta sẽ cảm-nghiệm rằng: ta đang thực-sự triển-nở và đó chính là ý-định của Thiên-Chúa đối với ta, để ta sống.

Thật ra, thánh Mát-thêu biết rằng: có những điều và nhiều điểm không được tốt cho lắm, nhiều lúc còn tồi tệ nữa là đằng khác. Và, cũng có sự việc thật cũng đáng chán như chiếc máy rửa chén. Mọi người đều biết thế, nên vẫn chấp-nhận sống với “nó”. Thế nhưng, thánh-sử Mát-thêu lại để Đức Giêsu kể huỵch-toẹt cho ta biết rằng: ngay vào lúc và nơi chốn có sự thể đáng chán ngán, lại thấy nảy-sinh những khoảnh-khắc rất đáng yêu. Thành thử, ta cũng nên tìm-hiểu xem để biết “nó” như thế nào, mà cảm-kích và vui-thích rồi cảm-tạ ơn Chúa về những thứ Ngài ban cho ta.

Đọc Tin Mừng các thánh, nhất là do thánh Mát-thêu viết, đôi lúc ta vẫn thấy ra như tác-giả cũng rất thích âm-nhạc. Thánh-nhân từng viết về thứ âm-nhạc rền-vang lời vãn-than, trổi lên cùng lúc với nhạc nền của cuộc đời ta đang sống. Và, thánh-nhân lại nhấn mạnh rằng, cùng với Đức Giêsu, vẫn xảy đến các khoảnh-khắc đích-thực có loại nhạc rất trữ-tình. Đó là lúc ta nghiệm ra thế nào là đến với người khác, hăng say/tử-tế, chữa lành nhiều việc. Và Thiên-Chúa vẫn luôn có mặt để hỗ-trợ ta. Và, khi hoạt-động hăng say/năng-nổ, thì đó là lúc ta quên hết những gì đáng chán ở phần nền.

Thế đó, “nó” mới hay. Thế đó, là “sự việc” rất tuyệt-vời. Thế thì, cuộc sống mới đáng sống. Và, Thiên-Chúa cũng thế. Ngài cũng giống như ta, nghĩa là Ngài rất phấn-kích khi ta vui sống. Và, ta vẫn đang sống với và sống cùng Ngài, theo kiểu ấy.

Ở Tin Mừng ta đọc hôm nay, thánh Mát-thêu viết về bốn thứ nhạc tuyêt-vời nơi Đức Giêsu.

Thứ nhất, Chúa nói đến nhạc-điệu an-vui trong đó có: người mù được thấy, người què đi được, người phung được sạch, người điếc nghe được, và người nghèo đói/ thấp hèn được nghe/biết Tin Vui An Bình. Đức Giêsu mừng kính sự sống giống như thế, ở Galilê. Đó là thứ âm-nhạc tuyệt-cú ta gặp được nơi “sự việc” yêu thương người nghèo-khó, có nhu-cầu.

Loại nhạc thứ hai, Chúa có thưa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi-khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn-ngoan thông-thái biết những điều này, nhưng lại mặc-khải cho những người bé-mọn” (Mt 11: 25). Xem thế thì, Đức Giêsu mừng kính sự sống an-lạc cho người bình-thường sống bên dưới những người mà chẳng ai đoái-hoài nhìn ngó, ngoại trừ Chúa. Chúa cũng nói: cuộc sống, thật ra là làn gió mát cho những người như thế, cả khi bị các cấp ở bên trên đối-xử với mình thật không phải. Và, họ nhận ra sự tử-tế, giống Chúa, nằm khuất ở bên dưới, mọi “sự việc”.

Loại nhạc thứ ba, là khi Chúa bảo: “Những ai đang vất-vả mang gánh nặng-nề hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ-ngơi, bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Nói thế, tức là: Ngài rất bén-nhạy cảm-thông với mọi người và tạo cho họ khả-năng sống cuộc-sống của chính mình, cho thật sống. Chúa mừng kính sự tốt-lành Ngài tạo ban cho những người vẫn lây-lất kéo dài cuộc đời từ ngày này qua tháng nọ, nhưng không chán: bởi nơi đó, có giòng nhạc xuất-phát từ nhạc-bản tươi-vui, an-hoà.

Và giòng nhạc cuối, có Chúa nói: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền-hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ-ngơi, bồi-dưỡng. Vì ách tôi êm-ái, và gánh tôi nhẹ-nhàng” (Mt 11: 29-30). Nói thế, còn có nghĩa: Chúa trân-trọng mừng sự gần-cận với những ai cùng mang “ách” dịu-hiền của Ngài. Mọi người sẽ thấy được niềm an-vui trong tháng ngày dài cuộc đời gặp đầy phiền-toái, oan khiên.

Vâng. Giữa giòng nhạc tươi-vui/êm-đềm, Lời Chúa nói, vẫn có tiếng trống làm nền cho thứ âm-nhạc dịu-nhẹ, hoà-vang, êm-ái. Những người cùng khổ/cật-lực cần được ta đến cảm-kích niềm vui chung. Và, mỗi khi ai đó trổi nhạc vui rồi múa nhảy, hẳn cũng có những người không buồn dời gót ngọc để chung vui với người đó. Một số người sống như thế, cũng chẳng buồn đáp-ứng lại giòng nhạc buồn vào buổi tiễn-đưa người quá-cố, nữa.

Lại có người, vẫn cứ chê-bai chỉ-trích ta, là những người dễ kích-động khi khám-phá ra rằng: cuộc sống cũng tốt đẹp như khi Đức Giêsu và tác-giả Tin Mừng thánh Mát-thêu từng công-nhận như thế. Ta cứ đặt để những lời như thế vào hậu-trường cuộc sống sẽ rất mừng, là: những điều như thế chỉ xuất-hiện ở hậu-trường, mà thôi. Vì, sự thể an-vui/tươi-tắn thực ra ở đâu đó, và những người như thế cũng chẳng thể nào lấy khỏi nơi ta niềm an vui, hài-hoà được.

Đến đây, tưởng cũng nên nói thêm, rằng: khi ta bảo: trong đời, có những sự và những việc vẫn suy-tưởng về Chúa và với Chúa. Tựa hồ như, khi Đức Giêsu trả lời câu hỏi “ai đó” của thánh Phêrô những tưởng Ngài là “ma trơi”, thì Ngài nói: “Đó là tôi!” Và, khi ta thưa với Chúa: Có những sự và những việc con muốn sẻ-san với Ngài, ôi lạy Chúa!, là có ý nói: ta cũng sẻ-san những sự và những việc rất tầm-thường với Đức Chúa.

Thế nên, khi ta nói: cuộc sống có nghĩ về Thần-Tính-An-Vui, là Thánh Thần đem lại sự sống tràn đầy, đến cho ta, là ta hỏi: Chúa nay thế nào rồi? Sự việc Chúa đến với ta, rày ra sao?  Thì đó là lúc ta nên vui-hưởng cuộc sống tràn đầy Đức Kitô. Cuộc sống rất “Kitô”, là như thế”.(x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật 14 thường niên năm A, vietcatholicsnet 27.06.2014, ở cột Phụng vụ)

Xem thế thì, hãy cùng người nghệ-sĩ nhớ đến “Sàigòn-hoa-lệ” thuở nào, rồi cùng hát:

“Nguời tình ơi! Tôi xin giữ trọn mãi lời thề,

Dù thời gian có là một thoáng đam-mê,

Phố-phường một ánh sao đêm,

Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.”

(Nam Lộc – bđd)

Vâng, chính thế. Dù Sàigòn là cuộc sống của tôi và của bạn có là một thoáng đam mê, ê-chề, nhiều bứt rứt, cũng chớ bao giờ quên. Không quên, “Hòn Ngọc Viễn Đông” đầy diễm lệ, cũng không quên cả đến Lời Vàng đấng thánh nhân-hiền từng viết nhiều và viết mãi về sự hiện-diện của Đấng Bên Trên luôn ở cùng và ở mãi với ta và với người.

Quyết thế rồi, nay ta đi vào khung trời truyện kể cũng rất “phiếm” để làm nhẹ bớt nỗi niềm suy-tư về cuộc đời có những lời nhung nhớ, hoặc “giọt lệ sầu buồn” hoặc “nụ cười nát trên môi”, để thưởng-thức.

“Truyện rằng:

Xe lửa bắt đầu chuyển bánh. Gandhi nhảy vội lên tàu. Một chiếc giày của ông rơi xuống. Gandhi không thể nào nhảy xuống để nhặt nó trong khi tàu chạy càng lúc càng nhanh. Trước sự sững sờ của mọi người, Gandhi…đã tháo luôn chiếc giày còn lại và ném về phía chiếc giày kia.

Hành khách trên tàu lấy làm lạ về hành động kỳ quặc của ông. Gandhi mỉm cười và giải thích: “Nếu có một người nghèo nào lượm được chiếc thứ nhất, họ có thể tìm thấy chiếc thứ hai và sẽ xài được đôi giày của tôi”.

Truyện kể vỏn vẹn chỉ có thế. Không dài giòng văn-tự cũng chẳng ngắn ngủi đến độ không hiểu nổi. Thế nhưng, để người đọc thấm thía hơn về ý-nghĩa của cuộc sống rúr ra từ câu chuyện “Chiếc giày đánh rơi của Ghandi”, người kể lại cứ thêm, đôi lời bàn rất “Mao Tôn Cương” như sau:

“Chúng ta thường ít nghĩ đến người khác mà chỉ nghĩ về bản thân mình. Khi chúng ta bị mất mát vật gì, thì điều đầu tiên ta nghĩ đến là: những thiệt thòi và bất hạnh của mình. Chúng ta mất quá nhiều thì giờ vào những tiếc nuối, thở than, chán nản, thậm chí còn bẳn gắt và bực bõ vì những rủi ro có thể xảy đến. Mahatma Gandhi đã có hành động thật cao quý bởi trong mất mát vật tuỳ thân như thế, ông vẫn có thể nghĩ đến người khác.

Hành động của Gandhi từng chứng tỏ: việc nghĩ đến người khác đã trở-thành một phần trong tư tưởng và nguyên tắc sống của ông. Giả như, trong cuộc sống an-bình và thành-đạt mà ta còn không mấy quan-tâm lo-lắng cho những kẻ bất hạnh hơn mình, thì liệu khi gặp khó khăn, mất mát, ta có làm được điều đó hay không?

Quanh ta có biết bao nhiêu người sống khó khăn, cực khổ đang cần sự giúp đỡ của ta. Những gì họ thiếu thốn có khi không là vật chất, mà đôi lúc chỉ cần một lời động viên an ủi, thật cũng đủ.

Thế giới của ta sẽ hạnh phúc biết mấy, nếu mỗi người và mọi người trong ta không chỉ chăm lo cho lợi-ích riêng-tư của mình, mà cần phải chăm lo lợi ích của người khác nữa.” (câu truyện và lời bàn trích từ điện-thư bạn bè gửi hôm 27/6/2014, không ghi tên tác-giả)

Lời bàn về chuyện âu sầu, buồn khổ, mất mát gặp phải trong cuộc đời và những gì còn diễn tiến ở phía sau đường đời, cũng nên dùng làm kết-đoạn cho “chuyện phiếm” rất đáng chán ở đây, hôm nay.

Kết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ thong-dong hát lên lời lẽ đầy nhung nhớ về một “Sàigòn-hoa-lệ” nào đó, của mỗi người. Hát, là cứ hát những lời sau đây:

“Sàigòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời.

Sàigòn ơi! Tôi đã hết thời-gian tuyệt-vời.

Giờ còn đâu, những kỷ-niệm sống trong tôi,

Những nụ cười nát trên môi,

Những giọt lệ ôi sầu đắng…

Sàigòn ơi, nắng có còn vương trên đường?

Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về.

Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống công viên?

Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng?

Hay đã khóc thương cho người yêu?”

(Nam Lộc – bđd)

Hôm nay đây, những mong rằng “Sàigòn” của bạn và của tôi vẫn cứ còn giọt nắng lẫn giọt mưa vương trên đường đời, đầy những nụ cười nở mãi trên môi, của mỗi người và mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Với niềm hy vọng

Trải dài mãi trên anh trên tôi,

Trên mọi người.

ở đời.

Ở đây châu báu vô tri hết,

đây châu báu vô tri hết,”

Pho sách quần phương lộ ý nhiều.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 14: 22-33

Tác giả: Mai Tá

Châu báu vô tri của nhà thơ, nay lộ ý nhiều ở pho sách quần phương, rất lộ ý. Trân châu báu vật của nhà Đạo, lâu nay vẫn thể-hiện nơi tình người đi Đạo, rất chân phương, thân tình, nhiều ý-nghĩa

Tình người chân-phương/thân tình, nay diễn-tả ở trình-thuật được thánh Mát-thêu ghi rõ, đã thấm-nhuần nhiều truyện dân-gian đời thường, rất được ưa chuộng. Dân-gian truyện đời thường hôm nay, lại thấy có câu truyện về vai-trò của nữ-lưu phụ-trách công-cuộc mục-vụ ở tôn-giáo bạn, cũng là tôn-giáo đặt nặng Tình Chúa rất thương-yêu con người,

Tại làng chài vùng ven nọ, các anh em trong Giáo hội Tin Lành luôn cố gắng kiếm tìm cho được một chủ chăn mới thay cho vị mục sư cao-niên đã đến cõi. Sau nhiều chống đối từ các tín-đồ trong đó có Jimmy trong vai người chủ chốt. Cuối cùng thì, Hội thánh sở tại lạ đã mời được vị nữ-lưu tên Gayle phụ-trách vai-trò chủ chăn rất sáng-giá.

Nữ chủ chăn tên là Gayle lúc đầu hơi ngỡ ngàng, nhưng sau nhiều tuần quen dần với công-tác mục-vụ, cũng dễ dàng. Mùa nghỉ đã đến, thành-viên cộng-đoàn do anh Tom điều động, đã tổ chức chuyến đi câu nhằm mục-đích mời vị chủ-chăn tham quan, có dịp thư giãn cùng thưởng-ngoạn niềm an vui, rất mục-vụ.

Jimmy được yêu-cầu cho mượn xuồng để bà con có dịp thăm viếng miền sông nước. Jimmy rất đồng ý, nhưng Anh ra điều-kiện đòi làm hướng-dẫn-viên cho buổi vui này. Và thế là, mọi người lên xuồng, để ra đi. Đi được một quãng ngắn, bà con chợt nhận ra là mồi câu còn để trên bờ. Có người đề nghị quay trở lại lấy mồi.

Nhưng, chủ chăn là chị Gayle không đồng ý. Chị bước xuống khỏi xuồng, bỏ đi vào bờ. Jimmy thấy vậy, anh cũng chẳng ngạc-nhiên chút nào về khả-năng lội bộ của vị chủ chăn tên Gayle, bèn nói mau: “Quý vị thấy chưa, tôi đã nói là mình không nên nhờ bà ấy lo việc mục-vụ cho giáo-đoàn mình, mới phải. Bà ta nào biết bơi, nên mới thành chuyện.”

Thành thử, bỏ bạn bè đồng cảnh ở lại chơ vơ trên thuyền, lại cũng là kinh nghiệm khó nghĩ, khó xử cần suy tư nhiều, để tìm hiểu.

Những ai từng xem phim Shrek nhiều tập, hẳn cũng đều đồng ý là bộ phim này có nhiều điều rất hay và rất tuyệt, nhưng nhiều chỗ có hơi khó hiểu. Các nhà phê-bình kịch-bản để làm phim, phải cắt-nghĩa là: tác-giả đã dùng cung-cách được gọi là “nguyên-bản tương-tác” lấy sự-kiện nguyên-bản ở chỗ này, rồi khéo-léo đưa vào bản-văn ở chỗ khác để ông có thể tiếp-tục kể nốt cốt-truyện làm nên cho bộ phim. Làm thế, mới đưa ra được cái hay/cái đẹp của bộ phim.

Trong phim này, có một số điều được rút từ nhiều điển-tích cổ xưa, rất cố-hữu. Thành thử, muốn biết rõ bản-chất mỗi nhân-vật, người xem cần hiểu/biết các điển-tích tuy xưa/cổ đã hàm-ẩn, ở trong phim. Đôi lúc, người thưởng-ngoạn lại có cảm-tưởng là cốt truyện đã bị đảo-ngược không còn giống câu truyện vào lúc ban đầu nữa.

Tuy nhiên, những chuyện như thế đã không làm cho bộ phim nhiều tập Shrek mất đi tính ăn khách, thích thú cần đem đến với người xem. Cuối cùng thì, mọi người vẫn đổ xô, rủ rê nhau xem cho đủ hết mọi tập, dù truyện phim có quá nhiều điển-tích, nhiều chỗ cũng khó hiểu.

Truyện kể về việc Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước cũng tạo yêu-tố gây kinh-ngạc không ít, giống hệt tập phim truyện Shrek. Trong mười một đoạn văn Tin Mừng do thánh Mát-thêu ghi, nhiều chỗ cũng được rút từ nhiều điển-tích rất cổ xưa có sẵn trong Cựu Ước.

Thánh Mát-thêu lại đã đem một số điển-tích ấy vào thể-văn riêng của ngài và diễn-giải thêm cho phù-hợp nhân cách Đức Giêsu Kitô. Ngày hôm nay, đọc trình-thuật của thánh-nhân theo cảm-nghĩ của người đương-thời, hẳn nhiều người sẽ thấy lạc lõng, bơ vơ, không đồng bộ. Họ thưởng thức mỗi cốt truyện, chứ không nắm-bắt được cốt-lõi của bản văn. Thật ra, tín-hữu cộng-đoàn thời tiên-khởi không như thế. Mỗi khi thánh Mát-thêu diễn-giải điều gì ở trình thuật, ai cũng hiểu mọi ý-nghĩa đã kể trong truyện.

Nơi Cựu Ước, tín-hữu kỳ-cựu như ông Giób vẫn thấy văn-bản trình-thuật diễn-tả trọn vẹn ý-nghĩa sự việc Chúa hiện-diện cả trong cơn phong-ba, sóng dồn, vốn là ảnh-hình nói lên các hiểm-họa gặp thấy ở trong đời. Ảnh-hình về “thuyền con” trong trình thuật, là biểu-tượng về Hội-thánh cũng đã gặp nhiều phong-ba/sóng dồn, vào thuở đầu.

Với thánh Mát-thêu, các môn-đệ Chúa đều có mặt trong tình-cảnh đó. Hình ảnh Đức Kitô bay là trên mặt nước, là âm-vang cố-hữu về họat-động của Thần-Khí Chúa trong trình-thuật tiên-khởi ở sách Khởi nguyên. Ngay đến việc Đức Kitô từng khiến cho sóng êm, biển lặng cũng để tiếp-nối công-việc mà ngôn-sứ Giô-nah đã làm vào khi trước.

Thành thử, người đọc nào những muốn say-mê tìm-hiểu Kinh-thánh, sẽ thấy nhiều biểu-tượng vẫn đồng-bộ, ăn khớp với các điển-tích được ghi nhiều trong sách Cựu-Ước, vào thời trước.

Trình thuật hôm nay cũng thế, thánh Mát-thêu đã chứng-tỏ biệt tài viết lên Tin Mừng cách độc-đáo qua ngôn-ngữ riêng-tư của chính ông. Đi vào chi tiết, ta sẽ còn thấy thánh-nhân chú-trọng nhiều đến thông-điệp mang tính thần-học hàm-ẩn như sau: Đức Kitô, là Người Con Độc Nhất của Thiên-Chúa-là-Cha, là Chúa tể mọi Tạo dựng, vẫn trung-kiên với đồ-đệ của Ngài. Chẳng cần biết sông/biển có vỡ ào, sóng nước có dồn dập, hoặc dân con/người phàm có khiếp-sợ nguy-cơ tai-biến đến thế nào đi nữa, Chúa vẫn cứu, đem họ về với công-trình tái tạo-dựng nên người mới, vẫn rất mới.

Cũng hệt thế, Hội-thánh Chúa thừa-nhận rằng Ngài đã hoàn-tất công-trình tạo-dựng mà lâu nay toàn-dân Israel hằng trông đợi nơi Ngài. Họ mong được mục-kích và ôm giấc mộng ấy vào trong lòng. Vẫn cảm-thông với công-cuộc cứu-vớt của Đức Chúa, dù đôi lúc nhận thấy nhiều biểu-tượng và điển-tích cũng không mấy dễ hiểu.

Vấn đề là: hôm nay đây, tất cả các truyện cổ, cùng điển-tích ấy có đem đến cho ta điều gì tốt đẹp, nhiều hay không?

Quả thật, chúng ta đều là kẻ kế-thừa lòng tin của thánh sử Mát-thêu, từng tỏ rõ. Hôm nay đây, vốn có mặt trong buổi Tiệc thánh này, là vì ta tin rằng Đức Giêsu, Người Con Độc Nhất của Thiên-Chúa-là-Cha, Đấng đã cứu-vớt ta ra khỏi chính thân-phận người phàm chốn gian-trần của mình, để sẽ không còn bị lớp phong-ba bão-táp cùng sóng dồn ở cuộc đời những miệt mài, đầy hủy hoại là thế.

Đằng khác, thông-điệp thánh-sử chuyển đến cho ta hôm nay, còn nói lên rằng: trong mọi phong ba bão táp từng đe dọa con thuyền cuộc sống của ta, phải chăng ta vẫn gặp được may dù không biết bơi vì Đức Giêsu chẳng bao giờ học-hỏi để biết bơi, hết?

Cảm-nhận được sự thể như thế, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ đang ngâm dở, rằng:

“Ở đây châu báu vô tri hết,

Pho sách quần phương lộ ý nhiều.

Hãy tìm cho được hoa cung cấm,

Xem thử trong hoa có mỹ miều?”

(Hàn Mặc Tử – Nhớ Thương)

Châu báu vô-tri ở trong sách, và hoa cung-cấm có mỹ-miều, lại cũng là những thứ ta có thể tìm ra được trong cuộc sống vẫn rất đẹp, “lộ ý nhiều”. Ý rất lộ, được thánh-sử diễn-tả bằng hình-tượng dân-gian đằm thắm, rất mỹ-miều, vẫn không thiếu ở chốn nhân-gian tình người, rất chân-phương.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Chuacuuthe.com

VRNs (09.08.2014) – Melbourne Úc Đại Lợi – Ngành giáo dục đã trải qua ba lần cải cách, nhưng vì vẫn điều hành lối cũ nên càng cải cách càng rơi vào khủng hỏang. Từ góc nhìn kinh tế muốn tạo cạnh tranh, tạo công bằng và hiệu quả giáo dục cần được tư thục hóa.

140807013

Giáo Dục Là Công Việc Nhà Nho

Tổ chức giáo dục thời xưa được học giả Đào Duy Anh ghi lại trong quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương như sau:

Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo thụ, dạy Tứ Thư Ngũ Kinh cho học trò khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới quyền giám đốc của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian thì xưa nay việc học vẫn hoàn toàn tự do. Thầy học thì có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con, cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có người dạy đến trăm nghìn học trò.

Giáo dục có thể xem như là công việc của nhà nho hơn là của quốc gia. Trường học thì phần lớn là nhà riêng của thầy nho, hoặc ở chùa, đình, miễu hay nhà một người giàu có trong làng. Các thầy nho hòan tòan độc lập với công quyền. Họ không được tài trợ và cũng không bị kiểm soát đôn đốc bởi bất cứ cơ quan nào.

Sang Thời Pháp Thuộc

Giáo dục thời Pháp nhằm đào tạo một số người biết tiếng Pháp, biết Quốc Ngữ, có đôi chút hiểu biết để ra làm công chức, làm thông dịch phục vụ cho người Pháp. Mục tiêu xa là đồng hóa người bản xứ biến họ thành những người Pháp về phương diện văn hóa.

Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, người Pháp đã mở rộng 1 hệ thống giáo dục công lập rộng khắp Đông Dương. Đồng thờitừ mục tiêu truyền giáo một số trường tư do giáo hội Thiên Chúa Giáo cũng đã xây dựng và điều hành.

Sau năm 1930 một số tư thục do tư nhân mở ra ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và ở một vài tỉnh lỵ lớn đa số là các trường bậc Tiểu Học.  Bậc Cao Đẳng Tiểu Học chỉ có ở Hà nội, Huế và Sài gòn. Bậc Tú Tài chỉ có ở Hà Nội và Sài Gòn.

Nhà nho vẫn được tiếp tục vai trò giáo dục. Nhưng theo quyết định của Toàn Quyền Paul Beau năm 1906-07 thì các thầy đồ, thầy khóa ở xã thôn, các quan giáo huấn, đốc học ở phủ, huyện, tỉnh, ngoài việc dạy chữ Hán phải dạy thêm chữ Quốc Ngữ.

Khi Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập, người Pháp đã không ngăn cấm hoạt động. Người Pháp chỉ giải tán khi biết được đằng sau Nghĩa Thục là phong trào chống lại thực dân.

Tư Thục Trong Nền Giáo Dục Miền Nam

Giáo dục miền Nam nhằm đào tạo những công dân tốt có khả năng phụng sự xã hội. Vì vậy vai trò của chính phủ là làm sao tạo được sự công bằng và hiệu quả trong việc đầu tư cho giáo dục.

Chiến lược giáo dục miền Nam đựơc nêu rõ trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa: (1) Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục, (2) nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí, (3) nền giáo dục Đại Học được tự trị, (4) những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn và giáo dục, và (5) một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.

Để thực hiện những mục tiêu trên chính phủ miền Nam đã chia sẻ trách nhiệm với các thành phần khác trong xã hội. Những con số dưới đây có thể nói lên được phần nào sự phát triển của hệ thống tư thục trước đây.

Năm 1964 có chừng 435 ngàn học sinh tiểu học chiếm 28 phần trăm tổng số học sinh tiểu học đã được giáo dục tại các trường tư thục. Đến năm 1970 con số tăng lên 452 ngàn nhưng tỉ lệ đã giảm xuống chỉ còn 18 phần trăm.

Ở bậc trung học cả tỉ lệ lẫn số lượng học sinh đều liên tục gia tăng. Nếu năm 1964 các trường tư thục thu nhận 181 ngàn học sinh hay 62 phần trăm tổng số học sinh, thì đến năm 1970 con số tăng gần ba lần lên đến 484 ngàn học sinh chiếm tỉ lệ 78 phần trăm tổng số học sinh trung học.

Về giáo dục đại học, 6 Viện đại học tư thục cũng đã được thành lập với chừng 40 ngàn sinh viên tốt nghiệp.

Nhận thức giáo dục cơ bản mang lại công ích xã hội cao nhất nên chính quyền miền Nam đã tập trung ngân sách quốc gia cho giáo dục tiểu học. Học sinh công lập được hòan tòan miễn phí. Ở bậc tiểu học học sinh còn được ăn bánh mì và uống sữa miễn phí. Sách giáo khoa bậc tiểu học cũng được phát không.

Các trường tư nhờ cạnh tranh nên học phí thấp và phẩm chất giáo dục cũng không mấy chênh lệch. Bởi thế đa số trẻ em miền Nam đều được đến trường ăn học.

Nhờ chia sẻ trách nhiệm với tư nhân, phía chính phủ đã chu cấp một đời sống căn
bản cho giáo chức và các công chức trong ngành giáo dục. Nhờ đó miền Nam đã xây dựng được một nền giáo dục có giá trị ngang tầm quốc tế.

Đến năm 1975, hằng ngàn trường tư thục và các viện đại học đã bị tịch thu và nhập vào hệ thống giáo dục Xô Viết. Hệ thống này đến nay cũng không mấy thay đổi vẫn độc quyền và chính trị hóa giáo dục.

Trường Công Đã Biến Thành Trường Tư

Ngân sách cho giáo dục hiện nay đã lên đến 20 phần trăm tổng ngân sách quốc gia. Nhưng vì phải trải rộng cho tòan ngành, thiếu cạnh tranh và hiệu quả, nên các cơ sở học đường đều nghèo nàn, xuống cấp, lương giáo viên không đủ sống, có địa phương thiếu lương trả giáo viên,… chưa kể đến tình trạng tham nhũng tràn lan khắp ngành giáo dục.

Các trường công lập cũng thâu học phí và nhiều khỏan phí khác gây không ít khó khăn cho phụ huynh học sinh. Trường công đã trở thành trường tư.

Một vài trường tư được thành lập nhưng vì thiếu môi trường cạnh tranh lành mạnh, thiếu học sinh, nên học phí quá cao. Gia đình trung lưu cũng không đủ khả năng cho con em theo học.

Theo thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, kể từ ngày 15/7/2014 các học sinh tiểu học công lập sẽ không phải đóng học phí. Thông tư không nói các lệ phí khác có được miễn hay không? Không thu được học phí, ngân sách lấy gì bù đắp và thực tế sẽ ra sao?

Tư thục hóa nền giáo dục Việt Nam

Các sinh viên đại học sau vài năm theo học sẽ có công ăn việc làm. Họ sẽ có lợi tức và có khả năng hòan trả các chi phí giáo dục. Người có giáo dục đại học lại thường dễ thay đổi nghề nghiệp và có nhiều khả năng xuất ngọai.

Vì thế một nước chậm phát triển như Việt Nam thay vì đầu tư cho giáo dục Đại Học nên để các khỏan ngân sách cho việc đầu tư vào giáo dục bậc tiểu học.

Cuộc hội thảo về cải cách giáo dục Đại Học do Nhóm đối thoại giáo dục và Lãnh sự quán Hoa Kỳ vừa tổ chức cho thấy việc tự trị đại học được xem như là giải pháp để thúc đẩy việc cải cách giáo dục đại học Việt Nam. Có điều các diễn giả không nói rõ tự do chính trị và tự do giáo dục chính là căn bản của một nền đại học tự trị.

Quyền tự trị đại học đã được nêu rõ trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa. Miền Nam không có Bộ Đại Học. Bộ Giáo dục chỉ có một thứ trưởng đặc trách giáo dục đại học, công việc của vị này chủ yếu là lo thực thi những chính sách và ngân sách giáo dục đại học.

Đại học tự trị về học vụ, tài chính và điều hành. Các hội đồng ở cấp viện đại học và cấp trường đại học (hay phân khoa) có quyền thảo luận và quyết định mà không phải trình báo hay xin chỉ thị từ bất cứ ai. Các Khoa trưởng không do Bộ Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.

Khi Đại Học chưa được quyền tự trị thì khó có sự cạnh tranh công bằng giữa đại học công và tư. Một bên đã có nhà nước bảo hộ phía bên kia cần lợi nhuận để tiếp tục duy trì và phát triển. Thiếu cạnh tranh thì khó có thể nâng cao được phẩm chất của nền giáo dục.

Cũng trong thời gian qua, tranh chấp diễn ra tại đại học tư thục Hoa Sen xoay quanh việc ai quyết định chiến lược và thành quả của chiến lược thuộc về ai? Cuộc tranh chấp nhằm chọn giữa hai phương cách quản lý đại học: vụ lợi hay vô vụ lợi.

Tổ chức vô vụ lợi (phi lợi nhuận) họat động không vì lợi nhuận nhưng về lâu dài việc quản lý cũng cần có thặng dư để tái đầu tư và phát triển. Ở các nước Tây Phương các tổ chức vô vụ lợi họat động trong ngành giáo dục được khuyến khích bằng cách miễn thuế lợi tức. Các cá nhân hay công ty đóng góp cho các tổ chức giáo dục vô vụ lợi cũng được khai giảm thuế lợi tức hằng năm.

Để khuyến khích phát triển giáo dục tư thục, ngòai việc chính phủ cấp học bổng hay ngân sách cho đại học cả tư lẫn công, có quốc gia còn cho các sinh viên vay tiền học phí và chỉ hòan trả lại khi họ đã có công ăn việc làm vững chắc.

Nhiều quốc gia miễn thuế cho các dịch vụ thuộc về giáo dục. Có quốc gia còn khấu trừ thuế lợi tức các chi tiêu cá nhân hay công ty đầu tư cho việc giáo dục và đào tạo.

Chính phủ cũng cần tạo mọi cơ hội để các trường đại học tư thục được sự giúp đỡ của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty liên quốc, các cộng đồng hải ngọai và các mạnh thường quân quan tâm đến giáo dục.

Dựa trên căn bản chiến lược, chính sách và luật pháp quốc gia, các trường đại học tư thục có tòan quyền quyết định giữa tổ chức quản lý đại học bằng cách vụ lợi hay vô vụ lợi.

Các trường tiểu học và trung học tư thục, việc điều tài chính và quản lý tùy thuộc vào
Ban Quản Trị nhà trường. Bộ Giáo Dục chỉ quy định chương trình và giám sát phẩm chất giáo dục các trường.

Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đã tư thục hóa nền giáo dục của họ. Nhiều nước như Úc còn xem giáo dục như mặt hàng xuất khẩu chiến lược.

Trong khi ấy nền giáo dục Việt Nam vẫn lệ thuộc vào tư tưởng giáo dục kiểu Xô Viết trước đây, khi tự do chính trị và tự do giáo dục chưa có, mọi cải cách đều không mang lại kết quả, nền giáo dục càng ngày càng suy thóai, dẫn đến khủng hỏang xã hội.

Năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã hòan thành cuộc cách mạng giáo dục lần thứ nhất chuyển chương trình giáo dục từ Pháp ngữ sang Việt ngữ. Xây dựng giáo dục trên ba nguyên tắc: dân chủ, dân tộc, khoa học và lấy lý tưởng phụng sự quốc gia làm tôn chỉ.

Giáo dục gắn liền với phát triển quốc gia, bởi thế muốn đưa đất nước đi lên chúng ta cần sửa sọan tư tưởng sẵn sàng lấy việc tư thục hóa làm nền tảng cho cuộc cách mạng giáo dục lần này.

Nguyễn Quang Duy

—-

Bài liên quan:

Nguyễn Quang Duy (3-2014) Giáo dục Việt Nam: cố sửa hay trở về gốc?

Nguyễn Quang Duy (4-2014) Ưu việt của giáo dục miền Nam

Nguyễn Thanh Liêm, Nền giáo dục ở miền nam 1954-1975

 

Lòng Mẹ – Như Quỳnh – Dậu Nguyễn & Tình Cha – Dậu Nguyễn

Lòng Mẹ – Như Quỳnh – Dậu Nguyễn

“Lòng mẹ”. Nhạc và lời: Y Vân. Tiếng hát: Như Quỳnh. Hình ảnh: Internet.
Nhạc cảnh: Dậu Nguyễn thực hiện.

httpv://www.youtube.com/watch?v=7fziLL25PDg

Tình Cha – Dậu Nguyễn

“Tình cha”. Ngọc Sơn sáng tác và trình bày. Hình ảnh: Internet.
Nhạc cảnh do Dậu Nguyễn thưc hiện

httpv://www.youtube.com/watch?v=g8xdQMr9xMY

 

Thân phận con người trong xã hội Việt Nam hiện nay (1)

Thân phận con người trong xã hội Việt Nam hiện nay (1)

Bức thư của một người mẹ viết trước khi tự tử vì quá nghèo mà mình sau nhiều năm vất vả cực nhọc mang lấy chứng bệnh thần kinh, mỗi ngày tiêu đến 140 nghìn đồng – đúng bằng tiền chồng làm ra để nuôi con ăn học. Một người mẹ nhất quyết chết vì không muốn 3 con trở thành những trẻ thất học do gánh nặng bệnh tật của mình, tương lai gần hay xa có thể dẫn đến tai họa cho xã hội. Những dòng thư trong vắt thiện lương cào xé lương tâm chúng ta, bắt ta nhìn qua đó như một tấm gương soi để thấy trên mặt mình có chỗ nào bất thiện hay không, mình có đáng sống hay không đáng sống trên đời, tranh mất sự sống của con người này và nhiều người thiện lương khác. Tấm gương không chỉ soi tỏ gương mặt của một mình ta mà soi luôn cả một xã hội lổn nhổn xung quanh ta, hiện hình lên những vị tai to mặt lớn, ăn bẫm và ăn tạp từ miếng to đến miếng nhỏ, từ việc in một mớ tiền polymer bên Úc, vay một khoản ODA bên Nhật, cho đến chiếm một khoảnh đất của dân Dương Nội, cướp một đầm thả cá tự đắp đập be bờ làm lấy của vợ chồng con cái anh cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn Hải Phòng… Các vị quan cộng sản suốt ngày chỉ ăn là ăn, hễ nghe lũ xâm lược rục rịch ở Biển Đông là rụt ngay cổ lại, thử hỏi có lúc nào các vị thử tính đếm xem bao nhiêu người dân Việt đã thiệt mạng, đã tự vẫn vì những cái miệng há to của các vị và con cái các vị hay không? Nhiều lắm lắm, tính ra không xuể đấy. Chính những cái miệng ấy chứ không phải cái gì khác chúng đã phủ định hết mọi thứ ngôn xưng đẹp đẽ về một thể chế cộng sản đến hồi rệu rã sau hơn 60 năm tồn tại đầu họng súng mà các vị đang cố sức níu giữ. Và dù báo chí có tô son trát phấn cho một thế hệ “thái tử đảng” đang ngấp nghé thay chiếc ghế của các vị – toàn những gương mặt nhờ bơ sữa làm cho đẹp đẽ thông minh, những Nguyễn Thanh… này, Lê Trương… kia, Tô Linh… nọ, v.v.  – thì trong con mắt dân cùng chúng tôi, đó cũng chỉ là ủy viên dự bị của những cái miệng há to đã đớp đến mỏi răng, chiếm phần sống của quá nhiều người, nay phải để cho con cháu trèo lên ghế đớp tiếp, thế thôi, họ chẳng làm nên cơm cháo gì, hay giúp cho xã hội bớt đi những người tự vẫn được đâu.

Chị Mỹ Nhân ơi, nhìn ảnh chị và đọc tên chị sao mà gợi quá nhiều trắc ẩn, Mỹ nhân tự cổ như danh tướng / Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu. Chị là một người quyết liệt chết để cho sự sống được nảy mầm, cái chết ấy sẽ không bao giờ uổng phí. Nhưng chị chết mà không hề biết oán hận những ai, những kẻ nào thực chất là nguyên nhân sâu xa gây nên cái chết của mình, đó mới là một cái chết vị tha có sức cứu rỗi hết thảy những ai đang sống, trừ một số ít những kẻ trơ lỳ mà ta thừa biết là ai rồi. Chị gửi lời xin ông bí thư đảng ủy xã An Xuyên và chính quyền Ấp 5 cho gia đình mình được “lên” diện nghèo để 3 đứa con nhờ vào cái “sổ nghèo” mà được vay tiền ngân hàng đóng học phí khỏi phải bỏ học. Đọc lá thư của chị bằng nước mắt, chúng tôi muốn mượn câu thơ của Cao Bá Quát thét lên một tiếng vào bản mặt của cái thể chế này: “Ước gì có một cơn dông bão quét sạch mọi nhơ bẩn để sau một đêm sáng dậy thấy non sông đổi thay tận gốc” (Phong vũ giang sơn tận cải quan – Lập xuân hậu nhất nhật tân tình).

Bauxite Việt Nam

Thắt lòng chuyện mẹ chết để lấy tiền phúng viếng cho con học

(PLVN) Sau một tháng toan tính kỹ lưỡng, chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 38 tuổi, ngụ ấp 5, xã An Xuyên, TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau quyết định… chết. Chị chọn quyên sinh là giải pháp cuối cùng với hy vọng kiếm được ít tiền phúng điếu và gia đình được cấp sổ hộ nghèo. Đau đớn đến mức trong lá thư để lại, chị còn nhắn chồng đi xin hòm về liệm, dành tiền đóng học cho con.

clip_image002

Di ảnh chị Nhân.

Nghẹn uất xót thương

Chiều 24/4/2013, xứ An Xuyên bàng hoàng, thảng thốt bởi cái tin chị Nhân treo cổ chết.

Trước khi thắt cổ chết một tháng, chị đã nói với chồng, với con, với nhiều người hàng xóm về kế hoạch chết của mình. Chị khẳng định với chồng là chỉ còn một con đường duy nhất duy trì việc học cho các con. Đó là chị phải chết đi để mọi người đến phúng viếng mới có tiền trang trải cho các con học, giảm gánh nặng cho chồng, lấy linh hồn phù hộ cho chồng con… trúng số độc đắc.

Người chồng đau khổ nhưng bất lực trước ý chí sắt son của người vợ.

Trong suốt hai ngày đám tang của chị Nhân, người ta không nghe anh Bảo trách vợ một tiếng nào. Hơn ai hết, anh là người thấu hiểu tấm lòng của vợ. Anh nói trong nước mắt: “Vợ tôi đã cố gắng đến hơi sức cuối cùng”.

Hơn 20 năm làm vợ chồng với nhau, anh Bảo chưa bao giờ thấy vợ mình đáng trách. Ngược lại, anh luôn cảm phục tấm lòng và nghị lực của vợ.

Chị làm lụng đến tối tăm mặt mũi, không từ công việc gì miễn kiếm được tiền. Cả những công việc nặng nhọc tưởng chỉ đàn ông mới đảm đương nổi, chị cũng không nề hà. Đến khi bị bệnh tật hành hạ, chị vẫn cố gắng đi làm, không dám chữa trị vì tiền kiếm được còn phải để đóng học cho con.

Người phụ nữ nghị lực “đã gõ mọi cánh cửa

Chị còn được xóm làng ngợi khen về tính đảm đang tháo vát hơn người. Chị chưa bao giờ bỏ qua một cơ hội kiếm tiền chính đáng. Nghe nói Nhà nước có chính sách cho sinh viên, học sinh vay tiền đi học, chị đích thân đi tìm hiểu và làm thủ tục xin vay. Người ta trả lời phải là hộ nghèo, hoặc hộ cận nghèo mới được cho vay. Chị về hỏi chính quyền địa phương xin được xét cấp sổ hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Bà Nguyễn Thị Nhu, Chi hội trưởng Cựu chiến binh ấp 5, xã An Xuyên kể: “Ngày 18/11/2012, khi họp dân ấp nhân ngày đại đoàn kết và xét chọn hộ nghèo, cận nghèo, Mỹ Nhân có đến dự. Tôi nhớ rất rõ lời nói của nó hôm đó. Nó nói “hoàn cảnh tôi quá khó khăn, xin được cấp sổ hộ nghèo để vay tiền cho các con ăn học”. Khi đó, Trưởng ấp ghi nhận nhưng chỉ hứa là sẽ xem xét sau, vì đã qua đợt xét hộ nghèo”.

Chị cũng đã tìm hiểu ra và làm thủ tục cho con trai nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với sinh viên học ngành hóa chất độc hại. Chị cũng đã tranh thủ góp hụi, vay tiền từ Hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, thậm chí vay “nóng” bên ngoài.

Anh Từ Văn Nguyễn, công an ấp 5, kể thêm: “Cách đây một tháng, chị Nhân đi kêu một bà để bán nhà và đất đang ở. Bà này trả lời là để bàn lại với người thân, chứ đất đai đâu phải nói mua là mua liền. Chị Nhân năn nỉ bán trả chậm, 2 triệu một tháng cũng được để có tiền đóng học phí cho các con. Bà này không chịu, chị Nhân nói nếu không chịu thì vài bữa nữa đi đám ma của tôi”.

Trước khi thắt cổ chết 3 ngày, chị Nhân hay tin có ông Trần Đại Đoàn, một người bà con mới về làm bí thư xã An Xuyên. Chị lập tức lên xã gặp ông Đoàn để xin được xét cấp sổ hộ nghèo. Ông Đoàn ghi nhận và hứa sẽ xem xét để cấp sổ hộ nghèo cho chị khi đến đợt xét tới đây. Đến lúc chị qua đời, anh Bảo vẫn chưa hay biết việc chị đã lên xã xin anh Đoàn cái sổ hộ nghèo.

Tâm thư tuyệt mệnh

Bên cạnh xác chết của chị, người ta đã tìm thấy những bức tâm thư tuyệt mệnh.

“Anh Bình! Hoàn cảnh em quá khổ. Em chết, anh chôn em cặp Hà (em trai chị – PV), trên đất của cha mẹ. Em chết, anh thỉnh bàn thờ mẹ về nhà anh thờ. Mong anh đừng làm khó em, để em yên thân nằm cạnh Hà. Gia đình mình sống quá khổ, từ đời của cha mẹ đến đời con, không có ý nghĩa gì hết”.

clip_image004

Cha con anh Bảo đau thương trước cái chết của chị Nhân.

Bà Nguyễn Thị Tiến, Chi hội trưởng phụ nữ ấp 5, xã An Xuyên, TP Cà Mau bức xúc: “Suy cho cùng, cái chết của chị Nhân có nguyên nhân từ áp lực tiền học phí và tiền trị bệnh. Nếu như có tiền để chị đóng học phí cho các con đi học thì chị đã không chết như vậy.

Ngành giáo dục nên xem lại những cuộc cải cách của mình, chứ thực tế rất rõ là càng về sau này, việc học hành càng xa vời với người dân, cả người dân được cho là không nghèo.

Sau cái chết của chị Nhân, chúng tôi bị chỉ trách lớn. Xin hãy nghĩ lại cho chúng tôi. Với mức phụ cấp 400 – 600 ngàn đồng/tháng/cán bộ ấp, thử hỏi làm sao chúng tôi sâu, sát đến từng hộ dân một. Chúng tôi còn phải kiếm sống. Chúng tôi là những người hưởng lợi thấp nhất trong hệ thống chính quyền, nhưng khi có sự cố nào xảy ra, chúng tôi là những người lãnh đủ”.

Phần gửi cho chồng, chị Nhân viết: “Anh Bảo! Tiền em bỏ trong túi quần tây, trong tủ áo. Quần tây màu đỏ”.

Bức thư thứ hai dài đến bốn trang giấy học trò, chữ viết nguệch ngoạc, không chấm phết, ý tứ đứt quãng, lủng củng. Nhưng khi đọc lên, ai cũng có cảm giác là chị Nhân đang nói với mình. Bởi những điều đó chị đã nói rồi, nói với chồng, với con, với nhiều người hàng xóm, và nói từ cả tháng qua.

clip_image006

Thư tuyệt mệnh của người mẹ tự vẫn. (http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/545565/dau-don-thu-tuyet-menh-cua-nguoi-me-tu-van.html)

Chúng tôi tạm rút nội dung bức thư thứ hai của chị theo ý chính như sau:

“Tạm biệt chồng con!

Anh! Trong hoàn cảnh gia đình mình quá khổ, em không sống nổi với anh và các con. Từ một tháng qua, em bệnh, nằm xuống nhưng không ngủ được. Em nhớ đến nợ nần, đến tiền học phí của các con, đến sự khổ cực cả đời của anh. Em đã cố gắng lắm rồi, em chạy tiền bằng mọi cách để trị bệnh, để lo đóng học phí cho các con, nhưng có ai cho mình mượn, mình vay đâu.

Em khổ lắm. Em không còn lối thoát. Em biết chết trong lúc này, bỏ lại anh và 3 đứa con ngoan, hiền, học giỏi của chúng ta là em không đúng. Anh Bảo! em thương anh nhiều lắm. Anh sống với em cả đời cực khổ, chưa có bao giờ anh được sung sướng.

Các con, Bằng, Tâm, Ngân. Các con đừng trách mẹ, mẹ khổ nhiều lắm. Mẹ chạy tiền cho các con ăn học, bây giờ nợ nhiều lắm. Tiền hụi chết mỗi tháng phải đóng cho dì Ánh 1 triệu đồng. Mẹ đã đi van xin được cấp sổ hộ nghèo để mẹ vay tiền đóng học phí cho các con. Nhưng không ai cho gia đình mình nghèo hết. Mẹ chết để giảm gánh nặng cho cha con, để phù hộ cho cha con các con được trúng số độc đắc, để chính quyền thấy nhà mình thực sự khổ rồi cấp sổ hộ nghèo, vay tiền đóng học phí cho các con.

Xin các cấp chính quyền ấp 5 soi xét cho hoàn cảnh quá khổ, không lối thoát của chúng tôi mà xét cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi được sống những ngày tháng còn lại trên đời.

Anh Bảo! Anh ra Hội chữ thập đỏ xin hòm liệm em, đừng mua tốn kém lắm, dành tiền lo cho các con mình ăn học nghe anh.

Anh. Em thương anh nhiều lắm! Các con hãy gắng vươn lên, học tập đổi đời, đừng để cha con phải khổ thêm. Vì mẹ con mình mà cha các con phải khổ cả đời rồi…

Mỹ Nhân tạm biệt!”.

Đám tang của chị được bà con An Xuyên phúng viếng trên 40 triệu đồng, một số tiền khá lớn so với những đám tang khác tại địa phương.

Gia đình chị Nhân không thuộc chuẩn xét hộ nghèo, cận nghèo

Ông Võ Văn Nhu, Bí thư chi bộ ấp 5, xã An Xuyên: “Việc không cấp sổ hộ nghèo cho gia đình chị Nhân là do hoàn cảnh nhà chị chưa đến chuẩn để xét.

Theo qui định hiện hành, hộ nào có mức thu nhập bình quân đầu người từ 400 ngàn đồng/người/tháng trở xuống thì là hộ nghèo. Từ 401 ngàn đồng – 520 ngàn đồng xét hộ cận nghèo. Trong khi chỉ tính riêng thu nhập từ công việc thợ hồ của anh Bảo đã là 3 triệu đồng/tháng, chia cho 5 nhân khẩu thì được 600 ngàn đồng/người/tháng.

Tuy nhiên, cái chết của chị Nhân khiến chúng tôi rất đau xót và nghiêm túc rút kinh nghiệm vì chưa thực sự sâu, sát hiểu rõ tâm tư nguyện vộng của dân, để đề xuất cộng đồng chung tay giúp đỡ.

Qua đây, chúng tôi cũng xin đề xuất với Nhà nước hãy điều chỉnh mức chuẩn xét hộ nghèo lên. Thực tế cho thấy, với vật giá hiện nay, để sống gói ghém, mỗi khẩu cần có ít nhất là một triệu đồng. Nếu có con đi học hành thì không thể nào đảm bảo được”.

Theo Xa lộ Pháp luật

Nguồn: baophapluat.vn

Blogger Điếu Cày sắp được trả tự do?

Blogger Điếu Cày sắp được trả tự do?

Chuacuuthe.com

VRNs (08.08.2014) – Sài Gòn – Chấp hành viên Lê Văn Kiệt của Chi cục thi hành án (CCTHA) dân sự quận 3, ngày 06.08 vừa qua đã gởi Giấy Mời đến gia đình blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải, yêu cầu gia đình thay mặt cho ông Hải đóng tiền án phí sơ thẩm và phúc thẩm hình sự để “đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá”.

140807012

Điều đầu tiên gây ngạc nhiên cho chúng tôi là án phí của một bản án hình sự tại sao lại do CCTHA dân sự gởi thư mời (tương tự giấy đòi nợ) để thu tiền? Điều thứ hai là tại sao việc nộp án phí lại là “đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá”?

Anh Nguyễn Trí Dũng, con trai của blogger Điếu Cày bình luận trên trang facebook cá nhân, sau khi nhận được thư mời như sau:

“Đây là động tác mới nhất của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đối với vụ án xử kín các thành viên Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do (CLBNBTD) mà ông Hải Điếu Cày cho đến bây giờ còn chưa nhận được Quyết định thi hành án và Bản án phúc thẩm. Nó diễn ra trong bối cảnh ngay sau khi Đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc về tự do tôn giáo Heiner Bielefeldt chấm dứt sớm cuộc tham sát và có những nhận xét mạnh mẽ, thẳn thắn về Việt Nam. Việc gửi 1 “giấy mời… đóng án phí” với gợi ý về việc trả tự do cho ông Hải rất có thể đến từ một nhu cầu cải thiện hình ảnh khẩn cấp của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.

Về phía gia đình, chúng tôi luôn khẳng định là ông Nguyễn Văn Hải vô tội vì những việc làm của ông là đúng với hiến pháp và pháp luật không cấm. Ngoài ra đã rất nhiều lần cán bộ An ninh điều tra chia sẻ rằng phải bắt ông Hải để ngoại giao với Trung Quốc. Sau rất nhiều đơn thư khiếu nại đến tất cả các cấp không được trả lời. Chúng tôi chỉ còn mong ước rằng công lý được thực thi, những gì các cơ quan hành pháp đã vi phạm phải được nhìn nhận và khắc phục, hoặc đơn giản hơn là dám trả lời những đơn thư khiếu nại của chúng tôi. Ngoài việc đó ra cơ quan chức năng còn có thể tùy tiện thả tự do cho ông Nguyễn Văn Hải không cần lý do (hoặc dàn dựng lên vài lý do), cũng giống như lúc đã bắt ông Hải, để thể hiện rõ bản chất của chế độ.

Xin nhắc lại câu nói của cha tôi trong những lần gặp trước đây, “bố có thể ở tù đến chết để cho tất cả mọi người được biết đến thực trạng của người tù chính trị ở Việt Nam”.

Vụ án Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do được đưa ra xét xử sơ thẩm ngày 24 tháng 9 năm 2012 và phúc thẩm ngày 28 tháng 12 năm 2012, xét xử 3 thành Viên là Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải. Ông Hải bị tuyên án 12 năm tù giam và 5 năm quản chế. Bị biệt giam không lý do trong các trại ông đi qua, chưa bao giờ được nhận bản án phúc thẩm và quyết định thi hành án, và bị ngăn chặn tuyệt đối các đơn thư khiếu nại và kháng cáo từ buồng giam. Đỉnh điểm là vụ tuyệt thực hơn 30 ngày của ông vào tháng 6 – 7 năm 2013 để được trả lời khiếu nại. Nhưng sau khi Viện kiểm sát nhân dân Nghệ An đến hứa hẹn, thì chưa một khiếu nại nào được giải quyết. Những người tù chính trị đã giúp đỡ ông trong thời gian tuyệt thực đó bao gồm ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã bị đánh đập và chuyển đi những trại khác cách xa hàng ngàn cây số”.

Liêu đây có phải là tín hiệu cho thấy nhà cầm quyền Hà Nội đang bị thúc ép, buộc phải thả blogger Điếu Cày ra để được kết thúc hồ sờ TPP, sau khi đã thả Đỗ Thị Minh Hạnh như áp lực của chính các cơ quan hành pháp Hoa Kỳ?

140807011PV. VRNs

Kinh tế Trung Quốc vào khúc quanh và có thể lật

Kinh tế Trung Quốc vào khúc quanh và có thể lật
August 06, 2014

Nguoi-viet.com

Hùng Tâm

Muốn hiểu rõ rủi ro của Trung Quốc trong giai đoạn tới, chúng ta cần biết 1) vài định lý kinh tế của mọi quốc gia hay thời đại, rồi 2) đối chiếu với thực tế chính trị của xứ này và rà soát lại 3) xem lãnh đạo Bắc Kinh có thể làm những gì để giải quyết các bài toán kinh tế xã hội tích lũy từ mấy chục năm nay. Kết luận hợp lý của tiến trình này là Bắc Kinh không có nhiều giải pháp, và có làm gì thì cũng đi vào một khúc quanh dễ lật. Trong giới hạn của một bài viết, “Hồ Sơ Người Việt” sẽ cố trình bày một cách đơn giản một thực tế vô cùng phức tạp – đề tài của một cuốn sách!

Bài toán phát triển

Bài toán kinh tế của nhân loại, ở mọi nơi vào mọi thời, là sự khan hiếm. Chúng ta có nhu cầu vượt quá khả năng sản xuất cho nên lúc nào cũng thấy thiếu thốn.

Từ thuở khai thiên lập địa, giải quyết sự thiếu thốn ấy là một tiến trình tự nhiên và được chúng ta mặc nhiên thực hiện hàng ngày hàng giờ mà không biết. Chỉ mới vài trăm năm trở lại, người ta mới tổng hợp những kiến thức về việc giải quyết sự khan hiếm và tìm ra một số nguyên tắc giải thích. Kiến thức đó được gọi là “kinh tế học,” hay đúng hơn, do một phát minh của nhà tư tưởng Adam Smith, “kinh tế chính trị học.”

Thí dụ cụ thể cho tiến trình trừu tượng này là tôi chỉ có 100 đồng, nhưng nếu lập gia đình rồi sinh con đẻ cái thì cần tiêu thụ nhiều hơn khoản lợi tức đó. Hoặc với lợi tức có hạn, tôi không muốn chỉ ăn cơm ăn cháo mà cần thêm thịt cá cho bữa cơm, và thay vì một tháng chỉ có 15 ký gạo tôi ước mơ có thêm ký thịt nên thấy rằng mình bị thiếu thốn.

Cách giải quyết sự thiếu thốn ấy là… không xài hết trăm bạc mà cố dành dụm ba chục của khoản lợi tức đó đem đầu tư để tháng sau hay năm tới thì có thêm lợi tức khả dĩ thỏa mãn nhu cầu. Tôi gọi khoản lợi tức ba chục bạc được tiết kiệm ấy là tư bản. Nếu sử dụng tư bản để giải quyết bài toán khan hiếm ấy mà thành công thì tôi có thể nghĩ đến chữ phát đạt.

Hoàn cảnh của một quốc gia cũng không khác. Tạo ra sự phát đạt ấy là tiến trình phát triển.

Giới nghiên cứu kinh tế có nghiệm thấy rằng nhiều quốc gia đã thành công trong phát triển để thành nước giàu mạnh, “đã phát triển” – developed. Nhưng đa số còn lại thì chưa, vẫn thuộc loại “đang phát triển,” developing. Bí quyết thành công không chỉ là có thể tiết kiệm được 30 đồng, hay 50 đồng, trong số lợi tức trăm bạc để làm tư bản đem đi đầu tư. Bí quyết thành công không chỉ là gia tăng lợi tức, nghĩa là tăng trưởng, mà là sử dụng lợi tức đó để phát triển.

Bí quyết thành công không là số lượng, 30 hay 50% của lợi tức nguyên thủy, mà là cách sử dụng. Ðây là bài toán thuộc về phẩm chất hơn là số lượng. Chữ “chất lượng” nhiều người trong nước đang dùng và ngoài này lười biếng dùng theo phản ảnh sự thiếu hiểu biết về kinh tế hay ngôn ngữ học vì không phân biệt phẩm với lượng!

Một giáo sư kinh tế của Ðại Học MIT, giải Nobel năm 1987, là Robert Solow đã nghiên cứu kinh tế Hoa Kỳ và tìm ra một đặc tính: là trong đà tăng trưởng lợi tức của dân Mỹ thì “sự sáng tạo” đóng góp tới hơn 80%. Phần còn lại, dưới 20%, là do số tư bản đem vào đầu tư.

Xin thêm vài chữ giải thích. Tư bản đưa vào tiến trình đầu tư có thể là hữu hình, như đất đai, máy móc, nguyên liệu hay sức lao động. Nhưng hoàn cảnh sử dụng nguồn tài nguyên đó mới quan trọng. Khái niệm innovation của Solow thuộc về phẩm hơn lượng và dẫn ta đến khái niệm khác, là “tư bản xã hội,” hoặc tư bản vô hình: hệ thống luật lệ, quyền sở hữu, chế độ thuế khóa, quy ước sinh hoạt, tinh thần tín nhiệm trong kinh doanh, nền tảng chính trị, v.v….

Các yếu tố vô hình ấy mới giúp quốc gia sử dụng tư bản hữu hình một cách tốt đẹp, có hiệu năng, hiệu suất, v.v…

Nôm na là nhờ môi trường sáng tạo, dân Mỹ sử dụng 10 đồng tư bản cho đầu tư mà có hiệu năng cao hơn nhiều người huy động đến 30 đồng. Trung Quốc huy động đến 50 đồng mà thiếu môi trường sáng tạo, có loại tư bản xã hội lạc hậu nên sau hơn 30 năm tăng trưởng vẫn là một xứ “đang phát triển.”

Nghiêm trọng hơn thế, còn trôi vào khúc quanh và có thể bị khủng hoảng.

Từ Tần Thủy Hoàng Ðế, Stalin đến Tập Cận Bình

Tần Thủy Hoàng Ðế đã thống nhất nước Tầu, thiết lập chế độ quận huyện, đặt ra quy ước sinh hoạt (một bước cải tiến hệ thống “tư bản xã hội”) và huy động sức dân xây dựng Vạn lý Trường thành nguy nga vĩ đại. Nếu thời đó mà có khoa kinh tế chính trị học, thì công trình xây dựng này được gọi là “đầu tư,” có giải quyết nạn thất nghiệp và tạo ra sự tăng trưởng. Nhưng không bền và sau đó nước Tầu có loạn!

Lãnh đạo Liên Bang Xô Viết thời Chiến Tranh Lạnh, Josef Stalin, cũng có nhả năng huy động tư bản rất mạnh, đưa tài nguyên vô cùng giàu có và lực lượng lao động dồi dào vào đầu tư, với sự chỉ đạo tưởng là hợp lý của hệ thống kinh tế kế hoạch. Y như Tần Thủy Hoàng Ðế, hay Mao Trạch Ðông, hệ thống huy động của nhà nước Xô Viết đã vơ vét tài nguyên quốc dân cho tăng trưởng, và bắn vệ tinh Sputnik lên trời, mà vẫn không có phát triển. Nước Nga vẫn nghèo, dân Nga vẫn khổ và Liên Xô tan rã.

Sau khi Ðặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, 35 năm về trước, nước Tầu đã ra khỏi tình trạng bần cùng và loạn lạc thời Mao và có đà tăng trưởng cao hơn trước. Chính thức là 10% một năm trong ba chục năm liền. Lãnh đạo xứ này, từ Ðặng Tiểu Bình đến Giang Trạch Dân rồi Hồ Cẩm Ðào, đã áp dụng một số quy luật của kinh tế thị trường nhưng vẫn nắm độc quyền huy động tư bản.

Lực lượng lao động, nguyên nhiên vật liệu và đủ loại tư bản hữu hình như đất đai, máy móc, hay hạ tầng cơ sở vật chất, đã được nhà nước tận dụng với số lượng kỷ lục – của lịch sử Trung Quốc – và tạo ra sự tăng trưởng về hình thức mà vẫn không có phát triển trong thực tế.

Như nhiều quốc gia khác, nước Tầu đã huy động tư bản cho phát triển với chiến lược gia tăng đầu tư về lượng mà thiếu phẩm, vì tư bản xã hội vẫn bị bó trong tư duy xã hội chủ nghĩa và thiếu các định chế cần thiết cho phát triển. Thiếu cái phần “sáng tạo” mà Solow đã thấy tại Hoa Kỳ.

Hậu quả vô hình về chính trị là tư bản xã hội bị bóp méo, lệch lạc và tạo ra đặc lợi cho những kẻ có đặc quyền, các “nhóm lợi ích. Tham nhũng chỉ là một cách gọi, chứ chế độ độc quyền trưng thu của nhà nước còn đè nén sức tiêu thụ của người dân và dẫn tới sự bất mãn lan rộng. Hậu quả hữu hình về kinh tế là nạn sản xuất thừa chỗ này mà thiếu ở chỗ khác, và hiện tượng bong bóng đầu cơ về gia cư, địa ốc. Quan trọng nhất và càng ngày càng tỏ lộ là những núi nợ khổng lồ.

Nhiều nước “đang phát triển” đã từng bị như vậy. Nhưng Trung Quốc lại khác vì số lượng quá lớn được phân phối quá sai nên gây ra vấn đề về phẩm. Ðấy là bài toán vừa kinh tế vừa xã hội và chắc chắn là chính trị của nhân vật đang lên là Chủ Tịch Tập Cận Bình.

Nan đề của Tập Cận Bình

Các chuyên gia kinh tế và nhiều tổ hợp đầu tư quốc tế đã chỉ ra bài toán của Tập Cận Bình ở mấy con số sau đây.

Kinh tế Trung Quốc vẫn lấy sức đẩy từ đầu tư và ức chế tiêu thụ của các hộ gia đình. Từ nhiều năm qua, tiêu thụ của tư nhân chẳng những không tăng mà còn giảm, tới năm ngoái thì chỉ có 34% của Tổng sản lượng, so với 52% của Nam Hàn, 57% của Ðức, 61% của Nhật và gần 70% của Hoa Kỳ là nơi mà “giới tiêu thụ là vua.”

Lượng đầu tư đến hơn 50% của Trung Quốc lại trút vào các dự án ít giá trị kinh tế, dẫn tới sản xuất thừa, dù có được bút ghi là tăng trưởng thì cũng chỉ là tồn kho ế ẩm, nhà không người ở, phi cảng vắng khách. Không những vậy, từ 2008, trong sáu năm qua, Trung Quốc còn tài trợ đà tăng trưởng đó bằng tín dụng, ào ạt chảy vào khu vực kinh tế nhà nước, các công ty đầu tư của đảng bộ ở địa phương.

Số tín dụng hay dư nợ từ 147% của Tổng Sản Lượng nay đã lên tới 251%. Một công ty đầu tư của Mỹ còn báo riêng cho các thân chủ là tổng số nợ của Trung Quốc, cả công lẫn tư, nay đã vượt 400% của Tổng sản lượng. Trong số này, những khoản nợ xấu được chính thức ước lượng là 1%. Thực tế thì có thể ở mức 25% hay thậm chí 40%. Tức là bằng hoặc còn hơn Tổng Sản Lượng.

Cả nước vay tiền gấp bốn lợi tức để một năm sản xuất ra tám ngàn tỷ đồng mà có thể mất nợ đến 10 ngàn tỷ – là ít. Kinh tế Trung Quốc có thể phá sản hay vỡ nợ vì khối nợ ung thối vĩ đại. Hậu quả sẽ là một vụ khủng hoảng lan ra toàn cầu, còn dữ dội hơn những gì xảy ra cho Hoa Kỳ và Âu Châu sau năm 2008.

Lên cầm quyền từ cuối năm kia, ban hành quyết định cải cách từ cuối năm ngoái (Nghị quyết Ba của hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương vào Tháng Mười Một năm 2013), Tập Cận Bình ý thức được mối nguy trước mặt. Cho nên phải chuyển hướng kinh tế qua khu vực dịch vụ và chế biến cao cấp, gia tăng sức tiêu thụ cho tư nhân, v.v…. và chấp nhận một đà tăng trưởng thấp hơn. Giải pháp khả thể là phải có đà tăng trưởng khoảng 4-5% một năm mà thôi.

Và muốn chủ động chuyển hướng như vậy, phải đánh bung những lực cản xuất phát ngay trong bộ máy đảng và hệ thống kinh tế nhà nước. Nhưng dù đã ráo riết tập trung quyền hành để bẻ tay lái hầu cỗ xe khỏi lao xuống vực – Tập Cận Bình vẫn bất lực.

Kinh tế Trung Quốc vẫn lao vào hướng cũ.

Tháng Tư vừa qua, Quốc Vụ Viện tức là Hội Ðồng Chính Phủ, do Lý Khắc Cường làm tổng lý, đã kín đáo thông báo một số quyết định kinh tế sau đây: 1) gia tăng công chi cho các dự án hỏa xa, chung cư rẻ tiền, và các vùng ngoại ô nhà tôn vách lá để bù vào sự giảm sút tiêu thụ của tư nhân; 2) cắt lãi suất trong một số khu vực nhất định để mở vòi tín dụng; 3) tung tiền chuộc nợ để tránh nạn doanh nghiệp bị phá sản; và 4) giảm thuế cho các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa để nâng cao khả năng sản xuất của tư doanh trước sức nặng và trì trệ của hệ thống quốc doanh.

Nói cho dễ hiểu, lãnh đạo Trung Quốc không dám đạp thắng cho cỗ xe chạy chậm hơn hầu bẻ lái qua hướng khác. Ngược lại, họ vẫn châm thêm tín dụng và bảo đảm là kinh tế Trung Quốc vẫn đạt chỉ tiêu tăng trưởng năm nay là 7.5%. Mà bơm thêm tín dụng có nghĩa là chất thêm một núi nợ xấu. Biện pháp kích thích ngấm ngầm và nhẹ nhàng ấy tô điểm cho cái bề mặt là kinh tế vẫn tăng trưởng mà thực tế là đẩy cho cỗ xe chạy nhanh hơn.

Trong khi ấy, Tập Cận Bình ráo riết mở rộng chiến dịch diệt trừ tham nhũng và nắn gân cả thành phần đảng viên đã từng lên tới cấp lãnh đạo. Ông ta có thể đánh vào các trung tâm quyền lực đã gây ra nhiều vấn đề kinh tế nên đang phải cùng lúc giải quyết hai bài toán kinh tế và chính trị. Hai bài toán là hai mặt của một đồng bạc xã hội chủ nghĩa và phải cần cả chục năm sửa đổi thì mới có kết quả. Trong khi đó, khủng hoảng có thể xảy ra trong một vài năm.
Tập Cận Bình có đủ mọi quyền hành, nhưng không có thời giờ.

Kết luận ở đây là gì?

Trung Quốc đang ở vào một khúc quanh cực nguy hiểm, mấy chục năm mới thấy một lần. Lần trước, cách nay 40 năm là vào cao điểm của cuộc Cách Mạng Văn Hóa điên rồ. Nhờ Ðặng Tiểu Bình giỏi xoay trở nên sau năm năm thì đổi loạn thành trị và mua được 30 năm tăng trưởng.

Kinh tế Trung Quốc có những phương tiện lớn lao được đưa vào sản xuất nên gây ấn tượng phát triển mà chỉ có tăng trưởng ở bề mặt. Lý do là thượng tầng chính trị ở trên vẫn có một đảng độc quyền thâu tóm quyền lực. Quyền lực có thể đem lại tiền tài cho một thiểu số, nhưng là những cái vòi của con bạch tuộc đã giam hãm kinh tế và đang dẫn xứ này đến bờ vực. Muốn giải quyết bài toán kinh tế thì phải cải cách về chính trị.

Ðảng Cộng Sản Trung Quốc dùng thành quả kinh tế biện minh cho quyền lãnh đạo độc tôn. Khi thành quả ấy chỉ là chuyện ảo và khủng hoảng bùng nổ thì đảng có thể đổ.

 

Vừa ly dị, hai vợ chồng cùng chết vì tai nạn giao thông

Vừa ly dị, hai vợ chồng cùng chết vì tai nạn giao thông
August 07, 2014

Nguoi-viet.com

HẬU GIANG (NV)Tai nạn giao thông thảm khốc xảy ra tại quốc lộ 1 A, làm đôi vợ chồng thiệt mạng, có thể vì bi kịch gia đình.

Báo mạng Zing cho biết, tai nạn xảy ra vào chiều ngày 6 tháng 8, năm 2014, trên đoạn đường đoạn băng ngang thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Giấy tờ để lại cho biết, đôi vợ chồng này là ông Mai Thanh Hải, 36 tuổi và bà Võ Thị Chính, 35 tuổi, ngụ tại huyện Châu Thành A. Nhân viên điều tra tìm thấy trong túi xách của hai người bạc mệnh có một lá đơn ly dị còn chưa ráo mực, vừa được hai người cùng ký tên.



Nơi xảy ra tai nạn làm chết cả hai vợ chồng. (Hình: Zing)

Báo mạng Zing News dẫn lời một số nhân chứng cho biết, đôi vợ chồng trên cùng ngồi tại một quán nước trước khi tai nạn xảy ra. Cả hai cãi nhau kịch liệt, có vẻ như vừa cùng ký tên vào tờ giấy ly dị, chuẩn bị đưa nhau ra tòa, vì mâu thuẫn trong cuộc sống khiến họ không thể nào tiếp tục chung sống với nhau.

Hai người cùng lên chiếc xe gắn máy do ông Mai Thanh Hải cầm lái, rời khỏi quán nước. Bà Chính ngồi yên sau không đội nón an toàn. Chiếc xe rời quán nước chưa đầy một cây số, vừa băng lên cầu Ðất Sét thì tông phải một chiếc xe hơi chạy cùng chiều phía trước mặt. Ông Hải và bà Chính cùng té xuống đường, bị xe vận tải từ đàng sau chạy trờ tới cán chết tại chỗ.

Dư luận cho rằng, có thể vì đang trong trạng thái giận dữ, bất an, ông Hải rồ ga phóng xe như bay trên đường, theo hướng từ Hậu Giang đến thành phố Cần Thơ, bất chấp nguy hiểm. Cuối cùng thì tai nạn hiểm nghèo xảy ra tước đoạt sinh mệnh của cả hai người.

Hai vợ chồng ông Hải và bà Chính chết đi để lại hai đứa con, một 15 tuổi và một mới lên 5. (PL)

 

Dịch Ebola : Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố tình trạng ‘‘khẩn cấp’’

Dịch Ebola : Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố tình trạng ‘‘khẩn cấp’’

RFI

Tổng giám đốc WHO, bà Margaret Chan và Phó TGĐ Keiji Fukuda trong cuộc họp báo về dịch Ebola tại Genève, 08/08/2014.

Tổng giám đốc WHO, bà Margaret Chan và Phó TGĐ Keiji Fukuda trong cuộc họp báo về dịch Ebola tại Genève, 08/08/2014.

REUTERS/Pierre Albouy

Trọng Thành

Hôm nay 08/08/2014, sau hai ngày làm việc tại Genève, Ủy ban khẩn cấp của Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố công nhận dịch bệnh Ebola, đang hoành hành tại miền tây Châu Phi, là « vấn đề y tế khẩn cấp toàn cầu ».

Phát biểu trước báo giới, bác sĩ Margaret Chan, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cho biết Ủy ban khẩn cấp « thống nhất nhận định các điều kiện của một vấn đề y tế toàn cầu hiện đã hội đủ », và để đối mặt với tình hình đang trở nên nghiêm trọng hiện nay, cần một « phản ứng quốc tế có phối hợp » để « ngăn chặn và đẩy lùi dịch bệnh Ebola trên thế giới ».

Dịch Ebola, còn gọi là dịch sốt xuất huyết Ebola, khiến gần 1.000 người thiệt mạng kể từ đầu năm nay, trên tổng số 1.700 trường hợp mắc bệnh. Theo Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, đây là dịch bệnh « nghiêm trọng nhất » trong vòng bốn thập niên. Đây là lần thứ ba WHO huy động một can thiệp khẩn cấp ở mức độ này. Lần đầu tiên là vào năm 2009 để đối phó với dịch cúm gia cầm Châu Á, và lần thứ hai là vào tháng 5/2014, để ngăn chặn dịch sốt bại liệt tại Cận Đông.

Ủy ban khẩn cấp của Tổ chức Y tế Thế giới không giới hạn giao thông hay thương mại quốc tế, nhưng kêu gọi nguyên thủ các nước bị dịch bệnh hoành hành « tuyên bố tình trạng khẩn cấp » « thông báo trực tiếp với toàn thể dân cư » về tình trạng dịch bệnh. Theo Phó tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới phụ trách dịch bệnh, bác sĩ Keiji Fukuda, thời gian cách ly 31 ngày là cần thiết đối với tất cả những ai nhiễm virus.

WHO cũng không yêu cầu cô lập bốn nước đang bị dịch (Guinea, Liberia, Sierra Leone và Nigeria), để không làm trầm trọng thêm tình trạng kinh tế của các nước này, nhưng yêu cầu kiểm soát chặt các cửa khẩu. Những ai có tiếp xúc với người bệnh, ngoài nhân viên y tế mang đồ bảo hộ, sẽ không được phép đi xa. Những người phục vụ trên các chuyến bay thương mại đến các quốc gia bị dịch bệnh phải trải qua một khóa đào tạo và nhận các thiết bị y tế để tự bảo vệ và bảo vệ hành khách của mình.

Hôm qua, Châu Âu nhận về một người đầu tiên nhiễm Ebola, một nhà truyền giáo người Tây Ban Nha làm việc tại Liberia, ít giờ sau khi hai bệnh nhân trở về Hoa Kỳ. Mỹ tuyên bố nâng báo động y tế lên mức tối đa trước nguy cơ Ebola.

Nhiều chuyên gia khuyến nghị WHO nhanh chóng cho phép điều trị thực nghiệm

Hiện tại, y tế thế giới hoàn toàn không có biện pháp điều trị nào đối với căn bệnh Ebola gây chết người hàng loạt. Trước nguy cơ đại dịch Ebola, nhiều tiếng nói trong giới chuyên gia đòi hỏi phải cho phép điều trị thực nghiệm với ZMapp (của hãng bào chế Hoa Kỳ Mapp Biopharmaceutical) trên các bệnh nhân nhiễm virus Ebola. Đề nghị này được giáo sư người Bỉ Peter Piot, đồng phát hiện virus này vào năm 1976, khuyến nghị với Tổ chức Y tế Thế giới. Hôm thứ Tư, WHO tuyên bố sẽ tham khảo một nhóm chuyên gia về khả năng sử dụng điều trị thực nghiệm và những rào cản đạo lý y học.

Giáo sư Peter Piot cảnh báo « dịch bệnh sẽ kéo dài trong nhiều tháng… cần tiếp thu bài học từ quá khứ… Một khi bệnh dịch qua đi, sẽ không còn các nỗ lực đầu tư cho việc nghiên cứu về các điều trị và vắc xin ». Giáo sư Peter Piot, vốn đứng đầu cơ quan Sida của Liên Hiệp Quốc, nhắc lại kinh nghiệm năm 1976, khi Tổ chức Y tế Thế giới khẳng định muốn xây dựng một nhóm can thiệp quốc tế để ngăn chặn dịch bệnh này, nhưng rút cuộc dự định đã không được thực hiện. Vẫn theo bác sĩ Peter Piot, không thể trông đợi kiếm lời từ thuốc trị Ebola, « các dược phẩm phải được miễn phí, vì trong những lần tới dịch bệnh Ebola vẫn sẽ chỉ xảy ra tại các nước nghèo ».

Hôm qua, Cơ quan kiểm dược Hoa Kỳ đã dỡ bỏ một phần các hạn chế đối với điều trị thực nghiệm của hãng Canada Tekmira, mang tên TKM-Ebola. Trị liệu với TKM-Ebola là mục tiêu của một hợp đồng 140 triệu đô la, mà hãng ký kết với Bộ Quốc phòng Mỹ.

 

Tư Bản Đỏ VN Đầu Tư Vào Mỹ Để Định Cư; Trong Năm 2013 Có 60 Đại Gia Đầu Tư Diện EB-5

Bản Đỏ VN Đầu Tư Vào Mỹ Để Định Cư; Trong Năm 2013 Có 60 Đại Gia Đầu Tư Diện EB-5

Vietbao.com

SAIGON (VB) — Nhiều đại gia tư bản đỏ đã và đang lên kế hoạch đầu tư vào Mỹ và sẽ đưa toàn gia sang định cư ở Mỹ.

Bản tin Báo Dân Việt ghi theo VnExpress có tựa đề “Nhiều đại gia Việt quan tâm đầu tư định cư Mỹ,” nói rằng đã có “khoảng 60 hồ sơ của Việt Nam được duyệt định cư thông qua đầu tư dự án tại Mỹ năm ngoái, trong khi 6 năm trước gần như không trường hợp nào thành công – ông Trần Văn Tỉnh, Chủ tịch HĐQT IMM Group cho biết.”

Bản tin nói, Luật EB-5 quy định về việc định cư tại Mỹ thông qua các chương trình đầu tư dự án. Đây cũng là cách nước Mỹ thu hút đầu tư nước ngoài. Gần 10 năm trước, chương trình này hầu như không được quan tâm bởi quy định khắt khe của cơ quan Di trú. Nhưng hiện nay, số người có nhu cầu tìm hiểu và muốn định cư ở Mỹ có xu hướng gia tăng.

Nhưng, cần bao nhiêu tiền bơm vaò Mỹ đầu tư mới có thể vào định cư ở Mỹ?

Ông Trần Văn Tỉnh, Chủ tịch HĐQT IMM Group, giải thích về chương trình EB-5:

“Thị trường Mỹ không yêu cầu kinh nghiệm quản lý, không yêu cầu có doanh nghiệp, không giới hạn độ tuổi hay ngoại ngữ…, nhưng phải có khoản tiền 500.000 USD để rót vào một dự án ở Mỹ (vào những vùng đã được chỉ định đầu tư) và chứng minh nó tạo ra 10 việc làm cho người bản xứ.

Chính phủ Mỹ đưa ra hạn mức 10.000 visa một năm dành riêng cho EB-5 nhưng từ trước tới nay chưa có năm nào đạt được. Tuy nhiên, lượng hồ sơ xin thẻ xanh có điều kiện được chấp thuận tăng dần qua các năm (2010: 1.369 hồ sơ, 2012: 1.563; 2013 là 3.677, theo Bộ Di trú Mỹ). Mong muốn chứng kiến con cái lớn lên tại nơi có nền giáo dục và môi trường phát triển, sớm đoàn tụ với người hoặc tận dụng những lợi thế kinh doanh khi có thẻ xanh trong tay là lý do chính mà nhiều người, trong đó có người Việt tìm cách định cư ở nước ngoài.”

Nhưng, mức độ khó của hô sơ EB-5 ra sao?

Ông Tỉnh giải thích:

“Theo thông tin tôi nắm, năm 2013, Việt Nam mới có khoảng 60 hồ sơ đạt yêu cầu nhận thẻ xanh có điều kiện.

Cái khó nhất của nhà đầu tư Việt Nam hiện nay là chứng minh tính minh bạch của số tiền 500.000 USD sẽ dùng để đầu tư vào dự án ở Mỹ. Nhiều trường hợp bỏ hẳn ý định vì không cách nào thu thập đủ thông tin để trình bày cho Chính phủ Mỹ hiểu rõ ngọn nguồn khoản tiền này. Có khách hàng là đại gia ở TP HCM thừa sức chi gấp hàng chục lần số tiền này nhưng ông không cho thấy trên giấy tờ 500.000 USD đó là do nguồn thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà ông làm chủ mang lại. Hay một chị thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi ngày từ cửa hàng điện tử ở quận 5 song không có gì xác minh đây là sự thật. Hóa đơn từ cơ quan thuế cũng vô hiệu bởi không được phía Mỹ chấp thuận. Trường hợp này đòi hỏi sự vào cuộc của phía luật sư, công ty kiểm toán… nên chỉ riêng khâu hoàn tất hồ sơ ban đầu chuyển cho công ty tư vấn đã mất vài tháng.”

Tình hình này cho thấy, các đại gia ở VN có rất nhiều, nhưng sẽ rất ít người chứng minh rằng đông tiền của họ có nguồn gốc “sạch.”

 

Người Mỹ gốc Việt đầu tiên thăng chức Chuẩn Tướng

Người Mỹ gốc Việt đầu tiên thăng chức Chuẩn Tướng

RFA 07.08.2014

Vietonthehorse-600-123.jpg

Chuẩn Tướng Lương Xuân Việt

Photo courtesy of luongxuanviet.blogspot

Sáng ngày 6 tháng 8 năm 2014, lần đầu tiên trong quân sử Hoa Kỳ, một người Việt tị nạn được vinh thăng Chuẩn tướng.

Ông là Đại tá Lương Xuân Việt, Phó tư lệnh đặc trách hành quân của Sư đoàn I Thiết kỵ. Chức vụ vừa được gắn lên chiếc nón Thiết kỵ đã đưa ông vào danh sách người Việt Nam đầu tiên vinh dự có tên trong hàng tướng lãnh Hoa Kỳ vốn là nơi xét duyệt một cách nghiêm ngặt chức vụ này trong quân đội của họ.

Vinh quang của Chuẩn tướng Lương Xuân Việt cũng là niềm tự hào của người Việt tại Hoa Kỳ. Hàng trăm đồng hương đã lặn lội đến tận Cooper Field, tiểu bang Texas nơi tổ chức gắn lon cho ông để chia sẻ những gì mà một đứa con trong gia đình có đến bảy chị em gái, theo cha mẹ sang Mỹ lúc ông mới 10 tuổi. Cha ông là Thiếu tá Thủy quân lục chiến Quân lực VNCH và do đó ông đã thấm sâu ba chữ Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm.

Trong bài phát biểu bằng tiếng Việt, Chuẩn tướng Lương Xuân Việt nhắc lại truyền thống này một cách tự hào và cũng không quên cám ơn đồng ngũ với cha của ông, người từng mang trên người trọng trách bảo vệ quốc gia như ông đang làm trong vai trò một tướng lãnh:

“Nhìn những bộ quân phục lòng tôi thật bùi ngùi xót xa. Những người đã làm con tim tôi rung động vì ba chữ Danh dự, Trách nhiệm, Tổ quốc và những ý nghĩa của các câu dặn dò do cha ông để lại như. “Nam quốc sơn hà nam đế cư”… Chính là thân phụ tôi, đồng đội của các anh, vì vậy ngọn lửa trong tim tôi lúc nào cũng hướng về đất mẹ dù đã 30 năm xa cách. Không có sự hy sinh xương máu của các anh thì chúng tôi chắc chắn không có ngày hôm nay. Tổ quốc mãi mãi ghi ơn, vì vậy tôi xin các anh nhận cái chào của tôi!”

Chuẩn tướng Lương Xuân Việt gia nhập quân đội Hoa kỳ chức vụ đầu tiên ông nhận được vào năm 1987 là Thiếu úy bộ binh. Từ đó ông lần lượt được thăng tới cấp Đại tá và giữ chức Lữ đoàn trưởng cho chiến trường Afghanistan  năm 2012.

httpv://www.youtube.com/watch?v=Odzo6V45Ti0