Hải quân Ý cứu vớt 3500 thuyền nhân trong hai ngày

Hải quân Ý cứu vớt 3500 thuyền nhân trong hai ngày

RFI

Tính từ đầu năm, hơn 100.000 di dân đã cập bến nước Ý - AFP / MARINA MILITARE

Tính từ đầu năm, hơn 100.000 di dân đã cập bến nước Ý – AFP / MARINA MILITARE

Tú Anh

Hải quân Ý đã cứu vớt được 3500 thuyền nhân vượt biển từ thứ Sáu đến hôm nay. Hàng ngàn người lợi dụng thời tiết tốt và bạo loạn tại Lybia để vượt biển trong hai ngày cuối tuần. Từ đầu năm, hơn 100.000 di dân đã tới được nước Ý sau hàng loạt vụ đắm tàu cuối năm 2013 với hàng ngàn người chết và mất tích.

73 người sống sót đói khát bên cạnh 18 tử thi : đó là số phận của một con thuyền từ Lybia vượt biển sang Ý bị hư máy mà chiếc tàu tuần tra Sirio phát hiện và cứu trợ. Trước đó vài giờ, Sirio vớt được 99 di dân đi tìm đất hứa tại châu Âu. Người sống sót cho biết thêm có 8 di dân bị mất tích trên biển.

Cũng trong ngày hôm nay 24/08/2014, chiến thuyền Fenice cứu được 215 thuyền nhân trong số này có 38 trẻ em. Hải thuyền San Giusto vớt 900, Forillo 500, Fasan 1.373, tổng cộng 3.500 thuyền nhân đàn ông, đàn bà, trẻ con phần đông là người Liban và Syria trong điều kiện kiệt lực vì đói khát.

Sau hàng loạt vụ đắm tàu và hàng ngàn tử thi trôi dạt vào bờ biển đảo Lambadusa gây chấn động công luận hồi mùa thu năm ngoái, chính phủ Ý tiến hành một chiến dịch đặt tên là Mare Nostrum (tên La Tinh của Địa Trung Hải) để cứu người từ Phi Châu vượt biển.

Hôm thứ sáu, một chiếc tàu bằng gỗ chở 170 thuyền nhân vượt biên đã mất tích trong lãnh hải Libya. Bộ trưởng Nội vụ Ý Angelino Alfano, một lần nữa, kêu gọi Châu Âu hành động nahnh chóng và dứt khoát hỗ trợ nước Ý trong nỗ lực nhân đạo này.

Theo Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, hơn 100.000 người đã đến được Ý trong 7 tháng đầu năm nay. Một phần đi sang các quốc gia châu Âu khác.

 

Trí thức thời đốn mạt

Trí thức thời đốn mạt
August 17, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Từ ngàn xưa kẻ sĩ trong xã hội vẫn được xem trọng. Theo Nguyễn Công Trứ, thì “Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt – Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên – Có giang sơn thì sĩ đã có tên…,” nói rằng trong năm tước quan (công, hầu, bá, tử, nam), kẻ sĩ đều có mặt và trong bốn giai cấp xã hội (sĩ, nông, công, thương), kẻ sĩ đứng đầu. Kẻ sĩ luôn được đánh giá cao, có văn hóa và có nhân cách, thường đạt tới một thành tựu về nhiều mặt – kiến thức, địa vị, tiền tài, quyền lực, thuộc đẳng cấp cao trong xã hội.

Người ta cũng dùng danh từ “sĩ phu” để gọi những người thuộc tầng lớp trí thức, như “sĩ phu Bắc Hà” để nói về những người được coi là có tri thức sống tại đàng ngoài (từ sông Gianh, Quảng Bình trở ra Bắc) trong thế kỷ 18-19.

Trong xã hội Việt Nam ngày xưa khi ngành giáo dục chưa được phát triển, trong làng xã, một người đậu được bằng Sơ Học Yếu Lược (tốt nghiệp lớp ba) đã tổ chức ăn khao lớn. Cao hơn nữa là bằng Tiểu Học (tốt nghiệp lớp năm – Primaire) lên đến bằng Thành Chung (tốt nghiệp Ðệ Tứ Trung Học – Diplome) đã được bổ nhiệm làm ông Thông ông Phán “sáng rượu sâm banh, tối sữa bò.” Chữ nghĩa (có học) vẫn được coi trọng hơn người giàu có. Các dân tộc thiểu số nghèo đói, vất vả cũng lo miếng ăn nuôi con đi “kiếm con chữ,” làng không có cầu đi, phải mạo hiểm lội suối qua bờ “kiếm con chữ!”

Danh từ “nhân sĩ” cũng thường dùng để nói đến những người có học (và đạo đức) trong xã hội, chỉ duy sách vở cộng sản lại định nghĩa là những người “trí thức tham gia cách mạng, mà không phải là đảng viên cộng sản!”

Trong chế độ nào kẻ sĩ cũng được coi là khuôn mặt sáng giá tiêu biểu cho trình độ văn hóa và đạo đức. Ðến lúc kẻ sĩ đánh mất đạo đức, chối bỏ danh dự và vai trò cao cả của mình, thì xã hội đó tất phải băng hoại, tha hóa.

Buồn cười cho kẻ sĩ Việt Nam, trong khi Bộ Ngoại Giao Việt Nam “hoan nghênh Nghị Quyết 412 của Thượng Viện Hoa Kỳ, kẻ thù cũ, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương-981, nhưng bản thân mình, 500 đại biểu quốc hội “đảng cử dân bầu,” trong đó có toàn bộ Bộ Chính Trị thì ngậm hột thị, và tuyên bố “đang tìm thời điểm thích hợp để kiện Trung Quốc ra Tòa Án Quốc Tế!”

Một kẻ vô học, thất phu làm điều càn rỡ, vô đạo còn có thể chấp nhận, tha thứ, nhưng những người có học mà hành động như đứa thất phu hẳn không thể tha thứ. Một chế độ đầy dẫy những kẻ trí thức hành động như đám hạ cấp, côn đồ, hẳn là một chế độ bất nhân.

Ở Hà Nội người ta kể chuyện những sinh viên đủ các ngành, ham ăn chơi đua đòi chấp nhận bán thân: “Nó là sinh viên kinh tế, nó làm kinh tế từ hồi sinh viên, nghĩa là mại dâm!”

Trong xã hội có ngành nghề nào được tôn trọng như nghề làm thầy, được nhân gian coi trọng còn hơn cha (quân-sư-phụ). Thầy được coi như kẻ sĩ, là người có học, có đạo đức có nhiệm vụ cao quý là đào tạo con em, nhưng xã hội suy đồi sản sinh ra loại thầy như Sầm Ðức Xương, hiệu trưởng trường phổ thông Việt Lâm, Hà Giang, không những dùng thế lực “con chữ” tống tình nữ sinh nhiều lần, còn mang thân làm “ma cô” đưa mối dẫn đường cung cấp nữ sinh lên cho cấp chỉ huy cao hơn của mình như Nguyễn Trường Tô, chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang, và bạn bè, kể cả những tay có máu mặt trong tỉnh như các giới chức ngành ngân hàng. Tởm lợm hơn là ông thầy hiệu trưởng này lại dùng văn phòng của nhà trường để làm nơi hành lạc. Kẻ sĩ thời nay như “ba tòa quan lớn” Hà Giang lại kết án các nữ sinh là người dẫn mối, Sầm Ðức Xương chỉ bị tù treo và ông đảng lớn như Nguyễn Trường Tô thì vô can.

Kẻ sĩ như thầy giáo Ðặng Văn Hoàng, trường THPT Thới Long, quận Ô Môn, Cần Thơ, gạ gẫm nữ sinh đổi tình lấy điểm, đưa nữ sinh vào nhà vệ sinh của giáo viên rồi sờ soạng và thực hiện hành vi cưỡng dâm. Cô giáo thể dục như Khổng Như Mai, trường Marie Curie, có thói quen phạt nam sinh bằng cách bóp…chim.
Ðại diện cho mặt mũi Việt Nam ở ngoại quốc như Bí Thư Thứ Nhất Tòa Ðại Sứ Nam Phi Vũ Mộc Anh thì buôn lậu ngà voi.

Tương lai của kẻ sĩ đất nước là một sinh viên Ðại Học Ngoại Thương, xuất thân từ một gia đình tử tế như Nguyễn Ðức Nghĩa tàn bạo giết bạn gái cũ, chặt đầu và 10 ngón tay của nạn nhân cho vào túi nilon vứt xuống sông, phần còn lại bỏ vào thùng rác chung cư.

Trong xã hội có nghề nào được coi là danh giá, tôn trọng như nghề bác sĩ, nhưng ông bác sĩ XHCN như Nguyễn Mạnh Tường (không biết bác sĩ tốt nghiệp trong xã hội này có đọc lời thề Hippocrates trước khi ra trường hay không) đã lỡ tay làm chết bệnh nhân của mình rồi mang xác vứt xuống sông Hồng để phi tang.

Báo Mặt Trận Tổ Quốc khoe “đội ngũ trí thức Việt Nam” “hiện nay khá hùng hậu, với khoảng 1.5 triệu người, bao gồm những người tốt nghiệp cao đẳng, đại học, hàng ngàn giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, hàng chục ngàn thạc sĩ, hoạt động trên tất cả các ngành nghề, trong đó đông đảo nhất là khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo, văn hóa. Hiện nay, 70% – 80% công chức trong bộ máy các cơ quan trung ương đã có trình độ đại học, tỉ lệ này ở tuyến quận, huyện là 50%.”

Nhưng liệu với đội ngũ trí thức chuyên xài bằng giả, bằng mua từ trung ương đến cấp huyện, xã, và với kiểu “đạo đức” xã hội chủ nghĩa, vô đạo, sa đọa như các thầy cô giáo, bác sĩ, trí thức hiện nay, tương lai đất nước sẽ đi về đâu và lấy gì cho con cháu noi gương? Không thể lấy một vài cá nhân để nói đến một tập thể nhưng thế gian cũng đã có thành ngữ “trông cây thấy rừng!”

Nói như Tiến Sĩ Trịnh Hòa Bình, “Cái ác vẫn tồn tại trong lòng xã hội. Nếu cả xã hội không đồng tâm, kết lại đứng bên nhau thì cái ác có thể nảy sinh ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ vị trí nào, không kể người thất học hay tri thức!”

Vậy thì trong xã hội này, còn gì để phân biệt kẻ trí thức với đứa thất phu.

QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI CỦA MỘT VỊ THÁNH

QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI CỦA MỘT VỊ THÁNH

(LỄ THÁNH AUGUSTINÔ)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Mỗi khi mừng kính một vị thánh nào đó, thường chúng ta hay kể về những nhân đức trổi vượt, những chuyện phi thường, công danh hiển hách… nơi các ngài. Tuy nhiên, phụng vụ hôm nay mừng kính một vị thánh có thể nói là “rất khác” với các đấng thánh khác. Ngài là một con người lêu lổng, phóng túng, ăn chơi trác táng, ngang tàng, khó dạy… Đỉnh điểm là việc công khai chống đức tin và Giáo Hội khi theo chủ thuyết Manichê (Nhị Nguyên). Điều đáng nói là con người bất hảo đó đã được ơn trở lại với Chúa và sau này làm thánh lớn trong Giáo Hội. Từng là linh mục, giám mục, và sau được Giáo Hội phong làm giáo phụ rồi tiến sĩ. Sự trở lại của ngài lại không phải là những bài giảng hút hồn của một ai đó, hay là từ sách vở với những triết lý thuyết phục, nhưng lại ngang qua sự tận tụy, hy sinh trong cầu nguyện và nước mắt của một người mẹ nghèo, đơn sơ, giản dị và “rất quê”.

Thánh đó chính là Augustinô, và người cảm hóa chính là thánh Mônica mẹ ngài, mà chúng ta mừng kính hôm qua.

1. Augustinô và những “điển tích” trong tội

Đọc trong cuốn tự thuật của thánh nhân, chúng ta nhận thấy ngài là một con người tội lỗi ngập đầu. Những tội mà Augustinô phạm phải có thể nói rằng nó thuộc nhóm tội “hạng nặng” và rất khó phục hồi.

Thật vậy, ngay từ khi còn nhỏ, Augustinô đã tỏ ra là một người sáng trí, thông minh và đầy triển vọng. Tuy nhiên Augustinô không phải là một con người thuần túy, vì thế, Augustinô cũng còn nổi tiếng “chơi trội” trong vấn đề ham chơi hơn là thích học, hay lừa dối cha mẹ, thầy cô và thường gây hấn, đánh đập bạn bè. Lúc thiếu thời, Augustinô đã có những hành động gian lận trong việc trộm cắp đồ đạc của gia đình để bán đi lấy tiền tiêu xài, phung phí vào những chuyện không tốt.

Khi lớn lên, đến tuổi vị thành niên, Augustinô vẫn tính nào tật đó. Vì thế, càng thêm tuổi, Augustinô lại càng ngang ngược cách quyết liệt hơn.

Thương con và muốn con thành đạt, trở nên người lương thiện và giúp ích cho đời.  Vì thế, cha mẹ Augustinô sẵn lòng cho ngài theo đuổi việc học tới cùng. Augustinô được gửi tới kinh thành Carthage để theo học môn hùng biện. Hy vọng với một môi trường mới, bạn bè mới, thầy cô mới sẽ làm cho Augustinô đổi thay.

Tuy nhiên, đôi lúc sự thật vẫn không diễn ra theo ý của mình. Ngựa quen đường cũ! Không những không trở nên tốt hơn, nhưng Augustinô còn lún sâu và trượt dài trên con đường trác táng bởi nếp sống trụy lạc, sa đoạ nơi đây. Thay vì trở về với Chúa và con đường lương thiện, thì tại đây, Augustinô đã hoàn toàn đánh mất đức tin vào Chúa, không tin Giáo Hội và phỉ báng, bác bỏ các chân lý đức tin của Đạo Thánh.

Điều này được thể hiện rõ nhất khi Augustinô công khi tin và theo chủ thuyết Manichê (Nhị Nguyên). Đây là chủ thuyết lạc giáo chống lại Giáo Hội thời bấy giờ. Không những thế, Augustinô còn hiên ngang xa đà vào con đường dục vọng khi ăn ở và chung chạ với hai người con gái ngoài hôn thú.

Sự ngông cuồng, ngang ngược của Augustinô chứng minh cho thấy, bản chất của ngài là thích tự do, không bị ràng buộc. Thế nên, chúng ta không lạ gì khi ngài quyết định đi sang Milanô nước Ý để tránh sự theo dõi và chăm sóc của người mẹ. Tại đây, ngài tiếp tục đi theo con đường tội lỗi để chạy theo danh vọng, phù hoa và khoái lạc.

Trên đây chính là sự thật về cuộc đời của thánh Augustinô mà chính ngài đã kể lại trong cuốn “Tự Thuật”. Có lẽ nhiều người nghe thấy cuộc đời của một vị thánh lừng danh mà lại có những năm tháng đen tối kinh hoàng trong tội, hẳn đã không chấp nhận và tin nổi tại sao lại có thể trở thành đấng “rất thánh” trong khi còn trẻ thì lại “rất đời”!

Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như không thể, thì Thiên Chúa lại hoàn toàn có thể: “Vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.

2. Augustinô và cuộc đổi đời

Khi nói đến cuộc đổi đời của thánh Augustinô, chúng ta không thể không nhắc đến mẫu gương cầu nguyện và hy sinh của người mẹ là thánh Mônica.

Mẹ ngài là một người đức hạnh, luôn yêu thương, hy sinh và chấp nhận tất cả cho chồng và con để xây dựng hạnh phúc gia đình. Không chỉ dừng lại ở đấy, bà còn thao thức và trăn trở tột cùng khi thấy con mình đang xa dần sự sống đời đời là ơn cứu độ.

Vì không muốn con mình bị trầm luân trong tội và mất hạnh phúc Thiên Đàng, nên bà đã cầu nguyện trong chay tịnh và nước mắt, đồng thời theo con đến tất cả mọi ngóc nghách hầu mong sao cho con mình được ơn trở lại.

Quả thật, Thiên Chúa đã ân thưởng và ban tặng cho bà ân huệ lớn lao: Augustinô được ơn trở lại với Chúa và Giáo Hội. Vào thứ bảy Tuần Thánh năm 387, Augustinô được lãnh Bí tích Thánh Tẩy cùng với con trai là Adéodat và bạn của Ngài là Alipius.

Từ khi trở thành người Công Giáo, Augustinô đã hoàn toàn đổi mới về tư duy, lối sống và chọn lựa:

Nếu trước kia, Augustinô là một con người không có gì để khen, thì nay, nhờ sự trở lại, ngài đã được nhiều thế hệ ca ngợi.

Nếu trước kia Augustinô là người lớn lên trong tội, sống trong tội, vương vấn tội lụy trần ai, thì giờ đây ngài là một con người tốt lành thánh thiện. Ngài yêu mến Thiên Chúa đến say mê, đến nỗi khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng!”; và “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khỏai cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa. Song song với việc yêu mến Chúa, ngài còn yêu con người đến mức anh hùng. Vì thế, ngay sau khi mẹ ngài qua đời, ngài trở về Carthage và bán hết tài sản để cho người nghèo.

Nếu trước kia Augustinô là người phản đạo Công Giáo, đi theo tà thuyết, thì giờ đây, ngài trở thành người bảo vệ đức tin Công Giáo trong vai trò là tu sĩ, linh mục, giám mục. Nhất là qua những tác phẩm thế giá về triết học, thần học, chú giải Thánh Kinh…

Đây phải nói là những nguồn tài liệu phong phú và giá trị trong việc hộ giáo, củng cố đức tin và góp phần đào tạo hàng ngũ linh mục sau này.

Cuộc đời tại thế của thánh nhân được khép lại ngày 28 tháng 8 năm 430 tại Hippôn, hưởng thọ 76 tuổi.

Là kitô hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi, cuộc đời của thánh nhân có thể gồm tóm trong một câu: “Một tội nhân trở thành thánh nhân”.

Như vậy, chúng ta thấy: “Thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai”.

Mừng lễ thánh Augustinô hôm nay, chúng ta học được bài học từ sự kiên trì, hy sinh trong nước mắt và cầu nguyện của thánh Mônica. Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa vì: “Đối với con người thì không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể”.

Chúng ta cũng không bao giờ thất vọng đến độ không dám chạy đến với lòng thương xót của Chúa, để được gội rửa, hầu trở nên trong sạch, để làm lại cuộc đời trong ân sủng của Thiên Chúa. Hãy cậy trông, phó thác và tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, vì ơn cứu độ của chúng ta nhờ vào hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn trở lại. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con được trở về với Chúa từng ngày, để không bị rơi vào thất vọng và mất niềm tin. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

SAI LẦM THỜI CÒN TRẺ

SAI LẦM THỜI CÒN TRẺ

Trích EPHATA 621

Năm mười bốn tuổi, tôi đang học lớp 7. Hồi đó tôi vừa gầy vừa nhỏ nên các bạn gái trong lớp luôn coi tôi như một đứa em trai, rất thích rủ tôi cùng chơi với cả hội con gái.

Hồi đó chúng tôi vẫn còn chơi trò “ùn đẩy cõng” tức là một người cõng người kia rồi đi đẩy đội đối phương. Khi đó mỗi lần tụi con gái chơi tôi đều được kéo vào cùng nhập bọn, làm không ít những cậu con trai khác phải đỏ mắt ghen tỵ.

Một hôm tôi được lũ con gái kéo đi chơi như mọi lần. Lần này tôi phải cõng một bạn gái vừa mập vừa thấp nhất lớp tên là Huệ Vân. Cơ thể Huệ Vân phát triển khá sớm so với bạn cùng lứa nên khi cõng Huệ Vân, tôi có thể cảm nhận rõ bộ ngực ấm nóng mềm mại của Huệ Vân áp lên lưng mình. Trong phút chốc mặt tôi đỏ giần lên. Một cảm giác kích thích kì lạ chưa từng có làm cả người tôi nóng ran.

Từ đó tôi vô tình chú ý đến Huệ Vân nhiều hơn, và thường tưởng tượng đến cảm giác ngày hôm đó. Một hôm trong lớp đột ngột bị mất điện, tôi như bị ma ám đưa tay cố ý chạm nhẹ vào ngực Huệ Vân, khiến Vân giật mình thét lên một tiếng hãi hùng. Khi đó tôi sợ đến co rúm cả người lại. Nhưng Huệ Vân đã không tố cáo cô giáo về tội “lưu manh” của tôi.

Từ ấy tôi thấy mình càng ngày càng có cảm tình đặc biệt với Huệ Vân. Ngay cả những vết tàn nhang trên mặt Huệ Vân tôi cũng cảm thấy chúng rất đáng yêu…

Bố mẹ tôi có cơ sở kinh doanh hoa quả nổi tiếng một vùng. Nhà tôi lúc nào cũng có rất nhiều hoa quả quý mà trong huyện chúng tôi bấy giờ không có. Mỗi ngày tôi đều lấy trộm một ít mang đến lớp đặt trong ngăn bàn của Huệ Vân, dưới đó tôi đặt một mảnh giấy ghi: “Mình yêu bạn. Cường”.

Chẳng bao lâu sau chúng tôi bắt đầu chính thức hẹn hò và thân mật với nhau hơn. Một lần không có ai, tôi rủ Huệ Vân đến chơi và không kiềm chế được, chúng tôi đã làm “chuyện đó”.

Không lâu sau tôi phát hiện thấy Huệ Vân trông có vẻ ngày càng mập ra. Cho đến một ngày Huệ Vân sợ hãi nói với tôi cô ấy có mang, đã hơn ba tháng nay cô ấy không thấy “ngày ấy” đến. Chúng tôi lén đi mua que thử thai về thử, quả nhiên kết quả là dương tính. Khi đó cả hai chúng tôi đều vô cùng hoang mang lo lắng. Tôi lấy hết số tiền mình tiết kiệm được nói với Huệ Vân sẽ đưa cô đi bệnh viện để phá cái thai đó. Huệ Vân sợ hãi chối đây đẩy: “Không được, cả huyện ta chỉ có mỗi một bệnh viện, nhất định đến đó sẽ gặp người quen, nhỡ mà gặp thầy giáo ở đó thì…” Huệ Vân nhắc đến thầy giáo khiến tôi cũng giật thót cả mình. Chúng tôi đành từ bỏ ý định đến bệnh viện.

Ngày hôm sau Huệ Vân lại hớt hải đến tìm tôi nói hôm nay cô ấy xem trên tivi có cảnh một người đàn ông đá vào bụng vợ anh ta một cái, thế là vợ anh ấy bị sẩy thai. Rồi Huệ Vân đề nghị chúng tôi tìm một nơi nào kín đáo rồi để tôi đá vào bụng cô ấy. Như vậy vấn đề sẽ được giải quyết một cách dễ dàng. Tôi nghĩ đi nghĩ lại thấy cũng chẳng có cách nào khác liền đồng ý.

Sau đó chúng tôi cùng đi đến bờ sông vắng vẻ. Dưới sự động viên của Huệ Vân, tôi nhắm mắt lấy sức đá vào bụng cô ấy. Huệ Vân thét lên đau đớn, mặt Huệ Vân tái đi, cô ôm bụng lăn lộn dưới đất. Nhưng thật kì lạ là không thấy máu hay một thứ gì đó chảy ra như trên ti vi nói. Người Huệ Vân túa mồ hôi, mắt cô cũng ướt nhoè.

Tôi sợ hãi, cả người run lên bần bật. Huệ Vân lại cắn răng chịu đau giục tôi đá thêm một cái nữa, lần này bắt tôi nhất định phải dùng sức tận lực, rồi mọi chuyện sẽ thành công. Lúc này Huệ Vân không còn đủ sức đứng lên nữa, cô nằm ngửa trên mặt đất, rồi nhắm mắt lại… Tôi lại mím chặt môi cắn răng đá mạnh một cái nữa… Huệ Vân hét lên một tràng kinh hoàng, rồi sau đó bất ngờ lịm đi. Tôi thấy máu từ bên trong quần cô ấy chảy ra ướt sũng. Tôi hoảng loạn gào tên Huệ Vân rồi hết sức lay cô ấy, nhưng đáp lại chỉ có tiếng nước sông chảy róc rách bên tai…

Tôi tất tả chạy về nhà, không kịp giải thích với mẹ kéo bà chạy một mạch ra bờ sông… Mạng sống của Huệ Vân đã được cứu kịp thời, nhưng tử cung cô ấy bị rách nghiêm trọng. Bác sĩ nói phải làm phẫu thuật cắt bỏ tử cung.

Bố mẹ Huệ Vân làm đơn khiếu kiện lên toà về hành vi của tôi, nhưng do tôi chưa đủ tuổi thành niên nên toà án chỉ có thể xử lý hành chính. Bố mẹ Huệ Vân chỉ là những người nông dân chân chất, tuy trong lòng rất đau xót cho con nhưng cũng đành “ngậm bồ hòn”. Dưới sự động viên của gia đình tôi, cuối cùng gia đình Huệ Vân chấp nhận số tiền bồi thường là 8.000 tệ. Số tiền mà với gia đình tôi chẳng thấm vào đâu. Tôi rất lo lắng cho Huệ Vân và muốn đi thăm cô ấy nhưng bố mẹ tôi kiên quyết ngăn cản.

Sau này, bố tôi nhanh chóng mua nhà trên thành phố và chuyển cả gia đình lên đó. Trước khi đi, tôi trốn nhà chạy đi tìm Huệ Vân nhưng nghe nói cả nhà Huệ Vân đã chuyển đi nơi khác. Từ đó, tôi không bao giờ gặp lại cô ấy nữa.

Tôi đỗ đại học, cưới vợ rồi có con. Tôi có một gia đình hạnh phúc và một cuộc sống sung túc nhưng trong tâm trí không lúc nào tôi có thể quên được Huệ Vân, quên được tội ác tày trời tôi đã gây ra cho cô ấy. Huệ Vân vĩnh viễn là một nỗi đau, một nỗi day dứt trong sâu thẳm trái tim tôi, ám ảnh tâm trí tôi không rời…

Mẹ tôi trước khi qua đời đã nắm tay tôi và nói: “Năm đó, cú đá của con không những làm hỏng mất tử cung của Huệ Vân, còn huỷ hoại cả một đời hạnh phúc của cô ấy ! Cô gái đó đã vĩnh viễn mất đi quyền được làm mẹ, và có thể còn bị những di chứng không thể nào hồi phục được. Đó cũng là nỗi ân hận lớn nhất đời của mẹ. Nếu có cơ hội con hãy đi tìm cô ấy, hãy bù đắp những mất mát của cô ấy, dù chỉ là về mặt kinh tế. Gia đình ta nợ cô ấy cả một đời con ạ !”

Tôi bật khóc, lặng lẽ gật đầu. Dù đó chỉ là một lỗi lầm thơ dại nhưng nỗi đau đó vẫn luôn ám ảnh bên tôi không lúc nào nguôi. Hằng đêm tôi vẫn ngồi một mình tự sám hối.

Huệ Vân ! Em có nghe thấy lời sám hối của tôi không ? Nếu có thể nghe thấy, xin em hãy để tôi có thể tìm được em. Hãy để tôi có thể bù đắp lại cho em phần nào những mất mát khổ đau. Để trái tim tôi được thanh thản dù chỉ là 1 phút…

Báo Thế Giới Phụ Nữ, HPPL dịch từ báo Phụ Nữ, Trung Quốc

Bình luận thêm của Ephata:

Câu truyện là một tự thuật với một trong hai nhân vật chính xưng tôi. Diễn tiến và các tình tiết của câu chuyện muốn nói đến một tâm tình sám hối. Rất tiếc, sám hối ở đây không trọn vẹn, không phải là sám hối vì cả hai đã trót cùng nhau phạm tội phá thai, giết chết chính con của mình, mà chỉ là sám hối đã phá thai không đúng… phương pháp, không an toàn như xã hội vẫn khuyến cáo.

Sám hối mà chỉ loay hoay dừng lại ở việc chàng trai bị ám ảnh tâm lý, tìm một nguôi ngoai thanh thản sau những ân hận dày vò suốt cả đời vì đã hành động sai lầm chết người, không cứu vãn, không bù đắp, không sửa chữa được gì nữa. Không thấy kể gì về phía cô gái nạn nhân, ngoại trừ chuyện gia đình cô ta đau xót rồi cuối cùng cũng chịu bồi thường một khoản tiền. Còn bà mẹ của chàng trai thì cũng chỉ trăn trối với con trai trước khi qua đời là: “Năm đó, cú đá của con không những làm hỏng mất tử cung của Huệ Vân, còn huỷ hoại cả một đời hạnh phúc của cô ấy ! Cô gái đó đã vĩnh viễn mất đi quyền được làm mẹ, và có thể còn bị những di chứng không thể nào hồi phục được. Đó cũng là nỗi ân hận lớn nhất đời của mẹ. Nếu có cơ hội con hãy đi tìm cô ấy, hãy bù đắp những mất mát của cô ấy, dù chỉ là về mặt kinh tế. Gia đình ta nợ cô ấy cả một đời con ạ !”

Tội ác phá thai được tác giả trình bày như một giải pháp duy nhất, cần thiết và hợp lý để tránh mọi hậu họa rắc rối, tuyệt đối không thấy có chút thương xót nào dành cho mảnh đời bé bỏng và ngắn ngủi của em bé. Điều này có lẽ phản ánh chung quan điểm và chủ trương của đa số người dân Trung Quốc trong một đất nước cho tự do phá thai và khống chế mỗi gia đình chỉ được sinh một con.

Việt Nam chúng ta cũng không khác là bao, vì Việt Nam và Trung Quốc trong mấy thập niên liên tiếp, luôn là hai trong các quốc gia chiếm hạng đầu về tỷ lệ nạo phá thai…

Trích EPHATA 621

LHQ: Đã có hơn 191.000 người chết vì cuộc xung đột ở Syria

LHQ: Đã có hơn 191.000 người chết vì cuộc xung đột ở Syria

Chuacuuthe.com

VRNs (24.08.2014) – Sài Gòn – Reuters dẫn một báo cáo của LHQ cho biết hôm thứ Sáu, hơn 191.000 người đã thiệt mạng trong ba năm đầu tiên của cuộc nội chiến ở Syria.

Giám đốc cơ quan nhân quyền của LHQ cũng đã quở trách các quốc gia hàng đầu vì không ngăn chặn những cuộc xung đột trên thế giới mà bà cho là “thảm họa của con người hoàn toàn có thể tránh được.”

Theo hãng tin CNN nhận định trước đó, các cuộc khủng hoảng mới nổi lên ở Trung Đông và Đông Ukraine đang làm phân tán sự chú ý của cộng đồng quốc tế đối với Syria, một trong những cuộc xung đột đẫm máu nhất lịch sử.

Xét về quy mô và mức độ ác liệt, cuộc xung đột ở Syria hơn hẳn các cuộc xung đột khác đang xảy ra ở Trung Đông và Ukraine. Cuộc xung đột này được bắt đầu với các cuộc biểu tình ôn hòa chống lại chế độ Tổng thống Bashar al-Assad vào tháng 3 năm 2011.

Cao ủy Nhân quyền của LHQ Navi Pillay cho biết, tất cả các bên liên quan trong cuộc xung đột ở Syria, bao gồm chính phủ, quân đội, cảnh sát, các chiến binh Hồi giáo và các nhóm đối lập khác, vẫn đang vi phạm tội ác chiến tranh.

140823015

Trước đó trong một tuyên bố, bà Pillay kêu gọi các cường quốc “có biện pháp nghiêm túc để ngăn chặn cuộc chiến và ngăn chặn những tội ác” đã quá lâu bằng cách “ngừng cung cấp vũ khí và thiết bị quân sự khác.”

Báo cáo từ văn phòng Geneva của bà dựa trên dữ liệu từ bốn nhóm phiến quân và chính phủ Syria. Họ đã kiểm tra chéo để loại bỏ sự trùng lặp và không chính xác, bao gồm cả các trường hợp tử vong không do bạo động hoặc nạn nhân sau đó được tìm thấy vẫn còn sống.

Báo cáo cho biết, ít nhất có 191.369 người đã thiệt mạng trong ba năm xung đột ở Syria, riêng năm ngoái đã có khoảng 62.000 người – cả dân thường và chiến binh – đã thiệt mạng.

Bà Pillay nói thêm, con số này đã tăng hơn gấp hai lần số người thiệt mạng trong tài liệu hôi năm trước và có lẽ vẫn còn là một ước tính thấp.

Phát ngôn viên Rupert Colville của bà Pillay còn cho biết trong một cuộc họp báo ở Geneva, có khoảng 5.000 đến 6.000 người bị giết hàng tháng.

Số lượng các vụ giết người được ghi nhận cao nhất ở ngoại ô tỉnh Damascus, Aleppo và Homs.

Pv.VRNs lược dịch

Macao tổ chức trưng cầu dân ý đòi dân chủ

Macao tổ chức trưng cầu dân ý đòi dân chủ

RFI

Lãnh đạo hành pháp Macao không do dân bầu trực tiếp, mà do một ủy ban 400 đại cử tri thân Bắc Kinh, đề cử - DR

Lãnh đạo hành pháp Macao không do dân bầu trực tiếp, mà do một ủy ban 400 đại cử tri thân Bắc Kinh, đề cử – DR

Tú Anh

Sau Hồng Kông, đến lượt người dân Macao thách thức Bắc Kinh. Kể từ hôm nay chủ nhật 24 đến thứ bảy 30/08/2014, các nhóm dân chủ Macao tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý bán chính thức, động viên 640.000 dân địa phương đòi Trung Quốc chấp nhận quyền tự do lựa chọn người lãnh đạo trong cuộc bầu cử 2019.

Cũng như Hồng Kông từ năm 1997, Macao là nhượng địa cũ do Bồ Đào Nha trao trả cho Trung Quốc vào năm 1999. Macao được hưởng quy chế chính trị khác với Hoa lục. Cũng như Hồng Kông, quyền tự do phát biểu tại Macao được pháp luật bảo đảm nhưng lãnh đạo hành pháp không do dân bầu trực tiếp mà qua sự « đề cử » của một ủy ban 400 đại cử tri thân Bắc Kinh.

Các nhóm dân chủ muốn chấm dứt tình trạng bất công này. Từ Bắc Kinh, thông tín viên Jean Scheubel phân tích :

Cuộc trưng cầu dân ý,bị chính quyền Macao tuyên bố « phi pháp », không có đủ trọng lượng như cuộc trưng cầu dân ý hồi tháng 6 tại Hồng Kông. Những người chủ xướng muốn lập ra những phòng phiếu nhưng tư pháp Macau không chấp thuận. Do vậy, các thành viên tổ chức lấy ý kiến dân chúng ngay trên đường phố với máy điện toán cầm tay thay thế thùng phiếu và lá phiếu.

Câu hỏi như sau : lãnh đạo hành pháp, nhân vật số một của Macao cần phải được bầu theo lối phổ thông và trực tiếp hay không ? Cho đến bây giờ, việc chọn lãnh đạo hành pháp Macao diễn ra theo lối gián tiếp. Một ủy ban bầu cử gồm 400 ủy viên phát xuất từ giới nghề nghiệp hay xã hội chỉ định. Theo các nhà dân chủ thì để công bằng, tất cả công dân Macao đều phải được quyền bỏ phiếu.

Cách Macao 30 cây số, Hồng Kông đã được Bắc Kinh « hứa » cho phép từ năm 2017. Nhưng ở Macao, không một dự án cải cách chính trị nào được dự kiến. Cũng phải nhìn nhận rằng Macao nhỏ hơn Hồng Kông, chỉ bằng một phần bốn mươi diện tích và chỉ bằng 1/13 dân số. Sự nghi ngờ của công luận đối với chính quyền cũng ít hơn và Bắc Kinh chưa bao giờ bị áp lực mạnh.

Kết quả trưng cầu dân ý tại Macao sẽ được công bố vào ngày 31/08/2014, ngày bầu chủ tịch hành pháp Macao mà ứng cử viên duy nhất không ai khác hơn là chủ tịch mãn nhiệm Fernando Chui.

Cảnh sát Macau trấn dẹp cuộc biểu tình trưng cầu dân ý

RFA

24-08-2014

Bốn người bị bắt giữ tại Macau sáng nay khi cảnh sát ra tay trấn dẹp một cuộc trưng cầu dân ý bắt đầu hôm nay và dự định kết thúc vào ngày 30/8 tới đây.

Một trong những người tổ chức là ông Jason Chao nói rằng cảnh sát đã tịch thu các thiết bị như ipad mà người ta dùng để bỏ phiếu trên mạng.

Cảnh sát Macau chưa xác nhận tin này.

Các nhà hoạt dân chủ định tổ chức cuộc trưng cầu dân ý này nhằm hỏi ý kiến người dân về mô hình bầu người đứng đầu ngành hành pháp ở cựu thuộc địa Bồ Đào Nha này.

Hồi 2h ngày hôm nay những nhà tổ chức cho hay đã có 1300 người bỏ phiếu. Nhưng sau khi nhà cầm quyền ngăn chận như thế không rõ là cuộc trưng cầu dân ý sẽ được tiếp tục hay không.

Văn phòng đại diện của Hoa lục ra tuyên bố nói rằng cuộc trưng cầu dân ý là bất hợp pháp và không có giá trị.

Macau được trao trả về cho TQ vào năm 1999 và giống như Hồng Kong, người đại diện lãnh thổ này được một ủy ban gồm nhiều người thân Hoa lục chọn ra.

Hồi tháng năm 2000 người dân Macau đã xuống đường chống lại một đạo luật cho phép các bộ trưởng của chính phủ giữ nhiều quyền lợi sau khi về hưu.

Ở cựu thuộc địa Anh Hong kong thì cũng đã diễn ra một cuộc trưng cầu dân ý tương tự vào tháng sáu năm nay có đến gần 800,000 người tham gia.

 

Trung Quốc : Một tử tù được trả tự do sau sáu năm chờ bị hành quyết

Trung Quốc : Một tử tù được trả tự do sau sáu năm chờ bị hành quyết

RFI

Tử tù Niệm Bân vừa được trả tự do ngày 22/08/2014.

Tử tù Niệm Bân vừa được trả tự do ngày 22/08/2014.

DR

Thụy My

Bị kết án tử hình cách đây sáu năm vì tội giết hai người, một tù nhân Trung Quốc hôm nay 22/08/2014 được tòa án kết luận vô tội. Đây là trường hợp hiếm hoi được trắng án, và theo các tổ chức phi chính phủ, đã cho thấy những bất hợp lý trong hệ thống tư pháp nước này.

Tù nhân Niệm Bân (Nian Bin), vào thời điểm đó là chủ một quầy hàng trên đường phố, bị kết tội đã đầu độc hai trẻ em láng giềng, bị chết vì thuốc chuột. Năm 2008 ông bị kết án tử hình, và bị giam giữ từ đó đến nay.

Nhiều đơn kháng án đã bị bác, các luật sư của bị cáo nhấn mạnh đến việc thiếu chứng cớ và khẳng định công an đã tra tấn để bức cung. Mãi đến hôm nay, tòa án Phúc Kiến mới công nhận bị cáo vô tội. Ra lệnh trả tự do cho Niệm Bân, năm nay 38 tuổi, tòa án giải thích : « Không có bất kỳ bằng cớ nào trong vụ này có thể kiểm tra được một cách thỏa đáng ».

Việc được trắng án như vậy là điều hết sức hiếm hoi tại Trung Quốc, quốc gia có chế độ tư pháp được đảng Cộng sản kiểm soát chặt chẽ. Trên 99,9% nghi can phải ra tòa năm ngoái đều bị lãnh án, theo các thống kê chính thức.

Số vụ hành quyết hàng năm tại Trung Quốc được giữ bí mật, nhưng theo một số ước tính độc lập thì khoảng 3.000 tử tù đã bị thi hành án trong năm 2012, cao hơn tất cả các quốc gia trên thế giới cộng lại. Các tổ chức phi chính phủ nhấn mạnh, việc sử dụng vũ lực để bức cung và các thủ tục vội vã của công an thường dẫn đến nhiều trường hợp oan sai.

Luật sư Tư Vĩ Giang (Si Weijiang) của ông Niệm trên một tiểu blog cho biết : « Chúng ta có thể hy vọng trường hợp Niệm Bân được trắng án sẽ giúp nhiều bản án bất công khác được xem xét lại ». Ông nhấn mạnh đến những khổ nhọc của gia đình tù nhân này trong suốt sáu năm trời.

Tổ chức Amnesty International hoan nghênh việc trả tự do cho Nian, trong lúc vẫn cho đây là «một lời cảnh báo mới, và sự cần thiết phải chấm dứt tất cả các vụ hành quyết, bãi bỏ án tử hình trên toàn quốc ».

Đã rất nhiều làn báo chí Trung Quốc loan tải các trường hợp tử tù được nhìn nhận là vô tội sau khi đã hành quyết xong, đôi khi do nạn nhân bị cho là do họ sát hại lại được phát hiện vẫn còn sống khỏe.

Tháng 11/2013, Trung Quốc đã hứa hẹn sẽ rút bớt các tội danh có khung hình phạt tử hình. Các cải cách năm 2007 cũng đòi hỏi mọi bản án tử hình phải được Tòa án tối cao chuẩn y, nhờ đó các vụ hành quyết đã giảm hẳn, theo một số tổ chức phi chính phủ.

THÁNH NỮ MÔNICA: NGƯỜI MẸ TUYỆT VỚI

THÁNH NỮ MÔNICA: NGƯỜI MẸ TUYỆT VỚI

(LỄ THÁNH MÔNICA)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Image result for picture of saint monica

Đối với văn hóa của người Á Đông thì vai trò người phụ nữ luôn bị giảm nhẹ. Từ quan niệm trên, người phụ nữ đôi khi bị coi thường. Chính vì vậy, bản thân người phụ nữ cũng trở nên tự ty, co cụm lại trong những công việc như nội chợ, cơm núc…  Nói chung là lo những chuyện lặt vặt trong nhà.

Tuy nhiên, hôm nay, phụng vụ mừng kính một vị thánh nữ là vợ, là mẹ trong gia đình. Ngài được biết đến bằng những chuyện bình thường nhưng đã thi hành cách phi thường. Mang trong mình phận gái:“liễu yếu đào tơ”, nhưng cuộc đời và lối sống ngang qua những hành động, hẳn ngài thật giống một: “đấng nam nhi” hay “bậc anh hùng hảo hán”.

Con người đó là ai? Thưa! Ngài chính là thánh nữ Mônica, mẹ của thánh giám mục Augustinô.

Thật vậy, cuộc đời của ngài đã trở nên tấm gương: anh dũng, can trường, nhân hậu, hiền từ, kiên trì, trung thành trong đời sống thường ngày, nhất là  gương hy sinh và cầu nguyện.

Mừng lễ thánh Mônica, chúng ta cùng nhau tìm hiểu cuộc đời của thánh nhân, để ngang qua đó, như một bài học cho đời sống đức tin của chúng ta.

1. Thân thế cuộc đời thánh Mônica

Gia đình của thánh nữ Mônica không có gì nổi nang trong làng. Cha mẹ ngài là những người bình dân nhưng đạo hạnh, hay thương người. Thánh nữ sinh năm 332, tại làng Sucara bên Phi Châu.

Ngay từ nhỏ, Mônica đã được hấp thụ truyền thống đạo đức, và một nền giáo dục có thể nói là “linh đạo tình yêu”. Những đặc tính như: nhân từ, hiền hậu, thương người là nét đẹp nơi gia đình của thánh nhân mà ngài được thừa hưởng.

Quả thật, tấm lòng quảng đại, yêu thương người nghèo dường như đã thường trực trong tâm hồn cô, khiến cô không thể ngồi yên và no bụng trong khi nhiều người chung quanh mình phải đói khát! Vì thế, mỗi bữa cơm Mônica thường dành ra một phần cho kẻ khó nghèo. Việc chia sẻ cho kẻ nghèo đã làm cho Mônica coi là niềm hạnh phúc của mình vì được diễm phúc đụng chạm, gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa ngang qua những người kém may mắn đó.

Một điểm đáng lưu ý khác nữa là Mônica thường xuyên ẩn mình nơi vắng vẻ để thân mật, cầu nguyện với Chúa lâu giờ.

Tuy nhiên, tưởng chừng một con người đạo hạnh như Mônica, ắt phải được tận hưởng một cuộc sống bình yên, hạnh phúc! Ai ngờ cô lại gặp phải cảnh éo le và truân chuyên quá đỗi!

Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, Mônica đã kết hôn với Patricius. Chồng cô thuộc dòng dõi quý tộc. Vì thuộc về thành phần giàu sang trong làng, nên ngay từ khi còn nhỏ, chàng Patricius đã được nuông chiều thái quá, dẫn đến tình trạng ngang tàng, hách dịch, nghiện rượu, tính tình nóng nảy và không chung thủy, độc ác và tàn nhẫn…. Ông luôn tỏ vẻ khó chịu mỗi khi thấy vợ làm từ thiện và cầu nguyện.

Hơn nữa, sẵn có lợi thế con nhà giàu, lại hơn tuổi của Mônica quá nhiều, nên Patricius thường xuyên thể hiện vai trò chủ – tôi đối với cô. Mặt khác, cô lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho cô Mônica buồn nhất, đó là bà lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do cho Patricius. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ.

Thêm vào đó, sau khi sinh được Augustinô, người con trai đầu lòng, bà vui mừng phấn khởi, nhưng chẳng bao lâu, Augustinô buông theo lối sống của cha, nên cũng trở nên lêu lổng, phóng túng…

Nhưng khi gặp những nghịch cảnh ngập đầu, Mônica không hề oán trách, nhưng ngài đã tìm ra những liều thuốc giải độc tốt nhất cho linh hồn mẹ chồng, chồng và các con, đó là sự hy sinh, lời cầu nguyện liên lỷ, cộng thêm những đức tính tuyệt vời như  lòng bác ái, tình yêu thương, tinh thần quả cảm, đức tính khiêm nhường, và vững tin vào Chúa. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Mônica vẫn một lòng yêu mến, kính trọng chồng và mẹ chồng; lại luôn sống làm gương sáng cho các con; yêu thương giúp đỡ dân làng.

Vì vậy, mưa dầm thấm lâu. Thiên Chúa đã thưởng công Mônica, đó là mẹ chồng và Patricius đã xin Rửa Tội và tin theo Chúa. Còn Augustinô đã chia tay bè rối Manichê (Nhị Nguyên) là một tà thuyết chống lại Giáo Hội và đức tin của Công Giáo mà ông đã dồn toàn tâm toàn trí trong suốt chín năm trường. Sau đó ngài được Rửa Tội. Hai người con còn lại là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập Giáo Hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.

Niềm vui tột cùng đó đã làm cho Mônica thốt lên với Augustinô trong những giây phút cuối đời: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”.

Cuối năm 387, khi mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi Châu, thì Thiên Chúa đã gọi Mônica về với Ngài, hưởng thọ 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.

2. Gương sáng của thánh nhân

Cuộc đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những chuyện bình thường cách phi thường”. Tại sao vậy?

Trước tiên: là chu toàn bổn phận. Chu toàn bổn phận cách trung thành, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác thì quả là anh hùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng, yêu thương và trung thủy với chồng. Làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.

Thứ đến: là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn và gặp chuyện chẳng lành.

Thứ ba: là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên lỷ và hoàn toàn phó thác nơi Ngài.

Cuộc đời của ngài với những biến cố vui buồn, thành công hay thất bại đều kết hợp với Chúa. Ngài luôn phó thác mọi sự trong sự an bài của Thiên Chúa.

Thứ tư: là sự kiên trì và trung thành. Kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong niềm tin, dù nhiều khi phải quặn đau.

Quả thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời nơi những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người.

3. Bài học cho chúng ta

Mỗi khi mừng lễ thánh Mônica, chúng ta hãy học nơi ngài những gương sáng để xây dựng hạnh phúc gia đình ngày càng tốt đẹp.

Bài học thứ nhất:

Chu toàn bổn phận hằng ngày trong lòng mến. Làm những việc tầm thường cách phi thường trong sự kết hợp với Chúa và phó thác cho Ngài.

Bài học thứ hai:

Biết dùng gương sáng như công cụ số một để cảm hóa người khác, nhất là người đó lại là người ngang tàng mất nết…

Bài học thứ ba:

Cần xác định thật rõ:“mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Làm mọi việc trong tâm tình tín thác. Đón nhận tất cả, miễn sao điều đó đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần hồn mọi người.

Bài học thứ tư:

Đó là sự kiên trì, trung thành. Đời sống đức tin của chúng ta cần có những nhân đức này. Nếu không kiên trì, chúng ta dễ bỏ cuộc. Không kiên trì khó có thể trung thành.

Lạy Chúa, xin nhận lời thánh nữ Mônica chuyển cầu mà ban cho chúng con, nhất là những người vợ, người mẹ trong các gia đình luôn có đời sống thánh thiện, hiền lành, yêu thương và nhẫn nhục, kiên trì và trung thành, tin tưởng và phó thác nơi Chúa như thánh Mônica khi xưa. Amen.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Chiều trên phá Tam Giang

“Chiều trên phá Tam Giang,”

anh chợt nhớ em”.
Nhớ ôi niềm nhớ, ôi niềm nhớ,
đến bất tận em ơi! Em ơi!”

(Trần Thiện Thanh/Tô Thùy Yên – Chiều Trên Phá Tam Giang)

(Ga 13: 33)

“Niềm nhớ” nói ở đây, có thể anh đang nói về người nghệ sĩ mà anh chợt nghĩ đến vào chiều hôm đó, ở Tam Giang? Tuy, anh nhớ nhiều đến như thế, cũng chỉ là nỗi niềm nhung nhớ của tuổi trẻ đương yêu về chuyện yêu đương khi còn ở nhà, mà anh giữ mãi như sau:

“Giờ này, thương xá sắp đóng cửa,

người lao công quét dọn hành lang.

Giờ này, thành phố chợt bùng lên,

để rồi tắt nghỉ sớm.

Ôi Sàigòn, Sàigòn giờ giới nghiêm!

Ôi Sàigòn, Sàigòn mười một giờ vắng yên!

Ôi em tôi, Sàigòn không buổi tối!”

(Trần Thiện Thanh/Tô Thùy Yên – bđd)

Ôi thôi là nỗi nhớ! Nỗi niềm thương nhớ ở tuổi vẫn còn yêu chỉ mỗi thế thôi, sao? Hay, anh còn nhớ rất nhiều thứ mà người em của anh từng diễn-tả hôm trước, cũng rất thơ:

“Giờ này, có thể trời đang nắng,

em rời thư viện đi rong chơi.

Hàng cây, viền ngọc thạch len trôi,

nghĩ đến ngày thi tương-lai thúc-hối.

Căn phòng nhỏ, cao ốc vô-danh

rồi nghĩ tới anh, rồi nghĩ tới anh,

nghĩ tới anh.”

(Trần Thiện Thanh/Tô Thùy Yên – bđd)

Nỗi nhớ đến là thế, mà sao anh cứ hát điệu bi-ai, tiếc nuối đến bồi-hồi, như thế? Người đời nay rày cũng nhớ, nhưng chỉ nhớ những gì xảy ra vào thời cũ/xưa, khi đời người lại đổi thay cũng rất chóng, như nguời viết còn ghi mãi, những điều sau đây:

“Chủ đề tôi đặt ra ở đây, đi thẳng vào chuyện dạy dỗ con cái, như vẫn thấy ở ngoài đời. Tất cả chúng ta đều biết, nó như một chiến-trường, ở đó có bậc làm mẹ nọ quyết chiến-đấu chống vị chủ-trường để bảo-vệ con em mình. Điều đáng nói ở đây, là cung-cách giảng-dạy về sinh-lý/tính-dục và giáo-án này lại đính kèm dụng-cụ giáo-dục buộc phải đưa vào nơi giảng dạy bằng tiếng Anh, đã gây “sốc” cho nhiều người, trong đó có tôi.

Ngay đến sách giáo-khoa về khoa-học viết cho con trai tôi học, đã được chuẩn-thuận dùng ở các trường tư-thục giỏi vào bậc nhất tỉnh-lỵ, lại cũng thấy một số chương đoạn đã sai-sót khi nói về chuyện sinh-đẻ của người mình.

Phản-ứng đầu-tiên của các bậc cha mẹ biết đề-cao cảnh-giác với cách dạy sinh-lý ở học-đường, quyết phản-chống lối giảng-dạy do trường đề ra, rồi quyết-định tự đưa con mình ra khỏi môi-truờng ấy đem chúng về dạy tại nhà hoặc ở đâu đó, tương-tự thế. Rõ ràng là, các bậc cha mẹ có ý-thức vẫn là nhà giáo có thiên-chức tự-nhiên biết dạy những điều cần dạy, cho con em mình về các đề-tài khá tế-nhị. Ngay đến chính-quyền có tư-cách, như ở Anh quốc, cùng đều thấy như thế, mới là chuyện phải làm.

Thật ra thì, đường lối chính-đáng dẫn-đưa ta, mang tính phản-chống hơn là dễ bảo, vẫn dạy rằng: làm cha/làm mẹ tức mới là nhà giáo chính-đáng, chứ nhà trường chỉ có trọng-trách thứ-yếu đứng ở hậu-trường, giúp họ thêm thắt đôi chút mà thôi”. (xem thêm Louise Kirk, Teaching children the facts of life, MercatorNet 24/6/2014)

Kể cũng lạ. Vai-trò của nhà trường và thầy/cô nay khác thời cha ông ta khi xưa vẫn có quan-niệm rằng nhà trường và thầy cô có trọng-trách dạy dỗ con mình nên người. Thành thử, nhà trường và thầy cô, được học trò và gia-đình kính nể, nên vẫn nói: “Nhất tự vi sư bán tự vi sư”, tức: một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy.

Kể cũng lạ. Đây không là nhận-định tư-riêng của ai đó, mà điều lạ bắt gặp được lại là ý-tưởng phản-bác/đối-kháng đường-hướng giáo-dục ở đâu đó, bên Tây/Tầu. Có điều lạ nữa là: ở trời Tây, hôm nay, mọi nguời sống ở đây có quyền nói lên ý-nghĩ riêng của mình, dù ý-nghĩ ấy không cùng khuôn-phép với chính-phủ, tôn-giáo hoặc cơ-quan giáo-dục nào đó ở các nơi khiến người sống vào mọi thời nhớ mãi đường-hướng/ý-tưởng được đưa ra, ở thời trước.

Trong chiều-hướng nhớ về “thời buổi trước” khác hẳn bây giờ, có tác-giả lại đưa ra ý-kiến về việc giáo-dục giới trẻ thời hôm nay vốn chịu nhiều thiệt-thòi từ nhiều phía, như sau:

“Ngày nay, tại xứ sở mang tên Úc Đại Lợi này, vẫn thấy thứ “im lặng dễ sợ” xuất từ các nhà lãnh-đạo của ta, cả về chính-trị, xã-hội, tôn giáo lẫn pháp-luật. Đó là thứ im-lặng đang gia tăng về cung cách tạm-bợ có liên-quan đến các quan-hệ nam-nữ có con cái dính-dự.

Nếu có dịp nói chuyện với các vị phụ-trách trông nom những người bị thiệt thòi về nhiều thứ, ta sẽ biết nhiều câu chuyện khác nhau, như chuyện họ từng chứng-kiến các hệ-quả đem đến cho con trẻ được nuôi dưỡng từ bậc mẹ cha có quan-hệ bất thường hoặc bất ổn. Các hệ-quả như thế đều ghi chú bằng các nhu-liệu đích đáng, ở Úc này…

Một số các nhà nghiên-cứu kháo-sát ở Úc như Lixia Qu và Ruth Weston thuộc Cơ-quan có tên là The Australian Institute of Family Studies đã nhận ra rằng: các gia-đình trẻ có cha mẹ chung sống không hôn thú xem ra có khả-năng tăng gấp ba về gẫy đổ so với các gia đình có cưới hỏi đàng hoàng. Các nhà nghiên-cứu nói trên cũng đề-cập đến trường-hợp con trẻ ở với bậc mẹ cha chung sống không hôn thú đã bị lọt lại đằng sau, so với những đứa sống với cha mẹ có hôn thú đàng hoàng. Tụt lại phiá sau, cả về cảm-xúc xã-hội lẫn phát-triển chung chung, như: trình-độ học-vấn nghèo nàn, chậm lụt; có vấn-đề về hạnh-kiểm cũng như kinh-nghiệm được dạy dỗ, kém hơn các em khác…

Tóm lại, qua báo-cáo của các nhà nghiên-cứu nói trên, thì: hiện nay, đang có sự chia-cách rõ nét giữa người được giáo-dục tốt có khuynh-hướng chịu lập gia-đình chịu sinh con sau đó; trong khi đó những người thuộc tầng-lớp xã hội có kinh-tế thấp hơn, dường như xuất-thân từ quan-hệ vợ-chồng chung sống không hôn-thú….” (xem thêm Bettina Arndt, The Unspoken Truth About Marriage and Kids, The Majellan Family July-September 2014, tr. 15-17)

Nói về sự-kiện xã-hội có liên-quan đến giáo-dục con trẻ, như trên, chỉ cốt để nói rằng: nhiều lúc bậc cha mẹ ngoài đời lại đã quên mất chức-năng nuôi-dưỡng/giáo dục con em mình. Về niềm nhớ như thế, là nhớ và nói khác kiểu của người nghệ-sĩ chỉ muốn hát câu tình tứ rất ư tình-tự như:

“Giờ này có thể trời đang mưa,

Em đi dưới hàng cây sướt mướt

nhìn bong bóng nước chạy trên hè

như đóa hoa nở vội.

Giờ này em vào quán nước quen,

nơi chúng ta thường hẹn

rồi bập bềnh buông tâm trí

trên từng đợt tiếng lao xao.

Giờ này thành phố chợt bùng lên

Em giòng lệ bất giác chảy tuôn

nghĩ đến một điều em không rõ,

nghĩ đến một điều em sợ không dám nghĩ

đến một người đi giữa chiến tranh

lại nghĩ tới anh,

lại nghĩ tới anh,

nghĩ tới anh…”

(Trần Thiện Thanh/Tô Thùy Yên – bđd)

Chừng như nghệ sĩ ở đời, thường nghĩ nhiều và nhớ nhiều những điều như thế. Như thế, tức nhớ về người anh và người em mà mình đang yêu da diết, rất khó quên.

Chừng như nhà Đạo mình lại đã không như thế. Nhà Đạo mình, vẫn nhớ nhiều và suy nhiều về những điều được ghi trong Kinh Sách, rất như sau:

“Hỡi anh em là

những người con bé nhỏ của Thầy.

Anh em đừng xao xuyến.

Hãy tin vào Thiên Chúa

Và tin vào Thày.”

(Ga 13: 33)

Điều quan yếu, được đấng bậc thánh-hiền trong Đạo ghi chú để mọi người nhớ, là như thế. “Tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, mỗi khi làm việc gì, đều phải thế. Và những điều, mà tín-hữu Đức Kitô “tin vào Thiên-Chúa” và “tin vào Thày” là phải sống đời giản-đơn như con trẻ. Sống thế rồi, để rồi sẽ học được cung-cách sống thích-hợp với đời đi Đạo.

Sống giản-đơn đời đi Đạo, là dám dấn thân vào chốn nguy-nan, để gặp người/gặp mình, trong tình-huống gian-nan khốn khó như vẫn gặp. Sống giản-đơn/chân-phương, còn là sống trong thinh-lặng có nguyện cầu, qua nền văn-hoá sống-động, không sợ hãi.

Sống giản-đơn/chân phương, còn là và nhất là sống như con trẻ, không hãi sợ, nhưng vẫn tươi vui, dù các hiểm-nguy/đe doạ đang trờ đến, ở trước mắt.

Sống giản-đơn/chân phương là sống vui vẻ với người yếu thế, thấp kém, nghèo hèn, nhưng vẫn vui. Vui, vì biết rằng có Đấng Nhân Lành ở trên cao, hằng nhớ đến mình và mọi người, trong mọi trường hợp.

Sống giản-đơn/chân phương là sống như mọi người ở mọi hoàn-cảnh, dù gặp khó khăn, khốn khó. Khó khăn và khốn khó, cả trong việc hoà hợp, hội-nhập vào với nền văn-hoá, đạo giáo, rất khác mình.

Sống giản-đơn/chân phương cả vào khi mình khám-phá ra tính-chất rất “Đạo” cũng hài-hoà, nhẹ nhõm như Tin Mừng hiền hoà mình gặp ở Lời Chúa.

Và, sống giản-đơn/chân phương như mọi người vẫn sống theo cách thương yêu hoà hoãn ta bắt gặp, như truyện kể để minh hoạ, như bên dưới:

“Truyện rằng:

Một cậu bé xuất hiện trước cửa hàng bán chó và hỏi người chủ cửa hàng: “Giá mỗi con chó là bao nhiêu vậy bác?

Người chủ tiệm trả lời:

-Khoảng từ 30 tới 50 đô la một con!”

Cậu bé rụt rè nói:

-Cháu có thể xem chúng được không ạ?”

Người chủ tiệm mỉm cười rồi huýt sáo ra hiệu. Từ trong chiếc cũi, năm chú chó con bé xíu như năm cuộn len chạy ra, duy có một chú bị tụt lại sau khá xa. Ngay lập tức, cậu bé chú ý tới chú chó chậm chạp, hơi khập khiễng đó. Cậu liền hỏi:

-Con chó này bị sao vậy bác?

Ông chủ tiệm giải thích rằng nó bị tật ở khớp hông và nó sẽ bị khập khiễng suốt đời. Nghe thế, cậu bé tỏ ra xúc động:

-Đó chính là con chó cháu muốn mua.

Chủ tiệm nói:

-Nếu cháu thực sự thích con chó đó, ta sẽ tặng cho cháu. Nhưng ta biết cháu sẽ không muốn mua nó đâu.

Gương mặt cậu bé thoáng buồn, cậu nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng và nói:

-Cháu không muốn bác tặng nó cho cháu đâu. Con chó đó cũng có giá trị như những con chó khác mà. Cháu sẽ trả bác đúng giá. Thực ra, ngay bây giờ cháu chỉ có thể trả bác 2 đôla 37 xu thôi. Sau đó, mỗi tháng cháu sẽ trả dần 50 xu được không ạ?

-Bác bảo thật nhé, cháu không nên mua con chó đó”, người chủ cửa hàng khuyên. “Nó không bao giờ có thể chạy nhảy và chơi đùa như những con chó khác được đâu.

Ông vừa dứt lời, cậu bé liền cúi xuống vén ống quần lên, để lộ ra cái chân trái tật nguyền, cong vẹo được đỡ bằng một thanh kim loại. Cậu ngước nhìn ông chủ cửa hàng và khẽ bảo:

-Chính cháu cũng chẳng chạy nhảy được mà, và chú chó con này sẽ cần một ai đó hiểu và chơi với nó.


Cậu bé, với chiếc chân trái phải mang khung thép trong suốt bốn tháng qua, về đến nhà, trên tay ôm một chú cún con. Chú cún này bị tật ở xương hông, nên chỉ có thể đi được những bước khập khiễng.

Việc cậu bé chọn mua một chú cún bị tật khiến bố mẹ cậu vừa ngạc nhiên, vừa xót xa vì thương cảm. Nhưng điều khiến họ ngạc nhiên hơn nữa, đó là từ ngày có người bạn mới, cậu bé như trở thành một con người khác, lúc nào cũng tươi vui, tràn đầy hy vọng.

Ngay từ ngày đầu tiên đón chú cún về nhà, cậu bé đã cùng mẹ đến gặp bác sĩ thú y để tìm ra cách chữa trị tốt nhất cho cún con. Bác sĩ khuyên rằng, nếu cậu bé chịu khó xoa bóp, kéo căng chân cún đều đặn mỗi sáng và dắt chú đi dạo ít nhất một dặm mỗi ngày thì các cơ xung quanh chiếc hông bị vẹo của cún con sẽ dần trở nên mạnh khỏe. Cơ may trở lại bình thường của cún con là hoàn toàn có thể và tùy thuộc rất nhiều ở cậu bé.

Mặc dù chú cún cứ rên rỉ khó chịu mỗi lần cậu bé xoa bóp chân cho chú, và dù cậu luôn cảm thấy chân trái đau nhức mỗi khi dẫn cún đi dạo, nhưng trong suốt hai tháng trời, cả hai đã nghiêm túc tập luyện theo chế độ phục hồi dành riêng cho họ. Vào tháng thứ ba, cả hai đã có thể đi được ba dặm mỗi sáng trước khi cậu bé đến trường mà không hề cảm thấy đau chân tí nào.

Vào một sáng thứ bảy, khi cả hai đang trên đường trở về sau buổi tập như thường lệ, thì bất thình lình, một chú mèo nhảy ra khỏi bụi cây bên đường khiến cún con hết sức hoảng hốt, chú nhảy chồm lên, giật tung dây xích ra khỏi cổ rồi phóng như tên bắn ra giữa dòng xe cộ. Cún con va phải một chiếc ô tô, bị hất tung lên vệ đường. May mắn thay, chú chó vẫn còn thoi thóp thở. Ghì chặt người bạn nhỏ yêu thương vào lòng, cậu bé đi nhanh về nhà, không để ý thấy khung thép bên chân trái của mình đã bong ra tự lúc nào.

Mẹ cậu tất tả đưa chú chó đến viện thú y. Trong khi cậu bé đang lo lắng chờ đợi bên ngoài, mẹ cậu ôm cậu vào lòng, nghẹn ngào nói trong nước mắt:

-Con không để ý thấy điều gì ư? Con đã có thể đi lại bình thường được rồi đấy!

-Sao lại như vậy được hả mẹ? Cậu bé ngạc nhiên.

-Con trai của mẹ, con bị viêm tủy xương. Người mẹ giải thích.

-Căn bệnh này khiến chân con ngày càng yếu, nhưng nó không thực sự là một căn bệnh nan y nếu con quyết tâm vượt qua nỗi đau đớn và tích cực tập luyện hàng ngày. Con biết điều ấy, nhưng con lại không tin vào chính mình. Con luôn chống cự không để bố mẹ giúp con điều trị, cả bố và mẹ cũng thực sự không biết mình nên làm gì nữa. Nhưng chú cún con đã làm thay đổi mọi thứ. Kỳ diệu thay, khi con giúp chú chó, con cũng đang tự giúp chính mình để trở nên mạnh mẽ và trưởng thành hơn.

Ngay lúc đó, cánh cửa phòng mổ hé mở. Bác sĩ thú y bước ra tươi cười thông báo:

– Cháu có thể yên tâm, chú chó của cháu sẽ sớm khỏe lại thôi!

(trích từ http://hon-viet.co.uk/CauBeVaConChoNho.htm)

Quả đúng như lời kể nhẹ ở trong truyện, có những sự thật vẫn còn đó trong đời người, như câu nói: Kỳ diệu thay, khi con giúp chú chó, con cũng đang tự giúp chính mình để trở nên mạnh mẽ và trưởng thành hơn”.

Kỳ-diệu hơn nữa, còn là ý-tứ và ý/từ cứ bảo rằng: Khi mình giúp người khác, là mình đang tự giúp mình, cũng rất nhiều.

Bởi thế nên, khi hát những ca từ mang ý-nghĩa về nỗi niềm nhung nhớ chợt loé sáng ở bài “Chiều trên phá Tam Giang”, là người nghe hát lại cũng nhớ nhung/nhung nhớ về ề một nỗi niềm nào đó rất tư-riêng.

Bởi thế nên, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ hát lên điệu hát của bài này, để rồi tự khắc sẽ nhớ da diết như người nghệ-sĩ đã từng hát câu:

“Chiều trên phá Tam Giang,

anh chợt nhớ em.
Nhớ ôi niềm nhớ,

ôi niềm nhớ,

đến bất tận em ơi!

Em ơi!”

(Trần Thiện Thanh/Tô Thùy Yên – bđd)

Bởi thế nên, khi chợt nhớ người em nhỏ ở nhà vẫn cứ bận rộn với “thương xá” với “thành phố đã giới nghiêm” là nhớ rất nhiều thứ. Nhưng có một thứ, một điều mà người hát cũng như người nghe ít nhớ đến hơn cả, là những điều được bạn bè thu thập từ nhiều nguồn, nay ghi lại để bạn nhớ mà giữ, mà thương cho nỗi nhớ chóng quên của mình. Điều đó, vẫn có những điểm giản-đơn, chân-phương mà người ghi gọi là “Toa thuốc tuyệt vời” cho mọi người, cứ kể rằng:

“Có một toa thuốc rất hay cả về tinh thần lẫn thể xác. Chúng ta cùng nhau tập dùng thử:

I. Sức khỏe

Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) định nghĩa: “Sức khỏe là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất và hoàn cảnh, chứ không phải là một tình trạng không có bệnh tật hay tàn tật”.

II. Bí quyết trường thọ
1. Chấp nhận với những gì mình đang có
2. Thích nghi với hoàn cảnh của mình
3. Điều chỉnh để đạt được điều mong muốn.

III. Phòng ngừa bệnh tật
1. Không vui quá hại tim
2. Không buồn quá hại phổi
3. Không tức quá hại gan
4. Không sợ quá hại thần kinh
5. Không suy nghĩ quá hại tỳ
6. Xua tan hoài niệm cay đắng bằng tha thứ và lãng quên
7. Với người cao tuổi tránh tranh luận hơn thua.

IV. Thức ăn & uống trong ngày:
Một củ hành: chống ung thư
Một quả cà chua: chống tăng huyết áp
Một lát gừng: chống viêm nhiễm
Một củ khoai tây: chống sơ vữa động mạch
Một trái chuối: làm phấn chấn thần kinh, bớt lo âu, chống táo bón, giảm được béo
Một quả trứng hay ít thịt nạc: chống suy dinh dưỡng
Uống 1 đến 2 lít nước mỗi ngày: giải độc cơ thể.

V. Triết lý của người Trung Hoa hiện đại:
1. Một Trung Tâm là sức khỏe
2. Hai Tí: Một tí thoải mái – Một tí nhiệt tình
3. Ba Quên: Quên tuổi tác – Quên bệnh tật – Quên hận thù
4. Bốn Có: Có nhà ở – Có bạn đời – Có bạn tri âm – Có lòng vị tha.
5. Năm Phải: Phải vận động Phải biết cười Phải lịch sự hòa nhã Phải biết nói chuyện và Phải coi mình là người bình thường.

VI. Bảo Sinh Thái Ất Chân Nhân
1. Ít nói năng để dưỡng Nội Khí
2. Kiêng sắc dục để dưỡng Tinh Khí
3. Bớt ăn hăng mạnh để dưỡng Huyết Khí
4. Đừng nhổ nước bọt để dưỡng Tạng Khí
5. Chớ giận hờn để dưỡng Can Khí
6. Chớ ăn quá độ để dưỡng Vị Khí
7. Ít lo lắng để dưỡng Tâm Khí
8. Tránh tà tâm để dưỡng Thần Khí.

VII. Hãy Dành Thì Giờ
Những lời khuyên từ Mẹ Thêrêsa Calcutta:
Hãy dành thì giờ để suy nghĩ. Đó là nguồn sức mạnh.
Hãy dành thì giờ để cầu nguyện. Đó là sức mạnh toàn năng.
Hãy dành thì giờ cất tiếng cười. Đó là tiếng nhạc của tâm hồn.
Hãy dành thì giờ chơi đùa. Đó là bí mật trẻ mãi không già.
Hãy dành thì giờ để yêu và được yêu. Ưu tiên Thiên Chúa ban.
Hãy dành thì giờ để cho đi. Một ngày quá ngắn để sống ích kỷ.
Hãy dành thì giờ đọc sách. Đó là nguồn mạch minh triết.
Hãy dành thì giờ để thân thiện. Đó là đường dẫn tới hạnh phúc.
Hãy dành thì giờ để làm việc. Đó là giá của thành công.
Hãy dành thì giờ cho bác ái. Đó là chìa khóa cửa thiên đàng.”
(trích điện thư trên mạng)

Nghĩ thế rồi, hỡi tôi và hỡi bạn, ta cứ quyết gì thì quyết, miễn sao đời mình sẽ vui và sẽ tươi suốt chuỗi ngày còn lại của đời mình. Cho đáng sống. Với mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Rất tạ ơn Người,

tạ ơn đời

vì có được quyết-tâm mới

Rất như thế.

Mới hay hương vị nhiệm màu

“Mới hay hương vị nhiệm màu,”

Môi chưa nhắp cạn, mạch sầu đã tuôn.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 16: 21-27

Hương vị nhiệm màu lâu nay, vẫn là vị hương sầu buồn, với người đời. Hương vị nhiệm màu ở nhà Đạo, mai ngày sẽ là vị hương vinh phúc thánh-sử tỏ bày ở trình-thuật vào ngày của Chúa, rất hôm nay

Trình thuật Lời Chúa hôm nay, thánh-sử Mát-thêu lại cũng đề-cập đến vinh/nhục – hoạ/phúc là do con người có biết hiện-thực lời Chúa dạy hay không, mà thôi.

Vinh/Nhục – Họa/Phúc: bốn ý từ, một thực tại. Thứ thực tại lưỡng nguyên, luôn diễn tả hai mặt đối xứng của cuộc đời. Một đời người có thể bắt đầu bằng Họa để rồi khết thúc bằng Phúc. Hoặc ngược lại. Nếp sống người đời vẫn cứ thế diễn tiến bằng những giờ phút thăng trầm, nhục/vinh – vinh/nhục.

Vào buổi kiểm trại ở Dã Châu, viên cai ngục phát giác ra có đến 6 phạm nhân vượt trại bị bắt và nhốt vào khu biệt giam, chờ ngày lãnh án hành hình. Đào thoát vượt trại, là vi phạm nặng nội quy; nên, hình phạt sẽ sớm được công bố và xử lý bằng những biện pháp tàn bạo.

Người ta bốc thăm tên tuổi nạn nhân, cùng lúc với các tử tù khác, đem đi hành tội. Đã có 12 người bị đưa đi xử lý bằng biện pháp phơi nắng, bắn bỏ. Đứng quan sát 12 bạn đồng cảnh đang hổn hển thở dốc, có tiếng nhỏ nhẹ, nhưng cũng đã lọt tai những người đang sống thân phận hiu hẩm. “Trời đâu, nay có thấu?”

Ai cũng nghe tiếng thở dài, nhưng không một ai có câu đáp trả. Vạn vật rơi vào chốm im ắng, lặng thinh. 12 xác phàm bắt đầu nổi cơn kinh giật, dãy dụa. Tìm khí trời hít thở. Lúc ấy, người bàng quan tiếp tục thị sát. Một lần nữa, lại có tiếng thở dài, lần này gấp hơn: “Trời đâu, nay có thấu?” Và, một câu khác phụ họa: “Ôi Lạy Chúa! Nay Ngài ở đâu?… Rõ ràng Ngài có mặt, ở đây mà!…”

Tiếng thở dài đây, chính là niềm tin mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến. Đạo của Chúa là Đạo duy nhất trên thế giới, mang niềm xác tín tin rằng: Đức Chúa là Đấng mặc xác phàm loài người, có xương có thịt. Ngài chấp nhận khổ đau như người thường. Thậm chí, Ngài còn nối tiếp con Đường Ngài đi, bằng cách chấp nhận cái chết khổ nhục, là để vực dậy cuộc sống.

Quả là, con người đã thuần hóa mặt xấu của thập giá ngay khi biện luận rằng: hôm nay, tiếng xấu ấy vẫn dai dẳng trên thân xác người phàm. Cũng có lúc con người tự hỏi: giả như Giê-su Đức Chúa phải ngồi ghế điện chịu cuộc hành hình, thì ta có dám đeo mang hình thù ghế điện quanh cổ, hay không?

Nhưng, khi ta tìm cách thuần hóa thực chất của cuộc hành hình, mà Đức Kitô cam chịu tại Giêrusalem, thì bản chất của khổ đau nơi cuộc sống mỗi người, không thể bị thương-mại-hóa một cách trần tục và nhẹ nhàng, như thế được.

Tín hữu Đức Kitô, không thể đồng một ý nghĩa với các kẻ khổ dâm, mặt mày vẫn mỉm cười trơ trẽn, như thế được. Chúng ta không thể bị coi như đồng nghĩa với kẻ say sưa, yêu thích sự đau khổ. Trái lại, chúng ta là người chấp nhận khổ đau vì lý tưởng cao cả, mà thôi.

Ta được Đức Chúa mời gọi nhìn nhận các khổ đau của cuộc sống, như cơ hội, để một lòng trung kiên theo gương Ngài, mà đưa vai gánh chịu. Khổ và nhục, còn là cơ hội để ta đồng cảm với những người đang sống đau buồn, cùng một thế giới với ta. Điều này, nói dễ hơn làm.

Khi ta đồng cam chịu cực trong cuộc sống của riêng mình, thì lúc ấy, không dễ gì ta nhớ đến người khác, dù chỉ trong tư tưởng hay trong đầu, thôi. Tuy nhiên, nếu đặt đau khổ và cực hình vào bối cảnh chung của cuộc sống, để biết rằng ta không chỉ đau khổ một mình, thì bấy nhiêu thôi cũng đủ giúp ta nguôi ngoai, an ủi.

Đã từ lâu, ta được khuyến khích để hiểu rằng mọi đau khổ, cực hình vẫn có thể là cơ hội tốt, giúp ta trưởng thành trong yêu thương, đùm bọc. Nếu hiểu thập giá ta đang gánh vác, như trường lớp dạy ta biết về lòng yêu thương mặn nồng, thì như thế, là ta đã học được nhiều điều bổ ích về chính con người mình; và về Đức Chúa. Có như thế, ta mới có thể giúp kẻ khác gánh vác thập tự, họ đeo mang.

Tuy thế, gánh vác thập giá cùng khổ đau, không chỉ là mang lấy cho mình những đớn đau thể xác, khổ nhục cá nhân, dục tính hoặc cực hình, tinh thần hoặc cảm xúc, mà thôi. Đó có thể, là tự mình xẻ bớt các quà tặng cũng như tài năng mình vẫn có. San sẻ, cả tình yêu riêng biệt lẫn những xót thương hiền hòa.

Mỗi khi có quà tặng, ta luôn thấy có kèm theo đó, những gánh nặng và trọng trách phải thực hiện. Rập theo khuôn mẫu Đức Kitô đã làm, chúng ta được mời đến, để chia xớt những món quà trời cho, mà mình đang có, hầu san xẻ một cách dũng cảm với những ai đang cần hơn ta; dù cho có phải chia sẻ đến phút cuối, cuộc đời mình.

Ngày nay, nhiều người vẫn cứ than: hình ảnh về Chúa Mẹ của ta, thường bị bóp méo được đem ra như miếng kẹo dẻo rất ngọt, dễ ăn và dễ nuốt. Nhưng, Tin Mừng hôm nay cho thấy: mọi việc đều không phải như thế.

Bước theo vết chân mòn làm đồ đệ của Đức Chúa, không có nghĩa là chuyện ngon ăn, nhưng vẫn là “lưỡi dao” sắc cạnh, gây khổ đau, không ít.

Thế giới hôm nay, hẳn không có ơn gọi nào mang tính mời mọc khẩn thiết hơn, là lời mời chấp nhận khổ đau trong hành trình tin tưởng, trung kiên yêu thương và từ bỏ chính con người mình.

Trong lúc ta đón nhận vác khổ giá và theo chân Đức Chúa, ta không làm việc ấy một mình. Nếu để ý, sẽ thấy ngay việc đó và sẽ khiêm tốn đủ, để chấp nhận một cách đúng đắn rằng, Đức Kitô đang quanh quẩn bên ta. Ngài sẽ cùng với ta bước từng bước chân dù đi vào đường mòn khổ đau như ta. Có như thế, ta mới cảm thấy dễ chấp nhận khổ giá của mình.

Trong cảm-nghiệm những điều như thế, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ đã ngâm dở, mà rằng:

“Mới hay phong-vị nhiềm-màu,

Môi chưa nhấp cạn, mạch sầu đã tuôn.

Ớ Địch ơi, lệ có nguồn,

Hãy chia bớt nửa nỗi buồn sang tôi.”

(Hàn Mặc Tử – Bến Hàn Giang)

Nhà thơ những muốn san sẻ nỗi buồn của người đời sang với mình. Sầu buồn sẻ san như thế, đã chắc gì làm vơi đi nỗi buồn sầu của người khác. Có sẻ san chăng, cũng nên san sẻ không chỉ nỗi buồn, mà cả niềm vui có Chúa dẫn dắt, có bạn đạo thân thương cùng trải-nghiệm đỡ nâng, mới thật đúng.

Mong rằng Vinh/nhục – Hoạ/Phúc ở đời, sẽ là cơ-duyên để mọi người sẻ san mãi khôn nguôi, suốt đời người. Thế mới đúng.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

Kỷ niệm đáng ghi nhớ

Kỷ niệm đáng ghi nhớ

Linh mục Bôgiani là tuyên úy quân đội. Ngày đoàn quân Italia lên đường hồi thế chiến thứ hai, cha cũng được lệnh theo họ, không phải để chiến đấu chống ai nhưng là để giúp đỡ tinh thần cho các chiến binh công giáo.

Không có cuộc chiến nào dù có chính đáng đến mấy mà lại không vô nhân, không gây đổ vỡ tang tóc cho mọi người. Đối với một linh mục, dấu chỉ yêu thương và hoà giải của Thiên Chúa, phải từng ngày chứng kiến cảnh bắn giết là một điều vô cùng đau đớn.

Tình hình chiến trận lan rộng và cha theo các binh đoàn sang Nga. Đoàn quân đi ngang qua Ukraina, một quốc gia vô cùng màu mỡ với những đồng lúa óng vàng rung rinh trước gió, trải dài đến vô tận. Nhưng cha không trông thấy nhà cửa, dân quê và nhất là không trông thấy một tháp chuông nhà thờ nào. Đâu đâu cũng chỉ toàn là một bầu khí câm nín chết chóc, lặng thinh đến ngạt thở. Trong cuộc hành trình trên đoạn đường dài hai ngàn cây số với bao nhiêu gian nan mệt mỏi, giờ đây lại phải đối đầu với một bầu khí thê lương như thế, cha Bôgiani cảm thấy nghẹt thở. Thêm vào đó là cảnh phục kích và bắn giết giữa hai bên.

Tuy nhiên, trong suốt lộ trình ngang qua nước Ukraina, cha Bôgiani đã có dịp thường xuyên cử hành thánh lễ, bác các bí tích cho người dân của quốc gia khốn khổ này. Vì mọi nhà thờ đã bị nhà nước quốc hữu hoá và sử dụng vào việc khác hay đã bị phá hủy, nên tín hữu tụ tập nhau ở những nơi nào có thể được như rạp hát, hội trường…

Sau mấy chục năm phải sống dưới sự cấm cách, người dân kéo đến tham dự lễ của cha nhưng trong bộ tịch rụt rè, sợ hãi với cái nhìn xa vắng và buồn rười rượi. Trong các nhà nguyện nhỏ, sau khi truyền phép cha Bôgiani giơ cao Mình và Máu Thánh Chúa lên và cha nghe được tiếng khóc sụt sùi cảm động của giáo hữu đang quì mọp dưới đất. Đối với nhiều người, không biết sau bao năm cấm cách đây là lần đầu tiên họ mới được tham dự thánh lễ.

Nhân dịp này tín hữu công giáo Ukraina đem con tới cho cha rửa tội. Cha Bôgiani không nhớ rõ con số trẻ em được cha ban bí tích Rửa tội. Các sĩ quan của đoàn quân Italia cũng thường được cha mời làm cha đỡ đầu cho các trẻ em này. Trong suốt thời gian đi qua nước Ukraina cha đã được sống các tâm tình và các cảm xúc của các thừa sai lớn của Giáo hội.

Nhưng kỷ niệm cha nhớ rõ nhất là kỷ niệm với anh Pickynô, một chiến binh Italia. Pickynô bị thương trên đầu vì một trái lựu đạn nổ nên anh mất hết tóc. Tuy được cấp cứu nhưng sau đó vết thương bị nhiễm trùng uốn ván.

Hôm ấy Pickynô đã cùng với những người lính khác xưng tội với cha Bôgiani. Sau khi giải tội xong, cha đi lấy Mình Thánh Chúa để trao cho họ. Đến phiên Pickynô thì anh ta bị trùng uốn ván khiến cho miệng cứng đơ ngậm chặt không sao mở ra được nữa. Tuy Pickynô muốn rước Mình Thánh Chúa lắm nhưng trong tình trạng này cha Bôgiani đành chịu không biết làm sao. Thấy cha trở lại trao Mình Thánh Chúa cho các đồng đội mà mình không sao mở miệng ra được để rước Chúa, Pickynô tủi thân khóc thầm.

Cha Gôgiani nói với anh: “Pickynô à, rất tiếc là tôi không thể cho anh rước Mình Thánh Chúa được. Nhưng tôi sẽ ban bí tích Xức dầu bệnh nhân cho anh. Anh hãy xác tín rằng Chúa cũng bằng lòng với anh rồi, anh rước Chúa bằng lòng ước muốn là được rồi.”

Nhưng Pickynô nắm chặt lấy tay cha Bôgiani tỏ dấu muốn rước Mình Thánh Chúa. Cha lại nói lớn: “Anh không thể rước Chúa được, nhưng Chúa vẫn hài lòng cơ mà!” Nói rồi cha miễn cưỡng tiếp tục trao Mình Thánh Chúa cho các chiến binh khác, cổ họng nghẹn cứng vì cảm động.

Được một lúc bỗng cha nghe có tiếng thét. Thì ra muốn rước Mình Thánh Chúa quá mà không biết cách nào mở miệng ra được, Pickynô đã cố hết sức với một dụng cụ y khoa nạy hai hàm răng để một khe nhỏ hầu có thể rước Mình Thánh Chúa. Cha Bôgiani quay lại đặt Mình Thánh Chúa qua khe hở của miệng anh. Ít phút sau đó, Pickynô êm ái trút hơi thở cuối cùng.

Đã hai lần cha Bôgiani mơ thấy Pickynô mỉm cười hạnh phúc và đẹp như thiên thần.

Lòng khao khát rước Chúa Giêsu Thánh Thể đã khiến anh Pickynô làm một hành động táo bạo. Hành động ấy biểu lộ một đức tin mãnh liệt vào sự hiện diện của Chúa và vào lời Người dạy: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì được sống muôn đời.”

Sự sống muôn đời ấy không chỉ cần thiết cho những người biết mình không còn sống được ở trần gian này nữa. Nhưng sự sống ấy phải là động lực cho mọi sinh hoạt của chúng ta trong cuộc sống đời này, là nguyên lý làm cho cuộc sống trần gian của ta được phát triển và đạt tới độ sung mãn trong cõi vĩnh hằng.

Với niềm xác tín ấy, chúng ta cũng tăng thêm lòng yêu mến Thánh Thể và năng đón nhận Thánh Thể với tất cả niềm tin yêu ngày càng lớn mạnh hơn.

S.T.

Anh chị Thụ Mai gởi