BÊN KỶ NIỆM XƯA

BÊN KỶ NIỆM XƯA

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Trong mấy ngày vừa qua, tôi có dịp đi dự Lễ đặt viên đá xây dựng môt ngôi Nhà Thờ nhỏ vùng cao nguyên, ngôi Nhà Thờ của một cộng đoàn người anh chị em dân tộc K’Hor. Qua vài dòng lịch sử, cộng đoàn này đã được hình thành từ năm 1954, khi đường đi vào vùng đồi núi này chưa có, các Thừa Sai DCCT Canada đã phải đi nhờ trực thăng của quân đội Sàigòn lúc bấy giờ, đến nơi đây, ở lại với anh em dân tộc, loan báo Tin Mừng, khi ấy di chuyển quanh vùng phải dùng ngựa. Một cây Thánh Giá đã được cắm ở đỉnh đồi R’Lơm, một ngọn đồi bên sườn dòng suối Đạ Đờng ( suối lớn ) để làm nơi tụ họp thờ phượng Chúa mỗi Chúa Nhật. Dần dần cộng đoàn đông đảo lên, năm 1964, cha già Antoine Lapointe  đã dựng một ngôi Nhà Nguyện nhỏ bằng gỗ, các kèo cột bằng gỗ, mái tôn. Một cái chuông nhỏ treo ngay trước cửa Nhà Thờ, tiếng chuông king koong ngân theo các ngọn gió của núi rừng réo gọi con cái ngài đến, bọn trẻ con tròn xoe con mắt nghếch tai nghe tiếng chuông rung.

cha già Antoine Lapointe

( Ảnh chụp ngôi mộ cha Antoine Lapointe, DCCT, ngay bên cạnh Nhà Thờ R’Lơm ).

Ngày người ta trả lại ngôi Nhà Thờ cho Giáo Hội, ngày ngôi Nhà Thờ được mở cửa lại, ván sàn đã mục nát, ngôi nhà hôi hám lâu ngày không có bóng người, dơi chuột lấy làm nơi sinh sống, ngậm ngùi anh chị em dân tộc kéo đến sửa sang lại, làm sạch sẽ lại, trang hoàng lại để thờ phượng Chúa. Hơn 15 năm nữa đi qua, Chúa ban cho cộng đoàn ngày một đông đảo, không chỉ ở tại chỗ, anh chị em ở các nơi khác, xa hàng chục cây số cũng về nương tựa bóng Nhà Thờ này. Con số tín hữu tại chỗ vượt 2.000, con số tại Phi Tô, một làng cách 7 cây số cũng vượt 2.000. Cần phải sửa Nhà Thờ lại để đáp ứng phần nào nhu cầu.

Giữ nguyên hình ảnh ngôi Nhà Thờ cũ. Anh em Tu Sĩ đang phục vụ tại Giáo Sở này muốn giữ nguyên lại hình dáng ngôi Nhà Thờ cũ, một hình dáng đơn sơ mộc mạc, dong dỏng cao như những đồi những núi, mầu gỗ thô ráp như những bàn tay lao động giữa núi rừng. Anh em muốn giữ lại hình dáng ngôi Nhà Thờ cũ như giữ lại hình dáng của một tiến trình lịch sử cộng đoàn, những thế hệ đi qua đã in dấu ngôi Nhà Thờ này, sóng gió như chính ngôi Nhà Thờ này đã đi qua. Giữ lại hình dáng ngôi Nhà Thờ này cũng một phần vì lý do tài chính, khó có thể kiếm tiền để xây dựng những hình dáng sang trọng cầu kỳ hơn, Nhà Thờ sang thì các bàn ghế thiết bị cũng phải trọng, Nhà Thờ mộc mạc thì nội thất cũng mộc mạc như vậy thôi. Hơn nữa còn nhiều Giáo Sở chưa có Nhà Thờ, có những Giáo Sở vẫn còn phải mượn nhà dân để dâng Lễ.

( Ảnh chụp cha Sylvère Drouin, DCCT, và anh em dân tộc ở Fyan ).

Trong bài giảng Thánh Lễ, Đức Giám Mục nhắc mọi người “sẽ khó coi nếu Nhà Thờ sang trọng mọc lên giữa những ngôi nhà nghèo nàn của cộng đoàn chúng ta”. Điều mà vị Giám Mục theo đuổi ấy là xây dựng ngôi nhà tinh thần thờ phượng Thiên Chúa trước khi xây dựng ngôi nhà thờ phượng bằng gạch bằng đá.

Lễ khởi công đã xong, chia tay anh em về lại Sàigòn, một câu hỏi lớn vẫn luẩn quẩn trong tôi, câu hỏi của anh em hỏi nhau: “Làm sao kiếm đủ tiền để xây cho xong Nhà Thờ đây ?” Tôi cứ nhớ trong đầu hình ảnh cái chiếu trải ra ở giữa nhà, mấy chị em dân tộc ngồi vuốt từng đồng tiền xếp lại để đếm, tôi nhìn thấy toàn tiền lẻ phơi ra lạc lõng với diện tích của chiếc chiếu trải rộng. Xin phó thác cho Chúa mà thôi !

Lm. VĨNH SANG, DCCT, thứ bảy 22.3.2014

Năm mươi năm trôi qua, có những năm tháng ngôi Nhà Nguyện bị đóng cửa, 15 năm những người tin vào Chúa đi ngang ngôi Nhà Nguyện này lặng lẽ cúi đầu, không có ánh đèn đỏ quen thuộc chầu Chúa, không còn tiếng chuông kinh koong nghe lạ tai mỗi sáng mỗi chiều, cánh cửa Nhà Thờ khép lại nghe lòng thấy đìu hiu, Khoảng sân nhỏ bên ngôi Giáo Đường hoang vắng. Ngôi mộ của cha già Lapointe vẫn nơi đó, đã có lần người ta đào mộ ngài định lấy cắp xương vì nghĩ có thể giả làm hài cốt lính Mỹ, nhưng vẫn là một sự lạ lùng, sáng ra con cái đi qua thấy ngôi mộ bị đào xới nhưng chưa chạm được đến nắp quan tài, kẻ có ý không ngay lành đã bỏ đi từ bao giờ bỏ lại ngôi mộ ngổn ngang đất cát. Ông cụ nằm đó, canh giữ bao nhiêu năm nay ngôi Nhà Thờ bé nhỏ, canh giữ niềm tin cho con cái mình. Không có đèn chầu nhưng vẫn có… người chầu !

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

NGỌN ĐÈN ĐỨC TIN

NGỌN ĐÈN ĐỨC TIN

TGM Ngô Quang Kiệt

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng.  Đôi mắt là ánh sáng của thân thể.  Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối.  Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát.  Ánh sáng văn hoá có đó.  Sách vở chữ nghĩa có đó.  Nhưng ta không đọc được.  Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt.  Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp.  Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người họa sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác.  Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt họa sĩ.  Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ.  Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó.  Thiên Chúa hiện hữu đó.  Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy.  Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu.  Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ.  Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân.  Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin.  Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu?  Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa.  Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

  • Tin là một hành trình ngày càng gian khổ.  Đức tin cần phải có thử thách.  Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn.  Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng.  Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.  Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn:  Người ta nghi ngờ anh.  Người ta tò mò xoi mói anh.  Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó.  Anh dõng dạc tuyên bố:  Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm.  Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn.  Anh được sáng mắt.  Anh có niềm tin.  Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm.  Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc.  Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân.  Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo.  Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi.  Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat.  Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường.  Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái.  Bị gia đình từ bỏ.  Giờ đây lại bị xã hội chối từ.  Anh trở thành người cô đơn nhất.  Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua.  Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát.  Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện.  Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh.  Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa.  Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người.  Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt.  Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách.  Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh.  Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”.  Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”.  Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”.  Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ.  Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá.  Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng.  Đức tin giống như ngọn đèn.  Thử thách gian khổ là dầu.  Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta.  Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh.  Anh đã kiên trì và đã chiến thắng.  Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng.  Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin.  Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe dọa đức tin của tôi?  Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi.  Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô.  Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin.  Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi.  Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi.  Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.  Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: ThiênKim & chị Nguyễn Kim Bằng gởi

‘Dậy sóng’ với tâm thư của người Nhật gửi Việt Nam

‘Dậy sóng’ với tâm thư của người Nhật gửi Việt Nam

(Tệ nạn xã hội) – Một bạn trẻ người Nhật từng du học ở Việt Nam vừa có bài viết gửi giới trẻ Việt Nam khiến dư luận xôn xao.

Bài viết về văn hóa con người Việt Nam của một bạn du học sinh Nhật. Nội dung bài viết như sau:

“Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào


image

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”.

Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa…Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy.

Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mun, lọc lừa.

image

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi…Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm! Thật vậy sao?”.

image

Thêm 10 quan chức Bộ giao thông vận tải ‘giải trình’ ăn hối lộ

Thêm 10 quan chức Bộ giao thông vận tải ‘giải trình’ ăn hối lộ
March 26, 2014

nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Bảy ông bà đương chức và 3 ông đã nghỉ hưu là các xếp lớn tại Bộ Giao Thông Vận Tải CSVN được yêu cầu “giải trình” về tai tiếng nhận hối lộ của một công ty Nhật Bản.

Phối cảnh tuyến đường sắt số 1, nơi đặt nhiều nghi vấn “ông anh” ăn 16 tỷ yen tiền hối lộ của công ty Nhật.(Hình: kienthuc.net)

Theo tin được nhiều báo ở Việt Nam đăng tải, nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT và 9 cá nhân đã phải “giải trình” vụ việc công ty tư vấn kiều lộ JTC của Nhật Bản nhìn nhận “lại quả” hơn 16 tỷ đồng (hay hơn 782,000 USD) để trúng thầu dự án đường sắt trên cao ở Hà Nội. Dự án này được sự tài trợ tín dụng ưu đãi của chính phủ Nhật nên luôn luôn được trao cho các công ty Nhật Bản thầu từ tư vấn thiết kế đến xây dựng.

Những ông bà đương chức gồm có ông Nguyễn Đức Thắng, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam (nguyên Phó Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông); ông Trần Quốc Việt, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Đầu tư Phát triển đường cao tốc Việt Nam (nguyên Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông); bà Nguyễn Minh Tuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông, ông Lê Quyết Tiến, Trưởng phòng Pháp chế – Đấu thầu, Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông, ông Phan Hữu Biên, Chuyên viên Phòng Pháp chế – Đấu thầu, Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông, ông Vũ Nam Nguyên, chuyên viên chính Vụ Kế hoạch – Đầu tư, ông Triệu Khắc Dũng, Cục trưởng Cục Quản lý đường bộ cao tốc thuộc Tổng cục Đường bộ Việt Nam (nguyên Phó Trưởng phòng Thẩm định 1, Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông).

Những người đã nghỉ hưu phải “giải trình” gồm ông Lê Mạnh Hùng, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải, ông Nguyễn Hữu Bằng, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, ông Hà Khắc Hảo, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Đầu tư.

Ngày Chủ Nhật 23/3/2014 vừa qua, Bộ Giao Thông Vận Tải CSVN vội mở một cuộc họp khẩn rồi “tạm đình chỉ công tác” 3 ông xếp ngành đường sắt gồm hai ông phó tổng giám đốc Tổng Công Ty Đường Sắt Việt Nam là Ngô Anh Tào và Trần Quốc Đông, giám đốc ban quản lý dự án đường sắt Trần Văn Lục. Trước đó, ông Nguyễn Văn Hiếu, Giám đốc Ban quản lý các dự án đường sắt (thuộc Tổng Công ty Đường Sắt Việt Nam) đẵ bị ngưng chức 15 ngày “để làm rõ thông tin quanh vụ việc này”.

Vụ việc chỉ trở nên ồn ào bất ngờ khi nhật báo Yomiuri Shimbun tiết lộ hôm Thứ Sáu tuần qua rằng chủ tịch công ty Japan Transportation Consultants, Inc., (JTC) thú nhận với viên chức điều tra của chính phủ Nhật là họ đã hối lộ tổng cộng 80 triệu yen (hay $782,640 USD) cho viên chức Việt Nam để trúng thầu dự án đường sắt trị giá 4.2 tỉ yen (hay khoảng $41,088,600 USD) do chính phủ Nhật cấp tín dụng ưu đãi ODA cho Việt Nam.

Hôm Thứ Hai, báo chí cho hay thứ trưởng GTVT Nguyễn Ngọc Đông được cử sang Nhật để “xác minh danh tính cán bộ nhận tiền”. Dự án bị tố giác là Xây dựng đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 1 (hay còn gọi là đường sắt trên cao Hà Nội, đoạn Ngọc Hồi – Yên Viên), vốn vay ODA của Nhật Bản mà Công ty JTC là nhà thầu.

Theo tin tức loan tải, dự án này được nhà cầm quyền trung ương “phê duyệt” năm 2004 và được chia làm các giai đoạn đầu tư xây dựng để phù hợp với nhu cầu khai thác sử dụng, thu xếp nguồn vốn vay ODA. Theo đó, trong giai đoạn 1, dự án có quy mô xây dựng đường sắt đôi trên cao điện khí hóa đoạn Giáp Bát – Gia Lâm dài 15.36 km và khu Tổ hợp ga Ngọc Hồi dài 3.85 km. Tổng mức đầu tư là 19,460 tỉ đồng (13,972 tỉ vay của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), còn lại là đối ứng của Việt Nam; chương trình dự tính từ năm 2008 đến năm 2017. Theo Bộ GTVT Hà Nội, đến nay đã ký hiệp định vay JICA lần 1 với 4.683 tỉ yen cho công tác thiết kế kỹ thuật và hỗ trợ đấu thầu.

Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã tổ chức đấu thầu, tuyển chọn tư vấn từ tháng 4-2008, báo cáo Bộ GTVT phê duyệt kết quả đấu thầu cho liên danh tư vấn do JTC đứng đầu, liên danh với các công ty Nhật Bản khác và các công ty tư vấn Việt Nam. Giá trúng thầu tính đến tháng 10-2012 (sau khi điều chỉnh thời gian thực hiện thêm 11 tháng) là trên 3.6 tỉ yen và trên 236 tỉ đồng Việt Nam.

Giai đoạn 2a với phạm vi tiểu dự án từ Giáp Bát đến Ngọc Hồi dài 5.649 km và kết nối với giai đoạn 1, tổng mức đầu tư trên 24,825 tỉ đồng. Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã tổ chức đấu thầu gói thầu tư vấn thiết kế kỹ thuật giai đoạn 2a, đang thương thảo tài chính với liên danh do JTC đứng đầu, dự trù sẽ ký kết hợp đồng trong tháng 7-2014.

Theo Bộ GTVT cho biết đến nay, dự án đã tiếp nhận 2 khoản vay JICA với tổng giá trị 21.271 tỉ yen, các giai đoạn của dự án đã bắt đầu triển khai từ năm 2008. Việc lựa chọn nhà thầu tư vấn phải tuân thủ các quy định của nhà tài trợ và Luật Đấu thầu của Việt Nam. Dịch vụ tư vấn đã hoàn thành công tác thiết kế kỹ thuật giai đoạn 1 và đang lựa chọn và thương thảo hợp đồng tư vấn giai đoạn 2a, công tác đấu thầu xây lắp chưa được khai triển.

Theo nhận xét của ông Nguyễn Mại, nguyên thứ trưởng Bộ Kế Hoạch – Đầu Tư CSVN, nói trên báo Vietnamnet hôm Thứ Tư 26/3/2014 thì vụ hối lộ để thầu 16 tỉ yen “đã ăn thua gì”. Theo ông “còn nhiều đồng chí chưa bị lộ” cuộc điều tra hối lộ dự án 16 tỉ yen này “mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm”.

Hồi năm 2008, chính phủ Nhật Bản đã loan báo ngưng tháo khoán các ngân khoản tài trợ ODA cho Việt Nam vì chế độ Hà Nội tránh né điều tra quan chức ăn hối lộ của nhà thầu Nhật Bản để cho trúng thầu Dự án đại lộ Đông Tây ở Sài Gòn. Khi ông Huỳnh Ngọc Sỹ, Trưởng ban quản lý dự án này bị bắt giam và truy tố thì tín dụng mới được tái tục.

Vụ án Huỳnh Ngọc Sỹ cũng không phải do nhà cầm quyền CSVN  điều tra khám phá mà cơ quan điều tra của chính phủ Nhật đã truy tố 4 viên chức của nhà thầu tư vấn PCI được báo chí Nhật đưa tin dẫn đến áp lực của chính phủ Nhật buộc Hà Nội phải hành động. Vụ án này cũng chỉ được “chốt” giới hạn ở cá nhân ông Huỳnh Ngọc Sỹ cùng một vài thuộc cấp dù có những chứng cớ nhiều ông lớn ở Hà Nội được chia tiền hối lộ như lời khai của PCI.

Trong mợt bản phúc trình hồi Tháng Bảy 2013, Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International) nói hơn 55% người Việt Nam tin rằng tình trạng tham nhũng hối lộ ở Việt Nam ngày càng tồi tệ hơn. Khi ông Nguyễn Tấn Dũng vừa mới lên làm thủ tướng hồi Tháng Sáu 2006, ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn truyền hình là nếu ông không diệt được tham nhũng, ông sẽ từ chức. Bây giờ, sau gần chục năm và ở giữa nhiệm kỳ thứ hai, ông vẫn còn ngồi đó.

Liệu 14 ông bà đương chức và đã nghỉ hưu ở Bộ GTVT có bị ‘kỷ luật’ gì không? Hiện người ta mới thấy ông nguyên thứ trưởng Lê Mạnh Hùng chối bay chối biến. Khi xảy ra vụ điều tra Dự Án đại lộ Đông Tây ở Sài Gòn, ông Huỳnh Ngọc Sỹ cũng chối không biết gì về số tiền hơn 800,000 USD tiền mặt mà đại diện nhà thầu PCI khai đã đưa cho ông làm nhiều lần. (TN)

 

Tiếp viên Vietnam Airlines bị Nhật bắt

Tiếp viên Vietnam Airlines bị Nhật bắt

Thứ tư, 26 tháng 3, 2014

Vietnam Airlines là hãng hàng không quốc gia của Việt Nam – hình minh họa

Văn phòng của hãng hàng không quốc gia Việt Nam tại Tokyo bị cảnh sát Nhật lục soát, trong khi một tiếp viên bị bắt.

Hãng tin Kyodo của Nhật dẫn lời cảnh sát Tokyo nói về vụ bắt giữ nữ tiếp viên 25 tuổi của Vietnam Airlines hôm 26/3.

Cô Nguyễn Bích Ngọc bị nghi ngờ chuyển quần áo ăn cắp trị giá 125.000 yen lên một chiếc xe buýt đi từ một khách sạn ra sân bay quốc tế Kansai tháng Chín năm ngoái.

Cô bị cáo buộc có dự tính chuyển lậu đồ theo yêu cầu của một phụ nữ 30 tuổi sống tại Nhật, người đã bị truy tố vì tội mua hàng ăn cắp.

Theo cảnh sát, cô Ngọc phủ nhận mọi cáo buộc, nói rằng cô không biết quần áo đã bị đánh cắp.

Cô cũng được dẫn lời nói nhiều đồng nghiệp tại Vietnam Airlines đã chuyển lậu hàng về Việt Nam để có thêm thu nhập.

Theo hãng tin Kyodo, cảnh sát Tokyo còn nghi ngờ khoảng 20 nhân viên khác của Vietnam Airlines có liên quan việc buôn lậu.

Cảnh sát yêu cầu năm người đến trình báo, nhưng tất cả – gồm một cơ phó và bốn tiếp viên – đều đang không có mặt tại Nhật.

Cấm mang vali to

Mới trong tháng Ba, Vietnam Airlines đã cấm tổ bay mang vali to ra nước ngoài sau các cáo buộc nhân viên mang hàng lậu về Việt Nam.

Vietnam Airlines muốn cải thiện hình ảnh

Chỉ thị của Tổng giám đốc Phạm Ngọc Minh yêu cầu từ ngày 17/3, tất cả tổ bay khi thực hiện nhiệm vụ trên các đường bay ngắn/trung chỉ được mang cặp bay hay vali xe kéo nhỏ.

Ông Minh yêu cầu nhân viên “tuân thủ nghiêm ngặt quy định của nước sở tại trong việc mua và vận chuyển hàng hóa đặc biệt đối với các đường bay đi Nhật Bản, Nga và châu Âu. Nghiêm cấm việc mang hành lý, vận chuyển hàng hóa sai quy định.”

Chỉ thị cũng nói các trung tâm khai thác của Vietnam Airlines tại Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Nội Bài, chi nhánh Vietnam Airlines tại nước ngoài, đặc biệt tại Nhật Bản, Nga, Úc và châu Âu phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định này.

Năm 2009, phi công Đặng Xuân Hợp của Vietnam Airlines bị tòa án ở Nhật phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, với thời gian thử thách là 4 năm.

Người này còn bị phạt 500.000 yen Nhật và bị trục xuất về Việt Nam vì liên quan đến đường dây vận chuyển hàng ăn cắp từ Nhật về Việt Nam.

Nhật-Việt cùng phối hợp điều tra nghi án đưa hối lộ

Nhật-Việt cùng phối hợp điều tra nghi án đưa hối lộ

Báo chí Nhật Bản đưa tin về vụ đưa hối lộ.

Báo chí Nhật Bản đưa tin về vụ đưa hối lộ.

VOA Tiếng Việt

25.03.2014

Thông tin ngắn gọn này mới được Đại sứ quán Nhật ở Hà Nội xác nhận với VOA Việt Ngữ hôm 25/3.

Cơ quan đại diện ngoại giao của Nhật cho biết chính phủ nước này ‘đang tích cực phối hợp với chính phủ Việt Nam điều tra thu thập thông tin để làm rõ điều gì đã xảy ra’.

Tờ Yomiuri Shimbun trước đó đưa tin, chủ tịch công ty tư vấn đường sắt JTC khai nhận rằng công ty đã ‘lại quả’ cho quan chức Việt Nam 80 triệu yen (tương đương hơn 16 tỷ VND) để đổi lấy một gói thầu dự án ODA tại Việt Nam trị giá 4,2 tỷ yen.

Theo truyền thông trong nước, Bộ Công an Việt Nam đã vào cuộc, điều tra nghi án. Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Ngọc Đông đã được cử sang Nhật để ‘để tiếp cận các nguồn thông tin về nghi án nhận hối lộ’.

Tiến sỹ Lê Đăng Doanh.

Tiến sỹ Lê Đăng Doanh.

Trao đổi với VOA Việt Ngữ, kinh tế gia Lê Đăng Doanh cho biết ông ‘rất buồn và xấu hổ’ khi nghe tin.

Ông Doanh nhận định rằng vụ đút lót của JTC ‘ảnh hưởng tới mối quan hệ Nhật – Việt đang được nâng cao’ cũng như ‘ảnh hưởng tới việc giải ngân ODA của Nhật’.

“Theo như lần trước [vụ ông Huỳnh Ngọc Sĩ nhận hối lộ của công ty Nhật PCI], Quốc hội Nhật đã có phản ứng và chính phủ Nhật tạm thời đình chỉ việc giải ngân ODA trong vòng sáu tháng. Tôi cũng nghĩ rằng, trong tình hình hiện nay, mặc dầu quan hệ hai bên hết sức là tốt đẹp, rất có thể phía Nhật sẽ phản ứng bởi vì đây là tiền của người dân Nhật đóng thuế và trong quốc hội Nhật thì người ta cũng muốn là điền đóng thuế đó phải được sử dụng một cách có hiệu quả. Cho nên tôi e rằng là trong công luận của Nhật và của nghị viện Nhật sẽ có những phản ứng không thuận lợi đối với việc giải ngân tức thời số vốn của Nhật đối với Việt Nam.”

Hồi năm 2008, tờ Yomiuri Shimbun cũng từng đưa tin về việc ông Huỳnh Ngọc Sĩ, Phó Giám đốc Sở Giao thông Vận tải đồng thời là Giám đốc Ban Quản lý Dự án Đại lộ Đông Tây thành phố Hồ Chí Minh khi ấy, nhận hối lộ từ công ty Tư vấn Quốc tế Thái Bình Dương của Nhật để cho công ty này thắng thầu dự án.

Vụ việc đã khiến ông Sĩ phải nhận án tù chung thân vì tội ‘nhận hối lộ’, và Nhật tạm thời đóng băng việc cấp vốn ODA cho Việt Nam.

Theo kinh tế gia Lê Đăng Doanh, Nhật là nguồn cung cấp vốn ODA lớn nhất cho Việt Nam và số vốn này đóng góp vào sự phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam.

Nghi án hối lộ mới nhất đã thu hút được sự quan tâm của dư luận ở trong nước, và trở thành một đề tài ‘nóng’ trong mấy ngày qua.

Nhà hoạt động chống tham nhũng Lê Hiền Đức.

Nhà hoạt động chống tham nhũng Lê Hiền Đức.

Cụ bà chống tham nhũng Lê Hiền Đức nói với VOA Việt Ngữ rằng bà hy vọng vụ việc sẽ được điều tra rốt ráo.

“Không có lửa thì không thể có khói được. Khi đã có thông tin, chắc chắn là có tham nhũng. Bây giờ phải có những người công tâm mà điều tra ra và trả lời công khai với người dân trong nước Việt Nam và trên toàn thế giới. Thế thì mới có thể tin được”.

Báo chí trong nước hôm 24/3 đã đăng tải tên và chức vụ của một số giới chức ngành đường sắt bị đình chỉ công tác để làm rõ vụ việc liên quan tới công ty JTC.

Trả lời báo điện tử VnExpress về việc xử lý vi phạm nếu việc đưa và nhận hối lộ là đúng, Tổng giám đốc Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam Nguyễn Đạt Tường nói rằng ‘đây là việc lớn, liên quan đến sinh mệnh chính trị của người khác nên không thể vội vàng đưa ra đánh giá được’.

Tiến sỹ Doanh nói ông hy vọng sự việc ‘sẽ lại soi rọi một ánh sáng nữa, một tia sáng nữa vào việc chống tham nhũng và Việt Nam sẽ rút ra những bài học nghiêm chỉnh để sửa đổi luật pháp và tăng cường sự giám sát để tránh những vụ việc sẽ diễn ra, lặp lại trong tương lai’.

Mùa đói Tây Bắc khởi sự

Mùa đói Tây Bắc khởi sự

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-03-20

RFA

tay-bac-305.jpg

Một ngôi nhà của người dân tộc thiểu số ở vùng đồi núi Tây Bắc.

RFA

Với đồng bào thiểu số Tây Bắc, đặc biệt là ở các tỉnh Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, chuyện đói hằng năm vào mùa giáp hạt đã thành chuyện thường niên, đến hẹn lại lên. Và để đối phó với nạn đói, người đồng bào thiểu số Tây Bắc nghĩ ngay đến chuyện vào rừng hái củ mài hoặc đi lượm rác ở các khu vực du lịch để sống vật vờ qua ngày. Suốt bao nhiêu năm nay, cái vòng lẩn quẩn bươn chải quanh năm trên rẫy, trên ruộng bậc thang để rồi đến tháng hai, tháng ba, lại đói vật vờ.

Đói ăn, thiếu đất canh tác

Bà Bạch, người dân La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, chia sẻ: “Một mùa được một bao lúa. Rồi gắng làm thứ khác rồi mua một cân, hai cân mang về cả nhà ăn. Rồi húp một tý cháo, cả nhà ăn. Sau rồi, không có lúa, không có ruộng làm ăn. Phải đi làm, rồi lại mua một cân, hai cân mang về cả nhà nấu cháo ăn.”

Theo bà Bạch, phần đông đồng bào thiểu số các dân tộc H.Mong, Thái, Dao Đỏ… đều rơi vào nạn đói vì diện tích đất canh tác của họ tuy có nhiều chăng nữa cũng quá cằn cỗi bởi ảnh hưởng của núi đá vôi và nguồn nước không ổn định. Có nhiều gia đình muốn đến vùng đất canh tác phải lội cả ngày dài đường đá tai mèo, đến nơi chặt lá rừng che láng tạm qua đêm để sáng mai làm ruộng. Thế nhưng có khi đến nơi rồi phải quay trở về vì không có mưa, đất quá khô cằn hoặc trời quá lạnh, không thể tỉa hạt lúa xuống đất, lại phải cuốc bộ cả ngày trời để về nhà, đợi trời mưa.

La Pán Tẩn là một trong những xã nghèo nhất của huyện nghèo Mù Cang Chải. Xã có 621 hộ thì 90,7% trong số đó là hộ nghèo, mỗi năm thiếu ăn định kỳ mùa giáp hạt từ 3- 5 tháng. Cái đói, cái nghèo bao vây, hoành hành La Pán Tẩn một phần bắt nguồn từ điều kiện quá khắc nghiệt, phần khác bởi chính sách không thiết thực, qua loa lấy lệ của nhà cầm quyền.

Trồng trọt thì đất bạc màu, chăn nuôi thì dịch bệnh, những người dân La Pán Tẩn đang phải nuôi gà theo kiểu treo lồng trên ngọn cây để chống dịch cúm. Bảy bản nhưng chỉ có 235 hecta ruộng một vụ nên vụ nào tốt thì sản lượng lúa được một tạ rưỡi mỗi sào, nhưng đa phần chỉ được một tạ mỗi sào, thấp bằng 25% so với ruộng miền xuôi. Với 235 hecta ruộng chia cho 621 hộ nên hộ nào nhiều cũng chỉ được vài tạ gạo một năm.

tay-bac-2-250.jpg

Một phiên chợ chiều của người dân tộc thiểu số Tây Bắc. RFA PHOTO.

Chung cảnh ngộ với La Pán Tẩn là các xã Mường Khoa và Phúc Khoa, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu, xã Kim Sơn, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Những nơi mà đói tháng ba như một nỗi ám ảnh thường xuyên, dai dẳng đến mức nghe có đoàn cứu trợ về bà con bỏ hết mọi thứ để đi nhận gạo, để ngồi chờ từ sáng tinh mơ, đến chiều tà lại nhuễ nhại mồ hôi gùi gạo về nhà.

Tiêu biểu và cùng cảnh ngộ với nhiều người dân nghèo khác, bà Lò Thị Lọ ở bản Nà Cại là một người đàn bà bị xem như không có tuổi. Một phần vì bà không nhớ mình sinh năm bao nhiêu, phần nữa là vì vẻ hốc hác, khắc khổ trên gương mặt, trên bộ quần áo cũ nát trong một căn nhà rách nát chẳng khác nào cái chòi vịt miền xuôi. Mà hình như không riêng gì căn nhà của bà giống cái chòi vịt, hầu như nhà cửa ở các bản làng nơi đây đều thế.

Một số nơi ở tỉnh Hà Giang, chuyện đói kém cũng tương tự và cho dù người dân có nỗ lực bao nhiêu, đói vẫn cứ đói. Xóm Hạ Sơn có 39 hộ với trên 200 nhân khẩu. Sau nhiều năm về nơi ở mới, đường đã dễ đi hơn, điện đã về làng nhưng cuộc sống của bà con vẫn cứ cơ cực. Sau mười bốn năm mà chưa có hộ nào thoát khỏi cảnh nghèo, thậm chí còn rất nhiều hộ thiếu đói lương thực cần phải trợ cấp.

Bà con về đây cũng được giao đất để khai hoang làm nương, ruộng bậc thang, hộ nào cũng chịu khó nên chẳng mấy chốc đã hoàn thành việc khai hoang, tạo nên những nương, thửa ruộng bậc thang quanh thôn để trồng ngô, lúa. Tuy nhiên, diện tích phân cho bà con được ít quá, đến nay 39 hộ dân với gần trên 200 nhân khẩu chỉ có tổng cộng trên 22 hecta đất sản xuất.

Bà con muốn khai hoang nữa cũng không còn đất bởi đất đồi, rừng quanh thôn đều đã bị quản lý từ trước rồi. Không những thế, 22 hecta đất sản xuất đều là đất bạc màu ven đồi, trước kia là những bãi cỏ may, trồng cây gì cũng còi cọc nhưng điều kiện kinh tế của bà con quá khó khăn nên cây ngô, cây lúa ở đây năm nào cũng có năng suất thấp nhất xã.

Trẻ em đối diện nguy cơ mù chữ

tay-bac-250.jpg

Nhà của người dân tộc thiểu số ở vùng đồi núi Tây Bắc. RFA PHOTO.

Chuyện có đủ cái ăn, no bụng để đến trường, ngồi trong lớp mà không bị ngáp đói, không bị buồn ngủ đối với trẻ em Tây Bắc nghe ra quá xa vời. Trường La Pán Tẩn có gần 800 học sinh nhưng chỉ có vỏn vẹn 60 em được ở nội trú nhờ nhà trường tận dụng phòng học mà dựng lên. Số còn lại phải trọ học trong những căn lều của người dân địa phương dựng tạm để trông coi thóc lúa khi thu hoạch. Từ bốn đến năm em loay hoay trong một túp lều như thế. Không điện, không nước, không nhà vệ sinh, không có gì cả ngoài sự gian khổ và đói.

Kể từ khi có đề án hỗ trợ của nhà nước, mỗi học sinh được nhận 332 nghìn đồng một tháng. Chia bình quân ngày 2 bữa, mỗi bữa 5.500 đồng cho mỗi học sinh.

Nhưng không hiểu khoản tiền ấy được sử dụng như thế nào mà cô hiệu trưởng nhà trường lại phàn nàn rằng khó khăn lắm, tiếng là nội trú dân nuôi, nhưng mùa giáp hạt hầu hết các gia đình đều không lo nổi gạo để ăn thì lấy gì mà đóng góp, lấy gì nuôi các em! Và các em đói vẫn cứ đói, bữa ăn của các em không có gì ngoài cơm, muối và rau rừng.

Trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở xã Mường Khoa, nơi 100% học sinh nội trú người dân tộc thiểu số, dù đã chuyển đổi theo mô hình hỗ trợ từ tháng 8 năm 2011 nhưng đến nay, hơn 3 năm sau, học sinh vẫn phải ở ghép, chưa có bếp ăn, thiếu thốn mọi bề.

Riêng tiền mua gạo cho học sinh, hiệu trưởng trường đã chỉ ra hàng loạt khó khăn: Vào mùa giáp hạt người dân địa phương hầu như chẳng đóng góp được gì, học sinh đi học nhưng cứ nghĩ đến gia đình đang đói quay đói quắt nên chữ nghĩa cũng chẳng vào được bao nhiêu. Hơn nữa, thiếu ăn, các em đến lớp cứ gật gù, vật vờ, học cả ngày mà hiểu chẳng được bao nhiêu, điều này làm cho nhiều giáo viên đâm ra nản chí, muốn bỏ nghề.

Với đà người lớn luôn thiếu đói, trẻ em thì không có cơ hội đến lớp bởi còn phải lo phụ giúp gia đình kiếm cái ăn, hầu như đời sống vẫn còn đầy bóng tối nguyên thủy, e rằng, Tây Bắc sẽ còn đối diện với cái đói rất dài, mặc dù hiện tại, đang là thế kỷ 21!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Thân phận nông dân Việt Nam

Thân phận nông dân Việt Nam

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-03-25

000_Hkg9232650-600.jpg

Thu hoạch bắp cải trên một cánh đồng ở ngoại ô Hà Nội ngày 26 tháng 11 năm 2013

AFP photo

Người nông dân VN tự ngàn xưa đã phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Rồi kể từ ngày Bác Hồ ra sức mang lại “người cày có ruộng” để “ai cũng có cơm ăn, áo mặc”, thì thân phận người trồng lúa hiện giờ có khá hơn không?

Đời nào cũng khổ

Giữa lúc người nông dân VN, như công luận đã rõ, trên thực tế, hầu như “đời nào cũng khổ” dù được “tôn lên” là thuộc “liên minh công-nông tiên tiến” “đưa đất nước ta vững bước vào thiên niên kỷ thứ ba trong sự lãnh đạo tài tình của đảng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, thì tại ĐBSCL, “vựa lúa gạo, trái cây, thủy sản lớn nhất nước” – nói theo lời Vụ trưởng Vụ Kinh tế Trần Hữu Hiệp của Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, một nông dân than rằng:

Nói chung, thu nhập nông dân hiện rất thấp trong bối cảnh vật giá leo thang, mọi mặt hàng tiêu dùng đâu có hạ giá trong khi nông dân bán lúa bị hạ giá. Mà một phần cũng tại “ông Hiệp hội” cứ ép giá khiến nông dân phải bán lúa rẻ, nên chịu khổ. Nông dân giờ ở đâu cũng đều khổ hết !

Một nông dân ở An Giang cũng than về thân phận người trồng lúa:

Làm ruộng mấy năm trước, cái giá lúa có thì nông dân cũng đỡ. Chớ còn mấy năm nay, cái giá lúa nó không có đó. Hầu như là tòan bộ nông dân cũng khổ lắm. Rốt cuộc thì nông dân chịu thiệt thòi !

Theo Vụ trưởng Trần Hữu Hiệp vừa nói thì “Người nông dân không định được từ giá thành đến giá bán các sản phẩm nông nghiệp của mình. Thực tế là, thu nhập của những người tạo ra kỳ tích cho nền nông nghiệp Việt Nam vẫn đang bấp bênh theo giá cả thị trường. Một kết quả nghiên cứu về ‘Chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo’ cho thấy, với bình quân đất sản xuất hiện tại, một gia đình thuần nông không thể làm giàu. Sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, nên 30% lợi nhuận của nông dân (nếu có) chia cho số nhân khẩu trong hộ còn thấp hơn mức thu nhập một đô la Mỹ/người/ngày !”.

Hồi tháng Giêng vừa rồi, nông dân Hồ Thị Kim Phượng thuộc xã Long Sơn, huyện Cần Đước, tỉnh Long An có viết bài “Làm người nông dân sao khổ thế!”, tâm sự rằng “ có lẽ ở VN ta không nghề nào cực khổ, đen đủi hơn nghề nông. Từ lúc làm ra hạt giống để gieo sạ là đã khổ rồi…Hạt giống lên rồi thì phải vay mượn tiền ngân hàng mà trả tiền cày xới, mua phân bón, thuốc trừ sâu rầy…. với cái giá đại lý hét bao nhiêu chúng tôi phải trả bấy nhiêu, không có quyền cò kè trả giá thêm bớt đồng một đồng hai”.

“  Nói chung, thu nhập nông dân hiện rất thấp trong bối cảnh vật giá leo thang, mọi mặt hàng tiêu dùng đâu có hạ giá trong khi nông dân bán lúa bị hạ giá.
Nông dân giờ ở đâu cũng đều khổ hết !
– Ông Trần Hữu Hiệp ”

Ngòai tình trạng mà báo chí trong nước gọi là những “cú sốc giá”, hay nói như lời người nông dân Kim Phượng, “điệp khúc (muôn đời) trúng mùa mất giá”, thì người nông dân hết bị thiên tai lại gặp “nhân tai”, như nạn thủy điện xã lũ làm thiệt hại hoa màu, thậm chí chết người, rồi đèn đường cao tốc làm cây lúa không trổ bông…

Lên tiếng với báo Dân Trí,  TS Nguyễn Lân Dũng từ Hà Nội lưu ý rằng trong khi người nông dân VN, “họ khổ như vậy nhưng chúng ta có những chính sách làm họ khổ thêm” !

Sau khi “thấm thía” tình cảnh người nông dân qua tác phẩm “Chân trời vỡ đôi” báo động “thực trạng đau lòng về nông dân VN từ hơn nửa thế kỷ này là giai cấp luôn bị lợi dụng và lạm dụng”, “vẫn không thoát khỏi bi kịch khốn khổ, buồn đau bởi nghèo đói và đủ thứ đè nén, lừa gạt”, như một “điềm báo” cho thân phận dân oan Đòan Văn Vươn, nhà văn Nguyễn Hiếu không quên lưu ý rằng “ Gần hai mươi năm qua kể từ khi hội nhập và đổi mới, cơn bão các dự án công nghiệp tràn ngập vào nước ta huỷ hoại một cách tàn khốc những cánh đồng và môi trường Việt Nam…Những sản vật tôm cá đặc sản của các dòng sông, dòng kênh của cả nứơc ta đang chết dần chết mòn đi đến huỷ diệt vì chất thải công nghiệp, vì cách đánh bắt không nghĩ đến ngày mai …”.

Bị bóc lột thậm tệ

000_APH2002010775969-250.jpg

Nông dân cuốc đất chuẩn bị cho vụ mùa mới. AFP photo

Qua bài “ Nông dân – người khổ nhất nước ta hiện nay ?”, nhà văn Nguyễn Hiếu mô tả:

Những cánh đồng mầu mỡ, thẳng cánh cò bay bị tàn sát không thương tiếc thì người đón nhận thiệt hại đầu tiên là nông dân. Một thủa người nông dân vui mừng được chia ruộng, rồi lại thu lại bị lùa vào hợp tác để rồi đẻ ra tình trạng “mỗi người làm việc bằng hai để cho chủ nhiệm mua đài mua xe”. Và ngày nay giá đất đền bù cho mỗi mét đất màu mỡ trong mảnh ruộng nuôi sống người nông dân hàng ngàn đời chỉ bằng một phần trăm giá khi người ta dựng lên những khu đô thị, khu công nghiệp.

Người nông dân mất ruộng và mất luôn hi vọng trước những lời hứa về khu định cư, về việc làm…Cuối cùng chỉ là những lời hứa hão trước những khu tồi tàn, và con cái họ đã trở thành đội quân thất nghiệp trên chính quê hương, mảnh đất của mình. Bi kịch của người nông dân xuất hiện từ đây !

Cái “bi kịch nông dân” ấy được nhà văn Phạm Đình Trọng từ Saigòn bổ sung thêm:

Cái khổ lớn nhất của nông dân bây giờ là họ bị mất đất đai. Đó mới là điều nguy hiểm ! Tức là trong số người dân VN hiện nay, thì giới nông dân là khổ nhất và cuộc sống của họ bị đe dọa đến tận cùng rồi. Người nông dân phải thay trâu cày cũng đã là khổ rồi, nhưng cái nguy hiểm hơn là đất của họ có thể bị tước mất vào bất cứ lúc nào. Đó mới là điều đen tối, nguy hiểm và bi đát của người nông dân ngày nay.

Nhà báo Trúc Lê trong nước nhận thấy “ người nông dân cho dù cố bảo vệ ruộng đồng của họ thì cuối cùng vẫn bị phá vỡ. Họ không có khả năng chống cự lâu dài được. Đến lúc đó, có những điều tồi tệ sẽ đến. Và vụ việc ở Tiên Lãng, Hải Phòng là một trong những điều tồi tệ đó…, cho thấy một cách xử lý bất hợp lý ( và vô nhân) của chính quyền với người nông dân. Song điều hệ trọng hơn là chính quyền đã không hiểu và không có cảm xúc về lịch sử và công lao của người nông dân với đồng ruộng của họ”.

“ Người nông dân ngày nay bị bóc lột thậm tệ nhất chủ yếu là do các nhóm lợi ích cấu kết với các thế lực, quyền lực. Pháp luật hiện hành cùng chính quyền hòan tòan không đứng về phía người nông dân.
– Nhà văn Phạm Đình Trọng”

Nhà văn Phạm Đình Trọng xem chừng như không dằn được bực tức:

Bây giờ là cái thời của các nhóm lợi ích. Và các nhóm này cấu kết với giới quyền lực để cướp bóc người nông dân. Hiện giờ không có gì để bảo vệ người nông dân cả. Người nông dân ngày nay bị bóc lột thậm tệ nhất chủ yếu là do các nhóm lợi ích cấu kết với các thế lực, quyền lực. Pháp luật hiện hành cùng chính quyền hòan tòan không đứng về phía người nông dân.

Nói đến đây, có lẽ người ta không khỏi liên tưởng đến nguyện vọng tột cùng của Bác Hồ dành cho người dân Việt là “Ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, nên Bác đã nỗ lực mang lại cảnh “người cày có ruộng”. Cái cảnh đó hiện giờ ra sao công luận đã rõ; nhưng nếu có, thì đó lại là hình ảnh “khổ nhất nước’ của giới chân lấm tay bùn – mà nói theo nhà thơ Trần Ngọc Thụ:

Ông lão dắt trâu đi bừa

Là con ông lão ngày xưa đi cày.

 

Sáu cán bộ ngân hàng bị tạm giam

Sáu cán bộ ngân hàng bị tạm giam

RFA 25.03.2014

Sáu cán bộ ngân hàng Phát triển VN bị tạm giam hồi sáng hôm qua để điều tra. Đây là những cán bộ có chức danh từ Giám đốc cho tới cán bộ phòng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng phát triển Việt Nam chi nhánh tại tỉnh Cà mau.

Theo bản tin của báo mạng VNexpress thì những người này bị tạm giam để điều tra việc một số vốn lớn của ngân hàng phát triển VN lên đến hàng ngàn tỉ đồng bị dùng sai mục đích thay vì cho các doanh nghiệp thủy sản địa phương vay với lãi suất thấp.

Bản tin không nói rõ việc dùng sai mục đích là như thế nào, nhưng có đề cập đến một vài công ty xí nghiệp thủy hải sản có vay tiền nhưng không hoàn trả lại theo đúng qui định là từ 5 đến 10 năm.

Hệ thống ngân hàng Việt nam được cho là có nhiều sai phạm với các món nợ xấu chồng chéo lên nhau. Vào năm 2012 Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại lớn là Ngân hàng Á châu là ông Nguyễn Đức Kiên đã bị bắt giam để điều tra.

 

Việt Nam suýt ‘bị lừa’ để ôm khoản nợ gần $56 tỷ

Việt Nam suýt ‘bị lừa’ để ôm khoản nợ gần $56 tỷ
March 25, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Vụ nhận hối lộ 80 triệu Yen vừa đổ bể khiến người ta liên tưởng đến nỗ lực vận động thực hiện “Dự án đường sắt cao tốc Bắc ố Nam,” trị giá gần 56 tỷ USD, bị bác hồi 2010.

Vừa qua, do có một số dấu hiệu cho thấy công ty Tư Vấn Giao Thông Nhật Bản (Japan Transport Consultants – JTC) đã đưa hối lộ để được chọn làm nhà thầu, tư vấn cho các dự án thực hiện bằng viện trợ của Nhật ở Việt Nam, Indonesia, Uzbekistan, vi phạm luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Nhật, các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhật đã mở một cuộc điều tra. Cuối cùng, ông Tamio Kakinuma, chủ tịch kiêm tổng giám đốc JTC, thú nhận đã đưa hối lộ ở cả ba quốc gia.

Một ga xe lửa ở Việt Nam. Scandal JTC khiến Việt Nam phải xem lại gần như toàn bộ các dự án phát triển đường sắt. (Hình: KN/Người Việt)

Riêng tại Việt Nam, JTC đã hối lộ 80 triệu Yen (khoảng 800 ngàn USD, tương đương 16 tỷ đồng Việt Nam,) để được chọn làm nhà thầu đảm trách vai trò tư vấn thực hiện một dự án phát triển đường sắt ở miền Bắc Việt Nam, trị giá 4,2 tỷ Yen.

Hồi tháng 6 năm 2010, sau khi dân chúng, báo giới và các chuyên gia phản đối quyết liệt kế hoạch thực hiện “Dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam” vì bất hợp lý, lãng phí quá lớn, chỉ tạo thêm khoản nợ khổng lồ cho quốc gia, dân tộc, Quốc Hội Việt Nam đã bác bỏ việc thực hiện dự án này, dù dự án cũng được xác định là chủ trương lớn của đảng, nhà nước.

Lúc đó, “Dự án đường sắt cao tốc Hà Nội-Sài Gòn” được xác định là “Dự án chiến lược của đường sắt Việt Nam,” nằm trong quy hoạch phát triển tổng thể đến năm 2020. Theo đó, sẽ xây dựng mới tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam dài 1.570 km, với 27 ga, ngốn hết 55 tỷ 850 triệu USD. Vào lúc trình dự án, các viên chức ngành giao thông-vận tải đã thuê các doanh nghiệp Nhật và Nam Hàn khảo sát, nghiên cứu lập báo cáo đầu tư.

Mới đây, khi trò chuyện với VTC News, ông Lê Như Tiến – một viên chức Quốc Hội Việt Nam, tâm sự, sự hăng hái, nhiệt tình của một số cá nhân hồi 2010 đối với “Dự án đường sắt cao tốc Hà Nội-Sài Gòn” đã từng khiến ông ta thấy nghi ngờ. Ông Tiến tiết lộ thêm rằng, lúc đó các viên chức ngành giao thông- vận tải từng tổ chức đưa một số cá nhân ra nước ngoài tham quan “đường sắt cao tốc” để tìm sự ủng hộ.

Từ khi “Dự án đường sắt cao tốc Hà Nội- Sài Gòn” bị bác, các viên chức ngành giao thông-vận tải Việt Nam đã “chẻ nhỏ” dự án này để quy mô đầu tư có thể chỉ cần thủ tướng Việt Nam phê duyệt, chứ không cần thông qua Quốc Hội.

Tin mới nhất về những bê bối liên quan đến lĩnh vực phát triển đường sắt tại Việt Nam cho biết, trên thực tế, JTC-công ty Nhật đưa hối lộ để được chọn làm nhà thầu đảm trách công việc tư vấn cho một dự án phát triển đường sắt tại miền Bắc Việt Nam -ã vốn đã được chọn làm nhà thầu chào 14 dự án phát triển giao thông! Riêng trong lĩnh vực đường sắt, JTC được chọn làm nhà thầu của 5 dự án.

Vụ nhận hối lộ từ JTC đổ bể do điều tra của Nhật. Người ta chưa rõ nếu Nam Hàn cũng thực hiện cuộc điều tra tương tự thì có phát giác nhà thầu Nam Hàn được chọn để “khảo sát, nghiên cứu lập báo cáo đầu tư” cho “Dự án đường sắt cao tốc Hà Nội-Sài Gòn,” có phải đưa hối lộ như JTC hay không (?)

Sau khi những thông tin liên quan đến vụ đưa hối lộ của JTC được tờ Yomiuri Shimbun loan tải, chính quyền Việt Nam đã “tạm đình chỉ công tác” của ông Nguyễn Văn Hiếu, người đang là giám đốc ban quản lý các dự án đường sắt Việt Nam của tổng công ty đường sắt để “làm tường trình.”

Kế đó, họ tiếp tục “tạm đình chỉ công tác để làm tường trình” đối với các ông: Trần Văn Lục, giám đốc ban quản lý các dự án đường sắt Việt Nam của Cục Ðường Sắt thuộc Bộ Giao Thông-Vận Tải và Trần Quốc Ðông, Ngô Anh Tảo hiện đang cùng là phó tổng giám đốc của tổng công ty đường sắt Việt Nam.

Việt Nam cũng đã cử một viên thứ trưởng Giao Thông-Vận Tải sang Nhật để tìm thêm thông tin về vụ đưa – nhận hối lộ mà theo báo giới Nhật, đã được ông Tamio Kakinuma, chủ tịch kiêm tổng giám đốc JTC, khai báo chi tiết, song các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhật chưa công bố…

Chiều 24 tháng 3, một viên tướng là tổng cục phó Tổng Cục Cảnh Sát Phòng, Chống Tội Phạm, của Bộ Công An Việt Nam cho biết, công an Việt Nam đã yêu cầu thuộc cấp phối hợp với thanh tra của Bộ Giao Thông-Vận Tải, xem xét lại toàn bộ các dự án xây dựng đường sắt đô thị ở Hà Nội, xem có sai sót, vi phạm gì không.

Viên tướng này nói thêm rằng, công an Việt Nam sẽ thực hiện việc xác minh tin báo, tố giác về tội phạm cũng như thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nếu Nhật có yêu cầu.
Cùng thời điểm này, Bộ Giao Thông -Vận Tải Việt Nam đã quyết định thanh tra đột xuất hàng loạt dự án dự án đường sắt do tổng công ty đường sắt làm chủ đầu tư và những dự án có JTC tham gia: Dự án xây dựng đường sắt nội đô Hà Nội (tuyến Ngọc Hồi- Yên Viên), dự án xây dựng đường sắt đoạn Hạ Long-Cái Lân, Lim-Phả Lại, Phả Lại- Hạ Long. Các tiểu dự án do Cục Ðường Sắt thuộc bộ này làm chủ đầu tư cũng sẽ bị thanh tra.

Sự tích cực của Việt Nam sau scandal JTC được xem là vì Nhật luôn dẫn đầu trong việc cấp ODA cho Việt Nam và hồi 2010, Nhật từng cắt viện trợ do Việt Nam không quyết tâm điều tra vụ nhận hối lộ của PCI – một doanh nghiệp khác của Nhật – để chọn doanh nghiệp này làm nhà thầu đảm trách vai trò tư vấn cho dự án đại lộ Ðông-Tây ở Sài Gòn. (G.Ð)

 

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng

Chuacuuthe.com

140324005

VRNs (24.03.2014) – Đức Quốc – Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng”.

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài. Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui?

Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam như là một cuộc “giải phóng”. Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai? Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến hai triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân”. Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của MaoTrạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân”.

Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.

Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép”, câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ trẻ trong chiến tranh với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.

Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?

Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất.

Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).

Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Ông Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:

Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!”

Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố”.

Ông Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.

Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận. Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.

Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Kitô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.

Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

Uwe Siemon-Netto

Trích đoạn kết của: A reporter’s love for a wounded people

 

Đáp án Nước Trời

Đáp án Nước Trời

TRẦM THIÊN THU

VRNs (25.3.2014) – Sài Gòn – Phàm điều gì hoặc cái gì được biết rõ thì người ta mới mơ ước, khao khát. Thế nhưng không ai biết gì về Nước Trời, vậy mà ai cũng mơ ước cháy lòng. Lạ thật!

Chỉ có ba môn đệ được “nếm thử” hạnh phúc Nước Trời khi Chúa Giêsu cho họ thấy Ngài biến hình, rồi đàm đạo với ông Mô-sê và ông Ê-li-a (Mt 17: 1-8; Mc 9:2-8; Lc 9:28-36), và một vài vị thánh cũng được thị kiến về Thiên Đàng. Còn chúng ta hoàn toàn mù tịt.

Kinh thánh giúp chúng ta nhận biết Nước Trời.

Trên Nước Trời, chúng ta có kết hôn?

Minh họa. Ảnh goole

Minh họa. Ảnh goole

Chúa Giêsu nói: “Trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:30). Mối liên kết hôn nhân là “hình bóng” của Chúa Giêsu và Giáo hội lữ hành. Trên trời không còn hôn nhân như phàm nhân nữa.

Trên Nước Trời, chúng ta có thân xác?

Thánh Phaolô nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3:20-21).

Trên Nước Trời, có âm nhạc?

Có loại âm nhạc khác, không giống như nhạc thế gian. Kinh thánh có những chỗ nói tới âm nhạc. Khi Chúa Giêsu giáng sinh, các thiên thần đồng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Sách Khải Huyền cũng cho biết rằng người ta đồng ca “Bài Ca Mới” (x. Kh 5:9-13).

Trên Nước Trời, chúng ta có nhận biết thân nhân và bạn bè?

Khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu nói: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26:29). Những người đã chết từ lâu mà các môn đệ vẫn có thể “nhận diện” là Mô-sê và Ê-li-a cùng đàm đạo với Chúa Giêsu (Mt 17:3).

Trên Nước Trời, điều gì sẽ xảy ra?

Kinh thánh nói: “Họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa” (Kh 7:15-16).

Trên Nước Trời, chúng ta có giới tính?

Chúa Giêsu đã quả quyết rằng mọi người “như thiên thần” (Mt 22:30; Mc 12:25). Chắc chắn có sự biến đổi tâm linh để nên giống hình ảnh Thiên Chúa hoàn toàn, không còn ngoại hình như phàm nhân, tức là không còn giới tính.

Trên Nước Trời, chúng ta có nhìn thấy Thiên Chúa?

Chắc chắn là CÓ! Nhưng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33:20). Thánh Phaolô khao khát: “Chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5:8). Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8).

Trên Nước Trời, chúng ta sống thế nào?

Thánh Phaolô nói: “Công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng” (1 Cr 3:13).

Trên Nước Trời, có các động vật?

Từ tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã có mục đích cho mọi loài. Kinh thánh không trực tiếp đề cập sự sống đời sau, nhưng ngôn sứ I-sai-a mô tả: “Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò, còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá” (Is 65:25). Rõ ràng không còn nguy hiểm. Điều đó ngụ ý nói sự bình an trong Nước Trời và mọi loài vui mừng.

Nước Trời như thế nào?

Thánh Phaolô nói: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2:9). Sách Khải Huyền cho chúng ta một cái nhìn: “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc. Chung quanh ngai có hai mươi bốn ngai khác, và trên những ngai đó có hai mươi bốn vị Kỳ Mục; các vị đang ngồi, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên vàng. Từ ngai phát ra ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét. Bảy ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy sáng trước ngai. Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê. Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy những mắt. Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt. Ngày đêm chúng không ngừng hô lên rằng: Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã có, hiện có và đang đến!” (Kh 4:3-8). Khắp nơi là sự hiện diện và vẻ đẹp chói ngời của Thiên Chúa (x. Kh 21:23). Nước Trời được ví như Thành Giêrusalem Mới (Kh 3:12; Kh 21:2). Kinh Lạy Cha cho chúng ta biết rằng “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, đó là “thiết kế” của Nước Trời.

Trên Nước Trời, chúng ta sẽ làm gì?

Thánh Gioan nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:3-4).

Trên Nước Trời, chúng ta có trở thành thiên thần?

Chúa Giêsu nói rằng chúng ta sẽ “như các thiên thần” (Mt 22:30; Mc 12:25). Còn Thánh Gioan cho biết: “Thiên thần bảo tôi: ‘Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!’. Người lại bảo tôi: ‘Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa’. Tôi phủ phục xuống dưới chân người mà thờ lạy, nhưng người nói: ‘Đừng, đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như ông và như các anh em của ông, những người giữ lời chứng của Đức Giêsu. Hãy thờ lạy Thiên Chúa’. Lời chứng của Đức Giêsu, là thần khí linh hứng cho ngôn sứ” (Kh 19:9-10).

Nước Trời có cổng hoặc cửa?

Thị kiến của Thánh Gioan: “Thành hình vuông: chiều dài cũng bằng chiều rộng. Rồi người lấy cây sậy đo thành, được mười hai ngàn dặm: chiều dài, chiều rộng và chiều cao đều bằng nhau. Người đo tường thành được một trăm bốn mươi bốn thước, theo thước đo của loài người cũng là của vị thiên thần. Tường xây bằng ngọc thạch, thành thì bằng vàng y, giống như thủy tinh trong sáng. Nền móng tường thành được trang trí bằng mọi thứ đá quý. Nền móng thứ nhất bằng ngọc thạch, nền móng thứ hai bằng lam ngọc, nền móng thứ ba bằng lục ngọc, nền móng thứ tư bằng bích ngọc, nền móng thứ năm bằng mã não, nền móng thứ sáu bằng xích não, nền móng thứ bảy bằng kim châu, nền móng thứ tám bằng lục châu, nền móng thứ chín bằng hoàng ngọc, nền móng thứ mười bằng kim lục, nền móng thứ mười một bằng huỳnh ngọc, nền móng thứ mười hai bằng tử ngọc. Mười hai cửa là mười hai khối ngọc trai; mỗi cửa là một khối ngọc duy nhất. Quảng trường của thành bằng vàng y như thủy tinh trong suốt. Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi. Các dân ngoại sẽ tiến bước theo ánh sáng của thành, và vua chúa trần gian đem kho tàng vinh quang tới đó. Ngày nọ qua ngày kia, cửa thành không bao giờ đóng, vì ở đấy sẽ chẳng có đêm. Thiên hạ sẽ đem tới đó kho tàng vinh quang và sự giàu sang của các dân ngoại. Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào” (Kh 21:16-27).

Nước Trời có đủ chỗ cho chúng ta?

Chúa Giêsu nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14:1-4).

Trên Nước Trời, chúng ta có làm việc?

Sách Khải Huyền nói: “Sẽ không còn lời nguyền rủa nào nữa. Ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên sẽ đặt trong thành, và các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người” (Kh 22:3). Những người tôi trung sẽ được “hưởng niềm vui của chủ” (Mt 25:23). Không còn cực nhọc, chỉ có vui hưởng phần thưởng.

Trên Nước Trời, có sự cai trị?

Ông Phi-la-tô muốn tha Chúa Giêsu nhưng sợ hơn đám dân nổi loạn.9 Ông trở vào dinh và nói với Chúa Giêsu: “Ông từ đâu mà đến?”. Nhưng Đức Giêsu không trả lời. Ông Phi-la-tô nói: “Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”. Đức Giêsu đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11).

Trên Nước Trời, chúng ta cảm thấy thế nào?

Kinh thánh cho biết: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17). Vương quốc của Thiên Chúa là sự công chính, hòa bình và vui mừng trong Chúa Thánh Thần. Các phẩm chất tốt lành đó đầy ắp trong “không khí” của Nước Trời.

Nước Trời có là nơi thật?

Thánh Phaolô nói: “Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11:8-12). Nước Trời là một nơi vô cùng tốt đẹp, một “vương quốc” và một “thành phố” do chính Thiên Chúa thiết kế. Nước Trời vượt ngoài sức chúng ta có thể tưởng tượng được những gì tuyệt vời nhất.

Nước Trời ở đâu?

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, các môn đệ hỏi có phải lúc đó là lúc Chúa Giêsu khôi phục vương quốc Ít-ra-en không. Hoàn toàn không như các ông nghĩ. Chúa Giêsu đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).

Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11-12). Kinh thánh nói về việc “được đưa lên”, vậy Nước Trời ở ngoài không gian và thời gian.

Chúng ta lên trời bằng cách nào?

Ông Tôma vốn “đa nghi” nên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Chúa Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:6-7).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)