Chân phước Gioan Phaolô II: Cầu nguyện là nhiệm vụ hàng đầu của Giáo hoàng

Chân phước Gioan Phaolô II: Cầu nguyện là nhiệm vụ hàng đầu của Giáo hoàng

chuacuuthe.com

VRNs (06.04.2014) – CAN, EWTN News – ĐHY Giovanni Battista Re, cộng sự viên thân tín của Chân phước Gioan Phaolô II, cho biết vị chân phước sắp lên hàng hiển thánh này luôn xác tín: “nhiệm vụ trên hết của một Giáo hoàng là cầu nguyện cho Giáo Hội và cho toàn thế giới”.

1404060

ĐHY nói: “Thật ngạc nhiên khi Ngài có thể đi vào sự thinh lặng để cầu nguyện ngay sau những cuộc tiếp kiến với đám đông khổng lồ. Khi ngài cầu nguyện, ngài có thể tập trung tư tưởng cao độ, và  trước bất kỳ quyết định lớn nào, ngài cũng cầu nguyện lâu giờ.”

ĐHY Giovanni làm việc tại Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh khi ĐHY Karol Wojtyla được bầu làm Giáo hoàng năm 1978. Ngài được ĐTC Gioan Phaolô II tấn phong Giám mục năm 1987 và tháng 12 năm 2000, ngài được chỉ định làm Bộ trưởng Bộ Giám mục kiêm chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Mỹ Latinh.

“Lý do tôi có vinh dự làm việc cho Đức Gioan Phaolô II là như này: Ngày đó, Ngài soạn bài giảng và các bài huấn dụ bằng tiếng Balan. Một nhóm dịch thuật sẽ dịch những tài liệu này sang tiếng Ý. Cuối cùng, họ đưa cho tôi để duyệt lần cuối và phải đảm bảo không có sai sót nào trong cách diễn đạt bằng tiếng Ý.”

ĐHY nhắc lại kỷ niệm: “Bài huấn dụ đầu tiên tôi được phân nhiệm vụ biên tập lại là bài mà ĐTC nói trước công chúng tại quảng trường Thánh Phêrô, trong đó Ngài nói: ‘Đừng sợ! Hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô’”.

ĐHY nhận định Đức Gioan Phaolô là “con người vĩ đại” trong nhiều khía cạnh.

“Ngài là một con người vĩ đại vì những tư tưởng sâu sắc, khả năng nói nhiều ngôn ngữ, tài diễn thuyết trước công chúng. Do có lợi thế là ngài ở ngôi Giáo hoàng với thời gian tương đối dài, nên chúng ta hiểu được nhiều về con người ngài. Ngài quả là một vị thánh vĩ đại, vừa là con người của cầu nguyện đồng thời là con người của hành động.”

ĐHY đang mong đợi lễ phong hiển thánh cho hai vị Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Gioan XXIII ngày 27/4 tới đây.

Được biết, dịp phong thánh này trùng với ngày lễ Kính Lòng Thương Xót.

Jos. Trung

 

Kẻ nói dối

Kẻ nói dối

chuacuuthe.com

VRNs (05.04.2014) – Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ nhưng phép lạ cho người chết sống lại là một trong những phép lạ khiến người ta khâm phục hơn cả. Nếu được phép lạ cho sống trường sinh, có lẽ ai cũng xin nhận. Chẳng ai muốn chết bao giờ. Cái chết mà một số người trong nhân loại này ước muốn cũng chỉ là để được sống một lối sống khác hơn, không còn đau khổ và tuyệt vọng!.

Ai có thể sống mãi? Ai có thể sống đời đời và không bao giờ phải chết nếu không phải là Thiên Chúa. Chỉ có Đấng toàn quyền trên sự sống cái chết của con người mới có thể làm cho con người được sống hay phải chết.

Chết theo cách hiểu thông thường của nhân loại cũng chính là từ biệt lối sống trần gian, tưởng chừng như cái chết ấy là mất mát tất cả, nhưng sự thật không phải thế. Đó chỉ là cửa ngõ để dẫn đến một lối sống khác, lối sống mà Đức Giêsu đã đến và khai mở cho nhân loại – sự sống trường sinh vĩnh cửu.

Làm thế nào để có thể sống mãi mà không chết? Làm thế nào để có được sự sống vĩnh cửu trường sinh? “Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 11, 25), lời Đức Giêsu tuyên bố chính là chìa khóa mở toang cánh cửa dẫn đưa nhân loại đến với sự sống bất diệt.

Lối sống và cái chết mà Đức Giêsu đề cập đến chính là cuộc sống đời sau, sự sống Thần linh, không phải lối sống trần thế mà nhân loại thủ đắc. Trớ trêu thay, con người xem chừng lại không ưa chuộng lối sống này. Họ thích được sống mãi, cái kiếp sống nay còn mai mất, ăn uống hưởng thụ và tranh chấp quyền lực, địa vị… Cuộc sống bất diệt mà Đức Giêsu hứa hẹn đã không còn là niềm khao khát và ao ước của nhân loại nữa rồi. Người ta muốn sống mãi không phải để hạnh phúc cùng Thiên Chúa nhưng là cho họ được hạnh phúc bởi cơm áo gạo tiền, danh vọng quyền lực…

Nhân loại đã đi sai con đường Thiên Chúa muốn, đã xa rời mục đích của Đấng Thần linh. Ngài tạo dựng nhân loại, tác tạo thế giới cho con người hưởng dùng để được hạnh phúc và qui phục Đấng tác tạo nên mình. Con người lại lạm dụng tự do Thiên Chúa ban để sống cho mình, thỏa mãn tham vọng bản thân. Cái chết chính là án phạt cho sự phản bội bất tuân đó.

Sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu đã cứu chuộc tội lỗi nhân loại, trao cho họ quyền được làm Con Thiên Chúa và thông dự vào sự sống Ba Ngôi. Ngài đã cứu nhân loại bằng chính mạng sống và giá máu của mình, phục sinh con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa. Thế nhưng Thiên Chúa càng lôi kéo con người về với sự sống thần linh vĩnh cửu bao nhiêu thì họ lại càng xa rời bấy nhiêu. Hơn bao giờ hết, người ta luôn mong mỏi, khát khao được phục sinh, được sống lại, sống mãi nhưng không phải vì lối sống ấy mà lại là cuộc sống tạm bợ thế trần đầy tội lỗi và bất trắc này.

Lạy Chúa, nếu nói không sợ chết, con chỉ là kẻ nói dối. Thế nhưng, có lẽ cái chết đời đời còn đáng sợ hơn rất nhiều. Con thèm khát sống mãi lắm chứ, sống trường sinh bất tử, nhưng dường như không phải cuộc sống của Chúa, mà chỉ là khát thèm cái lối sống tạm bợ, nay còn mai mất của thế gian. Vậy xem ra con là kẻ nói dối mất rồi. Xin giúp con biết buông bỏ mọi tham vọng đang cưu mang, để mà biết sống cho lối sống bất diệt. Nếu cả thế giới này đang sống chỉ một mình con chết, nhưng là chết để được sống mãi ngày sau, xin giúp con cũng biết cam lòng…

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

 

Ân xá Quốc tế: Cái chết của Đinh Đăng Định là “lời kêu gọi thức tỉnh” đối với Việt Nam

Ân xá Quốc tế: Cái chết của Đinh Đăng Định là “lời kêu gọi thức tỉnh” đối với Việt Nam

Ông Đinh Đăng Định,  từngbị tòa án tỉnh Đăk Nông kết án 6 năm tù về tội  "Truyên truyền chống Nhà nước".

Ông Đinh Đăng Định, từngbị tòa án tỉnh Đăk Nông kết án 6 năm tù về tội “Truyên truyền chống Nhà nước”.

@TNCG

Thanh Phương

RFI

Hôm qua, 04/04/2014, Tổ chức Ân xá Quốc tế ra thông cáo về cái chết của nhà hoạt động môi trường, blogger và cựu tù nhân lương tâm Đinh Đăng Định, vừa qua đời ngày 03/04 sau khi vừa được ân xá. Đối với Ân xá Quốc tế, cái chết của ông Đinh Đăng Định phải là một “lời kêu gọi thức tỉnh” đối với Việt Nam.

Trong thông cáo, Ân xá Quốc tế nhắc lại rằng ông Đinh Đăng Định, nguyên là một nhà giáo, đã bị bắt giam vào tháng 12/2011 một cách “một cách bất công” sau khi ông phát động một kiến nghị yêu cầu dừng dự án khai thác bô-xít tại Tây Nguyên. Đến tháng 08/2012, ông Định bị kết án tù 6 năm với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước”. Trong tù ông đã được chẩn đoán là bị ung thư.

Chính quyền Việt Nam chỉ cho phép ông Đinh Đăng Định được điều trị trong bệnh viện kể từ tháng 01/2014 trong điều kiện bị giám sát thường xuyên. Ông Định được tạm hoãn thi hành án vì lý do sức khoẻ vào tháng 2, trước khi được trả tự do vào tháng 3. Nhà hoạt động này đã qua đời vì bệnh ung thư dạ dày tối ngày 03/04 tại Đăk Nông.

Trong bản thông cáo, Phó giám đốc đặc trách Châu Á-Thái Bình Dương của Ân xá Quốc tế, ông Rupert Abbott viết: “ “Cùng với những nhà bảo vệ nhân quyền ở Việt Nam và trên thế giới, chúng tôi vô cùng thương tiếc ông Đinh Đăng Định và xin thành kính phân ưu cùng gia quyến của ông. Thật là bi kịch khi nhà cầm quyền Việt Nam đã cướp đi những năm tháng cuối đời của ông Đinh Đăng Định, ngăn cách ông khỏi những người thân yêu.”

Ân xá Quốc tế nhắc lại rằng rất nhiều người khác vẫn đang phải chịu cảnh tù đày ở Việt Nam chỉ vì họ đã dám cất lên tiếng nói, một số tù nhân lương tâm thậm chí còn bị giam giữ trong những điều kiện khắc nghiệt suốt nhiều năm.

Ông Abbot nói : “ Cần biến thảm kịch của ông Đinh Đăng Định thành lời kêu gọi thức tỉnh ở Việt Nam”. Phó giám đốc Châu Á -Thái Bình Dương kêu gọi Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho tất cả các tù nhân lương tâm, những người, giống như ông Đinh Đăng Định, đã không làm gì khác ngoài việc bày tỏ ý kiến của họ một cách ôn hoà.”

Thi hài của ông Đinh Đăng Định đã được đưa từ Đắk Nông về Sài Gòn hôm nay và được quàn tại Nhà nguyện Đức Mẹ Thăm Viếng ở đường Hoàng Sa và trên nguyên tắc đến thứ hai 07/04 sẽ được chuyển đến nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp số 38 Kỳ Đồng để cử hành tang lễ trước khi hỏa thiêu.

Nhưng theo một nguồn tin từ Sài Gòn, chiều nay, công an có lẫn đã đến tư gia ông trùm quản lý Nhà nguyện Đức Mẹ Thăm Viếng ép ông ký vào “giấy cam kết không làm mất an ninh trật tự”. Vì sợ an ninh sẽ lấy cớ để phá rối đám tang, nên ban tổ chức quyết định di chuyển ngay từ hôm nay linh cữu của ông Định vào khuôn viên Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.

 

Afghanistan bắt đầu bầu cử tổng thống

Afghanistan bắt đầu bầu cử tổng thống

Thứ bảy, 5 tháng 4, 2014

400.000 cảnh sát và binh sỹ được điều động để bảo đảm an ninh cho cuộc bầu cử

Các cử tri tại Afghanistan bắt đầu bỏ phiếu chọn ra tổng thống mới trong cuộc chuyển giao quyền lực dân chủ đầu tiên tại nước này.

Một chiến dịch an ninh với quy mô lớn đang được tiến hành để ngăn cản lực lượng Taliban, vốn trước đó đã tuyên bố sẽ quấy rối cuộc bầu cử.

Tám ứng viên có cơ hội sẽ thay thế ông Hamid Karzai, người phải rời ghế tổng thống sau hai nhiệm kỳ liên tiếp, theo hiến pháp Afghanistan.

Tuy nhiên, không khí cuộc bầu cử cũng đang bị ảnh hưởng bởi vụ nổ súng vào hai phóng viên AP.

Nhiếp ảnh gia người Đức Anja Niedringhaus đã bị sát hại và phóng viên kỳ cựu người Canada, Kathy Ganno, bị thương, sau khi một viên chỉ huy cảnh sát nổ súng vào xe của họ ở thị trấn Khost, nằm phía đông Afghanistan, hôm 4/4.

Cả hai đã làm việc cho AP nhiều năm.

Đây là vụ tấn công mới nhất trong chuỗi hàng loạt vụ tấn công đẫm máu diễn ra trước thềm cuộc bầu cử.

Cử tri ở Kabul bất chấp mưa lớn để đi bầu cử

Các ứng viên sáng giá

Một chiến dịch quân sự với quy mô lớn nhất kể từ khi chính quyền Taliban bị lật đổ hồi năm 2001 đã được tiến hành để bảo đảm an ninh cho cuộc bầu cử, phóng viên BBC tại Kabul, David Loyn, cho biết.

Bất chấp mưa lớn tại thủ đô Afghanistan vào sáng sớm thứ Bảy và những mối đe dọa an ninh, nhiều cử tri, nhất là những người trẻ tuổi, vẫn có mặt ở các điểm bỏ phiếu, phóng viên của chúng tôi cho biết thêm.

Chủ tịch Ủy ban Bầu cử Độc lập Ahmad Yousuf Nouristani đã kêu gọi tất cả người dân Afghanistan tham gia bỏ phiếu, trong lúc ông bỏ lá phiếu của mình trên sóng truyền hình trực tiếp.

Tình trạng kẹt xe đã gây khó khăn cho việc đi vào thủ đô Afghnistan vào thứ Sáu, với các chốt canh của cảnh sát được dựng lên ở mọi chốt giao thông.

Toàn bộ 400.000 cảnh sát và các binh sỹ ở nước này đã được triển khai để bảo vệ cho 12 triệu cử tri đi bỏ phiếu, nhà chức trách cho biết.

Các quan sát viên quốc tế tỏ ra khá lạc quan rằng các biện pháp an ninh cũng như những hình thức ngăn ngừa gian lận bầu cử sẽ giúp mang lại một cuộc bầu cử công bằng hơn trước đây, phóng viên của chúng tôi nhận định.

Người dân Afghanistan đã bị ngăn gửi tin nhắn trước tối thứ Bảy để ngăn ngừa việc dịch vụ này bị sử dụng để vận động bầu cử vào phút chót.

Trong số tám ứng viên tổng thống hiện nay, có ba người được xem là sáng giá: Các cựu ngoại trưởng Abdullah Abdullah và Zalmai Rassoul, cựu bộ trưởng tài chính, ông Ashraf Ghani Ahmadzai.

Ông Abdullah đã có một chiến dịch vận động bầu cử thành công, ông Ghani có được sự ủng hộ từ giới trẻ ở những khu vực thành thị, trong khi ông Rassoul được cho là người được ông Hamid Karzai tín nhiệm, phóng viên của chúng tôi cho biết.

Tuy nhiên, hiện không có ứng viên nào được trông đợi là sẽ dành được hơn 50% phiếu bầu để chiến thắng tuyệt đối, điều đồng nghĩa với việc nhiều khả năng một vòng bầu cử bổ sung sẽ diễn ra vào ngày 28/5.

Lừa được dùng để đưa thùng phiếu đến những nơi hẻo lánh

Quyết tâm cao

Vào thời điểm bị tấn công, Anja Niedringhaus và Kathy Gannon đang đi cùng đoàn xe của các nhân viên bầu cử, dưới sự bảo vệ của lực lượng an ninh Afghanistan, nhằm phân phát phiếu bầu từ trung tâm Khost tới huyện Tani ở khu vực ngoại ô.

Các nhân chứng cho biết cả hai đang ở trong xe riêng và đang đợi đi qua một chốt canh được canh gác cẩn mật, thì bị một viên chỉ huy cảnh sát nhắm bắn.

Bà Niedringhaus, 48 tuổi, một nhiếp ảnh gia người Đức từng là thành viên của một nhóm phóng viên được nhận Giải thưởng Pulitzer vì những bài tường thuật ở Iraq, đã tử vong ngay tại chỗ.

Bà Kathy Ganno, 60 tuổi, gốc Canada, người từng đứng đầu văn phòng thường trú của AP tại Afghanistan trong nhiều năm và là phóng viên đặc biệt của hãng thông tấn này trong khu vực, bị trúng hai phát đạn và đã được giải phẫu. Tình hình của bà hiện được cho là đã ổn định.

Bộ trưởng Nội vụ Afghanistan cho biết sẽ điều tra kỹ lưỡng vụ việc, nhưng cũng cho rằng nhiều khả năng các nạn nhân đã bị hung thủ nhận dạng nhầm.

Khu vực gần với biên giới Pakistan này đã bị phiến quân nhắm vào trong suốt 48 tiếng qua, người phát ngôn Sidiq Siddiqi cho biết.

Tòa nhà được canh gác cẩn mật của Bộ Nội vụ, nơi đặt trụ sở của Ủy ban Bầu cử Độc lập, và khách sạn năm sao Serena, đều đã bị tấn công.

Tuy nhiên, theo phóng viên của chúng tôi, tình trạng bạo lực có vẻ như đã làm tăng cao quyết tâm đi bỏ phiếu của người Afghanistan.

Kết quả kháo sát do Quỹ Bầu cử Tự do và Công bằng tiến hành cho thấy hơn 75% người tham gia lấy ý kiến cho biết họ có ý định bỏ phiếu, mặc dù niềm tin vào hệ thống bầu cử bị cho là đang giảm đi.

CẢM NGHIỆM NHỮNG CHUYẾN ĐI THĂM TRẠI PHONG

CẢM NGHIỆM NHỮNG CHUYẾN ĐI THĂM TRẠI PHONG

Bồ Câu Trắng

4/1/2014

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” (Chế Lan Viên)

Mạn phép nhà thơ Chế Lan Viên khi nói: Có những vùng đất ta không ở nhưng chỉ ghé qua thôi, đi qua thôi nhưng đã đi vào hồn người khiến họ không bao giờ quên được. Cũng thế có những con người tuy chỉ gặp họ một lần nhưng khiến ta nhớ mãi. Đó là những vùng đất chúng tôi đã đến, những con người chúng tôi đã gặp trong những chuyến đi thăm các Trại Phong vào Mùa Chay 2014.

Những chuyến xe vào những ngày Thứ Bẩy của tháng 3 để đi tới những Trại Phong luôn được chúng tôi chờ đợi, mong ngóng. Chị em trong Cộng Đoàn Hàng Bột được tạo điều kiện để trong Mùa Chay, ít nhất mỗi người có một lần được đến Trại Phong. Bốn cuộc hành trình tới các Trại Phong: Quỳnh Lưu-Nghệ An (1/3); Cẩm Thủy –Thanh Hóa (8/3); Văn Môn-Thái Bình, Ba Sao-Hà Nam (15/3); Chí Linh-Hải Dương, Quả Cảm-Bắc Ninh (22/3) đã để lại bao dấu ấn cảm xúc khác nhau trong lòng mỗi người. Mỗi chuyến đi của chúng tôi đều có sự đồng hành của quý Soeur Dòng Thánh Phaolô Hàng Bột và anh Hòa (một gương mặt rất thân thuộc và đáng mến của những những bệnh nhân phong tại các Trại Phong Miền Bắc).

Đến bất kì Trại Phong nào, ai cũng như ai, chúng tôi đều cố gắng hết sức để các bệnh nhân cảm nhận được niềm vui của trên khuôn mặt mỗi người, qua các vũ điệu ca khúc tràn đầy niềm vui, tình yêu thương, hơn thế là giúp các bệnh nhân cảm nhận được sự gần gũi, tình yêu thương, và sự quan tâm của mọi người với mình. Chúng tôi ra đi nhưng thực sự đó như một cuộc trở về, như những đứa con trở về thăm ông bà, cha mẹ mình bởi thế ai cũng cảm thấy những mảnh đất này sao quen thuộc và những con người sao thân thuộc gần gũi đến lạ. Đến bất kì Trại Phong nào chúng tôi đều được đón tiếp với niềm vui và sự thân thiện… Chúng tôi đến mang theo những phần quà là những thùng mì tôm, những cân giò- Đó món quà của những tấm lòng, là sự quan tâm, và bàn tay yêu thương của biết bao người: Cha Phaolô Tuấn và những tín hữu Công Giáo ở Vùng Bắc Đức nơi cha đảm trách, tại Lincoln bên Mỹ, gia đình Anh Chị Hòa, một nhóm các chị ngoài Công Giáo ở Hà Nội qua bác sĩ Giao và biết bao những ân nhân xa gần khác. Món quà tuy không to lớn nhưng luôn luôn đều đặn mỗi năm, những món quà ấy tuy nhỏ bé nhưng lúc nào làm ấm lòng cho bao bệnh nhân nơi đây- những con người đã từng bị xã hội và cả gia đình của họ xa lánh ruồng bỏ và không thể hòa nhập được với xã hội- để họ luôn cảm thấy mình được yêu thương, quan tâm và tìm thấy niềm vui trong cuộc sống.

Sau mỗi buổi gặp gỡ tại hội trường chung, giao lưu văn nghệ và phát quà, chúng tôi lần lượt đến thăm phòng từng bệnh nhân, trò chuyện với họ đặc biệt là những bệnh nhân bị bệnh nặng không thể đi đâu được, ngoài việc chỉ quanh quẩn bên chiếc giường nhỏ. Trò chuyện với họ thì thấy mỗi người có một hoàn cảnh riêng: Có người có gia đình, có người chỉ có một mình, có người đã 60 năm mà chưa 1 lần được người thân đến thăm. Tôi không quên hình ảnh ông cụ ở Trại Phong Quả Cảm. Chúng tôi đến khi ông đang ngồi trên giường, lấy chân mò mẫm tìm những viên thuốc đánh rơi trên sàn. Trong căn phòng ẩm thấp, ông ngồi trên giường đôi mắt đục và đỏ ngầu vì không còn nhìn thấy gì nữa, cuộc nói chuyện cũng không liền mạch vì ông nghe không rõ nữa. Thời tiết miền Bắc vào tháng 3 vẫn còn lạnh, chỉ một chiếc áo cánh, thi thoảng ông ngồi bật rét run lên từng cơn. Chúng tôi ngỏ ý nhắc ông mặc áo nhưng ông nói không muốn vì mắt ông lòa tìm được cái áo thì khó khăn và vất vả mà mặc vào cũng chẳng dễ gì, khi tháo ra thì càng khó hơn bởi mắt thì không thấy gì mà tay thì khó mà cầm nắm được vật gì thế nên ông nhất định chịu rét dù chúng tôi nói muốn giúp ông mặc áo. Đôi chân ông cũng chỉ còn một bên. Cuộc trò chuyện chốc lát ám ảnh mãi trong tôi hình ảnh một ông cụ bệnh tật, cô đơn, ốm đau và rét run lên từng đợt, tâm trạng lúc nào cũng băn khoăn, lo lắng một điều gì đó. Có những gia đình bệnh nhân mà người cha già 85 tuổi phải ngồi bón cơm cho người con gái 30 tuổi bị bại não bẩm sinh, ngồi quay mặt vào tường là người vợ già cách đó vài năm đã bị tâm thần. Một bà lão cầm tay chúng tôi mà nhắn nhủ: “Các con cầu nguyện cho bà chóng chết đi để đỡ phiền lụy đến mọi người xung quanh, xấu hổ lắm, để thân già này thoát khỏi những đau đớn…”. Chúng tôi nghẹn ngào “Không, chúng con không dám đâu, Chúa còn muốn bà sống để cầu nguyện cho chúng con và mọi người ..” Bà lại mỉm cười và hẹn chúng tôi đến thăm trong những lần sau.

Mỗi người là một cuộc đời, mỗi số phận khác nhau, những cuộc đời và số phận mang chứa biết bao nước mắt: Nước mắt đau khổ của bệnh tật, nước mắt của sự tự ti mặc cảm, nước mắt cô đơn của tuổi già. Tôi nhớ đến Hàn Mặc Tử chàng thi sĩ đã mắc căn bệnh quái ác ở tuổi còn rất trẻ, mới 24 xuân và những vần thơ đầy mặc cảm, quằn quại và đau đớn của ông. Nhưng đến nơi đây , chúng tôi cũng bắt gặp biết bao những nụ cười vui vẻ và cả những giọt nước mắt hạnh phúc, được nghe những bài hát yêu đời từ những bệnh nhân và cả các cụ bà. Chúng tôi gặp những con người đầy nghị lực sống, khao khát cố gắng vượt lên hoàn cảnh để tiếp tục lao động chăm sóc gia đình. Chỉ cần nhìn thấy nụ cười trên môi của bất kì ai nơi đây chúng tôi đã cảm thấy một nghị lực sống mạnh mẽ của họ rồi. Trong bệnh tật, những tổn thương về thể xác và tinh thần họ vẫn vươn lên cố gắng sống mỗi ngày.

Chúng tôi thầm cám ơn những bệnh nhân, họ đã trao cho chúng tôi những món quà tinh thần đầy quý giá về nghi lực, khát vọng và tình yêu cuộc sống. Còn chúng tôi – những người không bao giờ cảm nhận được cảm giác bị hắt hủi, xa lánh, sự bất lực thậm chí tuyệt vọng – thì chúng tôi có biết mình đang quá hạnh phúc và biết cố gắng sống cho có hữu ích hơn không.

Đến với những Trại Phong chúng tôi luôn bắt gặp hình ảnh những người nữ tu nhỏ nhắn đang âm thầm, tận tình chăm sóc và lo lắng cho bệnh nhân cả về thể xác và tinh thần. Đó là hình ảnh một Giê-su sống động giữa đời mà chúng tôi đang nhìn thấy. Một vẻ đẹp cao cả của sự hi sinh thầm lặng.

Mỗi chuyến đi đều để lại một dư âm khác nhau trong lòng mỗi người. Chúng tôi thầm cám ơn Chúa về những hạnh phúc mà mình đang được sống, cám ơn Chúa vì Chúa đã không bỏ rơi những con người đáng thương và tội nghiệp khi gửi đến cho họ những ân nhân xa gần với tấm lòng quảng đại và tình yêu thương đã và đang luôn giúp đỡ họ về vật chất và hẳn cũng không quên họ trong lời cầu nguyện, khi gửi đến cho họ những con người biết hi sinh thầm lặng để giành lấy những hạnh phúc nhỏ bé của những người bất hạnh. Xin Chúa luôn chúc lành cho những con người quảng đại cho đi ấy và chúc lành cho mọi công việc của họ.

Lạy Chúa, chúng con xin cám ơn Chúa về tất cả những gì Chúa ban trong cuộc sống của chúng con, chúng con xin cám ơn Chúa về những chuyến đi Trại Phong trong Mùa Chay 2014 cho con có được những trải nghiệm về hạnh phúc, hiểu được tình Chúa yêu thương con người thế nào, và Chúa muốn chúng con trở nên những cánh tay nối dài của Chúa thế nào bằng đời sống dâng hiến chúng con lựa chọn. Xin Chúa cho chúng con luôn cảm nhận được niềm hạnh phúc trong cuộc sống của chúng con và biết dấn thân trong con đường ơn gọi dâng hiến – một con đường dấn thân theo Chúa mang đến niềm hạnh phúc cho bao người bất hạnh.

Bồ Câu Trắng Hàng Bột

(Hình ảnh: Xuân Hòa

Chuyện tình đẹp nhất ở Australia – Sưu Tầm

Chuyện tình đẹp nhất ở Australia – Sưu Tầm

Turia Pitt bị bỏng nghiêm trọng trong một vụ cháy rừng, những vết bỏng tưởng chừng như có thể giết chết cô. Dù phải tập đi, tập nói, tập cầm nắm mọi thứ trong đau đớn như một em bé sau hàng trăm ca phẫu thuật, cô đã hồi phục một cách đáng kinh ngạc nhờ vào quyết tâm sắt đá của chính mình cũng như tình yêu dịu dàng và sự hỗ trợ không mệt mỏi của người bạn trai, người yêu – anh Michael Hoskin.

Turia Pitt trước khi bị tai nạn.

Biến cố khủng khiếp

Turia và 5 vận động viên khác tham gia một giải chạy việt dã bị mắc kẹt trong một đám cháy quét qua vùng Kimberly thuộc miền Tây nước Úc vào ngày 2/9/2011.
“Tôi nhớ khi mình đang chạy lên một ngọn đồi và nghe tiếng la hét hỏa hoạn. Tôi trèo xuống một đám đất trũng và kéo áo khoác kín người, nhưng nó mau chóng nóng rẫy và tôi bắt đầu nhảy lên cho đỡ bỏng thì khi đó lửa bắt vào người. Tôi nhìn xuống đôi tay đang bốc cháy và chỉ biết sợ hãi kêu cứu”.
Sau khi chờ đợi 4 giờ đồng hồ để được giải cứu, trực thăng đưa Turia đến khoa Bỏng, bệnh viện Hoàng gia của Darwin. Michael Hoskin – bạn trai của Turia – lúc đó đang làm việc ở Sydney đã đón chuyến bay sớm nhất để đến bên cạnh bạn gái.
Khi anh tới nơi, Turia trong suy nghĩ của nhiều người đang nằm chờ chết. Trong tình trạng hôn mê, 64% cơ thể bị bỏng sâu, Turia như bị sưng phồng và gần như không thể nhận ra cô ấy sau nhiều lớp băng bó.
“Ý nghĩ Turia đang nằm chờ chết quá sức chịu đựng của tôi. Tôi cứ tự nói với bản thân mình rằng, cô ấy còn sống, đó là tất cả. Nếu có ai đó, người có thể vượt qua nghịch cảnh như thế này, người đó chính là Turia. Tôi cũng biết rằng cô ấy cần tôi tin tưởng vào điều đó. Tôi phải lạc quan vì cô ấy nhiều nhất có thể và cho cả chính bản thân mình”.

Michael và Turia.

Niềm tin của Michael đã được đền đáp. Sau ca phẫu thuật thập tử nhất sinh, tình hình của Turia dần dần ổn định. Các bác sĩ nói với anh rằng, cô chắc chắn sẽ sống nhưng sẽ là một hành trình dài đầy đau đớn để có được bất kỳ sự hồi phục nào
Turia đã trải qua 18 ca đại phẫu thuật, hàng chục ca cấy ghép da. Cô cũng có hơn 100 tiểu phẫu khác nhau và trải qua hơn 6 tháng liên tục trong bệnh viện và vẫn đang trong giai đoạn phục hồi chức năng.
Cô mất hầu hết các ngón tay, mất mũi và vùng da cấy ghép cô sử dụng trong những lần phẫu thuật thường xuyên đau đớn.

Tình yêu dịu dàng
Trước tai nạn, Turia có một cuộc sống dường như là hoàn hảo. Sau khi tốt nghiệp trung học, Turia bắt đầu học đại học, với sự chăm chỉ của mình cô trở thành học giả Rio Tinto và tốt nghiệp loại giỏi. Cô từng làm người mẫu. Vào thời điểm tai nạn xảy ra, Turia đang là kỹ sư làm việc cho mỏ kim cương Argyle.

Turia sau khi bị bỏng.

“Tôi xinh đẹp, thông minh, có một người yêu tuyệt vời, những người bạn tốt. Tôi có một công việc tốt với mức lương không tồi. Cũng phải mất khá lâu tôi mới biết điều gì thực sự xảy ra với mình. Tôi phải học lại từ đầu để quay về cuộc sống – tập đi, tập nói. Tất cả những điều tôi coi là đương nhiên mình biết thì giờ dường như trở thành những nhiệm vụ bất khả thi. Phải hai năm sau vụ tai nạn, tôi mới đủ tự tin để lộ khuôn mặt và cánh tay trước mọi người. Tôi nhận ra rằng: người ta có thể thất vọng trong chốc lát, nhưng không thể mang đau đớn theo mình mỗi ngày. Cuộc đời có thể chia cho bạn những quân bài xấu, nhưng chơi với chúng như thế nào mới là quan trọng”, cô nói.
Đó là tinh thần không gì dập tắt được vẫn song hành cùng Turia. Và động lực cho sự hồi phục kỳ diệu của Turia chính là mối tình với Michael.
Tình yêu của Michael dành cho người bạn gái của mình rõ mồn một trong từng khoảnh khắc. Từ cách Michael dịu dàng nâng khuôn mặt dày sẹo của Turia trên đôi tay mình, vén những lọn tóc tối màu để nhìn sâu vào đôi mắt mở to, màu xanh lá cây – nơi duy nhất trên khuôn mặt của Turia ngọn lửa đã không thể chạm tới.
Khi anh nói về bạn gái của mình: “Đôi mắt của Turia thật đẹp. Mỗi khi tôi nhìn sâu vào đôi mắt ấy, tôi nhìn thấy cô gái mình yêu thương, cô gái mà sức mạnh, sự kiên cường đã khiến tôi kinh ngạc. Với tôi, cô ấy có nghị lực hiếm thấy của con người”.
Cả khi anh chăm sóc Turia. Michael đã ở bên cạnh Turia trong suốt cuộc chiến sinh tử để giành lại sự sống cho cô sau biến cố khủng khiếp. Anh đọc thơ, đọc tiểu thuyết kinh điển cho cô nghe khi cô hôn mê sâu. Không một phút nào anh nghĩ sẽ từ bỏ tình yêu, sự hỗ trợ và hy sinh dành cho cô gái trẻ đang đối mặt với thách thức khủng khiếp, một bi kịch hằn lên cơ thể cô ấy những vết sẹo nhiều đến mức người quen không còn nhận ra cô ấy là ai.
Không khi nào anh dao động niềm tin rằng họ sẽ ở bên nhau như bao cặp đôi khác. “Cô ấy vẫn là Turia. Cô ấy vẫn là con người. Làn da của cô ấy bị biến dạng những cô ấy vẫn là người con gái mà tôi yêu”.
“Tôi vẫn có những tháng ngày cảm thấy mình xấu xí và cảm giác ấy quật ngã tôi. Nhưng may mắn thay tôi có Michael. Những lời yêu thương dịu dàng của Michael luôn được tôi chờ đợi và chúng như lời thần chú vậy. Anh ấy ở bên cạnh tôi, từng phút một, từng ngày một, giúp đỡ, khuyến khích, khen ngợi. Ngay cả khi trải qua những tháng ngày đen tối nhất trong bệnh viện, tự hỏi “Tại sao lại cứu sống tôi?” thì tôi biết rằng, anh ấy ở đó là vì mình.
Tương lai là đám cưới và những đứa con
Turia chia sẻ: “Tôi yêu cách “chúng tôi không bao giờ cãi vã nhau”. Điều đó không phải để nói rằng, nó thật dễ dàng hoặc chúng tôi không bất đồng lúc này lúc khác nhưng chúng tôi luôn cố gắng để giải quyết mọi việc.

Mọi người nói, chúng tôi có một tình yêu tuyệt vời và tôi nghĩ là họ đúng nhưng đầu tiên và quan trọng nhất nó phải dựa trên một sự thật rằng cả hai là những người bạn. Tất nhiên, chúng tôi yêu nhau. Nhưng tình bạn đã cùng chúng tôi đi qua những ngày gian khó. Michael là người bạn tốt nhất. Tai ương có thể giúp con người đến thật gần nhau hoặc đẩy họ ra xa nhau. Đối với chúng tôi, chúng tôi cảm thấy gần nhau hơn bao giờ hết”, cô chia sẻ.
Michael và Turia đã bàn đến đám cưới và nó được đặt trong danh sách những ưu tiên hàng đầu. Hiện tại, họ tập trung vào phục hồi chức năng và giành lại một vài điều bình thường của cuộc sống trước đây.
Gia đình và những đứa trẻ, cả hai đều nằm trong kế hoạch tương lai của họ.
“Tôi có thể tức giận. Nhưng tôi biết rằng, nó chẳng dẫn mình đến bất cứ đâu. Tôi biết nó cũng chẳng thể thay đổi những điều đã xảy ra hoặc trả lại cho cơ thể ban đầu. Nhưng tôi mạnh mẽ hơn mỗi ngày và càng cảm thấy giống Turia của ngày xưa. Tôi có cả một cuộc đời phía trước. Tôi đang sống cuộc đời đó – ngay thời điểm hiện tại này đây – với Michael”, cô khẳng định.

BT: Vương Chi Lan

Giáo dục VN: cố sửa hay trở về gốc?

Giáo dục VN: cố sửa hay trở về gốc?

Nguyễn Quang Duy

Gửi tới BBC từ Úc

Thứ tư, 2 tháng 4, 2014

Trước tình trạng khủng hoảng giáo dục, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản VN, ông Nguyễn Phú Trọng từng hỏi “Chúng ta đã ba lần cải cách giáo dục, vì sao lần này không đặt vấn đề cải cách mà là đổi mới căn bản, toàn diện?”

Rồi ông Trọng đặt câu hỏi tại Bộ Giáo dục và Đào tạo từ hồi tháng 8/2012: “Việt Nam đã có triết lý về giáo dục chưa, hay là người học ở Anh về bảo phải như thế này, người học ở Mỹ bảo thế kia.”.

Cho đến nay, công tác ‘cải cách’ vẫn không có gì tiến triển và câu trả lời ngắn gọn là trước đây tại miền Nam nền giáo dục đã dựa trên ba triết lý căn bản: dân tộc, khai phóng và nhân bản.

Cũng cần biết trong năm học tới 2014-15 nước Mỹ sẽ bước vào một cuộc cải cách giáo dục quan trọng nhất từ trước đến nay.

Họ sẽ áp dụng phương cách giảng dạy và học tập mới, trở lại căn bản lấy nhân bản và khai phóng làm triết lý giáo dục.

Triết lý giáo dục Miền Nam

Năm 1958, một Đại hội Giáo dục quy tụ phụ huynh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện quân đội, chính quyền, các tổ chức quần chúng và cơ quan văn hóa giáo dục đã được tổ chức tại Sài Gòn nhằm đề ra một triết lý giáo dục cho miền Nam.

Đại hội đồng thuận chọn ba nguyên tắc dân tộc, khai phóng và nhân bản làm căn bản.

Đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, năm 1964, một Đại Hội khác lại được tổ chức tại Sài Gòn nhằm xem xét lại triết lý nói trên. Kết quả Đại Hội tiếp tục nhìn nhận ba nguyên tắc.

Sau đó ba nguyên tắc đã được Quốc Hội Lập Hiến đưa vào Điều 11.1 Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967:

“Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.”

Theo nguyên tắc, nền giáo dục dân tộc chủ trương tôn trọng, bảo tồn và phát huy những bản sắn và giá trị tốt đẹp của dân tộc.

“Miền Nam coi trọng giáo dục nhân bản chủ trương lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người làm căn bản, không xem con người như một phương tiện hay công cụ “

Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.

Nền giáo dục khai phóng chủ trương lấy tinh thần dân tộc làm gốc nhưng mở rộng tiếp nhận văn hóa văn minh nhân lọai.

Sẵn sàng tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần hiện đại hóa quốc gia, làm cho xã hội tiến bộ để tiếp cận với văn minh thế giới.

Còn giáo dục nhân bản chủ trương lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người làm căn bản, không xem con người như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng hay tổ chức nào.

Triết lý nhân bản chấp nhận sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng khác biệt đó để đánh giá con người, cũng không chấp nhận kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc, chính kiến. Mọi người đều có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội bình đẳng về giáo dục.

Mục tiêu giáo dục Miền Nam

Từ triết lý căn bản chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đề ra ba mục tiêu cho giáo dục như sau:

Giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính và quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý của mỗi người. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh phải được lưu ý đúng mức, cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh tự phán đoán và lựa chọn. Không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, một định hướng định sẵn.

Giáo dục giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống và phương cách sống của người dân; hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, biết tinh thần tranh đấu chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; những phong tục tập quán có giá trị của quốc gia; tạo cho học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

Giáo dục giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; tính tò mò và tinh thần khoa học; qua đó học sinh phát triển khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa văn minh của nhân loại.

Giáo dục giúp học sinh biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc

Nền giáo dục miền Nam không phải là một nền giáo dục thực dụng hướng nghiệp.

Mà dựa trên tinh thần khai phóng và nhân bản để đào tạo những con người biết suy nghĩ độc lập và có khả năng cần thiết để có thể tham gia vào sinh họat xã hội với tư cách là một con người tự do và tự lập.

Nó giúp cho học sinh biết rõ bản sắc dân tộc nhưng giải phóng họ thóat khỏi những trói buộc của tinh thần nô lệ do những định kiến, những suy nghĩ hay những phương cách giải quyết vấn đề có sẵn không còn phù hợp với hòan cảnh và thời đại.

Nói chung giáo dục miền Nam giúp học sinh năng lực cơ bản và tổng quát để khi cần có khả năng tham gia vào các sinh họat xã hội trong mọi tình huống và mọi ngành nghề.

Cải cách giáo dục ở Hoa Kỳ

Tác giả Hà Giang trong bài viết tháng 3/2014 trên báo Người Việt ở California viết:

“Tiêu chuẩn giảng dạy mới cho từng lớp được đặt ra với mục đích tối hậu là đào tạo được một lớp trẻ có khả năng suy luận sắc bén, nắm vững được các khái niệm tổng quát, biết cách diễn đạt và giải thích quyết định hay lựa chọn của mình, vì đây là vốn liếng cần có để chuẩn bị cho đại học, hay trở thành một nhân viên giàu khả năng.”

Trả lời phỏng vấn báo Người Việt, bà Sandra Gephart, hiệu trưởng trường trung học Arleta High School, giải thích:

“Sự thay đổi này đòi hỏi chúng tôi từ giờ sẽ không còn dạy học sinh những điều phải học thuộc lòng, học sinh sẽ không được chỉ hiểu qua loa một vấn đề, một bài học, mà phải hiểu một cách thấu đáo, và áp dụng những khái niệm mình đang học vào đời sống thực tiễn.”

“Các em sẽ được đào tạo để suy nghĩ như một nhà toán học thay vì chỉ biết làm toán”

David Nguyễn”

Ông David Nguyễn, giáo viên Toán thuộc ABC Unified School District được trích lời nói:

“Chúng tôi phải dạy các học sinh cách biết nhận định, phân tích, tạo ra giả thuyết, và tự mình kiểm chứng những giả thuyết đó. Các em sẽ được đào tạo để suy nghĩ như một nhà toán học thay vì chỉ biết làm toán, để phát triển nhận thức nhạy bén nhằm phân tích những vấn đề mà sẽ phải đối diện trong thế kỷ 21.”

Thời đại đã thay đổi, nước Mỹ đang mất dần khả năng thu hút nhân tài từ khắp nơi trên thế giới.

Trọng tinh thần thực dụng và muốn tiếp tục giữ địa vị cường quốc số một trên thế giới người Mỹ đã quay lại với căn bản giáo dục khai phóng và nhân bản.

Trở về căn bản

Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia vừa thu hồi độc lập, nghèo, lại chiến tranh, nên nền giáo dục tại miền Nam khó có thể so sánh được với nền giáo dục tại Mỹ và các quốc gia Tây Phương.

Nhưng chính nhờ được đào tạo căn bản nên sau 30/4 năm 1975 ngay thế hệ đầu tiên nhiều người Việt đã nhanh chóng xây dựng được sự nghiệp vững chắc trên đất Mỹ hay tại các quốc gia họ định cư.

Cũng nhờ được giáo dục lấy dân tộc làm gốc, đa số người Việt cũng luôn hướng về đất nước vận động cho nhân quyền tự do và dân chủ. Họ cũng ước mong một ngày không xa sẽ mang những kiến thức tân tiến và thực tiễn về phụng sự dân tộc.

Từ kết quả của nền giáo dục miền Nam và trong tình trạng khủng hoảng xã hội hiện nay, Việt Nam cần quay lại với triết lý giáo dục lấy dân tộc, khai phóng và nhân bản làm căn bản, để từng bước thoát khỏi khủng hoảng, đưa đất nước đi lên hòa nhập cùng văn minh nhân loại.

BÀI THƯƠNG KHÓ THEO THÁNH MATTHÊU

BÀI THƯƠNG KHÓ THEO THÁNH MATTHÊU

Linh Mục Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J.

1. Nhận xét mở đầu.

1/ Trong Phụng Vụ Tuần Thánh hiện nay, ngày chúa nhật Lễ Lá, chúng ta đọc Bài Thương Khó theo Thánh Matthêu (năm A); thánh Mac-cô (năm B); thánh Luca (năm C). Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh thì năm nào cũng đọc Bài Thương Khó theo Thánh Gioan.

Cũng là một phần trong các sách Tin Mừng, nhưng người đọc không công bố theo công thức hàng ngày: “Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô…”, cũng không chào chúc : “Chúa ở cùng anh chị em”, mà xướng : “Cuộc Thương Khó Đức Giêsu Kitô theo thánh…” Công thức phụng vụ này nhiều khi làm chúng ta quên rằng Cuộc Thương Khó cũng là Tin Mừng, và cùng với Tin Mừng Chúa Phục sinh làm thành cốt lõi của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.

2/ Lời rao giảng đầu tiên của các Tông Đồ là công bố mầu nhiệm Chúa Giêsu chết và phục sinh. Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu loan báo cái chết và sự phục sinh của Chúa như hai thì của một biến cố duy nhất mà chúng ta gọi là “mầu nhiệm Vượt Qua”, Chúa Giêsu vượt qua cái chết để vào cõi sống và dắt chúng ta theo. Thời Trung Cổ, người ta thường vẽ Chúa Giêsu Phục Sinh bước ra khỏi mồ, một tay dắt ông Adong, một tay dắt bà Evà; hoặc một tay cầm thánh giá, một tay dắt ông Adong.

3/ Điều này giúp hiểu tại sao các sách Tin Mừng kể về cái chết của Chúa Giêsu với nhiều chi tiết diễn tả những đau đớn, nhục nhã nhưng không cay đắng, giận dữ, oán hận, trái lại rất điềm tĩnh, tế nhị và tinh vi nêu lên những nét mà những người xét xử, hành hạ, sỉ nhục Chúa Giêsu tưởng mình thắng thế, nhưng lại vô tình làm theo những gì đã được báo trước trong Kinh Thánh. Chính yếu tố “hợp như lời Thánh Kinh” này giúp ta nhìn ra ý nghĩa thật của cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.

4/ Trong các sách Tin Mừng, trình thuật Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu nằm ở cuối sách, nhưng trong quá trình loan báo Tin Mừng thì đây là điểm khởi đầu. Những người nghe lời công bố Tin Mừng và tin nhận Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa thì thống hối và chịu phép Rửa. Họ họp với các môn đệ thành cộng đoàn tín hữu đầu tiên “chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh,  và  cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Ở giai đoạn “giảng dạy” này các Tông Đồ mới đưa người tín hữu ngược dòng, tìm hiểu những lời giáo huấn và những việc Chúa Giêsu đã làm trước đó, dưới ánh sáng của biến cố chết và Phục sinh là biến cố làm cho người ta nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian. Sách Tin Mừng thu tập các yếu tố đã khai triển trong quá trình giảng dạy này và trình bày “mạch lạc” (x. Lc 1,1-4), nghĩa là giúp cho người đọc thấy được cuộc sống, hành động và lời rao giảng của Chúa và cuộc Thương Khó cùng sự phục sinh của Chúa ăn khớp với nhau như thế nào.

5/ Vì thế trình thuật Cuộc Thương Khó và Phục sinh trong mỗi sách Tin Mừng cũng có những tính cách riêng và phải đọc trong mạch văn của mỗi sách Tin Mừng mới hiểu được; lý do là mỗi sách Tin Mừng có môt cách nhìn riêng về Chúa Giêsu, cách nhìn này chi phối sự lựa chọn tư liệu, thứ tự và cách thức trình bày, ăn khớp với nhau từ đầu đến cuối. Điều rất quan trọng là đừng “xào chung” bốn bài Thương Khó với nhau hay bài Thương Khó trong sách Tin Mừng này với các yếu tố trong toàn bộ sách Tin Mừng khác, vì sẽ tự gây những thắc mắc khó khăn. Xin minh họa bằng một thí dụ : trong sách Tin Mừng Mt 5,39 và Lc 6,29, Chúa Giêsu bảo: “Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa!”, nhưng trong sách Tin Mừng Gioan 18,22-23, khi tên thuộc hạ của Thượng Tế vả vào mặt Chúa để  trấn áp thì Chúa không đưa má bên kia mà lại hỏi anh ta: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi”. Nếu xào chung thì hóa ra Chúa không thực hành lời Chúa dạy môn đệ à? Trong MtLc, Chúa dạy về thái độ không trả thù và hóa giải bạo lực: suốt cuộc Thương Khó Chúa im lặng chấp nhận mọi sự hành hạ sỉ nhục, “để lại tấm gương cho chúng ta” như thánh Phêrô nói (x. I Pr 3,21-23);  còn trong TM Gioan, Chúa Giêsu  phải  “làm chứng cho sự thật” nên Chúa không cho phép ai dùng bạo lực trấn áp sự thật.

2. Những yếu tố giúp hiểu bài Thương Khó theo thánh Matthêu.

1/ “Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”

2/ “Em-ma-nu-en, Chúa ở cùng chúng ta

3/ “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (8,17).

4/ “Người đưa công lý đến toàn thắng và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (12,17-21).

5/ “Khi Đức Giêsu giảng dạy tất cả những điều ấy xong…”

6/ “Đây là máu Thầy, Máu Giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội

7/ Ba lần Chúa Giêsu báo trước.

Như đã nói ở trên, quá trình khai triển sự hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô đi từ mầu nhiệm Khổ Nạn – Phục sinh ngược lên, nhưng khi viết sách Phúc Âm thì lại đi xuôi từ đầu cuộc sống của Chúa Giêsu.

1-2/ Giêsu – Em-ma-nu-en: Truyền thống rao giảng Tin Mừng trong đó sách Tin Mừng Matthêu được viết ra, đã ngược lên tới thời thơ ấu của Chúa Giêsu, cho thấy Tin Mừng ơn cứu độ không chỉ bắt đầu từ lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa (x. Cv 1,21-22), nhưng ngay từ khi thành thai trong lòng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria (Tin Mừng thời thơ ấu), Người đã là Đấng Kitô, “Đấng Cứu dân mình khỏi tội lỗi của họ”. Tin Mừng thời thơ ấu theo thánh Matthêu cho thấy toàn thể mầu nhiệm Chúa Giêsu là sự thực hiện lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Ap-ra-ham và Đavit. Chúa Giêsu vừa là điểm tới của lời hứa ban dòng dõi theo huyết nhục, vừa là khởi đầu mới để lời hứa được thực hiện qua một dòng dõi mới, không phải do huyết nhục nhưng do Thánh Thần. Khi sinh làm người, Chúa Giêsu đã là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” để thiết lập Giao Ước Mới, nhưng khi đã chết và phục sinh để nhận mọi quyền trên trời dưới đất, thì Chúa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” và muôn dân được vào trong Giao Ước bằng Máu của Chúa, nhờ chịu phép rửa và tuân giữ mọi điều Chúa truyền dạy.

3/ Người tôi tớ đau khổ: Chết và phục sinh là cách Chúa cứu dân mình khỏi tội lỗi của họ. Tại sao lại như vậy? Sách Tin Mừng Mt dẫn chúng ta vào mầu nhiệm này bằng cách vạch cho thấy đó là kế hoạch của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo. Ngay sau bài giảng trên núi (công bố Luật của Giao Ước Mới, chúng ta sẽ trở lại điểm này), Chúa Giêsu bắt đầu chữa lành bệnh tật, vốn được coi là hậu quả của tội lỗi, Mt lý giải bằng cách cho thấy đó là ứng nghiệm lời loan báo về người tôi tớ đau khổ trong sách Isaia 53,4: “Người đã mang lấy các bệnh hoạn tật nguyền của ta”.

Bài ca “người tôi tớ đau khổ” (Is 52,13 – 53,12) được cả bốn sách tin Mừng vận dụng để giải nghĩa cái chết và sự  phục sinh của Chúa, mỗi sách vận dụng một cách khác nhau; Mt trích dẫn rõ ràng ở đây để cho thấy rằng khi chữa lành bệnh tật thì không phải Chúa xua trừ nó, nhưng là mang lấy vào thân mình. Mc theo phong cách khác trong nghệ thuật kể chuyện, không trích dẫn, nhưng kể rằng sau khi đưa tay chạm vào người phong cùi để cho người ấy được lành thì Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được mà ở lại nơi hoang vắng (thế chỗ người phong cùi!) (Mc 1,45 và Is 53,3). Bài ca này còn chứa nhiều yếu tố khác sẽ được ứng nghiệm trong mầu nhiệm Chúa Giêsu chết và Phục Sinh. Lc dùng như một sơ đồ để viết trình thuật cuộc Thương Khó.

4/ Người tôi tớ hiền lành: Sau bài giảng về cung cách và số phận của ngươi được sai đi loan báo Tin Mừng (Mt 10), trong đó Chúa Giêsu đã nói đến sự bách hại và điều kiện để làm môn đệ, Mt tiếp tục kể việc Chúa Giêsu đi rao giảng, chữa lành và khi bị chống đối thì Chúa lánh đi và cấm người ta không được tiết lộ Người là ai. Để lý giải thái độ này của Chúa, Mt 12,16-21 trưng dẫn bài ca thứ nhất về người tôi tớ của Thiên Chúa trong Is 42,1-7. Hiền lành, khiêm nhượng, thinh lặng là cung cách của người tôi tớ “không yếu hèn, không chịu phục cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu”. Chúa Giêsu mời gọi “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Cung cách hiền lành, khiêm nhường và thinh lặng sẽ thể hiện tuyệt vời trong cuộc Thương Khó, qua đó Chúa Giêsu sẽ thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao như được diễn tả trong bài ca: “Ta đã gọi ngươi vì muốn làm sáng tỏ Đức Công Chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, giữ gìn ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42,6-7). Mt sẽ cho thấy khi chết là lúc Chúa Giêsu đi vào phá ngục tù của cõi chết mà đưa những người bị giam giữ trong đó ra khỏi tù.

5-6/ Tin Mừng thời thơ ấu của Mt đã có nhiều ám chỉ, so sánh với chuyện Môsê và dân It-ra-en trong sách Xuất Hành. Cấu trúc phần thân của sách Mt gom lời giảng dạy của Chúa Giêsu thành 5 bài giảng, khiến chúng ta không thể không nghĩ tới Ngũ Thư (5 cuốn sách đầu của Cựu Ước) được coi là Luật Giao Ước do Môsê ghi chép. Bài giảng đầu tiên là bài giảng trên núi, trong đó Mt trình bày Chúa Giêsu như là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” để mở miệng dạy dỗ chúng ta: “Thấy đám đông dân chúng, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng…” (bản dịch CGKPV 1999 – đáng tiếc là lần tái bản năm 2008, nhóm “CGKPV” đã bỏ cách dịch này vốn theo sát bản Hy Lạp, làm mất đi một khía cạnh quan trọng của sự tương phản với cảnh trên núi Xinai như thấy sau đây).

Quang cảnh và cách Thiên Chúa nói trong sách Xuất Hành 19-20 thật là khác:

Ông Môsê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… Ông Môsê nói và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm” (Xh 19,17-18).

Kết quả là: “Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với ông Môsê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20,18-19).

Lời truyền dạy của Chúa Giêsu là Luật của Giáo Ước Mới. Trong bài giảng này Chúa Giêsu không bãi bỏ luật Môsê nhưng làm cho nó nên trọn vẹn.  Luật Giao Ước Mới được ghi trong lòng, trong tim nên phải tuân giữ tận đáy lòng, phải thực hành với cả tấm lòng chứ không phải chỉ bề ngoài (x. Gr 31,33-34 và Ed 36,25-27).

Mỗi bài giảng đều kết thúc với một câu chuyển tiếp giống nhau:

khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, đám đông dân chúng sửng sốt” (7,26);

khi Đức Giêsu ra chỉ thị cho mười hai môn đệ xong, Người rời chỗ đó” (11,1);

khi Đức Giêsu kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó” (13,53);

khi Đức Giêsu giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Galilê” (19,1);

khi Đức Giêsu giảng dạy TẤT CẢ những điều ấy xong, Người bảo các môn đệ của Người rằng: “Anh em biết còn hai ngày nữa là  đến lễ Vượt Qua, và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá” (26,1).

Sau bài giảng trên núi, câu chuyển tiếp nêu phản ứng của dân chúng, cấu trúc tương tự trong sách Xuất Hành, nhưng nội dung khác hẳn:  “Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với ông Môsê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20,18-19). Còn khi nghe Đức Giêsu thì “đám đông dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7,28-29).  Dân ở núi Xinai nghe sấm sét thì sợ, xin Môsê nói, đừng để Thiên Chúa nói. Kinh sư giảng dạy Luật Môsê, chỉ lặp lại những gì đã nghe chứ không dám nói điều gì mới. Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền, hơn cả Môsê, vì Người là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” để “ngồi trên núi và mở miệng” rao truyền Luật Giao Ước Mới.

Sau bài giảng 2, 3, 4 câu chuyển tiếp nêu sự di chuyển trong không gian: rời chỗ đó, đi khỏi nơi đó, rời khỏi miền Galilê (bản dịch ở đây sát với bản Hy Lạp).

Sau bài giảng thứ năm, câu chuyển tiếp có thêm một yếu tố: TẤT CẢ, và không nêu di chuyển trong không gian, nhưng loan báo biến cố sắp xảy ra: “hai ngày nữa là lễ Vượt Qua và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá.” Điều Chúa đã báo trước 3 lần, bây giờ sắp xảy ra: hai ngày nữa.

Câu chuyển tiếp này gợi lại lời ở cuối sách Đệ Nhị Luật: “khi ông Môsê đã nói xong tất cả những lời ấy với toàn thể It-ra-en, thì ông bảo họ…” (32,45).

Nhưng lời Chúa Giêsu bảo môn đệ “hai ngày nữa là lễ Vượt Qua và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá” lại gợi nhớ việc lập Giao Ước trong Xh 24,1-8:

Thiên Chúa phán với ông Môsê: “Hãy lên với Đức Chúa…

Ông Môse xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật…

Ông Môsê chép lại mọi lời Đức Chúa…

Sáng hôm sau ông Môsê dạy sớm…Ông Môsê sai các thanh niên trong dân It-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. Ông Môsê lấy một nửa phần máu đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ.

Ông lấy cuốn sách Giao Ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rẩy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này”.

Trình tự diễn biến sau đó đối chiếu sát đoạn sách Xuất Hành:

Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?

Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ… Rồi Người cầm lấy chén rượu… “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội…”

Trong sách Xuất Hành, theo lời Thiên Chúa truyền, ông Môsê lên với Đức Chúa trên núi và “xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa”.

Trong Tin Mừng Mt 24,1-26,1 chúng ta gặp lại Chúa Giêsu trên núi, lần này thì núi có tên:

Chúa Giêsu ngồi trên núi Ôliu, các môn đệ tới gặp riêng Người và thưa: “Xin Thầy nói cho chúng con biết…”

Kết thúc: “khi Đức Giêsu giảng dạy TẤT CẢ những điều ấy xong, Người bảo các môn đệ của Người rằng: “Anh em biết còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá”

Khi Chúa Giêsu đổ máu mình ra và chết trên thánh giá, chính là lúc Chúa lập Giao ước bằng Máu của Chúa. Mặc dù trong bản văn Mt Chúa Giêsu chỉ nói Giao Ước, không có chữ “Mới” như trong bản văn Lc, nhưng đây là Giao Ước bằng Máu của Chúa chứ không phải bằng máu  các con vật như ở núi Xinai, và máu này lại đem ơn tha tội nữa, nên đương nhiên là Giao Ước Mới.

7/ Đến đây còn phải chú ý tới một điều trong thân sách Tin Mừng Mt, đó là ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Mặc dù trong bài giảng về thân phận người được sai đi loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu đã nói đến điều kiện để theo Chúa, trong đó có sự bách hại và sự từ bỏ gia đình, Chúa vẫn chưa nói đến thập giá. Chỉ sau khi thánh Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa mới bắt đầu nói đến viêc Chúa phải lên Giêrusalem và bị giết chết và ngày thứ ba sống lại. Sau đó Chúa nói đến điều kiện để theo Chúa là “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Như vậy cuộc Thương Khó là con đường Chúa phải đi qua mới nhận được quyền năng của Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Sau khi Phục Sinh Chúa mới tuyên bố “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất… Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (28,20).

Chết và phục sinh là cuộc tấn phong của Đức Kitô, là sự hiển linh trọn vẹn của “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

3. Chúa Giêsu tự ý đón nhận cuộc Thương Khó.

Cuộc thương khó không phải là một bất ngờ với Chúa Giêsu, vì Chúa đã báo trước ba lần, và khi  kết thúc hoạt động rao giảng, Chúa báo rõ: “Còn hai ngày nữa…” (26,1).

Phe lãnh đạo họp nhau âm mưu thủ tiêu Chúa Giêsu cho gọn lẹ, không để dân chúng can thiệp. Trong khi ấy Chúa Giêsu dùng bữa tại nhà một người từng bị phong cùi và đón nhận chai dầu thơm quí giá do một người phụ nữ trút lên đầu Chúa, coi như chuẩn bị mai táng Chúa.

Đavit được Sa-mu-en đổ nguyên một sừng dầu lên đầu để xức dầu cho ông làm vua (I Sm 16,1-13). Chúa Giêsu cũng sắp nhận mọi quyền trên trời dưới đất qua cái chết và phục sinh, nên Chúa chấp nhận được xức dầu.

Người ta nhân danh người nghèo để coi đó là phí phạm, thì Chúa nhận mình là một người nghèo đặc biệt “không có mãi đâu”.  Nghĩa tử là nghĩa tận, chỉ có thể mai táng Chúa một lần thôi. Người nghèo thì người ta luôn có bên cạnh. Cử chỉ của người phu nữ này đuợc gằn liền với Tin Mừng về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa: “Tin Mừng này được loan báo ở đâu trong thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô”. Trước khi Chúa lập bí tích Thánh Thể để chúng ta làm mà nhớ tới Chúa thì Chúa đã bảo “kể lại việc này mà nhớ tới cô”. Mt không cho chúng ta biết tên người phụ nữ này, chúng ta chỉ nhớ đến “người phụ nữ đã đổ dầu thơm lên đầu Chúa Giêsu để chuẩn bị mai táng”. Đứng trước cái chết của Chúa thì người ta chỉ có thể làm một điều: yêu mến và biết ơn. Người phụ nữ không tên này là khung hình để trống cho mỗi người ghép hình của mình vô.

Đối ngược với hình ảnh người phụ nữ yêu mến và quảng đại, Mt tả Giuđa, một người trong nhóm Mười Hai là những người thân tín nhất của Chúa, như một kẻ tham tiền đi bán Thầy.

Trong khi người ta âm mưu giết Chúa và một người trong nhóm 12 tiếp tay cho họ, thì Chúa Giêsu sai môn đệ đi dọn ăn lễ Vượt Qua. Trong bữa ăn này Chúa cho nhóm 12 biết là một người trong các ông sẽ nộp Chúa, rồi Chúa lập bí tích Thánh Thể như bí tích của Giao Ước Mới. Người ta mưu giết Chúa nhưng Chúa dùng bàn tay sát nhân của họ để hoàn thành sứ mạng của Chúa.

Chúa lại ra núi Ô-liu để chính thức đi vào cuộc khổ nạn từ chính nơi Chúa đã báo: hai ngày nữa! Chúa cũng chấp nhận cả sự phũ phàng là đêm nay đàn chiên của Chúa sẽ tan tác: nhóm 12 sẽ bỏ Chúa và Phêrô, người đã tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” sẽ chối Chúa nhanh hơn gà gáy. Chúa chấp nhận tất cả và Chúa báo cho họ biết là Chúa sẽ trỗi dậy và về Galilê trước họ. Hẹn gặp lại ở Galilê, nơi Ngài và các môn đệ đã bắt đầu, để lại bắt đầu.

Chúa đi vào cầu nguyện để thưa “VÂNG” với Chúa Cha. Một mình đối diện với Chúa Cha thì Chúa Giêsu không dấu nỗi buồn rầu xao xuyến: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được”. Nhóm 12 đã bỏ Chúa từ lúc này rồi. Ba người thân tín nhất cũng bỏ Chúa một mình, không thức nổi với Chúa. Ba lần cầu nguyện, Chúa chỉ làm một việc là nộp mình để thi hành ý muốn của Cha. Chúa đã chiến thắng nỗi “buồn đến chết được” để ra đón cái chết: “Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”

Chúa Giêsu đã chiến thắng trong cầu nguyện rồi nên giờ đây Chúa hoàn toàn làm chủ tình hình: Chúa ra đón kẻ phản nộp và những kẻ đến bắt Chúa. Chúa vạch cho Giuđa thấy ông ta đang làm gì, Chúa ra lệnh cho môn đệ không dùng bạo lực, hãy để cho kế hoạch của Thiên Chúa thể hiện.

Chúa vạch trần sự ám muội của những kẻ đến bắt Chúa và cho thấy mọi toan tình của họ không qua khỏi kế hoạch của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo.

4. Phi pháp.

Luật Rôma cũng như luật Môsê đều không chấp nhận bắt người ban đêm trừ khi là bắt quả tang trôm cướp. Vì thế Chúa Giêsu bảo bọn thủ lãnh và sai nha đến bắt Chúa: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi…” Rồi Chúa cho biết đó là “để ứng nghiệm lời chép trong sách các ngôn sứ.” Bài ca “người tôi tớ đau khổ” đã nói “Người bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12).

Không có luật pháp nào cho phép xét xử ban đêm, thế nhưng kinh sư và kỳ mục đã tụ họp sẵn tại nhà thương tế Cai-pha chờ sai nha giải Chúa Giêsu tới. Họ họp nhau không phải để xét xử, nhưng là “tìm lời chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình”. Hôm trước họ đã họp nhau “bàn tính dùng mưu bắt Đức Giêsu” (26,4), bây giờ bắt được rồi thì phải tính bước tiếp theo:  “tìm lời chứng gian”. Họ thất bại thê thảm: “Nhưng họ không tìm ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian”. Chúa Giêsu là Đấng Công Chính, trong sáng đến nỗi tìm chứng gian cũng không nổi!

Đến lúc Thượng Tế Cai-pha chứng tỏ bản lãnh của ông: tìm chứng gian không được thì ông phải dựa vào sự thật để kết án tử hình: “nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không?” Chúa Giêsu vẫn thinh lặng khi người ta tìm chứng gian. Bây giờ Thượng Tế đòi biết sự thật nhân danh Thiên Chúa hằng sống. Sự thật ấy chính ông ta phát biểu, trùng với lời tuyên xưng của thánh Phêrô lúc ở Galilê. Chúa Giêsu xác nhận lời ông nói và còn giải thích thêm bằng lời trong sách Da-ni-en 7,13. Thượng Tế hùng hồn minh họa lời phán xét bằng cử chỉ xé áo: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng, quý vị nghĩ sao?”

Họ liền đáp: nó đáng chết!” Thượng tế thành công một trăm phần trăm! Họ hả hê đắc thắng. Chúa Giêsu tiếp tục im lặng, mặc cho họ đấm đánh, khạc nhổ vào mặt và chế diễu. Người tôi tớ bị ngược đãi của bài ca thứ ba Is 50,4-9 đang ở trước mắt chúng ta: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, đưa má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ”.

5. Phêrô khóc lóc thảm thiết.

Phêrô đã thề thốt quyết liệt: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (26,35). Nhưng khi Chúa Giêsu đã tự nộp mình thì “bấy giờ tất cả các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (26,56).

Có một người tỏ ra lì hơn: “Ông Phêrô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với đám thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao?”

Kết cuộc là thế này đây: đang khi trong đại sảnh, thượng tế dùng đến thủ đoạn cuối cùng để yêu cầu Chúa Giêsu xác nhận điều ông Phêrô đã tuyên xưng khi còn ở Galilê: “Lúc ấy ông Phêrô ngồi ngoài sân. Một người tớ gái đến bên ông và nói: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giêsu, người Galilê!” Ông liền chối trước mặt mọi người: “Tôi không biết cô muốn nói gì!”

Chuyện lặp lại nguyên văn với một người tớ gái khác. Lần thứ ba thì không phải một tớ gái mà là cả bọn đứng đó nhao nhao lên: “Đúng là bác cũng thuộc nhóm họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay”.  Bị bắt thóp, hết đường chối, ông Phêrô cũng dùng biện pháp cuối cùng, đối xứng với thượng tế ở trong kia: “Bấy giờ ông liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi không biết người ấy”.

Nhưng có một lời mạnh hơn lời thề độc địa của ông: “Lúc đó gà liền gáy. Ông sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy đến ba lần”.

Tim ông tan chảy khi nhớ lại lời ấy: “Ông ra ngòai khóc lóc thảm thiết”.

6. Giuđa không biết khóc.

Cuộc họp ban đêm kết thúc với lời hô hoán: “Nó đáng chết!”. Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô. “Trời vừa sáng, tất cả các thượng tế và kỳ mục trong dân bàn kế hại Đức Giêsu để giết được Người. Rồi họ trói Người lại và điệu đi nộp cho tổng trân Philatô”.

Phêrô theo vào trong sân để xem kết cuộc ra sao. Kết cuộc là ông chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, rồi nhờ tiếng gà gáy ông nhớ lại lời Chúa Giêsu và “ra ngoài khóc lóc thảm thiết”.

Mt không cho biết Giuđa ở đâu trong đêm ấy.

Đến khi “họ trói Chúa Giêsu lại và điệu đi nộp cho cho tổng trấn Philatô” thì Mt cho chúng ta gặp lại Giuđa: “Bấy giờ Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận”.

Làm sao bây giờ?

Giuđa không nhớ lại lời nào của Chúa, nhưng nhớ lại lời những kẻ đã ngả giá với ông và quay lại gặp họ: “Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô tội”.

Thật phũ phàng. Họ đâu phải là bạn hữu của Giuđa. Tiền trao cháo múc. Chúa Giêsu đã vào tay họ, tiền đã trao tay Giuđa: “Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh.”

Đất sụp dưới chân Giuđa. Không còn ai, không còn gì trên mặt đất niú ông lại.

Giuđa bỗng thấy mình lơ lửng giữa trời và đất. Ông chọn ở lại trong tư thế này.

Sợi giây vĩnh viễn không bao giờ cho tiếng khóc bật lên từ cổ họng ông được nữa.

7. Philatô và máu người vô tội.

Các tổng trấn Rôma cai trị xứ Giuđa từ khi A-khê-la-ô con của Hêrôđê Cả bị phát lưu (năm 6 sau CGS), chẳng có vị nào yêu thương cái dân bị trị này. Họ chỉ đua nhau tàn ác và bóc lột. Philatô sau này cũng sẽ bị phát lưu vì quá tàn bạo.

Hôm nay lãnh đạo dân Giuđa lại tỏ ra phục quyền, dẫn một người đến xin ông Philatô xử. Philatô chỉ hỏi Chúa một câu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Chúa cũng chỉ trả lời một lần. Câu trả lời của Chúa nghe bí ẩn : “Chính ngài nói đó”.

Những kẻ tố cáo thì um sùm. Chúa Giêsu chỉ im lặng. “Tổng trấn Philatô rất đỗi kinh ngạc”. “Thật vậy, ông thừa biết vì ghen tị mà họ nộp Người.”

Bà vợ làm cho ông thêm lúng túng với lời nhắn: “Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy”.

Philatô phải đối diện với những kẻ đòi giết. Làm sao né vụ này đây. Philatô đề nghị tráo con bài:

Tráo mạng Giêsu, người vô tội bằng mạng “một người tù khét tiếng tên là Ba-ra-ba”. Philatô tính sai nước cờ. Ba-ra-ba là người của họ! Họ xúi dân (đám đông có mặt đó) hô “Ba-ra-ba!”. Philatô ra mặt bênh người vô tội: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Nhưng họ chỉ muốn giết, không cần lý do gì cả: “Đóng đinh nó vào thập giá”.

Ông Philatô thấy đã chẳng đươc ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: ”Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các ngươi liệu lấy”.

Các thượng tế và kinh sư cùng đám đông hùa theo họ hiểu rất rõ cử chỉ của Philatô, và họ chấp nhận: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi.” Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “Bấy giờ ông thả Ba-ra-ba cho họ, còn Đức Giêsu thì ông truyền đánh đòn, rồi trao nộp Người để Người chịu đóng đinh vào thập giá.”

Có những điều nghịch lý cần nghiền ngẫm ở đây.

Các thượng tế và kinh sư phủi tay với Giuđa: “Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh

Philatô rửa tay trước mặt họ: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các ngươi liệu lấy

Câu hỏi của ông chứng tỏ ông biết và nhìn nhận Chúa Giêsu vô tội và đám đông hiểu ông muốn nói gì. Khi định đoạt về số tiền Giuđa quăng trả lại, các thượng tế và kinh sư biết đó là “giá máu”. Nhưng trong phút quyết liệt này họ nhận trách nhiệm: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi”.

Họ không biết là máu Chúa Giêsu là “máu Giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội”.

Cái vô lý là tất cả: Giuđa, Philatô, các thượng tế và kinh sư, đều nhìn nhận Chúa Giêsu vô tội nhưng vẫn bắt Chúa phải chết.

Giuđa nhìn nhận: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô tội

Philatô với “bàn tay sạch” trao Chúa Giêsu để chịu đánh đòn. [Đánh đòn là để cho mau chết trên thập giá]. “Rồi ông trao nộp Chúa Giêsu để Người chịu đóng đinh vào thập giá”.

Mt kể vắn tắt như thể lính đánh đòn rồi điệu đi đóng đinh không qua trước mặt Philatô nữa, nhưng câu tóm tắt vừa nêu lại cho thấy là hai hồi khác nhau và đều có sự chỉ đạo của Philatô: “Ông truyền đánh đòn rồi trao nộp để Người chịu đóng đinh vào thập giá.

Lính của tổng trấn thực hiện việc đổ máu.

Đấng vô tội thì im lặng như con chiên bị đem đi làm thịt, “Người chẳng hề mở miệng

Lính đem Chúa Giêsu đi đánh đòn, chế diễu dựa trên câu hỏi đầu tiên họ đã nghe từ miệng Philatô: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”

Chế diễu chán… chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá”.

Thế là Giuđa nộp máu người vô tội, Philatô cũng nộp máu người vô tội.

Các thượng tế và đám đông hứng máu người vô tội cho mình và cho con cháu.

Mt 27,25 viết: “toàn dân đáp lại: Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi”.  Trong lịch sử, người Kitô hữu thường hiểu rằng dân Do Thái bị tan tác vì đã đổ máu Chúa Giêsu. Nhưng Sách Thánh không cho phép giải thích như vậy, bởi vì Máu Chúa Giêsu là máu ban ơn tha tội như chính Chúa tuyên bố khi lập bí tích Thánh Thể. Thư gởi tín hữu Hip-ri cũng nói: “Anh em đã tới cùng vị trung gian Giao Ước Mới là Đức Giêsu và được Máu của Người rảy xuống, máu đó kêu lên còn mạnh hơn cả máu A-ben” (Hr 12,24). Máu A-ben kêu lên xin Thiên Chúa xét xử, còn máu Chúa Giêsu “mạnh hơn” vì đem lại ơn tha tội và đưa vào Giao Ước mới.

Ông Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động” (27,25)

Cái “ích” mà Philatô tìm là cái gì? Ông muốn tha Chúa Giêsu hay muốn dân để cho ông yên? Nếu ông muốn tha “người công chính” vì “ông thừa biết vì ghen tị mà họ nộp Người” thì đề nghị của ông là sai lầm lớn. Nếu ông muốn bênh vực công lý thì ông chỉ có một đường là thi hành trách nhiệm và chấp nhận hậu quả. Ông cứ việc tuyên bố tha Chúa Giêsu vì không có lý do gì để buộc tội. Nhưng cái “ích” mà ông tìm là được yên thân! Khi quyết định “trao nộp Người để chịu đóng đinh vào thập giá” thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ: “vì ghen tị mà họ nộp Người” cho ông và gào xin “đóng đinh nó vào thập giá”, đến lượt ông thì vì muốn yên thân “ông trao nộp Người để chịu đóng đinh vào thập giá” như họ xin.

Tất cả những điều nghịch lý, những cái biết và không biết Mt gợi cho người đọc trình thuật cuộc Thương Khó này tới đây đã cho thấy là những gì ngôn sứ Isaia mô tả trong bài ca “người tôi tớ đau khổ” (52,13 – 53,12) được thực hiện rất sát. Bài ca này làm rõ nghĩa cái chết có vẻ vô nghĩa của Chúa Giêsu. Đến đây có thể tạm ngừng để nghiền ngẫm bài ca của Isaia một lần trước khi đọc tiếp bài Thương Khó.

8. Chúa Giêsu trên thập giá.

Lính điệu Chúa Giêsu đi đóng đinh vào thập giá. Đang đi ra, chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn, chúng bắt ông vác thập giá của Người”.

Mt không nói tại sao lại như vậy và chúng ta cũng đừng “chia trí” đi hỏi tại sao. Hãy nhìn hình ảnh Si-môn vác thập giá và để cho những lời khác trong sách Tin Mừng vang vọng trong tâm trí để hiểu Mt muốn truyền đạt điều gì.

Chúa Giêsu đã tuyên bố điều kiện để theo Chúa là vác thập giá. Những người đã theo Chúa bấy lâu nay đều đã bỏ chạy. Si-môn Phêrô, người thề thốt hùng hồn quyết liệt nhất thì đã chối Chúa nhanh hơn gà gáy và bây giờ đang ngồi đâu đó khóc lóc thảm thiết. Lính gặp một người trùng tên Simôn, chỉ có điều ông là người Kyrênê, bên kia Địa Trung Hải… tình cờ đi ngang bị lính gặp và bắt vác thập giá của Chúa.

Thập giá của Chúa?! Thật ra thì cả trình thuật đã cho thấy rõ là Chúa vô tội, mọi người trong cuộc đều nhận ra là Chúa vô tội. Vậy thì thập giá này là của ai? Của mỗi người chúng ta là kẻ có tội đấy. Chúa vác là để cho chúng ta có thể vác mà đi đàng sau Chúa. Vác thập giá một mình và đi một mình thì chẳng có nghĩa gì cả. Simôn vác thập giá là hình tượng người môn đệ đúng nghĩa Mt khắc họa cho chúng ta đấy.

Chúng cho Người uống rượu pha mật đắng (Tv 69,22) đến đây Mt kể những chi tiết gợi nhớ các thánh vịnh về người công chính bị bách hại: 69; 38; 22 và 18. Các thánh vịnh là lời kinh quen thuộc của các tín hữu, nên chỉ cần nêu lên những từ ngữ quen thuộc trong đó là người nghe liên kết được liền và thấy rõ Chúa Giêsu đang chịu số phận của người công chính bị bách hai. Lời sách Thánh ứng nghiệm đến từng chi tiêt.

Đóng đinh Người vào thập giá xong… Mt không nói đến hình dạng cây thập giá cũng không nói đến những chi tiết khác, chúng ta cũng đừng “chia trí”, cư theo sát những gì được kể cho chúng ta. Chúng đem áo Người ra bắt thăm. Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người” (Tv 22,18-19).

“Người này là Giêsu, vua dân Do Thái”. Đó là bản án viết treo trên thập giá phía trên đầu Người. Thế là Philatô chiếu tướng ngược! Philatô đã hỏi Chúa Giêsu “Ông có phải là vua dân Do Thái không”; dĩ nhiên là ông nghe qua những kẻ nộp Chúa Giêsu cho ông.  Phe lãnh đạo và đám đông nhất định đòi đóng đinh người vô tội, mặc dù Philatô nuốn tha. Bị áp lực phải đổ máu người vô tội thì Philatô biến thành công trạng của mình, bằng cách viết bản án như thế. Ông có thể báo cáo thành tích là đã đóng đinh được vua dân Do Thái, mọi người đều có thể làm chứng cho ông! Chuyện sẽ đến tai Hoàng đế ở Rôma và Philatô sẽ được ghi công.

Một bất ngờ nữa trước mắt chúng ta: “Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một tên bên phải, mỗt tên bên trái”. Điều Chúa Giêsu chất vấn những kẻ đến bắt Chúa thì bây giờ họ trả lời: họ đặt Chúa giữa hai tên cướp, coi như Chúa là tướng cướp. Hợp như lời Kinh Thánh: “Người bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12).

Kẻ qua người lại đều nhục mạ người”. Dậu đổ bìm leo. Những cám dỗ của Xatan trong hoang địa bây giờ trở thành khúc khải hoàn với một giàn hợp xướng nhiều bè: kẻ qua người lại, thượng tế và kinh sư, hai tên cùng bị đóng đinh. Điệp khúc là một biến tấu của câu “Nếu hắn là Con Thiên Chúa”. Nỗi đau xé lồng ngực Chúa Giêsu trên thập giá vì không chỉ Người, mà chính Chúa Cha bị nhục mạ, thách đố.

Âu cũng vì Ngài mà con bị người đời thóa mạ, chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày…

Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời,

Nỗi sầu riêng mong người chia sớt, luống công chờ không được một ai,

đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu

Thay vì đồ ăn chúng trao mật đắng, con khát nước lại cho uống giấm chua”

(Tv 69,8.21-22) .

9. Thiên Chúa trả lời

“Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín”

Lời mô tả này gợi cho chúng ta hình ảnh cuộc hiển linh của Thiên Chúa để phán xét:  “Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng” (Amốt 8,9)  và cũng là để cứu độ. Khi đưa dân Chúa ra khỏi Ai Cập, “Chúa giăng mây làm màn che phủ họ” (Tv 105,39; x.Xh 14,19).

Khi Thiên Chúa xuống trên núi Xinai để ban truyền Luật Giao Ước thì “Núi bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tói mây đen mù mịt. Đức Chúa phán với anh em từ trong đám lửa, anh em nghe thấy tiếng nói nhưng không thấy hình bóng nào, chỉ có tiếng thôi” (Đnl 4,11-12).

Cả ba khung cảnh này đều có thể giúp chúng ta hiểu về bóng tối giữa trưa. Thiên Chúa đến phán xét và cứu Con của Người đồng thời xác lập Giao Uớc bằng Máu của Chúa Giêsu. Thiên Chúa trả lời những kẻ thách đố: “Hắn cậy vào Thiên Chúa thì bây giờ Thiên Chúa đến cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là con Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa đã nói với Chúa Giêsu ở bờ sông Giođan và với các môn đệ ở trên núi.  Thiên Chúa hiển linh, lấy bóng tối che cho Con trong cuộc Vượt Qua này. Thánh vịnh 18 (17) diễn tả cảnh người công chính tin tưởng vào Chúa và kêu cầu khi “sóng tử thần dồn dập chung quanh…” thì:

Chúa nghiêng trời ngự xuống, chân đạp lớp mây mù, ngự trên thần hộ giá, trên cánh gió lượn bay: Chúa dùng bóng tối làm màn bao phủ, lấy mây đen nghịt làm trướng che thân…”(câu10-12)

Trong quang cảnh hiển linh ấy, Mt cho chúng ta nghe lời cầu nguyện của Chúa Giêsu qua thánh vịnh 22(21), là thánh vịnh diễn tả rất sát hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Lời cầu nguyện cũng bị xuyên tạc để chế diễu. Có kẻ đưa giấm lên cho Chúa uống: ứng nghiệm thánh vịnh 69,22. Thánh vịnh 18 vừa kể trên : “Lúc ngặt nghèo tôi kêu cầu Chúa… Từ Thánh Điện Người đã nghe tiếng tôi cầu cứu” (câu 7).

Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn rồi trút hơi” (dịch sát bản Hy Lạp). Tiếng thét này gợi lên tiếng của Thiên Chúa phán xét và tiếng của Con Thiên Chúa đã nát tan kiệt sức. Cha Con gặp nhau trong một tiếng thét chung, làm nên nét bi hùng nhất:

Khi Thiên Chúa hiển linh để bênh vực Đấng Ngài đã xức dầu: “Nổi trận lôi đình Ngài quát nạt”( Tv 2,5); “Chúa nổi sấm vang trời, Đấng Tối Cao lớn tiếng”( Tv 18,14).

Tv 38,9: “Bị suy nhược, nát tan kiệt sức, Tim thét gào thì miệng phải rống lên”.

10. Khai mở một kỷ nguyên mới

“Bỗng bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới.”. Bức màn trướng trong Đền Thờ tức là bức màn ngăn nơi Cực Thánh, mỗi năm thượng tế qua bức màn này vào phía trong nơi Cực Thánh một lần ngày lễ xá tội (Xh 26,31-34; 36,35-36 và Levi,16). Thư Hip-ri, chương 9 diễn tả ý nghĩa của cái chết hiến tế của Chúa Giêsu: Nơi Cực Thánh trong Đền Thờ chỉ là hình bóng: “Thánh Thần tỏ cho biết là lối vào thánh điện chưa được mở bao lâu lều thứ nhất vẫn còn đó” (Hr 9,8). “Đức Kitô đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn… Máu của Đức Kitô còn thanh tẩy lương tâm chúng ta… để chúng tra phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. Đó là máu của Đấng đã tự hiến tế, làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí hằng hữu thúc đẩy. Bởi vậy Người là trung gian của một Giao Ước Mới” (Hr 9,11-15).

“Đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy”. Khi Thiên Chúa ngự xuống trên núi Xinai thì “cả núi rung chuyển mạnh” (Xh 19,18).  Khi Thiên Chúa xuất hiện để bênh vực người công chính: “Trái đất bỗng ầm ầm rung chuyển, chân núi đồi chấn động lung lay và Chúa nổi lôi đình” (Tv 18,8).

Bóng tối và động đất là dấu hiệu hiển linh của Thiên Chúa. Với cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã hiển linh để khai mở một ỷ nguyên mới, trong đó Thiên Chúa thật sự “ở với chúng ta”, không còn bức màn ngăn cách.

Cuộc hiển linh này là cuộc chiến thắng cả trong cõi chết: Chúa Giêsu đi vào cõi chết, tiêu diệt cả quyền lực của cái chết vốn ngự trị từ khi tội lỗi vào được thế giới loài người.

Mt sử dụng một ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh rất hiện đại để gợi cho chúng ta cảnh Chúa Giêsu đi vào cõi chết và chiến thắng.

Chúng ta hãy mường tượng một cuốn phim, trong đó vị anh hùng phải tiêu diệt cho được một kẻ thù hung dữ vốn ẩn núp rất kỹ. Cuối cùng trên màn hình chúng ta thấy vị anh hùng một mình một súng thận trọng từng bước tiến về một ngôi nhà trong rừng sâu mà ta chỉ đoán được vì có một đốm lửa phía trước… rồi ta bỗng nghe tiếng súng nổ, lửa chớp qua khung cửa sổ vừa bật tung… rồi im lặng … vị anh hùng với họng súng còn bốc khói đứng giữa mấy cái xác chết, trong một góc, mấy ngượi bị bắt làm con tin đang ngóc đầu lên, vừa mừng vừa sợ.

“Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa”. Những người ngoại đạo nhận ra ý nghĩa của các dấu hiệu. Mt 8, 5-13 đã kể chuyện một viên đại đội trưởng đến xin Chúa chữa một tên đầy tớ của ông và được Chúa khen: “Tôi không thấy một người nào trong dân It-ra-en có lòng tin như thế” và Chúa tuyên bố: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng Ap-ra-ham, I-xa-ac và Gia-cop trong Nước Trời”. Lời ấy đã thành sự thật ngay lúc này. Họ đã nhận ra sự hiển linh của Thiên Chúa. Họ là những người đầu tiên nhận ra vị anh hùng đến giải cứu.

“Ở đó, có nhiều phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã đi theo Đức Giêsu từ Galilê để phục vụ Người…” Nhìn hình ảnh này, chúng ta lại chợt hỏi, các bà đứng đây, tuy đứng nhìn từ đàng xa, còn những người môn đệ thân tín thì đâu hết rồi! Mt cho chúng ta thấy nốt quang cảnh người “tội nhân lâm cơn cùng khốn” mô tả trong thánh vịnh 38,12: “Con bị tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần, bà con ruột thịt cũng đứng xa”. Chúa Giêsu vô tội nhưng đã bị liệt vào hàng tội nhân và chịu tất cả thân phận của một tội nhân, “nhưng thực ra Người đã mang lấy tội muôn người” (Is 53,12).

Chiều đến, có một nguời giàu sang đến…”. Mt tiếp tục gợi cho chúng ta hình ảnh người tôi tớ đau khổ, bị liệt vào hàng tội nhân, chết giữa các tội nhân nhưng lại có phần mộ với người giàu có (Is 53,9). Ông Giô-xép người Arimathê, là người giàu sang mà cũng là môn đệ Đức Giêsu, lần đầu tiên xuất hiện trong sách Tin Mừng. Ông xin được xác Đức Giêsu, “lấy tấm vải gai sạch mà liệm và đặt vào ngôi mộ mới ông đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông.”

Thế là thập giá của Chúa thì ông Simôn vác nhưng Chúa chịu đóng đinh trên đó, còn mộ của ông Giô-xép thì chính ông lai đặt xác Chúa Giêsu vào đó, “lăn tảng đá lấp cửa mộ, rồi ra về. Thế là trọn vẹn: người đã chết và chịu mai táng vì đã mang lấy tội lỗi của chúng ta.

Một lần nữa Mt kéo chúng ta chú ý tới hai người phụ nữ cùng mang tên Maria, hai bà ngồi lại đó, quay mặt vào mộ. Hình ảnh chuyển tiếp sang cảnh tiếp theo.

Ta hãy tạm ghi nhận tên các nhân vật: Giô-xép và Maria. Mở đầu sách tin Mừng, Mt đã kể trong gia phả:  “ông Gia-cóp sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, do bà mà Đức Giêsu sinh ra, gọi là Kitô”. Trong phần đầu gia phả có tên ông Giacop.  Ông Giacop cũng có một người con tên là Giuse, người đã bị bán sang Ai Cập, nhưng lại cứu được cả gia đình khỏi chết đói bằng cách đưa cả gia đình sang Ai Cập. Ông Giuse mới cũng có nhiệm vụ cứu “hài nhi và mẹ người” khỏi tay Herođê bằng cách trốn sang Ai Cập.

Khi Chúa Giêsu chết thì laị có một ông Giuse cứu xác Chúa khỏi bị quăng vào hố tập thể, mai táng đàng hoàng trong ngôi mộ của ông, có hai bà cùng tên Maria ngồi quay vào mộ.

Trong truyện Môsê thì Môsê được đặt trong thúng, thả giữa đám sậy trên sông Nin, có “người chị (tên là Maria) đứng đàng xa để xem cho biết cái gì sẽ xảy ra…” (Xh 2,1-5).

Cùng với hai bà ta hãy chờ xem cái gì sẽ xảy ra!

11. Chuyện bịp bợm cuối cùng, hồi một.

Giết được Chúa Giêsu rồi mà phe thượng tế và kinh sư vẫn chưa chịu ngồi yên. Họ đến xin Philatô cho niêm phong và đặt lính canh mộ. Họ gọi Chúa Giêsu là “tên bịp bợm” và họ cũng biết lời Chúa báo trước là “sau ba ngày Ta sẽ trỗi dậy”, họ sợ môn đệ “đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế chuyện bịp bợm cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước”.

Lối châm biếm của Mt thật là thú vị. Chúa bị bắt thì môn đệ chạy trốn hết, còn ai mà đến lấy trộm xác! Có một ông môn đệ “chui” bỗng dưng xuất hiện thì lại để đi xin xác mà chôn. Niêm phong và đặt lính canh để làm gì?  Để làm chứng là Chúa đã sống lại thật à?!

Hãy chờ xem ai là kẻ bịp bợm, đâu là chuyện bịp bợm truớc và đâu là chuyện bịp bợm cuối cùng?

12. Tin Mừng chiến thắng

Khi ngày thứ nhât trong tuần sắp bắt đầu”, ta lại thấy hai bà trùng tên Maria hôm trước ngồi quay vào mộ bây giờ đi ra mộ.

“Bỗng đất rung chuyển dữ dội; thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo Người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết”.

Đất lại rung chuyển dữ dội như khi Chúa Giêsu trút hơi. Lần này thì không thấy đá vỡ, nhưng có sứ thần của Chúa từ trời xuống lăn tảng đá lấp cửa mồ ra, rồi ngồi lên trên. Mt cho biết ngay nhân vật này là sứ thần của Chúa từ trời xuống, diện mạo như ánh chớp, áo trắng như tuyết, so với lúc Chúa Giêsu hiển dung: “dung nhan Người chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” thì thua xa. Vậy thì đúng là thiên sứ chứ không phải là chính Chúa Giêsu phục sinh. Sau khi Chúa Giêsu chiến thắng Xa-tan trong hoang địa thì “có các thiên sứ đến hầu hạ Người”, hôm nay Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, vào trong vinh quang, thi thiên sứ đến với diện mạo như ánh chớp để long trọng mở cửa mồ và ngồi lên trên. Hình ảnh rõ ràng diễn tả sự chiến thắng, như trong đô vật, người chiến thắng ngồi lên trên kẻ thua. Hình ảnh gợi lên thánh vịnh 110,1: “Bên hữu Cha đây Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con.”

Tình thế đảo ngược: “Thấy Người, lính canh sợ hãi run rẩy và ra như chết” (dịch sát).

Còn các bà thì được thiên sứ cho biết là “phe ta” và cho biết cái gì đã xảy ra trong ngôi mộ mà hôm trước các bà đã ngồi nhìn: “Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay.

Thế là chuyện mà mấy ông thượng tế và Pharisêu lo sợ thì đã xảy ra, nhưng không phải như họ tuởng tuợng: Người không còn trong mộ. Đất sợ rung chuyển mạnh, lính sợ run lẩy bẩy, ra như chết; Thiên sứ từ trời xuống phục vụ: mở cửa, tiếp khách, trả lời, mời các bà vô nơi Người đã nằm mà kiểm chứng, truyền đạt mệnh lệnh. Mọi sự đúng như lời Chúa đã báo trước. Ngay trên đường ra núi Ô-liu, khi Chúa Giêsu báo trước việc các môn đệ tan tác thì Chúa đã bảo “sau khi trỗi dậy Thầy sẽ đến Galilê trước anh em.

Các bà vội vã rời khỏi mồ, vừa sợ hãi, vừa rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho các môn đệ Đức Giêsu”. Đi báo Tin mừng thì lòng đầy vui mừng, phải vội vã chứ làm sao mà đi chậm được!

Nhưng Chúa Giêsu cũng nóng ruột không chờ được. Chúa đón gặp các bà, cho các bà niềm vui được thấy, được ôm lấy chân Chúa và được nghe chính Chúa truyền lại điều thiên sứ nói.

13. Chuyện bịp bợm cuối cùng, hồi cuối.

Trong khi các bà rất đỗi vui mừng chạy đi báo tin, được Chúa đón gặp, cho niềm vui trọn vẹn và xác nhận sứ mạng của các bà là đi báo tin cho các môn đệ, thì bọn lính canh cũng hoàn hồn, lo lắng chạy về báo cáo cho những người đã trao nhiệm vụ cho họ “biết mọi việc đã xảy ra”. Lại một phen lúng túng hơn nữa. Họ họp, bàn và có giải pháp: tiền! lại tiền! Công quỹ thiếu gì tiền! Người Việt nam thế kỷ 21 cũng nói: “Tiền nhà nước tiêu như nước”. Hôm trước họ cho Giuđa ba chục đồng bạc để nộp Chúa cho họ, hôm nay “họ cho lính một số bạc lớn, và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác”. Nếu sự việc này đến tai tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với ông ấy và lo cho các anh được vô sự”.

Thế là vừa có tiền vừa được nhà cầm quyền che chở!

Thực tế hai ngàn năm trước lại phản ánh đúng bài vè trào phúng của người Việt Nam thế kỷ hai muơi mốt, khai triển câu châm ngôn “có tiền mua tiên cũng được”:

Ôi đồng tiền, là tiên là phật, là sức bật của con người, là tiếng cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý. Ôi đồng tiền: hết ý”.

Lính đã nhận số bạc và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay”.

Chỉ cần có một giọt trí khôn cũng đủ để biết thắc mắc: “Sao bọn lính có nhiệm vụ canh gác mà lại ngủ? Ngủ thì làm sao biết là môn đệ đến lấy trộm xác? Sao lính không hoàn thành nhiệm vụ mà không bị phạt? Sau này trong sách Công Vụ (ch.12,1-19), một toán lính 16 người canh ngục giữ ông Phêrô. Ban đêm thiên thần vào ngục giải cứu ông Phêrô. Đến sáng cửa ngục vẫn đóng, lính vẫn gác nghiêm chỉnh chứ không ngủ, nhưng không thấy ông Phêrô đâu! Cả 16 người đã bị vua Agrippa truyền xử tử.

Nhưng chuyện cho tiền bọn lính để ra quán rượu tung tin, cũng làm trọn thêm lời thánh vịnh:

Bọn ngồi lê đôi mách cứ gièm pha,

Quân rượu chè cũng đặt vè châm chọc” (Tv 69,13)

Thế là bằng một lối châm biếm thâm thúy, Mt vạch cho thấy ai là kẻ bịp bợm, đâu là sự bịp bợm cuối cùng. thượng tế và kỳ mục là giới lãnh đạo, có nhiệm vụ dạy dỗ dân, đã thành thầy dậy sự dối trá.

14. Gia phả tiếp tục với những người rao giảng sự thật.

Mt tiếp tục kể chuyện mười một môn đệ sau khi nhận được tin nhắn của Chúa Giêsu: “Về Galilê gặp lại”. Tin nhắn vắn gọn được tiết lộ cho chúng ta không nói rõ điểm hẹn. Nhưng các môn đệ biết điểm hẹn:  “các ông đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền”.

Trong truyện tổ phụ Ap-ra-ham, Thiên Chúa truyền cho ông: “Hãy đem con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ac, hãy đi  đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22,3). Trong cuộc tế lễ này Thiên Chúa đã liệu một con cừu để thế cho I-xa-ac, rồi Thiên Chúa phán với ông Ap-ra-ham: “Ta lấy chính Danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển…” (22,16-17).

Hôm nay Con thiên Chúa, sau khi dâng mình làm hy lễ, chỉ thị cho các môn đệ về xứ Galilê, đến ngọn núi Chúa đã truyền. Hai ngọn núi này liên hệ gì với nhau? Cả hai đều không có tên, nhưng trước là ngọn núi Thiên Chúa truyền cho Ap-ra-ham, sau là ngọn núi Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ.

Tới nơi các ông gặp thấy Chúa đang chờ, “các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”. Chúa cũng chẳng cần sửa dạy thêm, nhưng:  “Chúa đến gần, nói với các ông”. Hôm Chúa lên núi để giảng (núi ấy cũng không có tên!) thì “Chúa ngồi xuống, các môn đệ tới gần, Chúa mở miệng dạy”, hôm nay thì “các ông bái lạy, Chúa đến gần, nói với các ông”.

Hôm nay Chúa không dạy các ông nữa mà truyền cho các ông đi dạy. Hồi sai các ông đi thực tập, Chúa bảo “không được đến với dân ngoại”, nhưng hôm nay vì Chúa đã được (Chúa Cha) trao mọi quyền trên trời dưới đất, nên Chúa sai các ông đi “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ… và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”.

Còn Chúa làm gì? “Này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.

Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Chúa đã nhận mọi quyền trên trời duới đất và ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bọn lính được sai đi tung tin dối trá thì có tiền và có nhà cầm quyền bảo trợ. “Lính đã nhận số bạc và làm theo lời họ dạy”. Các môn đệ đuợc sai đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ và dạy họ tuân giữ mọi điều Chúa đã truyền thì không có tiền, không được nhà cầm quyền bảo trợ, nhưng có “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Đấng đã nhận mọi quyền trên trời dưới đất trực tiếp ở với họ mọi ngày cho đến tận thế.

Hai ngọn núi.

Trên ngọn núi Thiên Chúa truyền cho Ap-ra-ham đem con lên tế lễ, Thiên Chúa hứa ban cho ông dòng dõi đông đúc và nhờ dòng dõi ông muôn dân sẽ được chúc phúc (22,16-18)

Trên ngọn núi Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ lời Thiên Chúa hứa cho Ap-ra-ham được thực hiện. Chúa Giêsu vừa là dòng dõi Ap-ra-ham vừa là Con Thiên Chúa, đã đầu thai bởi quyền năng Thánh Thần và là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đứng trên núi này để sai nhóm Mười Một đi làm cho muôn dân thành môn đệ, bằng cách làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền cho các ông.

Thế là gia phả từ Ap-ra-ham tới Chúa Giêsu không ngừng lại nhưng tiếp tục và mở rộng đến mọi dân tộc nhờ quyền năng Thánh Thần, mọi dân tộc thành dòng dõi Ap-ra-ham nhờ phép rửa và giáo huấn của Chúa Giêsu.

Hai người phụ nữ cùng mang tên Maria.

Từ chương thứ hai, Mt đã gợi cho chúng ta đối chiếu với chuyện Môsê và dân It-ra-en bên Ai-cập trong sách Xuất Hành.

Pharaô ra lệnh cho hai bà đỡ phải trông chừng khi đỡ cho các bà mẹ Hip-ri, thấy con trai thì giết, thấy con gái thì cho sống. Hai bà kính sợ Chúa nên không làm theo lệnh vua. Vua hỏi thì cac bà nói là các bà mẹ Hip-ri khỏe lắm, bà đỡ chưa tới kịp thì họ đã sanh rồi. Hai bà trùng tên Maria, đi ra mộ, tới nơi thì mộ đã mở toang rồi và thiên sứ đón ở cửa báo tin: Người không còn ở đây vì Người đã trỗi dạy rồi. Cửa mồ đã mở, sự sống mới đã ra khỏi mồ rồi.

Khi Môsê bị bỏ trong đám sậy ở sông Nin, thì người chị tên là Maria đứng xa xa trông chừng xem chuyện gì sẽ xảy ra. Hai bà cùng tên Maria đã đứng xa xa nhìn xem khi Chúa Giêsu bị thả trong dòng nước của đau khổ và cái chết, rồi hai bà ngồi nhìn vào mộ. Khi thấy công chúa đã vớt em lên thì Maria chạy lại hỏi: bà có muốn con tìm cho bà một người mẹ để nuôi em bé này không. Công chúa đồng ý. Maria chạy về gọi mẹ ra… Hai bà Maria đi ra mộ để xem lại (Mt không nói là hai bà đem thuốc thơm để ưóp xác), được tin Chúa đã trỗi dậy, vội vã chạy về báo tin cho môn đệ.

Nghệ thuật kể chuyện của Mt ở phần này đạt tới đỉnh cao: không lý giải, nhưng gợi những hình ảnh để cho chúng ta chiêm ngắm và nghiền ngẫm mà cảm nếm ý nghĩa của những điều xảy ra, từ lúc Chúa đi vào cuộc Thương Khó cho đến lúc Chúa gặp lại các môn đệ trên núi, vì ngôn ngữ loài nguời không thể diễn tả hết được.

Giêrusalem, Mùa Chay 2014

Linh Mục Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J.

ncongdoansj@gmail.com

Tác giả: Lm. Ng Công Đoan, SJ

(Giám đốc Giáo Hoàng Học Viện Thánh Kinh Gierusalem)

Cây bút chì ba phân

Cây bút chì ba phân

Vào mùa xuân năm 2000, tôi đi Los Angeles tham dự Đại Hội Giáo Dục Tôn Giáo.

Người cháu nội của ngài Mahatma Gandhi là một diễn giả. Tôi đã học được từ vị đó một bài học về bất bạo động mà tôi không bao giờ quên được.  Diễn giả minh hoạ bài học đó bằng một cây bút chì ba phân, nhỏ tí xíu.  Diễn giả đã trình bày đại khái như sau:

“Ngày kia tôi đi học về và tôi cầm cây bút chì trong tay.  Tôi quyết đoán cây bút chì đó quá cùn nhụt, không còn dùng được.  Vì vậy tôi ném đi.  Rồi tôi xin ông nội tôi một cây bút chì khác.  Tôi chắc chắn là ông sẽ cho tôi một cây bút chì khác còn mới tinh khôi.  Nhưng thay vì cho tôi một cây bút chì khác, ông đã hỏi tôi một số câu hỏi…

Ông muốn biết cây bút chì đã bị cùn nhụt như thế nào; tại sao tôi ném đi; tôi đã ném ở đâu?

Tôi không thể hiểu tại sao ông nội tôi đã hỏi tôi một số câu hỏi rối rít như thế về cây bút chì đã cùn nhụt.  Rồi ông bảo tôi đi ra ngoài kiếm cho bằng được.

Tôi thưa: ‘Nội ơi, xin Nội đừng bắt con kiếm tìm như thế trong đêm tối.’

Ông bảo: ‘Con sẽ kiếm được.  Và đây là cây đèn pin.’

Tôi đã phải mất nhiều giờ để tìm kiếm và cuối cùng, sau khi kiếm được, tôi đã đưa cho ông nội tôi.

Ông bảo tôi ngồi xuống và nói: ‘Giờ đây, Nội sẽ dạy con hai bài học quan trọng :

Bài học thứ nhất là ngay cả khi làm một việc đơn giản như cây bút chì, người ta đã sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên trên thế giới.  Khi chúng ta ném những đồ dùng đó đi là chúng ta đang liệng đi những tài nguyên thiên nhiên trên thế giới và đó là một sự bạo hành đối với thiên nhiên.

Bài học thứ hai là trong xã hội sung túc hiện nay, chúng ta tiêu thụ quá ư thừa thãi những tài nguyên trên thế giới và chúng ta tước đoạt những tài nguyên thiên nhiên của những người khác ở đâu đó.  Họ phải sống trong sự nghèo đói.  Đó là sự bạo hành đối với nhân loại.

Linh Mục Vincent Travers, OP

From: ThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

=========================

Câu chuyện trên nhắc tôi về một lời nói của Mẹ Têrêsa Calcutta: “Hãy làm việc nhỏ với trái tim vĩ đại.” Và… xin mời quý vị xem một việc nhỏ trong video clip dưới đây:

httpv://www.youtube.com/watch?v=Hzgzim5m7oU

The Power of Words

Luật sư trong vụ 5 công an đánh chết người: “Tôi không sợ vì mình làm đúng”

Luật sư trong vụ 5 công an đánh chết người: “Tôi không sợ vì mình làm đúng”

Tấn Lộc thực hiện

Tại phiên tòa xử năm công an ở Phú Yên đánh chết người, Luật sư Võ An Đôn (người bảo vệ quyền lợi cho gia đình bị hại) liên tục đưa ra đề nghị khởi tố ông Lê Đức Hoàn, Phó Công an TP Tuy Hòa.

Ngay sau khi phiên tòa tạm dừng để nghị án, phóng viên PLO có cuộc trao đổi với luật sư Đôn.

Tôi không sợ vì mình làm đúng

. Phóng viên: Vì sao luật sư nhận bảo vệ cho gia đình bị hại trong vụ này?

+ Luật sư Võ An Đôn: Sau khi anh Ngô Thanh Kiều chết, vợ anh Kiều đang mang thai sắp sinh bế theo cháu nhỏ đến trình bày với tôi. Tôi hướng dẫn gia đình anh Kiều cách chụp ảnh khi khám nghiệm tử thi để tìm hiểu sự việc, sau đó giúp gia đình anh Kiều làm đơn khiếu nại, yêu cầu các cơ quan chức năng làm rõ.

clip_image001

Luật sư Võ An Đôn phát biểu tại phiên tòa. Ảnh: Tấn Lộc

Tôi quá xót xa, đau lòng trước cảnh hai đứa trẻ mồ côi, trong đó cháu bé sinh ra mà chưa bao giờ được nhìn thấy mặt cha, trong khi gia đình lại quá nghèo. Hơn nữa, tôi rất bức xúc trước hiện tượng có nhiều nghi can, bị can chết bất thường tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ.

clip_image002

Luật sư Võ An Đôn và gia đình người bị hại. Ảnh: Tấn Lộc

Trong khi đó, hầu hết các vụ này đều không xác định nguyên nhân, chủ yếu nói người bị tạm giam, tạm giữ tự tử; cũng không có cơ quan nào quan tâm đến, làm rõ. Khi người dân bức xúc phản ứng thì lại bị quy là chống người thi hành công vụ và lại bị ở tù. Để người dân khỏi chết oan và bị tù oan, tôi quyết định làm rõ vụ án này, đưa ra ánh sáng. Mục đích của tôi là tìm ra công lý, xử lý những người thi hành công vụ mà làm sai luật pháp. Chính vì thế, tôi nhận làm vụ này hoàn toàn miễn phí.

. Khi nhận làm vụ này, luật sư có lo ngại không?

+ Tôi bị rất nhiều áp lực. Trước hết là áp lực từ những người thân trong gia đình, bạn bè, kể cả đồng nghiệp nói rằng không nên làm vụ này vì công việc rất khó khăn, vì đụng đến lực lượng công an, tính mạng cũng nguy hiểm. Tuy nhiên, tôi không lo sợ những điều đó vì động lực lớn nhất của tôi là bảo vệ công lý.

Mặt khác, tôi được người dân ủng hộ, pháp luật bảo vệ. Nếu lỡ có ai trả thù, đe dọa tính mạng thì tôi cũng không sợ vì tôi đang làm việc đúng.

Có dấu hiệu phạm ba tội

. Vì sao tại phiên tòa này, luật sư liên tục đưa ra đề nghị khởi tố ông Lê Đức Hoàn, Phó Công an TP Tuy Hòa?

+ Trong vụ án, ông Hoàn là chủ mưu, mọi sai phạm của các cán bộ khác đều bắt đầu từ ông Hoàn.

Thứ nhất, ông Hoàn chỉ đạo cấp dưới bắt anh Kiều lúc 3g sáng trong khi không có lệnh bắt, không có căn cứ gì để bắt anh Kiều vì anh Kiều không phạm tội quả tang, không thuộc trường hợp bắt khẩn cấp, không thuộc đối tượng bị truy nã. Việc còng tay, dẫn giải anh Kiều đến Công an TP Tuy Hòa không hề có bất kỳ văn bản pháp lý nào mà chỉ do ông Hoàn chỉ đạo bằng miệng. Khi phân công (bằng miệng) cán bộ lấy lời khai là những người không phải là điều tra viên, làm việc không hề có biên bản ghi lời khai.

Thứ hai, tại thời điểm các bị cáo dùng dùi cui đánh anh Kiều, ông Hoàn đều có mặt ở đó, ra vào phòng đó, liên tục chỉ đạo cấp dưới đến lấy lời khai anh Kiều. Việc ông Hoàn biết các cán bộ cấp dưới dùng dùi cui đánh bị hại Ngô Thanh Kiều từ 8g đến 13g ngày 13-5-2012 nhưng không có ý kiến gì đã thể hiện ông Hoàn đồng ý với việc dùng nhục hình đối với anh Kiều.

Từ đó, có cơ sở cho thấy ông Hoàn phạm tội dùng nhục hình với vai trò là đồng phạm nhưng không bị khởi tố là bỏ lọt tội phạm.

Hôm qua (28-3), tôi đề nghị khởi tố ông Hoàn hai tội bắt người trái pháp luật và dùng nhục hình. Nhưng VKS không đồng ý vì cho rằng ông Hoàn có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; mặt khác ông Hoàn có thời gian dài công tác trong ngành Công an, có nhiều thành tích.

Với đề nghị khởi tố ông Hoàn tội dùng nhục hình, VKS cho rằng khi các bị cáo đánh anh Kiều thì ông Hoàn không có mặt đó và không biết các bị cáo đánh anh Kiều nên không phải là đồng phạm. Tuy nhiên, lời khai của các bị cáo, nhân chứng tại phiên tòa cũng như lời khai của ông Hoàn trước đây tại cơ quan điều tra cho thấy ông Hoàn có mặt từ đầu đến cuối để trực tiếp chỉ đạo cấp dưới xét hỏi anh Kiều vì ông Hoàn là trưởng ban chuyên án.

Hôm nay (29-3), qua tranh luận tại tòa, tôi thấy ông Hoàn còn phạm vào tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 285 Bộ luật Hình sự. Bởi lẽ, ông Hoàn là phó Công an TP Tuy Hòa đồng thời là trưởng ban chuyên án 312T trực tiếp chỉ đạo các cán bộ cấp dưới lấy lời khai anh Kiều nhưng dùng nhục hình đánh anh đến chết, thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nên ông Hoàn phải chịu trách nhiệm.

. Khi đưa ra đề nghị trên, luật sư có lo ngại không?

+ Tôi hoàn toàn không lo sợ gì cả bởi đây là sự thật, tôi làm vì công lý, vì lương tâm, đạo đức của người luật sư chân chính.

. Nếu các đề nghị trên đều bị HĐXX bác bỏ, sắp tới luật sư sẽ làm gì để bảo vệ quan điểm của mình?

+ Nếu HĐXX không chấp nhận thì tôi sẽ kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền để tiếp tục làm sáng tỏ vụ việc.

T.L.

Luật sư Võ An Đôn năm nay 37 tuổi, thuộc Đoàn Luật sư Phú Yên. Tháng 4-2003, sau khi tốt nghiệp cùng lúc hai trường đại học là Đại học Luật TP.HCM và Khoa Xã hội học Trường ĐH KHXH &NV TP.HCM, ông Võ An Đôn về làm chuyên viên Phòng Nội chính Văn phòng Tỉnh ủy Phú Yên. Sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo luật sư, ông Đôn nghỉ làm công chức nhà nước và làm luật sư đến nay.

 

Nguồn: plo.vn

 

Bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô về Bí Tích Hôn Phối

Bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô về Bí Tích Hôn Phối

Phaolô Phạm Xuân Khôi

4/2/2014

“Có ba lời mà chúng ta nên luôn luôn nói, ba lời mà chúng ta luôn lôn phải nói trong nhà: làm ơn, cám ơn và xin lỗi. Ba lời kỳ diệu…. Với ba lời này, với lời cầu nguyện của chồng cho vợ và vợ cho chồng, với việc luôn luôn làm hòa trước khi kết thúc một ngày, hôn nhân sẽ tiếp tục thăng tiến.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 2 tháng 4 năm 2014 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Hôm nay ĐTC kết thúc loạt bài Giáo Lý về các Bí Tích bằng Bí Tích Hôn Phối.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em.

Hôm nay chúng ta kết thúc chu kỳ của bài giáo lý về các Bí Tích bằng cách nói về Bí Tích Hôn Phối. Bí tích này dẫn chúng ta vào trung tâm của kế hoạch của Thiên Chúa, là một kế hoạch của giao ước với dân Ngài, với tất cả chúng ta, một giao ước của sự hiệp thông. Ngay từ đầu sách Sáng Thế Ký, cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh, tột đỉnh của tường thuật tạo dựng cho biết: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ…. Bởi thế, người nam lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai nên một thân xác duy nhất.” (St 1:27, 2:24). Hình ảnh của Thiên Chúa là một cặp hôn nhân: người nam và người nữ; không chỉ người nam, cũng không chỉ người nữ, mà cả hai. Đây là hình ảnh của Thiên Chúa: tình yêu, giao ước của Thiên Chúa với chúng ta được đại diện bằng giao ước giữa người nam và người nữ này. Và điều ấy rất tốt đẹp! Chúng ta được tạo ra để yêu thương, như một sự phản ánh của Thiên Chúa và của tình yêu của Ngài. Và trong việc kết hợp vợ chồng người nam và người nữ làm tròn ơn gọi này như một dấu chỉ của việc trao đổi với nhau và hiệp thông một đời sống trọn vẹn và dứt khoát.

1. Khi một người nam và một nữ cử hành Bí Tích Hôn Phối, chúng ta có thể nói là Thiên Chúa được “phản ánh” trong đó, Ngài đánh dấu họ bằng những đặc điểm của Ngài và căn tính không thể xóa được của tình yêu của Ngài. Hôn nhân là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thực ra, ngay cả Thiên Chúa cũng là sự hiệp thông Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần sống từ muôn thủa và đời đời trong sự hiệp nhất hoàn hảo. Và đây là mầu nhiệm của Hôn Nhân: Thiên Chúa làm cho hai vợ chồng thành một cuộc sống duy nhất. Thánh Kinh sử dụng một cách diễn tả mạnh mẽ và nói “một thân xác duy nhất”, sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân mật thiết dường nào. Và đây là mầu nhiệm của hôn nhân: tình yêu Thiên Chúa được phản ánh trong cặp vợ chồng quyết định sống chung với nhau. Do đó, một người nam rời nhà mình, nhà cha mẹ mình, và đi sống với vợ mình cùng kết hợp với nàng một cách mãnh liệt đến nỗi hai người nên một thân xác duy nhất như Thánh Kinh nói.

2. Thánh Phaolô, trong Thư gửi tín hữu Êphêsô, nhấn mạnh rằng vợ chồng Kitô giáo được phản ánh trong một mầu nhiệm cao cả: mối liên hệ được Đức Kitô thiết lập với Hội Thánh, một mối liên hệ Hôn Nhân (x. Ep 5:21-33). Hội Thánh là hiền thê của Đức Kitô. Mối liên hệ tuyệt diệu như thế. Điều này có nghĩa là Bí Tích Hôn Phối đáp lại một ơn gọi đặc biệt và cần được coi như một sự thánh hiến (x. Gaudium et Spes, 48; Familiaris Consortio, 56). Nó là một một sự thánh hiến: người nam và người nữ được thánh hiến trong tình yêu của họ. Cặp vợ chồng, nhờ Bí Tích, được trao phó cho một sứ vụ riêng và thực sự, để từ những việc đơn giản và bình thường, họ có thể làm cho người khác nhìn thấy tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh của Người, qua việc tiếp tục ban sự sống của Người cho Hội Thánh, trong trung tín và phục vụ.

Đây thực sự là một kế hoạch tuyệt vời gắn liền với Bí Tích Hôn Phối! Nó xảy ra trong sự đơn giản và cũng mong manh của thân phận con người. Chúng ta biết rất rõ rằng đời sống vợ chồng có biết bao thử thách là và khó khăn… Điều quan trọng là chúng ta duy trì mối liên hệ với Thiên Chúa, là nền tảng của mối giây liên hệ hôn nhân. Và mối liên hệ thật là luôn luôn ở với Chúa. Khi gia đình cầu nguyện, mối liên hệ này được duy trì. Khi chồng cầu nguyện cho vợ và vợ cầu nguyện cho chồng, mối dây liên hệ trở nên mạnh mẽ hơn; người này cầu nguyện cho người kia. Đúng là trong cuộc sống hôn nhân có rất nhiều khó khăn, rất nhiều; nào là công ăn việc làm, không đủ tài chánh, con cái có vấn đề. Nhiều khó khăn lắm. Và nhiều lần vợ chồng trở nên một chút bực dọc và xung đột với nhau. Họ lục đục, luôn luôn có cãi vã trong hôn nhân, thậm chí đôi khi cả chén đĩa cũng bay. Nhưng chúng ta không được buồn về điều này, thân phận con người là thế. Và bí mật là tình yêu mạnh mẽ hơn những lúc anh chị em lục đục với nhau, đó là lý do tại sao tôi luôn khuyên các cặp vợ chồng đừng kết thúc một ngày trong đó anh chị em lục đục mà chưa làm hoà. Luôn luôn! Và để làm hòa chúng ta không cần phải gọi Liên Hiệp Quốc là cơ quan giải hòa. Chỉ cần một cử chỉ nhỏ, một cái vuốt ve, một lời chào hỏi là đủ! Và đến ngày mai! Và ngày mai chúng ta bắt đầu lại. Và đó là cuộc sống; do đó, phải tiến bước với can đảm muốn sống chung với nhau. Và điều này rất tốt, rất đẹp! Đời sống hôn nhân là điều đẹp nhất mà chúng ta phải luôn luôn bảo vệ, bảo vệ con cái. Nhiều lần tôi đã nói ở quảng trường này là có một điều giúp rất nhiều cho cuộc sống hôn nhân. Có ba lời mà chúng ta nên luôn luôn nói, ba lời mà chúng ta luôn lôn phải nói trong nhà: làm ơn, cám ơn và xin lỗi. Ba lời kỳ diệu.

Làm ơn: để không xâm phạm vào đời sống của vợ chồng. Làm ơn, nhưng anh chị em nghĩ gì? Làm ơn, vì tôi muốn mình cho phép tôi. Cám ơn: cám ơn người bạn đời của mình; cảm ơn vì những gì mình đã làm cho tôi, cảm ơn vì việc này. Lời cám ơn đẹp biết bao! Và vì tất cả chúng ta đều có sai lầm, nên một lời khác hơi khó nói hơn một chút, nhưng chúng ta cần phải nói thẳng là: xin lỗi. Lời xin phép, cảm ơn và xin lỗi. Với ba lời này, với lời cầu nguyện của chồng cho vợ và vợ cho chồng, với việc luôn luôn làm hòa trước khi kết thúc một ngày, hôn nhân sẽ tiếp tục thăng tiến. Ba lời kỷ diệu, cầu nguyện, và luôn luôn làm hòa. Nguyện xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi.

http://giaoly.org/vn/

Vì sao du khách nước ngoài không bao giờ quay lại Việt Nam?

Vì sao du khách nước ngoài không bao giờ quay lại Việt Nam?

Nomadic Matt

4/1/2014

Nomadic Matt, người Mỹ, là một tay du lịch “phượt” chuyên nghiệp. Từ năm 2006, anh bỏ việc để trở thành một người lữ hành. Anh lập ra website cùng tên để cổ vũ và đưa ra những lời khuyên cho những ai thích cuộc sống rong ruổi. Những kinh nghiệm du lịch của anh đã được giới thiệu trên các hãng tin, tờ báo lớn của thế giới như CNN, BBC, Yahoo!, Times, New York Times… Dưới đây là bài viết “Tại sao tôi không bao giờ quay trở lại Việt Nam” của Nomadic Matt.

Nomadic Matt và trang Web du lịch
Nomadic Matt trong chuyến du lịch
Nomadic Matt đang họp báo

Năm 2007, tôi đi du lịch đến Việt Nam và khi quay về, tôi thề sẽ không bao giờ trở lại. Chỉ khi gặp một cô gái thực sự muốn đi hoặc phải đi công tác, tôi mới quay lại Việt Nam lần hai. Ai biết trước tương lai thế nào nhưng hiện tại tôi không hề muốn quay trở lại. Điều tệ hại nào ở Việt Nam – đất nước duy nhất tôi yêu thích?

Vâng, tôi nghĩ thời gian sẽ trả lời cho bạn.

Câu trả lời đơn giản là chẳng ai muốn quay lại nơi mà mình bị đối xử tệ bạc Khi ở Việt Nam, tôi liên tục bị dân địa phương chèo kéo, chặt chém, lừa gạt và xử tệ.

Người bán hàng rong cố chặt chém tôi. Cô bán bánh mì không trả lại tiền thối, người bán đồ ăn “chém” đắt gấp ba lần dù tôi thấy rõ người khách trước mặt trả bao nhiêu tiền, hay các tài xế taxi gian lận quãng đường đến trạm xe buýt. Khi mua áo thun ở Hội An, ba phụ nữ giữ cửa hàng lại, kéo áo sơ mi đến lúc tôi mua một món gì đó.

Du ngoạn Vịnh Hạ Long, những nhà điều hành tour quá số khách và không có nước uống trên thuyền, do đó, những khách phòng đơn đột nhiên thấy mình có thêm bạn cùng phòng … thỉnh thoảng cùng giường!

Một trong những trải nghiệm tệ nhất là đến đồng bằng sông Cửu Long. Tôi đang bắt xe buýt về thành phố Hồ Chí Minh. Tôi khát nên đi mua một món đồ uống phổ biến ở Việt Nam – nước, chanh, phụ gia và đường trong một túi nilon, nhưng cô bán nước đã lừa dối trước mặt tôi.

“Cô ấy nói với bạn bè sẽ chặt chém và lừa gạt vì anh là người da trắng”, anh bạn Mỹ gốc Việt mới quen nói. “Cô ấy nghĩ anh không để ý”. “Thứ này thực ra giá bao nhiêu? ” Tôi hỏi anh. Tôi trả đúng số tiền, nói cô là người xấu và bỏ đi. Thứ tôi quan tâm là lời nói thiếu tôn trọng, không phải tiền.

Chắc chỉ mình tôi có trải nghiệm tệ hại và Việt Nam thực sự tuyệt diệu. Chỉ mình tôi xui xẻo, gặp những người đó vào ngày nghỉ. Tuy nhiên, vô số du khách khác gặp chuyện giống tôi. Khó ai có chuyện hay có lẽ đã giải thích tại sao 95% du khách không quay lại. Tất cả đều kể chuyện bị lừa đảo hoặc bịp bợm. Họ cũng cảm thấy không được chào đón.

Tôi chứng kiến nhiều người gặp rắc rối ở Việt Nam. Bạn tôi mua chuối và người bán hàng bỏ đi mà không trả tiền thối. Tại siêu thị, họ trả sô-cô-la thay tiền thối. Hai bạn tôi đã ở Việt Nam 6 tháng, dù thành “dân địa phương” vẫn cứ nói Việt Nam thô lỗ. Hàng xóm không thân tình. Họ luôn là người ngoài cuộc. Thậm chí những người gặp gỡ hàng ngày cũng là xa lạ. Trải nghiệm của tôi hầu như không phải ngoại lệ, dù đi đến đâu đi nữa.

Rất nhiều người nghĩ người Việt Nam thực sự tốt. Họ rất thích chuyến đi làm tôi tự hỏi tại sao trải nghiệm lại khác biệt nhau đến thế. Điểm chú ý là đa số du khách trải nghiệm tốt đi du lịch sang trọng, còn lại là khách ba lô và khách bình dân. Sự kỳ lạ đó củng cố câu chuyện tôi nghe

Ở Nha Trang, tôi gặp một giáo viên tiếng Anh sống tại Việt Nam nhiều năm. Ông nói người Việt được dạy rằng tất cả các vấn đề đều do người Tây gây ra, đặc biệt là Pháp và Mỹ, và người phương Tây “nợ” người Việt Nam. Họ mong khách Tây tiêu tiền ở Việt Nam, nên khi thấy du khách tiết kiệm từng xu, họ buồn bã và nhìn vào trên ba-lô và đối xử tệ. Những người tiêu tiền, tuy nhiên, có vẻ được đối xử khá tốt. Tôi không biết điều này có đúng hay không nhưng với những gì tôi thấy, nó có ý nghĩa nhất định.

Tôi không đánh giá về đất nước hay con người Việt Nam. Tôi không tin mọi người dân đều xấu xa, thô lỗ. Tôi chỉ phản ánh trải nghiệm du lịch. Ba tuần tôi ở Việt Nam không thể nói lên tất cả. Tại sao tôi muốn ở lại đất nước đối xử như thế với tôi? Tại sao tôi lại muốn quay lại? Tôi không quan tâm mình bị chặt chém. Không phải về tiền. Tôi rất vui khi trả nhiều tiền hơn – một đô la giúp ích chọ họ nhiều hơn cho tôi.

Nhưng tôi là một khách ba lô không có nghĩa tôi đáng được tôn trọng ít hơn người khác. Tôi không mong được tiếp đãi như ông hoàng, chỉ cần tôn trọng cơ bản mà thôi. Và tôi chưa thấy mình được tôn trọng ở Việt Nam. Họ nhìn tôi như thể “một con lừa” để lừa bịp. Người thô lỗ ở khắp mọi và sự bất lương cũng vậy, song tôi không bao giờ trở lại Việt Nam để mình khỏi phải cảm thấy nó quá tồi tệ.

Momadic Matt họp báo Traveller Magazine về VN đánh đàn bà nơi chổ hiểm.

Điều quan trọng là tôi nhìn thấy công an Việt Nam rất thích đánh người biểu tình, phản đối một điều gì đó với chính phủ.

Như tại Hà Nội, tôi nhìn thấy một đám đông đang la ó, chống đối Trung Quốc chiếm hải đảo gì đó ngoài khơi Việt Nam. Tôi hỏi vụ gì thì người kế bên nói là chống Trung Quốc lấn chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Chừng vài phút sau thì ba xe công an chạy đến. Họ bao vây đám đông, có vài công an mặc thường phục lẩn vào đám đông.

Họ lôi kéo một số người đang cầm bảng ghi lớn là Chống Trung quốc chiếm đảo Việt Nam…

Công an đánh phụ nữ vào hạ bộ đến chết

Một anh công an thường phục, đằng sau đi tới, danh dùng sức mạnh thoi vào âm hộ của một phụ nữ trong đám biểu tình.

Cú thoi mạnh vào âm hộ của tên công an, làm phụ nữ ôm bụng đau đớn vô cùng, còn anh công an ấy mặt rất vui, lẩn vào đám đông mất dạng.

Đây là một hành động của một người bị bệnh cuồng dâm, thích gây đau đớn cho đàn bà trước khi giao hợp.

Người cuồng dâm ấy lại là công an khu vục bờ Hồ Hoàn Kiếm.

Tôi không biết có nhiều công an Việt Nam có chứng bệnh nầy hay không, nhưng tôi thấy báo chí có đăng hình nạn nhân bị công an tra tấn tàn bạo. Họ đánh nạn nhân vào bắp đùi và hạ bộ rất thường xuyên. Nhiều phụ nữ ấy, bị tra tấn không dám trưng bày cho báo chí hay thân nhân để chụp hình thưa kiện công an. Họ sợ xấu hổ với xóm làng vị bị công an đánh vào âm hộ của mình.

Công an đánh người có thể bị xâm phạm tình dục

Công an Việt Nam đa số mang hội chứng cuồng dâm khi tra tấn phụ nữ, đều được cấp trên bỏ qua không truy tố ra pháp luật.

Hầu hết những phụ nữ nạn nhân, khoảng 80 % đều bị công an Việt Nam hãm hiếp hay đánh vào âm hộ phụ nữ lấy làm vui sướng.

Chưa thấy công an nào bị ra tòa án xử phạt cả.

Vậy bạn đi du lịch Việt Nam, nếu là phụ nữ thì rất cẩn thận chuyện công an Việt Nam bị hội chứng cuồng dâm như kể trên.

Nhưng đừng thấy tôi không thích Việt Nam mà bạn không đi. Đây là trải nghiệm của tôi, còn bạn nên tự mình đi thử để trải nghiệm. Và nếu bạn không đi vì bài báo này, tôi sẽ tìm và lôi bạn đến đó!

(T. Ito dịch từ web site của Normadic Matt)