Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn đúc tượng cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn đúc tượng cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận
Wednesday, September 03, 2014

Nguoi-viet.com
Dân Huỳnh/Người Việt

LOS ANGELES, California (NV) – Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn vừa trình làng dự án đúc tượng cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận tại một xưởng đúc đồng ở Los Angeles hôm Thứ Tư.

Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn chính là tác giả bức tượng tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Westminster, nổi tiếng trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại.

Về công trình mới này, điêu khắc gia Tuấn Nguyễn chia sẻ: “Hôm nay, tôi trình làng hai mô hình này để sắp tới bán đấu giá để gây quỹ cho lễ phong thánh cố hồng y. Sau đó, có thể thực hiện một tượng đài có tượng hồng y cao từ 25 đến 30 feet để vinh danh ngài, người được rất nhiều người Việt Nam mến mộ và được đề nghị Tòa Thánh Vatican phong thánh.”



Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn và hai mô hình tượng cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

“Nghệ thuật là rất quan trọng đối với tôi. Nó gần như là một tôn giáo. Nó có nghĩa là tin vào con người, trong cuộc sống, trong tình yêu. Ðó là một phản ứng với những gì là đẹp và đơn giản. Là một nghệ sĩ tôi làm không có mục đích nào khác ngoài việc bày tỏ cảm xúc của mình,” điêu khắc gia nói thêm.

Theo ông Tuấn Nguyễn, trong ngày đấu giá, sẽ có một Thánh Lễ cầu nguyện được tổ chức vào lúc 11 giờ sáng Chủ Nhật, 13 Tháng Chín, tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, 1538 N. Century Blvd., Santa Ana, CA 92703.

Sau đó, vào lúc 12 giờ 30, sẽ có buổi đấu giá hai mô hình này, làm bằng đồng, để gây quỹ xây tượng đài.

Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận từng bị CSVN bắt giam sau khi miền Nam Việt Nam sụp đổ năm 1975. Trước đó, ông được Tòa Thánh Vatican cử làm phó tổng giám mục, Tổng Giáo Phận Sài Gòn, với quyền thừa kế từ ngày 23 Tháng Tư, 1975.

Năm 1989 ông được giải phẫu điều trị ung thư tuyến tiền liệt ở Hà Nội rồi năm sau được cho phép sang Roma điều trị tiếp. Tuy nhiên, khi đang ở thủ đô của Ý, chính quyền Việt Nam loan báo không cho phép ông về nước.

Tại Vatican, ông được Ðức Giáo Hoàng John Paul II bổ nhiệm làm phó chủ tịch Hội Ðồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình năm 1994. Ðến năm 1998, ông được cử làm chủ tịch hội đồng thay thế Hồng Y Y.R. Etchagaray nghỉ hưu. Ngày 21 Tháng Giêng, 2001, ông được phong hồng y.

 

Sinh viên Hong Kong kêu gọi bãi khóa

Sinh viên Hong Kong kêu gọi bãi khóa

Thứ sáu, 5 tháng 9, 2014

Nhóm lãnh đạo sinh viên đã họp bên bản sao tượng Nữ thần Dân chủ đặt trong khuôn viên trường Đại học Hong Kong

Hội sinh viên Đại học Hong Kong vừa ra lời kêu gọi, theo đó thúc giục sinh viên ở vùng lãnh thổ này xuống đường biểu tình phản đối các kế hoạch cải tổ chính trị hạn chế của Trung Quốc đối với Hong Kong.

Bắc Kinh gần đây đã ra quyết định khước từ việc trao cho Hong Kong quyền thực hiện bầu cử phổ thông đầu phiếu thực sự.

Lời kêu gọi nêu ra ba điểm. Thứ nhất, các công dân phải được quyền đề cử ứng viên cho kỳ bầu cử người đứng đầu đặc khu hành chính này vào năm 2017.

Thứ nhì, Hội sinh viên nói Hội đồng Lập pháp cần phải bác bỏ kế hoạch bầu cử không đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ ba, cần phải áp dụng các bầu cử phổ thông đầu phiếu bắt đầu từ kỳ bầu chọn Hội đồng Lập pháp trong năm 2016.

Lời kêu gọi của Hội sinh viên thúc giục các giáo viên hãy ủng hộ sinh viên trong hoạt động bãi khóa bằng các hình thức không trừng phạt sinh viên, kết hợp hoạt động với các giáo viên công và thậm chí hãy cùng tham dự vào hoạt động của sinh viên.

Hơn 200 sinh viên từ Đại học Hong Kong đã đồng ý sẽ bắt đầu tẩy chay lớp học trong vòng một tuần, bắt đầu từ 22/9.

“Chúng tôi bãi khóa như một hình thức đưa ra tối hậu thư cho chính quyền, để họ lắng nghe ý kiến của chúng tôi”

Chủ tịch Hội sinh viên Đại học Hong Kong, Yvonne Leung

Quyết định của Hội sinh viên được đưa ra trong lúc một nhà tài trợ tài chính lớn cho phong trào dân chủ muốn chiếm lĩnh các đường phố tại Hong Kong nói việc cắt bỏ cột báo lâu đời của ông là vì động cơ chính trị.

Các nhà hoạt động tại vùng cựu thuộc địa của Anh nói hy vọng của họ về một nền dân chủ thực sự đã bị nghiền nát sau tuyên bố của Trung Quốc hôm Chủ Nhật, theo đó nói vị lãnh đạo tiếp theo của thành phố sẽ được chọn lựa từ danh sách do một ủy ban thân Bắc Kinh đưa ra.

Liên minh các nhóm dân chủ nói họ quyết thực hiện một “kỷ nguyên bất tuân dân sự” để chống lại quyết định trên, và kêu gọi người dân Hong Kong hãy phong tỏa các đường phố chính ở khu quận tài chính trong thành phố.

Lời kêu gọi bãi khóa của Hội sinh viên tuy nhiên sẽ vẫn cần phải được sự thông qua của các nhóm sinh viên và các hội sinh viên vào hôm thứ Bảy này, các lãnh đạo nhóm nói.

“Chúng tôi bãi khóa như một hình thức đưa ra tối hậu thư cho chính quyền, để họ lắng nghe ý kiến của chúng tôi,” chủ tịch Hội sinh viên Đại học Hong Kong Yvonne Leung nói với hãng tin AFP.

Sinh viên từ Đại học Hong Kong đã họp tại nơi đặt bức tượng sao chép “Nữ thần Dân chủ” đặt tại khu học xá của trường, biểu tượng nhắc nhở mọi người nhớ tới phong trào do sinh viên dẫn đầu tại Bắc Kinh đã bị đàn áp tàn nhẫn hồi 25 năm trước.

Bức tượng gốc vốn được chọn làm nơi tụ tập của những người đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn đã bị phá hủy trong cuộc đàn áp.

Bước đường cùng

Bước đường cùng
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Bạn ơi, nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này!”
(Vú Em-Tố Hữu)

Ngày 15 Tháng Tám, Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt Nam ra quyết định đình bản 3 tháng báo điện tử Trí Thức Trẻ và phạt 207 triệu đồng vì ngày 12 Tháng Tám báo này đã đăng một bài có tựa đề là “Gái miền Tây và 3 chữ ‘N’ nổi danh thiên hạ” của tác giả Trai Toàn Cầu.


Một cô gái quảng cáo bia Anchor của Singapore tại Hà Nội. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Ba chữ N đó là Ngoan, Ngon và Ngu. Bài này xem như đã vi phạm luật báo chí và chính ban biên tập đã ngỏ lời xin lỗi độc giả vì đã “gây nên sự tổn thương sâu sắc cũng như tạo cảm giác xúc phạm tới nhiều phụ nữ Việt Nam.”

Thật ra chuyện Ngoan, Ngon và Ngu không lạ gì với lời nói ngày xưa dùng để khuyên những người đi chọn vợ.

Ngoan nói về tính tình, ai lại không thích có một người vợ ngoan.

Ngon nói về thể chất và hình dáng bên ngoài, trắng da dài tóc, có nhan sắc, vì không ai muốn chọn vợ xấu.

Ngu nói về kiến thức. Phải ngu hơn chồng mới phục chồng, và không lấn lướt muốn dạy chồng. Không gì chán bằng cảnh ông chồng mới mở miệng phát biểu một câu thì vợ đã nói, “Chuyện này em biết rồi!” Vậy thì nên chọn một người vợ “ngu” hơn mình.

Nhưng ở đây bài báo lại dùng chữ “ngu” để vơ đũa cả nắm, cho con gái miền Tây ngây ngô và ngu muội, “não ngắn,” thiếu văn hóa. Tác giả cho rằng, “Về độ ‘ngon,’ độ ‘ngoan’ thì tôi dám quả quyết không gái miền nào địch được gái miền Tây. Nhưng còn về độ ‘ngu’ thì phần lớn gái miền Tây cũng là những cô gái ‘ngu dốt’ vô đỗi!”

Không phải bây giờ, mà trước đây báo chí Việt Nam đã có những bài báo chỉ trích cay nghiệt con gái “Bắc Kỳ,” và rồi nay, những người “phụ nữ miền Tây” bị tổn thương vì sỉ nhục là ngu đần!

Cộng sản coi là đã thống nhất được đất nước nhưng lòng người thì ly tán, nhất là sau cuộc đổi đời 30 Tháng Tư, 1975, dân miền Bắc ồ ạt vào Nam lập nghiệp, được ưu tiên nâng đỡ trong việc lập nghiệp, chiếm đất, phá rừng, bây giờ ở Việt Nam đi đâu mà không nghe tiếng nói Bắc Kỳ 75. Người miền Nam chẳng ưa gì dân Bắc vào Nam trong tư thế kẻ thắng trận chiếm đóng, người miền Bắc tuy coi miền Nam là vùng tạm chiếm, bị bóc lột, nhưng gần như ganh tỵ vì choáng ngợp trước cảnh đời sống an nhàn, sung túc của dân Nam.

Người miền Trung và miền Bắc thường có quan điểm cho rằng người miền Nam là hời hợt, nông nổi, thiếu sâu sắc, không có căn bản văn hóa, mối giềng ràng buộc với họ hàng, làng nước. Ðiều này dư luận thường dùng để làm câu giải đáp cho việc “lấy chồng Ðài Loan” của con gái Việt Nam mà các thiếu nữ miền Tây đã dẫn đầu trong vài chục năm qua.

Những nhận xét về “gái miền Tây” lâu nay khá nặng tay. Một cán bộ của Ðại Học Tôn Ðức Thắng nhận định… “nhiều người dân ở vùng này chây lười nên không nhận thấy tầm quan trọng của tri thức!” Một bài khác trong Vnexpress cho rằng, “… đàn bà con gái chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage!” Và chỉ nội cái nhan đề trong Vitalk.vn, “Gái miền Tây lười, ít học và muốn một bước lên bà chủ!” cũng đủ là một điều xúc phạm chung cho cả một tập thể.

Vì đâu nên nỗi?

Người đổ lỗi tại văn hóa, hoàn cảnh thiên nhiên ưu đãi mà không hề ai dám nói đến cơ chế xã hội và những gì là trách nhiệm của kẻ cầm quyền trong bao nhiêu năm nay. Một ông trưởng khoa trưởng một đại học lớn như Ðại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn đã xác định … “nền giáo dục ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long còn quá yếu, đặc biệt với phụ nữ, đã đưa đến những hệ lụy trên!” Vậy thì thưa ông, chủ trương này từ đâu đến và sao không nghe ông than trách việc khách sạn, sân golf, nhà hàng đặc sản hay cho ngoại nhân cho thuê đất để đẩy dân vào chỗ khốn cùng để con gái họ phải thoát ra cảnh nghèo, vươn qua biên giới để mong mỏi có một đời sống tươm tất hơn.

Cũng không nghe ai nói, trước Tháng Tư, 1975, con gái miền Tây toàn là dân đi bán bar, làm sở Mỹ hay làm điếm hay đi lấy chồng Ðài Loan. Ðiều gì đã biến đổi đất nước nói chung và con gái miền Tây lâm thảm cảnh này.

Có quý vị trí thức nào bỏ ra chút thời giờ để nghiên cứu xem xứ nào đàn ông Việt Nam đầu quân đi bán sức lao động xứ người, và vì sao Nghệ Tĩnh và Quảng Bình lại lắm người bỏ ruộng bỏ vườn “đăng ký” đi làm thuê để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không lẽ quý vị lại đổ tội cho chây lười, ít học hay chối bỏ quê hương nghèo khổ, truyền thống của mảnh đất này là thích đi làm “bồi,” hay sợ phạm đến mảnh đất “thiêng” mà không dám nói.

Một sự thật đau lòng là nhạc sĩ Tuấn Khanh, ở trong nước, trong blog của ông đã nói lên một điều, đáng lý phải làm cho chính quyền trong nước đỏ mặt. Các hội gọi là phụ nữ, các tổ chức nhân quyền vẫn thường có thói quen báo cáo tốt, đề cao thành tích, vẽ vời hình tượng người phụ nữ Việt Nam, nhưng có đất nước nào đã ở trong thời kỳ hòa bình, độc lập mà thân phận phụ nữ bọt bèo, trôi giạt khổ đau như người con gái Việt Nam?

Sự thật là trong xã hội này, người phụ nữ bị đánh giá thấp, không hề được bảo vệ, che chở bởi công lý.

Những vụ án có liên quan về phụ nữ từ trước đến nay, phần đông phụ nữ đều bị thiệt thòi vì các loại đàn ông bên nguyên hay bên bị đều là loại nô bộc trung thành với đảng và nhà nước, và phụ nữ Việt Nam được xem không hơn một món đồ chơi.

Khi nói chuyện về đời sống của các cô gái miền Tây đi lấy chồng xứ người, blogger Tuấn Khanh được biết một sự thật rất là chua chát, nếu còn chút lương tri, hẳn các hội phụ nữ ở Việt Nam và cả cái cơ chế công an, cảnh sát xã ấp phải hổ thẹn. Khi hỏi về chuyện chồng Ðài Loan đánh đập, một cô gái đã cười hồn nhiên nói, “Không phải ai cũng bị như vậy, báo chí nói quá. Nhưng nếu như có bị đánh ở Ðài Loan, tụi em còn được báo chí xứ đó lên tiếng giùm, chứ ở Việt Nam, lấy một ông chồng say xỉn rồi bị đánh chết cũng không ai lo cho mình.”

Ở đây chúng tôi không nhắc đến một loại kỷ luật chỉ có trong xã hội Việt Nam là cấp lãnh đạo thông tin, một loại “Ông Kẹ” mang hơi hướng “đảng,” có thể làm tình, làm tội bất cứ cơ quan truyền thông nào khi họ cảm thấy bất như ý. Bài báo “ba N” có thể gây phẫn nộ cho quần chúng, thậm chí có thể ký giả bị bao vây hay tòa soạn bị đốt nhưng không thể vì lý do gì mà chính quyền phạt tiền hay đình bản. Phải chăng đây chỉ là một thái độ khúm núm, sợ mất lòng, vì trong Bộ Chính Trị hiện nay có bao nhiêu vị có mẹ, có em, có con là “gái miền Tây!”

Lên án ai đó là một công việc dễ dàng, nhưng đi tìm nguyên nhân mà và sự thật là một việc khó! Không dễ dàng như một vị tiến sĩ xã hội học, đảng viên CSVN, đã nhận định rằng do ít ý thức về đức hạnh mà phụ nữ Nam Bộ thường hay lấy chồng ngoại (TK). Vậy thì ở Hà Nội, hoa hậu, sinh viên đại học có tên trong đường dây “gái gọi,” tan trường là lên giường, chắc không phải lý do là đức hạnh!

Ba chữ Ngoan, Ngon và Ngu chưa đủ yếu tố để đưa người con gái miền Tây vào hoàn cảnh mà các “đạo đức gia” hay “đạo đức…giả” tha hồ bới móc, nói xấu. Quý vị cũng không nên quên một chữ N nữa, là chữ Nghèo khiến cho phụ nữ miền Tây phải lâm vào cảnh đi lấy chồng xa, hay chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage. Dân nghèo mạt, nhặt rác mỗi ngày không kiếm nổi tới $2, trong khi cán bộ công quyền giàu bạc triệu đô la, ăn xài huy hoắc bạc tỉ là ưu điểm của một chế độ XHCN chăng?

Miền Tây “gạo trắng nước trong” ngày nay như thế nào? Báo Hậu Giang đưa tin: “Dân khổ vì ‘ba không.’ Người dân tại các tuyến dân cư trên những con kênh mới hình thành ở xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, đang sống trong tình trạng 3 không: không nước sạch, không điện, không đường bộ. Trẻ em đến trường rất khó khăn, vậy thì sao cho là dân kém học vấn. Dân Hậu Giang còn nghèo, chỉ mỗi ấp 8 xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, đã có 87 hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có 28 hộ nghèo không có đất sản xuất.” Vậy thì động lực nào đã xô đẩy hàng vạn cô gái miền Tây đi lấy chồng ngoại, nên câu nói “không có tiền thì ‘cạp đất’ mà ăn,” đâu có gì là quá đáng?

Ở đâu có câu chuyện bà Phạm Thị Lài, 52 tuổi, cùng con gái là Hồ Nguyên Thủy, 33 tuổi, với thân thể trần truồng không một mảnh vải che thân, phản đối chính quyền đã cướp đất để bán cho một công ty ngoại quốc trong dự án “Khu dân cư Hưng Phú,” sau khi chồng và cha của họ đã vì quá phẫn uất uống thuốc rầy tự tử! Hai mẹ con bà Lài “đã bị đám vệ sĩ lôi trên cát, bãi cỏ và các đống vật liệu trong tình trạng khỏa thân dưới cái nắng gay gắt.” Ðó chính là câu chuyện “hổ thẹn” nhất của đất nước trong năm 2012 xảy ra tại miền Tây, nơi mà một tờ báo “vô đạo” ngày nay đã lên án là cái xứ lười, ngu và con gái chỉ muốn đi bán bia, hay hành nghề massage.

Hổ thẹn không phải nơi hai mẹ con đã phơi bày cái chỗ đáng giấu của đàn bà, vũ khí yếu đuối cuối cùng phải đem ra để tấn công vào khuôn mặt quá dày, trâng tráo của chế độ, mà xấu hổ rơi về phía cường quyền, đã toa rập với xã hội đen, các thế lực đồng tiền, với sự trợ thủ của ngành công an đẩy người dân vào bước đường cùng.

Xin các nhà nghiên cứu văn hóa, các khoa bảng, trí thức hiện đang giữ các vai trò quan trọng trong các trường đại học hay trung tâm nghiên cứu, thích chuyên bố, rao giảng thứ kiến thức cổ lỗ, xin đừng ôm mãi cái não trạng mà danh từ hiện nay, người Việt trong nước đang dùng là “não ngắn,” đi tìm và đổ lỗi cho văn hóa, địa dư và những nguyên nhân xa cho cái “nghèo,” cái “ngu” của gái miền Tây, hầu hết là để biện minh cho tình trạng hư đốn của chế độ.

Thân “vú em” năm xưa làm sao nhục nhã, khốn khổ bằng chuyện con gái Việt Nam đi làm gái mại dâm mười phương bây giờ, nên chưa lúc nào tôi thấy hai câu thơ của Tố Hữu thấm thía như hôm nay:

“Bạn ơi nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này!”

‘Lãnh đạo VN cần biết rõ bạn và thù’

‘Lãnh đạo VN cần biết rõ bạn và thù’

Thứ năm, 4 tháng 9, 2014

Kiến nghị nói Việt Nam nên kết bạn với các nước phương Tây từng là cựu thù

Chính quyền Việt Nam phải giải trình cho người dân rõ về những gì mà họ đã ký kết với Trung Quốc tại Hội nghị Thành Đô cách nay hơn 20 năm, một số vị tướng tá về hưu trong quân đội và công an Việt Nam vừa lên tiếng.

Đây là một trong bốn điểm mà 20 vị tướng tá ký tên vào bản kiến nghị đề ngày 2/9 gửi đến Chủ nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu.

Trao đổi với BBC, Đại tá Bùi Văn Bồng, người từng là cán bộ cao cấp trong báo Quân đội nhân dân, đã xác nhận tính xác thực của bản kiến nghị này.

Ông Bồng cũng bình luận về những đồn đoán liên quan tới nội dung thỏa thuận giữa hai bên từ Hội nghị Thành Đô.

“Chủ quyền đất nước là của toàn dân chứ không phải của các nhà lãnh đạo Đảng,” ông nói, “Cho nên với cương vị lãnh đạo Đảng mà quyết định vận mệnh, lãnh thổ quốc gia là sai hoàn toàn.”

“Hội nghị Thành Đô vẫn đang là một tấm màn bí mật,” ông nhận định.

“Từ khi hội nghị Thành Đô xong, hầu như đường lối đổi mới của Đảng xoay chuyển hẳn. Trong 24 năm vai trò của Đảng ngày càng yếu, uy tín kém đi.”

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Kiến nghị được đưa ra vào lúc này, theo ông Bồng, là nhân lúc Đảng đang chuẩn bị văn kiện cho Đại hội 12 để đóng góp ý kiến cho Đảng.

Ngoài điểm về Hội nghị Thành Đô, các vị cựu tướng tá còn thúc giục giới lãnh đạo cam kết cho điều họ gọi là “không được dùng quân đội và công an đàn áp nhân dân, ghi nhận thỏa đáng sự hy sinh của các thương binhh liệt sỹ trong cuộc chiến năm 1979 với Trung Quốc, và xác định chính xác bạn và thù.”

“Chúng tôi (những người ký kiến nghị) muốn có sự đổi mới trong các lãnh đạo sao cho có dân chủ, có lợi cho dân và đúng với bản chất truyền thống của quân đội và công an,” ông Bồng nói.

‘Ủng hộ đông lắm’

Quân đội Việt Nam phải trung thành với Đảng theo quy định Hiến pháp

Ông giải thích là những vấn đề nêu lên trong các kiến nghị là ‘bức xúc từ lâu lắm rồi’, nhất là việc công an và quân đội được trưng dụng để ‘đàn áp dân’ trong các vụ cưỡng chế thu hồi đất.

Về kiến nghị xác định rõ ràng bạn thù, ông Bồng nói ông không rõ quân đội Việt Nam hiện nay xác định bạn thù như thế nào nhưng bản thân ông cho rằng ‘Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam vì họ luôn lăm le xâm lược Việt Nam’.

“Pháp với Mỹ là kẻ thù của thời loạn, của hoàn cảnh thế giới nằm trong kế hoạch của các nước tư bản đế quốc một thời,” ông nói thêm.

Bản kiến nghị thu hút được 20 chữ ký của các tướng tá về hưu, đứng đầu là Trung tướng Lê Hữu Đức, cựu cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.

Ngoài ra còn có năm vị thiếu tướng quân đội khác cũng tham gia ký tên, bao gồm các ông Trần Minh Đức, cựu phó tư lệnh Hậu cần ở Thừa Thiên-Huế, Huỳnh Đắc Hương, cựu tư lệnh kiêm chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, Lê Duy Mật, cựu tư lệnh kiêm phó tham mưu trưởng Quân khu 2, Bùi Văn Quỳ, cựu phó tư lệnh chính trị Bộ đội Tăng-thiết giáp và Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu chính ủy Quân khu 4, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc.

Đại tá Bồng nói rằng 20 chữ ký này ‘chỉ là sự tập hợp điển hình’ bởi vì các ông ‘không có thời gian kêu gọi vận động mọi người’.

“Trong tâm tư của các cựu chiến binh thì họ ủng hộ đông lắm nhưng khi lên tiếng ủng hộ thì họ sợ sệt thế này thế kia. Có khi bị cho là suy thoái tư tưởng,” ông Bồng nói.

Chúng tôi muốn biết

Chúng tôi muốn biết

clip_image001

Tự do ngôn luận liên quan chặt chẽ tự do tiếp cận thông tin. Mỗi người dân đều có quyền tiếp cận những thông tin từ nhà nước như chính sách quốc gia, hoạt động của chính khách nhà nước và/hoặc đảng cầm quyền trên mọi lĩnh vực: giáo dục, môi trường, y tế, an sinh xã hội… đến chủ quyền quốc gia. Đó là một trong những quyền hết sức cơ bản của người dân.

Cung cấp thông tin chính xác, minh bạch và có trách nhiệm là bổn phận của nhà nước.

Ngược lại, quyền tiếp cận thông tin từ nhà nước giúp người dân có thể tiếp thu, đánh giá, lên tiếng phê bình hay ủng hộ. Đây là yếu tố nền tảng của dân chủ. Động thái phớt lờ quyền cơ bản đó chỉ có ở những thể chế phản dân chủ, độc tài.

Đã bao giờ bạn đặt câu hỏi: người dân có quyền được biết những thỏa thuận, những ký kết có liên quan đến chủ quyền quốc gia hay không?

Tháng 5/2014 vừa qua, khi Trung Cộng đem giàn khoan HD-981 xâm lấn vùng biển Việt Nam, lần đầu tiên Công hàm 1958 liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký đã được đề cập công khai trên truyền thông nhà nước. Và rất nhiều người Việt Nam sửng sốt, kinh ngạc về cái công hàm vô cùng tai hại này.

Dù biện bạch thế nào, Công hàm 1958 được ký với nội dung tán thành Công bố của chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về chủ quyền và lãnh hải (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) khiến người dân quan tâm, lo lắng đến vận mệnh đất nước phải đặt câu hỏi: Tại sao những thỏa thuận ký kết liên quan đến chủ quyền Tổ quốc Việt Nam lại bị ém nhẹm suốt hơn nửa thế kỷ? Và những thông tin này nhà nước Việt Nam chỉ bất đắc dĩ công bố khi Trung Cộng trưng ra như bằng chứng về cái gọi là quyền “sở hữu” của Trung Quốc đối với Hoàng Sa & Trường Sa.

Quyền được thông tin là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước. Trong trường hợp này, mỗi chủ nhân của nước Việt Nam phải nắm bắt thông tin, mới có thể chung sức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi chính đáng của chính họ, cũng là của cả dân tộc Việt Nam.

Trên thực tế, mối quan hệ giữa chóp bu lợi ích nhóm trong hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc luôn che lấp những thông tin liên quan đến chủ quyền, nhân quyền, các vấn đề kinh tế – xã hội – văn hóa ở Việt Nam.

Hậu quả của “vùng tối” này là gì?

Nhân dân Việt Nam thường bị động trước các động thái gây hấn, lúng túng trước các thông tin do Trung Cộng đưa ra. Trong khi đó, nhà nước Việt Nam lại chủ trương đàn áp những ai muốn bạch hóa cái “hố đen” đó, khi người dân lên tiếng đòi hỏi hoặc tìm mọi cách để biết sự thật những gì đã và đang diễn ra.

Một trong những ký kết có liên quan đến vận mệnh quốc gia Việt Nam là “mật” ước Thành Đô 9-1990. Cho đến nay, gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua, không có bất kỳ thông tin nào liên quan đến hội nghị này được nhà nước Việt Nam chính thức công bố.

Mọi người lo ngại trước viễn cảnh Việt Nam sắp biến thành xứ sở phiên thuộc của Trung Quốc qua những thông tin rò rỉ.

Đã có những cá nhân, tập thể yêu cầu nhà nước Việt Nam công bố thông tin này. Đáp lại, đang là động thái “mũ ni che tai”, phớt lờ trịch thượng, vô trách nhiệm.

Vận nước đang nguy nan, đòi hỏi người dân phải được biết và có quyền được biết những thỏa thuận ký kết trên lưng người dân, 24 năm trước, giữa các yếu nhân hai đảng và nhà nước, gây phương hại nền độc lập của Việt Nam từ đó đến nay và tương lai.

Chúng tôi có quyền được biết, và chúng tôi muốn biết những gì đã và đang diễn ra.

Các bạn – những người dân Việt Nam nặng lòng yêu nước, với trách nhiệm trước cha ông và hậu thế, hãy cùng chúng tôi cương quyết tranh đấu và kiên trì đòi hỏi trên cơ sở quyền được biết này.

Hãy bắt đầu từ nội dung Hiệp ước Thành Đô 9-1990.

Chúng Tôi Muốn Biết

Nguồn: mangluoiblogger.blogspot.com

Tại sao người Công giáo xưng tội

Tại sao người Công giáo xưng tội

Chuacuuthe.com

TRẦM THIÊN THU

0409142

VRNs (04.09.2014)- Sài Gòn- Nhiều người không hiểu tại sao người Công giáo lại xưng thú tội mình với linh mục. Thực ra đó là làm theo tiền lệ trong Kinh Thánh.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra và nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:21-23). Người Công giáo tin rằng Chúa Giêsu đã trao quyền tha tội cho các Tông đồ (các linh mục đầu tiên) và những người kế vị, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

XƯNG TỘI LÀ BÍ TÍCH TRAO BAN ÂN SỦNG

Giáo hội Công giáo dạy rằng bí tích là dấu chỉ bề ngoài, do Chúa Giêsu thiết lập, để ban ân sủng. Xưng tội, gọi là Bí tích Hòa giải hoặc Cáo giải, ban cho chúng ta ân sủng để chống lại bản chất tội lỗi. Đó là bí tích chữa lành.

Giáo lý của Giáo hội Công giáo (GLCG) cho biết: “Những ai tới gần bí tích Sám hối, sẽ nhận được từ lòng từ bi Thiên Chúa ơn tha thứ về sự mình đã lỗi phạm đến Ngài, đồng thời họ được hoà giải với Giáo Hội mà tội lỗi của họ đã gây thương tích: chính Giáo Hội đã lo cho họ trở lại nhờ đức bác ái, nhờ gương sáng và những lời cầu nguyện” (GLCG, số 1422).

XƯNG TỘI LÀ CHÚNG TA ĐỐI DIỆN VỚI TỘI LỖI

Rất khó đến với một người mà chúng ta đã làm tổn thương và xin họ tha thứ. Cần can đảm và khiêm nhường nhìn nhận mình sai trái, nhất là cần biết rằng người đó vẫn có thể buồn giận. Cũng vậy, người Công giáo phải can đảm và khiêm nhường bằng cách nói cho linh mục biết tội lỗi của mình. Chúng ta phải đối mặt với tội lỗi và nhận mình sai trái. Dĩ nhiên, linh mục bị buộc bởi “ấn tòa giải tội” và không được tiết lộ hoặc nói với bất cứ ai về tội của người khác.

XƯNG TỘI LÀ ĐƯỢC SẠCH TỘI

Sau khi xưng tội, người Công giáo tin rằng linh hồn họ được sạch tội, không tì vết như thuở ban đầu, và được trang bị bằng sự bảo vệ để không tái phạm. Thường xuyên xưng tội thì chúng ta sẽ được thêm nhiều ân sủng và được nhắc nhở về việc chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình.

TỘI LỖI KHÔNG RIÊNG TƯ

Tội của chúng ta có ảnh hưởng người khác, dù chúng ta cho đó là “tội riêng”. Đó là sự liên lụy hoặc liên đới tội lỗi. Các tội như vậy có thể có vẻ nhỏ nhật, nhưng chúng vẫn làm chúng ta thay đổi. Có thể chúng ta ích kỷ vì các tội này, nhưng rồi sự ích kỷ của chúng ta sẽ ảnh hưởng người khác. GLCG nói: “Nhiều tội đã gây thiệt hại cho tha nhân. Vậy phải làm hết sức mình để đền bù (như trả lại những gì mình đã ăn trộm, phục hồi thanh danh cho người mình đã vu khống, bồi thường những thương tích mình đã gây cho tha nhân). Nguyên đức công bằng cũng đòi buộc như thế. Nhưng ngoài ra, tội lỗi còn làm bị thương và làm mất sức chính tội nhân, cũng như đã gây tổn thương cho những liên hệ giữa tội nhân với Thiên Chúa và với tha nhân. Ơn tha tội xoá tội lỗi, nhưng không sửa lại được tất cả những xáo trộn mà tội lỗi đã gây nên (x. CĐ Trentô, DS 1712). Được tha thứ tội lỗi, được chữa lành, tội nhân còn phải lấy lại đầy đủ sức khoẻ tinh thần. Vậy người đó phải làm một cái gì để đền bù tội lỗi mình: người đó phải “đền tội” cách thích hợp, tức phạt tạ các tội lỗi mình. Đó là việc đền tội” (GLCG, số 1459).

TƯ VẤN TÂM LINH

Dù điều này không luôn xảy ra khi chúng ta đi xưng tội, nhưng  đôi khi hối nhân có thể nhận được lời tư vấn từ linh mục. Hãy nhớ rằng linh mục là “kênh” chuyển sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua Bí tích Hòa giải, và linh mục có thể hướng dẫn tâm linh cho hối nhân. Việc tư vấn này có thể rất có lợi đối vối việc phát triển tâm linh và đổi mới, đồng thời có thể giúp phát triển mối quan hệ với Chúa Ba Ngôi.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Lễ Thánh GH Gregory, Tiến sĩ Giáo hội, 3-9-2014

 

Trung Quốc mở tuyến du lịch mới tới Hoàng Sa

Trung Quốc mở tuyến du lịch mới tới Hoàng Sa

03-09-2014

Tàu du lịch Coconut Princess

Tàu du lịch Coconut Princess của Trung Quốc

Source sanya.hinews.cn

Trung Quốc vừa bắt đầu khai thác một tuyến đường du lịch mới tới quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hôm 2/9, Reuters dẫn tin từ Tân Hoa Xã cho hay.

Con tàu du lịch Coconut Princess bắt đầu chuyến hành trình 4 ngày từ thành phố Tam Á, thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Quốc, tới Hoàng Sa hôm qua. Các du khách sẽ thăm ba hòn đảo ở đây, chơi bóng chuyện, bơi lặn, câu cá và chụp ảnh cưới.

Tháng 4 năm ngoái, Trung Quốc mở tuyến đường du lịch từ Hải Khẩu, cũng ở Hải Nam, tới Hoàng Sa. Tuyến Tam Á – Hoàng Sa được cho là ngắn hơn và sẽ thay thế.

Tháng trước, Trung Quốc cho biết sẽ xây hải đăng ở 5 đảo nhỏ trên Biển Đông, bao gồm bán đảo Hoàng Sa.

Việt Nam và Trung Quốc vốn căng thẳng về những tranh chấp trên Biển Đông, nơi Trung Quốc khẳng định chủ quyền tới 90% bao gồm quần đảo Hoàng Sa.

Hậu vụ Vinalines: Những con tàu giá triệu đô thành ‘tàu ma’

Hậu vụ Vinalines: Những con tàu giá triệu đô thành ‘tàu ma’

September 03, 2014

Nguoi-viet.com

QUẢNG NINH (NV)Hàng chục con tàu trị giá cả trăm tỉ đồng của Vinalines nay mục nát, hoen rỉ, như “cái xác hoang tàn” nằm trôi nổi trên Vịnh Hạ Long do bị chủ nhân bỏ hoang.

Có giá trị sổ sách hơn 1,000 tỉ đồng (tương đương $50 triệu), đầu tư gốc 1,600 tỉ đồng nhưng hiện nhiều con tàu có xác “hoành tráng” của tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines) đang chờ bán với giá sắt vụn.

 

Những con “tàu ma” của tập đoàn tham nhũng Vinalines giờ như đóng sắt vụn. (Hình: VNExpress)

Theo báo Người Lao Ðộng, hơn 3 năm kể từ khi chuyển từ tập đoàn Vinashin về Vinalines, đội tàu Vinashinlines với hơn 10 chiếc, có tải trọng lên đến trên 200,000 tấn đến nay chỉ còn 4 chiếc đang hoạt động.

Số còn lại đã phải tạm dừng khai thác do xuống cấp nghiêm trọng phải neo đậu vạ vật tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Sài Gòn, thậm chí sang tận Cambodia trong suốt hai năm qua.

Vinashinlines thừa nhận hệ thống tàu Lash (chuyên dùng để chở sà lan, có thể nhận và trả hàng sâu trong nội thủy) hiện đang xuống cấp nghiêm trọng, đã dừng khai thác.

Các con tàu có nguy cơ thành sắt vụn của Vinashinlines gồm:

Tàu Sông Gianh: một trong những tàu thuộc đội tàu Lash từng được miêu tả là “tàu ma.” Theo giá trị sổ sách đến cuối tháng 4 năm 2014, có giá trên 365 tỉ đồng. Nhưng dư nợ gốc mua tàu tại ngân hàng đã vượt con số 300 tỉ đồng; số nợ gốc phải trả công ty công nghiệp tàu thủy (VFC) là hơn 4.4 triệu Mỹ kim.

Tàu Green Sea: Ðây là tàu già nhất của Vinashinlines nhưng cũng là tàu có tải trọng lớn nhất. Tàu đóng năm 1983, sức chở 76,000 tấn.

Tàu này vẫn neo đậu dù nhiều lần bị cảng vụ Quảng Ninh trong tình trạng mất an toàn nghiêm trọng. Giá trị còn lại vào khoảng 235 tỉ đồng, trong khi nợ gốc chưa trả xấp xỉ $19.5 triệu.

Tàu Vinashin Liner 2: Có tuổi đời hơn 20 năm. Tàu hết hợp đồng cho thuê hồi tháng 8. Nợ gốc của tàu này còn 8.7 triệu Mỹ kim trong khi giá trị đến thời điểm tháng 4 năm 2014 là 93.8 tỉ đồng.

Tàu Cái Lân 4: Tàu Cái Lân 4 vừa kết thúc hợp đồng với một đói tác nước ngoài. Là tàu nhỏ nhất có trọng tải 6,500 tấn, nhưng là tàu mới nhất của Vinashinlines đóng năm 2006.

Tàu New Sun: Giá trị còn lại trên sổ sách của tàu là 62.3 tỉ đồng. Hai năm qua tàu đã neo đậu tại biển Hải Phòng trong tình trạng không có nhiêu liệu để vận hành các thiết bị tối thiểu như chiếu sáng, cảnh báo an toàn.

Ngoài các con tàu kể trên, số tàu nhỏ thuộc “tập đoàn tham nhũng” Vinalines đang bỏ hoang không thể nhớ hết. Vinashinlines từng rao bán các tàu này hơn một năm trước nhưng hiện chưa có người mua.

Ngoài ra, riêng tiền trông coi bảo quản tối thiểu cho mỗi con tàu cũng đã ngốn thêm trên dưới 400 triệu đồng mỗi tháng.

Do không còn nguồn thu để duy trì tình trạng an toàn tối thiểu nên các giấy chứng nhận an toàn cho các con tàu trên sẽ hết hiệu lực. Khi đó chỉ có thể bán dưới dạng thanh lý, giải bản với giá sắt vụn chứ không thể bán với giá tàu còn hoạt động.

Từ khi vụ án điển hình “Ụ nổi 83M,” với bị cáo Dương Chí Dũng, nguyên cục trưởng Cục Hàng Hải CSVN nâng giá mua ụ nổi khoảng hơn $14 triệu lên $19.5 triệu, nhằm tham nhũng ăn chia với “nhóm lợi ích” dưới sự chỉ đạo của “đồng chí X” (ám chỉ Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng), Vinalines đã trở nên nổi tiếng.

Cũng từ đây, những khoản nợ ngàn tỉ của “nhóm lợi ích” này gây ra đổ hết lên đầu người dân Việt. (N.T)

Đưa Người Ta Không Đưa Sang Sông

Đưa Người Ta Không Đưa Sang Sông

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.

Hạ Đình Nguyên

Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu, tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:

“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thành phố Hồ Chí Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ chức trọng thể.”

Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL Hoàng Tuấn Anh đọc điếu văn. Ảnh:VOV

“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Trưởng ban lễ tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.

Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm cũng biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.

Theo vnexpress:

Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi 17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên – sinh viên – học sinh…

Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII và Khóa IX; Đại biểu hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân trao Huân chương Độc lập hạng nhì cho bà Võ Thị Thắng. Ảnh: Đời Sống Pháp Luật

Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, cũng cho biết thêm đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng:

“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài.

Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ. Thấy động, tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba nhưng không trúng. Cảnh sát ập đến bắt chị. Suốt đêm đó và mấy ngày sau chúng tra tấn chị một cách dã man bằng nhiều cách: tra điện, đóng đinh vào ngón tay nhưng chị quyết không khai báo.

Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”

Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều người khác thì không.

Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận:

Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng:

Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch.

GS Nguyễn Văn Bông năm 1967. Ảnh AP. Nguồn Flickr

Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S.  Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.

Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị ám sát năm 1969. Ảnh: Minh Đức

Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966:

“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”

Vẫn theo bản tin thượng dẫn:

Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.

Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chướng, văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân.

Những bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một số trí thức gọi đùa là “mục kinh tế chợ” đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn “Bí Danh” (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường.

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.

Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay – rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.

Ảnh:VOV

Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, hôm 23 tháng 8 năm 2014, ông Hạ Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”

Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!

Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị VTT là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Thiệt là qúi hoá hết sức!

Dù vậy, tôi chỉ có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?

Việt Nam với nhất nguyên và đa nguyên

Việt Nam với nhất nguyên và đa nguyên

Nguyễn Quang Duy

Gửi tới BBC từ Úc

Thứ tư, 3 tháng 9, 2014

Ông Võ Văn Kiệt từng đề nghị đổi ‘tập trung dân chủ’ thành ‘dân chủ tập trung’

Sau 30 tháng 4 năm 1975, những trại cải tạo, những khu kinh tế mới, những chiến dịch cải tạo xã hội… cũng nằm trong sách lược biến miền Nam thành một xã hội nhất nguyên.

Nhưng hoạch định của những người cộng sản đã không bao giờ đạt được.

Hàng triệu người miền Nam bỏ nước ra đi, những người ở lại vẫn tự xem mình có trình độ phát triển xã hội và dân chủ cao hơn miền Bắc.

Người miền Nam theo cộng sản quan sát xã hội miền Bắc bắt đầu phủ nhận chủ nghĩa Marx và con đường cộng sản.

Người miền Bắc tự chuyển biến tư tưởng khi tiếp xúc với xã hội đa nguyên miền Nam.

Ngay trong Bộ Chính Trị đảng Cộng sản các tư tưởng đa nguyên chính trị cũng đã hình thành.

Ông Võ Văn Kiệt đặt vấn đề cần chuyển “tập trung dân chủ” thành “dân chủ tập trung”, tôn trọng và bảo vệ ý kiến của thiểu số, chấm dứt việc “đảng hóa” xã hội và sự lạm quyền của Bộ Chính Trị.

Theo ông Kiệt mọi chính sách thay vì từ Bộ Chính Trị đưa xuống, phải phát xuất từ Trung Ương Đảng hay từ đa số đảng viên đưa lên. Khi đã có dân chủ trong đảng sẽ mở rộng dân chủ ngòai dân.

Ông Trần Xuân Bách có một tầm nhìn chính trị rõ hơn:

“Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ (mở rộng). Đó là quyền của dân, với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại.”

Ông Trần Xuân Bách cũng cho rằng hai lãnh vực chính trị và kinh tế phải được phát triển nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.

“Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại”

Trần Xuân Bách

Tiếng kêu hai ông Võ Văn Kiệt và Trần Xuân Bách là những tiếng kêu lẻ loi từ phía bên trên của thể chế nhất nguyên đảng trị.

Đa Đảng hình thức

Trước năm 1986, đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội được đảng Cộng sản lập ra để tô điểm cho thể chế nhất nguyên.

Đứng trước đổi mới kinh tế và đòi hỏi đa nguyên, hai đảng này trở thành nỗi đe dọa cho giới cầm quyền nên đều bị giải tán.

Tại Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản vẫn còn tám đảng hay tổ chức “chính trị”. Các tổ chức này không giữ vai trò đối lập.

Như các tổ chức trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, họ chỉ góp ý đường lối do Đảng Cộng sản đề ra.

Về đa đảng đối lập, Giáo sư Nguyễn văn Bông (1929-1973) đối lập chính trị cần có ba đặc điểm:

Trước nhất, đối lập phải có sự bất đồng về chính trị, có chiến lược và chính sách đối lập.

Thứ hai, đối lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến mang tính cách tập thể và biểu hiện qua hành động có tổ chức: chính đảng đối lập.

Thứ ba, đối lập phải hoạt động trong vòng pháp luật. Các chính đảng dùng võ lực hay phải hoạt động âm thầm trong bóng tối thì chỉ được xem là những hành động đối kháng.

Dựa trên ba đặc điểm vừa nêu ra Giáo sư Bông giải thích:

“…đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ Đại Nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài chính phủ. Đối lập là khía cạnh nghị viện của vấn đề…”.

“Chữ ‘chúng ta’ ông Sang dùng là để trao đổi với các phe cánh trong đảng cầm quyền”

Còn về phe phái trong Đảng Cộng sản, thì khi một đảng đã thâu tóm hết quyền lực và quyền lợi thì người gia nhập đảng đa phần cũng chỉ vì lợi ích cá nhân.

Từ lợi ích cá nhân mới sinh ra lợi ích nhóm tạo ra các phe cánh trong đảng.

Trong dịp 2 tháng 9 năm nay, ông Trương Tấn Sang gởi một thông điệp nhìn nhận:

“Chúng ta không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta.”

Chữ “chúng ta” ông Sang dùng là để trao đổi với các phe cánh trong đảng cầm quyền.

Đại Hội 12 cận kề, thực tế cho thấy các phe cánh chưa thể thu xếp lại quyền lực và quyền lợi.

Họ cũng chưa thể thống nhất quan điểm và phương cách giải quyết nhiều vấn đề cả đối nội lẫn đối ngọai.

Vì thế họ mới tố nhau phe lợi ích, phe bảo thủ, hay tự xưng phe cải cách, nhưng các phe đều cùng chung mục đích là bảo vệ độc quyền đảng trị và chống lại diễn biến hòa bình.

Ngày 16 tháng 8 vừa qua, ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhắc nhở Lực lượng công an:

“Các thế lực thù địch, phản động chưa hề từ bỏ âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam; ráo riết thực hiện diễn biến hòa bình, triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế để tác động, chuyển hóa nội bộ, hỗ trợ, kích động chống phá nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội.”

Những tuyên bố, những nghị quyết, những bài báo, những tài liệu chống diễn biến hòa bình, cho thấy đây chính là nỗi quan tâm hàng đầu của những người cầm quyền Việt Nam.

Nhưng đó cũng là dấu hiệu cho thấy đa nguyên chính trị có cơ hội bộc phát từ bên trong Đảng Cộng sản và có thể sẽ dẫn đến thay đổi thể chế chính trị một cách hòa bình.

Phát triển xã hội đa nguyên

Càng ngày Đảng Cộng sản càng mất dần khả năng kiểm sóat các tổ chức dân sự, gồm cả các tổ chức do đảng lập ra, các tổ chức bị bắt buộc tham gia Mặt Trận Tổ Quốc và tổ chức dân sự độc lập.

“Khi thể chế nhất nguyên còn tồn tại, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự độc lập không thể xem là tổ chức hay lực lượng đối lập”

Các tổ chức dân sự độc lập là các tổ chức đang đấu tranh để giành lại những quyền tự do, như quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do báo chí, quyền tự do nghiệp đoàn, quyền tự do chính trị… những quyền cơ bản được Quốc Tế công nhận.

Các tổ chức dân sự độc lập khác với các đảng chính trị có mục đích rõ ràng là đấu tranh giành quyền lực với đảng cầm quyền cộng sản.

Khi thể chế nhất nguyên còn tồn tại, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự độc lập chỉ là những tổ chức đấu tranh chính trị, không thể xem là tổ chức hay lực lượng đối lập.

Các tổ chức đấu tranh chính trị đang đóng góp xây dựng ý thức dân chủ cho xã hội cũng như sẽ vận động xã hội tham gia các sinh họat chính trị, tham gia bầu cử, tham gia ứng cử khi thể chế đa nguyên đa đảng đã được hình thành.

Nếu ý thức dân chủ của xã hội chưa đầy đủ, thể chế nhất nguyên cộng sản có thể sẽ được thay bằng một thể chế nhất nguyên độc tài khác.

Vì thế vai trò của các tổ chức đấu tranh chính trị vô cùng quan trọng.

Nói tóm lại đa nguyên chính trị là khởi đầu và cũng là nền tảng cho tự do dân chủ.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy từ Canberra, Úc. Mời quý vị xem thêm ‘Bấm Chủ nghĩa xã hội thực sự là gì‘ của ông Trần Xuân Bách.

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

HÌNH ẢNH MẸ TÊRÊXA ĐỐI VỚI TÔI

Cố GS Trần Duy Nhiên


“Một suy nghĩ hướng đến tha nhân.  Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động.  Đấy là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình.” Mẹ Têrêxa.

Ngày 5 tháng 9 năm 1997, một vĩ nhân đã ra đi….. Vâng, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đúng là vĩ nhân của thế kỷ XX nếu ta nhớ lại rằng Mẹ đã nhận được Giải Nobel Hoà Bình năm 1979, và ngày qua đời Mẹ được một vinh dự mà chưa một vĩ nhân nào có được: ba nước trên thế giới chịu quốc tang, đó là Ấn Độ, Anbani và Hoa Kỳ.

Mẹ có dịp qua Việt nam hai lần, năm 1994 và năm 1995, và hai lần đó, tôi được may mắn tiếp kiến mỗi lần gần một giờ.  Lạ lùng thay, hình ảnh Mẹ để lại trong tôi không có gì là của một vĩ nhân cả, mà của một người khiêm nhường đến độ quên đi bản thân mình.  Tôi không còn nhớ Mẹ đã nói gì với tôi, nhưng Mẹ để lại hai hình ảnh vẫn còn theo tôi cho đến ngày hôm nay.

Điểm đầu tiên gây ấn tượng là cảm thức về Thiên Chúa nơi Mẹ.  Khi đến Việt nam, Mẹ tạm trú trên lầu 3, tại 38 Tú Xương.  Người ta dành một phòng cho Mẹ và một phòng cho ba nữ tu theo Mẹ (trong số đó có vị Bề Trên tổng quyền hiện nay là Sr Nirmala Joshi).  Thế nhưng Mẹ đã biến phòng của mình thành nhà nguyện với sự hiện diện của Mình Thánh Chúa, rồi cùng chia sẻ với ba chị em phòng còn lại.  Mẹ đã hẹn anh chị Soi và tôi đến gặp Mẹ lúc 11 giờ trưa.

Đúng hẹn, chúng tôi lên lầu 3.  Vì không có chỗ tiếp khách, Sr. Nirmala mời chúng tôi ngồi ở hành lang và Mẹ ra tiếp chúng tôi tại đấy.  Sau nụ cười chào đáp, Mẹ chỉ ngay vào nhà nguyện và bảo: “Chúa kìa”, với một thái độ tự nhiên giống như một bà mẹ bảo con mình chào ông ngoại khi đi đâu về.  Mẹ vào quì trước Thánh Thể với chúng tôi một vài phút trước khi bắt đầu câu chuyện.  Và cuối buổi nói chuyện, Mẹ cũng chỉ vào nhà nguyện bảo chúng tôi chào Chúa trước khi ra về.  Thái độ mẹ đơn sơ như thể Chúa luôn có mặt bằng xương bằng thịt ở bên Mẹ.  Cái cảm thức về Chúa nơi Mẹ rõ rệt đến độ tôi có cảm giác rằng nó hùng biện hơn bất cứ bài giảng nào của bất cứ ai nói về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.

Điểm thứ hai gây ấn tượng là cách nói chuyện của Mẹ.  Mẹ không nói chuyện với ba người, mà nói với từng người một.  Mẹ cúi mình xuống và nhìn lên với cái nhìn thật trân trọng, cứ như là Mẹ muốn tiếp thu một bài học nào đó từ người đối thoại mà quên mất mình là ai.  Nói chuyện với Mẹ mà trong đầu tôi cứ lờn vờn hình ảnh của Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho môn đệ mình.  Qua thái độ lắng nghe và ánh mắt, Mẹ đã cho người đối thoại thấy rằng mình vô cùng giá trị…  Có những cái nhìn đè bẹp người người đối thoại và làm cho họ trở nên nhỏ bé và đầy mặc cảm; có những cái nhìn làm cho người đối diện lớn lên và tự hào về giá trị của mình: Mẹ Têrêxa là người có cái nhìn thứ hai đó.

Mẹ Têrêxa thành Calcutta! Một danh xưng đem tự hào về cho Giáo Hội, cho các quốc gia của Mẹ, cho toàn thể nhân loại.  Thế nhưng qua hai lần gặp gỡ, tôi không bị choáng ngộp vì một vĩ nhân, mà chỉ đọc được nơi Mẹ một Kitô hữu điển hình: một người “đã hóa mình ra không” trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em nhân loại, dù cho người ấy có thấp hèn đến đâu.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước.  Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử giáo hội: vỏn vẹn 6 năm sau ngày qua đời.  Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ chính thức hóa một điều mà mọi người gặp Mẹ đã công nhận từ lâu:  Mẹ quả là hình ảnh sống động của Chúa Kitô trên thế gian này.

Giờ này Mẹ đã về bên Chúa, tôi bỗng nghĩ đến 4690 nữ tu Thừa Sai Bác Ái đang tiếp tục sống đời sống ,”Kitô hữu mẫu mực” của Mẹ tại 710 nhà trong 132 nước trên thế giới.  Bất giác tôi nhớ lại lời Mẹ dặn: “Con hãy cảm tạ Chúa cùng với Mẹ, vì Việt Nam là nước thứ 100 mà các Thừa Sai Bác Ái hoạt động và nhà tại Việt Nam là nhà thứ 500 của họ”.  Tôi không biết sau 2 năm hiện diện tại Việt Nam, các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêxa có được gia hạn giấy phép hoạt động hay không.  Nếu không được thì kể cũng xót xa cho Giáo Hội tại Việt Nam đấy.  Nhưng dù các con của Mẹ có hoạt động công khai hay âm thầm, thì Mẹ vẫn còn sống mãi trong họ để tiếp tục khẳng định cho mọi người mà họ gặp gỡ: Chúa đang sống cạnh bạn và Ngài tôn trọng bạn với trọn vẹn trái tim yêu thương của Ngài.

Để kết thúc những cảm nhận này, tôi ghi lại đây một chuyện nhỏ.  Khi trao đổi danh thiếp với nhau, Mẹ cho biết rằng mình không bao giờ có danh thiếp.

Sr. Nirmala trình cho Mẹ ‘danh thiếp’ sau đây với những lời vàng ngọc của Mẹ.  Mẹ cầm bút viết lời chúc phúc, rồi trao cho tôi như một kỷ vật:

(1) Ghi chú: Trên “danh thiếp” có hàng chữ viết tay God Bless you (Xin Chúa chúc lành cho con) và chữ ký của Mẹ.  Tác giả cũng đã dịch những hàng chữ trên ra tiếng Việt như sau:

The fruit of SILENCE is Prayer
The fruit of PRAYER is Faith
The fruit of FAITH is Love
The fruit of LOVE is Service
The fruit of SERVICE is Peace.
( Hoa quả của THINH LẶNG là Cầu Nguyện
Hoa quả của CẦU NGUYỆN là Ðức Tin
Hoa quả của ÐỨC TIN là Tình Yêu
Hoa quả của TÌNH YÊU là Phục Vụ
Hoa quả của PHỤC VỤ là Bình An )

(Kỷ niệm 6 năm ngày Mẹ Têrêxa Calcutta về thiên quốc)

Trần Duy Nhiên

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi