DÙ CON NGƯỜI BẤT TRUNG, THIÊN CHÚA VẪN MỘT LÒNG TRUNG TÍN

DÙ CON NGƯỜI BẤT TRUNG, THIÊN CHÚA VẪN MỘT LÒNG TRUNG TÍN

(Mt 21, 33-43)

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho (x. Mt 21, 28-32). Đức Giê-su kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (x. Mt 21, 33-43). Quả thật, Vườn nho của Chúa là nhà Israel, Thiên Chúa đã tuyển chọn và coi như một vườn nho đặc tuyển được Chúa chăm sóc, bảo vệ, (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một bằng chứng : “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích” (Is 5, 7). Tình yêu của ông chủ với vườn nho, hay cụ thể là mối tình giữa Thiên Chúa với Dân Ngài thật đậm đà, thắm thiết. Thiên Chúa đã không tiếc gì đối với dân : “Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho” nhưng hỡi ôi, “nó lại sinh toàn nho dại” (Is 5, 2).

Điều gì phải đến sẽ đến, ông chủ “sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó” (Is 5, 5-6). Ngụ ý nói : “Thiên Chúa trông mong Israel thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5, 7). Theo lẽ thường, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống Israel. Nhưng Thiên Chúa “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9). Nên, mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc (x. Mt 21, 33-43).

Gọi vào làm vườn nho và chăm sóc vườn nho là sáng kiến ​​của Thiên Chúa. Ngài đã chọn dân Israel. Ngài tin tưởng và ban cho dân những điều kiện để sống xứng đáng trong Vương Quốc của Ngài. Ngài gọi dân vào làm vườn nho thể thiện tương quan đặc biệt giữa Ngài với dân. Việc trồng nho lấy quả, ép rượu, theo truyền thống Kinh Thánh là dấu hiệu của niềm vui phồn thịnh.

Thiên Chúa lấy tình yêu mà chăm sóc dân Chúa để nó sinh nhiều trái tốt, là sống công chính hoan lạc trong tình yêu. Cây nho sinh trái, thể hiện tình yêu từ Thiên Chúa xuống với con người, trung thành với lề luật Chúa là đáp lại tình yêu ấy. Yêu thương con người là sáng kiến của Thiên Chúa, vì Ngài đã chủ động yêu thương. Thảm kịch đối với dân được chọn là khước từ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, cho dù bao lần Ngài dùng miệng các tiên tri không ngừng mời gọi dân hoán cải, thậm trí sai chính Con của Ngài đến kêu gọi, dân chúng vẫn chọn sự bất trung với Thiên Chúa, ngược đãi với Con Ngài .

Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaia (x. Is 5, 1-7). Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn. Tại sao Thiên Chúa “trồng một vườn nho” và Thiên Chúa đến tìm những “hoa quả “ nào?

Những tá điền không trồng nho và chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích riêng của chính mình. Thiên Chúa thì khác. Ngài dựng nên con người và lập giao ước với con người, không phải vì lợi ích cho Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương và ích lợi cho con người mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu đối Thiên Chúa và sự công bình đối với những kẻ bị áp bức: tất cả là vì con người, chứ không phải cho Thiên Chúa.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, đồng thời phác họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại chúng ta. Chúng ta có thể trách cứ dân Israel hay cha ông họ là những tá điền sát nhân, vì chẳng những từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa mà còn giết hại chính Con Một Ngài. Coi chừng câu nói : “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”(Mt 21,38) lại là của chính chúng ta. Bởi lẽ, ngày hôm nay chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài bởi những người xưng mình là Kitô hữu, hay là có khi phản Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho dội lên không bằng lời thì cũng ít nhất bằng những việc làm trong xã hội tục hóa ngày nay. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ.

Chúng ta tự hỏi: Tôi đã chuẩn bị thế nào để Chúa Kitô sống trong tôi? Tôi đáp trả tình yêu vô biên của Chúa dành cho tôi bằng cách nào? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô chăng?

Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Tình yêu của Ngài mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung của con người. Ngài tiếp tục sai chính Con Một Ngài đến trao nộp vì chúng ta để bảo đảm cho tới cùng tình yêu trao ban cứu độ thế gian.

Lịch sử nhân loại được hoàn tất nhờ cái chết trên Thập giá. Nhờ cái chết, Chúa Giêsu đã tiêu diệt sự dữ. Nhờ phục sinh, Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng sức mạnh của tình yêu, Người đã tiêu diệt hận thù. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc ” (Mt 21, 42), đền thờ Thiên Chúa được phục hồi. Vườn nho trở nên Vương Quốc của Giao Ước Mới, vì Nước Trời không bị phá hủy, từ nay “ Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21, 43).

Ông chủ vườn nho nói : “Chúng sẽ nễ con Ta” (Mt 21, 37). Giờ đây, Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với chúng ta trong Bí tích Mình và Máu Người. Ta có hiểu sự cao trọng lúc này không? Ta có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính mà Chúa Cha mong đợi không?

Hôm nay chúng ta đọc lại lịch sử Dân Chúa chọn để lên án sự loại bỏ Đức Kitô do Chúa Cha sai đến. Nhưng cũng ý thức về sự khốn cùng của chúng ta khi loại bỏ “viên đá góc”, lúc chúng ta có ý xây dựng thế giới này theo tiêu chí của chúng ta, tự coi mình là những ông chủ vườn nho của Chúa.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ” (Lời nguyện Nhập lễ). Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mẹ của 322 đứa con, một phụ nữ phi thường, một người đàn bà vĩ đại

Mẹ của 322 đứa con, một phụ nữ phi thường, một người đàn bà vĩ đại

Mẹ của 322 đứa con

Chị là Huỳnh Tiểu Hương, người sáng lập Trung tâm Nhân đạo Quê Hương (ấp Tân Long, P.Tân Đông Hiệp, TX.Dĩ An, Bình Dương). Chưa từng một lần sinh nở, nhưng chị có đến 322 đứa con.

Mẹ của 322 đứa con

Niềm hạnh phúc của mẹ Hương trước đàn con, những thiên thần bé nhỏ

Từ khi sinh ra, chị đã không biết cha mẹ mình là ai. Lang thang khất thực, chị trải qua vô vàn tủi nhục, từng nhiều lần tìm cách quyên sinh, nhưng “thần chết” từ chối rước đi. Cuối cùng, chị đã tìm thấy hạnh phúc bằng cách mang lại sự sống cho hàng trăm đứa trẻ bị vứt bỏ, và dành hết tình yêu  cho chúng.

Chị là Huỳnh Tiểu Hương, người sáng lập Trung tâm Nhân đạo Quê Hương (ấp Tân Long, P.Tân Đông Hiệp, TX.Dĩ An, Bình Dương). Chưa từng một lần sinh nở, nhưng chị có đến 322 đứa con.

Nằm đợi xe tải đâm chết

Chúng tôi về thăm Trung tâm Nhân đạo Quê Hương (TTNĐQH) vào một buổi sáng mùa thu, giữa lúc một nhóm gần chục đứa trẻ đang quấn quýt bên mẹ Hương.

Dáng người nhỏ nhắn, dù đã 46 tuổi, nhưng gương mặt với nụ cười thật hiền của chị còn phảng phất nhan sắc một thời. Cuộc nói chuyện của chúng tôi cứ bị gián đoạn bởi vài phút lại có vài đứa trẻ đến “làm phiền” mẹ Hương. Những lúc ấy, chị lại cười, xin lỗi chúng tôi.

“Tôi không biết chính xác mình sinh ra ở đâu và cha mẹ là ai. Bởi vì, lúc lớn lên, tôi chỉ biết có bà nội. Chúng tôi không có nhà, nên lang thang khắp nơi, làm đủ thứ việc, từ lượm ve chai, rửa chén, bán trà đá, thuốc lá, đến ăn xin trên tàu hỏa từ Sài Gòn ra đến miền Trung.

Cuộc sống của kẻ bụi đời, giang hồ thì anh biết khổ như thế nào rồi. Nhưng khổ nhất là khi bà mất, tôi bơ vơ một mình, cứ đi trong vô định, ngày nào cũng bị đám bụi đời khác ăn hiếp, có đồng nào tụi nó cướp sạch. Nhiều đêm, tôi không thể nằm xuống ghế đá công viên được vì bị tụi nó đánh, người đau ê ẩm. Thế rồi, chuyện gì đến cũng đến…”, chị Hương mở đầu câu chuyện.

Sau khi bị một đám thanh niên bụi đời hãm hại, đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, nhìn phía trước cuộc đời chỉ thấy một màu đen kịt, lần đầu tiên chị nghĩ đến việc giải thoát cho mình bằng cách nằm ngang đường ray xe lửa giữa đêm vắng.

Nhưng, dường như số phận chưa đồng ý giải thoát cho chị, nên một cụ già đi lượm ve chai đã phát hiện, ngăn cản và đưa chị về nhà cưu mang. Lần đầu tiên trong đời, chị có nhà, hạnh phúc tưởng như đã mỉm cười thì chị lại phải ra đi khi một lần nữa chị bị người cháu của ông cụ tiếp tục hại.

Rời nhà ông cụ, chị lang thang đến một khu đào vàng ở vùng A Lưới (Thừa Thiên – Huế) làm thuê. Ở đây, cuộc sống của chị chẳng khác nào địa ngục giữa trần gian khi ban ngày phải làm cật lực, đêm xuống, những gã đàn ông bặm trợn xúm vào xâu xé chị như một món đồ chơi. Không những thế, chị còn liên tục bị đánh đập.

nh-2151021867
Tháng ngày cay đắng của chị Hương đã lùi xa, hiện chị đang hạnh phúc bên những thiên thần nhỏ

Tủi nhục đỉnh điểm, một đêm tối trời, chị ra giữa đường nằm đợi xe tải lao tới để kết thúc cuộc đời. Nhưng, lần thứ 2, chị không được toại nguyện khi chiếc xe tải đang ầm ầm đổ dốc vẫn thấy chị, kịp thắng lại. Tay tài xế mặt cắt không còn giọt máu, xuống xe chửi chị xối xả và không quên tặng chị một bạt tai nảy đom đóm trước khi đi. Sau đó, thêm một lần chị được cứu sống khi gieo mình xuống biển ở Vũng Tàu.

“Tôi bỏ ý định quyên sinh khi một lần tôi thấy đứa trẻ mới sinh bị bỏ rơi. Lúc ấy, ngay cả miếng ăn của tôi cũng còn khó kiếm, nhưng nhìn cháu bé đang khóc oe oe, mình mẩy kiến bu đầy, tôi thương quá, không cầm lòng được nên bế cháu lên. Kể từ đó, tình cảm người mẹ trong tôi trỗi dậy. Tôi lượm bất cứ thứ gì có thể ăn được, từ khoai lang, các loại rau sống để nhai, mớm cho cháu. Đến giờ, tôi vẫn không hiểu phép màu nào giúp cháu sống được”, chị Hương kể tiếp.

Người mẹ vĩ đại

Năm 1987, vận may đến khi một người Đài Loan tình cờ gặp chị bế con nhỏ, đã động lòng trắc ẩn, muốn nhận chị làm con nuôi và thuê cho chị một nơi ở.

Trước khi về nước, người đàn ông này đã đưa cho chị một số tiền đủ để mua căn nhà nhỏ. Từ căn nhà này, chị bắt đầu kiếm được tiền bằng cách mua đi bán lại kiếm lời. Có vốn trong tay, chị thành lập Cty SX kinh doanh nước tinh khiết, tạo việc làm cho người cơ nhỡ, mồ côi.

nh-315102251
Chị Hương đang bận bịu với những đứa trẻ sơ sinh

“Tôi có 3 điều ước, thứ nhất là xây nhà ở cho các cháu mồ côi có nơi nương tựa, thứ 2 là xây một trường học cho các cháu và điều ước thứ 3 là xây một bệnh viện đa khoa nhân đạo để chữa bệnh miễn phí cho các cháu mồ côi, người già neo đơn, người tàn tật. Ba điều ước trên, tôi đã thực hiện được khoảng một nửa. Nhưng phần còn lại là một hành trình đầy khó khăn mà một mình tôi rất khó thực hiện”, chị Hương nói.

Kể từ đây, chị không còn phải lang thang nữa mà đã có của ăn của để. Nhưng, chị luôn đau đáu ước mơ là giúp đỡ những đứa trẻ có hoàn cảnh giống chị xưa kia. Vì thế, toàn bộ tiền kiếm được, chị dành hết cho việc từ thiện, mua đất, cất nhà và đón những đứa trẻ mồ côi, tàn tật về chăm sóc.

Năm 2001, Trung tâm Nhân đạo Quê Hương ra đời với diện tích hơn 2.000m2. Năm 2005, chị tiếp tục mở rộng trung tâm lên 4.100m2. Từ 30 em ban đầu, tăng lên 157. Đến nay, diện tích trung tâm là 10.000m2, số trẻ em cơ nhỡ, mồ côi, tàn tạt được chị Hương cưu mang là 322 em.

Bên cạnh đó, trung tâm còn có bếp ăn tình thương dành cho 170 người mù, tàn tật, không nơi nương tựa. Hơn 300 đứa trẻ của trung tâm đều được nhập hộ khẩu và đều mang họ Huỳnh.

Nói về việc đặt tên cho các cháu, ông Phan Văn Bảy, trợ tá đắc lực cho chị Hương, cười buồn: “Mỗi cái tên của chúng gợi nhớ một kỷ niệm. Như cháu bị bỏ rơi ngay cổng trung tâm, chúng tôi đặt tên là Cổng, nhưng sau đó được đổi thành Công cho đẹp, đứa mang tên Hảo là do mẹ chúng đặt trong thùng mì Hảo Hảo… Buồn nhất là nhiều đứa phát hiện muộn, không cứu được, hoặc khi phát hiện, phải đưa đi nằm bệnh viện rất lâu”. Ông Bảy cho biết, số khu công nghiệp ở đây mọc lên tỷ lệ thuận với trẻ bị vứt bỏ.

nh-4151022223
Chị Hương dạy các con học

Hiện nay, toàn bộ chi phí của trung tâm đều do chị Hương lo là chính, ngoài ra là tấm lòng hảo tâm của các Mạnh Thường Quân và những đứa con của trung tâm đã ra ngoài làm việc.

Tận mắt nhìn cảnh sinh hoạt của các cáu nhỏ ở trung tâm, tôi thấy rất rõ là các em nhỏ đã có một gia đình, được sống trong tình yêu thương thật sự của mẹ Hương và các cộng sự của trung tâm. Ở đây, các em được đi học kiến thức, học nghề, học năng khiếu và đã có những em bước chân vào giảng đường cao đẳng, đại học. Khi các em trưởng thành, chị lại ngược xuôi đi tìm việc cho các em. Đến tuổi, chính chị là người lo việc dựng vợ, gả chồng cho các con. Năm 2012, chị Hương đứng ra tổ chức đám cưới tập thể cho 11 cặp đôi.

Một trang báo không thể nào nói hết 46 năm cuộc đời với vô số những biến cố, thăng trầm của chị. Chỉ biết rằng, Huỳnh Tiểu Hương là một người phụ nữ phi thường, một bà mẹ vĩ đại.

Vĩ đại hơn nữa khi chúng tôi biết được, từ năm 2007 đến nay, chị bị căn bệnh ung thứ vú hoành hành, nhưng chị vẫn luôn tươi cười và chưa bao giờ than thở. “Mấy lần phải nằm viện, ngày nào chị ấy cũng gọi điện về hỏi thăm và nói chuyện với mấy đứa nhỏ”, ông Bảy nói.

KHƯƠNG HỒNG THỦY

Văn Hóa “Giả Vờ” ở Việt Nam

Văn Hóa “Giả Vờ” ở Việt Nam

Lê Nhân Chính

Sống trong một đất nước lúc nào cũng lo sợ bị “Ăn Cắp” và phải cố tập cho mình tính “Giả Vờ”… thật là “Đau Đầu”, “Nhức Óc” !!. Bài viết phiếm luận nầy rất hay vì nói lên đầy đủ những tệ trạng của một xã hội KHÔNG CÒN NHÂN TÍNH CON NGƯỜI.

Tôi không bênh vực những Tiếp viên Hàng không bằng lý do ngô nghê là họ phải đút lót để đựơc có việc làm trong Air VN, nên họ phải buôn lậu chuyển hàng ăn cắp để gỡ vốn chứ ! Mà tôi thực sự thương hại họ, vì ” Quít trồng Giang Nam thì ngọt, trồng Giang Bắc lại chua !”

Ngay khi chào đời, họ đã bị sinh ra trong một bệnh viện “ăn cắp”: Bác sĩ, Y tá “ăn cắp” phong bì của bệnh nhân, “ăn cắp” thuốc tiêm chủng ngừa bằng cách chia phân lượng thuốc tiêm ra nhiều phần, không đủ tiêu chuẩn, “ăn cắp” thủy tinh thể nhân tạo của Mỹ, rồi thay thế bằng sản phẩm Ấn Độ để “ăn cắp” giá tiền sai biệt.

Khi lớn lên, họ lại đi học trong những trường học “ăn cắp”: Giáo sư “ăn cắp” công trình trí tuệ của người khác, học sinh, Sinh viên “ăn cắp” bảng điểm, “ăn cắp” bằng cấp dỏm bằng phong bì.

Khi bắt đầu bước vào xã hội, bước đầu tiên, họ đã bị Lãnh đạo “ăn cắp” tiền đút lót để được có việc làm, nên họ phải tiến vào quỹ đạo ăn cắp, họ ăn cắp dự án, ăn cắp đất của nông dân, họ ăn cắp tiền phạt giao thông, họ ăn cắp sinh mạng của người dân bằng tra tấn, nhục hình …..

Vì vậy , khi tôi nhìn thấy những cô Ca sĩ, Hoa hậu, Người mẫu, vênh váo khoe khoang quần áo, túi xách, giầy dép hàng hiệu, xe “khủng”, nhà “khủng”, tôi thương hại họ quá, họ cũng bị “ăn cắp” trinh tiết, bị “ăn cắp” phẩm giá, anh ạ ! Tôi có con gái, và con gái tôi may mắn, được giáo dục tại trường học phân biệt điều phải, điều trái, được tôn trọng nhân phẩm.
Khi về Việt Nam, nhiều lần, xe người bạn chở tôi đi, bị công an thổi còi, rồi công an vòi vĩnh, xòe tay cầm tiền hối lộ. Tôi rơi nước mắt, họ còn nhỏ tuổi hơn con trai tôi. Con trai tôi có công ăn việc làm, nuôi con cái bằng chính sức lao động của mình, dạy con, làm gương cho con bằng chính nhân cách của mình . Những người công an trẻ đó cũng bị “ăn cắp” lương tâm, phải không anh?. Khi những người công an, đánh người, giết người, họ được bố thí trả công bằng vài bữa ăn nhậu, chút đồng tiền rơi rớt.

Khi những phóng viên, bẻ cong ngòi bút, viết xuống những điều trái với lương tâm, sự thật để được bố thí trả công bằng những nấc thang chức vị, những đồng lương tanh tưởi, nhà văn Vũ Hạnh đã gọi đó là “Bút Máu” đấy anh ơi !

Khi những quan tòa, đổi trắng thay đen, cầm cán cân công lý có chứa thủy ngân như trong truyện cổ Việt Nam, họ cũng bị “ăn cắp” nhân tính mất rồi !

Trong xã hội, toàn là “ăn cắp”, vậy thì kẻ cắp là ai? Ai cũng biết, nhưng giả vờ không biết, Vì Văn hóa “giả vờ” là đồng lõa cho xã hội ăn cắp.

Cán bộ lãnh lương 200 đô la một tháng, xây nhà chục triệu nhưng giả vờ” đó là công sức lao động tay chân, và trí tuệ, hay quà tặng của cô em “kết nghĩa”? Tôi muốn xin cô em đó cho tôi được làm “con kết nghĩa ” của cô ta quá. Thế mà có những Lãnh đạo, Ủy viên Trung Ương Đảng, Đại biểu Quốc Hội, Ban Nội Chính, Ủy Ban Điều Tra, Quan Tòa “Thiết Diện Vô Tư”, Phóng viên Lề phải, Thành Đoàn, Quân Đội Nhân Dân, Chiến sĩ Công An, Trí thức Yêu Nước, Việt Kiều Yêu Nước sẽ sẵn sàng giả vờ tin vào quà tặng của “cô em kết nghĩa” đó!

Còn có thể trong tương lai, sẽ có nhiều quan chức sẽ nhận được nhà “khủng”, quà tặng của ông anh kết nghĩa, bà chị kết nghĩa, ông bố kết nghĩa, ông cố nội kết nghĩa, khi không tìm ra con người nữa, sẽ tiếp theo con chó kết nghĩa, con trâu kết nghĩa nữa …

Công chúa mặc áo đầm hồng, ưỡn ẹo trên đôi giày cao gót hồng, đi thị sát công trường xây dựng, theo sau là một đoàn Chuyên viên già tuổi tác, thâm niên công vụ, nhưng ai nấy vui vẻ, hớn hở, giả vờ Công chúa là một Chủ tịch tài năng thiên phú, không cần đi học, không cần kinh nghiệm gì cả . Y như tên nhóc Bắc Hàn mặt búng ra sửa Ủn Ỉn, và đoàn tùy tùng Tướng già của thằng con nít đó vậy …

Toàn đảng đều “giả vờ” tin rằng các Hoàng tử, Công chúa đều là thiên tài không đợi tuổi, mặt trẻ ranh mà nhảy lên ngồi trên đầu các nhà cách mạng lão thành, và ai nấy đều “giả vờ” tán tụng khen thơm như múi mít !. Thượng bất chính, hạ tắc loạn:

“Thanh tra, thanh mẹ, thanh gì?
Hễ có phong bì thì Nó “Thank you”!

Tôi buồn lắm, có đôi khi quá tuyệt vọng, tôi tự hỏi, mình có nên quên mình là người Việt Nam như con đà điểu vùi đầu trong cát, như quả chuối ngoài vàng, trong trắng, vì tôi yêu nước Mỹ quá rồi. Nước Mỹ chưa, và có lẽ không bao giờ hoàn hảo, nhưng ở đây, ít nhất không ai có thể “ăn cắp” lương tâm, phẩm giá, và nhân tính của tôi. Tôi được sống như một “CON NGƯỜI” không phải chỉ “giả vờ ” “làm người” đang sống đâu …..

Một Ông Hồ Khác

Một Ông Hồ Khác

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, lên án nó, để vĩnh viễn không cho nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy.

Trần Đức Thảo

Bên dưới bài viết (“Giới Thiệu Đèn Cù”) của nhà báo Ngô Nhân Dụng, trên trang Dân Luận, có phản hồi này:

Khách Ngô Văn Gạch (khách viếng thăm) gửi lúc 15:09, 03/09/2014 – mã số 127424

VTV tối qua (2-9) đưa tin có ông cựu chiến binh tên là Suất ở Hà Nội sưu tầm những tư liệu về Hồ và trưng bày tại tư gia, nhiều học sinh ở các trường trung học phổ thông đến đấy tham quan coi như được giáo dục về việc học tập về tư tưởng và đạo đức của Hồ.

Giá ai có điều kiện tặng cho ông Suất một cuốn Đèn cù để bổ sung cho việc sưu tầm của ông ta thì tốt quá. Tôi quả quyết rằng nếu có cuốn đó trong nhà ông ta thì khối người bỏ tiền ra mua vé vào xem để hiểu hơn và sâu sắc về tư tưởng “đạo đức” của vị “cha già đời của dân tộc”.

“Khi con người ta bị lừa thì cái rác cũng biến thành thiêng liêng”. Dân ta đã và đang bị lừa. Hồ chính là cái rác, lại rước cái chủ nghĩa Mác Lên nin vào gieo rắc tai họa cho dân tộc trong khi cả thế giới đã vứt chủ nghiã Mác Lênin vào sọt rác rồi.

Sau vài phút lò dò trên mạng thì tôi biết thêm rằng ông cựu chiến binh này tên chính xác là Lương Minh Suốt, 67 tuổi, thương binh chống Mỹ, huy hiệu 40 năm tuổi Ðảng, thuộc chi bộ 3, đảng bộ phường Việt Hưng. Ông là người “có kho tư liệu quý về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ,” theo như ghi nhận của báo Nhân Dân – số ra ngày 31 tháng 8 năm 2014.

Ông Lương Minh Suốt cũng cho phóng viên của tờ báo này biết thêm phương cách giáo dục thiếu nhi, bằng hình ảnh:

“Ở gia đình có trẻ nhỏ chưa học chữ, thông qua hình ảnh, các cháu cũng học Bác được. Thí dụ: khi xem ảnh Bác Hồ kính cẩn nhường bát cháo cho cụ già, Bác ngồi tắm rửa cho thiếu nhi ở Việt Bắc… thì các cháu hiểu được Bác Hồ là người kính trọng người già và thương yêu trẻ nhỏ và các cháu có thể kể lại chuyện đó thông qua hình ảnh mà chúng quan sát được.”

Công khó, và lòng kính trọng của ông Suốt đối với bác Hồ khiến tôi nhớ đến một bài viết công phu (“Chủ Tịch Hồ Chí Minh Trên Bìa Tạp Chí Times”) của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Ông cũng bỏ thời gian sưu tập, đúc kết những số báo Time viết về “cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu của chúng ta” rồi chuyển dịch sang tiếng Việt Ngữ để chia sẻ với mọi người. Xin được ghi lại vài ba đoạn chính để rộng đương dư luận:

Tạp chí Time của Mỹ ra đời năm 1923. Trong hơn tám mươi lăm năm qua, đã có năm lần hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam xuất hiện trên trang bìa tạp chí này.

Lần thứ nhất chân dung Bác Hồ xuất hiện ở bìa số ra ngày 22.11.1954 với chủ đề “Hồ Chí Minh của Đông Dương”. Bài viết cho ảnh trang bìa là nói về sự kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc Việt Nam sống dưới chế độ cách mạng của chính quyền Hồ Chí Minh…

Ấn tượng về lãnh tụ Việt Minh được thể hiện qua câu chuyện sau được tác giả bài viết kể lại. Một người dân Việt Nam ở trong thành phố vừa được giải phóng nói rằng mình đã được thấy ông Hồ. “Ông ấy là tấm gương sống của một nhà cách mạng. Ông ấy có một cuộc đời riêng không thể nào chê trách được. Ông ấy ăn mặc giản dị. Ông ấy là một người thông minh. Ông ấy nói tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Trung và tiếng Việt. Ông ấy rất khéo léo: khi ông ấy nói chuyện với mọi người ông ấy nói thẳng thắn để đứa bé lên tám cũng hiểu được. Ông ấy nhẫn nại vô cùng. Ông ấy đã hy sinh cả cuộc đời riêng của mình cho cách mạng…”

Lần thứ hai chân dung Bác Hồ xuất hiện ở bìa số ra ngày 16.7.1965 với chủ đề “Việt Nam: Miền Bắc không khoan nhượng”. Đây là một năm sau ngày đế quốc Mỹ đưa máy bay ra ném bom phá hoại miền Bắc. Bài viết cho ảnh trang bìa mang đầu đề “Bắc Việt Nam: Nhà mác xít trong rừng sâu”.

Chiến tranh ngày càng lan rộng, đất nước phải đương đầu với cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới. Nhưng “Hà Nội đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh toàn thể. Hồ Chí Minh là thế, vị thánh râu dài của nước Việt Nam cộng sản, ở tuổi 75, ông là lãnh tụ phe Đỏ già nhất, từng trải nhất…

Lần thứ ba Hồ Chí Minh xuất hiện trên trang bìa của Time là trong bức ảnh chụp chung với nhà ngoại giao Shelepin ở số ra ngày 14.1.1966. Bìa số này đăng hai bức ảnh, phía trên bức này là bức ảnh chụp tổng thống Mỹ Johnson và các cố vấn đang họp bàn tại Ranch. Chủ đề của số này là “Cuộc tấn công hòa bình của Mỹ và sự đáp trả của cộng sản”.

Lần thứ tư chân dung Hồ Chí Minh lại xuất hiện trên trang bìa Time là ở số ra ngày 12.9.1969. Lúc này lãnh tụ Việt Nam vừa mất nên chủ đề của số là “Kỷ nguyên mới ở Bắc Việt Nam” cùng với bài viết cho ảnh trang bìa có tên “Di sản của Hồ Chí Minh…”

Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là dành để tạo ra một nước Việt Nam thống nhất, thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang. Ông được nhân dân cả hai miền Bắc – Nam gọi là “Bác Hồ”. Không một lãnh tụ dân tộc nào còn sống hiện nay ngoan cường đứng vững được lâu đến thế trước mũi súng kẻ thù. Sự qua đời của ông chắc chắn sẽ còn ảnh hưởng lan xa ở Bắc Việt Nam, ở châu Á và ngoài đó nữa”…

Lần thứ năm chân dung Hồ Chí Minh xuất hiện trên bìa Time là ở số ra ngày 12.5.1975, gần hai tuần sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bức ảnh mang dòng chữ “Người chiến thắng” với chủ đề là “Cái gì tiếp theo ở châu Á?”. Bài viết “Lời tạm biệt nghiệt ngã cuối cùng” bình luận về thắng lợi của nhân dân Việt Nam: “Cuối cùng Việt Cộng và Bắc Việt đã tràn vào Sài gòn, giương cao lá cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời, bắt giữ tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu của Nam Việt Nam. Đối với nhiều người Mỹ, đây là cái chết đã chờ đợi bao lâu, nhưng khi nó đến thì vẫn bị choáng váng”…

Hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh năm lần được đưa lên trang bìa của tạp chí Time, trong đó bốn lần là chân dung toàn mặt bìa, cho thấy mối quan tâm của dư luận Mỹ nói riêng, thế giới nói chung, đối với cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu của chúng ta, cũng như đối với quá trình lịch sử của nước Việt Nam hiện đại. Ngoài ra, Việt Nam còn là chủ đề xuất hiện trên nhiều số khác của Time.

Phạm Xuân Nguyên – Hà Nội 15.8.2009

Năm năm sau, vào ngày 14 tháng 9 năm 2014, thính giả của BBC lại có dịp được nghe nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên (Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội) bình luận về tác phẩm Đèn Cù của nhà văn Trần Đĩnh:

“… tôi nghĩ là những cuốn như Đèn Cù là nên có và cần có, ở những người có vị trí như tác giả Trần Đĩnh, thì những thông tin, những sự thực được nói ra nó mang tính khả tín rất cao, và nó được bảo đảm bằng thẩm quyền mà ông đã nói ra.”

“Cho nên độ xác thực, đáng tín cậy là sẽ cao, và như vậy nó cần thiết để soi rọi vào nhiều mặt, nhiều góc của lịch sử Việt Nam hiện đại.”

Tôi cũng có cái may mắn được đọc qua tác phẩm này nên vô cùng tâm đắc với quan niệm (phóng khoáng) của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Tuy nhiên, lòng vẫn không khỏi băn khoăn khi nghĩ đến hình ảnh của một ông Hồ Chí Minh chí thánh (“vị thánh râu dài của nước Việt Nam cộng sản”) qua trí “tưởng tượng” của ban biên tập báo Time và một ông Hồ hoàn toàn khác – với “những góc khuất về đời tư” và “nhân cách” – theo như cách diễn đạt của BBC:

Trong cuốn sách mới được xuất bản ở hải ngoại, tác giả Trần Đĩnh đã đề cập nhiều chi tiết được cho là có tính ‘thâm cung bí sử’ về nội bộ Đảng Cộng sản, trong đó có nhiều thông tin liên quan các ‘góc khuất’ về nhân cách, đời tư của nhiều lãnh tụ, từ ông Hồ Chí Minh, tới ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ v.v…

Về cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số thông tin trong cuốn sách gợi ý rằng ông Hồ chính là người đã cải trang ‘đeo râu’ theo dõi vụ đấu tố địa chủ đầu tiên ở Việt Nam. Và chính lãnh tụ này là người đã trực tiếp ‘viết báo kết tội đích danh’ một nữ địa chủ kháng chiến, bà Nguyễn Thị Năm, cũng như đã đả kích giai cấp địa chủ, chứ không phải là ‘vô can’, hay ‘không hề biết’ như vẫn được báo chí và lịch sử đảng Việt Nam ‘tuyên truyền’, giải thích.”

Một số chi tiết khác gợi ý cố lãnh tụ này có các mối quan hệ với một số phụ nữ, điều chưa bao giờ được các tài liệu, văn kiện, báo chí của Đảng Cộng sản Việt Nam công bố hoặc đề cập.

Khi được hỏi về tính chân thực và căn cứ của các ‘sự thực’ này, nhà văn Trần Đĩnh nói:

“Tôi sống lúc ấy thì tôi biết chứ, ví dụ như chuyện Cụ có những cái này, cái nọ thì bạn bè tôi nói, thì biết thôi. Chứ còn bây giờ nói lại thì thực là khó.

Quả là “khó” thật! Thí dụ như chuyện “ông Hồ chính là người đã “cải trang” theo dõi vụ đấu tố địa chủ đầu tiên ở Việt Nam” thì Trần Đĩnh không thấy tận mắt mà chỉ nghe nói lại nên độ khả tín, tất nhiên, phải có phần giới hạn.

Nhưng việc ông Hồ Chí Minh “chính là người đã trực tiếp ‘viết báo kết tội đích danh’ một nữ địa chủ kháng chiến, bà Nguyễn Thị Năm (trên báo Nhân Dân số ra ngày 21 tháng 7 năm 1953) thì đã được kiểm chứng và trở thành một sự kiện hiển nhiên, vô phương chối bỏ.

Bài (“Địa Chủ Ác Ghê”) vỏn vẹn chỉ có 487 chữ (tính luôn cả tựa)  nhưng lột tả được chân dung đích thực nhà cách mạng Hồ Chí Minh rõ hơn 5 bài viết về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chủ Tịch – trải dài từ năm 1954 đến 1975 – trên tuần báo Time. Bài báo này cũng làm “nhạt phai” ý nghĩa của (chừng) năm trăm ngàn bài báo khác – tràn ngập trên hệ thống báo chí của Đảng và Nhà Nước, gần hai phần ba thế kỷ qua – về tấm gương đạo đức của bác Hồ.

Thời gian đã hé lộ ra một ông Hồ khác. Và tôi mong ước cũng sẽ có lúc nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên bỏ công sưu tập để chia sẻ  với độc giả về một ông Hồ mới này.

Đây là một ước mong hết sức chân thành và khẩn thiết. Hoạ cộng sản rồi cũng sẽ qua thôi nhưng dân Việt vẫn còn phải sống lâu với di sản Marx, cũng như di sản của Hồ Chí Minh. Nếu những di sản này được “xử lý” một cách đúng đắn thì di hoạ, chắc chắn, sẽ giảm thiểu được rất nhiều.

CẦU NGUYỆN LÀ GÌ VÀ CẦU NGUYỆN CÁCH NÀO CHO ĐƯỢC ĐẸP LÒNG CHÚA ?

CẦU NGUYỆN LÀ GÌ VÀ CẦU NGUYỆN CÁCH NÀO CHO ĐƯỢC ĐẸP LÒNG CHÚA ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Đây là câu hỏi cần được trả lời dưới ánh sáng của đức tin lành mạnh.

Đúng thế,  trước hết phải nói lại rằng cầu nguyện  là một nhu cầu tối thiết , không thể thiếu được trong  đời sống của người tín hữu nói riêng và của  Giáo Hội nói chung, vì chỉ có cầu nguyện mới đem ta lại gần Thiên Chúa, là Cha nhân từ  đầy yêu thương và muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. ( 1Tm 2: 4)

Hơn thế nữa, cầu nguyện cũng để nói lên niềm tin có Chúa là Cha nhân từ, luôn lắng nghe mọi lời  con cái  loài người cầu xin và rộng lòng ban ơn cứu giúp, mặc dù không ai có công trạng hay xứng đáng khiến Chúa phải ban ơn đền bù. .Do đó, dù không xem thấy Chúa  bắng con mắt trần tục , nhưng càng siêng năng cầu nguyện thì  càng gia tăng niềm tin yêu  Chúa, yêu tha nhân và  dễ xa lánh tội lỗi, do ma quỷ xúi dục và gương xấu dịp tội đầy rẫy trong môi trường xã hội.

Trong cầu nguyện có phần cầu xin ( petition) để qua đó chúng ta  xin Chúa ban cho những ơn cần thiết hầu giúp  cho sự thăng tiến siêu nhiên và cho những nhu cầu chính đáng của thân xác như có công ăn việc làm tốt  để nuôi sống bản thân và gia đình, có sức khỏe tốt để sống và làm việc v.v

Chính vì sự cần thiết phải cầu nguyện và cầu xin mà Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ xưa  như sau:

“ Thầy lá cây nho, anh  em là cành

Ai ở lại trong Thầy

Và Thầy ở lại trong người ấy

Thì người ấy sinh nhiều hoa trái

Vì không có Thầy

Anh  em chẳng làm  gì  được.” ( Ga 15: 5)

“ Không có Thầy anh  em chẳng làm gì được” có nghiã là nếu không có ơn Chúa phù giúp thì ta chẳng làm được gì hứu ích cho phần rỗi của mình, cũng như có đủ sức để vượt qua mọi khó khăn, gian nan  thử  thách để sống vui sống khỏe trong trần thế này.

Như vậy , cầu xin Chúa cho được bình an, có công ăn việc làm tốt,  và  có sức khỏe để sống và làm việc là điều chính đáng không có gì phải chê trách.

Liên quan đến đến việc chữa lành cho khỏi bệnh tật, chúng ta nhớ ngay đến việc  Chúa Giêsu,  khi đi rao giảng Tin Mừng cứu độ,  cũng đã chữa lành cho biết bao người phong cùi, câm điếc, mù què và bị quỷ ám, cũng như làm phép lạ để hóa bánh và cá ra nhiều cho hàng ngàn người đói ăn no nê. Chúa chữa lành  cho  các bệnh  nhân  nan y  để nói lên Người là Thiên Chúa và có thể làm những việc con người không thể làm được  như chữa lành cho những người đui mù, câm điếc và phong cùi,  là những bệnh nan y mà ngày nay  y khoa tân tiến cũng phải bó tay, nói chi cách nay trên 2000 năm. Chúa chữa cho họ được lành  cũng để nói lên lòng thương xót, cảm thông nỗi đau khổ của những người kém may mắn đó.

Tuy nhiên, mục đích của Chúa đến trần gian không phải chỉ để chữa lành cho thân xác con người mà chủ yếu là để chữa lành cho tâm hồn của cả nhân loại đang  bị vi trùng tội lỗi đục phá và đe dọa cho sự sống của linh hồn. Và đây chính là lý do  khiến Chúa Giêsu  đã hạ mình từ trời cao xuống trần gian làm Con Người  để hy sinh mạng sống mình làm giá chuộc  cho muôn người . ( Mt 20: 28)

Đó là lý do tại sao  Chúa đã không gọi và gom  tất cả những ai bị bệnh tật trong thân xác đến để chữa lành  hết cho họ mà chỉ chữa tượng trưng cho một số  nào mà thôi, trong khi Người dành phần lớn thì giờ  trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng Cứu độ để  kêu gọi mọi người hãy  “ sàm hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1 : 15)   và  hãy đi  qua cửa hẹp mà vào vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến giệt vong mà nhiều người  lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật  thì đưa đến sự sống , nhưng ít người tìm được lối ấy. ( Mt 7 : 13-14)

“ Vào qua cửa  hẹp và đường chật ” có nghĩa là phải khép mình chống lại những khuynh hướng xấu còn tồn tại trong bản năng để  yêu mến Chúa trên hết mọi sự và xa tránh tội lỗi vì chỉ có tội mới có thể  làm cho con người phải chết đời đời,  vì  xa cách Thiên Chúa là nguồn an vui , hạnh phúc vĩnh cửu.

Do đó, chúng ta cần ơn Chúa để thực thi những gì Người đã rao giảng hầu được cứu độ như lòng Chúa mong muốn. Như thế, cầu nguyện là nhu cầu tốt cần thiết cho mọi người tín hữu muốn thêm lòng yêu mến Chúa và có đủ sức để sống đức tin , đức cậy và đức mến cách nồng nàn  bao lâu còn sống trên trần gian này. Và như đã nói ở trên, cầu xin là một phần  quan trọng của cầu nguyện. Nhưng khi cầu xin Chúa ban cho bất cứ ơn gì thì chúng ta phải noi gương Chúa Kitô, khi Người cầu xin cùng Chúa Cha trước giờ bị trao nộp và tử nạn như sau:

Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin cho Con khỏi uống chén này.Tuy vậy, đừng làm

Theo ý con, mà xin theo ý Cha. ( Lc 22: 42; Mt 26 : 39; Mc 14: 36)

Mặt khác, Chúa Giêsu cũng dạy các Tông Đồ xưa và tất cả chúng ta ngày nay  phải cầu xin Chúa Cha  nhân danh Chúa Con như sau :

Thật Thầy bảo thật anh  em: anh  em mà xin Chúa Cha điều gì

Thì Người sẽ ban cho anh  em nhân danh Thầy. “ ( Ga 16: 23)

Như thế, cầu nguyện và cầu xin theo  ý Chúa Cha,  nhân danh Chúa Con  là cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa Cha  và chắc chắn được  Người ban  ơn  cho ta. Tuy nhiên, khi cầu xin bất cứ ơn gì, ta  phải tránh hai thái cực sau đây:

1- Trông cậy Chúa cách thái quá hay mù quáng.

Thí dụ  như không thận trọng lái xe mà cứ  tin có Chúa  che chở  để  lơ là khiến xẩy ra tai nạn. Xin Chúa gìn giữ  che chở khi đi đường  là  điều  tốt , nhưng về phần mình  vẫn  phải cố gắng  lái xe  cho cẩn thận,  tuân giữ luật lưu thông  để tránh tai nạn cho mình và cho người khác. Cũng vậy, không thể trông cậy có Chúa che chở  để  không đóng cửa nhà hay khóa xe  cẩn thận  khiến kẻ gian có thể đột nhập  ăn trộm và giết hại chủ nhà. Đặc biệt, khi đau ốm thì phải tìm thầy  thuốc,  và uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ ,  vì  chính qua các phương tiện con người này,  mà Chúa ban ơn  cho  bệnh nhân cầu xin cho được  lành khỏe. Như thế, ai đau yếu mà chỉ cầu xin cho được khỏe  mà không dùng những phương tiện cần thiết sẵn có  như thuốc men theo  y  khoa  thì  đó là trông cậy  Chúa cách mù quáng chứ không phải là sống đức tin, đức cây cách trưởng thành và  vững chắc..

Đây chính là tội mà tên quỷ đã càm dỗ Chúa Giêsu khi Người ăn chay trong rừng vắng.

Quỷ đã đưa Chúa lên một nơi cao và nói với Chúa : “ Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy đứng đây mà gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại : Đã có lời chép rằng : ngươi chớ thử thách Đức Chúa, là Thiên Chúa của ngươi. ( Mt 4 : 5-7;  Lc 4 : 12)

Như  vậy,  rõ ràng cho thấy là không được cầu xin và cậy trông Chúa mà không làm gì về  phần mình để công tác với ơn Chúa. Nghĩa là không thể khoán trắng cho Chúa làm hết mọi sự cho mình, mặc dù Chúa có  thể làm hết, nhưng Chúa vẫn  muốn ta phải  tỏ thiện chí và làm hết sức mình trong niềm cậy trông ơn Chúa phù giúp thì đó mới là trông cậy Chúa cách đẹp lòng Người để  đáng được  nhậm lời  ta cầu xin.. Nói rộng thêm nữa , công nghiệp của Chúa Kitô là quá đủ cho con người được cứu rỗi, nhưng nếu ai ỷ lại vào đây để cứ phạm tội, cứ sống theo thể gian và xác thịt thì chắc chắn Chúa không thể cứu người ấy được,  như Chúa đã nói rõ với các môn đệ Người  xưa kia như sau :

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa, lậy Chúa là được vào Nước Trời       cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời mới được vào mà thôi. ( Mt 7: 21)

Sau nữa, cũng cần nói thêm là  ta không được trông cậy để cầu xin những ơn không cần thiết, không chính đáng và thiếu bác ái như :  xin cho có sức mạnh để hạ đo ván đối thủ trên võ  đài,   xin cho mình được buôn bán phát đạt, mặc dù hàng hóa của mình có nhiều món làm giả mạo , hay  thực  phẩm  mình  bán có pha chế chất độc hai  cho sức khỏe của thực  khách, hoặc xin cho   được  trúng số,  trúng “ cá độ” để  có nhiều tiền của danh vọng ở đời.   Đây  là những  nhu cầu  bất chính của lòng tham vô đáy,  thiếu bác ái và lương tâm ngay chính. Cần nói  lại là đấu võ ( boxing) là một trò chơi nguy hiểm mà Giáo Hội lên án vì có phương hại cho sự sống của mình và của người khác. Chúa sẽ không bao giờ ban những ơn không có ích cho phần hồn và phần xác của ai, cho dù người ta có  xin và trông cậy đến đâu thì cũng vô ích mà thôi.

2- Thiếu trông cậy khi cầu xin:

Ngược lại, nếu ta cầu xin Chúa điều gì mà không thực  sự  có lòng trông cậy thì cũng không đẹp lòng Chúa  vì  thiếu lòng trông cậy có nghĩa là thiếu tin tưởng vào lòng nhân hậu và cảm thông  của Chúa cho những nhu cầu chính đáng về  phần rỗi của linh hồn và cho một đời sống xứng hợp với nhân phẩm như có của ăn, áo mặc, nhà ở,  sức khỏe và bình an để sống và làm việc.

Tóm lại, cầu nguyện và cầu xin là nhu cầu tối cần cho mọi người tín hữu chúng ta, vì ta rất cần ơn Chúa để sống đức tin và sống xứng đáng  thân phận con người trong trần thế này. Nhưng khi cầu xin bất cứ ơn gì, – mà phải là ơn thực sự cần thiết cho hồn xác của mình hay cho người khác –   ta phải tránh hai thái cực nói trên. Nghĩa là không  được  cầu xin và trông cậy cách mù quáng như ốm đau mà không  cần y khoa chữa trị  dù  sẵn có tiền bạc,   mà chỉ cầu xin Chúa “ làm phép lạ” cho khỏi bệnh.  Hoặc chỉ  trông cậy Chúa  che chở  mà không chú ý lái xe khiến gây tai  nạn cho mình và cho người khác.. Hay  không chịu khó  học hành mà chỉ cầu xin cho được điểm cao và  thi đậu. Chúa không bao giờ “ làm phép lạ” cho những ai trông cậy cách mù quáng  như vậy.

Ước mong giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi được đặt  ra.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

Những Thần Đồng Gốc Việt Nổi Tiếng

Những Thần Đồng Gốc Việt Nổi Tiếng

James H. Nguyễn – Chàng trai tốt nghiệp cao đẳng hạng danh dự năm 14 tuổi
James H Nguyen

James H. Nguyễn, hiện nay đã 28 tuổi, đang là bác sỹ chuyên khoa tim tại bệnh viện University Medical Center (UMC). Anh sẽ được khắc tên vào Bảng Vàng Danh dự Đại học Santa Ana năm 2011.
H. Nguyễn đã tốt nghiệp hạng danh dự với bằng cao đẳng môn sinh vật học năm 1998 khi chỉ mới 14 tuổi.
James H. Nguyễn lên đại học University of California, Irvine, năm 14 tuổi và mỗi học kỳ anh đều lọt vào danh sách sinh viên xuất sắc. Từ năm 2000-2002 và cho đến khi được nhận vào trường Đại học y St. George’s, anh làm phụ giảng môn sinh lý học tại Đại học Santa Ana.
Năm 2009, bác sỹ gốc Việt này vượt qua 420 thuyết trình viên đến từ những bệnh viện hàng đầu của Mỹ như Mayo Clinic và Walter Reed Army Medical Center, giành quán quân (National American College of Physicians Champion) với nghiên cứu so sánh phương pháp chụp quang tuyến đa chiều với phương pháp thử nghiệm gắng sức trên bệnh nhân đau ngực với mức nguy hiểm thấp.

ntkhANGNguyễn Tường Khang, cậu bé được mời thỉnh giảng tại trường đại học ở tuổi 12

Nguyễn Tường Khang sinh ngày 31.2.1999, là một học sinh lớp 6 của trường tiểu học Hunters Woods ở Fairfax. Năm lên 8 tuổi, cậu bé được bố ghi danh cho học về diễn thuyết trước công chúng tại Câu lạc bộ những diễn giả trẻ (YSC).
Tại cuộc thi tài năng diễn thuyết tổ chức vào năm 2010 với chủ đề giáo dục dành cho lứa tuổi từ 11-19, do Hiệp Hội Thăng Tiến cho Người Da Màu bảo trợ và được tổ chức tại thành phố Suffolk (Virginia). Nguyễn Tường Khang đã lọt vào top 4 trong vòng chung kết và xuất sắc trở thành người chiến thắng, với bài thuyết trình “Hòa bình có ý nghĩa thế nào với tôi.”
Tuy nhiên cậu bé lại nổi danh nhất với bài hùng biện về giáo dục. Những ý tưởng của Tường Khang được coi là đánh giá bổ sung vào bài phát biểu về giáo dục của Tổng thống Obama, đồng thời truyền đạt cho các bậc phụ huynh nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của giáo dục.

Tường Khang cùng các thí sinh trong cuộc thi hùng biện.

Cậu bé gốc Việt Nguyễn Tường Khang, 12 tuổi, vừa được trường đại học ở bang Virginia mời làm giáo viên thỉnh giảng, thuyết giảng môn thuyết trình mỗi tuần 4 giờ.
Thông tin về thần đồng nhí gốc Việt này đang được lan truyền với tốc độ cực nhanh trên trang chia sẻ Youtube trong những ngày gần đây. Được biết, với mỗi giờ thuyết giảng, Khang được trả 250 USD.
Bên cạnh việc học hùng biện, thần đồng 12 tuổi này còn biết chơi đàn violon, cờ vua và đặc biệt rất giỏi võ, sắp lên đai đen Thái cực đạo và đai xanh của Wushu. Năm 7 tuổi, Khang từng dự thi bơi lội Swim-a-thon để gây quỹ. Cậu bé cũng đang theo học tiếng Việt tại trường Việt ngữ Thăng Long.

Nam Nguyễn – 12 tuổi và danh hiệu vô địch trượt băng nghệ thuật Canada

nam nguyen
Nam Nguyễn được Canada ca tụng là thần đồng và niềm hy vọng đoạt huy chương ở Thế vận hội mùa Đông 2018 của làng trượt băng nghệ thuật nam Canada.
Nam Nguyễn đã đoạt danh hiệu vô địch Canada đầu tiên dành cho lứa tuổi nhi đồng vào năm 2007 khi mới 8 tuổi. Hai năm sau đó, Nam Nguyễn ẵm tiếp hai giải dành cho lứa tuổi lớn hơn trong khuôn khổ giải vô địch trượt băng nghệ thuật Canada là Pre-Novice rồi Novice. Đây là vận động viên nam trẻ tuổi nhất ở Canada giành được danh hiệu vô địch ba năm liên tiếp.


Đất nước Canada đang bị cuốn hút theo từng vũ điệu của đôi chân Nam Nguyễn.
Nam Nguyễn sinh ngày 20/5/1998 tại Ottawa, Canada.
Ngày 20/1/2011 tại Giải vô địch trẻ quốc gia Canada tổ chức tại Victoria, British Columbia, Nam Nguyễn đã trở thành nam vận động viên Canada trẻ nhất từ trước đến nay đoạt danh hiệu vô địch ở tuổi 12.
Cùng với những thành tích ở các giải đấu, Nam còn được mệnh danh là nghệ sỹ biểu diễn trượt băng nghệ thuật chỉ 35kg nhưng dạn dĩ và thu hút nhất trên sân băng. Nam Nguyễn đã từng biểu diễn chung với những vận động viên tầm cỡ thế giới như Even Lysacek – Vận động viên Mỹ đạt huy chương vàng Olympic 2010, vô địch thế giới 2009; Patrick Chan – Vận động viên 3 lần vô địch Canada.

Đinh Đình Hải Hoàng – Huy chương vàng Karate quốc tế lứa tuổi 13
Sinh năm 1995, cậu bé Đinh Đình Hải Hoàng ở bang Mecklenburg, Đức, đã giành được huy chương vàng karate quốc gia khi mới 8 tuổi. Năm 2007, Hoàng giành huy chương vàng karate thế giới dành cho lứa tuổi U13. Năm 2009 cậu giành huy chương bạc karate thế giới U15.

Chàng trai vàng của thể thao nước Đức.

Sau nhiều lần kiểm tra sát hạch, Hải Hoàng được cấp chứng chỉ đai đen khi tròn 13 tuổi. Hải Hoàng được công nhận là huấn luyện viên karate trẻ nhất Đức.
Thành tích của Hải Hoàng khiến cậu được nhiều báo Đức đưa tin. Hình ảnh của cậu cũng được in trong danh sách các võ sỹ trẻ tài năng và có nhiều triển vọng. Hoàng đang học lớp 9 và là thành viên của đội tuyển quốc gia Đức. 

Wendy Võ – thần đồng âm nhạc thông thạo 11 ngôn ngữ

wendy vo

Bé Wendy Võ được mọi người gọi là thần đồng bởi bé đã biết tự soạn nhạc cho riêng mình từ năm lên 6 tuổi. Tới nay bé đã soạn được hơn 40 bản nhạc. Bé cũng đã được mời làm hội viên danh dự trẻ tuổi nhất của hội nhạc sỹ, tác giả và xuất bản nhạc của Hoa Kỳ vào năm 2007.
Bé Wendy Võ tên tiếng Việt là Võ Thị Ngọc Diễm, bé sinh năm 1999 tại Charlotte, bang North Carolina.
Ngoài năng khiếu bẩm sinh về âm nhạc, bé Wendy rất thích học ngoại ngữ và có thể nói lưu loát được 11 ngôn ngữ khác nhau như Anh, Pháp, Nhật, Bồ Đào Nha, Nga…
Bé Wendy được tạp chí Forbes bình chọn là một trong 10 thiếu niên kiểu mẫu vào năm 2008. Theo Forbes, những thiếu niên được chọn trong danh sách các nhân vật kiểu mẫu của họ ở độ tuổi từ 8-18. Đó là những cá nhân chăm chỉ, có tính cống hiến, và không chỉ làm điều gì đó chỉ để thu hút sự quan tâm của báo chí hay tìm kiếm danh lợi mà họ được thôi thúc bởi những động lực mạnh mẽ hơn.

Jacquelyn Ngô – họa sỹ thiên tài tí hon của châu Úc

hoa si

Ông Stven Alderton, giám đốc Trung Tâm Mỹ Thuật Casula Powerhouse cho biết: ”Tôi nghĩ là các bức tranh nhỏ có thể bán với giá hàng trăm USD trong khi các bức tranh lớn có thể bán với giá hàng nghìn đôla.” Đó chính là những lời đánh giá cho tài năng của Jacquelyn, một cô bé người Australia gốc Việt.

Tác phẩm của Jacquelyn Ngô đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều chuyên gia hội họa.
Jacquelyn đã từng đoạt giải thưởng Hội họa dành cho nhi đồng của thành phố Liverpool. Các tác phẩm của thần đồng này sẽ được trưng bày tại phòng triển lãm của hội đồng thành phố Liverpool cùng các tác phẩm sơn dầu của 29 họa sỹ nhí nổi tiếng khác.
Các chuyên gia tin rằng Jacquelyn sẽ có một tương lai hứa hẹn và có thể đoạt các giải thưởng hội họa lớn Archibald hay Moran của Australia.
Trúc Linh (BizLive)

HÃY THẮP LÊN … MỘT QUE DIÊM


HÃY THẮP LÊN … MỘT QUE DIÊM

Một bữa tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng – ông John Keller, được mời thuyết trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói :
– Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông John Keller nói tiếp :
– Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô to “Đã thấy !”.
Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên: “Đã thấy !”.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích :
– Ánh sáng của một hành động nhân ái .. dù nhỏ bé như một que diêm .. cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại .. y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại được tắt. Một giọng nói vang lên :
– Tất cả những ai ở đây .. có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên !    Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
Ông John Keller kết luận :
– Tất cả chúng ta cùng hợp lực nhau .. có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù .. bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không chỉ là .. môi trường sống vắng bóng của chiến tranh. Hòa bình không chỉ là .. cuộc sống chung không tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi .. con người giết hại nhau .. mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau .. mà không cần chiến tranh.
Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình .. là tăng thêm thật nhiều .. những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại.
Những hành động yêu thương .. xuất phát từ lòng nhân hậu .. sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm.
Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên .. những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương .. sẽ có đủ sức mạnh để xua tan bóng tối của những đau khổ và cái ác.

S.T.

Các tượng đài XHCN dần dần bị sụp đổ

Các tượng đài XHCN dần dần bị sụp đổ

basam.info

GS Nguyễn Văn Tuấn

19-09-2014

Đọc trên RFI thấy có tin chính quyền Hungary đã quyết định hạ tượng Karl Marx ở khuôn viên đại học Corvinus (1). Thế là sau 25 năm sau ngày XHCN suy sụp, bức tượng của ông tổ XHCN bị hạ bệ theo cái chủ thuyết của ông luôn. Thật ra, không chỉ Marx, các tượng đài của những người cộng sản “tay tổ” như Lenin, Stalin đều đã bị hạ từ lâu.

Năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đỗ một thời gian, hàng ngàn người tụ tập ở quảng trường Dushanbe (thủ đô của Tajikistan), và họ kéo sập tượng Lenin. Có người còn cực đoan đến đập sao cho đầu của tượng bị văng ra khỏi thân.

Cách đây không lâu, người dân Ukraina quyết định hạ tượng của Lenin, nhưng cách họ làm rất ư là bạo lực. Họ dùng xe cần cẩu kéo sập tượng. Khi tượng bị ngã, người dân tức giận không chịu tha mà còn lấy búa đập bức tượng.

Năm 2012, Mông cổ cũng quyết định hạ tượng Lenin (3). Lí do hạ bệ Lenin là vì, theo ông Thị Trưởng Bat-Uul Erdene, ông là người đề xướng cái chủ nghĩa đã giết chết gần 100 triệu người trên thế giới. Chẳng biết ông lấy con số này ở đâu, nhưng ông nói trước công chúng như thế. Bức tượng Lenin được đem đi đấu giá, với cái giá khởi điểm chỉ 300 USD! Sau Mông Cổ là Ukraina cũng giật sập tượng Lenin ở thành phố Kiev vào cuối năm 2013 (4).

Không chỉ giật sập tượng, nhiều nước Đông Âu và vùng Baltic còn cấm những biểu tượng cộng sản như búa liềm, ngôi sao năm cạnh. Các biểu tượng đó cùng với huy hiệu SS được xem là biểu tượng của chế độ độc tài vì Hungary có luật cấm trưng bày những biểu tượng ở nơi công cộng (5). Sau Hungary, Ba Lan cũng cấm các biểu tượng cộng sản.

Ở vài nơi, người cộng sản có thói quen đổi tên thành phố khi cách mạng của họ thành công. Trước đây, họ đổi tên thành phố Saint Petersburg thành tên của Lenin (Leningrad). Nhưng cái gì của Cesar phải trả về cho ổng: Năm 1991, chính quyền Nga đã quyết định xoá tên thành phố Leningrad và trả lại cái tên cũ là Saint Petersburg.

Điều trớ trêu là tượng đài của những người như Lenin, Stalin, Marx vẫn còn có hàng triệu người tôn sùng ở Á châu, dù những kẻ tôn sùng chẳng có liên quan văn hoá hay dân tộc gì với họ.

—-

(1) http://vi.rfi.fr/quoc-te/20140918-hungary-ha-be-tuong-cac-mac/

(2) http://articles.baltimoresun.com/2003-04-13/news/0304130226_1_lenin-large-statue-saddam-hussein

(3) http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2012/10/121015_mongolia_lenin_legacy.shtml

(4) http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%ADt_s%E1%BA%ADp_t%C6%B0%E1%BB%A3ng_Lenin_%E1%BB%9F_Kiev

(5) http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3403

Nguồn: FB Nguyen Tuan

Biết ơn Lenin?

GS Nguyễn Văn Tuấn

12-12-2013

Bình luận về sự kiện dân Ukraina giật sập tượng Lenin một vị giáo sư sử học ở Việt Nam cho rằng đó là một hành động vô văn hoá. Ông còn nói thêm rằng người dân Việt Nam trân trọng và biết ơn Lenin vì ông ấy “đại diện cho ‘ý tưởng xây dựng xã hội tốt đẹp’ vốn là điều ‘cả thế giới mong muốn’.” Tôi cứ phân vân về hai ý này, vì nó không đúng với thực tế.

Câu làm tôi phân vân là người Việt Nam trân trọng và biết ơn Lenin. Đúng là có một số người mang dòng máu Việt mang ơn Lenin, không hẳn vì lí tưởng chủ nghĩa xã hội, mà vì lí do thực tế và “trần ai” khác. Những người trong đảng thì chắc là biết ơn ông Lenin. Đảng thì có trên 2 triệu người, cộng với thân nhân nữa thì chắc xấp xỉ 10 triệu người. Dân số Việt Nam là 90 triệu (tính chẵn) và đa số nghèo và chắc chẳng cần biết ông Lenin là ai cũng như chẳng có mang ơn gì ông ấy. Người Việt ở hải ngoại thì chắc chắn ghét ông ấy. Những người đau khổ vì những chính sách mang màu sắc đấu tranh giai cấp của ông ấy cũng chẳng muốn thấy tượng ông ấy ở VN. Như vậy, có thể ước tính rằng cứ 1 người biết ơn Lenin thì có khoảng 9 người không biết đến ông Lenin. Do đó, cụm từ “Người dân Việt Nam” e rằng quá cường điệu.

Còn nói rằng cả thế giới mong muốn lí tưởng XHCN theo kiểu đấu tranh giai cấp và định hướng CNCS thì tôi nghĩ chắc là đoán mò thôi. Cái chủ nghĩa đó đã dần dần hết đất sống, đã mất sức sống, đã gây ra bao nhiêu thảm hoạ cho thế giới và Việt Nam. Tôi nghĩ nếu làm thử một điều tra xã hội thì sẽ biết số người ủng bộ CHXH chẳng bao nhiêu đâu. Bên Âu châu dù có nơi vẫn có màu sắc XHCN, nhưng nói chung ai cũng nghi ngờ cái chủ nghĩa đó. Người ta có nghị quyết lên án chủ nghĩa cộng sản nữa. Bên Đông Âu, những nước theo XHCN cũ nay cấm không có các biểu tượng của CNCS (như cờ búa liềm chẳng hạn) xuất hiện nơi công cộng. Nhưng tôi đoán là chắc người dân có thể trưng bày mấy biểu tượng đó ở nhà (?)

Tôi có phần đồng ý là việc giật sập tượng là một hành động không đẹp, xét về mặt văn hoá. Nếu phán xét như vậy thì chúng ta cũng có thể nói người Việt cũng nhiều lần hành xử kém văn hoá. Sau năm 1975, biết bao nhiêu tượng của các nhân vật thời trước 1975 bị giật sập và phá tan hoang. Đường xá thì bị thay tên đổi họ. Những con đường mang tên các danh nhân lịch sử đới Trần, Lý, Lê, Đinh, v.v. vốn là di sản chung của dân tộc cũng bị nhường cho những người du kích và những người từng tham gia cách mạng. Những con đường mang tên lí tưởng đẹp và phổ quát (như Công Lí, Tự Do) đều bị thay bằng tên của những sự kiện mà không bao nhiêu người công nhận. Do đó, trách người Ukraina là “manh động” và kém văn hoá có lẽ không công bằng khi chính những người gắn bó với cái chủ nghĩa đó lại từng làm như thế.

Nguồn: FB Nguyen Tuan

Albania, điển hình của hòa hợp liên tôn

Albania, đin hình ca hòa hp liên tôn

Vũ Văn An

9/21/2014

Theo hãng tin AFP, cuộc du hành một ngày qua Albania của Đức Phanxicô hôm nay, 21 tháng Chín, nhằm đề cao nước này như một kiểu mẫu của hoà hợp liên tôn, giữa lúc ở Trung Đông đang có rối loạn và tại Âu Châu làn sóng bất khoan dung đang dâng cao.

Mặc dù Tòa Thánh lên tiếng ủng hộ các cuộc không kích của Hoa Kỳ tại Iraq để bảo vệ các Kitô hữu bị bách hại, Đức Phanxicô vẫn cố gắng lấy cuộc đối thoại giữa các tôn giáo làm “hòn đá góc” của triều giáo hoàng của ngài và luôn ra sức phản công lời kêu gọi sử dụng vũ lực bằng công thức hòa bình. Albania xiết chặt an ninh trước khi ngài tới, nâng báo động cảnh sát lên mức cao nhất và huy động cả lực lượng đặc biệt trên khắp xứ sở vì những lời cảnh báo cho rằng Nhà Nước Hồi Giáo Trị có kế hoạch tấn công nhà lãnh đạo Công Giáo này.

Cờ vàng trắng của Vatican bay phấp phới trên các lộ chính của Thủ Đô Tirana bên cạnh cờ đỏ với chim đại bàng hai đầu mầu đen của Albania, trong khi các chân dung lớn của các linh mục và nữ tu Công Giáo bị bách hại dưới thời Cộng Sản được giăng qua các phố. Cuộc du hành này sẽ là cuộc chạy đua 11 giờ trong đó, Đức Thánh Cha sẽ gặp Tổng Thống Albania là Bujar Nishani, cử hành thánh lễ tại Công Trường Mẹ Têrêxa ở Tirana, ăn trưa với các giám mục, chuyện trò với các nhà lãnh đạo tôn giáo và viếng thăm các cô nhi.

Đức Phanxicô trước đây từng cho biết ngài chọn xứ nghèo vùng Balkan này làm nơi đầu tiên ở Âu Châu để viếng thăm, thay vì một trong những xứ hùng cường khác, vì đây là một điển hình về một lãnh thổ nơi các tôn giáo thông thường hay đấu tranh với nhau ở nơi khác nhưng ở đây đã chung sống với nhau rất thành công.

Các chứng nhân của đức tin

Tháng Tám vừa qua, Đức Phanxicô cho biết: Albania đã thành công trong việc tạo ra một “chính phủ đoàn kết quốc gia gồm người Hồi Giáo, Chính Thống Giáo và Công Giáo, với một hội đồng liên tôn rất có ích và cân bằng” và nói thêm: sự hiện diện của ngài “sẽ là một cách nói với mọi người rằng: qúy vị xem, tất cả chúng ta đều có thể làm việc với nhau!”

Cuộc gặp gỡ kín cửa cao tường của ngài với các vị đứng đầu các cộng đồng tôn giáo khác sẽ bao gồm người Hồi Giáo, Chính Thống Giáo, Bektashi, Do Thái Giáo và Thệ Phản. Nhà lãnh đạo của 1.2 tỷ người Công Giáo thế giới muốn vinh danh những người từng chịu đau khổ dưới thời nhà độc tài Enver Hoxha, người, năm 1967, từng tuyên bố Albania là quốc gia cộng sản đầu tiên, và dưới thời ông ta cai trị, các linh mục và giáo sĩ Hồi Giáo đã bị bách hại và các nơi thánh bị san bằng.

Theo Đức Phanxicô, giữa các năm 1945 và 1985, 111 linh mục, 10 chủng sinh và 7 giám mục đã chết trong lúc bị giam giữ hay bị xử tử; gần 2,000 nhà thờ Chính Thống Giáo và Công Giáo bị tiêu hủy hay biến thành rạp hát, nhà hát và vũ trường. Ngài cho biết sự tái sinh đức tin Công Giáo sau cuộc bách hại ấy đã biến Albania thành một nơi “tôi cảm thấy nên tới thăm”.

Việc hồi sinh Đạo Công Giáo một phần nhờ Mẹ Têrêxa, là người đã sinh ra tại nơi nay là Macedonia nhưng có gốc Albania. Tại một xứ sở với dân số trẻ trung nhất Âu Châu, Tòa Thánh hy vọng sẽ tạo được một nguồn suối cho người tân tòng trên một lục địa đang bị chủ nghĩa duy tục kềm kẹp.

Đây sẽ là cuộc viếng thăm lần thứ hai của một vị giáo hoàng. Đức GH Gioan Phaolô II từng viếng thăm xứ này một năm sau ngày chủ nghĩa Cộng Sản sụp đổ năm 1992. Trong cuộc viếng thăm ấy, Đức Gioan Phaolô II đề cao các “chứng nhân của đức tin” và đã bổ nhiệm 4 tân giám mục trong đó có Đức Cha Michel Koliqi, lúc ấy đã 91 tuổi, người từng bị giam 21 năm.

An ninh chặt chẽ

Nước với 3 triệu dân này chắc chắn chờ mong được vị giáo hoàng nổi tiếng hỗ trợ trong cố gắng trở thành hội viên của Liên Hiệp Âu Châu.

Don Giergi Meta, phát ngôn viên của Giáo Hội Albania, nói với Đài Phát Thanh Vatican rằng “đây là một dấu hiệu mạnh mẽ và là một khích lệ để đẩy mạnh cố gắng của chúng tôi được hòa nhập vào Âu Châu”. Tòa Thánh vốn nhấn mạnh rằng mình không muốn gia tăng việc an ninh cho chuyến đi, nhưng bộ nội vụ Albania cho biết cảnh sát đã thiết lập 29 trạm kiểm soát tại trung tâm Tirana, nơi phần lớn các sinh hoạt của Đức Giáo Hoàng được dự trù, kể cả tại Công Trường Mẹ Têrêxa.

Một số quan sát viên Vatican sợ rằng Đức Phanxicô tự biến mình thành một mục tiêu khi lên tiếng chống lại tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo Trị. Nhưng vị giáo hoàng người Á Căn Đình này, người không muốn gì khác ngoài việc được trà trộn vào đám đông, sẽ vẫn chỉ sử dụng chiếc xe mui trần mà ngài quen dùng ở Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô.

Bất chấp là một nước nghèo nhất của Âu Châu, tháng rồi, Albania bắt đầu gửi vũ khí và đạn dược cho các lực lượng Kurd để họ đánh trả các chiến binh của Hồi Giáo Trị tại Iraq, vá các nguồn an ninh trong nước đã loại bỏ các nỗi sợ sệt về một cuộc tấn công của bọn khủng bố quốc nội.

Thuận và Nghịch

Thuận và Nghịch

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Thuận và nghịch là hai trạng thái đối lập, trái ngược nhau. Trạng thái đối lập này có thể là tốt hoặc xấu, tùy trường hợp. Có những trường hợp thuận mà lại nghịch, gọi là thuận-lý-nghịch; có những trường hợp nghịch mà lại thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.

Trong toán học có tỷ lệ thuận và nghịch. Nếu biết cặp giá trị tương ứng của hai đại lượng tỷ lệ thuận và một giá trị khác của đại lượng này, ta có thể tìm được giá trị tương ứng của đại lượng kia. Toán học cũng có quy tắc tam xuất đơn thuận và nghịch. Quy tắc tam xuất đơn thuận: Nếu A tăng N lần, B cũng tăng N lần (nhân với N). Quy tắc tam xuất đơn nghịch: Nếu A tăng N lần, B sẽ giảm N lần (chia cho N).

Khi nói về “tội phạm tới Chúa Thánh Thần”, loại tội không được tha cả đời này và đời sau, Chúa Giêsu có nói điều liên quan tình trạng thuận và nghịch: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Mt 12:30; Lc 11:23).

Giữa con người với nhau cũng có sự thuận và nghịch. Ở đây không có ý nói “theo phe” hoặc “chống lại” nhau, mà chỉ có ý đơn giản và bình thường. Đó là gì? Tuy không là thù địch, nhưng vẫn có người này “hợp” với người kia hoặc “không hợp” với người nọ. Hai người “hợp” nhau thì dễ nói chuyện, dễ thông cảm, dù không cần nói gì; ngược lại, hai người “không hợp” nhau thì rất khó nói chuyện và khó thông cảm, khoảng im lặng rất ngột ngạt. Nếu đối nghịch nhau thì “chiến tranh” rất dễ bùng nổ.

Người phàm với nhau mà đối nghịch đã là nguy hiểm rồi, huống chi là đối nghịch với Thiên Chúa. Ấy thế mà ngày xưa, dân chúng đã dám nói phạm thượng: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng” (Ed 18:25). To gan và lớn mật hết sức, liều lĩnh thật, đâu kém gì Ông Bà Nguyên Tổ ngày xưa!

Thiên Chúa đặt vấn đề thẳng thắn: “Vậy hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết” (Ed 18:26-28). Ngài cũng đang chất vấn chúng ta như vậy, chắc hẳn chúng ta chẳng thể nói được nửa lời. Cái chết là thất bại lớn nhất của nhân loại, chính tội lỗi khiến chúng ta phải chết (Rm 5:12; Rm 5:21), chứ Thiên Chúa tốt lành không bắt chúng ta chết.

Dù chỉ là bụi đất (St 3:19), chẳng đáng chi cả, vậy mà phàm nhân chúng ta dám “chọc giận” Thiên Chúa, thậm chí còn dám phản nghịch Ngài (vì cứ phạm tội còn hơn cơm bữa). Tuy nhiên, Ngài không chấp “lũ trẻ con”, thế nên Ngài vẫn luôn nhớ đến và quan tâm (Tv 8:5), đồng thời còn kiên trì chờ đợi chúng ta hối lỗi: “Đối với các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người không xử như thế” (2 Mcb 6:14). Quả là Lòng Chúa Thương Xót quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta vẫn cứng đầu thì hết đường thoát: “Nếu các ngươi không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi của các ngươi” (Lv 26:18). Đáng sợ quá, lạy Thiên Chúa của chúng con!

Khôn sống, mống chết. Ước gì chúng ta biết khôn ngoan như tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:4-5). Cầu xin và muốn được Thiên Chúa nhậm lời thì phải biết chân thành sám hối. Đó là điều kiện có lợi cho chính chúng ta mà thôi, chứ đối với Chúa chẳng “xi-nhê” gì. Vâng, Thiên Chúa lúc nào cũng chờ đợi và luôn sẵn sàng nghe chúng ta nhận lỗi mà thân thưa: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” (Tv 25:9).

Hứa thì phải chấn chỉnh cách sống với nỗ lực hết sức, chứ không chỉ hứa suông. Chúa biết chúng ta có họ hàng với Cuội nên “lẻo mép” mà “hứa lèo” lắm. Thực sự Ngài không chấp, nhưng Ngài lưu ý là chúng ta có nỗ lực hết sức hay không. Quả thật, “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được” (Tv 130:3). Tuy nhiên, đừng “được đằng chân lân đằng đầu”, cũng đừng thấy Ngài nhân từ mà làm tới. Không khéo chúng ta lại lợi dụng lòng thương xót của Ngài đấy!

Biết sám hối chân thành là biết liên kết với Thiên Chúa. Biết mình “nghịch” thì cần chỉnh sao cho “thuận” với Ngài, càng sớm càng tốt. Thánh Phaolô khuyên: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau” (Pl 2:1-2). Sống được như vậy là “nên một” theo ý muốn của Đức Kitô (Ga 17:21-23).

Thực tế chưa được như vậy, vì thế mà chúng ta phải nỗ lực hơn. Một lần nọ, ban chấp hành của một hội đoàn Công giáo (TGP Saigon) rủ tôi ăn uống chung, chỉ là để “cho vui” thôi. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng 10 phút, tôi thấy người thì “vạch lá tìm sâu”, người thì “bới bèo ra bọ”, họ “căng thẳng” với nhau, tôi thấy bất lợi nên xin ra về. Thật đáng buồn! Bản chất con người luôn đề cao “cái tôi”, vì thế mà rất nguy hiểm, cần phải luôn cố gắng “đè nén” nó. Ngay cả khi chúng ta làm việc gì gọi là “vì Chúa”, thực ra chúng ta vẫn “vì mình” nhiều lắm, Chúa chẳng “xơ múi” gì đâu! Thánh Phaolô cũng đã từng cảnh báo: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2:3-5). Khó lắm, vì thế mà luôn phải cố gắng “chết” triền miên!

Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:6-9). Chúng ta đã nghe đi nghe lại điều này nhiều lần rồi, thế nhưng đã mấy lần chúng ta “giật mình”, hay là cứ nghe tai này rồi qua tai kia? Chúng ta tội lỗi lắm, tội với Chúa và tội với tha nhân!

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngôi Hai Thiên Chúa, Ngài có tất cả mọi sự, nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, vì thế mà Ngài xứng đáng được Thiên Chúa Cha siêu tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:10-11).

Nói tới tình trạng thuận và nghịch thì phải có hai đối tượng. Ví dụ: Đất trời có âm và dương, nam châm có âm và dương, nhân loại cũng có âm và dương (nữ và nam). Âm và dương là hai thái cực. Nhưng âm và dương là để hài hòa chứ không để đối lập nhau. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra hai con người trái ngược nhau: Dụ ngôn hai người con. Một thuận, một nghịch. Đây cũng chính là “hai con người” hoặc “hai bộ mặt” trong mỗi chúng ta.

Một hôm, các thượng tế và kỳ mục hỏi vặn Chúa Giêsu về “quyền hành”. Chúa Giêsu thản nhiên kể chuyện rằng một người cha nọ có hai con trai. Ông bảo người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng nó nói thẳng là “không đi”. Nó cãi ngay lập tức. Nhưng sau đó, nó hối hận nên lặng lẽ đi làm. Ông cũng đi bảo người con thứ hai đi làm. Nó ngoan ngoãn vâng lời ngay, nhưng rồi nó lại không đi.

Chúa Giêsu hỏi họ: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21:31a). Họ trả lời ngay: “Người thứ nhất” (Mt 21:31b). Giả sử Ngài trực tiếp hỏi chúng ta, chắc hẳn mỗi chúng ta cũng dễ dàng trả lời được như vậy. Không gì hóc búa! Và Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21:31c). Mèn ơi! Nghe chi mà “sốc” quá chừng! Nhưng đó là sự thật, rất thật. Ngài biết họ đang ngẩn ngơ như chú Tàu nghe kèn, nên Ngài giải thích luôn: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông KHÔNG TIN ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại TIN. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21:32).

 

Đức Giêsu đã xác định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy” (Ga 14:23-24). Rất rõ ràng và mạch lạc, không khó hiểu, tất nhiên không ai có thể biện minh vì bất cứ lý do nào. Chữ YÊU ngắn gọn mà bao la quá đỗi! Có khi chúng ta là người con thứ nhất, có khi chúng ta lại là người con thứ hai. Lúc thuận, lúc nghịch. Biến hóa thất thường. “Cái tôi” to lớn và hung dữ lắm, do đó phải luôn cảnh giác với nó. Thánh Phaolô cũng đã cảm thấy lo sợ: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1 Cr 9:27).

Như Thánh Gioan Tẩy Giả, ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết dẹp bỏ “cái tôi” và luôn tâm niệm: “Chúa phải LỚN lên, còn tôi phải NHỎ đi” (Ga 3:30), để Danh Chúa được tỏa sáng mọi nơi, để Nước Chúa hiển trị, và để Ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Lạy Thiên Chúa, xin “giữ gìn chúng con như thể con ngươi, xin thương che chở chúng con dưới bóng Ngài” (Tv 17:8), và xin giúp chúng con biết “thuận” với mọi người và “nghịch” với tội lỗi, để chúng con xứng đáng là con cái của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL VÀ RAPHAEL

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL VÀ RAPHAEL

Trong Kinh Thánh ít đoạn nói đến tên cùng số luợng các Tổng lãnh Thiên Thần.

Trong thư của Thánh Phaolô gửi Giáo đoàn Thessalonika (1 Thess 4, 14-16) chỉ nói đến Tổng lãnh Thiên Thần cách tổng quát không nêu tên.  Trong thư của Thánh Giuda câu thứ chín nói đến tên tổng lãnh Thiên Thần Michael.  Trong khi trong sách Daniel (10, 13) nói đến tên Tổng lãnh Thiên Thần Michael là một trong những sứ thần của Thiên Chúa.  Tên Gabriel và Raphael trong các sách Kinh Thánh chỉ là Thiên Thần thôi.

Tổng Lãnh Thiên Thần là ai và nhiệm vụ của họ là gì đối với niềm tin đạo giáo của chúng ta?

Tổng lãnh Thiên Thần là người giữ vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và con người về bằng an hạnh phúc.  Chữ Tổng lãnh theo nguyên ngữ từ tiếng Hy-lạp arche` có nghĩa là “Nguyên thủy, khởi đầu.”

Về con số và tên của Tổng lãnh Thiên Thần, dựa theo những tường thuật trong kinh thánh là con số bảy (7).  Trong sách Tobit (12, 15) Raphael là một trong bảy Thiên Thần đứng chầu trước mặt Thiên Chúa.  Trong sách Da-ca-ria (Sacharja 4, 10) nói đến bảy ngọn đèn của Thiên Chúa soi sáng trần gian. Trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan trình thuật về những điều Ông được Thiên Chúa cho thấy cảnh trên trời, cũng nói đến Bảy Sứ thần của Thiên Chúa đứng trước ngai ngày đêm ( Kh1, 4; 5.6, 8, 2)

Trong truyền thống đạo Công giáo thường chỉ hay nói đến Tổng lãnh Thiên Thần Michael, Gabriel và Raphael.  Nhưng trong những áng văn không phải kinh thánh của người Do Thái, ngoài bảy Tổng lãnh Thiên Thần, còn nói đến thêm bốn nữa.  Trong những đoạn văn chương của sách Henoch nói về tổng lãnh Thiên Thần và Thiên Thần có kể ra tên: Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Raguel, Sarakiel và Phanuel.

Ba vị Tổng lãnh Thiên Thần

1. Thiên Thần Mi-ca-e được Thiên Chúa sai đi chiến đấu chống lại quỷ dữ, chống lại sự dữ (Sách Daniel 12, 1; Thư Giuda 9; Khải Huyền 12,7-9).  Thiên Thần Mi-ca-e đã làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ cho nước Chúa chống sa tan sự dữ.  Vì thế vị Thiên Thần này được gọi là Tổng lãnh Thiên Thần Mi-ca-e: Quis ut Deus – Ai bằng Thiên Chúa?

Vị Sứ Giả này sát cánh bên cạnh tâm hồn những người tín hữu tin nhận Thiên Chúa là Cha đời mình, trợ lực chống lại sa tan quỷ dữ sự xấu lấn át, chiếm ngự tâm hồn họ.  Vị Sứ Giả này mang đến sứ điệp: Nếu Thiên Chúa ngự trong tâm hồn con người, họ sẽ nhận ra giá trị cao đẹp đời mình và vẻ đẹp cùng phẩm giá đời sống người khác.

2. Sách Tobia 11, 1-15 thuật lại Thiên Thần Raphael được Thiên Chúa gửi đến  cùng đồng hành hướng dẫn bảo vệ Tobia trong cuộc hành trình dài khó khăn và sau cùng đã chữa cho cha của Tobia được sáng mắt, khỏi bị mù lòa đã lâu ngày.

Thiên Thần Raphael là vị Sứ Giả chữa lành vết thương.  Thiên Chúa gửi vị Sứ Giả này đến bảo vệ con mắt, tai và chân tay để con người có cuộc sống khoẻ mạnh bằng an cùng hưởng niềm vui và chia sẻ với người khác niềm vui hạnh phúc trong cuộc sống.

3. Vị Thiên Thần quen thuộc với mọi người tín hữu hơn hết là Thiên Thần Gabriel.  Vị Sứ Giả này xưa kia đã được sai tới báo tin cho Ông Zacharia: Lời cầu xin của Ông đã được Thiên Chúa nhậm lời. Ông bà sẽ có con.  Con ông là Thánh Gioan Tẩy Giả (Lc 1, 5-23) và cho Đức Mẹ Maria:  Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian khỏi vòng liên luỵ của tội lỗi, xuống thế làm người trong lòng Đức Mẹ.  (Lc 1, 26-38)

Thiên Thần Gabriel là vị Sứ Giả không chỉ loan tin Chúa Giêsu xuống trần gian, nhưng còn loan báo mầu nhiệm sự sống nơi mỗi người: Cha mẹ không phải là người chế tạo làm ra sự sống của con cái mình, nhưng họ đã đón nhận sự sống đó từ Thiên Chúa, Đấng là nguồn, là chủ sự sống.  Và mỗi người là hình ảnh của Ngài.

Văn hào Rabindranath Tagore diễn tả niềm tin của mình: “Tôi tin là có một bàn tay vô hình, mà tôi gọi là Thiên Thần.  Bàn tay vô hình này hướng dẫn ta, như một con ốc ở sườn con thuyền giữ cho những tấm ván thuyền gắn chặt vào nhau, để nước không rỉ tràn vào thuyền.”

Thiên Chúa gửi Thiên Thần như Sứ Giả đến đồng hành bảo vệ hồn xác con người trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những khi không ngờ tới.  Bàn tay vô hình này can thiệp giúp hồi sinh cuộc sống.

Lễ Tổng lãnh Thiên Thần Michael, Gabriel và Raphael, 29.09

LM Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

“CẦN CHỨNG NHÂN HƠN CẦN THẦY DẠY”

“CẦN CHỨNG NHÂN HƠN CẦN THẦY DẠY”

Chiều nay tôi vừa dâng Thánh Lễ ở Nhà Thờ với một vị Giám Mục, hàng năm ngài vẫn trở về đây dâng lễ cầu nguyện cho một thầy trong nhà Dòng chúng tôi dù thầy qua đời đã 34 năm. Lý do để Đức Cha đích thân về là: ngày xưa, cuối thập niên 50 đầu thập niên 60, gia đình ngài sinh sống trong Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của chúng tôi và ngài là một lễ sinh trong đội ngũ giúp lễ Nhà Thờ, mà thầy là vị phụ trách các Lễ Sinh.

Đức Cha rất quý mến thầy, một Tu Sĩ gương mẫu, hiền hòa và nhân hậu, ngài kể: “Không bao giờ thầy la mắng hay đánh chúng tôi”. Ngoài ra, ngài còn nói, truyền thống đạo đức của người Việt mình là tôn sư trọng đạo, “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy, tôn kính và biết ơn thầy là một nét đạo đức độc đáo của dân tộc chúng ta.

Sự hiện diện của Đức Cha còn có mục đích quy tụ các anh chị em ngày xưa cùng sinh hoạt chung với nhau, các anh chị nay đã lớn tuổi và bận rộn với những bổn phận riêng. Ngày họp mặt hằng năm nhân lễ giỗ của thầy luôn là cơ hội để mọi người gặp nhau, nâng đỡ nhau, chia sẻ những niềm vui nỗi buồn với nhau, củng cố đời sống Đức Tin, tình yêu mến và lòng đạo đức. Đây cũng là cơ hội để Đức Cha thi hành sứ mạng “làm thầy dạy”, đặc biệt giúp anh chị em đào sâu thêm Kinh Thánh. Ngài cũng muốn các buổi họp mặt có cả các con cháu của anh chị em để nối kết và truyền đạt tình thương.

Đức Cha nói với chúng tôi cứ để ngài dâng lễ chung với anh em một cách rất bình thường, không bày ra các lễ nghi đón tiếp, diễn văn, cờ quạt… Hãy tập trung vào Phụng Vụ và giúp anh chị em Giáo Dân sống Tin Mừng.

Ngôi Nhà Thờ và hang đá Đức Mẹ DCCT là những nơi khó quên trong ký ức của ngài từ thời thơ ấu. Những buổi đi Nhà Thờ, sinh hoạt chung với nhau, ca hát và học tập, những hình ảnh của tuổi thơ khó nghèo mãi mãi không bao giờ phai mờ.

Dạo ấy, hang đá Đức Mẹ là nơi bà mẹ trẻ góa bụa của ngài, mang trên vai gánh nặng 7 con thơ, vẫn thường lui tới cầu xin, con đầu 16 tuổi, đứa bé nhất đang ẵm trên tay. Bà nói gì với Mẹ Maria, ngài không biết, nói lâu lắm, ngài ngồi gần đó chờ mẹ mình cầu nguyện xong rồi theo mẹ về. Không biết bà cầu nguyện gì với Đức Mẹ, chỉ biết một điều khi người chồng ra đi, ông trăn trối xin bà ráng lo cho con cái ăn học nên người, đừng để đứa nào thất học.

Gánh nặng quá lớn cho người góa phụ trẻ, nghèo, thời cuộc tao loạn, chiến tranh triền miên, bà mẹ gồng gánh cuộc đời cùng với lời nguyện cầu thường xuyên bên hang đá Đức Mẹ. Bà đã đi hết cuộc đời với niềm tự hào đã hoàn thành được ý nguyện của ông.

Bây giờ mỗi lần về đây, không bao giờ Đức Cha quên dừng lại trước hang đá, tuổi thơ nghèo khổ, hình ảnh bà mẹ góa bụa với đứa con côi cút cầu nguyện lâu giờ trước Mẹ Maria, nỗi nhọc nhằn năm tháng lùa về, và nhất là sự an ủi trìu mến từ nơi người Mẹ hiền của Hội Thánh năm tháng vẫn nâng niu gìn giữ đàn con.

Giữa những bề bộn công việc, những lo toan cho Giáo Phận, những phức tạp trong xã hội, những liên đới trong Hội Thánh, những bổn phận của một Mục Tử, vị Giám Mục vẫn sống những nét hồn nhiên của con người, vẫn cố gắng gìn giữ những giá trị đạo đức xã hội, vẫn dừng chân nơi những cảm xúc ngọt ngào của riêng mình trong xác tín của Đức Tin, vẫn chăm chút các mối tương quan xưa cũ, vẫn quan tâm đến từng anh em dù là người nhỏ bé nhất.

Tôi viết lại nhưng hình ảnh này như ghi lại những cảm xúc rất chân thành, không muốn ca tụng, chỉ muốn khắc họa một chứng nhân nhỏ bé, một tấm gương còn tỏa sáng giữa một xã hội đảo điên…

Cuộc sống chúng ta hôm nay, như lời Đức Phaolô VI, luôn “cần chứng nhân hơn cần thầy dạy”…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 18.9.2014