NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH

TGM Ngô Quang Kiệt

Chúa Kitô đã phục sinh.  Ðó là niềm vui của chúng ta.  Còn hơn thế nữa, đó là đức tin của chúng ta, đó là niềm hi vọng của chúng ta.  Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh của chúng ta có cơ sở vững chắc ở những bằng chứng khác nhau.

Có bằng chứng tiêu cực của các lính canh mộ.  Khi an táng Chúa Giêsu, các thượng tế đã cẩn thận xin Philatô cho đóng cửa mộ bằng một phiến đá lớn rất nặng rồi cho niêm phong và cắt cử lính canh cẩn thận.  Nhưng khi Chúa sống lại, ánh sáng rực rỡ chiếu lên chói lòa, cửa mộ bật tung, lính canh hoảng sợ chạy trốn.  Sau đó lính canh đi loan tin rằng: Trong khi chúng tôi ngủ, các môn đệ đến lấy trộm xác Chúa.  Ai cũng biết đó là tin giả.  Vì các môn đệ còn đang rất sợ hãi, trốn chạy, làm sao dám lấy trộm xác.  Thánh Augustinô đã bài bác điều này khi nói: Lính canh ngủ hay thức.  Nếu họ thức thì làm sao họ để cho các môn đệ lấy trộm xác Chúa.  Nếu họ ngủ, làm sao họ biết là các môn đệ lấy trộm xác Chúa.

Có những bằng chứng tích cực của các môn đệ.  Sáng sớm, ba người đầu tiên đã đến mộ và không thấy xác Chúa.  Bà Mađalêna hốt hoảng cho rằng người ta đã lấy mất xác Chúa.  Phêrô vào trước nhưng chưa có ý kiến gì.  Gioan vào sau.  Ông đã thấy và đã tin.  Ông thấy gì?  Ông thấy khăn che đầu và khăn liệm xếp đặt gọn gàng trong mộ.  Là người môn đệ được Chúa yêu thương ông có một trực giác đặc biệt.  Hơn nữa ông đã biết rõ thói quen của Chúa.  Nhìn khăn liệm xếp đặt gọn gàng, ông nhận ra thói quen đó.  Tuy nhiên niềm tin ban đầu còn mơ hồ.  Niềm tin chỉ chắc chắn nhờ được củng cố bằng việc trực tiếp nhìn thấy Chúa.

Sau ngày phục sinh, Chúa hiện ra nhiều lần với nhiều người.  Hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín.  Hiện ra với Tôma và cho ông xem các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn.  Hiện ra với hai môn đệ đi đường Emmaus.  Hiện ra trên bờ biển và chỉ dẫn cho các môn đệ đánh một mẻ cá lạ lùng.  Nhưng có lẽ cuộc hiện ra có tác động mãnh liệt nhất là với Phaolô.  Thuở ấy Phaolô còn có tên là Saolê, một người Do Thái thù ghét Chúa Giêsu, hăng say đi tìm bắt những người tin Chúa.  Ở Damas, ông bị một làn ánh sáng chói lọi chiếu vào khiến mù mắt.  Con ngựa hất ông ngã lăn xuống đất.  Và có tiếng từ trời phán bảo: “Saolê, Saolê, tại sao ngươi tìm bắt ta”.  Hoảng sợ Saolê thưa: “Thưa ngài, ngài là ai”.  Tiếng từ trời trả lời: “Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt”.  Từ đó Saolê tin vào Chúa Kitô Phục sinh, trở thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành đi loan Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Những kết quả của việc Chúa Phục sinh được thấy rõ ràng.  Trước hết là sự đột biến nơi các môn đệ. Ngày Chúa chịu chết, các ông là những người nhút nhát, trốn chạy, thậm chí còn phản bội, chối Chúa. Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn, các ngài thay đổi một cách mãnh liệt.  Ðang nhút nhát, ẩn trốn bỗng hiên ngang xuất hiện ở chốn công khai.  Ðang phản bội, chối Chúa bỗng hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa.  Ðang sợ hãi bỗng trở nên can đảm lạ thường.  Không những vui mừng được chịu đau khổ vì Chúa mà còn sẵn sàng chịu chết vì Chúa.  Chắc chắn các ngài đã được gặp Chúa nên con người các ngài đã biến đổi tận gốc rễ.  Chắc chắn các ngài đã gặp Chúa nên lời chứng của các ngài có sức thuyết phục.

Thật vậy, làm sao những người tín hữu đầu tiên tin vào lời chứng của các tông đồ đến nỗi sẵn sàng bỏ của cải làm của chung, sẵn sàng chịu sống chui rúc, trốn chạy cuộc bách hại của đế quốc La mã, sẵn sàng chịu chết vì đức tin của mình.  Làm sao Giáo hội có thể tồn tại 2,000 năm, qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách do những người muốn tiêu diệt đạo gây nên.  Nếu Chúa không Phục sinh, không thể giải thích được những việc đó.

Chúa Phục sinh, đó là nền tảng của đức tin.  Ðó là sự vững chắc của Giáo hội.  Và đó là chính là niềm hi vọng lớn lao của chúng ta.  Chúa phục sinh biến đổi thân phận chúng ta.  Từ thân phận phải chết sẽ được sống lại với Chúa.  Từ thân phận tội lỗi được trở nên trong sạch.  Từ cát bụi phàm trần được trở lại làm con Chúa.  Từ định mệnh mong manh phù du được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời.

Lễ Chúa Phục Sinh đem lại cho ta niềm vui lớn lao.  Vì thế mừng lễ Chúa Phục Sinh mời gọi ta biến đổi đời sống nên tươi mới cho xứng đáng với niềm tin, xứng đáng với phẩm giá của con người được Chúa yêu thương cứu chuộc.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen!

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

Ba lý do người Uighur tới Việt Nam

Ba lý do người Uighur tới Việt Nam

Nguyễn Hùng

BBC Tiếng Việt

Thứ hai, 21 tháng 4, 2014

Người Uighuir chờ ra tòa ở Thái Lan hồi tháng Ba năm 2014

Nhiều người Uighuir cũng bị Thái Lan kết tội nhập cảnh trái phép trong tháng Ba

Vụ việc vượt biên trái phép của người Trung Quốc qua cửa khẩu Bắc Phong Sinh, Quảng Ninh hôm 18/4 cuối cùng đã làm bảy người chết và nhiều người bị thương.

Một trong những lý do mà một nhà báo Việt Nam đưa ra là sự không hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên. Người Uighur, hay còn gọi là Duy Ngô Nhĩ, có vẻ không hiểu những gì mà lính biên phòng Việt Nam và Trung Quốc nói với họ khi buộc họ phải trở về Trung Quốc ngay lập tức.

Sĩ quan phiên dịch của cuộc gặp, Thiếu tá Nguyễn Minh Đãi, 43 tuổi, người được điều động từ Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Móng Cái xuống Bắc Phong Sinh đã chết cùng Thiếu úy Lê Vũ Việt, 24 tuổi trong vụ đụng độ trưa ngày 18/4.

Năm người Uighur bị chết và lý do được quan chức Quảng Ninh nói với BBC là họ nhảy từ tầng cao của đồn biên phòng xuống.

Số người còn lại được phía Việt Nam ngay lập tức trao cho phía Trung Quốc.

Những bức hình được truyền thông Việt Nam đăng tải cho thấy lính Trung Quốc mặc đồ rằn ri và mang mũ có biển ‘Công an Quảng Tây’, tỉnh giáp ranh với Quảng Ninh đã có mặt ở cửa khẩu Bắc Phong Sinh để nhận bốn phụ nữ mang khăn trùm đầu cùng hai trẻ nhỏ.

Những người đàn ông hoàn toàn không xuất hiện trong các bức ảnh được đăng tải chính thức cho dù trên mạng xã hội cũng có những ảnh được cho là chụp thi thể của những người Uighur, có người nằm đè lên nhau, trên xe gia súc kéo.

Việc Việt Nam ngay lập tức trao trả người Uighur mà không qua xét xử và tìm hiểu nguyên nhân họ phải bỏ nhà mang theo trẻ nhỏ ra đi đã gây ra chỉ trích.

Công dân mạng cũng bất bình với hình ảnh các thi thể người Uighur nằm ngổn ngang.

Chính sách ‘Hán hóa’

Một đồng nghiệp của BBC tiếng Trung nói anh có nói chuyện với một người Uighur đang sống lưu vong ở London và những người Uighur hải ngoại biết rất ít về hàng ngàn người Duy Ngô Nhĩ sống ở tỉnh biên giới Vân Nam.

Đồng nghiệp BBC cũng nói thường mỗi khi có chuyện gì xảy ra với người Uighur ở Tân Cương, nơi có hàng triệu người Duy Ngô Nhĩ sinh sống, người Uighur hải ngoại thường lên tiếng ngay lập tức và cũng thường gắn thêm động cơ chính trị cho những gì xảy ra.

Nhưng trong trường hợp này chưa có tuyên bố gì từ hội người Uighur hải ngoại.

Mặc dù vậy anh cũng nói sau vụ tấn công bằng dao ở Côn Minh khiến gần 30 người chết và hàng trăm người bị thương hồi tháng Ba, Trung Quốc đã trục xuất người Uighur ở nhiều tỉnh về lại Tân Cương.

Phái đoàn Uighur từ Tân Cương ở Quốc hội Trung Quốc đầu tháng Ba

Trong tháng Ba cũng diễn ra vụ tấn công bằng dao của người Uighur ở Côn Minh

Ngoài Việt Nam, người Uighur cũng tới Thái Lan

Năm nay cũng là kỷ niệm năm năm vụ bạo động ở thủ phủ Urumqi của Tân Cương hồi tháng Bảy năm 2009 làm hơn 200 người chết và hàng ngàn người bị thương.

Mỗi trường hợp ra đi của người Uighur đều có những lý do cá nhân.

Nhưng có ba lý do bao trùm cho mọi cuộc “bỏ phiếu bằng chân” từ khi Trung Quốc kiểm soát toàn diện Tân Cương hồi năm 1949.

Đó là: đói nghèo, phân biệt đối xử và bị đẩy ra rìa xã hội.

Chính sách ‘Hán hóa’ của Trung Quốc, với mục tiêu người Hán chiếm đa số ở mọi nơi, khiến cho số người Hán ở Tân Cương chiếm tới 40% theo thống kê từ vài năm về trước.

Trong những vụ ra đi gần đây, người ta thấy người Uighur thường kéo cả gia đình đi theo.

Riêng trong những ngày cuối tuần qua, số người Uighur vượt biên vào Việt Nam và Thái Lan đã là 51 người trong đó có năm người thiệt mạng ở Bắc Phong Sinh.

Các quan chức Việt Nam không tiết lộ gì về danh tính 21 người vượt biển vào Việt Nam mà Hà Nội nói phía Trung Quốc đã bắt giữ.

Nhưng nhóm 16 người vào Việt Nam ở Bắc Phong Sinh và nhóm 15 người bị bắt ở Sa Kaeo, Thái Lan có cả thảy bảy phụ nữ và chín trẻ em.

Báo Phnom Penh Post nói những người Uighur cảm thấy họ không thể sống nổi ở quê hương do chính sách hà khắc của chính quyền Trung Quốc.

‘Tị nạn’

Trên thực tế chuyện người Uighur vào Việt Nam để tới nước thứ ba, có thể là Thổ Nhĩ Kỳ, nơi có cộng đồng lớn người Uighur, đã từng xảy ra.

Sau bạo động ở Tân Cương hồi năm 2009, một nhóm 22 người Duy Ngô Nhĩ cũng đã băng qua Việt Nam để tới Campuchia nộp đơn xin tị nạn.

Tuy nhiên Phnom Penh đã trả họ về Trung Quốc dưới sức ép của Bắc Kinh cho dù không phải là trả vội vàng qua biên giới như Việt Nam.

Ngay cả Thái Lan, nước cởi mở hơn với người tị nạn so với Việt Nam và Campuchia, hồi tháng trước cũng kết án hàng chục người Uighur xâm nhập trái phép cho dù Hoa Kỳ kêu gọi Bangkok bảo vệ những người này.

Cảnh sát bán quân sự ở Tân Cương nơi gần như năm nào cũng có bất ổn

Cách hành xử của Việt Nam, dù nay đã là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, là điều khó tránh khỏi.

Sức ép của Trung Quốc với Việt Nam, cả về chính trị, thương mại và quân sự, luôn hiện hữu.

Người ta cũng đã đặt câu hỏi tại sao Trung Quốc thông báo cho phía Việt Nam về cả hai vụ người Uighur toan vượt biên vào Quảng Ninh nhưng vì lý do nào đó bản thân phía Trung Quốc lại không thể chặn được những người này rời Trung Quốc.

“…Nếu Trung Quốc gặp vấn đề với người Hồi giáo Tân Cương và phật tử ở Tây Tạng thì Việt Nam cũng từng có vấn đề với người Thượng ở Tây Nguyên và người H’Mong ở Mường Nhé, Điện Biên. “

Và nếu Trung Quốc gặp vấn đề với người Hồi giáo Tân Cương và Phật tử ở Tây Tạng thì Việt Nam cũng từng có vấn đề với người Thượng ở Tây Nguyên và người H’Mong ở Mường Nhé, Điện Biên.

Những người Thượng và người H’Mong cũng từng vượt biên qua Lào, Campuchia để tới Thái Lan với hy vọng được đi tỵ nạn và thực tế rất nhiều người đã tới được Hoa Kỳ.

Hiện chưa rõ động cơ cá nhân của nhóm hơn 50 người Uighur mới nhất bỏ nước ra đi và một luật sư ở Việt Nam nói đáng ra Hà Nội cần điều tra rõ ràng vụ việc trước khi có quyết định trao trả những người Duy Ngô Nhĩ muốn vào Việt Nam.

Khi bạo động Tân Cương xảy ra hồi năm 2009, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đã coi những gì xảy ra là “hành động diệt chủng” cho dù Bắc Kinh nói hầu hết trong số 200 người chết ở Urumqi là người Hán.

Với đợt bỏ trốn mới nhất này, Trung Quốc không công khai lý do tại sao người Uighur phải ra đi và những lời kêu gọi những nước như Việt Nam điều tra không phải không có lý.

Nhưng thực hiện theo những lời kêu gọi đó lại bất khả thi với chính sách hiện nay của Việt Nam về nhân quyền và cách tiếp cận ngoại giao hiện có của Hà Nội đối với Bắc Kinh.

 

NẺO ĐƯỜNG TÌM CHÚA PHỤC SINH

NẺO ĐƯỜNG TÌM CHÚA PHỤC SINH

Hôm nay Lễ Phục Sinh, bài Tin Mừng của Thánh sử Gioan, chỉ có 9 câu ngắn ngủi, nhưng gói ghém thật cô đọng hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh của ba người: Bà Maria Mácđala, ông Phêrô và Gioan, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.

Nẻo đường của ông Phêrô

Ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, đã kịp thời ăn năn khóc lóc thảm thiết, ngay khi gặp cái nhìn đầy yêu thương trìu mến và thương xót của Chúa Giêsu (Lc 22, 61). Ông vẫn theo Chúa xa xa.  Vẫn nhận thức vai trò Đá Tảng mà Chúa Giêsu trao phó.  Vẫn hăng hái và nhiệt thành.  Nên nghe bà Mácđala báo tin ngôi mộ trống, bèn cùng ông Gioan, chạy đến ngay.

Sự mau mắn của ông biểu lộ lòng chân thành và tinh thần trách nhiệm cao độ.  Ông vẫn hăng hái hành động, như từng rút kiếm, tấn công quân dữ đến bắt Chúa Giêsu, nhưng lóng ngóng, chỉ dám chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế. Đáng tiếc thay, ông Phêrô đã mất thói quen cầu nguyện, nên thay thế vào đó cách xử dụng hung bạo, làm mất cơ trí đi, và lòng nhiết thành của ông trở thành một thứ hăng say trái mùa (ĐGM Fulton Sheen).

Thậm chí, sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra an ủi, chúc bình an, thổi hơi, ban Đức Chúa Thánh Thần, ông vẫn chưa mấy biến chuyển.  Vẫn vô tư rủ bạn chài đi đánh cá.  Nhọc nhằn thâu đêm chẳng được gì, thì tảng sáng Chúa hiện đến, chỉ các ông thả lưới  bên phải mạn thuyền.  Tức thời trúng thật đậm.  Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến mới nhắc ông: “Chúa đó!” (Ga, 21, 7) Ông Phêrô chỉ biến đổi hoàn toàn, sau ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần.

Hành trình tìm Chúa Phục Sinh thật gian nan với ông Phêrô, tuy ông cũng được thấy Chúa hiện ra, nhưng đúng hơn là Chúa chủ động tìm đến với ông, thay vì ngược lại.  Những tấm khăn liệm, băng vải, khăn che đầu đã che khuất tầm nhìn của ông, những hoạt động hăng say quá bận rộn bên ngoài, đã khuấy động tâm hồn ông, vốn rất ngay lành, đâm ra u mê, tăm tối.

Như thế, nếu tôi cũng chỉ nhiệt thành giữ đạo theo thói quen, chỉ hành động xuông như tập quán, kinh sách đọc rổn rảng, vô hồi kỳ trận, mà thiếu mất tâm tình cầu nguyện sốt sắng, mật thiết, và còn thiếu lòng ăn năn thống hối như Phêrô, thiếu ý chí và cố gắng nên tốt lành hơn.  Bởi vì những thứ trên chỉ là phương tiện giúp nên thánh, mà phải có ý chí sửa đổi thì ân sủng Chúa mới hoạt động, ân sủng Chúa chỉ sinh hoa trái, khi có sự hợp tác của linh hồn mà thôi.  Hơn nữa, tôi còn thiếu cả Thánh Thể, Của Ăn Đi Đàng, lẫn thiếu Lời Chúa dẫn dắt, làm sao tìm và gặp được Chúa Sống Lại trong tôi?

Nẻo đường của ông Gioan

Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến trái lại, trẻ trung, mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chạy đến ngôi mộ trống trước ông Phêrô.  Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào (Ga 20, 5).   Ông Gioan được cho là chàng thanh niên đã bỏ chạy khi Chúa Giêsu bị bắt (Mc 14, 51).  Nhưng sau đó, vẫn can đảm theo Chúa vào dinh cựu thượng tế Khanan, rồi còn giúp đỡ ông Phêrô lọt vào bên trong (Ga 18, 16).  Cho đến khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông Gioan cũng đứng dưới chân thánh giá cùng với Đức Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlopat, và bà Maria Mácđala.

Tuy đến ngôi mộ trước, ông chỉ cúi xuống, nhìn thấy băng vải trong đó, không vào ngay, mà nhẫn nại chờ đợi đại huynh Phêrô đến.  Có nhiều cách giải thích sự chờ đợi này.  Có thể vì kính trọng quyền huynh thế phụ, không dám vô lễ qua mặt ông Phêrô, bậc đàn anh?  Có thể còn nghi ngại sợ hãi, nhát đảm, sợ bóng vía chăng?  Hoặc là sợ đụng chạm vào khăn liệm, băng vải lỗi phạm lề luật chăng?

Nhưng chắc chắn là ông Gioan đã theo cùng ông Phêrô vào mộ. “Thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu.  Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi…  Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 7- 8).

Khi nhìn thấy băng vải và khăn che đầu xếp lại gọn ghẽ, tươm tất, đâu đó, cách xa nhau, ông Gioan có lẽ liên tưởng ngay đến thói ngăn nắp thứ tự thường nhật của Đức Giêsu, mà trước đây ông vẫn thường chứng kiến và đã quá quen thuộc.  Ông liền nhận ra dấu chỉ kín đáo đó và đã mạnh dạn tin tưởng Chúa Phục Sinh.

Tuy chưa được gặp Chúa sống lại, nhưng lòng trung thành, tâm hồn tỉnh thức, nhạy bén, đã giúp hành trình ông gặp Chúa Phục Sinh đạt kết quả mỹ mãn.  Ông đã gặp được Chúa ngay trong tâm hồn, mặc dù ông cũng chưa hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo mầu nhiệm này.

Ngày nay, Chúa vẫn ban phát rộng rãi những dấu chỉ, để nhận ra, và hiểu được Thánh Ý Chúa.  Nhưng tôi có biết mở mắt, mở tai, mở lòng ra dón nhận hay không?  Hay chỉ biết chạy theo dư luận, chạy theo những thông tin, những điềm báo kỳ dị, quái gở, ma thuật, có thể đe dọa, lấn át, khuynh đảo đức tin của tôi, vốn đang rất mong manh, yếu đuối?

Nẻo đường của bà Maria Mácđala

Bà Maria Mácđala đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ dữ (Lc 8, 3).  Sau đó bà theo Chúa Giêsu và dùng tiền của giúp Ngài, cũng như các môn đệ đi truyền giáo.  Bà đã âm thầm, can đảm đi theo Chúa suốt cuộc khổ nạn.  Bà cũng hiện diện dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlopat, cùng ông Gioan, để chia sẻ nỗi đau khổ tận cùng Chúa Giêsu (Ga 19, 25).  Bà Mácđala cũng tham dự mai táng Chúa Giêsu trong huyệt mộ (Lc 24, 55).

Vào ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội chạy ra mộ Đức Giêsu để xức dầu thơm trên thi thể Ngài.  Nhưng phát hiện ngôi mộ trống, tảng đá chắn mộ đã lăn ra.  Bà hốt hoảng, tức tốc về báo tin ngay cho các môn đệ, ông Phêrô và Gioan.

Thoạt tiên, tưởng chừng tảng đá chặn ngôi mộ đã cản trở bà Mácđala tìm thấy Chúa Phục Sinh.  Nhưng không, bà đã kiên trì đi trở lại ngôi mộ trống lần nữa để nhớ nhung, tiếc thương và than thở khóc lóc. Bà đã cầu nguyện theo cách riêng cũa bà, biểu lộ công khai lòng yêu mến Chúa tột cùng.  Thậm chí bà cũng chẳng để ý hai thiên sứ đột nhiên xuất hiện.  Bà quay lại thấy Chúa Phục Sinh, lại tưởng người làm vườn.  Nhưng khi nghe Chúa thân thương gọi: “Maria!” bà liền nhận ra ngay Chúa Giêsu đã sống lại (Ga 20, 16).

Bà Mácđala được Chúa ủy thác loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ, để các ông đi rao truyền khắp thế gian “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là của Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20, 17).

Bà Mácđala đắm mình vào cầu nguyện, tâm tình với Chúa Giêsu, không còn bận tâm đến môi trường chung quanh, không chia lòng chia trí, dù các thiên thần tận tình hỏi han.  Chính nhờ sự chuyên tâm và khát khao Chúa tột độ, bà là người đầu tiên so với các tông đồ, được diễm phúc thấy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh của bà Macđala rất thực tiễn, viên mãn và hiệu quả nhất, so với hai nẻo đường vòng vo kia.

Người hy vọng là người cầu nguyện.  Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng.  Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa.  Ngài tìm họ đề hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài (Đường Hy Vọng, 964).

Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm kiếm Chúa mọi nơi, mọi lúc, qua những lời cầu nguyện chân thành, để con được sống lại với Ngài.  Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong mầu nhiệm khổ nạn, xin Mẹ dẫn dắt, chỉ bảo và cầu bầu cho con, cảm nhận được Chúa Sống Lại trong tâm hồn, để con được cứu rỗi, đồng thời trở nên Chứng Nhân, phục vụ mọi người. Amen.

AM Trần Bình An

langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi

 

 

Nếu Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng?

Nếu Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng?

LS Nguyễn Văn Đài

Gửi tới BBC từ Hà Nội

Thứ hai, 29 tháng 4, 2013

Người vui, người buồn trong dịp 30/4

Mỗi dịp 30-4 hàng năm, tôi lại nhận được câu hỏi của những người đồng bào Việt Nam ở hải ngoại là “anh nghĩ và có cảm xúc gì khi sắp tới ngày 30-4?”. Tôi lại có dịp kể cho họ nghe về suy nghĩ và cảm xúc của mình.

Từ nhỏ cho đến năm mười chín tuổi, mỗi dịp 30-4 tôi thực sự vui mừng và tự hào bởi đó là ngày chiến thắng và thống nhất của đất nước. Việt Nam đã chiến thắng cường quốc số một thế giới về quân sự và kinh tế.

Cuối năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Đức (cũ) và được chứng kiến người dân Đông Đức lật đổ chế độ cộng sản để thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây Đức. Tôi lại có dịp may mắn được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và tự do của chế độ tư bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Đông Đức đã không cam chịu sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng sản.

Cùng thời điểm đó, tất cả người dân các nước Đông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị của các chế độ cộng sản. Và họ đã xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ. Cho đến nay, tất cả các nước Đông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và hạnh phúc trong một chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị của chế độ cộng sản.

Hoài nghi, nuối tiếc

Cuối năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài nghi và nuối tiếc.

“Nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.”

Năm 2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn Quốc và thấy đó là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại của đảng cộng sản. Trong khi đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chế độ cộng sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn và nối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Nhìn lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975, trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhân dân phải chịu đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế có phát triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có được phương tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống diễn ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ giáo dục, y tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,… và trên mọi cấp độ từ trung ương đến địa phương.

Nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến cảnh doanh nghiệp, quan chức chính quyền, các lực lượng vũ trang và xã hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người nông dân lấy đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao người dân vô tội khi bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau, họ chỉ còn là một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ đã bị sách nhiễu, đánh đập, và bị cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.

Giờ đây, mọi người lại hỏi tôi “anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”

Tôi trả lời: Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.

Hà Nội muốn tăng cường quan hệ giữa Quốc hội Mỹ-Việt

Hà Nội muốn tăng cường quan hệ giữa Quốc hội Mỹ-Việt

Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng.

Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng.

21.04.2014

Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng đề nghị cơ quan lập pháp hai nước Việt-Mỹ nên tăng cường trao đổi-hợp tác để Mỹ sớm công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.

Đề nghị được ông Hùng đưa ra tại buổi tiếp đón Chủ tịch Thường trực Thượng viện Hoa Kỳ, Patrick Leahy, tại Hà Nội hôm 17/4 nhân dịp phái đoàn nghị sĩ hai đảng Dân chủ và Cộng hòa thuộc lưỡng viện Quốc hội Mỹ tới thăm Việt Nam từ ngày 16 đến ngày 20 tháng này.

Truyền thông trong nước ngày 21/4 dẫn phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam nói rằng Quốc hội Việt-Mỹ nên tăng cường trao đổi các phái đoàn, tìm cơ chế đối thoại thích hợp, chia sẻ thông tin, và trao đổi kinh nghiệm.

Ông Hùng đề nghị hai nước bắt tay cùng làm việc trong các các cuộc thương lượng về Hiệp định Tự do Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP để đảm bảo các thỏa thuận mang lại lợi ích cho cả đôi bên, tránh những điều có thể ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế-thương mại song phương.

Ông Nguyễn Sinh Hùng cũng bày tỏ mong muốn Quốc hội Mỹ dành ngân sách thỏa đáng để giải quyết các vấn đề nhân đạo tại Việt Nam.

Tờ Thanh Niên thuật lại lời Thượng nghị sĩ Leahy cho biết Hoa Kỳ đang tìm các cơ hội tăng cường quan hệ giữa hai nước cũng như quan hệ giữa Quốc hội đôi bên.

Trong các cuộc tiếp xúc dịp này, lãnh đạo Việt Nam khẳng định Mỹ là đối tác quan trọng hàng đầu và mong muốn tăng cường quan hệ với Mỹ ở các cấp cũng như thúc đẩy Hoa Kỳ giảm các hàng rào thuế với hàng hóa Việt Nam, sớm đúc kết các cuộc đàm phán TPP.

Hoa Kỳ và Việt Nam đang tham gia các cuộc thương lượng giữa 12 quốc gia về Hiệp định TPP do Mỹ dẫn đầu.

Hà Nội muốn Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam vào TPP giữa lúc xuất hiện các lời kêu gọi từ các nhà lập pháp trong Quốc hội Mỹ yêu cầu đặt nặng vấn đề quyền của người lao động, cải thiện nhân quyền, và phóng thích tù nhân lương tâm trong các cuộc thương lượng với Việt Nam.

Trước chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Thường trực Thượng viện Mỹ, Hà Nội, trong một đợt ‘ân xá’ tù nhân lương tâm hiếm thấy, đã trả tự do trước thời hạn cho 5 nhà đấu tranh dân chủ bao gồm các ông Đinh Đăng Định, Vi Đức Hồi, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Tiến Trung, và tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ.

Nguồn: ThanhNien, Vietnam Briefing

 

Tản mạn về sách

Tản mạn về sách

Chuacuuthe.com

VRNs ( 21.04.2014) – Sài Gòn-  Sáng nay (20/04/2014) cầm cuốn báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần trên tay, ngay trang bìa có mô hình biễu diễn về thống kê đọc sách, mô hình hình chóp nón, đỉnh là Việt nam với tỷ lệ đọc sách bình quân 1 người đọc 0,8 cuốn /1 năm, kế đến là Malaysia > 10, Mỹ 12 và cuối cùng là Pháp 15 cuốn/năm. Số liệu này được chú thích là theo số liệu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (trang 3).Nếu đây là tỷ lệ chính xác thì thật đáng buồn, đáng xấu hổ và đáng lo ngại, mà có lẽ chính xác thật.

Tôi thường di chuyển đó đây nên có dịp quan sát, khách nước ngoài (người phương Tây, và cả người Hàn, người Nhật) trong những lúc di chuyển, trên máy bay, xe hỏa hay tàu thuyền, khi ngồi đợi ở các nhà ga, hoặc khi trong các quán cà phê, nói chung những chỗ nào tương đối ổn định đếu thấy họ đọc sách, người lớn tuổi cũng như thanh niên, ngược lại, người Việt và người Tàu thì không, thường thì người Việt tụ tập nói chuyện ồn ào, ăn vặt hoặc … ngủ ! Rất hiếm thấy người Việt đọc sách ở những nơi công cộng như vừa kể.

Tôi sinh sống ở thành phố Saigon này gần 60 năm (ngoại trừ một vài năm xa thành phố) nên có dịp theo dõi và chứng kiến những biến cố lịch sử của đất nước cũng như thành phố.

Trước năm 75, hệ thống thư viện hầu như có mặt ở tất cả các trường học, kể cả trường tiểu học (cấp 1 bây giờ), năm tiểu học tôi học trường tiểu học Trần Quý Cáp cạnh hồ Con Rùa, ngay ngã tư Trần Quý Cáp (Võ Văn Tần bây giờ) và Pasteur, dọc đường Pasteur gần trường Đại học Kiến Trúc có một thư viện nhỏ rất êm đềm và thinh lặng, tuổi thơ của tôi đã say mê hằng giờ trong đó khi đi học sớm hoặc chờ cha đến đón. Gần xóm nhà tôi có mấy hiệu cho thuê sách, đủ mọi loại sách, giá thế chân rất rẻ và giá thuê sách cũng rất rẻ, những cuốn sách bìa được đóng lại bằng giấy bao xi măng, tên cuốn sách được nắn nót bằng bút lông to bản, ngoài bìa giấy xi măng là một bao nilon để bảo vệ cuốn  sách, bìa trong ghi chi chít ngày và giờ các khách  hàng đã thuê sách đọc. Đủ mọi loại sách, thượng vàng hạ cám, nhưng chủ hiệu cho thuê sách thường nhìn mặt mà cho thuê, trẻ con đừng mong thuê được những cuốn sách tiểu thuyết kiểu bà Tùng Long hay Nghiêm Lệ Quân.

Tôi thường có mặt ở nhà sách Khai Trí vì được đọc sách miễn phí, chỉ một điều phiền là phải đứng mỏi chân, Nhà sách Đức Mẹ ở Kỳ Đồng thì thật tuyệt, tuyệt vì không khí mát rượi lại được xem các sách báo Công giáo. Mỗi chiểu thứ bảy, sau khi dự chầu ở Đền tôi đều vào lân la trong nhà sách, để nghe nhạc, để đọc sách, để ngắm tranh ảnh, để mua báo Đức Mẹ và báo Tuổi Hoa. Đôi khi cũng tạt vào nhà sách Đa Minh, nhà sách Hiện Tại là những nhà sách báo đạo ở thành phố này.

Tôi có một người bạn, chị ấy là một nghệ sĩ Violon, ngôi nhà nhỏ chị ở cùng với bà mẹ trong con hẻm nhỏ đường Yên Đổ (Lý Chính Thắng bây giờ), ngôi nhà có những cái cửa sổ lật màu đỏ gụ, bên trong ngôi nhà ấy là một tủ sách lớn, phần lớn là sách ngoại quốc, sách dịch và sách của nhóm Tự lực Văn đoàn. Những cuốn sách được chị nâng niu bao bọc bằng một loại giấy bóng kiếng mờ mờ đục đục, mong manh, khiến người cầm đọc phải thật thận trọng, nhẹ nhàng, yêu quý. Ngày ấy tôi đọc được trong tủ sách của chị cuốn Hoa Vông Vang của Đỗ Tốn, lâu nay tôi cố ý tìm nhưng chưa thấy in lại. Bây giờ nghe nói ở Hoa Ký, chị không thường xuyên đàn nữa nhưng lại cầm bút.

Ngày xưa tôi được xếp vào loại học giỏi, tháng nào cũng có Bảng Danh Dự, năm nào cũng được phần thưởng cuối năm, phần thưởng của học sinh lúc bấy giờ là sách, đặc biệt nhất là các cuốn tự điển, bọn nhà nghèo chúng tôi mà học khá thì chẳng thua kém chúng bạn về phương diện sách, mặc dầu không có tiền để mua. Có năm tôi đươc học một cô giáo rất đẹp, bọn con trai chúng tôi học mà cứ trầm trồ ngắm và khen cô đẹp, theo sự nhận xét non trẻ của chúng tôi lúc bấy giờ thì hình như nhiều thầy giáo trẻ cũng theo đuổi cô nữa. Mỗi tháng cô đều có phần thưởng cho học sinh nhất lớp về môn Anh văn của cô, phần thưởng chỉ là 1 cuốn sách bằng tiếng Anh, nhưng rất vinh dự vì có chữ đề tặng của cô, trong tháng đó, người học sinh có phần thưởng sẽ phải đứng lên giữa lớp nói về nội dung cuốn sách đã được cô tặng. Sau năm 75, nghe nói cô đã gởi xác cùng với cả gia đình giữa lòng đại dương có tên là Thái Bình.

Chúng tôi có kinh nghiệm về việc đọc sách rất sống động, là những kỷ niệm không thể xóa nhòa trong tâm trí tôi. Mỗi ngày sau bữa cơm chiều, việc dọn dẹp được thực hiện thật nhanh chóng, cả nhà tập họp ở phòng chung theo lệnh của bố tôi, mỗi ngày cả nhà được nghe một đoạn trong các cuốn tiểu thuyết của nhóm Tự lực Văn đoàn, khi đọc xong đoạn bố tôi chỉ định, kế đến là phần nhận xét và phê bình, hoặc bố tôi phân tích nhận định, hoặc ông đặt câu hỏi và bắt con cái trả lời, nhờ thế chúng tôi biết rất nhiều về nhóm Tự lực Văn đoàn, khi vào lớp học, chúng tôi luôn dành đươc điểm cao môn thuyết trình lớp Đệ Ngũ. Ngày ấy tôi để ý thấy bố “nịnh” mẹ rất rõ, ông cho đọc đi đọc lại cuốn “Tôi là mẹ” của Lê Văn Trương, một cuốn tiểu thuyết đề cao tâm hồn hy sinh quảng đại của người mẹ. Một điểm khác, có lẽ do nhà tôi có nhiều anh trai lớn, hình như ông có ý chuẩn bị tâm lý cho cả nhà, nhất là mẹ tôi nên cũng hay cho đọc đi đọc lại cuốn “Nửa chừng xuân”, “Gánh hàng hoa”,”Anh phải sống” và “Đoạn tuyêt”.

Biến cố 1975 ập đến cho miền nam, cùng với tài sản trong nhà theo nhau ra ngõ, sách cũng xếp hàng lần lượt ra đi, một chợ sách cũ thật lớn ở ngay khu Sinco, đường Calmet, gần đường Trần Hưng Đạo, đây là địa chỉ tôi hay dừng lại sau những cuốc đạp chiếc xich lô mệt mỏi để mưu sinh, ở đó muôn vàn sách các loại được tuồn ra, sách quý rất nhiều, rất nhiều cặp mặt nâng niu tần ngần tiếc rẻ, ở đó chúng tôi gặp sách, ở đó chúng tôi cũng gặp nhau, những trí thức miền nam thất chí, nhìn nhau bằng con mắt thương cảm, rã rời, tất cả cùng đói nên chẳng biết nói với nhau câu gì, chia sẻ với nhau cái gì nữa.

Xã hội thay đổi quá nhanh chóng, nhất là thay đổi hoàn toàn sau biến cố 1975,  không gian nhà trường thay đổi, bầu khí gia đình cũng thay đổi, kết quả cho đến hôm nay, tỷ lệ đọc sách của người Việt rơi tự do một cách thảm hại, không đọc sách đồng nghĩa với ngu dốt, dân tộc chúng ta sẽ đi về đâu, đất nước chúng ta sẽ đi về đâu, khi dân số tăng mà tri thức không tăng, thậm chí lùi ? Sẽ là một mớ người hỗn độn kém cỏi quay ra cấu xé lẫn nhau, phá hết của cải cha ông để lại, bán hết tài sản của gia đình rồi đem thân làm nô lệ ?

Đã có những cố gắng để người dân tiếp cận được sách nhiều hơn, đã có những cá nhân, những tổ chức dân sự cố gắng đem sách về nông thôn. Về phía Giáo Hội, một vài nhóm có tổ chức gởi các tủ sách nhà đạo về các vùng sâu vùng xa, trong những chuyến về các vùng ấy, tôi đã thấy một vài nơi tổ chức tủ sách cho thiếu niên nhi đồng, một trong những hoạt động công khai là tủ sách Giêrado của Nhà sách Đức Mẹ ở Kỳ Đồng, hàng trăm tủ sách đã được gởi đi từ chương trình này, nhưng hình như chưa đủ để kích cái tỷ lệ nhục nhã kia lên đến con số tròn 1/năm. Cần phải có một sự thay đổi vĩ mô của xã hội. Bao giờ ?

Đình Trung

20/4/2014

 

Du khách Trung Quốc không được hoan nghênh ở Thái Lan

Du khách Trung Quốc không được hoan nghênh ở Thái Lan
Sunday, April 20, 2014 4

Một số nhà hàng buffet than phiền người Hoa vào ăn uống xong còn nhét đầy đồ ăn vào túi mang ra.
Tồi tệ hơn nữa, trang mạng cơ sở du lịch của thành phố lớn thứ nhì Thái Lan này đăng tải bức hình một người Hoa đang đại tiện vào một hào nước cổ của thành phố.

Bà Annette Kunigagon, chủ nhân người Ireland của nhà hàng lâu năm Eagle Guesthouse nhận xét: “Tiếc thay tinh thần bài Hoa ở đây hiện nay rất cao. Sự tình phải tệ hại lắm người dân Chiang Mai mới bày tỏ thái độ quyết liệt đến như vậy vì dân địa phương thường rất khoan dung đối với khách du lịch nước ngoài.”

Tuy nhiên, bà Kunigagon cùng một số người khác bày tỏ rằng, những hành vi khiếm nhã thường có trong các nhóm du khách thay vì những cá nhân, vốn là người trẻ tuổi có học thức và thích ứng với tập quán địa phương.

Trong khi đó, một số chỉ trích cho đây là thái độ đạo đức giả. Chính người Thái là vô địch về xả rác và có thành tích về mức độ tử vong do tai nạn giao thông cao nhất thế giới. (TP)

Xin xem thêm:

LŨ LỢN XỔNG CHUỒNG: BỌN DU KHÁCH TẦU

Đọc xong những điều mà người Hoa làm tại Chiang Mai, người ta thấy bọn heo xổng chuồng chạy sang Việt Nam còn kinh hồn hơn đám du khách đến Chiang Mai rất nhiều. Chúng làm tất cả những gì tàn độc nhất cho nước Việt Nam. Ỉa bậy đái bậy mà đã nhằm nhò gì! Chúng nó đang đầu độc cả dân tộc Việt, tàn phá nền kinh tế, nông nghiệp của người Việt, đưa người vào chiếm đất của nước Việt, chiếm đảo của chúng ta, đối xử tàn ác, khốn nạn, chó má với người Việt, mua người đem về nước chúng bắt làm nô lệ, bắt nạt những người dân đánh cá khốn khổ…

Chứ ngoáy mũi, khạc nhổ, tiểu tiện, đại tiện thì đã ăn thua gì.

Hỡi những người bạn Thái Lan, bọn lợn xổng chuồng quậy phá đất nước của các bạn mà đã ăn thua gì. Hãy nhìn sang nước chúng tôi thì thấy ngay.

Những cái chết ở Bắc Phong Sinh

Những cái chết ở Bắc Phong Sinh

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-04-21

04212014-vn-guar-kil-uighu.mp3

Bộ đội Biên phòng Việt Nam bàn giao nhóm đối tượng cho phía Trung Quốc.

Bộ đội Biên phòng Việt Nam bàn giao nhóm đối tượng ăn mặc theo kiểu Hồi giáo cho phía Trung Quốc.

Nguồn báo Tiền Phong

Nghe bài này

16 người Duy Ngô Nhĩ nhập cảnh trái phép vào Việt Nam qua cửa khẩu Bắc Phong Sinh, huyện Hải Hà ngày 18 tháng 4 và gây ra cái chết cho  7 người cùng 4 người bị thương, trong đó, phía bộ đội biên phòng VN có 2 chết, 4 bị thương, phía nhóm người Tân Cương có 5 người chết.

Cái chết của 2 bộ đội biên phòng Việt Nam và 5 người Duy Ngô Nhĩ đang làm dư luận nóng lên trên báo chí. Việc cướp súng và bắn vào biên phòng là hành vi xâm phạm luật pháp Việt Nam với mức độ cao nhất. Giết người, xâm phạm lãnh thổ bất hợp pháp và cố ý gây thương tích cho người thi hành công vụ là các tội danh mà những người Duy Ngô Nhĩ này phải trả lời trước pháp luật Việt Nam.

Vội vã trục xuất không xét xử nghi phạm tấn công đồn biên phòng

Tuy nhiên dư luận rất bất bình khi tất cả những người Duy Ngô Nhĩ gồm 5 đàn ông 4 phụ nữ và 2 trẻ em cùng cả 5 xác chết đã nhanh chóng được trao trả về bên kia biên giới khi đích thân cán bộ cửa khẩu Trung Quốc sang Việt Nam dẫn độ họ.

Câu hỏi đặt ra, tại sao Việt Nam không có những hành xử đúng pháp luật như tất cả các nước khác trên thế giới? Bất cứ vụ án lớn nhỏ nào xảy ra trên đất nước mà người vi phạm là công dân ngoại quốc cần phải được xét xử trước khi có quyết định trao trả họ về nguyên quán dưới hình thức trục xuất, hoặc bắt buộc họ phải thi hành án tại nước họ gây án rồi sau đó mới trục xuất.

” Sự việc đó xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam thì trước hết phía Việt Nam phải xử lý đã. Có thể bàn giao thi thể của người đã chết về cho phía Trung Quốc sau khi đã khám nghiệm, đã lập biên bản còn những người còn lại thì phải xử lý theo pháp luật Việt Nam. Mình không thể trả một cách vội vàng như vậy

GSTS Nguyễn Minh Thuyết”

Hành động tống khứ những người Duy Ngô Nhĩ về Trung Quốc chỉ trong 12 tiếng sau khi vụ án xảy ra được GSTS Nguyễn Minh Thuyết nguyên đại biểu quốc hội Việt Nam phân tích:

Tôi cũng rất thắc mắc với việc này bởi vì khi mà sự việc đó xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam thì trước hết phía Việt Nam phải xử lý đã. Có thể bàn giao thi thể của người đã chết về cho phía Trung Quốc sau khi đã khám nghiệm, đã lập biên bản còn những người còn lại thì phải xử lý theo pháp luật Việt Nam. Mình không thể trả một cách vội vàng như vậy. Sau khi xử lý xong ở phía Việt Nam thì trả họ về hay không hoặc là phía Trung Quốc có tiếp tục xử lý họ hay không thì đấy lại là chuyện khác.

Một thiếu tá và một thiếu úy thuộc lực lượng biên phòng Việt Nam đã thiệt mạng trong vụ nổ súng tại cửa khẩu Bắc Phong Sinh, huyện Hải Hà. Source zing.vn/ttre

Một thiếu tá và một thiếu úy thuộc lực lượng biên phòng Việt Nam đã thiệt mạng trong vụ nổ súng tại cửa khẩu Bắc Phong Sinh, huyện Hải Hà. Source zing.vn/ttre

Hiện tượng người Duy Ngô Nhĩ đào tỵ khỏi đất nước không phải là điều mới lạ. Đất đai, văn hóa, tài nguyên kể cả tôn giáo của họ đã và đang tiếp tục bị Trung Quốc chiếm dụng, tha hóa và cấm đoán. Họ sống trong sợ hãi và luôn phải đối diện với bạo lực xảy ra trong bất cứ lúc nào. Người Duy Ngô Nhĩ cùng với Tây Tạng là hai sắc dân bị Trung Quốc đàn áp mạnh mẽ không hề ngưng nghỉ và sự chống đối của hai dân tộc này đang làm nhức nhối thế giới trước những cái chết thương tâm của họ

Chính sách Hán hóa vùng Tân Cương của Trung quốc lên tới cực điểm đã nổ ra xung đột đẫm máu làm cho gần 200 người chết tại Urumqi, thủ phủ của Tân Cương và sau đó kéo theo các vụ sách nhiễu, trả thù và đàn áp người Duy Ngô Nhĩ một cách dã man đã làm cho sắc dân này bùng lên phản kháng mạnh mẽ. Các vụ tấn công công an Trung Quốc và những nhóm dân quân do Trung Quốc lập ra đã khiến hàng trăm người chết cùng hàng trăm người khác bị bắt giam vẫn liên tiếp làm cho người Duy Ngô Nhĩ tháo chạy ra khỏi vùng đất của tổ tiên họ.

Nếu người dân Tây Tạng chống lại Trung Quốc bằng hình thức tự thiêu thì người Duy Ngô Nhĩ chấp nhận dùng máu của mình ra để đổi lấy tự do. Bạo động chống lại người Hán tại Tân Cương đã khiến Trung Quốc có cơ hội lên án họ là khủng bố, tuy nhiên với kết quả điều tra của các tổ chức nhân quyền quốc tế thì chính nhà nước Trung Quốc mới là tác nhân gây ra các vụ bạo động đó.

Điển hình cho các tranh cãi này là vụ 213 người Duy Ngô Nhĩ xin tỵ nạn chính trị tại Thái Lan vào tháng 3 vừa qua đã gây tranh luận về vấn đề này và quốc tế trong đó có Hoa Kỳ đã buộc Thái Lan không được trục xuất họ về Trung Quốc. Cao Ủy tị nạn UNHCR tại Thái Lan đang giải quyết tình trạng di dân của họ thông qua ủng hộ của Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia có cùng tiếng nói như người Duy Ngô Nhĩ.

Giới chức Thái Lan nói với RFA về vụ này rằng họ đang xác minh xem những người Duy Ngô Nhĩ đó có bị buôn bán hay là chạy trốn do bị đàn áp. Một khi hồ sơ hoàn tất họ sẽ được di dân sang nước thứ ba. Hiện nay đa số đã được công nhận bởi Cao ủy tị nạn Liên hiệp quốc.

Khác với Thái Lan, các nước Campuchia, Lào và Malaysia đã không chấp nhận cho người Duy Ngô Nhĩ được sự bảo vệ của Cao Ủy LHQ. Tháng 12 năm 2009 Campuchia trục xuất 20 người Duy Ngô Nhĩ ngay cả khi họ nhận được giấy công nhận của UNHCR và sau đó Lào cũng giải giao cho Trung Quốc hai người còn lại. Malaysia thì trục xuất 6 người về lại Trung Quốc vào năm 2012 bất kể UNHCR đã cấp quy chế cho họ.

” Trung Quốc rất sợ khi những người Duy Ngô Nhĩ vượt thoát ra nước ngoài họ sẽ tiếp tục tổ chức việc chống Trung Quốc và họ sẽ tố cáo những hành động của TQ tại Tân Cương cho thế giới biết. Họ trốn sang Việt Nam là để tiếp tục sang một nước khác … vì vậy cần phải mang họ về Trung Quốc gấp

Giáo sư Calr Thayer”

Để trả công cho những hành động này, Campuchia nhận được hơn 1 tỷ đô la viện trợ của Trung Quốc, Lào được hứa sẽ nhận đầu tư cho đường sắt, chỉ có Malaysia là không nhận được gì khi trả họ về lại đất nước mà họ chạy trốn. Đổi lại Malaysia đã nhận không ít lời lên án của quốc tế trong đó có EU và Hoa kỳ.

Giáo sư Calr Thayer nói về việc Campuchia trục xuất người Duy Ngô Nhĩ về lại Trung Quốc như sau:

-Trường hợp này cũng giống như Cambodia trước đây, Trung Quốc muốn trừng phạt những người này. Trung Quốc rất sợ khi những người Duy Ngô Nhĩ vượt thoát ra nước ngoài họ sẽ tiếp tục tổ chức việc chống Trung Quốc và họ sẽ tố cáo những hành động của Trung Quốc tại Tân Cương cho thế giới biết. Họ trốn sang Việt Nam là để tiếp tục sang một nước khác và nếu để lâu tại Việt Nam không có gì bảo đảm rằng tin tức sẽ không lọt ra ngoài và vì vậy cần phải mang họ về Trung Quốc gấp.

Việc bảo vệ biên giới

Phản ứng của người Duy Ngô Nhĩ tại cửa khẩu Bắc Phong Sơn là điều dễ hiểu khi họ biết rằng bị trao trả cho Trung Quốc đồng nghĩa với trở về địa ngục và sẽ chết trong địa ngục ấy. Cướp súng bắn lại biên phòng, nhảy lầu chạy trốn là phản ứng tuyệt vọng, không ai muốn. Chỉ có bộ đội Việt Nam thiếu kinh nghiệm khi làm hồ sơ trục xuất mà không hiểu cảm giác của nạn nhân như thế nào.

Bộ đội biên phòng Việt Nam lơ là đến nỗi bị cướp mất vũ khí là sai lầm rất lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam. Giống với năm 1979, quân đội không ngờ được sự tấn công của Trung Quốc vào Lạng Sơn vì cứ nghĩ tình nghĩa hai đảng sẽ không có chiến tranh xảy ra và cơn đột biến tình nghĩa ấy đã lấy đi sinh mạng của hàng chục ngàn người.

Giấu diếm các tin tức xấu của Trung Quốc, không cập nhật tình hình chính trị, xáo trộn và bất mãn của người dân Duy Ngô Nhĩ cũng như Tây Tạng đến với toàn quân đã khiến quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục ngủ quên trên tư duy bạn bè đồng chí một lần nữa.

Khi vụ việc cướp súng giết bộ đội đã bùng ra trên hệ thống truyền thông đại chúng nhưng người trách nhiệm vẫn không công nhận họ là người Duy Ngô Nhĩ mặc dù quần áo, tướng mạo của họ đã cho biết điều ấy. Tuyên bố này cho thấy hai điều: nếu người phát ngôn không thể phân biệt người Duy Ngô Nhĩ và Trung Quốc khác nhau thế nào chứng tỏ hệ thống tình báo Việt Nam quá chủ quan. Ngược lại nếu biết nhưng vẫn cố tình đánh đồng sự việc nhằm nhanh chóng bàn giao những người này cho Trung Quốc để lấy điểm thì Việt Nam đã tán đồng hành vi đàn áp người Duy Ngô Nhĩ trong đất nước của họ.

Hai bộ đội bị giết do sự khủng hoảng của người Duy Ngô Nhĩ không phải là nhiều nhưng bức tranh đổ máu vì chủ quan ấy cần phải được sửa sai triệt để nếu không sẽ còn nhiều vụ Duy Ngô Nhĩ khác khi họ tràn vào Việt Nam mà không mang trang phục của người Hồi giáo.

Những bài hát về Sài Gòn được viết sau 1975 từ hải ngoại

Những bài hát về Sài Gòn được viết sau 1975 từ hải ngoại

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2014-04-20

ANCT04202014.mp3

sg2-305 

Sài Gòn trước năm 1975. 

File photo

Chỉ còn ít ngày nữa sẽ đến ngày đánh dấu cuộc ra đi lớn nhất của những người Việt tị nạn sau biến cố 30/4. Và cũng kể từ thời điểm này, nhiều sáng tác viết về miền đất mẹ của những nhạc sĩ hải ngoại mang âm hưởng bi tráng, trầm buồn pha lẫn những nỗi niềm đau đáu, chất chứa về một tương lai bất định ra đi để trở về hay ra đi là mãi mãi?

Và trong chương trình âm nhạc kỳ này, chúng tôi mời quí vị cùng nghe lại một số nhạc phẩm tiêu biểu viết về Sài Gòn của các nhạc sĩ hải ngoại sau năm 1975.

Sài Gòn niềm nhớ không tên

Sài Gòn là chủ đề lớn trong âm nhạc Việt Nam, nhất là sau biến cố 30/4, khi hàng triệu người Việt lưu lạc khắp năm châu bốn bể, khi nỗi nhớ quê nhà càng da diết thì những kìm nén càng dễ tuôn trào, để từ đó có những nhạc phẩm nói lên sự thống thiết, buồn thương về một quá khứ ai cũng từng yêu, từng nhớ. Những ca khúc ghi đậm một quãng đường lịch sử mà chắc hẳn nhiều người Việt xa xứ đều ghi khắc trong tâm khảm, pha chút chạnh lòng, bồi hồi, khắc khoải, tiếc thương như: Khi Xa Sài Gòn của Lê Uyên Phương, Đêm Nhớ Về Sài Gòn của Trầm Tử Thiêng, Nắng Paris, Nắng Sài Gòn của Ngô Thụy Miên, Mưa Sài Gòn Còn Buồn Không Em của Nguyệt Ánh, hay Cho Thành Phố Mất Tên của Phạm Đình Chương và Sài Gòn Sáng Nắng Chiều Mưa, Sài Gòn Vĩnh Biệt Tình Ta của Ngọc Trọng và nhiều series khác viết về Sài Gòn của Phạm Duy hay Trần Chí Phúc… Còn nhiều nhiều lắm những nhạc phẩm để đời, nhưng hình như vang vọng trong ký ức về một khoảng trời xa vắng vẫn là những nỗi nhớ, niềm thương, ray rứt không gọi thành tên:

Nắng bên này buồn lắm anh ơi
Một mình em lê bước trên đời
Nắng nơi đây cũng là nắng ấm
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương

Mưa Sài Gòn còn buồn không Em?

nam_loc-250

Nhạc sĩ Nam Lộc trong một lần trình diễn tác phẩm Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt. Screen capture.

Sài Gòn hai mùa mưa nắng, Hòn Ngọc Viễn Đông một thuở xa vời… những ngày tháng tư, nhớ về Sài Gòn, nhiều người Việt tị nạn hẳn sẽ nhớ về những cơn mưa đến đi bất chợt mỗi chiều hè, nhớ cái nắng hoe vàng trên những con phố nhộn nhịp tiếng còi xe, nhớ những con đường đã đi vào văn thơ, tiểu thuyết: Nguyễn Du, Duy Tân, Lê Lợi… thơ mộng và phồn hoa… nhưng có lẽ hơn cả là nhớ giọng nói của người dân ngọt ngào, mềm mại đến nao lòng.

Với những người Sài Gòn, sẽ rất nhớ nhung khi không còn sống ở Sài Gòn… vẫn biết tương lai tháng ngày còn rất dài nơi đất mới, nhưng lòng vẫn đau đáu, âm ỉ về một quá khứ vàng son. Sau cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm, bao người đã ngã xuống trên đất mẹ, bao người đã bỏ mình trên biển cả, bao nhiêu cuộc đời tưởng chừng sẽ là dĩ vãng… nhưng không, chính dòng nhạc viết về Sài Gòn của những nhạc sĩ hải ngoại đã khơi gợi, đã nhắc nhở, đã để cho thế hệ sau biết rằng từng có một trang sử buồn. Và trong dòng nhạc đó, tác phẩm Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt của nhạc sĩ Nam Lộc được xem là đánh dấu cột mốc đầu tiên viết về chủ đề đó.

Sài Gòn ơi tôi đã mất người trong cuộc đời.

Sài Gòn ơi thôi đã hết thời gian tuyệt vời.

Giờ còn đây những kỷ niệm sống trong tôi.

Những nụ cười ngắt trên môi.

Những giọt lệ ôi sầu đắng

Sài Gòn ơi vĩnh biệt

Viết về Sài Gòn sau ngày 30/4, thường các nhạc sĩ trước hết nói lên chính những suy tâm, hồi tưởng của mình về Sài Gòn, nhưng qua đó các tác phẩm của họ lại đủ sức lay động con tim của những người cùng cảnh ngộ, hầu như những ca từ mà các nhạc sĩ khắc khoải nhớ về cũng chính là những chất chứa mà nhiều người Việt xa xứ, tị nạn muốn thốt lên cho thỏa nỗi niềm, vì thế, những bài hát viết về Sài Gòn sau ngày 30/4 luôn mang giá trị lan tỏa thật lớn trong cộng đồng người Việt hải ngoại.

Thực sự có sống trong những tháng ngày li loạn ấy mới thấu hiểu được vì sao những nhạc phẩm viết về Sài Gòn sau ngày 30/4 có giá trị đến như vậy, bởi với những nhạc sĩ như Nam Lộc, Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, Phạm Duy… họ đã kinh qua những giây phút đau thương, được chứng kiến sự sống còn, và thấu hiểu được giá trị thực của sự tự do là thế nào.

Khi quá khứ đã khép lại, cuộc sống của người Việt dù là hải ngoại hay tại quê nhà đều hướng đến tương lai, nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói: Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.

Vâng, trong những ngày tháng 4, một lần nữa chương trình âm nhạc xin được gửi tới quí vị một chút lắng đọng, một chút hồi tưởng, để tri ân, để nhớ về quá khứ và cũng để vui buồn cùng nhân tình thế thái, thời cuộc hôm nay…

Khi đảng tế trời

Khi đảng tế trời
Sunday, April 20, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Cho đến năm 1982 khi tôi trở về Huế, đi qua đàn Nam Giao, thấy nơi đây đã dựng lên một đài liệt sĩ với bốn chữ “Tổ Quốc Ghi Công,” ngang cửa Ngọ Môn thì thấy chốn này đã thành nơi chiếu phim Liên Xô và Tiệp Khắc. Cộng sản cũng đã san bằng nghĩa địa Ba Tầng, nơi cải táng nạn nhân bị thảm sát trong Tết Mậu Thân để xoá dấu tích tội ác của chúng!

Tôi có cảm tưởng lăng đình miếu mộ đã bị phá nát vì sự hung hãn của những người thắng trận, vốn xuất thân từ giai cấp tiểu nông, khi giành được chính quyền đã nhân danh cách mạng để đập phá, đổi xóa những di tích văn hoá trở thành những nơi chốn gọi là phục vụ nhân dân. Ở miền Bắc cho đến gần thập niên 1990, đình chùa được phục vụ cho chỗ phơi lúa, văn phòng hay kho đụn của hợp tác xã, thậm chí phá bỏ để khuân gạch về xây trại heo cho làng xã.

Festival Huế năm 2008. (Hình: Frank Zeller/AFP/Getty Images)

Học giả Trần Văn Giáp kể lại (theo tài liệu của Ba Sàm) thì vào khoảng năm 1972, đã có một quyết định cho phá bỏ Văn Miếu Quốc Tử Giám, để lấy địa điểm xây dựng nhà máy xe đạp Thống Nhất. Học giả Trần Văn Giáp đã phải vội vã khẩn thiết can gián với Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng, cương quyết cho rằng nếu chính phủ vẫn giữ ý định đó thì ông sẽ xin tự sát ngay tại chỗ, do đó quyết định này phải huỷ bỏ.

Sau khi chiếm Huế, chính quyền cộng sản đã dựng một đài liệt sĩ của bộ đội tại Phú Văn Lâu bằng tôn và gỗ, nhưng sau đó đã bị bọn “phản cách mạng” cho mìn nổ tan. Ðài này được xây dựng lại ngay chỗ cũ, nhưng cộng sản địa phương cho rằng địa điểm này không an toàn nếu có giới chức lớn đến dặt vòng hoa tưởng niệm nên cần xây dựng tại một nơi khác. Hai “đỉnh cao trí tuệ” của Bình Trị Thiên lúc bấy giờ là Bùi San, uỷ viên Trung Ương Ðảng CSVN, bí thư Tỉnh Ủy Bình Trị Thiên, và Trần Hoàn, tỉnh ủy viên, trưởng ty Văn Hóa Tỉnh, đã họp bàn với nhau để tìm địa điểm, cuối cùng “nhất trí’ chọn đàn Nam Giao của triều Nguyễn để xây đựng đài liệt sĩ. Những người hiểu biết tỏ ra bất bình với hành động “vô văn hoá” này nên ca dao XHCN mới có câu:

“Trần Hoàn cùng với Bùi San,
Hai thằng hợp tác phá đàn Nam Giao!”

Như chúng ta đã biết Tế Nam Giao hay tế Giao là lễ tế Trời trên đàn Nam Giao, thuộc hạng đại tế, quan trọng hàng đầu của triều Nhà Nguyễn (1802-1945) do vua đứng chủ tế, trong trường hợp vì một lý do nào đó vua không chủ tế được thì cử một quan đại thần có uy tín và đức độ thay mặt, gọi là quan Khâm Mạng Ðại Thần. Trải các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức và Ðồng Khánh (từ 1802 đến 1889,) việc tế Nam Giao diễn ra hàng năm vào mùa Xuân, từ năm Thành Thái thứ 2 (1890) đổi lại, ba năm mới tế một lần.

Qua các triều vua, tế Nam Giao thay đổi thời gian, vì phải chọn ngày lành, tháng tốt và nghi thức diễn ra rất long trọng. Vua và các quan tham dự đều phải chay tịnh ba ngày trước lễ tế, khi tế có lễ phục riêng. Lễ tế diễn ra lúc nửa đêm về sáng. Ðạo ngự vua đi tế Giao thì huy hoàng, đông đảo nhưng tuyệt đối giữ im lặng để bày tỏ lòng cung kính. Chỉ đến khi tế xong, vua trở về cung thì mới chiêng trống âm nhạc nổi lên, tỏ sự vui mừng đã hoành thành tốt đẹp một ngày lễ lớn của quốc gia.

Lễ Tế Nam Giao cuối cùng của triều Nguyễn do Vua Bảo Ðại chủ lễ, diễn ra lúc nửa đêm về sáng của ngày 23 Tháng Ba, 1945. Sau năm 1945, mặc dù không còn chế độ quân chủ nữa, nhưng khi làm quốc trưởng Quốc Gia Việt Nam, cựu Hoàng Ðế Bảo Ðại, vâng theo lời khuyên của mẹ là bà Từ Cung, đã tổ chức một lễ tế vào năm 1953, tại đất Hoàng Triều Cương Thổ (cao nguyên Trung phần Việt Nam,) làng Boun Trap, cách thị xã Ban Mê Thuộc 10 cây số, với lễ đàn đặc biệt bằng hàng chục con voi dàn hầu.

Sau năm 1945, đàn Nam Giao thành nơi hoang phế, hai triều đại cộng hoà miền Nam xem như đó là chuyện của một thời phong kiến đã qua. Sở dĩ từ năm 1945 đến 1975, trong thời gian chiến tranh khốc liệt, miền Nam phải lo cơm no áo ấm cho dân, những nghi thức tế lễ cổ truyền nếu làm cũng phải tốn kém, mỗi năm chỉ có nghi lễ cầu cho “quốc thái dân an,” vả lại chuyện trời đất thiêng liêng không phải trò đùa, vá víu, đem kịch sĩ đóng vai vua, nhếch nhác như ngày nay.

Từ thời “mở cửa” đến nay, cộng sản vì lợi nhuận, đã cho phục hồi tất cả đền chùa miếu mạo, lăng tẩm của chế độ phong kiến, thống trị, sơn đỏ quét vàng quê hương, áo quần loè loẹt như phường chèo, moi tìm những lễ hội xa xưa tưởng chừng đã quên lãng để làm cảnh mua vui, một là để cho dân quên nạn mất nước, hai là để chiêu dụ những ông Tây, bà đầm không hiểu gì về văn hoá Việt Nam, đến bỏ tiền mua vui.

Cộng Sản Bắc Việt, một đảng vô thần, thì không tin trời mà chẳng kiêng đất, lại miệt thị nhà Nguyễn, không bao giờ phục hồi những gì thuộc về triều đại này. Nhưng năm 2006, khi bắt đầu tổ chức Festival Huế để kiếm khách du lịch, cộng sản cho sửa sang lại đàn Nam Giao, tổ chức tế trời đất, nhưng không có vua chủ tế mà chỉ có người đóng vai vua. Tương truyền ở Huế lâu nay cho rằng, nếu không phải vua mà đứng chủ lễ tế trời, dù là quan Khâm Mệnh Ðại Thần, thì thế nào cũng gặp chuyện không may mà chết. Vì vậy quan chức cộng sản không ai dám đứng ra tế Nam Giao để câu khách, cuối cùng phải nhờ kịch sĩ đóng vai vua, do đó “Nghệ Sĩ Ưu Tú” Ngọc Bình được đề cử. Ông này cũng đã nghe chuyện “bất đắc kỳ tử,” nhưng lệnh đã ban thì phải vâng dạ, nhưng trước khi lên đàn, Ngọc Bình đưa điều kiện: “Tôi không phải vua, nếu tế Nam Giao xong mà bị chết, thì chính quyền phải nuôi vợ con tôi!”

Cuối cùng người “thế mạng” không chết, năm 2012, vào ngày 8 Tháng Tư, trong Festival Huế. Ông Trần Phùng, ủy viên Ban Thường Vụ Tỉnh Ủy , chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc, đứng ra làm chủ tế. Và cuối cùng, năm nay, ngày 17 Tháng Tư, ông Nguyễn Ngọc Thiện, bí thư Tỉnh Uỷ Thừa Thiên-Huế, làm chủ tế Ðàn Nam Giao, cầu cho quốc thái dân an.

Theo tài liệu của nhà Nguyễn từ khi xuất cung và trong khi tế lễ, phải tuyệt đối giữ im lặng, chỉ khi tế xong, chiêng trống âm nhạc nổi lên, thì bây giờ tế Nam Giao phải có chuông lớn, khánh lớn, đánh lên, hợp với kèn trống inh ỏi. Ðây là một loại “phục hồi văn hoá cổ truyền” một cách vá víu, vô văn hoá.

Thay vì người đứng đầu nước là nhà vua chủ tế Nam Giao, Cộng Sản Việt Nam lại dùng hề thay vua, cuối cùng dùng cấp nhỏ thay vua. Mặt khác, những người chủ tế là cấp cao, mà dưới chế độ này đảng cao hơn dân, nên thay vì dùng chủ tịch UBND là người thay cho dân, lại dùng tỉnh uỷ là người đại diện cho đảng. Huế đưa ra một nhân vật “cố vấn” là ông Vĩnh Cao, nói là con cháu hoàng tộc triều Nguyễn, nhiều năm là cán bộ nghiên cứu của Trung Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Ðô Huế, có kiến thức trong lĩnh vực nghi lễ triều Nguyễn hiện nay ở Huế. Nếu vậy thì ông này chẳng biết gì phép tắc của cha ông ngày trước cả.

Xưa nay cộng sản đả kích triều Nguyễn không tiếc lời, xem những chế độ trước là tay sai của thực dân, lại chẳng coi trời đất ra gì, đảng thay cả trời, như Tố Hữu đã viết:

“Nghiêng đồng đổ nước ra sông,
Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa!”

Từ khi chiếm được miền Nam, cộng sản vô thần không những biến thành hữu thần, mà còn trở thành những bộ lạc đầy mê tín dị đoan. Ở con đường Minh Mạng, quận 10, Sài Gòn, những gian hàng mộc, nơi làm trang thờ làm ăn rất phát đạt, anh cộng sản có chức có quyền nào cũng đem về nhà một bàn thờ ông Công, bàn thờ ông Ðịa hay Thần Tài để sì sụp cúng vái. Khi đeo theo bên mình chỉ có cái chén, đôi đũa, đôi dép râu… thì có gì để mất, nhưng khi có chức, có quyền, có nhà, có xe, có hầu non, bồ nhí…thì phải có Thần Tài, Thổ Ðịa hộ mạng giữ gìn.

Theo lời trối trăn của ông Hồ Chí Minh, khi chết sẽ đi tìm ông Mác, bác Lê, chứ không hề nói tìm về với tổ tiên, cội nguồn, nay con cháu bác lại kiêng trời sợ đất, nghề làm nhang đèn trở thành một nghề thịnh đạt, hôm nay rõ ràng mười mươi là đảng đang đứng ra tế trời!

Giờ đây đảng đã biết sợ trời!

Ðiềm lành của đất nước đang đến chăng?