Buôn bán tượng Lenin và kỷ vật Liên Xô

Buôn bán tượng Lenin và kỷ vật Liên Xô

Nguyễn Giang bbcvietnamese.com

  • 3 tháng 10 2014

Tượng Lenin trong một buổi bán đấu giá ở Hungary hồi 2010

Chỉ một ngày sau khi pho tượng lớn của Lenin ở trung tâm Kharkiv bị kéo đổ hôm 28/9, tôi đã được các đồng nghiệp từ BBC Tiếng Ukraine cho hay có người rao bán các mảnh của tượng.

Được biết chỉ mảnh tai không thôi đã nặng 35 kilogram và mũi Lenin cũng bị đem bán.

Bức hình nhóm người dùng búa đập rồi đục đẽo, cắt nát tác phẩm bằng đồng này gợi ra với tôi một hình ảnh không đẹp về mặt văn hóa.

Ta có thể hiểu rằng bối cảnh tranh chấp quân sự hai phe gần như nội chiến ở Ukraine nên vụ đập tượng này trông rất bạo lực.

Còn tại các nước có chuyển đổi thể chế ôn hòa như Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc sau năm 1989 tượng cựu lãnh tụ thường được di dời vào bảo tàng hay vườn lưu niệm chứ không bị dân tự phát đập rồi đem bán.

Hồi 2013, một hãng điện thoại di động Ba Lan còn dùng hình Lenin để quảng cáo và sau phải bỏ đi vì bị phản đối.

Nhưng chuyện không ưa Lenin chỉ dừng lại ở đó, không xảy ra điều gì bạo lực.

Mặt khác, hình tượng Lenin đã thuộc về một quá khứ và rơi vào nhóm sản phẩm đồ lưu niệm của Liên Xô, Đức và nhiều quốc gia Đông Âu khác sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã.

Hồi ở Ba Lan, sau năm 1991, tôi đã thấy nhiều khu chợ trời bán huân huy chương Liên Xô, kể cả các bằng khen, phần thưởng có ngôi sao đỏ, hình tượng búa liềm.

Những người bán hàng đa số là dân Nga hoặc từ vùng thuộc Liên Xô cũ.

Họ đội mũ lông có ngôi sao Hồng quân màu đỏ thắm, đứng dậm chận trong tuyết cho ấm, miệng ngậm thuốc lá, tay cầm cốc trà bốc khói để chống lại cái giá rét ngoài trời.

Có người rao bán các mảnh của tượng Lenin ở Ukraine trên trang đấu giá

Trên tấ́m nilon trải dưới đất là thôi rồi đủ thứ kỷ vật của thời Liên Xô, từ huy chương, huy hiệu, quân phục Xô – Viết, mũ mãng, thắt lưng, bao da túi sách.

Nghe nói nếu hỏi kỹ và sẵn sàng trả tiền, người bán hàng có thể dẫn bạn đến người bán có hàng là súng AK-47 hoặc lựu đạn chưa hề rút chốt.

Ở Ba Lan vào thập niên 1990, tôi không hiểu người ta mua làm gì mấy thứ hàng ‘Made in USSR’ hoặc còn nguyên tiếng Nga là CCCP.

Nhưng sang Anh năm 1999, khi ở nhờ nhà một anh bạn Ba Lan, tôi mới biết nhiều người Đông Âu đóng thùng mang sang Tây Âu hàng lưu niệm Liên Xô, từ tượng Lenin tới huân huy chương Lenin, và các giấy tờ thời Chiến tranh Lạnh.

Hóa ra ở Anh, Pháp, Đức và cả Mỹ, Canada, Israel có cả một thị trường tiêu thụ khá lớn.

Vì ở Nga thời hậu cộng sản, giao dịch trên Internet chưa phát triển nên những người Ba Lan ‘khôn ngoan’ đã dùng hệ thống bưu chính Anh và Đức để bán hàng đi khắp thế giới.

Người mua có hai loại, theo như anh bạn tôi, Krystian giải thích.

Một là giới sưu tập chuyên nghiệp mua để giữ giá rồi bán lại vào các bảo tàng hoặc trên thị trường cổ vật.

Hai là giới amateur, tức là hiếu kỳ thì mua về để trong nhà vì ưa của lạ.

Nhưng còn nhóm thứ ba, đông hơn, ít tiền hơn nhưng mua kỷ vật vì có liên hệ tình cảm gì đó với khối cộng sản cũ.

Cũng không lạ, vì vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, hàng cả triệu người từ phía Đông của châu Âu di cư, chạy loạn sang phía Tây trong khi thân nhân của họ ở lại bên kia Bức màn sắt.

Không tính Đức bị chia cắt mà rất nhiều công dân Anh, Mỹ, Canada, Israel đều có bà con họ hàng hoặc tổ tiên ở Ba Lan, Nga, Ukraine, Bulgaria, Hungary, Tiệp Khắc…

Có người tìm mua cả những tài liệu, bản đồ, sách báo về các thành phố cụ thể ở khắp vùng Liên Xô cũ.

Một quảng cáo điện thoại ở Ba Lan hồi 2013 dùng hình Lenin

Có người ưa tìm đồ quân sự cũ (militaria) và có ông là lính Bạch Vệ nhưng lại tìm mua những thứ của phe Hồng quân.

Và khác với các vật phẩm của Đức Quốc xã (Nazi) bị cấm buôn bán, ‘hàng đỏ’ từ Liên Xô được mua đi bán lại thoải mái.

Giá thị trường

Nhưng gần đây, khi hỏi lại người bạn Ba Lan về chuyện buôn bán huân huy chương của thời cộng sản Đông Âu mà anh cũng có tham gia ít nhiều thì tôi được nghe là thị trường này đã hoàn toàn ế ẩm.

Mấy năm gần đây, các trang chuyên kinh doanh cổ vật, đồ sưu tập bằng tiếng Anh đã mở chi nhánh ngay tại Nga và vùng thuộc Liên Xô cũ, và người ta mua bán trao đổi trực tiếp, không cần mấy người Ba Lan làm trung gian.

Nhưng cũng vì Liên Xô đã đúc ra quá nhiều tượng Lenin, dập ra quá nhiều huân chương các loại nên hàng này cũng bắt đầu bị ế thảm hại.

Nhà anh bạn Ba Lan của tôi còn vài ký lô huy chương mang hình Lenin, nay để xó nhà.

Vào kiểm các trang đấu giá như eBay hay www.invaluable.co.uk tại Anh tuần này, tôi thấy giá tượng bán thân hoặc tượng chân dung (chỉ có đầu) của Lenin được rao bán (bidding) chỉ từ khoảng 118 tới 149 bảng.

Thậm chí tại Mông Cổ, theo trang www.paulfrasercollectibles.com hồi 2012, sau khi bức tượng Lenin 58 tuổi ở Ulan Bator bị kéo đổ, giá rao bán của nó chỉ bắt đầu ở mức 300 USD.

Khác với tranh thánh của đạo Chính Thống (chủ yếu ở Nga và Bulgaria) vốn ngày càng trở nên hiếm hoi nên luôn được giá, nay chỉ những vật phẩm gì có ý nghĩa lịch sử cụ thể mới có khách mua.

Tài liệu và huy chương Lenin trưng bày tại Bulgaria sau thời cộng sản

Chẳng hạn một lá thư từ năm 1915 do Lenin ký tên nói về một hội nghị của đảng Xã hội Nga đã được bá́n trên mạng đấu giá ở Hoa Kỳ năm 2010 với giá 12500 USD.

Gần đây, một huy chương nạm vàng do cơ quan công an khét tiếng NKVD của Liên Xô cũ trao tặng cho một sỹ quan an ninh nhân kỷ niệm 10 năm cách mạng Nga, được rao bán với giá 19 nghìn USD ở Mỹ.

Hàng lạ, như một tấm huy chương Liên Xô đúc năm 1992 (sau khi quốc gia này tan rã năm 1991 nhưng nhà máy vẫn tiếp tục sản xuất) lại có giá hơn huy chương đúc ra đúng kỳ hạn.

Thị trường hóa ra chỉ cần ‘của hiếm’, gắn liền với những sự kiện lịch sử hay cá nhân cụ thể.

Điều nghịch lý là Lenin khi sống đã cố gắng xóa các tôn giáo nhưng sau khi chết lại bị Liên Xô biến thành một thứ ngẫu tượng để tôn thờ và tạo ra nạn lạm phát hình tượng của ông.

Xét cho cùng, dù có những ở người Việt Nam vẫn kính trọng Lenin nhưng cả họ và ông đều không thắng được những quy luật của lịch sử và nguyên tắc thị trường.

Những biểu tượng Lenin để lại đã nói lên một thời vinh quang và tàn khốc của Liên Xô, và cũng chỉ một thời mà thôi.

 

KINH KÍNH MỪNG – LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH

KINH KÍNH MỪNG – LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

1. Kinh Kính Mừng

Kính mừng Maria đầy ơn phúc

Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận : ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc“. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.

Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.

Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc“. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này : “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ : “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi“. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.

2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô : “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết“.

Thánh Bênađô nói : “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ“.

Còn thánh Bônaventura nói : “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng“.

Theo thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi“.

Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng“.

Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục : “Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày“. Và nhất là : “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình“.

3. Lời kinh cầu cho hòa bình

Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm nay, năm 2014, Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt  qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.

Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.

Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.

Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.

Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

THÁNH PHANXICÔ ASSISI, SỨ GIẢ HÒA BÌNH

THÁNH PHANXICÔ ASSISI, SỨ GIẢ HÒA BÌNH

Ngày 04-10 hàng năm, Giáo Hội kính nhớ một vị thánh được nhắc nhớ, yêu mến và tôn kính nhiều nhất, đó là Thánh Phanxicô Assisi, vị sứ giả hoà bình.  Cuộc sống của ngài thật đơn sơ thanh thoát, sống hòa bình, thực thi hòa giải, đã trở thành lý tưởng cho con người của mọi thời đại.

1. Thánh Phanxicô chọn nếp sống nghèo khó

Phanxicô chào đời vào khoảng cuối năm 1182, tại thành Assisi phía bắc Rôma.  Cha của ngài là ông Phêrô Bênađônê, một thương gia chuyên nghề bán len dạ.  Mẹ là bà Pica, một phụ nữ hiền đức.  Cậu Phanxicô rất hào hoa, lại được gia đình giàu có nuông chiều, nên mặc sức ăn chơi phung phí.  Mộng công danh thôi thúc, Phanxicô theo bá tước Gauthie de Brienneur đi chinh phục vùng Apulia, gần thành Assisi.  Nhưng ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Phanxicô đau nặng và bắt buộc phải trở về quê hương.  Lần này, tuy vẫn ăn chơi như trước, nhưng Phanxicô cảm thấy những thú vui xưa kia dần dần mất hết ý nghĩa.  Thế rồi Phanxicô đi tìm lý tưởng cao đẹp hơn.  Một hôm, lúc đang cầu nguyện trong nguyện đường Đamianô nhỏ bé, Phanxicô nghe tiếng Chúa phán ra từ cây Thánh Giá: “Phanxicô, con hãy đi sửa lại ngôi đền thờ của ta đang đổ nát!”  Phanxicô hiểu câu nói này cách nông cạn, nên tình nguyện đi xin từng viên đá đem về sửa lại các Nhà thờ cạnh Assisi.  Trong hai năm, ngài đi hành khất, sống ẩn dật và sửa sang ba nhà thờ đổ nát trong miền Assisi: nhà thờ Thánh Đamianô, nhà thờ Thánh Phêrô và nhà thờ Đức Bà Porziuncula.  Phanxicô chưa hiểu rằng, ngôi đền thờ mà Chúa muốn nói chính là Hội Thánh.

Ngày 24-2-1208, đang dự lễ, Phanxicô nghe được đoạn Phúc Âm: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng… Các con đừng mang theo tiền bạc, bao gậy…” (Mt 10, 10).   Phanxicô nhận ra tiếng gọi của Chúa, nên quyết tâm triệt để sống khó nghèo và theo Chúa trên con đường Thập Giá (Mt 19, 21 ; Lc 9, 1-6 ; Mt 16, 24).   Phanxicô công khai từ bỏ cha ruột của mình để thuộc trọn về Chúa.  Ngài từ bỏ những cuộc vui chơi tiệc tùng với bạn bè để đi giúp những người phung cùi, những kẻ vô gia cư và những người bị xã hội khai trừ.  Với tình yêu sự khó nghèo, Phanxicô yêu những người nghèo, những bệnh nhân.  Ngài nhìn thấy Chúa Giêsu ở nơi họ.  Ngài chỉ muốn giống Chúa Giêsu cách trọn vẹn trong khó nghèo, trong tình yêu, trong sự giảng dạy và trong đau khổ.

Lối sống của ngài thu hút trước tiên hai anh bạn đồng hương: anh Bernađô Cantavalê giàu có và anh Phêrô Catanê, nhà giáo luật.  Tiếp đó có 9 anh khác nhập đoàn.  Họ trở thành 12 “người đền tội” và lữ hành, không nhà cửa hoặc nơi cư trú cố định.  Lúc đầu Phanxicô soạn một ít quy luật sống và đã được Đức Giáo Hoàng Innôxentê III chấp thuận bằng miệng; cuối cùng, ngài viết ra bản Luật Dòng Anh em Hèn mọn và đã được Đức Giáo Hoàng Hônôriô III phê chuẩn năm 1223 bằng sắc dụ.

Phanxicô bị giằng co giữa một đời sống tận hiến cho sự cầu nguyện và một đời sống tích cực rao giảng Tin Mừng.  Và ngài đã quyết định theo đuổi đường lối sau, nhưng luôn luôn trở về sự tĩnh mịch bất cứ khi nào có cơ hội.  Ngài muốn đến truyền giáo ở Syria và Phi Châu, nhưng trong cả hai trường hợp ngài đều bị đắm tàu và đau nặng.  Ngài cũng cố gắng hoán cải các vua Hồi Giáo ở Ai Cập trong lần Thập Tự Chinh thứ năm.

Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau nặng.  Hai năm trước khi chết, ngài được in năm dấu thánh, là những vết thương của Ðức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài. Trong giờ phút cuối cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài Ca Anh Mặt Trời, “Ôi lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người Chị Tử Thần.”  Ngài hát Thánh Vịnh 141, và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Ðức Giêsu Kitô.  Ngài qua đời vào tối ngày 3-10-1226.  Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX đã phong ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 16-7-1228.

2. Thánh Phanxicô được nhận Năm Dấu Thánh

“Sáng tinh sương ngày 14 tháng 9 năm 1224, tức là ngày lễ Suy tôn Thánh giá, trên đỉnh Alverna đã xảy ra một phép lạ tân kỳ.  Lúc mặt trời gần dãi lên nền trời những tia sáng vàng tươi, Phanxicô quì tựa lưng vào một tảng đá, hướng về phương đông, mắt tuôn đôi hàng lệ, ngài than thở: “Lạy Chúa, trước lúc qua khỏi đời này, con chỉ xin Chúa ban cho con hai ơn: một là, xin Chúa cho tâm hồn cũng như thể xác con cảm thông hết nỗi đau đến thê thảm Chúa chịu trong giờ tử nạn; hai là, xưa kia khi Chúa tử nạn, Chúa yêu loài người tội lỗi chúng con đến độ nào, thì xin cho lòng con cũng được yêu Chúa đến độ ấy.”  Bỗng vụt như làn chớp, một thiên thần Chí ái tự trời bay xuống.  Sáu cánh chói loà.  Hai cánh phủ đầu, hai cánh dương bay và hai cánh khép che toàn thân.  Thiên thần hiện xuống đứng trên phiến đá, rõ hình một người chịu đóng đinh vào thánh giá.  Thiên thần ấy chính là Chúa Giêsu tử nạn, mặc hình người hiện đến với Phanxicô.  Ngài nhìn Phanxicô, đôi mắt như thiết tha, như thiêu cháy cả tâm hồn rồi vụt biến.  Phanxicô quỵ xuống, ngất đi.  Khi bừng tỉnh dậy, ngài thấy tay chân đã bị đinh đóng thâu qua.  Đầu đinh tròn và đen nổi rõ giữa lòng bàn tay và trên mặt bàn chân.  Đinh đóng thâu qua tay chân, mũi đinh quắp lại trên lưng bàn tay và giữa gan bàn chân.  Ngực bên phải, cạnh trái tim, dấu một lưỡi đòng đâm qua còn nguyên nét, máu chảy rìn rịt thấm ướt đến tận lớp áo ngoài.”

Phép lạ Năm Dấu là lời đáp trả ân cần của Chúa cho bao nỗi khao khát và bao nỗ lực của Phanxicô để được nên giống với Người trong cuộc thương khó.

Nhìn lên huy hiệu và khẩu hiệu của Dòng Anh Em Hèn Mọn, người ta có thể biết phần nào nền linh đạo Phan sinh.  Khẩu hiệu đó là: Caritas (Tình yêu) và huy hiệu là một thập giá với hai cánh tay bắc chéo nhau, một của Chúa Kitô và một của Thánh Phanxicô sau ngày lãnh Năm Dấu.  Nghèo khó, khiêm hạ, phục vụ vô điều kiện, yêu mến cách riêng những người nghèo khổ bé mọn … là hậu quả tất nhiên của việc thường xuyên chiêm ngưỡng thánh giá và lòng yêu mến Chúa Giêsu chịu đóng đinh. (Lm Nguyễn Hồng Giáo. ofm)

3. Phanxicô, sứ giả hoà bình

Khi thánh Phanxicô cư ngụ tại Agodio, có một con chó sói hung dữ đã xuất hiện, quấy nhiễu và gieo rắc tai họa cho mọi người.  Mỗi lần đi ra ngoài, ai ai cũng phải trang bị khí giới sẳn sàng giao chiến với con thú dữ, có người sợ đến nỗi không dám ra khỏi nhà.  Thấy vậy, ngày nọ thánh nhân quyết định đến chạm chán với con thú dữ, Ngài làm dấu thánh giá, đặt tất cả tin tưởng vào Chúa, rồi tiến thẳng đến trước mặt con vật.  Vừa thấy thánh nhân, con vật nhe răng và chuẩn bị tấn công, nhưng thánh nhân không lùi bước.  Ngài tiến lại gần, làm dấu thánh giá và gọi nó lại.  Ngài nói với nó như trò chuyện với một con người: Này anh sói, anh lại đây, nhân danh Chúa Kitô tôi truyền cho anh đừng hãm hại ai nữa.”

Như một phép lạ, con chó sói hung dữ ngoan ngoãn khép miệng lại và quấn quýt bên thánh nhân, thánh nhân lại tiếp tục bài giảng: “Này anh sói, anh đã gây ra không biết bao thiệt hại cho vùng này, anh giết hại những tạo vật của Chúa mà không có phép Ngài, anh không những sát hại súc vật mà còn giết hại cả loài người là hình ảnh của Thiên Chúa nữa, anh đáng bị trừng phạt vì tội giết người, ai cũng ca thán kêu ca vì anh.  Nhưng tôi, tôi muốn giảng hoà giữa anh và họ để anh không còn hãm hại ai nữa.”

Thánh nhân vừa nói xong những lời đó thì con sói vặn mình ra chiều sám hối và chấp nhận đề nghị của Ngài, thánh nhân nói tiếp:  “Này anh sói, hẳn anh thích được làm hoà với mọi người.  Tôi hứa rằng: bao lâu anh còn sống anh sẽ không bị đói khát nữa, anh có hứa với tôi là sẽ không hãm hại bất cứ người và vật nào nữa không?  Con vật cúi đầu như đoan hứa, thánh nhân đặt tay trên nó và đại diện cho thị dân Agodio long trọng cam kết những lời Ngài vừa hứa với con chó sói.”

Con chó sói đã được sống 2 năm tại Agodio, ngày ngày ra vào bất cứ nhà nào như chính nhà của nó, nó không làm hại ai mà cũng chẳng ai hãm hại nó, sau 2 năm, con vật qua đời giữa tiếng thương khóc của dân Agodio.

Giai thoại về con chó sói Agodio và bài ca vạn vật của thánh Phanxicô chứng minh ngài là hiện thân của hoà bình, là sứ giả của bất bạo động.  Ngài giao hòa với vạn vật, với thiên nhiên, với chim trời, với núi rừng, với không khí, với nước non.  Chỉ với một tâm hồn thanh thản và hài hoà với thiên nhiên với con người như thế mới có thể xây dựng hoà bình.  Thánh Phanxicô chính là vị sứ giả hoà bình.

Tình huynh đệ của Phanxicô không dừng lại nơi loài người, nhưng còn nới rộng ra tới mọi tạo vật, sống động cũng như vô tri vô giác trong vũ trụ.  Ngài không coi tạo vật là xấu xa, nguy hiểm phải đề phòng.  Ngài cũng không có thái độ chủ nhân ông, nhìn tạo vật chỉ là đối tượng cho mình khai thác tùy thích.  Nhưng ngài thiết lập một mối quan hệ thân ái, hài hòa với mọi vật.  Ngài đã sáng tác “Bài ca vạn vật” để ca ngợi mọi công trình tạo dựng của Thiên Chúa: mặt trời, mặt trăng, tinh tú, gió, nước, lửa, trái đất với ngàn hoa, cây cỏ và trái trăng.  Ngài gọi tạo vật là anh, chị: anh Cá, anh Chim, chị Trăng, chị Nước… không chỉ theo nghĩa thi phú, mà theo một cảm nghiệm sâu xa rằng tất cả đều là công trình của Cha trên trời và mang dấu ấn của tình thương.

Phanxicô muốn người ta quí chuộng thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên; ngài dạy các môn đệ mình khi đốn cây sử dụng theo nhu cầu, thì đừng chặt tận gốc, để cây còn có thể đâm chồi mới.  Con người thời đại chúng ta có thể học biết bao nhiêu điều nơi thái độ của thánh nhân.  Chắc chắn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nghĩ như thế khi ban Tông Thư ngày 29-9-1979 công bố thánh Phanxicô là bổn mạng các nhà môi sinh học.  Suốt cuộc đời, Thánh Phanxicô luôn quan niệm sống là sống với, sống chung chan hòa với con người và muôn tạo vật.

Lạy Chúa, nhờ lời cầu bầu của thánh Phanxicô, xin cho chúng con biết yêu chuộng hoà bình, hòa bình với mọi người và nhất là với những người đối nghịch với chúng con. Xin cho lời kinh Hoà Bình mà thánh Phanxicô để lại được thấm vào tim, vào phổi, vào khối óc của chúng con biến chúng con thành người sứ giả hoà bình của Chúa. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?

“Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?”
“Sao còn lờ lững che ngang, rừng cây.
Sao còn hờ hững với tôi, từng giây.
Hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây”?

(Nhạc Ngoại Quốc – Lời Việt: Mây Lang Thang do Nam Lộc viết)

(1Cor 15: 10-11)

Trần Ngọc Mười Hai

Mây bay mãi, không quay về đây, điều đó thật dễ hiểu. Nhưng nếu hỏi mây: “Sao còn hờ hững với tôi từng giây, hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây?” thì bố ai mà trả lời cho đúng được. Còn khó hơn cả cái trò “Đố vui để …chọc” nữa, nếu bạn lại cứ hát và cứ hỏi những câu nghe phát khiếp, như sau:

“Mây, xin dừng chân đến bên tôi, một đêm.

Xin đừng bay chốn môi hôn, thật êm.

Xin đừng nghe gió dâng lên, thật cao.

Xin đừng ân ái với muôn, vì sao”.

(Nam Lộc – bđd)

Hát như thế, kể cũng khá ư là lấn cấn. Lấn và cấn hơn nữa, vẫn là câu hát đầy những xót xa suốt một đời, chỉ vì yêu! Thôi thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ nghe xong bài hát đã, rồi sẽ biết.

“Đời tôi đã, xót xa nhiều cũng vì yêu!

Niềm thương nhớ, biết đến bao giờ làm mây quên lãng!

Chào mây nhé, mây bay về, về phía trời cao!

Ôi niềm ao ước, mối tình tha thướt, như làn mây lướt!”

(Nam Lộc – bđd)

Chao ôi, những lời là lời và cũng là lời lẽ, rất tiếng Việt! Lời Việt, nhiều lúc cũng thấy nói: “xót xa một đời, cũng vì yêu!” Ôi chao! nhạc và lời. Nhạc và lời đây, muốn nói lên một nhận-định gồm những nhắn nhủ gửi đến mọi người, mỗi khi yêu.

Vâng. Có thể là như thế. Như thế, tức: nghệ-sĩ đời, nay vẫn cứ là hay hát những lời tình-tứ rất nhiều tình-tự như “lang thang” nhiều mây xám, xót xa nhiều, chỉ vì yêu! Ấy vậy mà, mây mưa vần vũ lại vẫn yêu hoài và yêu mãi, rất lang thang/lảng vảng giống như mây! Vâng. Một khi đã có tình-tự đầy những mây mưa, trăng gió, với bão lòng, thì nghệ sĩ nhà mình còn muốn hát, thêm một câu như sau:

“Mây, mây buồn mây khóc mỗi khi vào mưa.

Hay là mây nhớ mối duyên tình xưa.

Khi tình chưa biết đớn đau là chi,

Khi dòng nước mắt chưa hoen vào mi.”

(Nam Lộc – bđd)

Mây mà cũng biết buồn biết khóc sao? Biết cả đến nói đùa như những điều tai nghe mắt thấy được cả những chuyện tưởng như thật. Thật ra thì, không chỉ mỗi người nghe và người thấy là biết được điều ấy mà thôi, nhưng cả người hát những lời như thế đấy, cũng thấy thoải mái với những lời từ đấng bậc vị vọng ở trên cao, rất Giáo-hội! Những lời lẽ rất hài-hước rất đáng cười rộ như sau:

“Hôm ấy, ngày Tình-nhân năm 2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có bài nói chuyện với các cặp vợ chồng, nam nữ thứ thiệt. Rồi, trong một thoáng rất nhanh, hầu như để minh-hoạ cho những điều tốt/xấu gặp phải trong đời chồng/vợ, Đức Phanxicô bèn có lời nhắn với người nghe như một sự thật, rằng: Anh chị em, đừng tỏ ra hãi sợ khi phải giáp mặt với các khó khăn trong đời vợ/chồng…

Mọi người chúng ta đều đã biết: chẳng bao giờ có cái-gọi-là gia-đình trọn-hảo hết. Cũng chẳng khi nào lại có cái-gọi-là người-chồng-lý-tưởng, hết. Người chồng hoặc người vợ lý-tưởng, chẳng bao giờ xuất hiện trên cõi đời này… Nói đến đây, Đức Giáo Hoàng bèn ứng-khẩu bằng câu nói: ‘Tôi đây, dù cũng có mẹ/có cha nhưng chả bao giờ có cái-gọi-là “bà già vợ” hết, nhưng trong suốt đời mình, tôi cũng từng chiến đấu không ngừng nghỉ với những Satan, rất đầy mình… giống như thế. Nói đến đây, tôi sực nhớ đến câu hỏi: có gì khác biệt giữa cái mà bên tiếng Anh người ta gọi là “Out-laws” (tức: những người sống ngoài vòng pháp-luật) và “In-laws” (tức: “xuôi-gia” hoặc “oan-gia” bên tiếng Việt). Nhưng, thực tế vẫn có câu: “The outlaws are always wanted, but not in-laws”.. (tức: người sống ngoài vòng pháp-luật luôn được chiếu-cố vẫn rất muốn, còn hai bên xuôi-gia thì không!). Nói đến đây, Đức Giáo Hoàng bèn nhớ lại câu chuyện khá buồn cười về các bà mẹ vợ/mẹ chồng rất “in-laws”, bèn kể lại như sau:

Có lần đi sở thú để tham quan/thư giãn, tôi chợt thấy tự dưng có người đàn ông cứ hớt-hơ hớt-hải chạy đến chỗ tôi yêu cầu một điều gì xem chừng quan-trọng lắm. Không để cho người này kịp phân-trần, tôi bèn hỏi trước:

-Chuyện gì thế anh?

-Dạ thưa cha. Cũng vẫn chuyện bà má vợ của con mà ra thôi!

-Cha chả, chắc anh đây lại gặp rắc rối với bà má vợ rồi phải không?

-Dạ không phải thế đâu, thưa Cha. Chả là: bà má vợ của con sơ ý thế nào đó, té ngay xuống chuồng nuôi nhốt mấy chú cá sấu ở đằng đó, mà thôi!…

-Thế, anh muốn tôi làm gì cho anh đây? Nhảy xuống đó để cứu cụ bà má vợ anh hả?

-Dạ, không dám đâu. Con chỉ xin Cha cầu nguyện nhiều cho mấy cá sấu đáng thương ấy, thôi!”

(Truyện kể trên mạng: Pope Francis meets lovers for St Valentine’s jokes about mother-in-laws, Philip Putella 14/2/2014)

Quả là, Tây với Ta hay Tầu, đâu cũng có khác-biệt trong đối-xử với xui-gia hoặc oan-gia, có bà má chồng/má vợ, ở nhà. Với người Việt, thì chỉ “bà mẹ chồng” mới thành chuyện. Còn bên Tây, người ta chỉ “ái-ngại” mỗi “Bà dzà dzợ” thứ thiệt, chứ chẳng chơi.

Lại cũng thế, điều khác-biệt giữa người thường ngoài đời và đấng bậc ở trong Đạo, là như câu hát: “Đời tôi đã xót xa nhiều, cũng vì yêu” thấy cũng “sợ”. Sợ ở đây, không chỉ mấy chú cá sấu dữ-tợn đang đói bụng, mà là: sợ ai đó chỉ vì mỗi chữ “yêu” hoặc “ghét”, thôi! Cũng vì, quá yêu vợ/yêu chồng, nên mới sợ?

Sợ hay không, những ai có kinh-nghiệm từng-trải về chuyện yêu-đương hay đương yêu, mới biết được. Sợ ở đây, thật ra cũng chẳng là sợ “sự-thật-mất-lòng”, ai nào biết.  Thôi thì, hôm nay, đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta cứ để đó mọi chuyện, hạ hồi phân-giải. Nay, hãy đi vào phần “phiếm loạn” cho mọi người nhờ.  Nhưng, trước khi đi vào đoạn “phiếm” khá tương-đối, lại cũng xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm đôi câu hát để nghĩ tiếp:

“Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây?

Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu?

Xin dừng chân nói với nhau một câu.

Xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu”.

(Nam Lộc – bđd)

Vâng đúng thế. “Xin đừng câm nín với nhau dài lâu” nhưng hãy cứ phiếm. Phiếm, bằng sự thể kể ra đây đôi điều vẫn cần bàn, ở chốn thị thành, như sau:

“Anh chị em thân mến,

Hôm nay tôi viết thư này gửi đến anh chị em nhân ngày lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Vào Đền thờ. Thánh-sử Luca cho ta biết: đã từ lâu, Đức Mẹ và thánh Giuse vẫn tuân-giữ luật Môsê, nên đã quyết-định đem Hài Nhi Giêsu vào Đền thờ mà dâng Ngài lên Thiên-Chúa. Và khi ấy, có người đàn ông tên Simêôn, là người công-chính, mộ-đạo và có cả bà Anna được Thánh Thần Chúa thúc đẩy đã ra đi gặp các ngài, nên nhận ra được Hài Nhi Giêsu đích-thực là Đấng Thiên-Sai, Chúa gửi đến. Ông Simêôn lúc ấy đã xin bồng/ẵm Hài Nhi trên tay mà chúc tụng Thiên-Chúa rồi nói: cuối cùng thì ông cũng đã “thấy” được ơn cứu-chuộc tỏ ánh vinh-quang trên dân Người.

Và thánh Anna, dù đang ở tuổi cao niên, cũng thấy được nguồn sinh-lực mới giúp bà khởi sự nói cho mọi người biết về Hài Nhi Đức Chúa. Đây là hình-ảnh tuyệt đẹp: bậc cha mẹ trẻ hiệp cùng với hai vị cao niên được Chúa run rủi để gặp gỡ nhau. Hài Nhi Đức Chúa là Đấng đem mọi người đến với nhau và nối-kết mọi thế-hệ được hiệp-thông yêu thương lẫn nhau. Ngài là suối-nguồn tình-yêu đã vượt qua mọi giai-đoạn tự lôi kéo mọi sự về mình, bứt phá tâm-trạng lẻ loi, buồn bã. Bằng vào hành-trình rong ruổi theo cách của gia-đình đùm bọc, anh chị em vẫn cùng nhau san sẻ nhiều thời-khắc quý-báu trong đời, như: cùng ăn uống, ngơi nghỉ, làm việc lao động, giải-trí cũng như cầu-nguyện hoặc đi hành hương đây đó, vẫn là những giờ phút hỗ trợ nhau.

Đàng khác, nơi nào không có tình yêu-thương, ở đó chẳng bao giờ có niềm an vui,êm ấm. Và tình-yêu đích-thực chỉ đến với ta từ Đức GIêsu mà thôi. Ngài phú-ban cho ta lời lẽ chiếu sáng con đường ta rong ruổi trên đường đời và Ngài còn ban cả Bánh sự sống phụ giúp ta trong chuỗi ngày rong ruổi đường dài ấy.

Anh chị em trong các Gia đình thân mến,

Lời lẽ và tâm tình anh chị em nguyện cầu cho Thượng Hội Đồng Giám mục sắp diễn ra nơi đây, sẽ là thứ vàng bạc/châu báu làm giàu Hội thánh ta. Tôi xin gửi lời cảm tạ và cũng xin anh chị em thêm lời cầu nguyện cho tôi , để tôi có sức phục vụ dân con của Chúa trong sự thật và tình thương-yêu. Cũng xin Mẹ rất thánh và thánh Giuse luôn tháp-tùng tất cả anh chị em và giúp anh chị em vững bước trong yêu-thương và chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau. Giờ này đây, tôi thật lòng khẩn nài Thiên Chúa đầy lòng xót thương đổ muôn ơn lành thánh xuống tất cả mọi gia-đình”. (x. tập san The Majellan Family số tháng 7-9/2014, trích dẫn thư Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi hết mọi gia-đình, tr. 1-3).

Thế đó, là lời lẽ của đấng bậc ở tít trên cao toà nhà Hội thánh diễn tả về tình gia-đình, và tình mọi người cần có với gia-đình và với nhau. Dù, người đó có là “mẹ chồng” hay “mẹ vợ”, cũng vẫn tốt. Miễn sao tình thương-yêu lành-thánh cứ đổ tràn lan sang với mọi người.

Thế đó, là tình-yêu vẫn được ấp-ủ trong gia đình. Gia đình sẽ không là gì cả, nếu không có tình-yêu. Bởi tình-yêu, là cột-trụ chống đỡ và gìn giữ mọi thứ tình của người đời. Cả với bạn bè/người thân. Cả với chòm xóm, nhóm-hội đoàn thể trong xã hội hoặc Giáo-hội.

Tình gia-đình trước hết và trên hết, vẫn được bậc mẹ cha trân-trọng và duy-trì bất chấp mọi hoàn-cảnh đau-đớn, khó-khăn có thể có. Điều này, được người viết không ghi danh viết xuống thành thơ, thành văn rất tâm-tình, như truyện kể nhè nhẹ, ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi,chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oàn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:

– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn mỗi tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra số gạo đó.
– Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ.Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm.

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại.Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nỡ…

Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học. Lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần… Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ. Chị nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.

Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị, nói:

-Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi. Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:
-Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được. Thầy vừa nói vừa lắc đầu.

-Nhận vào! Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh. Mặt người mẹ đỏ ửng lên. Chị khẽ đến bên thầy nói:

-Tôi có 5 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?

-Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước. Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng, chân tay thừa thải vì chẳng biết làm thế nào. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:

– Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?
– Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế! Người phụ nữ bối rối.
– Thật buồn cười cái nhà chị này! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào! Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.
Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệt, nhợt nhạt. Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về. Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến. Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.
Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy. Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:

– Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi gì thế này. Chị mang về đi. Tôi không nhận!

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát. Chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ. Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế. Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng. Một bên chân quắt queo lại rồi nói:
– Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm… Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất!

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế. Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị đã lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng ngõ hẻm bên xóm khác xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về. Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng. Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ:

– Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ! chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị. Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hổ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:

– Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đầy đủ như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về. Lòng thầy xót xa. Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra, học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của thủ đô. Trong lễ vinh danh học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có điều rất lạ, là: trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất. Ai cũng thắc mắc, không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong bầu khí trang nghiêm buổi lễ ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài. Cả trường lặng đi vì xúc động.Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về. Thầy nói:

– Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, Tiền, vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc. Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu tùng bước khó nhọc bước lên sân khấu. Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

– Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả, mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run, vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.
Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:

-Mẹ ơi ! Mẹ của con…(Linh Đan dịch từ truyện ngắn khuyết danh của Trung Quốc)

Dịch từ bản nào cũng là dịch. Diễn từ bài ở đâu, cũng là diễn. Miễn là, văn bản và bài bản đều diễn-tả tình thương yêu từ người này đem đến cho người khác. Có thể, tình thương yêu đó do từ người mẹ. Cũng có thể từ người thầy, người cha tinh-thần ở chốn cao, nơi Hội thánh. Tất cả đều nói lên thứ tình cần cần diễn-đạt, như đấng thánh hiền-lành khi xưa từng ghi rõ, cho mọi người:

“Nhưng tôi có là gì,

cũng là nhờ ơn Thiên Chúa,

và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu;

trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác,

nhưng không phải tôi,

mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.

Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng,

thì chúng tôi đều rao giảng như thế,

và anh em đã tin như vậy.”

(1Cor 15: 10-11)

Quả có thế. Không có Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu đến với mọi người, thì bạn và tôi, ta có làm gì đi nữa cũng không xong.  Nghĩ thế rồi, hỡi bạn và tôi, ta cứ hát lên lời ca đầy tình-tứ có làn mây vẫn tràn đầy yêu-thương như tự bao giờ:

“Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây?

Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu?

Xin dừng chân nói với nhau một câu.

Xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu”.

(Nam Lộc – bđd)

Hát thế rồi, xin bạn và xin tôi từ nay đừng âm-thầm, câm nín như mây bay lơ lửng khắp tầng trời. Nhưng hát nói lên, hát lên những lời tình-tứ đầy tình-tự yêu thương, nồng thắm, khắp muôn nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những đám mây vô tình

Cứ quanh quẩn bên mình

Suốt nhiều ngày.

Không chịu bay.

Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,

“Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,”

“Thuyền trao sông mắt dẫn trăng đi”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 22: 1-14

Lm Richard Leonard, sj

Mai Tá lược dịch.

Chuyển bước về, người người đều chuyển từ thuyền, từ sông nước có gió ngàn lồng lộng, rất trăng sao. Chuyển bước thời hôm nay, nhà Đạo mình cũng cứ chuyển, nhưng vẫn mang nặng một tình-tự thân-thương, đằm thắm của nhiều người.

Thời buổi hôm nay, nhiều người vẫn chuyển cho nhau những tình-tự thân thương như tình vợ chồng trẻ cứ muốn cho con cái mình kinh qua hành-trình lĩnh-nhận Thanh Tẩy, vì nhiều lý do rày rất khác. Với một số người thời Hội thánh tiên khởi, rõ ràng Thanh Tẩy là nghi-thức chú-trọng nhiều đến việc đặt tên, nêu tuổi.

Cũng có người quan-niệm đây là nghi-tiết khởi đầu, để rồi sẽ có buổi vui ăn uống, mừng em bé. Người khác hỏi đến, cũng chẳng biết rõ tại sao mình lại muốn thế. Tuy nhiên, họ vẫn nghĩ: có làm thế, mới đúng phép Đạo, như mọi người. Với một số cha mẹ khác, thì họ nay hiểu rõ nguồn-gốc mọi chuyện, nên muốn truyền lại cho con, những gì mình học hỏi, đó là sự sống của Đức Chúa.

Mỗi khi cử-hành nghi-thức thanh-tẩy, tôi thường giải-thích cho mọi người hiểu rõ rằng: ở 3 thế kỷ đầu đời của Giáo-Hội, bí-tích thanh-tẩy được thực-hiện vào lúc trời tờ mờ sáng, sau lễ Phục Sinh. Làm thế, không chỉ để ăn-khớp với lễ Phục-Sinh của Chúa cho đồng bộ, mà vì muốn giữ kín sự việc con dân lĩnh-nhận Thanh-tẩy, cho an-toàn.

Ròng rã hơn 300 năm trước, tín-hữu Chúa nhận thanh-tẩy vào buổi sáng, còn để các vị có thể đi vào cõi chết, giấc buổi trưa. Với họ, thanh-tẩy không có nghĩa đi ra ngoài để sinh-hoạt, mà là có sự sống và có cả sự chết nữa.

Qua dụ-ngôn tham-dự Tiệc, Đức Giêsu muốn mọi người biết, rằng: có những người cứ tưởng mình đương-nhiên sẽ trở-thành tín-hữu, nên đã khước-từ. Ngược lại, cũng có người trong Đạo, lại tưởng rằng mình sẽ chẳng bao giờ đáp-ứng được lời gọi mời của Chúa, nên vẫn gia-nhập chiên đàn Hội-thánh, rất hăng say.

Vào những ngày đầu, khi đề-cập đến Tiệc cưới, Giáo-hội Chúa đều ám-chỉ hai việc: một, Tiệc Thánh là Tiệc Lòng Mến. Tiệc, cuộc sống vĩnh-cửu. Lạ thay, khi dùng ảnh-hình của buổi Tiệc có ăn và có uống, dụ-ngôn Chúa kể đưa ra, ít nói đến thịt thà – thức ăn, nhưng lại cứ nói đến cảnh người ra/kẻ vào, trong thánh lễ. Tại sao thế?

Điều này, cho thấy: thái-độ của người được mời đã bỏ lỡ cơ-hội đến với Tiệc cưới của Hoàng-gia, là điều ít thấy xảy ra, nơi thế-trần. Điều thường thấy hơn, là thái-độ của dân con bần-hàn, đã nhận ra món quà quí giá, được ban phát.

Nhận ra, cả người ban tặng, nên họ mới “ăn vận” cho đúng cách và biết rõ nơi mình sẽ đến, là nơi đâu/chốn nào. Ngược lại, cũng có người không biết cách xử-thế cho đúng với hoàn- cảnh/địa-vị của mình, nên đã không nói thành lời, khi được mời.

Những người theo cách-thế thứ hai, là cộng-đoàn dân Chúa vào thời đầu. Là, những vị dám lĩnh-nhận nguồn nước thanh-tẩy. Nhưng sau lại gian-dối, bội-phản cộng-đoàn các thánh, vào thời bách hại. Khi các thánh khám-phá ra chuyện đó, đều thấy rằng: thực-khách theo cách thứ hai, không có đủ tư-cách tham gia, nên đã bị loại trừ.

Nơi cộng-đoàn thời thánh-sử Mát-thêu, thì: hầu hết những người gian-dối đều phải trả giá rất cao, bằng chính cuộc sống của mình. Bởi thế nên, sự việc hồi-hướng trở về với Đạo của Chúa, cũng trở-thành sự-kiện cần đắn đo, suy-nghĩ.

Thời hôm nay, chuyện dụ-ngôn ghi ở trên, có ý-nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta? Chắc chắn, Tin Mừng không đặt vấn-đề bảo rằng: ta nên ăn vận thế nào cho phải phép, khi đi tham-dự thánh-lễ của Lòng Mến. Cũng chẳng ai hỏi: ta có thái-độ sống ra sao, khi mọi người đều nghĩ về đời sau, chốn vĩnh hằng là nơi mình đạt đến mãi sau này.

Dụ ngôn hôm nay, không cốt ý nói đến những hãi hùng/lo sợ mỗi khi ta ra trước toà án để chịu cuộc phán xét mà người xưa gọi là “trả lẽ”, sẽ phải xử-sự thế nào? Ăn làm sao nói làm sao?

Nhưng, điều mà dụ-ngôn muốn nêu thành vấn-đề, chính là: ta phải trở thành  người khó-nghèo, bần hàn cho đủ hoặc đúng cách, mới nhận ra được quà tặng Chúa phú ban, khi Ngài mời gọi ta gia-nhập cộng-đoàn niềm-tin mà Hội-thánh vẫn đời chờ. Có là người rộng lượng đủ, ta mới có thể đáp-ứng lại lời kêu mời, khẩn thiết của Đức Chúa.

Bởi một lẽ, khi nêu vần-đề như thế, là để ta nghiêm-chỉnh xét và xem những gì mình sẽ ăn nói và hành-động. Để rồi, ta sẽ có thái độ đúng đắn, hầu đem các giá-trị của những hành-xử ta từng có và vẫn có trong đời mình cả vào lúc mình ở nhà hay đang lao-động tại sở làm cũng như ở chốn vui chơi, giải-trí cho khuây khoả và cũng để xét lại xem cung-cách mình đối xử với nhau lâu nay ra thế nào.

Chính những điều như thế, mới chứng-tỏ ý-nghĩa của việc ta bày-tỏ bằng hành-động. Và bằng vào những cử-chỉ như thế, người khác mới đánh giá là: ta có thực sự là người chân phương, tử tế, ý-nhị về niềm tin hay không? Hoặc, ta cũng chỉ là kẻ dối-gian/bội phản như bất cứ người nào khác; hoặc, ta lại cũng không biết cách ăn vận, xử thế và nói năng cho hiền-từ, tử tế, thế thôi.

Tựa như tín-hữu thời tiên-khởi ngày nay ta cũng ăn vận mầu trắng rất “trinh trong” mỗi khi ta nhận ơn thanh-tẩy từ Đạo Chúa. Trinh trong mầu tiệc cưới rất trắng tinh, là sắc mầu thích-hợp với nghi-tiết thanh tẩy của Giáo-hội.

Cũng tựa như người thời trước, vào những tháng ngày ta nhận-lĩnh ơn thanh-tẩy, ngày nay không có nghi thức đặt tên, nêu tuổi như trước nữa. Và, cũng chẳng phải là nghi tiết giao tế xã hội, để mà ăn uống.

Hôm nay đây, chỉ là ngày thường trong tuần tựa hồ như khi ta nhận thiệp hồng từ bà con/bạn bè vẫn muốn mời chào ta tham-dự tiệc cưới, mỗi thế thôi. Nhận thiệp mời ngày thanh-tẩy hay lễ cưới, tức là ta được nhắn hãy tham-dự lễ-hội vui-tươi của cuộc sống, có Chúa cùng tham-dự.

Vào các tiệc-tùng buổi ấy, mọi người đều xử-sự theo đúng cung-cách họ tuyên-tín. Ở nơi đó, kẻ dối-gian/bội phản đều đã cao bay xa chạy, cả trăm dặm. Họ đâu còn bận tâm gì nữa mà ngoái cổ quay đầu lại, để làm chi.

Tiệc cưới cuộc sống hôm nay, còn là tiệc ngàn đời có Chúa/có ta, có cả cộng-đoàn thân-thương, lành thánh rất Nước Trời là như thế.

Trong tinh-thần nghiệm-sinh tiệc ngàn đời luôn có Chúa, tưởng cũng nên ngâm nga lời thơ ở đời vẫn còn hát, rằng:

“Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,

Thuyền trao sông mắt dẫn trăng đi.

Những giòng chữ lạ buồn không nói,

Nét lửa bay dài, giấc ngủ mê.

(Đinh Hùng – Gặp Em Huyền Diệu)

Gặp em hay gặp Chúa, vẫn cứ thất “nét lửa bay dài, giấc ngủ mê”. Ngủ có mê, cũng đừng “chuyển bước về” ngàn xưa ấy. Để rồi, em với tôi , ta cùng về chốn Huyền Diệu của tình yêu-thương Chúa vẫn gửi đến mỗi người trong ta. Ngài gửi, để ta vui sống mãi chốn Nước Trời hiền-hoà, rất hôm nay.

Lm Richard Leonard, sj

Mai Tá lược dịch.

Nhà nước Hồi giáo tuyên bố chặt đầu con tin thứ tư

Nhà nước Hồi giáo tuyên bố chặt đầu con tin thứ tư

Trong bức ảnh do Văn phòng Đối ngoại và Khối thịnh vượng chung của Anh cung cấp, nhân viên cứu trợ người Anh Alan Henning đang bế một em bé ở trại tỵ nạn tại biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và Syria.

Trong bức ảnh do Văn phòng Đối ngoại và Khối thịnh vượng chung của Anh cung cấp, nhân viên cứu trợ người Anh Alan Henning đang bế một em bé ở trại tỵ nạn tại biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và Syria.

Cập nhật: 03.10.2014 18:01

Nhóm khủng bố Nhà nước Hồi giáo cho biết đã hành hình con tin người Anh Alan Henning.

Nhóm này công bố một video vào đêm thứ Sáu mà họ nói là quay cảnh Henning bị chặt đầu. Video được công bố theo cách tương tự như những video quay cảnh chặt đầu ba người phương Tây trước đó.

Video kết thúc với lời đe dọa của một chiến binh Nhà nước Hồi giáo đưa ra đối với một người đàn ông được chiến binh này xác định là người Mỹ.

Nếu được xác nhận, đây sẽ là vụ chặt đầu thứ tư những người nước ngoài bị giam cầm mà nhóm Nhà nước Hồi giáo thực hiện trong những tuần gần đây. Các chiến binh đã chặt đầu công tác viên cứu trợ người Anh David Haines cũng như nhà báo người Mỹ Jim Foley và Steven Sotloff.

Bộ Ngoại giao Anh cho biết họ đang nỗ lực xác minh nội dung đoạn video. Thủ tướng Anh David Cameron để một dòng tin trên Twitter nói rằng, “Việc ISIL sát hại tàn bạo Alan Henning cho thấy những kẻ khủng bố này man rợ tới mức nào. Suy tưởng của tôi xin dành cho vợ và con cái của ông.”

Nhà nước Hồi giáo cho biết những người này bị chặt đầu là để trả đũa cho những cuộc không kích của Mỹ nhắm vào những vị trí của họ ở Iraq. Liên minh đang cố gắng ngăn chặn chiến dịch quân sự của nhóm này nhằm thành lập một nhà nước Hồi giáo từ nhiều vùng của Iraq và Syria.

Henning là thành viên của một đoàn viện trợ không chính thức bị bắt giữ vào cuối năm ngoái sau khi vượt biên giới vào Syria.

Người Hong Kong bình tĩnh trước những đe dọa kinh tế của Bắc Kinh

Người Hong Kong bình tĩnh trước những đe dọa kinh tế của Bắc Kinh

Một bản điện tử cho thấy chỉ số Hàng Sinh của Hong Kong hạ 72 điểm, 3/10/14. Chứng khoán Hong Kong hạ giá trong khi các cuộc biểu tình bước vào tuần thứ nhì

Một bản điện tử cho thấy chỉ số Hàng Sinh của Hong Kong hạ 72 điểm, 3/10/14. Chứng khoán Hong Kong hạ giá trong khi các cuộc biểu tình bước vào tuần thứ nhì

Ivan Broadhead

03.10.2014

Cục Quản trị Du lịch Quốc gia Trung Quốc đang cấm các nhóm du lịch ở lục địa du hành đến Hong Kong. Lệnh cấm hôm thứ tư đánh dấu một sự thay đổi chiến lược trong cách thức Bắc Kinh cố gắng kiềm chế, và theo gợi ý của các chuyên gia phân tích, gieo rắc sự chia rẽ, trong vùng hành chinh đặc biệt Hong Kong, nơi các cuộc biểu tình đòi dân chủ đang tăng lên mỗi ngày. Thông tín viên VOA Ivan Broadhead ghi nhận thêm chi tiết về tác động của quy định mới đối với thành phố miền nam Trung Quốc này.

Hơn nửa triệu người ở lục địa Trung Quốc băng qua biên giới vào Hong Kong mỗi năm, cho tới nay vẫn là nhóm du khách lớn nhất đến thành phố này. Giám đốc điều hành Hội đồng Công nghiệp Du lịch Joseph Tung nói trong khi du khách không phải từ  Trung Quốc đang chọn tránh xa Hong Kong vào thời điểm nhạy cảm này, thì thông cáo hôm thứ tư là một cú đánh mạnh vào khu vực du lịch địa phương.

“Con số nhóm du khách vào khoảng 300 đến nơi mỗi ngày từ lục địa; nhưng theo thông tin chúng tôi nhận được, mặc dù điều này chưa được xác nhận bởi vì chúng tôi không có văn kiện chính thức từ phía các đại diện ở Trung Quốc – họ đã nhận được chỉ thị ngưng quảng cáo các tua đến Hong Kong.”

Ông Michael Degolyer, giám đốc Dự án Chuyển giao Hong Kong, dự báo lệnh cấm chỉ vài giờ trước khi lệnh được công bố. Nó tạo thành một phần điều ông gọi là tình huống Anaconda – sự bóp nghẹt dần phong trào dân chủ Hong Kong.

Sự sụt giảm trong thương nghiệp du lịch sẽ dẫn đến việc cắt giảm công ăn việc làm trong khu vực dịch vụ – có lẽ ngay vào đầu tuần tới – tạo áp lực đối với đồng đôla Hong Kong và việc các công ty bị loại ra khỏi bảng niêm yết của thị trường Hàng Sinh trong khi lòng tin toàn cầu bị lung lay trong nền kinh tế địa phương. Ông Degolyer nói:

“Mục tiêu hay sách lược là ngày càng làm cho dân chúng chống lại những người đứng đầu phong trào Chiếm Trung bởi vì thiệt hại kinh tế dần dà gia tăng này. Và vì thế có nhiều cách, mà không cần phải dùng tới hơi cay mắt hay vũ lực, để gia tăng áp lực đối với sinh viên và những người ủng hộ Chiếm Trung phải thoái lui.”

Ngoài đường phố, những người hoạt động – mệt mỏi nhưng kiên quyết – bày tỏ tình đoàn kết với dân chúng Hong Kong, nhưng vẫn không nhúc nhích trước hành động của Bắc Kinh.

Nhiều người coi biện pháp đó chỉ là một mưu toan khác của Trung Quốc để làm cho tin tức về phong trào dân chủ ngấm ngược trở lại qua biên giới.

Ngoài ra, ngành du lịch góp phần chưa đầy 5 phần trăm tổng sản phẩm nội địa của Hong Kong và chỉ có 30 phần trăm du khách Trung Quốc đến trong các nhóm du khách có tổ chức, theo lời nhà hoạt động Bernard Luck, đang đứng trên một rào cản với bạn bè.

“Khi du khách lục địa xuống Hong Kong, họ chi tiền vào các khách sạn hạng sang, mua ví Gucci, iPhone, đóng góp vào nền kinh tế Hong Kong, nhưng không trực tiếp. Các  bạn có thấy không? Tất cả khoản tiền này là đưa trở lại cho Gucci và Apple. Nó sẽ có ảnh hưởng rất nhỏ, đối với dân chúng.”

Nếu Bắc Kinh cố ý chọn, thì họ có thể áp đặt một hình phạt kinh tế gay gắt hơn nhiều đối với công dân của vùng bán tự trị này, phụ thuộc lớn vào lục địa về cung ứng thực phẩm và nước uống. Ông DeGolyer mô tả đây là “tình huống Tôn Tử theo tên tác giả của Sách Chiến Quốc.

“Nếu họ thực sự muốn Hong Kong đầu hàng mà không bắn một phát súng nào, thì họ chỉ cần nói: “Được, ta sẽ cho bọn bây toàn quyền tự trị – không có nước, không có chuyên chở trên đất liền, không có tàu bè, không có máy bay.” Và sau từ 1 tuần đến 10 ngày, đặt câu hỏi, “Được, bọn bây muốn bao tự trị đến mức nào?”

Trong khi việc lập chiến lược ở Bắc Kinh tiếp tục, vụ giằng co giữa giới hữu trách và người biểu tình trở nên khó theo dõi hơn. Với mỗi ngày qua đi, thế hệ công dân sắp tới của Hong Kong lại trở nên ngày càng bất mãn với các nhà lãnh đạo quốc gia.

Hồng Kông : Người biểu tình đụng độ « quần chúng tự phát »

Hồng Kông : Người biểu tình đụng độ « quần chúng tự phát »

Thụy My

media

Người biểu tình dân chủ ngăn cản những người phản đối tiến gần lều của họ trên một con đường chính của khu mua sắm Mongkok, Hồng Kông, 03/10/2014.REUTERS/Bobby Yip

Căng thẳng lên đến cực độ tối nay 03/10/2014 tại Hồng Kông, khi xảy ra những cuộc xung đột dữ dội giữa những người biểu tình đòi dân chủ với hàng trăm người bực tức trước phong trào phản kháng. Các lãnh tụ sinh viên loan báo sẽ không tham gia đối thoại với chính quyền, cho rằng cảnh sát đã để cho côn đồ tấn công người biểu tình.

Tại Vượng Giác (Mong Kok), khu thương mại rất đông dân của quận Cửu Long (Kowloon), hàng trăm người đã tấn công những người biểu tình, cố dỡ bỏ các rào chắn và thường là thành công. Đám người « phản biểu tình » hô to : « Hãy trả lại khu Vượng Giác cho chúng tôi ! Người Hồng Kông cần phải kiếm ăn », « Trở về nhà đi ! ».

Hai phe trao đổi những cú đánh và lời thóa mạ, trong khi cảnh sát cố gắng tách họ ra và mở một lối cho các xe cứu thương. Trước mắt, chưa biết được có ai bị thương trong các vụ xô xát này hay không. Một số người biểu tình lên án phe phản đối đã thuê mướn côn đồ để gây rối và bêu xấu phong trào đòi dân chủ – vốn đã huy động được hàng chục ngàn người xuống đường từ hôm Chủ nhật, gây xáo trộn các hoạt động trong thành phố.

Tại Vịnh Đồng La (Causeway Bay), thiên đường mua sắm và là địa điểm tập hợp thứ hai của phong trào dân chủ, đụng độ cũng xảy ra giữa khoảng 25 người biểu tình với chừng 50 người khác. Một người gào lên : « Đó không phải là dân chủ, người ta cần phải nuôi con ». Một số người qua đường vỗ tay khi các rào chắn được dỡ bỏ.

Còn tại khu vực có trụ sở các Bộ, những vụ xung đột lại diễn ra giữa người biểu tình với cảnh sát. Trưởng đặc khu Lương Chấn Anh tố cáo tình hình « gần như hỗn loạn ».

Liên đoàn Sinh viên Hồng Kông (HKFS) hôm nay loan báo « không có cách nào khác là hủy bỏ việc tham gia đối thoại ». HKFS cho biết lý do là « Chính quyền và cảnh sát đã nhắm mắt làm ngơ khi bọn côn đồ hung bạo tấn công vào người biểu tình ôn hòa ».

« Cuộc cách mạng những chiếc dù » đã gây tiếng vang rộng rãi trên thế giới, nhiều cuộc biểu tình ủng hộ phong trào dân chủ Hồng Kông đã được tổ chức tại nhiều quốc gia. Nhưng dưới áp lực mạnh mẽ của truyền thông và ngoại giao, Trung Quốc đã cảnh báo Hoa Kỳ « không nên xen vào chuyện nội bộ » của mình, trong khi Liên hiệp châu Âu bày tỏ « sự quan ngại ».

Đảng Cộng sản Trung Quốc tăng cường kiểm duyệt các mạng xã hội, gần hai chục người bị bắt vì đã ủng hộ người biểu tình Hồng Kông. Nhân dân Nhật báo cao giọng cảnh cáo là các đòi hỏi của phong trào dân chủ « vừa không hợp pháp vừa bất hợp lý », các cuộc biểu tình « đi ngược lại các nguyên tắc luật pháp và sẽ thất bại », Bắc Kinh sẽ không có nhượng bộ nào.

Phe biểu tình HK dọa bỏ đàm phán

Phe biểu tình HK dọa bỏ đàm phán

BBC

Chia sẻ

Các lãnh đạo biểu tình ở Hong Kong đe dọa hủy đối thoại với chính phủ sau khi người biểu tình đụng độ với những người không đồng tình với họ.

Phe biểu tình nói chính phủ phải ngăn “các vụ tấn công có tổ chức”.

Trước đó họ chấp nhận đề nghị họp với đại diện chính phủ.

Quả thực nhiều người dân Hong Kong cũng giận dữ vì cuộc sống bị ảnh hưởng bởi biểu tình, nhưng phe biểu tình cáo buộc chính phủ đứng đằng sau hành động bạo lực.

Các vụ va chạm đã xảy ra ở một số nơi, khi người dân tìm cách gỡ bỏ rào chắn, lều của người biểu tình.

Ba nhóm biểu tình chính ra thông cáo quy trách nhiệm cho chính quyền.

Đặc khu trưởng Lương Chấn Anh đưa ra lời đề nghị đàm phán hôm thứ Năm ngày 3/10 theo thời hạn chót mà phe biểu tình ra cho ông.

Những người biểu tình đã chiếm giữ một số nơi trong thành phố trong vài ngày để phản đối việc Bắc Kinh kiểm soát các ứng viên trong cuộc bầu cử đặc khu trưởng vào năm 2017.

Bắc Kinh đã bày tỏ sự ủng hộ ông Lương và nói cuộc biểu tình là ‘bất hợp pháp’ và ‘chắc chắn sẽ thất bại’.

Hôm thứ Sáu ngày 3/10, Hong Kong đã tạm thời đóng cửa các cơ quan chính quyền ở những nơi bị ảnh hưởng nặng nhất. Các viên chức nhà nước được cho là có thể làm việc ở nhà.

Số lượng người biểu tình tăng lên vào ban đêm và giảm xuống vào ban ngày. Vào sáng thứ Sáu ngày 3/10, nhiều nhóm nhỏ vẫn còn ở trên đường.

‘Hậu quả nghiêm trọng’

Vào tối muộn ngày 2/10, khi mà thời hạn chót mà người biểu tình đặt ra cho ông để từ chức săp hết, ông Lương nói chính quyền của ông sẽ đàm phán với các lãnh đạo sinh viên.

“Đàm phán là cách giải quyết khả dĩ nhất. Người dân Hong Kong không hề tắc trách hay hành động phi lý. Một sự nhượng bộ đúng đắn để cho phép tiến hành bầu cử mà người dân nhìn nhận là công bằng chứ không phải sắp đặt là hoàn toàn có thể.

Chris Patten, thống đốc cuối cùng của Hong Kong”

Đổng lý Carrie Lam, viên chức dân sự cao nhất của Hong Kong, sẽ bắt đầu đối thoại với sinh viên càng sớm càng tốt, ông Lương nói nhưng không cho biết thời hạn cụ thể.

“Tôi sẽ không từ chức bởi vì tôi phải tiếp tục công việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử,” ông nói và cảnh báo rằng bất cứ nỗ lực nào của người biểu tình nhằm chiếm giữ các trụ sở chính quyền đều sẽ dẫn đến ‘hậu quả nghiêm trọng’.

Những người biểu tình, trong đó có sinh viên, những người thuộc phong trào Occupy Central và nhiều người khác, đã phong tỏa ba khu vực ở Hong Kong kể cả trung tâm tài chính, kể từ hôm 28/9.

Họ đe dọa sẽ chiếm giữ các cơ quan công quyền nhưng giờ đây lại nói sẽ đàm phán với chính quyền.

Liên đoàn Sinh viên Hong Kong (HKFS) nói họ sẽ có một cuộc gặp công khai với bà Carrie Lam nhưng vẫn nhấn mạnh yêu sách ông Lương phải từ chức.

Trong khi đó, Occupy Central ra thông cáo nói rằng họ hy vọng ‘việc đàm phán sẽ đưa đến bước ngoặt cho tình hình bế tắc chính trị hiện nay’.

Chính quyền Hong Kong nói họ sẽ không dùng vũ lực đối với người biểu tình

Tuy nhiên họ vẫn kêu gọi ông Lương từ chức vì cho rằng ông ‘phải chịu trách nhiệm cho sự bế tắc hiện nay’.

Trong lúc này, có báo dẫn các nguồn tin chính quyền Hong Kong cho rằng họ đang chờ cho phong trào biểu tình mất nhiệt sau khi đã thấy việc cảnh sát dùng hơi cay trấn áp đã khiến cho càng nhiều người tham gia biểu tình như thế nào.

Viết cho tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, ông Chris Patten, thống đốc cuối cùng của Hong Kong khi nơi này còn là thuộc địa của Anh, nói rằng tham vấn minh bạch là ‘cách duy nhất’ để tiến về phía trước.

“Theo kế hoạch hiện nay thì cần phải có giai đoạn đàm phán thứ hai về tiến trình dân chủ sau khi vòng đàm phán đầu tiên đã được nhận ra là sự khởi đầu giả tạo,” ông Patten viết.

“Chính quyền Hong Kong giờ đây phải tổ chức vòng tham vấn thứ hai một cách đàng hoàng cho người dân của họ – một cuộc tham vấn công khai và trung thực.”

“Đàm phán là cách giải quyết khả dĩ nhất. Người dân Hong Kong không hề tắc trách hay hành động phi lý. Một sự nhượng bộ đúng đắn để cho phép tiến hành bầu cử mà người dân nhìn nhận là công bằng chứ không phải sắp đặt là hoàn toàn có thể,” ông Patten nhận định.

Đường thơ ấu thiêng liêng và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Đường thơ ấu thiêng liêng và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Lm. Antôn Nguyễn mạnh Đồng

http://www.google.com/url?sa=i&source=images&cd=&cad=rja&uact=8&docid=4G2v4DDs8WiPCM&tbnid=cZgS685LgPQszM:&ved=0CAgQjRw&url=http://tramhuonglochung.byethost7.com/tramhuong/vi/news/Suy-Niem-Suy-Tu-Chia-Se/St-Terexa-Hai-Dong-Giesu-Con-duong-tho-au-36/&ei=dc0sVNHyDNi1ggSe9YDQAw&psig=AFQjCNGUE5DXMkP9MVl2GES9VNMjUduFKQ&ust=1412308725308105

Dường như Chúa muốn thi hành quyền năng của Người tùy lòng tin cậy phó thác của ta đối với Người , truyện một tâm hồn (TMTH 369,371,372). Và chị đã khám phá ra “cách trở nên trẻ em” là cách sống bé nhỏ như trẻ thơ, đó là luôn có lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa.

1. Đường thiêng liêng thơ ấu

Thánh trinh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là người đã khởi xướng lên đường thiêng liêng thơ ấu, nguồn gốc cho nhiều cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong thế kỷ XX, bắt đầu ở nước Pháp và sau ở nhiều nước trên thế giới. Các sách đạo ở Việt Nam thường nói đến “đường thơ ấu thiêng liêng” (dịch từ tiếng Pháp Voie spirituelle d’enfance hay voie d’enfance) hoặc nói đến “đường nhỏ” (petite voie). Thật ra đường thơ ấu thiêng liêng cũng chỉ là một đường thiêng liêng như nhiều đường thiêng liêng từ thời đầu của Hội Thánh, chỉ khác là có thêm từ “thơ ấu”.

Đường thiêng liêng là lối sống đạo của Kitô hữu tùy theo mỗi người thuộc nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội khác nhau, ở mỗi thời mỗi nơi khác nhau mà thần học gọi là linh đạo, nghĩa là đường lối sống đạo theo Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Ngày nay trong Hội Thánh, thường nhắc đến linh đạo của Thánh Augustinô, của Thánh Bênêđictô, của Thánh Phanxicô, của Thánh Đôminicô, của Thánh Inhaxiô, của Thánh Boscô, của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, nhưng riêng đường thiêng liêng của Thánh Têrêxa có tên là thơ ấu để phân biệt với các đường thiêng liêng khác đã kể trên.

Thơ ấu ở đây không thể hiểu theo giải nghĩa của từ điển là: rất ít tuổi, còn bé dại; cũng không thể hiểu là đường thiêng liêng cho con nít, mà phải hiểu theo Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, người đã được Phúc âm của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn soi sáng, để suy niệm, sống theo, và dạy cho các tập sinh trong Dòng Kín ở Li-xi-ơ sống theo.

Như vậy đường thiêng liêng thơ ấu có nghĩa là linh đạo, là lối sống theo Chúa Thánh Thần “thổi hơi và gợi hứng” cho mỗi người, và mỗi người đón nhận hơi thổi và gợi hứng của Người để sống theo Phúc âm Chúa Kitô.

Linh đạo này bao gồm ba việc chính là: lắng nghe Lời Chúa, cách kết thân với Chúa, và sống theo Hội Thánh Chúa Kitô. Tuy nhiên mỗi Kitô hữu còn thuộc về một dân tộc có nền văn hóa riêng, còn sống trong những hoàn cảnh khác nhau tùy thời tùy nơi, nên cần phải biết hội nhập và thích ứng cho phù hợp. Còn “thơ ấu”, như đã nói ở trên, không có nghĩa là con nít, còn ít tuổi, còn bé dại mà phải hiểu đường thơ ấu của chị như chính chị đã gọi là “con đường nhỏ” hoặc “giáo thuyết bé nhỏ”. Thực ra trong các thủ bản chị không dùng “đời thiêng liêng thơ ấu”.

Vì thế vào hai năm cuối đời, chị đã vâng lời Bề trên Dòng để viết ba tập thủ bản A, B, C, sau được đúc kết thành Truyện Một Tâm Hồn (TMTH), trong đó chị đã trình bày những yếu tố chính: trước hết là lòng nhân từ thương xót của Cha trên trời; sau là chính bản thân và gia cảnh của chị, bối cảnh của tu viện, hoàn cảnh xã hội đương thời, tất cả đã góp phần giúp chị hình thành đường thiêng liêng thơ ấu của chị. Ta sẽ cùng nhau khám phá đời sống và giáo thuyết nhỏ của chị.

2. “Em chỉ là một cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối” (xem TMTH trang 388).

Để khám phá đời sống và đường thiêng liêng thơ ấu của chị, chúng ta rất may mắn có những tài liệu do chính tay chị viết để lưu lại cho nhà dòng, theo lệnh các Bề trên Dòng là chị ruột của chị. Đầu tiên Bề trên bảo chị tóm tắt cuộc đời thơ ấu (Thủ bản A), sau đó xin chị viết thêm về đời tu trong dòng (Thủ bản C), cuối cùng chị viết bổ túc để trình bày “giáo thuyết nhỏ” tức là đường thiêng liêng thơ ấu (Thủ bản B). Chị viết vào hai năm cuối cùng, khi bệnh tật, trước khi qua đời vào năm 24 tuổi. Chị viết vì vâng lời Bề trên chứ không để phổ biến cho mọi người nên chị trình bày rất chân thành, hồn nhiên. Cũng nên nhớ chị còn là một nhà thơ đã có hơn 50 bài thơ đạo.

Cuộc đời chị. Têrêxa là con gái út của gia đình ông bà Lu-y Mac-ti-nô, sinh ngày 2-1-1873 tại A-lăng-xông thuộc nước Pháp. Gia đình có 9 người con, hai trai bảy gái. Hai con trai đã theo hai chị về trời lúc còn non yếu. Còn lại là năm chị em gái lần lượt đều dâng mình cho Chúa trong các dòng. Chưa đầy 4 tuổi chị đã mồ côi mẹ. 8 tuổi phải đi học nội trú ở trường Li-xi-ơ. 10 tuổi bị bệnh nặng suýt chết. 11 tuổi được rước lễ lần đầu và thêm sức. 13 tuổi mắc bệnh bối rối về vấn đề đức khiết tịnh. 14 tuổi trải nghiệm đầu tiên về tội nhân cứng lòng không hối cải. 14 tuổi quyết định xin được đặc ân vào tu Dòng Kín sớm hơn luật định (đáng lẽ là 21 tuổi). 15 tuổi được nhận vào dòng kín Li-xi-ơ với tên Têrêxa Hài đồng Giêsu và Thánh Nhan. 17 tuổi tuyên khấn và đội lúp. 21 tuổi, ba của chị qua đời. 23 tuổi được làm tập sư coi tập sinh và được lệnh bề trên viết tự thuật, cuối năm 23 tuổi gặp thử thách rất nặng là bị thổ huyết vào thứ 6 Tuần Thánh tháng 3-1896. Rồi chị có ý thức là mình được ngồi bàn của những người tội lỗi với Chúa Giêsu, cũng ý thức mình có ơn gọi truyền giáo và ước ao truyền giáo. 24 tuổi sống những ngày cuối đời trong bệnh tật gây đau đớn hơn cũng như trong các cám dỗ về đức tin mạnh mẽ hơn. Cuối cùng sau cơn hấp hối kéo dài, chị qua đời ngày 8-7-1879.

Qua tự thuật của chị, ta thấy từ chỗ là con gái út trong gia đình đông con, vóc dáng thấp nhưng xinh đẹp, sức khỏe mong manh, tính tình tế nhị, bốn tuổi đã mồ côi mẹ, lớn lên đi học nội trú, gặp bệnh nặng suýt chết, bối rối kéo dài khi dậy thì, biết có những người tội lỗi cứng lòng không trở lại, muốn vào Dòng Kín mà chưa đủ tuổi, làm tập sư (coi tập sinh) chưa có nhiều kinh nghiệm vì quá trẻ, mắc bệnh ho lao thổ huyết phải liệt giường và trải qua cơn hấp hối lâu dài… tất cả không thể không làm chị phải mặc cảm tự ti như chính chị đã thú nhận: “em chỉ là cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối.” Tuy nhiên, chị không hề nản chí thất vọng nhưng ý thức “tất cả là hồng ân” của lòng Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, và suy nghĩ cố gắng đáp lại tình yêu Chúa bằng đường thiêng liêng thơ ấu của chị.

3. Để lên trời chị đã chọn con đường bé nhỏ là tin cậy phó thác cho Chúa như trẻ thơ (xem TMTH trang 413,365,369,71)

Ý thức mình chỉ là cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối, phải trải qua bệnh tật và cám dỗ nặng nề, đáng lẽ chị phải mặc cảm tự ti, nản chí thất vọng. Nhưng trong suốt cuộc đời, chị lại cảm nghiệm được tình yêu nhân từ và thương xót của Chúa và Đức Maria, chị cũng nhờ ảnh hưởng lòng đạo đức của gia đình, chị đón nhận tất cả với trái tim tràn ngập biết ơn và yêu mến, bởi vì “ tất cả là hồng ân” (TMTH trang 366), nên chị quyết tâm nên thánh.

Từ 3 tuổi chị đã nhất định không từ chối Chúa điều gì – khi so sánh mình với các thánh chị thấy các ngài như núi mà chị như hạt cát – Chị biết Chúa nhân lành không bao giờ gợi lên trong chị những gì chị không thể làm được, và Người có thể dùng sự bé nhỏ yếu đuối để làm chị trở nên một vị thánh. Vì thế chị vui vẻ chấp nhận thân phận hạt cát và suy nghĩ: “tìm kiếm một con đường thẳng và ngắn nhất, cũng như hoàn hảo nhất để nên thánh” (TMTH trang 413). Chị mở Kinh Thánh và thấy trong Phúc âm thánh Mát-thêu Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3). Lời Chúa nói đây là nói cho tất cả mọi người lớn nhỏ. Nên chị nghĩ rằng việc của chị là phải làm sao cứ mãi mãi như trẻ nhỏ , dù lúc này chị đã là nữ tu 23 tuổi. Chị tưởng tượng ra cảnh một em bé chưa biết đi muốn lên với mẹ đang ở trên đầu thang. Em cố gắng nhấc chân lên bậc thang thứ nhất nhưng lần nào cũng té xuống không lên được. Thấy vậy cuối cùng mẹ em bước xuống bồng em lên với mẹ trên tay… Chị giải thích rằng Chúa như người cha nhân từ toàn năng và hay thương xót , Người mời gọi và thúc đẩy ta nên thánh, dù biết ta yếu đuối.

Nếu ta có thiện chí cố gắng tin cậy và phó thác hoàn toàn cho Người để cứ leo lên, thế nào Người cũng sẽ mau mắn cứu giúp họ (TMTH – trang 414): “lòng tin của con đã chữa con” (Mt 9,22) “anh tin thế nào thì được như vậy” (Mt 10,29), “lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15,28)… dường như Chúa muốn thi hành quyền năng của Người tùy lòng tin cậy phó thác của ta đối với Người (TMTH 369,371,372). Và chị đã khám phá ra “cách trở nên trẻ em” là cách sống bé nhỏ như trẻ thơ, đó là luôn có lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa. Chị coi đó là cái thang máy đem chị lên với Chúa mà “thang máy đó chính là cánh tay của Chúa Giêsu” (TMTH trang 414).

Tại sao như vậy ? Chị thấy rằng tin cậy và phó thác hoàn toàn cho Chúa là dấu hiệu cốt yếu nhất của tình yêu đích thực. Nếu hai người yêu nhau mà còn nghi ngờ, sợ hãi nhau thì chưa phải là yêu. Chúa đã yêu con người hết mình và vô điều kiện thì con người phải yêu Chúa với tình yêu cũng hết mình và vô điều kiện. “Lấy tình yêu đáp lại tình yêu” (TMTH trang 372). Chị đã tìm thấy trong thư 1.Cor.13,31 thánh Phaolô nói đến con đường trổi vượt hơn cả đó là đức ái, hiểu theo nghĩa là tình yêu đối với Chúa. Chị suy nghĩ thêm rằng: Tình yêu đối với Chúa bao gồm mọi ơn gọi, không có tình yêu ấy thì các tông đồ chẳng còn rao giảng Phúc âm nữa, các vị tử đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra (TMTH trang 386). Tình yêu đòi lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa cả xác hồn chứ không phải cách trừu tượng và phải được biểu lộ cụ thể trong cách kết thân với Chúa là cầu nguyện mà chị coi là “vũ khí có sức mạnh vô địch” Chúa ban cho chị (TMTH trang 476). Đồng thời tình yêu cũng đòi hỏi phải thể hiện trong hành động (TMTH trang 455). Cho nên chị cố gắng chu toàn những việc nhỏ mọn trong bổn phận hằng ngày bằng một tình yêu hết mình.

Trong tu viện chị chỉ có những việc như may giặt, quét nhà , làm cỏ, dọn bàn ăn, múc nước, dọn phòng thánh, dạy các tập sinh, viết tự thuật, chịu đau khổ vì bệnh tật, cám dỗ về đức tin… Do đó khi chị may giặt, quét nhà , làm cỏ, dọn bàn ăn… chịu bệnh tật, cám dỗ… chị sẽ yêu bằng một tình yêu phi thường, vì chỉ có tình yêu mới quan trọng, chỉ có tình yêu mới cứu rỗi “Chị yêu đến chết vì yêu “ (TMTH trang 429).

4. Ba ham mê của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu

Ý thức mình chỉ là cô bé không đủ sức làm việc và yếu đuối, và cũng ý thức mình được Chúa mời gọi để về trời bằng con đường nhỏ bé, đó là sống hoàn toàn tin cậy và phó thác cho Chúa như trẻ thơ. Tuy chỉ là một nữ tu ẩn mình trong những bức tường của Dòng Kín, thế mà chị luôn hướng cuộc đời tới Chúa, tới cánh đồng truyền giáo trên thế giới, trong đó có các linh mục, có biết bao người chưa biết Chúa, biết bao người tội lỗi. Vì thế chị đã không chỉ lo về trời một mình, nhưng chọn thể hiện con đường nhỏ bé của chị trong ba ham mê lớn: đó là cầu nguyện cho các linh mục, cầu nguyện cho các người tội lỗi, và làm việc truyền giáo.

4.1 “Em say mê cầu nguyện cho các linh mục lẽ ra phải trong sáng như pha lê” (TMTH trang 240)

Chị đã có dịp gặp nhiều linh mục thánh thiện và chị nghĩ rằng “Nếu phẩm chức cao vời của các ngài nâng cao các ngài lên trên các thiên thần thì các ngài cũng còn là những con người yếu đuối mỏng manh… Nếu các linh mục thánh thiện mà trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã gọi là “muối của trần gian” chứng tỏ bằng hành vi của các ngài còn hết sức cần đến những lời cầu nguyện, thì phải nói gì về những linh mục nguội lạnh? Chúa Giêsu đã chẳng nói thêm “Nếu muối đã ra lạt thì lấy gì ướp cho nó mặn lại được” (Mt 5,13). Chị ý thức rằng: “mục đích duy nhất của các kinh nguyện và hy sinh của ơn gọi Cát Minh là làm tông đồ cho các tông đồ” (TMTH trang 241). Và trong thư gởi Mẹ Bề trên, chị viết: “Chúng ta đặc biệt phải cứu rỗi các linh hồn của các linh mục, các linh mục này lẽ ra phải trong sáng hơn pha lê”. Vì thế chị đã nhận “một em trai đầu lòng” là linh mục Maurice Barthélémy Bellière đi truyền giáo bên Alger, Phi Châu (TMTH trang 495), và em trai thứ 2 là cha Adolphe Roulland đi truyền giáo bên Trung Hoa (TMTH trang 500).

4.2 Em cháy bỏng niềm ao ước muốn giải thoát các linh hồn trong tội (TMTH trang 200)

Ngay từ khi được 14 tuổi, chưa đi tu, khi chị hay tin có anh Henri Pranzini 31 tuổi đã giết 2 phụ nữ và một bé gái để cướp của, anh bị kết án tử hình, nhưng anh nhất định không xưng tội và tỏ dấu hối cải nào. Chị biết mình chẳng làm gì được, nhưng cậy nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu và công phúc của Hội Thánh, chị còn xin lễ cho anh. Thế rồi vào giờ chót trước khi lên máy chém, khi linh mục đưa thánh giá cho anh, anh đã cầm lấy và hôn ba lần (THTM trang 201 -202). Sau khi vào dòng, chị có thêm nỗi lo là số phận của bao người tội lỗi, vô thần, duy vật… Chị phải tham dự vào công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu và Hội Thánh, chị say mê cầu nguyện rằng: “Xin Chúa cho con được nghiền nát vì cảm thương các tội nhân, vì các linh hồn chung quanh con”. Chị gọi những người tội lỗi là “anh chị em tội lỗi của Giêsu”, và chị cũng gọi họ là ”anh chị em của chị” và xin Chúa “tha thứ cho các anh chị em của chị”. Chị chấp nhận “ăn bánh đau khổ và hoàn toàn không muốn rời khỏi bàn ăn cay đắng nơi những người tội lỗi đáng thương ngồi ăn” (TMTH trang 422- 423) , như Chúa Giêsu xưa đã ngồi cùng bàn với người thu thuế và tội lỗi (Mt 9,10). Đến cuối đời khi đang hấp hối, chị nhìn sang Mẹ Bề trên và nói “chén đắng đã đầy miệng rồi. Không bao giờ con dám tưởng mình có thể chịu đau khổ tới mức này… con chỉ có thể hiểu rằng con chịu được là bởi lòng con rất thiết tha với phần rỗi các linh hồn”.

4.3 Em có ơn gọi làm tông đồ. Em muốn làm nhà truyền giáo

Cầu nguyện cho các linh mục, cho người tội lỗi, chị còn rất thiết tha với việc làm tông đồ: “Em cảm thấy muốn làm chiến binh, linh mục, tông đồ, tiến sĩ, tử đạo… muốn thực hiện mọi công trình anh hùng nhất” (TMTH trang 381)… “Em muốn đi khắp mặt đất, rao giảng danh Chúa Giêsu và trồng cây thập giá vinh hiển của Người trên mãnh đất vô đạo, đồng thời em muốn loan báo Phúc âm trên khắp Năm Châu cho tới tận những hải đảo xa xôi nhất… Em muốn là nhà truyền giáo không phải chỉ trong vài năm, nhưng em muốn là như vậy từ khi có vũ trụ này cho đến tận thế… Em muốn đổ cho tới giọt máu cuối cùng vì Người” (TMTH trang 382). Về cuối đời chị phải vâng lời nữ tu coi sóc chị đi bộ mỗi ngày 15 phút. Thấy chị đi lại quá mệt nhọc, có một chị khuyên: chị nên về nằm nghỉ thì hơn. Chị đáp lại: “Đúng thế. Nhưng chị có biết em lấy sức mạnh ở đâu mà đi được như vậy không? Em đi để cầu nguyện cho một xứ truyền giáo, với ý nghĩ rằng ở nơi xa xăm đó có vị truyền giáo có lẽ đang kiệt sức vì miệt mài lo mở mang Nước Chúa, em muốn dâng lên Chúa những bước đi mệt nhọc này để cho vị tông đồ ấy đỡ mệt mỏi…”.

5. ĐỂ KẾT

Trước tiên là trình bày ý kiến của các vị chủ chăn trong Hội Thánh về Thánh nữ Têrêsa và đường thiêng liêng thơ ấu của chị. Sau sẽ bàn về đường thiêng liêng thơ ấu và và việc Tân Phúc Âm hóa.

5.1. ý kiến của các vị chủ chăn trong Hội Thánh

– Đức giáo hoàng Piô XI. Khi phong thánh cho thánh nữ Têrêxa năm 1925 đã nói: “Vị Thánh Têrêxa mới đã thấm nhuần đạo lý Phúc Âm và đã thực hành đạo lý ấy trong đời sống hằng ngày của chị. Hơn nữa, bằng lời nói và gương sáng chị đã dạy con đường thiêng liêng thơ ấu cho các tập sinh trong tu viện, và đã trình bày cho mọi người bằng các tập viết được phổ biến trên khắp thế giới… theo lời chứng của vị tiền nhiệm của chúng tội là đức thánh cha Bênêdictô XV, chị đã học được một khoa học tuyệt vời về những điều siêu nhiệm khiến chị có thể vạch ra cho người khác một con đường cứu rỗi chắc chắn.” Hai năm sau, chị được ngài tôn làm Bổn mạng các xứ truyền giáo (1927).

– Đức thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã tấn phong Thánh Têrêsa làm Tiến sĩ Hội Thánh trẻ nhất, mới 24 tuổi, trong số 33 thánh Tiến sĩ Hội Thánh. Khi tuyên phong năm 1997 ngài đã nói “lý do trước tiên thánh nữ là một phụ nữ, rồi là một vị thánh rất trẻ đã sống hầu như cùng thời với chúng ta, và có một ảnh hưởng đối với quần chúng hôm nay”. Thánh nữ không hề cắp sách đến Đại học, không hề dự khóa thần học quy củ nào cũng chẳng có bằng cấp gì.

– Đức giáo hoàng Bênêdictô XVI, khi còn làm hồng y đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, nhân dịp phong Tiến sĩ cho thánh Têrêxa có nói: “Đối với danh hiệu tiến sĩ Hội Thánh tôi nghĩ cần hai tiêu chuẩn cơ bản: sự tỏa sáng thiêng liêng trên khắp thế giới, và chiều sâu giáo thuyết. Chắc chắn thánh nữ Têrêxa đáp ứng đủ hai tiêu chuẩn này”.

Cũng nên nhớ đức đương kim giáo hoàng Phanxicô đã phong chân phước cho ông bà Lu-y Mac-ti-nô, cha mẹ của thánh nữ, vào ngày 19-8-2008 tại Li-xi-ơ.

5.2 Đường thiêng liêng thơ ấu với Tân phúc âm hóa

Toàn Hội thánh đang tiến hành công cuộc Tân phúc âm hóa nghĩa là lấy nhiệt tình mới để vận dụng Phúc âm một cách mới mẻ, phù hợp hơn với con người và xã hội thời nay, những con người đang bị lôi cuốn theo dòng chảy của tục hóa, của vô thần, duy vật, của hưởng thụ, vô cảm… muốn gạt bỏ Thiên Chúa và tình yêu thương của Người; đang gây ra nhiều hậu quả tang thương cho cả thế giới loài người.

Thiên Chúa là tình yêu đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người để họ biết yêu Chúa, yêu nhau, sống hạnh phúc với nhau như trong địa đàng. Nhưng ông A-dong và bà E-và, nguyên tổ loài người, đã không muốn vâng phục Chúa, không muốn kết thân với Chúa, khiến cả thế giới loài người trở thành địa ngục trần gian. Tuy nhiên,vì Thiên Chúa luôn yêu thương đã cử Chúa Giêsu xuống trần gian để cứu rỗi loài người bằng con đường vâng phục, hạ mình xuống vác khổ giá và chịu chết, để chứng tỏ tình yêu vô biên và trung tín. Đó chính là Phúc âm của Chúa Giêsu, Phúc âm đã kêu gọi mọi người muốn được hạnh phúc trong Nước Chúa thì phải trở nên như trẻ thơ. Trẻ thơ cốt tại lòng tin cậy và phó thác hết mình cho Chúa.

***Như vậy đường thiêng liêng thơ ấu của thánh nữ Têrêxa là con đường nhỏ,một cách hữu hiệu và phù hợp nhất để Phúc âm hóa con người và xã hội ngày nay, chắc chắn giúp họ thoát khỏi cảnh một thế giới hỗn loạn vô chủ, và sống với nhau theo luật rừng vì không có Chúa…

Thánh nữ Têrêxa đã nghe Lời Chúa, chọn con đường thiêng liêng thơ ấu, để ham mê sống kết thân với Chúa bằng tin cậy, yêu mến, phó thác hoàn toàn cho Chúa, để cầu nguyện cho các linh mục, cầu nguyện cho mọi người tội lỗi, cầu nguyện cho việc Phúc âm hóa. Chị đã hứa: “khi về trời sẽ làm mưa hoa hồng xuống trần gian”. Hoa hồng đây là những ân sủng Chúa ban cho những ai thực hành con đường thiêng liêng thơ ấu với lòng yêu mến và hy sinh. Còn Kitô hữu chúng ta đang đi theo con đường thiêng liêng nào? Có ham mê trở thành đèn sáng, nên muối mặn để phục vụ nhân loại không (Mt 20, 28), hay chỉ ham mê trở thành “ông vua nhỏ” trong giáo phận, trong giáo xứ, trong gia đình, trong xã hội để cai trị (Mt 20, 25).

Xin mượn một đoạn thơ bốn câu trong bài thơ “Bài ca hôm nay của em” của Thánh Têrêxa để kết thúc bài này:

Đời em như gió thoảng
Đời em tựa mây bay
Có chi mà lo lắng,
Yêu Chúa trọn hôm nay.

(Bản dịch sang thơ Việt của nhà thơ Sảng Đình, cha J.M.Thích).
Lạy thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, xin mưa hoa hồng xuống trần gian, xin cầu cho chúng con. Amen.

Lễ Thánh Têrêxa 2014

Lm. Antôn Nguyễn mạnh Đồng
Nhà Hưu Dưỡng linh mục Cần Thơ

Anh chị Thụ Mai gởi

Trung Quốc biến thêm 2 đảo ở Trường Sa thành đảo nhân tạo

Trung Quốc biến thêm 2 đảo ở Trường Sa thành đảo nhân tạo
October 02, 2014

Nguoi-viet.com

LONDON (NV) .- Đá Ga Ven và Đá Lạc trong cụm đảo Nam Yết mà Trung Quốc cướp của Việt Nam hồi năm 1988 đang hiện thành đảo nhân tạo, theo hình ảnh chụp từ vệ tinh xác nhận.

Không ảnh của tổ chức Airbus Defense and Space cho thấy sự thay đổi từ Tháng ba đến Tháng 8-2014 bãi đá Ga Ven đã được Trung Quốc hút cát biến thành đảo nhân tạo. (Hình: IHS)

Sau bãi đá ngầm Gạc Ma, nay đến lượt bãi đá gồm hai mảng gần nhau là Đá Gaven và Đá Lạc (Trung Quốc gọi là Nanxun Jiao -Nam Huân tiêu – và Xinan Jiao – Tây Nam tiêu) trở thành đảo nhân tạo nhìn thấy qua không ảnh của tổ chức Airbus Defense and Space chỉ cách đảo Nam Yết hiện đang do một đơn vị hải quân Việt Nam trấn giữ từ 13 đến 15km về hướng tây, tường thuật trên tạp chí quốc phòng quốc tế Jane’s Defense.

Sau khi cướp của Việt Nam, Trung Quốc xây dựng một pháo đài ở phía đông bắc của bãi đá, trên đó trang bị súng phòng không, pháo hải quân và các hệ thống truyền tin, viễn thông. Nay nhìn qua không ảnh mới, người ta thấy pháo đài của Trung Quốc trên Đá Gaven chỉ còn là một chấm nhỏ so với cái đảo nhân tạo mới thành hình.

Theo Jane’s Defense, đảo nhân tạo tại Ga Ven có hình thể chữ nhật kích thước một chiều khoảng 300 mét một chiều khoảng 250 mét với cái đuôi dài, trông từ xa gần giống như một loại cá đuối. Cùng với việc nạo vét tạo thành một luồng nước sâu cho tàu bè vào đảo, diện tích cộng chung của đảo mới khoảng 114,000m2  gần gấp đôi đảo Nam Yết. Hiện quanh đảo đã được xây dựng các đê chắn sóng.

Dựa trên các không ảnh được chụp vào ngày 7/8/2014, việc xây dựng tại Đá Ga Ven chậm hơn tại Đá Gạc Ma (Trung Quốc gọi là Chigua Jiao – Xích Qua Tiêu) và Đá Châu Viên (Trung Quốc gọi là Huayang Jiao – Hoa Dương Tiêu). Ngoài bờ kè chắn sóng, người ta chưa thấy tại Đá Ga Ven có cầu cảng cho tàu biển cặp bờ hay lên xuống hàng như đã làm tại Gạc Ma, nhưng người ta cũng đã thấy có rất nhiều vật liệu xây cất được chất đống.

Hình ảnh cũ cho thấy trên bãi đá Gaven, Trung quốc đã xây dựng một pháo đài sau khi cướp của Việt Nam năm 1988, nay hút cát biến thành đảo nhân tạo. (Hình: Internet)

Các bờ kè chắn sóng của cả ba nơi Gạc Ma, Ga Ven và Châu Viên cho người ta cảm tưởng phi trường sẽ được xây dựng cả ba nơi này sau khi tất cả các dự án xây dựng cơ sở trên các đảo nhân tạo đã hoàn tất trước mùa bão xuất hiện từ cuối mùa hè sang mùa thu.

Gần đây, Philippines báo động rằng, khi các đảo nhân tạo đã hoàn tất với các cơ sở rộng lớn và có cả phi trường, rất có thể Trung Quốc sẽ tuyên bố vùng nhận dạng phòng không tức cấm bay trên Biển Đông khi cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo trở nên gay gắt hơn.

Tháng trước, không ảnh của Airbus Defense and Space cũng do Jane’s Defense công bố cho thấy Trung Quốc đã cho tàu nạo vét tới nới rộng diện tích đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc cướp của Việt Nam từ 1974. Với diện tích mới, Trung Quốc kéo dài phi đạo đã xây dựng trên đảo từ 2,400 mét lên tới 2,700 hay 2,800 mét cho các phi cơ quân sự cỡ lớn có thể lên xuống. (TN)