19 tổ chức Tôn giáo và XHDS đồng lên tiếng việc nhà nước chiếm đất DCCT Hà Nội – Giáo xứ Thái Hà

19 tổ chức Tôn giáo và XHDS đồng lên tiếng việc nhà nước chiếm đất DCCT Hà Nội – Giáo xứ Thái Hà

Chuacuuthe.com

VRNs (28.10.2014) – Hà Nội – Hôm nay, 18 tổ chức Tôn giáo và XHDS đồng ký tên lên tiếng việc nhà nước chiếm đất DCCT Hà Nội – Giáo xứ Thái Hà.

141026006

BẢN LÊN TIẾNG

Kính thưa Quý vị!

Những ngày cuối tháng 10 này, chính quyền Hà Nội đã cho phép đơn vị thi công tiến hành thi công trên khu đất Hồ Ba Giang thuộc sở hữu của Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) Việt Nam do DCCT Hà Nội – Giáo xứ Thái Hà quản lý. Đây là một hành vì ăn cướp trắng trợn của chính quyền Hà Nội với những khu đất thuộc sở hữu của tôn giáo.

Ngay sau hành động đó, ngày 21/10/ 2014 các linh mục, tu sĩ DCCT Hà Nội đã viết đơn khiếu nại khẩn cấp lên chính quyền Hà Nội xong lại nhận được văn thư phúc đáp nói rằng: Đã có quyết định thi công khu vực đất hồ Ba Giang. Đây là một quyết định bất chấp luật pháp.

Hiến pháp nươc CHXHCN Việt Nam trong: Điều 70, Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ sung) quy định:

“…Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của nhà nước”. Vậy việc làm của chính quyền Hà Nội đang vi phạm Hiến pháp nghiêm trọng.

Trong suốt những năm qua, từ năm 2008 ngọn lửa đòi Công Lý – Sự Thật chưa bao giờ tắt tại nhà thờ giáo xứ Thái Hà, bất chấp mọi ngăn cản của chính quyền ngọn lửa ấy vẫn được thắp lên. Trong những ngày qua bà con giáo dân quá bức xúc và phẫn uất trước việc làm của chính quyền Hà Nội họ đã xuống đường tuần hành lên ủy ban nhân dân Quận và sang khu vực đất Hồ Ba Giang yêu cầu dừng thi công. Song những người có trách nhiệm ở đây không những không tiếp đón mà còn xua đuổi bà con và có những hành động khiếm nhã.

Chúng tôi, các tổ chức Xã hội dân sự (XHDS) Việt Nam yêu cầu chính quyền Hà Nội tôn trọng luật pháp, dừng lại ngay hành động xâm phạm đến cơ sở tôn giáo, trả lại đất Hồ Ba Giang cho Giáo xứ Thái Hà – DCCT Hà Nội

Các tổ chức XHDS mong mỏi quý đồng bào trong và ngoài nước, quý đoàn thể, chính đảng, cộng đồng khắp nơi tích cực lên tiếng ủng hộ các linh mục, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội và bà con giáo dân giáo xứ Thái Hà trong những ngày khó khăn sắp tới trên con đường đòi Công Lý – Hòa Bình – Sự Thật.

– Hãy cùng lên tiếng ủng hộ Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội ngăn cản chính quyền Hà Nội xâm chiếm đất Hồ Ba Giang của Giáo xứ Thái Hà.

– Ủng hộ Đơn Khiếu Nại khẩn cấp của các linh mục, tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội

– Ủng hộ văn thư hiệp thông của Cha Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam – Vinh Sơn Phạm Trung Thành

Trân trọng kính chào quý vị.

Việt Nam, ngày 28.10.2014

1- Bạch Đằng giang Foundation, Đại diện: Ths Phạm Bá Hải

2- Diễn Đàn XHDS, Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A

3- Giáo hội Cao Đài, Đại diện: CTS Nguyễn Bạch Phụng

4- Giáo hội Liên hữu Lutheran VN-HK. Đại diện: Ms Nguyễn Hoàng Hoa.

5- Giáo Hội PGHH Thuần túy, Đại diện: Hội trưởng Lê Quang Liêm

6- Giáo Hội Tin lành Mennonite độc lập, Đại diện: Ms Nguyễn Mạnh Hùng.

7- Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo VN, Đại diện: Kỹ sư Nguyễn Bắc Truyển

8- Hiệp Hội đoàn kết Công – Nông Việt Nam, đại diện: Nguyễn Mai

9- Hội Bảo vệ quyền tự do tôn giáo, Đại diện: Cô Hà Thị Vân

10- Hội Cựu tù nhân lương tâm, Đại diện: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế

11- Hội Nhà báo độc lập, Đại diện: Tiến sĩ Phạm Chí Dũng

12- Hội thánh Chuồng bò (Tin Lành), Đại diện: Ms Nguyễn Mạnh Hùng

13- Lao động Việt, Đại diện: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh.

14- Mạng lưới Blogger Việt Nam, Đại diện: Cô Nguyễn Hoàng Vi.

15- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, Đại diện: Lm Phan Văn Lợi.

16- Tăng đoàn GHPGVNTN, Đại diện: Hòa thượng Thích Không Tánh

17- Văn phòng Công lý Hòa bình DCCT, Đại diện: Lm Đinh Hữu Thoại.

18- Phong trào Con Đường Việt Nam. Đại diện ông: Trần Văn Huỳnh

19-Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: Kỹ sư Đỗ Nam Hải

 

LỄ CÁC LINH HỒN (2 tháng 11).

LỄ CÁC LINH HỒN (2 tháng 11).

(Kn 3, 1-9; Rm 5, 4-11; Ga 17, 24-26).

Đời sống con người giống như lữ hành trên một chuyến xe lửa với những
trạm dừng và thay đổi tuyến đường. Khi sinh ra, cùng với cha mẹ chúng ta bước
lên xe lửa. Mong rằng cha mẹ chúng ta sẽ cùng đồng hành bên cạnh. Tuy nhiên,
tới một trạm nào đó, cha mẹ phải xuống khỏi xe lửa và rời chúng ta đi trong đơn
côi. Các trạm kế tiếp, có nhiều người bước lên xe lửa. Họ là bạn bè, anh chị
em, thân hữu và cả người yêu trong đời. Xe tiếp tục chạy, sẽ có nhiều người ra
khỏi xe và để lại chỗ trống. Có những người ra đi không ai chú ý và chúng ta
cũng chẳng mấy quan tâm là họ vắng mặt lúc nào. Trên tuyến xe lửa cuộc đời có
nhiều niềm vui, hy vọng, mong chờ, tiếng chào hỏi, tiếng cười, nỗi buồn và rồi
chia tay. Sống ý nghĩa là có được tình liên đới hài hòa với tất cả mọi
người…đòi hỏi chúng ta cống hiến điều tốt nhất của chính chúng ta. Nhiệm mầu
của đời sống là chúng ta không biết trạm nào mình sẽ xuống. Bởi thế, chúng ta
hãy sống tốt lành, yêu thương và biết tha thứ. Thật là quan trọng, chúng ta nên
thực hiện những gì tốt nhất trong đời sống. Khi thời điểm phải ra đi, chúng ta
nên để lại những kỷ niệm và ấn tượng thật đẹp cho những ai sẽ tiếp tục cuộc
hành trình.

Hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta cơ hội để kính nhớ tổ tiên và cầu nguyện cho các Đẳng linh hồn. Uống nước nhớ nguồn. Xin lễ, cầu nguyện, kính viếng và thương nhớ đến những linh hồn
đã ra đi trước chúng ta là một nghĩa cử thảo kính, báo hiếu và biết ơn. Ai ai
trong chúng ta cũng có những người thân, thành viên trong gia đình, họ hàng, thân
hữu và các ân nhân đã qua đời. Có biết bao nhiêu thành viên trong cùng một niềm
tin mà chúng ta không biết. Chúng ta cũng chẳng thể nào kể hết ông bà tổ tiên
của chúng ta bao đời đã qua. Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh
của Chúa, nên mọi người xưa nay còn sống cũng như đã qua đời, đều có sự liên hệ
tông giống nhân loại. Chúng ta biết rằng mọi người, không phân biệt, đều là loài
thụ tạo cao quý có hồn và xác.

Khi lìa đời, thân xác của con người là vật chất, nên sẽ bị tan rữa và trở về cát bụi. Còn linh hồn
thiêng liêng không thể tan biến. Sách Khôn Ngoan đã diễn tả: Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa (Kn 3, 1). Thân xác con người
đều tan rữa hư nát giống nhau. Chỉ có linh hồn còn hiện hữu trong thế giới vô
hình. Đích cùng, linh hồn người công chính và linh hồn kẻ bất lương sẽ không giống
nhau. Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa. Đây là chìa khóa của đời sống
tâm linh con người trên trần thế. Có sự khác biệt vô cùng lớn lao trong cuộc
sống ngày sau, giữa người thánh và ác nhân. Chúng ta nhớ dụ ngôn ông nhà giầu
và Ladarô nghèo khó, sau khi cả hai cùng chết, số phận mỗi người một khác. Ông
Abraham đáp lời ông nhà giầu đang bị khổ đau: Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được (Lc 16, 26). Mọi người được sinh ra cùng lữ hành, nhưng khác nhau nơi
điểm đến sau cùng. Có người sẽ đến được bến bờ hạnh phúc và có kẻ sẽ chịu hình
khổ đời đời.

Người khôn ngoan là người biết dự liệu cho mình hành trang đi về cuộc sống mai hậu. Nếu cứ mải mê tìm kiếm những thú vui trần đời, chúng ta sẽ dễ bị lạc vào mê hồn trận và tương
lai không biết đi về đâu. Không phải chúng ta chờ đến giây phút cuối đời, rồi cầu
nguyện: “Lạy Chúa, lạy Chúa…mà được vào nước trời”. Chúng ta phải thực hành thánh
ý Chúa Cha. Có nghĩa là chúng ta phải phấn đấu trong gian khổ, tu luyện, trau
dồi đức hạnh, tuân giữ các giới răn và cần được thanh luyện. Tác giả sách Khôn
Ngoan dạy rằng: Thiên Chúa đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu (Kn 3, 6). Qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta đã nhận lãnh hạt giống đức tin.
Chúng ta đã cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.

Truyện kể: Có một bé trai cứ khóc ròng trong lớp học. Cô giáo hỏi: Điều gì làm em buồn khổ thế. Cậu bé trả lời rằng em gái của cậu đã chết, bởi vì người ta đã chôn em dưới nấm mồ và đã lấp đất lại rồi. Cô giáo dẫn  bé trai tới chỗ cửa sổ, nơi đó có một số bình đựng đất xốp. Vài tuần trước, các em đã gieo những hạt giống trong đất. Cô giáo giải thích rằng các hạt gieo
xuống sẽ không giữ nguyên vẹn. Các hạt giống được trồng trong đất và sau một ít
ngày, các hạt này sẽ nẩy mầm, lớn lên thành cây và trổ hoa. Đó là ý nghĩa mà
các hạt giống sẽ biến đổi. Cô giáo lấy ngón tay moi một hạt giống dưới đất xốp,
hạt đã bắt đầu nẩy mầm non và mọc thêm rễ. Cô giáo giải thích: Hạt giống không
chết. Nó đang thay đổi và bây giờ đang trong tiến trình biến đổi rất ý nghĩa.

Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã hứa với các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em (Ga 14, 2). Lời của Chúa Giêsu là lời quyền năng chân  thật và là bảo chứng cho niềm tin của chúng ta. Đây không phải là lời hứa xuông, mà là một sự xác tín cho những ai đang mong đợi ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã  cầu nguyện cùng với Cha của Ngài: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với  con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương Con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24). Đây là chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Mọi loài thụ tạo đều có cùng đích để
hướng tới. Đặc biệt đối với con người, Thiên Chúa đã muốn chia sẻ tình yêu và
hạnh phúc viên mãn. Khởi đầu thơ gởi Do-thái, tác giả viết: Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dậy cha ông chúng ta qua ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này,
Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng
nên vũ trụ, đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài (Dt 1, 1-2).

Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về ý nghĩa và sứ mệnh làm người. Trong cuộc lữ hành hướng tới cùng đích là Nước Trời. Chúa Giêsu đã mở cửa Nước Trời ngay tại thế để mời gọi chúng ta gia nhập bước vào. Con đường vào Nước Trời là con đường hẹp. Con đường Chúa
đã đi qua. Chúng ta hãy bước theo gót chân và đi theo lối bước của Chúa. Chúa
là ánh sáng đã đến trong thế gian, ánh sáng soi dọi vào đêm tối để dẫn dắt
chúng ta tới nguồn sáng thật. Chính Chúa Kitô đã ban cho chúng ta lời hằng
sống, bánh trường sinh và sự sống thật. Ngài đã chiến thắng tử thần và sống lại
vinh quang. Chúa đã chết vì tội lỗi của chúng ta để ban lại cho chúng ta sự
sống muôn đời. Thánh Phaolô viết: Thế mà
Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó
là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta (Rm 5, 8).
Tất cả chỉ vì tình
yêu, cả công trình sáng tạo và cứu chuộc của Chúa. Chúa đã chết cho tình yêu để
chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa: Chúng
ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng
nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa (Rm 5, 11).

Lạy Chúa, cuộc sống này thay đổi chứ không mất đi. Chết không phải là hết, mà là bắt đầu một cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Xin cho chúng con biết quý trọng sự sống đời này và
chuẩn bị hành trang cho đời sống mai hậu. Chúng con cầu xin cho tất cả các linh
hồn đã qua đời được chung hưởng hạnh phúc qua lòng từ bi nhân hậu của Chúa.
Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ, cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi,
hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Anh chị Thụ Mai gởi

Tâm lý đố kỵ của con người

Tâm lý đố kỵ của con người

Tại sao con họa mi cứ thương hại con chim sẻ phải tự kiếm ăn? Trong khi có thể con chim sẻ cũng đang thương hại cho con họa mi vì cuộc đời tù túng.

Hoonzuco

Hạnh phúc là một trạng thái tình cảm. Mà cái gì đã liên quan đến trừu tượng đều khó nắm bắt. Với tôi, hạnh phúc chưa bao giờ là lựa chọn dễ dàng. Thế nhưng, con người điều khiển trạng thái hạnh phúc/bất hạnh thật kỳ tài.

Đối với nhiều người, hạnh phúc của bản thân họ không phải đến tự bản thân họ mà đến từ người khác, đến theo cách so sánh với người khác. Một người kiếm được nghìn đô một tháng thấy hạnh phúc không phải vì số tiền đó đem đến niềm vui cho họ, mà vì nhiều người xung quanh không có số tiền như thế. Nhưng họ sẽ cảm thấy kém hạnh phúc hơn khi có những người kiếm được nhiều tiền hơn.

Và người ta so sánh cả những thứ khác, như việc lấy vợ chẳng hạn: Người hạnh phúc hơn, vui vẻ hơn khi mình lấy được vợ đẹp hơn, giàu hơn, hay sớm hơn người khác, mà không phải hạnh phúc vì tự họ cảm nhận được.

Nhiều người cảm nhận hạnh phúc như thế, và tệ hơn là họ cũng nghĩ người khác cảm nhận theo cách của họ. Rồi từ đó, tự họ nghĩ rằng những người không có những thứ như mình sẽ không hạnh phúc, không vui vẻ bằng mình! Và từ đấy, họ lại tỏ ra thương hại những người mà họ cho là không hạnh phúc bằng họ. Một kiểu khóc mướn thương vay! Chính sự thương hại đó lại làm tăng thêm cảm xúc hạnh phúc và vui vẻ của họ.

Sự thật là con chim sẻ tung tăng giữa trời tự do sẽ có niềm vui riêng của con chim sẻ. Và con họa mi yên vị trong lồng son cũng có niềm vui riêng của nó. Tại sao con họa mi cứ phải thương hại con chim sẻ phải tự kiếm ăn? Trong khi có thể con chim sẻ cũng đang thương hại cho con họa mi vì cuộc đời tù túng?

Bản chất của con người là muốn được ngưỡng mộ, được khen và hơn người khác. Bởi vì thế giới tôn vinh những cái hơn người. Thế nên bạn giỏi hơn người khác, giàu hơn người khác hoặc đẹp trai/xinh gái hơn người khác thì tất nhiên, bạn đều có quyền kiêu ngạo. Nhưng tuyệt nhiên, đừng nhìn người khác bằng ánh mắt thương hại. Bởi chưa chắc họ đã để cái hơn người của bạn vào mắt, chưa chắc họ đã ít hạnh phúc hơn bạn.

Hạnh phúc là trạng thái tâm lý, vậy nên, nếu họ không bằng bạn, nhưng họ hài lòng với cuộc sống của mình, không ghen tỵ, đố kị và luôn chăm chăm săm soi vào những người hơn họ như bạn, thì hẳn nhiên là họ đang rất hạnh phúc đấy. Đồng ý rằng việc so sánh với xung quanh giúp con người ta có nỗ lực hơn, không tự huyễn hoặc bản thân rằng mình rất tốt, rất giỏi rồi mà không cần nỗ lực tiếp. Nhưng cái gì cũng cần có mức độ thôi bạn ạ.

Thử nghĩ thế này nhé. Nếu bạn học dốt hơn đứa hàng xóm, bạn luôn bị bố mẹ, bạn bè đem ra so sánh với nó. Và bạn cực kỳ ghét nó, luôn cô gắng để vượt qua nó. Thế nhưng, bạn có nghĩ đến việc cả đời này bạn không vượt qua được nó thì sao? Chẳng nhẽ bạn cứ sống hết đời trong ghen tỵ và thất vọng vì mình kém nó sao? Bạn cũng không thể biến mình thành thông minh hơn nó, chẳng nhẽ lại than trách bố mẹ sinh ra mình không thông minh bằng?

Bất cứ ai, không giỏi mặt này thì cũng sẽ giỏi mặt khác, và kể cả chẳng giỏi bất cứ mặt nào thì cũng không liên quan gì đến hạnh phúc cả. Biết đâu bạn không giỏi gì cả nhưng có gia đình hòa thuận, bố mẹ, bạn bè, người yêu quan tâm, công việc yêu thích, thế thì tuyệt quá đi chứ. Thế nên dù bạn có không bằng bất cứ ai, bạn vẫn có thể hạnh phúc cơ mà.

Vậy nên, thử vứt quách cái thứ tâm lý nhỏ nhen, đố kỵ ấy đi. Nhìn đời bằng con mắt bao dung hơn, rộng lượng hơn thì mở cửa ra, hạnh phúc đã ùa vào rồi đấy.

Trước kia tôi cũng đố kị đủ thứ với đủ người. Từ con bé hàng xóm được nhiều đứa quý hơn do nó cởi mở, dẻo miệng còn tôi thì lầm lỳ ít nói. Từ con bé cùng lớp xinh xắn được một đám con trai theo sau nịnh bợ, thầy cô yêu quý, luôn được tham gia thi múa hát các kiểu còn tôi thì gầy còm xấu xí nên chẳng ai để tâm đến… Nhưng gần đây tôi mới biết, khi đó chúng nó cũng đố kỵ với tôi vậy thôi. Đố kỵ tôi học giỏi hơn, đố kỵ tôi chẳng bao giờ bị bố mẹ đánh… Đấy, quanh cái vòng luẩn quẩn của so sánh, đố kỵ ấy chẳng có ai thật sự hạnh phúc cả.

Sống biết cuộc sống của mình thôi, nhìn chăm chăm vào cuộc sống của người khác để khó chịu khi người ta hơn mình, vui mừng khấp khởi khi người ta khó khăn làm gì. Mệt mỏi ra.

Hạnh phúc giản dị lắm. Nó luôn  bên cạnh ta, chỉ cần  quay mặt sang sẽ thấy. Nhưng đáng tiếc, chúng ta lại luôn nhìn về phía trước.

From: ngocmaidl9 & Anh chị Thụ Mai gởi

Niềm vui của anh em, không ai lấy mất được‏

Niềm vui của anh em, không ai lấy mất được‏

“Có chị nọ, một hôm mời người thợ sơn về sơn mấy bức tường nhà của chị, để đón xuân. Người thợ vừa bước vào cổng, thấy chồng chị bị mù loà, cả hai mắt. Bèn đem lòng xót thương.

Người chồng mù, lại luôn lạc quan yêu đời. Khiến, anh thợ sơn làm việc mấy ngày trời ở nơi đó, rất ăn ý. Anh không bao giờ nhắc nhở về những điều đáng thương đáng tiếc, của người mù.

Công việc hoàn tất. Người thợ sơn đưa cho chủ nhà biên lai tính tiền. Chủ nhà phát hiện ra rằng: số tiền lẽ đáng phải thanh toán, sao rẻ hơn mức thuận thảo, lúc ban đầu. Bèn, hỏi anh thợ:

-Bác tính toán cách nào mà sao bớt giá, quá nhiều vậy?

-Mấy ngày nay, tôi làm việc gần cận chồng của chị. Nay, thấy lòng mình rất vui. Thái độ của anh, trong cuộc sống giao tiếp với đời, khiến tôi cứ nghĩ mãi về cảnh tình của đời tôi, chưa đến nỗi tệ. Nên, tôi bớt cho anh chị một phần, khác với giá đã định hôm trước. Coi như đây, là để bày tỏ chút tình cảm, đối với anh. Làm việc ở đây, anh chị đã khiến tôi thấy rằng: đời mình không đến nỗi thiếu thốn. Khổ sở. Chỉ mỗi thế.

Nhìn hai người, một chồng một thợ, chị thấy cả hai cùng ở vào hoàn cảnh chẳng khá hơn gì người khác. Vì anh thợ sơn, chỉ mỗi cánh tay. Thế mà, anh chẳng thấy đời mình mang sắc mầu tím ngắt, những nỗi buồn.

Về với đời thường, chị vợ bèn nghĩ thêm: Thái độ nguời đời, có nhận định xấu/tốt vui/buồn sao đi nữa, cũng chẳng thay đổi được nhân sinh quan ta vẫn sống. Cùng lắm, chỉ đổi được quan niệm về cuộc đời ngắn ngủi, của mình thôi. Tuyệt nhiên, chẳng làm sao đổi thay toàn bộ cuộc sống, của người khác. Ta không thể chỉnh đốn cảnh đời sao cho phù hợp với cuộc sống mình đã chọn. Thật ra, ta chỉ có thể điều chỉnh thái độ của mình trong giao tế với người khác, thôi.

Trong cuộc sống, bất ai có cái nhìn lạc quan hơn, thì khi đối diện sự thật, sẽ thấy mình sống vui tươi. Hoà hợp. Vui, để chấp nhận. Vui, để cùng sống với người khác. Bởi, người người nếu biết cách điều chỉnh thái độ mình giao tiếp, sẽ nhìn sự vật theo con mắt lạc quan. Yêu đời. Sẽ thấy đời là chuỗi ngày vui. Đáng sống. Trái lại, ai muốn người đời thuần phục ý mình, thì khi việc không may xảy đến, sẽ thấy khổ đau. Tuyệt vọng. Thậm chí, dễ chán chường. Tự vẫn.

Xét cho cùng, đời người dù mang dáng mầu tím ngắt/tím đanh hay lanh chanh mầu hy vọng, cũng đều tuỳ tâm. Tuỳ tính. Tùy thái độ của mình khi nhìn sự việc. Chỉ mỗi thế.”

Nhìn sự việc, mà định mầu rất-tươi-vui của mùa Tím, ta thấy thánh sử viềt về sắc mầu phụng tự, cũng trích dẫn Lời Chúa trong Kinh Sách, như sau:

“Anh em cũng vậy,

bây giờ anh em lo buồn,

nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em,

lòng anh em sẽ vui mừng;

và niềm vui của anh em,

không ai lấy mất được.”

(Ga 16: 22)

NHỮNG CHẤT PHỤ GIA TRONG THỰC PHẨM ĐẦU ĐỘC TRONG THẦM LẶNG

NHỮNG CHẤT PHỤ GIA TRONG THỰC PHẨM
ĐẦU ĐỘC TRONG THẦM LẶNG

Đọc bài phỏng vấn có lợi cho sức khoẻ bạn:

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng, cựu giáo sư bộ môn Lý-Hoá nhiều năm giảng dạy tại Việt Nam, nay đang định cư tại Mỹ. Ông là người thường xuyên nghiên cứu và có nhiều bài viết về đề tài an toàn vệ sinh thực phẩm.

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng:
Chất phụ gia là những chất được người ta thêm vào trong thục phẩm với mục đích tạo ra màu sắc, hoặc tạo ra mùi thơm, hoặc bảo quản những thực phẩm chế biến sẵn cho lâu hư.

Từ lâu đời rồi người ta đã biết dùng các chất phụ gia như giấm để ngâm rau cải, củ kiệu, như muối ăn dùng muối thịt, cá, hoặc chất tạo ra màu là lá dứa để tạo ra mùi thơm và màu xanh, hay trái gấc tạo ra màu đỏ cho xôi gấc, hoặc hoa lài, hoa sen được dùng để ướp trà. Tất cả những chất đó có thể được coi như là chất phụ gia.

Nhưng lúc sau này người ta dùng những chất hoá học trong kỹ nghệ làm chất phụ gia cho thực phẩm. Bây giờ những chất hoá học lọt vào tay những người không chuyên môn quá nhiều. Thí dụ chuyện dùng phân ure để ướp cá cho tươi lâu là chuyện chắc chắn không nên làm.

Trà Mi: Có hai nguồn gốc, một là chất phụ gia từ thiên nhiên, hai là chất phụ gia từ các hoá chất, vậy chắc có lẽ không phải tất cả các loại phụ gia đều không an toàn, không có lợi cho sức khoẻ?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Chất phụ gia cũng cần thiết. Nếu không có chất phụ gia thì mình gần như là không thể nào có kỹ nghệ đồ hộp hoặc là những thực phẩm chế biến sẵn. Hiện bây giờ ở tất cả mọi quốc gia chúng ta không thể nào tìm được một món thực phẩm chế sẵn mà không có chút xíu chất phụ gia trong đó.

Chất phụ gia tự bản thân nó nếu được dùng đúng thì là cần thiết. Nhưng hiện giờ trong các quốc gia kỹ nghệ thực phẩm mới vừa phát triển (Trung Quốc, Việt Nam chẳng hạn) người ta dùng những hoá chất rất là nguy hiểm.

Tác hại của chất formol

Trà Mi: Những chất phụ gia nào được dùng một cách phổ biến, thông dụng, nhiều nhất, và nên đặc biệt cần chú ý, thưa ông?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Danh sách này thì gần như là vô tận. Nhưng bây giờ sự kiểm soát những chất phụ gia ở những quốc gia đã có kinh nghiệm, như tại Mỹ, Canada, nhà nước lập ra danh sách những hoá chất nào được dùng trong thực phẩm, những chất nào được dùng khá lâu rồi và người ta thấy chúng không gây ra bất cứ một hiệu quả nào hết, thì người ta đặt tên chúng là “những chất được biết là an toàn”.

Thí dụ nhà nước Mỹ lập ra một danh sách rất là dài, trong đó chất nào được bỏ vào thực phẩm với phân lượng bao nhiêu, không được nhiều quá.  Nhưng ở Việt Nam hiện bây giờ người ta dùng chất phụ gia mà tôi thấy rất là nguy hiểm. Thứ nhất phải kể tới là hàn the. Hàn the là borax. Chất này không phải là chất dùng để ăn được mà là chất dùng trong kỹ nghệ. Lâu nay người Việt Nam mình dùng hàn the trong bánh đúc, giò chả, hoặc trong hoa quả rau cải ngâm giấm với mục đích làm cho nó giòn. Hàn the nếu mình ăn ít thì nó có hại cho gan, cho thận và cho cơ quan sinh dục

Một chất khác cũng được người Việt Nam dùng rất phổ biến, đó là muối diêm. Muối diêm nói chung là tất cả những chất của nhóm nitric. Ở Hoa Kỳ người ta cấm hẳn, không được dùng muối diêm trong thực phẩm. Nhưng tại Việt Nam thì muối diêm được dùng rất là phổ thông để tạo ra màu đỏ của thịt heo. Người ta bỏ muối diêm vào trong lạp xưởng, nem.

Trà Mi: Và tác hại của muối diêm trước mắt và lâu dài ra sao, thưa ông?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Muối diêm có tác hại nguy hiểm nhất mà người ta biết được là gây ra bệnh ung thư. Dĩ nhiên không phải thỉnh thoảng mình ăn một vài chiếc nem hay một đôi lạp xưởng mà bị. Điều quan trọng là chúng ta ăn lâu dài, chất này sẽ tích luỹ và tạo ra những bệnh về lâu về dài.

Hiện giờ người ta dùng formol để giữ cho thực phẩm không hư. Formol là khí formoldehyde tan trong nước. Formol được dùng trong phòng thí nghiệm để ngâm xác sinh vật, cũng như trong ngành y khoa là dùng formol để ướp xác người cho sinh viên thực tập. Chất đó nguy hiểm lắm. Theo tôi được biết, trong 20 mẩu bánh phở được đem đi phân chất ở thành phố Hồ Chí Minh thì có tới 16 mẩu có formol với hàm lượng khá cao.

Trà Mi: Chúng tôi còn nghe nói là ngay cả bây giờ bánh tráng được phát hiện cũng có formol.

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Vâng, đúng vậy. Đó là một điều tôi rất quan tâm.

Trà Mi: Họ dùng formol với công dụng gì, thưa ông?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Formol được sử dụng để cho bánh tráng không bị meo mốc. Ngoài formol được dùng trong bánh tráng, người ta còn dùng chất tẩy trắng trong đó nữa. Bản thân bánh tráng không trắng, không trong đẹp. Nhưng không riêng gì bánh tráng, ngay cả bún tàu (miến) cũng rất trong vì có chất tẩy màu.

Người ta dùng chất tẩy màu trong kỹ nghệ để tẩy sạch màu sắc của những sản phẩm mà người thấy không đẹp. Nhưng tại Việt Nam mình người ta dùng chất đó trong thực phẩm, mà dùng một cách rất là liều lĩnh.

Trà Mi:
Xin được hỏi ông kỹ một chút là khi người ta tiêu thụ phải những thức ăn có chứa formol thì gặp phải tai hại như thế nào?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Formol gây ra bệnh ung thư. Điều đó người ta biết chắc. Theo Tiến sĩ Nguyễn Bá Đức ở Bệnh Viện Ung Bướu Trung Ương, mỗi năm tại Việt Nam có thêm 150.000 người măc bệnh ung thư, trong đó ước lượng có 50.000 người mắc bệnh vì ăn uống.

Trà Mi: Tức là một phần ba.

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Vâng, một phần ba. Trong đó người ta phải kể formol là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng ung thư tại Việt Nam.

Phân ure

Trà Mi: Ngoài formol, hàn the, chất tẩy trắng như ông vừa trình bày thì báo chí Việt Nam dạo gần đây cũng có lên tiếng về việc người ta cho phân ure vào nước mắm.

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Ngư dân đánh cá ngoài biển muốn cho cá trữ trên nghe nhiều ngày mà trông vẫn còn tươi, đem về nhà còn bán được, thì người ta ướp cá này bằng phân ure, tức là phân đạm. Khi chất này thấm vào cá thì nó giữ cho cá được cứng và tươi lâu. Khi về đất liền người ta bán cá đó lại cho các hãng làm nước mắm. Những hãng nước mắm này không đủ nước để rửa cá mà dù có rửa cho sạch đi nữa thì cùng không làm sách hết ure vì nó đã thấm vào cá. Cho nên khi làm nước mắm thì vẫn còn hàm lượng ure trong nước mắm. Đó là một lý do.

Ngoài ra tôi được biết người ta dùng “pin” có chứa những chất chứa kim loại nặng như chì, thuỷ ngân, cadmium, thạch tín. Những chất này nằm trong cái người ta gọi là “pin” đó có mục đích là làm cho lá bánh chưng được xanh tươi, hoặc một số thực phẩm có màu xanh tươi.
Những chất này rất là nguy hiểm, nhất là chì. Chì là chất ảnh hưởng lên trí óc, nhất là trí óc trẻ con. Kế đó là thuỷ ngân. Cadmium cũng là chất độc và thạch tín là một chất rất là độc được dùng để đầu độc giết người từ xưa nay.

Vừa rồi ở nước Mỹ có hàng triệu đồ chơi trẻ con bị thu hồi, lý do là nước sơn bên ngoài có chứa chì. Sơn pha chì được dùng từ xưa, có tên là sơn bạch diêm. Thế giới cấm dùng từ năm bảy chục năm nay rồi, nhưng mà đồ chơi do Trung Hoa sản xuất thì lại vẫn còn sơn chì.

Thuỷ ngân cũng là một kim loại mà người ta e ngại lắm. Những người mẹ mang thai được khuyên là nên ăn ít cá biển càng tốt.

Trà Mi: Những cá biển càng to càng có nhiều thuỷ ngân phải không, thưa ông?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Đúng vậy. Thuỷ ngân có trong thiên nhiên. Lý do cá chứa nhiều thuỷ ngân là do các nhà máy hoá học từ nhiều năm nay đã đổ ra biển, cho nên cá ven biển chứa nhiều thuỷ ngân hơn cá ngoài khơi.

Thường thường những hoá chất trên đây có hại cho các bộ phận bên trong cơ thể, nhất là óc (do kim loại nặng), kế đó là thận, rồi gan, và dĩ nhiên chúng làm thay đổi các tế bào trong cơ thể và đưa tới hậu quả sau cùng là bệnh ung thư.

Trà Mi: Tai hại như vậy, nhưng như ông vừa trình bày thì nếu dùng chất phụ gia đó lâu ngày với số lượng nhiều thì mới gây nguy hại đáng kể cho sức khoẻ, chứ còn lâu lâu mới dùng một lần thì không đáng ngại, vậy xin hỏi dùng bao nhiêu được xem là nhiều và thòi gian bao lâu gọi là lâu dài, thì mới đáng lo?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Tình trạng thay đổi tuỳ theo chất. Thí dụ hàn the (borax) chúng ta dùng rất là lâu dài thì số lượng gây chết người là 15 gam dùng cho một lần. Tức là với số lượng 15 gam thì người lớn có thể chết. Với trẻ con là 3 gam. Nhưng không bao giờ chúng ta ăn nhiều như vậy vì hàn the không ngon chút nào hết.

Thứ hai nữa là khi bỏ vào bánh tráng thì người ta cũng chỉ cho một số lượng rất ít, cho nên khi ta ăn vào cơ thể thì nó tích luỹ dần và lâu dài và nó gây bệnh về lâu dài. Điều này rất là nguy hiểm, những chất nào ăn vào chết liền thì người ta sợ nên người ta tránh. Còn những chất mới ăn vào người ta không cảm thấy gì cả, rồi tới khi nó phát ra bệnh thì lúc đó đã trễ rồi.

Trà Mi: Đúng là kẻ giết người thầm lặng, phải không ông?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Vâng. Thành thử những chất nào người ta biết được là chất độc thì ở các quốc gia Tây Phương ngưòi ta cấm hẳn, không được có chút xíu nào trong thực phẩm hết.

Thí dụ kẹo sản xuất từ bên Mexico không phải người ta bỏ chì vào trong đó, nhưng các máy móc sản xuất người ta hàn bằng chì. Những vết hàn bằng chì tan rất ít vào trong đường, trong kẹo. Đem qua Mỹ bán, chính phủ Mỹ phân chất thấy có chút xíu lượng chì trong đó và ra lệnh thu hồi liền

Bột ngọt

Trà Mi: Lâu nay vẫn có nhiều người bán tín bán nghi về tính lợi hại của bột ngọt. Nhiều người không dám dùng bột ngọt trong nêm nếm thức ăn vì nghe nói là độc hại cho sức khoẻ. Bột ngọt có tác hại thực sự ra sao? Có độc hay không, thưa ông?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Huyền thoại về bột ngọt đã có từ lâu lắm, từ khoảng hai ba mươi năm nay. Chính nó là chất mà tôi theo dõi nhiều nhất, thành thử nếu nói về bột ngọt thì tôi rành nó lắm. Nó chỉ là một huyền thoại thôi.

Thực sự bột ngọt là một chất phụ gia gần như vô hại. Tôi nói là gần như vô hại nếu chúng ta không ăn với số lượng quá lớn. Bột ngọt là chất đã có tự nhiên ở trong thịt cá, dầu chúng ta có thêm vào hay không thêm vào thì nó vẫn có bột ngọt. Thí dụ như chúng ta lên men nước tương theo lối cổ truyền thì ở trong đó nó đã có bột ngọt rồi.

Bột ngọt là gì?
Đó là acid glutamic mà cộng với sút, mà acid glutamic là một chất có trong thịt cá, có trong protein. Nó là một amino acid, tức là nó có trong tự nhiên.

Ở những nhà máy sản xuất bột ngọt người ta dùng phương pháp lên men khoai mì hoặc hiện bây giờ người ta còn lên men một vài thứ củ khác.

Các bà nội trợ có nhiều người tránh bột ngọt, nhưng thực sự chúng ta vào quán ăn chúng ta không thể nào mà không ăn bột ngọt hết. Tôi có một người quen làm trong tiệm phở. Người này cho biết một thùng nước lèo to của tiệm phở, người ta bỏ vào đó 2 bịch bột ngọt, hoặc có khi 3 bịch. Một bịch bột ngọt là nửa ký lô. Thành ra khi chúng ta vào một tiệm phở, ăn phở về, những người nhạy cảm một lúc sau họ thấy khô miệng, họ thấy đầu hơi choáng váng một chút, tê lưỡi. Có người bị ngứa ngoài da nữa. Những người đó được biết là những người dị ứng với bột ngọt.Theo thống kê, cứ 100 người thì có 1 người bị dị ứng. “Hội chứng quán ăn Tàu” .

Trà Mi: Chính những phản ứng tức thì làm cho người ta lo sợ?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Đúng vậy. Và triệu chứng đó, người Mỹ gọi là “hội chứng quán ăn Tàu”, tại vì trong tất cả quán ăn Á Đông nói chung thì người ta luôn luôn dùng bột ngọt bởi lý do cạnh tranh. Nếu không gia thêm bột ngọt (vào thức ăn) thì thực khách ăn không thấy ngon. Nhưng có điều là những chủ quán ăn lẫn người đầu bếp không rõ là bột ngọt gây thêm hương vị, nó làm cho vị ngọt thịt cá tăng lên. Nhưng bỏ càng nhiều thì hương vị tăng lên không nhiều. Nó chỉ đên một giới hạn nào đó thôi, rồi nó không tăng lên nữa. Cho nên số lượng bột ngọt dùng trong nấu ăn không nên bỏ nhiều, chỉ đến một giới hạn nào đó rồi thôi. Ngoài giới hạn đó thì nó không có lợi ích gì hết.

Nếu mình nói vô hại hoàn toàn thì không đúng, nhưng nó là chất phụ gia an toàn và được biết là không gây bệnh về lâu về dài.

Tuy nhiên, chính phủ Mỹ có khuyên hẳn hoi là những bà mẹ đang mang thai và trẻ sơ sinh còn quá nhỏ thì không nên cho ăn những thực phẩm mà trong đó có bột ngọt.

Chính bản thân bột ngọt, tôi biết lúc xưa người Pháp dùng nó để làm thuốc bổ óc. Mà ngay như chúng tôi lúc còn đi học ở trung học thì vẫn mua những viên thuốc bổ óc để uống. Những viên này là acid glutamic. Và người Pháp còn chế dưới dạng nước, dạng ống, đó là acid glutamic dưới dạng nước mà người ta gọi tên là glutaminol. Nếu nó là chất gây bệnh hay là chất có hại về lâu về dài thì người Pháp họ đã biết và họ không dùng như vậy đâu.

Trà Mi: Có những tin đồn rằng bột ngọt được chế biến bằng khoai mì công nghiệp có nhựa độc thành ra người ta sợ bột ngọt không bảo đảm chất lượng.

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Thưa cô, khoai mì nó độc. Nó độc không phải là ăn khoai mì độc hay gì đâu. Khoai mì, nhất là lá khoai mì, bông khoai mì có chứa một loại acid gọi là acid cyanhydric. Đó là loại acid mà ngày xưa Đức Quốc Xã dùng để giết người Do Thái. Hiện bây giờ vẫn còn những nơi người ta dùng chất đó để xử những tội nhân bị tử hình.

Trong khoai mì có một hàm lượng nhỏ acid cyanhydric, cũng giống như là trong măng tre. Măng tre cũng có một hàm lượng nhỏ acid cyanhydric.

Nếu khoai mì được luộc ít nước hoặc chúng ta ăn đọt khoai mì thì có khi bị ngộ độc vì chất acid đó. Nhưng nếu khoai mì được luộc nhiều nước hoặc chúng ta lấy bột khoai mì để cho lên men thành bột ngọt thì không còn có dính dáng gì tới acid cyanhydric.

Bột ngọt là chính do những con men sinh sống bằng khoai mì tạo ra, chứ không phải ngay từ bản thân khoai mì.

Nếu người ta luộc đọt khoai mì để ăn thì có thể bị ngộ độc. Hoặc là măng tre mà không được luộc hai ba nước và cứ để như vậy mà ăn thì cũng có thể bị ngộ độc.

Món mắm các loại

Trà Mi: Xin được hỏi thêm là một món ăn cổ truyền rất phổ biến tại Viẹt Nam, rất quen thuộc với mọi người, đó là mắm các loại. Đối với nhiều người Việt Nam, thưỏng thức các loại mắm cũng không khác gì các món sơn hào hải vị. Nhưng bây giờ người ta nghi ngờ trong các loại mắm cũng có chứa những chất phụ gia độc hại. Thưa, có phải như vậy không?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Cảm ơn cô đã hỏi câu này. Vâng, tôi xin nói một chút xíu về mắm. Mắm theo ông bà chúng ta làm ngày xưa đó thì tự bản thân nó cũng là chất rất là độc. Thậm chí đến nỗi cơ quan USDA của Hoa Kỳ khuyên người dân khi đi du lịch ở Trung Hoa hay ở các nước Á Châu thì đừng ăn những chất protein ngâm muối. Tức là chính phủ Mỹ có ý muốn nói rằng đừng ăn thịt muối hay là cá muối, là mắm, là khô, là những loại rau cải được ngâm muối.

Nếu tôi nhớ không lầm thì chính phủ Trung Hoa cũng đã khuyến cáo dân chúng là đừng ăn quá nhiều rau cải ngâm muối.  Rau cải được ướp muối, được ngâm chua, được ngâm muối là món ăn truyền thống của người Trung Hoa. Và chính phủ Trung Hoa biết rằng nó gây ra bệnh ung thư.

Tôi trở lại với món mắm. Mắm tự bản thân nó là protein được ngâm muối, trong đó có nhiều chất độc được coi như chất tạo ra bệnh ung thư về lâu về dài. Thứ hai, lượng muối quá nhiều. Theo các nhà chuyên môn, hiện giờ mỗi ngày một người lớn chỉ được ăn chừng 1 tới 5 gam muối mà thôi. Đó là một số lượng rất ít, so với số lượng mà người Việt Nam tiêu thụ hiện giờ.

Ngay người Âu Châu, người Pháp làm thống kê, ngưòi ta thấy số lượng muối ăn vào đã gấp 5-6 lần số lượng 1-5 gam. Và người ta biết rằng khi ăn muối nhiều như vậy thì bệnh sẽ xảy ra về tim mạch.

Thành thử nếu chúng ta ăn mắm, ăn nước mắm quá nhiều thì đã là không tốt rồi. Nhưng hiện bây giờ người ta bỏ thêm vào mắm nhiều chất phụ gia khác nữa, mà các chất phụ gia đó thì chúng ta không kiểm soát được. Nó do sáng kiến từ nơi sản xuất: người ta muốn làm thế nào thì làm miễn là trông tươi, trông ngon, trông đẹp thì người ta ăn.

Tôi được biết khô cá, như khô cá thiều, theo một phóng sự mà tôi đọc được từ báo trong nước, thì người ta dùng một loại cá biển không ngon đem về xay ra, xong rồi trộn chất phụ gia nào đó rất là nhiều. Xong người ta ép lại cho giống như miếng khô cá thiều rồi đem phơi nắng. Theo phóng viên tờ báo, khi đem phơi như vậy chính ruồi nhặng cũng không dám bám vào miếng khô đó nữa. Điều đó cho chúng ta thấy là đáng ngại lắm.

Tôi được biết tôm khô được người ta xịt thuốc trừ kiến vào trong đó để không bị kiến và bị mốc, màu được tươi. Tôi không biết thuốc trừ kiến đó là chất gì, mà con kiến đã sợ chất đó thì dĩ nhiên là con người cũng phải sợ.

Khô mực và các loại cá khô

Trà Mi: Thế còn khô mực, cá loại cá khô khác có nên quan ngại không, thưa ông?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Khô mực tới bây giờ tôi không được biết người ta đã bỏ chất gì vào trong đó, nhưng chính con khô mực có thành phần cholesterol rất cao. Khô mực là một trong những thực phẩm có cholesterol cao nhất. Kế đó là óc heo, óc bò.

Trà Mi: Mặc dù là không có chất phụ gia thực phẩm?

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng:
Mặc dù không có, nhưng khô mực ăn nhiều không tốt đâu, tại vì cholesterol trong đó cao lắm. Nó cao hơn cả tròng đỏ trứng gà nữa.

Trà Mi: Dạ. Cholesterol ngày nay cũng là một cái đáng sợ.

Ông Huỳnh Chiếu Đẳng: Đó là một cái mà người ta khuyến khích không nên đem vào cơ thể nhiều. Số lượng mà cơ quan USDA của Mỹ khuyên người dân là một người lớn trung bình mỗi ngày chỉ nên đem vào cơ thể chừng 300 miligam trở lại. Một trong đỏ hột gà chứa từ 250 tới 300 milgam. Còn nếu trứng vịt thì hàm lượng cholesterol còn cao hơn nhiều./.

LỜI ƯỚC HẸN…

LI ƯỚC HN…

Cả hai đang ở độ tuổi 17. Họ gặp nhau trong 1 bệnh viện khi đang đi dạo. Trong 1 chớp mắt, hai trái tim non trẻ rộn lên 1 niềm xúc động sâu sắc. Họ đọc trong mắt nhau 1 niềm xúc động sâu sắc. Họ đọc trong mắt nhau một nỗi thương cảm bi ai. Kể từ hôm đó họ không còn cô đơn nữa.

Đến 1 ngày ,cả 2 được thông báo rằng bệnh tình của họ không có cách nào chữa trị được nữa. Trước khi được gia đình đón về nhà, họ ngồi bên nhau 1 buổi tối, hẹn cùng nhau vượt qua số phận ….Họ hứa mỗi tuần sẽ viết cho nhau 2 lá thư để chúc phúc và an ủi nhau. Rồi hôm sao họ chia tay nhau.

Thấm thoát đã 3 tháng trôi qua. Cô gái ngày càng yếu ớt. Một hôm cô gái cầm trong tay bức thư chàng trai gửi đến rồi thanh thản khép đôi bờ mi, miệng thoáng mỉm cười mãn nguyện. Bà mẹ cuống cuồng gọi con. Nhưng cô gái đã ra đi, bà gỡ lá thư trong tay cô gái và đọc :”…khi số phận đùa giỡn với sinh mạng của em, em không nên sợ hãi vì bên cạnh em luôn có anh và mọi người quan tâm đến em. Anh đang khỏe dần lên ,anh sẽ đến với em một ngày gần đây, em sẽ không cô đơn “.

Hôm sau, bà mẹ mở tủ của con gái, phát hiện ra vài chục lá thư do con gái bà viết, bỏ sẵn vào phong bì, dán tem đàng hoàng. Phía trên tập thư là mẩu giấy cô gái viết cho bà mẹ : “mẹ ơi, đây là tập thư con viết cho 1 người bạn trai mà chúng con đã có lời hẹn ước đi cùng nhau suốt quãng đời còn lại. Nhưng con thấy mình yếu đi nhanh chóng, sợ không giữ được lời hứa ấy. Con đã viết sẵn những lá thư này, mỗi tuần mẹ gửi giúp con 1 lá cho anh ấy để anh ấy nghĩ con vẫn còn sống và đang an ủi anh ấy vượt lên trên bệnh tật. Con chỉ mong anh ấy đủ niềm tin để sống tiếp. Con gái của mẹ “.

Bà mẹ lần theo địa chỉ ghi tên bìa thư để đến nhà chàng trai. Bà nhìn thấy trên bàn là một tấm ảnh của một thanh niên trẻ, tràn đầy sinh khí và sức sống được viền dải băng đen. Bà vô cùng ngạc nhiên khi biết chàng trai ra đi cách đây 1 tháng.

Bà mẹ chàng trai nước mắt lưng tròng chỉ vào chồng thư đặt bên cạnh khung ảnh và kể rằng: “con trai tôi đã mất cách đây 1 tháng, nhưng trước khi ra đi, nó dành 3 ngày 3 đêm để viết những lá thư này. Nó nhờ tôi mỗi tuần gửi cho cô bạn gái nào đó 1 lá. Nó bảo cô gái đó cũng đang mong chờ sự cổ vũ, an ủi của nó .Thế là cả tháng nay tôi thay con trai gửi những lá thư này đi, không biết cô gái đó có nhận được không ?…”

Bà mẹ cô gái lao đến ôm chầm lấy bà mẹ của chàng trai và khóc không thành tiếng. Khi cả 2 bà mẹ đã hiểu ra tất cả, 2 bà quyết định vẫn cứ hàng tuần gửi cho nhau 1 lá thư mà con họ đã để lại. Họ bảo làm như thế vì 1 ước nguyện cao cả.

S.T.

NIỀM HY VỌNG HẠNH PHÚC

NIỀM HY VỌNG HẠNH PHÚC

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng.  Khác hẳn với những gì người đời thường nói.  Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.

Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc.  Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt.  Ai cũng mơ ước được hạnh phúc.  Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người.  Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc.  Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi.  Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ.  Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.

Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời.  Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời.  Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời.  Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa.  Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.

Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa.  Qua những lời chúc phúc.  Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta.  Được Chúa là được tất cả.  Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có.  Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ.  Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa.  Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.

Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc.  Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó.  Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng.  Người đã mở đường đi về hạnh phúc.

Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện.  Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết.  Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian.  Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.

Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui.  Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.

Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng.  Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn.  Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời.  Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài.  Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp.  Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.

Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu.  Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc.  Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị.  Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình.  Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.

Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Mỹ đòi CSVN sửa luật để cải thiện nhân quyền

Mỹ đòi CSVN sửa luật để cải thiện nhân quyền

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI 26-10 (NV) – Hoa Kỳ đòi chế độ Hà Nội sửa luật lệ hình sự, nhờ vậy nhân quyền sẽ được bảo vệ nhiều hơn, thay vì chỉ thả một vài tù nhân chính trị này rồi bắt vào mấy người khác.

Phụ tá Ngoại trưởng Mỹ về Nhân quyền họp báo ở Hà Nội ngày 26/10/2014 sau 5 ngày đi thăm viếng nhiều nơi và thảo luận với các viên chức CSVN. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Tuy nhìn nhận có một vài tiến bộ về mặt nhân quyền, một viên chức cao cấp Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về nhân quyền hôm Chủ Nhật 26 tháng 10, nói trong cuộc họp báo trước khi rời Việt Nam rằng chế độ Hà Nội phải làm nhiều hơn nữa để thắt chặt hơn các quan hệ kinh tế và an ninh với Mỹ.

Ông Tom Malinowski, Phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ, nói như thế tại Hà Nội sau 5 ngày ông tiếp xúc với các chức sắc CSVN và đi thăm một số nơi. Theo ông, nhà cầm quyền CSVN cần sửa luật của họ cho phù hợp hoàn toàn với bản hiến pháp 2013 của chế độ cũng như các cam kết quốc tế về nhân quyền.

Ông Malinowski tới Hà Nội ngày 21 tháng 10, cùng ngày với nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày được thả ra từ nhà tù tại Thanh Chương tỉnh Nghệ An và đưa thẳng ra phi trường sang Mỹ, không được gặp mặt vợ con hay bất cứ người nào khác.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao CSVN nói trong cuộc họp báo chiều 23 tháng 10, khoe rằng chế độ thả Blogger Điếu Cày sớm trước hạn tù “vì lý do nhân đạo.” Nhưng Blogger Điếu Cày nói với hơn trăm người Việt đón ông ở phi trường Los Angeles buổi tối ngày 21 là ông bị nhà cầm quyền CSVN “trục xuất” ra khỏi đất nước.

Theo lời ông Malinowski, thì ông “nói rất rõ (với các viên chức CSVN) là chúng tôi muốn (chế độ Hà Nội) phải làm nhiều hơn nữa để mối quan hệ giữa hai nước tiến sâu hơn mà nhờ vậy chúng ta có thể hợp tác nhiều hơn về an ninh cũng như thỏa hiệp thương mại Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)” mà hai bên cùng 10 nước khác còn đang đàm phán chưa xong.

Ông nhấn mạnh trong cuộc họp báo nói trên ở Hà Nội rằng “Tuy nhiên chúng ta chỉ có thể thực hiện được những điều đó nếu có tiến bộ nhiều mặt về nhân quyền.”

Ông Malinowski cho biết CSVN đã thả 12 tù nhân lương tâm năm nay (thật ra chỉ một nửa là được thả trước hạn tù, một nửa mãn hạn tù) nhưng ông thúc giục chế độ Hà Nội không dùng các điều khoản luật hình sự có lời lẽ mơ hồ để bắt giam người dân dù người ta chỉ sử dụng quyền tự do phát biểu để trình bày chính kiến một cách ôn hòa.

“Không gọi là có tiến bộ về nhân quyền khi thả 12 người này rồi lại tống giam 12 người khác.” Ông Malinowski nói. “Cho nên chúng tôi nhấn mạnh (với nhà cầm quyền CSVN) là cần phải hoàn thành sự cam kết của nhà nước CSVN bằng cách cải cách luật lệ cho phù hợp hoàn toàn với bản hiến pháp 2013 của họ cũng như phù hợp với các cam kết quốc tế.”

Ông Malinowski cho hay, trong các cuộc thảo luận với các viên chức CSVN, ông đã giải thích rằng một số điều luật hình sự của chế độ không tương ứng với các cam kết (quốc tế) và chúng “có vẻ như nhằm vào quyền tự do phát biểu và hội họp.”

Ông cho biết chính phủ Mỹ “muốn là đối tác sâu rộng hơn và bền vững hơn với Việt Nam, tương tự như mối quan hệ chúng tôi có với các đồng minh thân thiết nhất ở Á Châu, Âu châu và các nơi khác.” Nhưng muốn vậy “Chúng tôi cần một nền tảng vững chắc dựa trên các giá trị chung và đó là lý do tại sao chúng tôi nhấn mạnh vấn đề nhân quyền mạnh mẽ đến như vậy.”

Đầu Tháng 10 vừa qua, Phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng CSVN Phạm Bình Minh đến Hoa Thịnh Đốn sau nhiều tháng trì hoãn vì e ngại Bắc Kinh “hiểu lầm.” Trong cuộc gặp mặt, tuy Ngoại trưởng John Kerry loan báo gỡ bỏ một phần lệnh cấm vận bán võ khí sát thương cho Việt Nam, tin tức cho hay ông cũng khuyến cáo chế độ Hà Nội phải cải thiện tình trạng nhân quyền mạnh mẽ để có thể được Hoa Kỳ nới lỏng hơn lệnh cấm bán võ khí sát thương.

Cùng một ngày gặp Ngoại trưởng Kerry, theo một bản thông cáo của Tòa Bạch Ốc ông Phạm Bình Minh cũng đã gặp bà Susan Rice, Cố vấn An ninh Quốc gia của tổng thống Barack Obama. Bản thông cáo báo chí nói rằng bà Rice cũng thúc giục chế độ Hà Nội cải tiến nhân quyền nhiều hơn nữa. (TN)

Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô’

Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô’

Dương Danh Dy Nhà nghiên cứu Trung Quốc

Các ông Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười

…Hơn 20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, người ta sẽ thấy “ngộ” ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến kết quả của Hội nghị, những người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều biểu thị sự không đồng tình.

Bước đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng ta, cũng như xin thẳng thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm khi đó đối với đất nước.

Nêu ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng họ là những đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc.

Ngoài những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài trước, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc Chiến tranh Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.

Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.

Đó là những điều ngưòi viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng chí phiên dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà khi đồng chí còn sống tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng chí tại số 2 Nguyễn Cảnh Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.

Không dám hé một lời

Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh

Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai nước nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu ‘lấy làm tiếc’ về hành động phi nghĩa của mình?

Nhượng bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành được ‘vị thế chính nghĩa’ trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu tỉnh biên giới Việt Nam.

Làm cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: ‘Việt Nam xua đuổi người Hoa’, ‘Việt Nam xâm lược Campuchia’… là đúng, việc thế giới ‘lên án, bao vây cấm vận Việt Nam’ là cần thiết, việc Trung Quốc ‘cho Việt Nam một bài học’ là phải đạo…trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.

Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc. Ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên.

Cuộc Chiến tranh Biên giới năm 1979 bị quên đi

Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn người dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là ‘vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát’…

Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc – tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học – tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông.

Cảm tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được.

Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến Đại hội 8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…

Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm.

Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)

Cần nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu hơn vào công tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy kỳ đại hội Đảng (IX, X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh đạo cấp cao.

Quan hệ Việt – Trung đ̣ã trải qua nhiều bước thăng trầm

Việc tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví dụ gần đây nhất.

Đây là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ, trong Đảng ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc nhưng ngưòi nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, thời đồng chí Lê Duấn là người lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ thân Liên Xô, thân Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.

Có thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có thể khẳng định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự tổ chức.

Nhưng từ năm 1991 đến nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như đã diễn ra thường xuyên và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất hiện ‘Nhóm lợi ích thân Trung Quốc’ trong Đảng ta? Không giải quyết được tình trạng này thì hậu hoạn khôn lường.

Bài học bị dắt mũi nhớ đời

Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.

Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã…

Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?

1. Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.

Lãnh đạo Việt Nam đã nhận định sai về vị thế quan hệ Trung – Xô

Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường Berlin bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên.

Trong tình hình như thế mà lại chủ trương ‘bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc’, ‘Mỹ và Phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản’.

“Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ)

Cần thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy vậy phải nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ thuộc hơn. Thế nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay sát nách Mỹ đã không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên ngang đứng vững từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội vã quay sang tìm đồng minh ngay với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ vì cái đại cục chung chung, chỉ vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã hội, mất Đảng.

Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.

Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc ‘dắt mũi’ kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.

Lãnh đạo Đảng năm 1990 đã đánh mất bản lĩnh và trở nên sợ địch

Không thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm đối kháng, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ thủ đoạn nào trong đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ trong đối xử với Liên Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng tác giả với họ trong đề xướng 5 nguyên tăc chung sống hoà bình những năm trước đó.

Chẳng lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?

2. Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất, không sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.

Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối cải cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp ‘vì chủ nghĩa xã hội’, ‘vì đại cục’ của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.

Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi ‘láng giềng bốn tốt’, của ‘những đồng chí’ luôn rêu rao ’16 chữ vàng’ đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tương lai.

Báo VN tố công an ‘bôi nhọ’ đất nước

Báo VN tố công an ‘bôi nhọ’ đất nước

Công an Việt Nam (ảnh minh họa)

Trong một bài báo mới đăng hôm thứ Hai 27/10, báo Giáo dục Việt Nam công khai chỉ trích phương pháp phòng chống tội phạm của Công an TP HCM.

Các sai phạm của cán bộ chiến sỹ ngành công an gần đây không phải là không được phản ánh trên báo chí, nhưng đây là một trong những lần hiếm hoi toàn ngành công an ở đô thị lớn nhất Việt Nam bị chỉ trích nặng nề như thế này.

Bài viết của tác giả Xuân Dương nói về “sáng kiến” phân phát tờ rơi cảnh báo tội phạm cho khách du lịch nước ngoài của công an thành phố.

Bài này đặt câu hỏi: “Công an TP HCM đã ‘sáng tạo’ ra kiểu bôi nhọ hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và thanh danh đội ngũ cán bộ chiến sĩ ngành Công an cả nước?”

Những tờ rơi mà Công an phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 TPHCM phát cho khách du lịch có nội dung khuyến cáo họ tự bảo vệ tài sản cá nhân ở nơi công cộng.

Trong đó có những câu như: “Tội phạm bạo lực rất thường xảy ra ở TP HCM. Hãy giữ túi của quý vị ở gần bên người, đừng mang trang sức quý và đừng phô trương máy ảnh hay điện thoại”.

“Đừng tin đồng hồ trên xe taxi. Ăn chặn tiền của khách là nghệ thuật của các lái xe không trung thực. Hãy sử dụng các hãng taxi có uy tín như Vinasun và Mai Linh.”

Theo Giáo dục Việt Nam, “đọc xong những dòng chữ in trên tờ rơi này, người Việt (và đương nhiên cả người nước ngoài) buộc phải cho rằng Công an TP HCM đã ‘sáng tạo’ ra phương cách ‘tốt nhất’ nhằm bôi nhọ hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và cũng là bôi nhọ thanh danh chính đội ngũ cán bộ chiến sĩ ngành Công an cả nước”.

Bài báo nhận xét việc công an sở tại lưu ý người nước ngoài rằng tại thành phố mình đang quản lý thường có tội phạm hay đồng hồ trên taxi không chính xác “thì mới thấy lần đầu tại TP HCM và Việt Nam”.

“Không chỉ có thế, việc một cơ quan nhà nước khuyến cáo du khách chỉ sử dụng dịch vụ của hai hãng taxi Vinasun và Mai Linh còn là hành động vi phạm luật cạnh tranh trong kinh doanh thương mại trên địa bàn thành phố.”

Nhiều lãnh đạo

Tờ rơi của Công an TP HCM

Báo Giáo dục Việt Nam cũng vạch ra một số bất cập khác trong hoạt động của Công an thành phố.

Báo này nói Công an TP HCM có tổng cộng tám vị lãnh đạo gồm bốn thiếu tướng và bốn đại tá.

“So sánh quân hàm và chức vụ công an với bên quân đội, bốn đại tá tương đương bốn sư đoàn trưởng, bốn thiếu tướng tương đương bốn tư lệnh/chính ủy quân đoàn hoặc tư lệnh/chính ủy binh chủng. Giả thiết một quân đoàn gồm 3 sư đoàn thì cấp bậc của lãnh đạo Công an TP HCM tương đương với cấp chỉ huy 16 sư đoàn chính quy!”

Bài báo đặt câu hỏi: “Với đội ngũ lãnh đạo cao cấp như thế, bên dưới là một lực lượng hùng hậu gồm công an phường, quận, thành phố, cảnh sát cơ động, cảnh sát trật tự, cảnh sát giao thông, các đội săn bắt cướp và còn một trung đoàn cơ động (khoảng 600 chiến sỹ) từ Bộ Công an chi viện, vậy tại sao tình hình vẫn tồi tệ, không được cải thiện?”

Hiện Công an TP HCM chưa có phản hồi gì về chỉ trích trực diện này.

Giáo dục Việt Nam là tờ báo của Hiệp hội các Trường đại học, cao đẳng ngoài công lập Việt Nam. Tuy nhiên báo này được biết là có nhiều bài viết về mảng quân sự-quốc phòng.

Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam cải thiện nhân quyền nhiều hơn nữa

Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam cải thiện nhân quyền nhiều hơn nữa

RFA

26-10-2014

Phụ Tá Ngoại Trưởng Mỹ đặc trách dân chủ, nhân quyền và lao động Tom Malinowski trong buổi họp với báo chí ở Hà Nội ngày 26 tháng 10, 2014

Phụ Tá Ngoại Trưởng Mỹ đặc trách dân chủ, nhân quyền và lao động Tom Malinowski (thứ 3 từ phải) trong buổi họp với báo chí ở Hà Nội ngày 26 tháng 10, 2014

AFP

Mặc dù đã có những tiến bộ về nhân quyền, nhưng chính phủ Việt Nam vẫn phải nỗ lực hơn nữa nếu muốn có quan hệ chặt chẽ hơn về an ninh và kinh tế với Hoa Kỳ.

Đó là nội dung phát biểu được ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Mỹ đặc trách dân chủ, nhân quyền và lao động Tom Malinowski đưa ra với báo chí ở Hà Nội ngày hôm nay, sau chuyến viếng thăm Việt Nam kéo dài 5 ngày.

Trong cuộc họp báo, ông Malinowski nhấn mạnh rằng chính phủ Hoa Kỳ muốn xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với Việt Nam, kể cả quan hệ hợp tác an ninh và đi đến kết thúc đàm phán Hiệp Định Kinh Tế Đối Tác Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương TPP, nhưng những điều đó chỉ xảy ra với điều kiện tình trạng nhân quyền tại Việt Nam phải được cải tiến nhiều hơn nữa.

Ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Mỹ đặc trách dân chủ, nhân quyền và lao động cũng ghi nhận chuyện trong năm nay Việt Nam đã trả tự do cho 12 tù nhân lương tâm, nhưng ông cũng nói thêm rằng nhân quyền không được cải thiện nếu nhà nước trả tự do cho 12 người này và bắt giam 12 người khác.

Ông Malinowski cũng nhấn mạnh ở điểm chính phủ Việt Nam phải cải tổ luật pháp, để thực hiện đúng những điều được ghi trong hiến pháp ban hành hồi 2013 về quyền tự do của người dân, và thi hành đúng những điều nhà nước đã cam kết với cộng đồng thế giới.

Ông cho hay trong những cuộc thảo luận với các quan chức Việt Nam, ông đã trình bày rằng một số điều khoản trong bộ luật hình sự của Việt Nam không phù hợp với những văn kiện về nhân quyền và dân quyền mà Việt Nam đã ký kết, ngược lại, những điều khoản này được ban hành với mục đích gây khó khăn, không cho người dân được quyền tự do hội họp hay tự do phát biểu tư tưởng.

Ông nhắc lại Hoa Kỳ luôn luôn mong muốn có quan hệ tốt, bền vững với Việt Nam y như quan hệ mà Washington đang có với những nước đồng minh Châu Á, Châu Âu và những nước ở các châu lục khác, nhưng điều này chỉ thành hình với điều kiện Việt Nam phải tôn trọng những giá trị căn bản của con người, và đó là lý do tại sao chính phủ Hoa Kỳ luôn luôn nhắc nhở, đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng các quyền căn bản mà người dân bất kỳ quốc gia nào cũng phải được hưởng.

Sau Việt Nam, trạm dừng chân kế tiếp của ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Mỹ đặc trách dân chủ, nhân quyền và lao động sẽ là Seoul, nơi ông sẽ gặp gỡ với các viên chức chính phủ, các tổ chức dân sự và những người Bắc Hàn đào tị để bàn thảo về tình hình nhân quyền Bắc Hàn.