‘Bán danh…ba đồng!’

‘Bán danh…ba đồng!’

Nguoi-viet.com

Huy Phương

Tháng rồi, gia đình tôi gửi về cho cô em ở Sài Gòn một thùng quà 24 lbs từ một dịch vụ gửi hàng về Việt Nam tại Little Saigon. Sau một tuần, qua điện thoại trao đổi hai bên, chúng tôi biết thùng quà bị lấy mất 2 chai thuốc Glucosamine, một loại thuốc nghe nói rất đắt khách tại Sài Gòn hiện nay, và hai hộp cheese đầu bò, là loại “bơ thừa sữa cặn” nhân viên quan thuế trong nước hiện nay vẫn còn thèm thuồng.

Kiều Trinh, con gái một quan chức cao cấp của đảng,
từng ăn cắp trong các chuyến công tác nước ngoài.

Tôi biết thùng quà không bị moi từ đại lý ở Mỹ, vì người Việt ở Mỹ không có thói ăn cắp vặt, và cũng đã chán bơ, sữa. Thùng quà về Tân Sơn Nhất bị những tay kẻ cắp chuyên môn rạch một đường dài rất khéo và dán băng keo lại sau khi dùng bàn tay mò mẫm để định giá món hàng cần phải lấy, và cũng có thể chúng mở thùng ra đàng hoàng và dán lại. Ai có thể khiếu mại đôi co với chúng khi nhận được thùng quà đã bị ăn cắp này?

Câu chuyện ăn cắp ở phi trường Tân Sơn Nhất đã được một em bé lớp ba trong nước, làm luận văn mô tả câu chuyện ba em, làm việc tại phi trường, mỗi chiều về nhà, đều mang theo một bịch đồ lấy cắp của khách hàng, từ chai thuốc bổ, mỹ phẩm cho đến chiếc cell phone, chiếc quần jean và mẹ em có nhiệm vụ đem hàng đi bán lấy tiền. Vì chuyện này, ba em thường bị ông nội em phàn nàn, khiển trách (trong xã hội này mà còn được một ông nội như vậy sao!)

Ông Cao Huy Huân, một người ở trong nước, đã mô tả chuyện ăn cắp ở hàng không Việt Nam: “Chả là bạn học chung với tôi ở Mỹ lần đó bay về Việt Nam thăm gia đình vào dịp HÈ. Trong vali hành lý có mang theo một chiếc máy ảnh cổ nghe nói là trị giá cả 9 nghìn đô la Mỹ, mang về hộ cho một người bạn. Khi đến sân bay Nội Bài, cậu phát hiện hành lý mình có dấu hiệu bị xâm phạm nên mở vali ra xem thì mới biết chiếc máy ảnh đó cùng một vài chai nước hoa hàng hiệu đã không cánh mà bay. Cậu liên hệ các bộ phận ở sân bay thì đều bảo là không nhìn thấy, không biết gì cả. Vốn biết nét đặc sản tai tiếng này ở các cảng hàng không Việt Nam nên cậu lập tức gọi điện thoại cho người thân vì cậu có người thân làm quan chức cao cấp trong một bộ ở Hà Nội. Chỉ chưa đầy 10 phút sau, một nhân viên kiểm tra hành lý đã tay xách nách mang đem ra trả cho anh chàng đầy đủ máy ảnh và số nước hoa trên, còn xin lỗi rối rít. Cũng chẳng mất mát gì nên cậu cũng im lặng cho qua. Thế nhưng câu hỏi đặc ra là nếu như cậu bạn đó không có người thân là quan chức cấp cao thì số hành lý đó sẽ ra sao?”

Một chuyện ăn cắp “quốc tế” là mất mặt đảng nhất là chuyện Kiều Trinh, một đảng viên, trưởng phòng Văn Hóa Dân Tộc (!) của một đài truyền hình mà cha cô là Vũ Văn Hiến, ủy viên Trung Ương Đảng, làm tổng giám đốc! Năm 2001, Kiều Trinh nhám tay ăn cắp một số mỹ phẩm khi cô được bố cử đi công tác ở Thụy Điển. Năm 2009, khi sang Anh, Kiều Trinh lại giở trò cầm nhầm mấy cái máy ảnh digital. Cả hai lần, vì là con của ủy viên Trung Ương Đảng, cô được các tòa đại sứ CSVN tại địa phương “cứu hộ,” tận tình, thậm chí có cả giấy chứng nhận Kiều Trinh đang mắc bệnh tâm thần từ trong nước gửi ra. Về nước, chưa chừa thói ăn cắp, tại thành phố Vinh, Nghệ An, Kiều Trinh lại tuồn áo quần vào váy, lần này camera cửa hiệu thu hình đầy đủ và đưa lên Internet.

Vậy mà ông bố có đứa con gái làm nhục quốc thể vẫn là khuôn mặt của Trung Ương Đảng CSVN, kẻ cắp quốc tế mỗi đêm vẫn lên đài truyền hình dạy dỗ người ta cái gọi là “văn hóa dân tộc.” Cả nước khinh bỉ chúng nhưng chúng không hề có chút liêm sỉ để hổ thẹn.

Một nhân viên đài truyền hình có hồ sơ trọng tội, xấu xa như vậy phải được đưa ra khỏi ngành, một đảng viên có thành tích ăn cắp bỉ mặt như vậy phải bị khai trừ khỏi đảng. Một tổng giám đốc đài truyền hình có nhân viên làm xấu ngành nghề, một người cha có đứa con làm nhục cha ông như Kiều Trinh, nên biết tự xử như một người có nhân cách.

Tội nghiệp thay, cha con nhà này cũng như cả đảng nhà nọ, vẫn coi đây là chuyện thường tình. Không ai còn biết liêm sỉ, chẳng ai còn biết đến chuyện xấu hổ nữa chăng? Cả ai nửa, đã bổ nhiệm Vũ Văn Hiến vào chức vụ tổng giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam, kẻ đã đem con vào giữ một chức vụ trưởng phòng trong đài, đã dùng tiền dân đóng thuế để cử con đi công cán ở ngoại quốc, làm xấu mặt cho người Việt Nam. (*)

Thằng nhỏ làm công nhân, buổi sáng đem một lon nhôm đựng cơm trưa, buổi chiều về nhét đầy một lon xi măng, đinh sắt. Thằng lớn tổng giám đốc ăn theo chức tổng, thằng thủ kho kiếm chác theo thủ kho, thằng bảo vệ sống nhờ mánh mung bảo vệ. Ăn cắp để bảo vệ chức vụ và nghề nghiệp của mình và trong xã hội ấy nhân phẩm được cân đo bằng tiền. Cán bộ làm giàu nhờ ăn cắp của công, toa rập với bọn tài phiệt nước ngoài cướp đất của dân, từ trên xuống dưới, phủ bênh huyện, huyện bênh phủ, tạo nên một mạng lưới ăn cắp từ trên xuống dưới. Mấy năm gần đây, cán bộ, viên chức nhà nước dính líu đến các vụ buôn lậu, bán visa, ăn cắp hàng trong các siêu thị, có đường dây tổ chức trong nước càng ngày càng nhiều, đến nỗi khuôn mặt Việt Nam trở nên lem luốc. Tình trạng người Việt ăn cắp không một nơi nào mà không có: trong công ty, ở công sở, nơi công cộng, siêu thị, chợ búa, địa điểm du lịch… không những trong nước mà còn ra nước ngoài để bêu riếu thanh danh Việt Nam đến đỗi ở nơi đông người, các quốc gia Nhật, Thái lan, Hàn phải trưng bảng thông báo đề phòng và cảnh cáo dân Việt…ăn cắp.

Có lúc nào mà dưới mắt thế giới, người Việt bị sỉ nhục đến như thế! Vậy có ai trên quả đất này còn giấc mơ, “một buổi sáng thức dậy, bỗng dưng…thành người Việt Nam” nữa không? Và cũng không ai trách, một người Việt khi ra ngoài, phải tự thanh minh: “Phải, tôi là người Việt Nam, nhưng là người Việt Nam đang ở nước ngoài, hay tôi là một người Việt Nam nhưng không phải là Việt Nam Cộng Sản hiện nay.”

Người Việt hầu hết đều thấy hổ thẹn, có người kêu gọi “đi tìm một nhân cách của con người Việt Nam đã mất!” Đã mất có nghĩa là ngày xưa, nhân cách ấy đã có, từ cái thời mà người Việt không có, không biết đến Cộng Sản là gì. Xây dựng thì khó, có khi hàng thế hệ, nhưng phá bỏ thì dễ, chỉ cần vài năm.

Người xưa ra đường làm việc bậy, trong xóm làng, thì người ta hỏi là con cái nhà ai, để chửi là con…mất dạy! Thời nay, không còn ai cần đến danh dự của cha mẹ, họ hàng, gia tộc, vì chúng không biết xấu hổ, thì ra đường, người ta hỏi đây là dân nước nào vậy!

Tổ tiên chúng ta đã bỏ ra ba vạn để có danh dự cho Việt Nam, nhưng bây giờ chế độ Cộng Sản trong nước đã bán danh ấy có…ba đồng!

(*) “Chẳng tin thì ông đi đôi

Cha con nhà nó còn ngồi đằng kia.”

(Ca dao mới)

Quốc hội phổ biến tài liệu nợ công đã vượt trần

Quốc hội phổ biến tài liệu nợ công đã vượt trần

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-11-01

debt-622.jpg

Nợ công của Việt Nam cập nhật sáng 31/10/2014 là hơn 85 tỷ USD; mỗi người dân đang gánh số nợ 937 USD theo đồng hồ nợ công toàn cầu của báo The Economist.

Screen capture

Tài liệu phục vụ phiên họp toàn thể ngày 30/10 của Quốc hội Việt Nam xác định nợ công nếu được tính đầy đủ thì đã vượt trần. Đây là lần đầu tiên các đại biểu Quốc hội Việt Nam kêu gọi Chính phủ trung thực trong đánh giá nợ công để có biện pháp trả nợ, tránh sự đe dọa nền tài chính quốc gia.

Nợ công hơn 85 tỷ đô la

Nợ công của Việt Nam cập nhật sáng 31/10/2014 là hơn 85 tỷ USD; mỗi người dân đang gánh số nợ 937 USD theo đồng hồ nợ công toàn cầu của báo The Economist. Trong khi đó, bản tổng hợp ý kiến đại biểu Quốc hội phổ biến trong phiên họp toàn thể ngày 30/10/2014 ghi nhận rằng, nợ công của Việt Nam đã vượt trần nếu tính cả số nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ trái phiếu Chính phủ, nợ đọng xây dựng cơ bản.

” Cách tính nợ công của VN và quốc tế có sự vênh nhau, không khớp với nhau. Điều đó có nghĩa nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ của một số chính quyền địa phương hoặc tổ chức thuộc nhà nước được nhà nước không tính vào đó.
-PGS TS Ngô Trí Long”

Nhận định về cách đánh giá nợ công gây nhiều tranh cãi ở Việt Nam, Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế từ Hà Nội nhận định:

“Hiện nay về cách tính nợ công của Việt Nam và quốc tế có sự vênh nhau, không khớp với nhau. Điều đó có nghĩa nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ của một số chính quyền địa phương hoặc tổ chức thuộc nhà nước được nhà nước không tính vào đó. Trước quốc tế thực chất hiện nay với khối nợ của doanh nghiệp nhà nước cực kỳ lớn thì trong tình hình như vậy mức nợ công không phải là dưới 65%. Thực tế các chuyên gia, các nhà khoa học không phải tổ chức nước ngoài người ta tính toán nợ công trên 100% tức là trên mức báo động rất nhiều. Với tỷ lệ nợ công so với GDP như vậy đồng thời với những khó khăn thách thức cũng như xu hướng nợ công tăng, khả năng chi trả và việc xử dụng không hiệu qủa thì đây là tình trạng đáng báo động. Chính vì vậy cho nên vấn đề này đang được đặt ra trên bàn nghị sự của Quốc hội trong kỳ họp này.”

Một buổi họp Quốc Hội tại Hà Nội

Một buổi họp Quốc Hội tại Hà Nội(ảnh minh họa)

Tại cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ tổ chức hôm 29/10/2014 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trấn an “nợ công của quốc gia bao gồm nợ Chính phủ vay, nợ Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương hiện vẫn trong giới hạn cho phép theo qui định của Chiến lược nợ công quốc gia là không vượt quá 65% GDP (tổng sản phẩm quốc nội). Các bản tin từ nguồn chính thức trích lời Thủ tướng đánh giá đỉnh nợ công quốc gia sẽ đạt mức 64,9% vào năm 2016.

Theo Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long, vấn đề ở đây không phải là biểu hiện của con số nợ công là bao nhiêu mà điều cần chú ý là khả năng trả nợ cũng như xu hướng nợ công gia tăng quá nhanh. Ông nói:

“Thủ tướng luôn luôn báo cáo nợ công ở trong mức độ an toàn, có nghĩa là trong mức độ hiện nay đánh giá mức độ an toàn ở chỗ nào. Thí dụ Châu Âu đánh giá nợ công dưới 60% GDP, bội chi ngân sách dưới 3% là an toàn. Nhưng có điều kiện khác là khả năng trả nợ được hay không. Mặc dầu nợ công hiện nay dưới mức an toàn nhưng tới 2015 sẽ xấp xỉ 65%, tức là tới giới hạn đỏ và khả năng trả nợ của Việt Nam rất hạn chế, rất hạn hẹp và trả nợ rất là khó khăn.”

Đe dọa tài chính quốc gia

Theo Thời báo Kinh tế Việt Nam bản tin trên mạng ngày 29/10/2014, tài liệu tổng hợp ý kiến các đại biểu Quốc hội phục vụ phiên họp toàn thể ngày 30/10 nêu rõ: “Nợ công đang trở thành vấn đề nguy hiểm, nếu không giải quyết tốt có thể đe dọa đến tài chính quốc gia và ổn định vĩ mô, chính trị.” Các đại biểu Quốc hội còn góp ý, cần đánh giá vấn đề nợ công một cách thẳng thắn hơn. Chính phủ cần có báo cáo bổ sung gửi Quốc hội và báo cáo hàng năm về nợ công, trong đó cụ thể hóa về cơ cấu nợ, chủ thể nợ, mức nợ hàng năm, tỷ trọng nợ công/GDP, phương án trả nợ, vấn đề sử dụng đồng vốn vay…”  Vẫn theo Thời báo Kinh tế Việt Nam, nhiều vị đại biểu cũng đặt vấn đề là Quốc hội chưa sử dụng hết quyền giám sát và quyền quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến vấn đề nợ công. Quốc hội chỉ qui định trần nợ công, mà chưa có chỉ tiêu về tỷ lệ trả nợ.

” Tôi nghĩ rằng, việc giải quyết vấn đề nợ công của Việt Nam đòi hỏi phải có những biện pháp cấp bách trước mắt và những biện pháp tái cơ cấu lâu dài.
-TS Lê Đăng Doanh”

Trong bối cảnh tình hình nợ công nguy hiểm được phản ánh nhiều chiều như vậy, giải pháp nào cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam. Trả lời Vũ Hoàng Đài Á Châu Tự Do, Kinh tế gia Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương cho rằng, ưu tiên 1 là điều chỉnh ngay về chi ngân sách. Việt Nam có tỉ lệ sử dụng ngân sách nhà nước tương đối cao, việc này là gánh nặng đối với dân chúng. Ngoài ra nhà nước phải giảm việc chi thường xuyên mà hiện nay chiếm tỷ lệ 72% tổng chi. Như vậy chỉ còn lại 28% mà 25% sẽ phải chi để trả nợ. Phần còn lại chỉ còn 3% để đầu tư phát triển là quá ít và nền kinh tế Việt Nam sẽ không thể công nghiệp hóa được. Điểm cuối cùng, theo TS Lê Đăng Doanh là cần phải tái cấu trúc đầu tư công và phải có những biện pháp giám sát đầu tư công, để đầu tư công hiệu quả hơn. TS Lê Đăng Doanh nhắc lại ý tưởng về một nhà nước kiến tạo mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề ra trong thông điệp đầu năm 2014. Ý tưởng này cần được thực hiện trong việc cải cách sắp tới, theo đó Nhà nước chỉ chăm lo phúc lợi xã hội và làm những việc mà khu vực tư nhân không làm, còn những gì mà khu vực tư nhân làm được thì để cho khu vực tư nhân làm. TS Lê Đăng Doanh nhấn mạnh:

“Tôi nghĩ rằng, việc giải quyết vấn đề nợ công của Việt Nam đòi hỏi phải có những biện pháp cấp bách trước mắt và những biện pháp tái cơ cấu lâu dài, những điều đó sẽ làm cho Nhà nước Việt Nam trải qua một cuộc cải cách hết sức mạnh mẽ, mạnh mẽ hơn cả kỳ đổi mới cách đây 30 năm.”

Tại phiên họp Quốc hội ngày 31/10/2014, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Đức Kiên dẫn các số liệu chính thức nhấn mạnh rằng nhà nước đã tiêu hết dư địa về nợ công cho 6 năm tới, tỷ lệ nợ công an toàn 65% là theo chiến lược quản lý nợ công đến năm 2020 mà đến năm 2015 đã là 64%.

Nếu tình hình cứ tiếp tục như hiện nay mà Chính phủ không có giải pháp thích hợp, không tiến hành cải cách đúng mức, thì khả năng về việc Việt Nam vỡ nợ công là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

Trình độ của Đại biểu Quốc Hội VN: Điều thực sự đáng lo ngại

Trình độ của Đại biểu Quốc Hội VN: Điều thực sự đáng lo ngại

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-11-01

Một khoá họp Quốc Hội tại Hà Nội (ảnh minh hoạ)

Một khoá họp Quốc Hội tại Hà Nội (ảnh minh hoạ)

AFP

Không hiểu mình nói gì?

Một số đại biểu Quốc Hội có không ít những phát biểu ngay tại nghị trường cho thấy sự thiếu thận trọng, hoặc chưa thật hiểu những gì họ nói; thậm chí còn trái luật. Điều này đã khiến dư luận băn khoăn về chất lượng và trình độ của thành viên cơ quan lập pháp Việt Nam.

Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Theo Hiến pháp Việt Nam, thì Quốc Hội là cơ quan lập pháp, có nhiệm vụ quyết định những vấn đề lớn, các chính sách cơ bản của nhà nước và hoạt động của bộ máy nhà nước. ĐBQH là những người ưu tú về phẩm chất, năng lực, do cử tri trực tiếp bầu ra và thay mặt cử tri thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc Hội. Nhưng thực thế là việc bầu cử ĐBQH ở Việt Nam từ trước đến nay luôn bị cho rằng chỉ là việc làm hình thức, tiến hành theo cơ chế Đảng cử, Dân bầu.

Và thực tế các phát biểu của các ĐBQH tại nghị trường trong thời gian gần đây cho thấy, có sự thiếu thận trọng, hoặc chưa thật hiểu những gì họ nói, thậm chí là trái với luật pháp.

” Tôi nghĩ thực trạng kém cỏi của ĐBQH là có và tồn tại lâu rồi, là điều mà bất cứ ai quan sát nghị trường ở Việt Nam lâu năm cũng đã rõ, không có gì là bất ngờ.
-Nguyễn Văn Thạnh”

Thực trạng này không chỉ làm cho dư luận lo ngại về khả năng và trình độ của các ĐBQH, mà còn cho thấy chất lượng của cơ quan quyền lực cao nhất ở Việt Nam đã và đang có các vấn đề đáng báo động.

Gần đây nhất, ĐBQH Sư thầy Thích Thanh Quyết phát biểu tại Quốc Hội rằng Việt Nam phải xây dựng quân đội như quân đội Cộng hòa DCND Triều tiên là một ví dụ.

Hoặc chuyện ĐBQH Đỗ Văn Đương, người phát biểu nhiều ý kiến phản đối việc quy định về quyền im lặng trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), cho rằng: “đây là chuyện kiểu như vẽ đường cho hươu chạy để bọn tội phạm lộng hành”. Đáng chú ý hơn, ông Đỗ Văn Đương đã quy chụp một cách thiếu căn cứ khi cho rằng “thực chất luật sư Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền”.

Phản ứng về phát biểu này, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam Lê Thúc Anh đã cho rằng, phát biểu đó của ĐB Đỗ Văn Đương không chỉ là một nhận định thiếu căn cứ mà còn hoàn toàn trái với quy định tại Điều 3, luật Luật sư. Mà còn không phù hợp với nguyên tắc về đảm bảo quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa được xác định là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp.

000_Hkg9116355-305.jpg

Kỳ họp thứ 6 Quốc hội Việt Nam khóa 13 hôm 21 tháng 10 năm 2013 tại Hà Nội.

Một phát biểu khác cũng gây ra bao ý kiến phản đối, là của ĐBQH Nguyễn Thị Nhung thuộc Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh hóa. Bà này yêu cầu Quốc Hội luật hóa việc quy định đặt tên con của người Việt Nam. Bà ĐBQH này cho rằng, cần xây dựng một luật mới là Luật Đặt tên, theo đó quy định đặt tên phải thuần Việt, sao cho hợp văn hóa truyền thống, phong tục tập quán.

Đề nghị của vị ĐBQH này được các chuyên gia luật cho rằng đã trái với quy định Điều 26 Bộ luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam đã quy định là “Công dân có quyền đối với họ, tên. Họ tên của một người được xác định theo tên khai sinh của người đó”. Hay đối với trẻ có cha hoặc mẹ là người nước ngoài thì Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ cũng có quy định rõ là: “Việc đặt tên Việt Nam hay tên nước ngoài là theo sự lựa chọn của cha mẹ.”

Bình luận về chuyện các đại biểu phát biểu có vấn đề như thế, ông Nguyễn Văn Thạnh một nhà hoạt động xã hội ở Đà Nẵng nói với chúng tôi:

“Quốc Hội Việt Nam được đạo diễn bởi Đảng CSVN theo cơ chế Đảng cử dân bầu, điều đó đã làm cho Quốc Hội phụ thuộc. Đó là lý do vì sao mà Quốc Hội Việt Nam chưa làm tốt được cái vai trò theo sự hiến định của Hiến pháp. Cái phát biểu như thế tôi thấy nói hài hước, nó hơi buồn cười. Nhưng mà tôi nghĩ hoàn toàn đúng với thực trạng của Quốc Hội Việt Nam. Cho nên tôi nghĩ thực trạng kém cỏi của ĐBQH là có và tồn tại lâu rồi, là điều mà bất cứ ai quan sát nghị trường ở Việt Nam lâu năm cũng đã rõ, không có gì là bất ngờ.”

Nguyên nhân?

Trả lời hỏi nguyên nhân do đâu dẫn tới tình trạng chất lượng của các ĐBQH Việt Nam rất yếu kém như vậy?

Chuyên gia Bùi Kiến Thành thấy rằng, nguyên nhân là do các ĐBQH đa số là thiếu chuyên môn, và công tác nhân sự tuyển chọn thiếu tính chuyên nghiệp. Theo ông đây là hậu quả của vấn đề dân chủ hình thức, thiếu thực chất và còn là sự vi phạm quyền làm chủ của người dân.

” Quốc Hội Việt Nam rất đặc biệt là nó tập hợp rất nhiều lĩnh vực với nhiều kinh nghiệm khác nhau. Ở Việt Nam mấy người vào Quốc Hội như mấy ông sư hay tướng tá là một việc hết sức khác so với các nước.
-Bùi Kiến Thành”

Ông Bùi Kiến Thành cho biết:

“Quốc Hội Việt Nam rất đặc biệt là nó tập hợp rất nhiều lĩnh vực với nhiều kinh nghiệm khác nhau. Ở Việt Nam mấy người vào Quốc Hội như mấy ông sư hay tướng tá là một việc hết sức khác so với các nước. Họ không bắt buộc phải hiểu biết về chính trị hay lập pháp, luật lệ. Nó độc đáo ở chỗ phần lớn là nghiệp dư, cứ mỗi năm tới gặp nhau chờ chính phủ đưa ra những dự án luật này luật kia rồi họp nhóm rồi cho ý kiến và cuối cùng thì bấm nút thế là xong!”

Khi được hỏi về các giải pháp khắc phục tồn tại để nhằm nâng cao chất lượng và năng lực của các ĐBQH?

Ông Nguyễn Văn Thạnh thấy rằng, cần có sự tôn trọng quyền lực của người dân trong việc bầu cử ứng cử theo Hiến pháp quy định, theo ông nếu không có sự cạnh tranh trong quá trình bầu cử sẽ không chọn lựa được các ĐBQH xứng đáng. Do đó việc cải cách thể chế chính trị để tiến tới việc bầu cử công bằng, trung thực, tự do và có cạnh tranh đa đảng là đòi hỏi cấp thiết.

Một cán bộ ở Văn phòng Quốc Hội phía Nam không muốn nêu danh tính cho chúng tôi biết suy nghĩ của ông:

“Trong quá trình đổi mới QH, việc hình thành và phát triển đội ngũ các ĐBQH hoạt động chuyên trách được coi là một trong những giải pháp có tính quyết định để nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của cơ quan này. Từ những ý tưởng, định hướng ban đầu, đến nay, QH đã tăng thêm nhiều đại biểu chuyên trách. Thời gian vừa qua, sự vận hành của chế định đại biểu chuyên trách đã mang lại những nét rất mới cả về nhận thức và thực tiễn tổ chức và hoạt động của QH, mà trước đây, tuy có đặt ra, nhưng có lẽ chưa bao giờ lại sát sườn và được kiểm nghiệm như lúc này.”

Theo nguyên tắc ĐBQH là người được cử tri trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri. Đồng thời các đại biểu được bầu phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình trước cử tri. Trong trường hợp ĐBQH không hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoặc tỏ ra thiếu năng lực thì cử tri có quyền phế truất và chắc chắn sẽ không bao giờ lựa chọn trong các cuộc bầu cử sắp tới. Song tiếc rằng điều đó sẽ không bao giờ có trong cơ chế “Đảng cử, Dân bầu” như ở Việt Nam bấy lâu nay.

VN sắp phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu

VN sắp phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu

Việt Nam đang cần nguồn vốn lớn từ nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Việt Nam sắp phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu quốc tế lần đầu tiên trong bốn năm trở lại đây, hãng thông tấn Reuters đưa tin.

Bắt đầu từ ngày 29/10, ba ngân hàng nước ngoài cũng sẽ được ủy quyền giới thiệu chương trình phát hành trái phiếu với các nhà đầu tư quốc tế, Reuters cho biết thêm.

Các cuộc họp với các nhà đầu tư tiềm năng sẽ diễn ra trong thời gian tới tại Singapore, Hong Kong, London và ba thành phố khác của Hoa Kỳ, theo tờ Thanh Niên.

Theo thông cáo trên trang web của Bộ Tài chính Việt Nam, ba ngân hàng Deutsch Bank, HSBC và Standard Chartered Bank đã được ủy quyền để giởi thiệu chương trình phát hành trái phiếu với các nhà đầu tư trái phiếu nước ngoài.

Đây sẽ là lần thứ ba chính phủ Việt Nam thực hiện huy động vốn từ thị trường tài chính quốc tế.

Trước đó, Hà Nội từng huy động 750 triệu đôla thông qua phát hành trái phiếu chính phủ vào năm 2005.

Số trái phiếu này sẽ đáo hạn vào năm 2016. Tuy nhiên, do Vinashin được cho vay lại toàn bộ số trái phiếu nói trên và khoản vay đã không được sử dụng hiệu quả, nên hầu như không có khả năng trả nợ cho chính phủ.

Trong năm 2010, Hà Nội tiếp tục phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu kỳ hạn 10 năm với lãi suất 6,75%/năm.

Số tiền này sau đó được cho một số tập đoàn kinh tế lớn như Dầu khí, Điện lực, Vinalines vay lại.

Quốc gia Đông Nam Á này đang cần nguồn vốn lớn để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, vốn được dự đoán là sẽ đạt mức 5,8% trong năm nay và 6,2% trong năm 2015.

Tổ chức đánh giá tín dụng Moody’s gần đây mới nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam lên một bậc, từ B2 lên B1. Trong khi đó mức đánh giá tín nhiệm đối với Việt Nam hiện nay của Standard & Poor là BB.

Cả hai tổ chức trên đều đánh giá mức xếp hạng hiện nay có triển vọng ‘ổn định’.

Các nhà đầu tư sẽ có cuộc họp đầu tiên vào ngày 12/11. Phương thức giao dịch quốc tế theo chuẩn Rule 144A hay Regulation S của Mỹ có thể sẽ được áp dụng sau đó.

“Tôi nghĩ điều này sẽ nhận được nhiều sự quan tâm … Nền kinh tế đã ổn định một cách đáng kể trên nhiều lĩnh vực”, ông Rajeev De Mello, một quản lý của quỹ đầu tư Schroders tại Singapore được Reuters dẫn lời nhận định.

Nợ công tiếp tục tăng

” Tôi nghĩ điều này sẽ nhận được nhiều sự quan tâm … Nền kinh tế đã ổn định một cách đáng kể trên nhiều lĩnh vực

Ông Rajeev De Mello, một quản lý của quỹ đầu tư Schroders tại Singapore “

Quyết định phát hành trái phiếu được đưa ra giữa lúc nợ công của Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng.

Hôm 29/10, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng được dẫn lời trong một thông cáo trên trang web chính phủ cho biết 98% khoản nợ này đang được sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển.

Trước đó, trong một báo cáo trước Quốc hội hôm 20/10, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết nợ công sẽ tăng đến 60,3% đến cuối năm 2014, cao hơn mức 54,2% hồi năm ngoái.

Nợ nước ngoài được dự đoán là sẽ tăng lên 39.9% so với GDP vào cuối năm 2014, cao hơn so với mức 37,3% năm ngoái, theo một báo cáo của chính phủ.

Mức này được dự đoán là sẽ tăng đến 64,9% vào năm 2016 trước khi giảm xuống còn 60,2% vào năm 2020.

CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC

CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC

Mưa nắng là chuyện thường tình của trời đất, cũng như cảm mạo, ho, sổ mũi là chuyện thường tình của con người. Nhất là vào mùa mưa sắp đến này, sự thay đổi bất thường của thời tiết chắc hẳn sẽ gây khó dễ cho rất nhiều bạn vì nắng không ưa mưa không chịu. Đôi khi vài viên thuốc tây không thể cắt đứt cơn ho ngay, hay mũi nghẹt, mũi chảy nước cũng không chịu dừng hẳn dù chúng ta đã dùng thuốc cả ngày.

Bạn nghĩ gì khi cái khó chịu của cơn ho, hay nghẹt mũi, sổ mũi không thể nhập vào bạn quá 10 phút. Ở trang này Cherry xin giới thiệu với các bạn vài động tác đơn giản có thể giúp các bạn cắt đứt nhanh cơn ho, sổ mũi, chãy mũi do cảm lạnh bất thường.

CHỮA HO:

CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC

Hai cổ tay giống như hai hầu họng. Bạn cố gắng dùng ngón cái của bàn tay phải xoa mạnh vào cổ tay trái trong 3 phút, rồi chuyển qua dùng ngón cái tay trái xoa mạnh vào cổ tay phải 3 phút cho nóng lên, sau đó  thoa chút dầu nóng, có người chỉ cần thế là đã hết ho.  (Xem hình 1)

CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC

Nhưng cũng có người ho còn vướng đàm, hoặc đau họng khi ho, nên cần thêm chút động tác sau đây:

Ma sát vùng phản chiếu của họng, vùng này nằm trong phạm vi vòng tròn màu hồng (xem hình 2). Bạn có thể dùng cây lăn, dò huyệt của thầy Bùi Quốc Châu (có bán ở các tiệm dụng cụ y tế), dùng đầu sừng lăn nhiều vào vùng màu hồng này, tuy nhiên nếu không có dụng cụ lăn thì với cán muỗng càfé, hay cái chìa khóa xe của bạn cũng có thể cào vào chổ màu hồng cho đến khi đàm hết vướng víu và hết đau họng. Càng tác động vào vùng này nó sẽ làm thông cổ cho bạn.

CHỮA NGHẸT MŨI:

Bạn dùng 2 ngón tay, ngón giữa và ngón trỏ để song song đặt từ đầu chân tóc kéo chạm mạnh vào da trán thẳng xuống hai đầu mày. Nhớ chỉ kéo theo chiều mũi tên như trong hình, kéo khoảng 40 lần cho trán nóng lên là mũi thông ngay.

(xem hình 3) Nếu vài giờ sau có bị lại bạn cũng làm như vậy nhé!!

CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC

Bạn cũng có thể dùng cách 2 như sau:

Dùng ngón cái tay mặt ấn mạnh vào huyệt hợp cốc trên bàn tay trái, ấn và đẩy khoảng 2 phút sau đó chuyển sang tay trái cũng làm như vậy là mũi thông ngay, hết nghẽn nghẹt (xem hình 4 và 5)

CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC

CHỮA CHẢY MŨI

Cũng giống như cách chữa nghẹt mũi tuy nhiên lần này bạn dùng 2 ngón giữa và trỏ kéo ngược từ đầu mày lên chân tóc. Nhớ kéo theo chiều mũi tên như trong hình. Kéo khoảng  40 lần, kéo ma sát vào da trán cho nóng là nước mũi ngưng chảy ngay (xem hình 6) Nếu vài giờ sau có bị lại bạn cũng làm như vậy nhé!!

CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC

Bạn cũng có thể dùng cách hai:

Dùng ngón tay cái ấn mạnh vào huyệt Ấn đường giữa hai đầu mày, ấn và đẩy mạnh khoảng 3 phút. Sau đó thoa chút dầu vào huyệt này. Tiếp tục dùng 2 ngón trỏ ấn mạnh vào hai huyệt Nghinh Hương ở hai bên cánh mũi, ấn và đẩy mạnh 2 huyệt này cũng 3 phút rồi thoa dầu vào hai huyệt này, nước mũi sẽ ngưng chảy ngay. (xem hình 7)

CÁCH CHỮA CHẢY MŨI, NGHẸT MŨI, HO HẾT NHANH KHÔNG CẦN THUỐC

Cherry chúc các bạn thành công khi có thể tự chữa cho mình mà không dùng thuốc.

Vấn đề Hỏa Ngục

Vấn đề Hỏa Ngục

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

Hỏa Ngục có thật, không là chuyện mơ hồ hoặc bịa đặt để hù dọa. Hỏa Ngục như một Biển Lửa, lửa-của-các-loại-lửa, cực mạnh và vô cùng khủng khiếp, không như lửa bình thường ở thế gian này. So với Lửa Hỏa Ngục và Lửa Luyện Hình, lửa thế gian chỉ như “gió mát” mà thôi. Đừng cứng lòng mà phải khốn nạn đời đời!

Bài chia sẻ này gồm vài chứng cớ mạnh mẽ và khủng khiếp mà các thánh nhân đã được mặc khải và trực tiếp cảm nghiệm thực tế về nơi ở ngùn ngụt lửa của ma quỷ . Các mặc khải này đã được Giáo hội chuẩn nhận vì hoàn toàn phù hợp với các giáo huấn trong Phúc Âm. Kitô hữu không buộc phải tin các mặc khải tư, nhưng các mặc khải về Hỏa Ngục này khả dĩ giúp chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn và sâu sắc hơn về sự bí ẩn và thực tế của Hỏa Ngục.

Tháng Mười Một, tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, là dịp thuận tiện để chúng ta cùng kiểm tra và xác định lại đức tin của chính mình. Hãy chú ý các “bí quyết” mà ma quỷ áp dụng để cám dỗ và khiến chúng ta phạm tội. Mưu ma chước quỷ thật đáng sợ!

1. THÁNH TIẾN SĨ TERESA ÁVILA (1515–1582)

Thánh nữ Têrêsa Ávila là nhà thần bí, tiến sĩ Giáo hội. Bà cho biết:

“Một hôm, khi tôi đang cầu nguyện, tôi thấy chính mình trong một lúc, không biết thế nào, rõ ràng chìm vào Hỏa Ngục. Tôi biết đó là Ý Chúa muốn tôi thấy nơi mà ma quỷ đang sẵn sàng đối với tôi, tôi đáng như vậy vì tội của tôi. Thời gian kéo dài một lúc, nhưng có vẻ như tôi không thể quên được dù tôi còn sống nhiều năm sau đó. Lối vào có vẻ hẹp và dài , giống như lò lửa , rất tối tăm và chật chội . Nền như đầy nước, bùn lầy, hôi thối, kinh tởm, và đầy sâu bọ gớm ghiếc. Phía cuối là khoảng trống rỗng như khoang trống ở trên vách tường, tôi thấy mình bị nhốt giam ở đó . Không có gì khoác lác trong lời tôi nói đâu” .

“Với những gì tôi cảm thấy lúc đó, tôi không biết bắt đầu từ đâu nếu tôi phải diễn tả nơi đó. Rất khó giải thích. Tôi cảm thấy lửa trong linh hồn tôi nhưng tôi không thể diễn tả. Đau khổ thể lý của tôi không thể chịu nổi . Tôi chịu các đau khổ nhất trong đời, như các thầy thuốc diễn tả là teo gân khi tôi bị tê liệt, không thể so sánh với các dạn bệnh khác, ngay cả những gì tôi nói, Satan bắt tôi phải chịu. Nhưng những điều đó chẳng là gì so với những gì tôi cảm thấy lúc đó, nhất là khi tôi thấy không có sự tạm ngưng hoặc kết thúc cực hình” .

“Các cực hình đó không là gì so với nỗi thống khổ của linh hồn tôi, một cảm giác áp bức, ngột ngạt, đau nhói, cùng với cảm giác vô vọng và tàn khốc, tôi không biết mô tả như thế nào. Nếu tôi nói rằng linh hồn tiếp tục bị xé ra khỏi thân xác thì cũng chưa chính xác, vì điều đó ngụ ý nói sự hủy diệt sự sống bằng tay của người khác, nhưng ở đây, chính linh hồn tự xé ra từng mảnh . Tôi không thể mô tả lửa hoặc nỗi vô vọng trong lòng, hơn cả mọi sự giày vò và đau khổ . Tôi chưa thấy ai bị hành hạ như tôi, tôi cảm thấy mình đang cháy và bị xé ra từng mảnh. Tôi lặp lại rằng đó là lửa trong lòng, và nỗi vô vọng là cực hình khủng khiếp nhất ” .

“Khi vào nơi khủng khiếp đó, không còn hy vọng được thoải mái, tôi không thể ngồi hoặc nằm, không có khoảng trống nào hết. Tôi như bị đặt vào khoảng không trên vách tường, nhìn mình rất khủng khiếp, xung quanh tôi là những tiếng rên la. Tôi không thể hít thở. Không có ánh sáng, chỉ có bóng tối dày đặc. Tôi không biết mô tả nó như thế nào. Dù không có ánh sáng, nhưng mọi thứ có thể gây đau khổ bằng cách bị thấy mà vô hình” .

“Lúc đó, Đức Mẹ không cho tôi thấy Hỏa Ngục nữa. Sau đó, tôi có một thị kiến khủng khiếp nhất, trong đó tôi thấy hình phạt của các tội lỗi. Các hình phạt nhìn rất khủng khiếp, nhưng vì tôi không còn đau đớn nữa, nỗi kinh hoàng của tôi cũng không còn ghê gớm…” .

“Tôi quá đỗi hoảng sợ khi thấy thị kiến đó, nhìn như nơi mà tôi thấy sáu năm trước, sức nóng tự nhiên của cơ thể khiến tôi rùng mình mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Vì thế, trong mọi đau khổ mà tôi có thể phải chịu, tôi luôn nhớ rằng mọi đau khổ trên thế gian này không là gì cả. Có vẻ chúng ta than phiền vô cớ. Tôi lặp lại rằng thị kiến này là một trong các điều thương xót của Thiên Chúa. Đó là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, vì điều đó đã hủy diệt nỗi lo sợ của tôi về sự rắc rối và sự mâu thuẫn của thế gian, vì điều đó đã làm tôi đủ mạnh mẽ để chống lại, tôi tạ ơn Đức Mẹ là Đấng giải thoát tôi khỏi những nỗi đau khổ kinh khủng và lâu dài như vậy” .

2. NỮ TU JOSEFA MENENDEZ (1890–1923)

Nữ tu Josefa Menendez, người Tây Ban Nha, qua đời năm 1923 ở tuổi 33, là một trong các nhà thần bí “nổi tiếng” của thế kỷ XX. Nữ tu này có cuộc đời ngắn ngủi nhưng chịu nhiều đau khổ, và được mặc khải trong đa phần cuộc đời, gom lại trong cuốn “The Way Of Divine Love” (Cách Thức của Tình Chúa). Bà đã được đưa tới Hỏa Ngục để chứng kiến và cảm nhận nỗi thống khổ. Nữ tu Josefa buộc lòng phải viết về Hỏa Ngục, vì bà làm vậy chỉ là làm theo ý muốn của Chúa. Đây là chứng cớ:

“Linh hồn tôi rơi vào vực thẳm, rộng bao la, không thấy đáy… Rồi tôi bị đẩy vào một hồ lửa, giống như ở giữa các tấm ván đang cháy, các đinh nhọn sắc và các thanh sắt nóng đỏ như muốn đâm vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy như thể chúng muốn tuốt lưỡi tôi ra nhưng không thể. Cực hình này khiến tôi đau đớn đến nỗi mắt tôi như không còn nhìn thấy. Tôi nghĩ đó là vì lửa cháy, bừng cháy… Không móng tay nào của tôi không đau đớn, người ta không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để cho bớt đau nhức, không thể thay đổi tư thế , vì cơ thể có vẻ như bị dát mỏng và bị gấp đôi lại . Các âm thanh khó phân biệt và lời phỉ báng không ngừng, dù chỉ trong một thoáng. Mùi hôi thối kinh tởm làm ngột ngạt và làm hư hại mọi thứ, như thể mùi thịt thối rữa bị cháy, pha lẫn với mùi hắc ín (nhựa đường) và lưu huỳnh… Đó là sự pha tạp mà không thể so sánh với bất cứ mùi gì khác trên thế gian này… Mặc dù các cực hình này rất rùng rợn, không thể chịu đựng nổi, không thể mô tả được… Nhữ gì tôi viết ra đây chỉ là bóng mờ nhạt của những gì mà linh hồn phải chịu, không lời nào có thể mô tả nỗi đau khổ khốc liệt như vậy” (ngày 4-9-1922) .

“Đêm nay, tôi được đưa tới một nơi hoàn toàn tăm tối … Xung quanh tôi có bảy hoặc tám người. Tôi chỉ có thể thấy họ qua ánh lửa. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Một người nói: Chúng ta phải rất cẩn thận kẻo bị phát hiện, vì chúng ta dễ bị phát hiện lắm” .

“Ma quỷ nói: Hãy xúi giục họ bất cẩn … nhưng hãy ở phía sau để không bị phát hiện… cứ dần dần rồi họ sẽ chai lì , chúng ta sẽ kéo nó về phía xấu xa. Hãy cám dỗ những người khác tham lam , ích kỷ , giàu có mà không cần làm việc, dù đúng luật hay không. Hãy kích thích người ta khoái nhục dục và ham vui . Hãy làm cho thói xấu làm mờ mắt họ… Với những người khác… hãy vào trái tim họ… nên biết khuynh hướng của tâm hồn họ…! Hãy làm cho họ yêu thích… yêu thích say đắm…! Hãy làm việc hết sức… đừng nghỉ ngơi… đừng thương hại! Cứ để họ say mê ăn uống ! Như vậy sẽ dễ cho chúng ta… Hãy để họ tiếp tục tiệc tùng và chè chén . Ham vui là cửa ngõ để chúng ta đến với họ…” (ngày 3-2-1923) .

“Tôi thấy vài linh hồn sa Hỏa Ngục, trong số đó có một em gái mới 15 tuổi, nó nguyền rủa cha mẹ đã không dạy nó kính sợ Thiên Chúa và không cho nó biết có Hỏa Ngục . Nó cho biết rằng đời nó ngắn ngủi nhưng đầy tội lỗi, vì nó đã chiều theo mọi thứ mà thể xác và đam mê đòi hỏi…” (ngày 22-3-1923) .

“Hôm nay, tôi thấy rất nhiều người phải vào lò lửa… Họ có vẻ như người trần gian và một quỷ hét lớn: Thế giới đã chín muồi cho ta thu hoạch…! Ta biết rằng cách tốt nhất để bắt giữ các linh hồn là khuấy động lòng ham vui của người ta… Hãy ưu tiên tôi… Tôi trước mọi người… không có sự khiêm nhường đối với tôi! Hãy cứ để tôi vui thỏa… Với dạng này chắc chắn chúng ta chiến thắng… và chúng sẽ xuống Hỏa Ngục” (ngày 4-10-1923) .

3. THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)

Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa ; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời ; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến ; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặc và ngột ngạt khủng khiếp , mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan ; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng , căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ báng và nguyền rủa hèn hạ . Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan . Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội . Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội ” .

“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó , vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục ”.

“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy . Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục . Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất ” .

4. FATIMA – BA TRẺ THẤY HỎA NGỤC

Năm 1917, trong thời gian Thế Chiến I, Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ tại Fatima, Bồ Đào Nha, vào các ngày 13 từ tháng Năm tới tháng Mười. Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ đã cho ba trẻ em này thấy Hỏa Ngục. Đây là chứng cớ:

“Đức Mẹ xòe tay ra, những tia sáng như xuyên thấu thế gian, chúng tôi thấy như là biển lửa. Chìm trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn trong dáng vóc con người, như than hồng trong suốt , mọi thứ như đồng đen hoặc hoặc bóng lộn, lơ lửng trong lửa cháy , lửa bốc cao đưa người ta lên như đám khói, rồi lại rơi xuống như những đốm lửa trong ngọn lửa lớn, không trọng lượng hoặc mất thăng bằng, ở giữa những tiếng la hét và kêu than vì đau khổ và tuyệt vọng , điều đó làm chúng tôi sợ hãi và phát run vì hãi hùng. Cảnh tượng đó khiến chúng tôi bật khóc, như thể người ta nghe được vậy” .

Ma quỷ có thể phân biệt bằng cách nhìn chúng giống như những con vật lạ lẫm, gây hoảng sợ, cự tuyệt, đen đủi và trong suốt như những cục than hồng. Chúng tôi sợ hãi và xin Đức Mẹ cứu giúp, Đức Mẹ nói với chúng tôi bằng giọng buồn: “Các con đã thấy Hỏa Ngục, nơi các linh hồn tội lỗi phải vào. Như vậy, khi các con đọc Kinh Mai Côi, hãy đọc câu này sau mỗi chục kinh: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn ” .

Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18:8-9) .

Chúng ta cùng sám hối và chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” [Tv 50 (51):3-6].

Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” [129 (130):1-4] .

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Chứng Tích Người Từ Hỏa Ngục Hiện Về

Chứng Tích Người Từ Hỏa Ngục Hiện Về

Hiện nay nhà xứ Cái Mơn còn lưu giữ một miếng ván có kích thước: 2,05 x 0,82 mét, dầy hơn 4,5 cm. Trên miếng ván có một chỗ bị cháy đen và khuyết xuống giống như “phần mông” của một người ngồi để lại. Miếng ván này được lưu giữ như là một chứng tích của việc có hỏa ngục và sự thưởng phạt đời đời.

tamvantaicaimon2

Bà Tám (vợ của ông Biện Nguyễn Văn Nhung) và tấm ván hiện giờ.
Ảnh chụp ngày 8 / 10 / 2011, tại khuôn viên nhà thờ Cái Mơn.

Bài viết này được người trực nhà xứ, thời Cha Sở Gs Thích còn sống, ghi lại theo lời tường thuật của ông biện Nguyễn Văn Nhung, cháu cố của ông biện Đài và của ông Nguyễn Văn  Thật. Nay xin mạn phép tóm lại như sau:

tamvantaicaimon1

Tấm ván khi mới được đưa về nhà xứ Cái Mơn
(không rõ năm nào)

Khoảng đầu thế kỷ 18, tại Cái Mơn, có một bà lão nọ là người tu xuất đã ngoài bảy mươi. Đời sống của bà không tốt lắm. Bà bệnh nặng và liệt giường khoảng ba tháng, không ăn uống. Gia đình giữ linh hồn cho bà suốt thời gian ấy đã mệt mỏi. Hôm ấy, ông Biện Nguyễn Văn Đài (sau là Trùm Họ) đến đọc kinh giữ linh hồn cho bà. Ông bảo gia đình đi ngủ để ông giữ thay cho một hôm.

Khi ông biện Đài đang sốt sắng nhìn sách đọc kinh, thình lình bệnh nhân ngồi phắt dậy, thổi tắt đèn, rồi ôm lấy cổ ông và đeo cứng người ông. Ông bình tĩnh không la lên sợ làm rối gia đình, và ông cứ mang bà lão trên mình để đi đốt đèn. Đốt đèn xong, ông trở lại giường, gỡ hai tay bà ra khỏi cổ ông và để bà nằm xuống. Bà nằm trong tư thế như thường lệ: hai chân duỗi thẳng, hai tay để lên ngực và vẫn im lặng như người đang hấp hối.

tamvantaicaimon3

Dấu bị cháy khuyết xuống do mông của người chết hiện về để lại trên tấm ván.

Cũng nên biết, vào thời điểm này chưa có dầu lửa và đá lửa. Người ta dùng dao đánh vào hòn đá đen cho lửa xẹt vào bông gòn trong ống tre. Khi bông gòn bén lửa, người ta thổi lên cho có lửa ngọn rồi mới dùng cây rọi lấy lửa mồi vào đèn. Cây rọi là mảnh vải bằng hai ngón tay, nhúng dầu mù u, xe xoắn lại phơi khô. Đèn dầu mù u thì không bắt lửa nhanh như đèn dầu ngày nay. Nhắc chuyện này để hiểu rằng thời gian ông biện mang bệnh nhân trên cổ là khá lâu.

Ngày hôm sau bà này chết. Việc an táng theo nghi thức đạo như thường lệ. Sau khi an táng, gia đình và hàng xóm tập trung để cầu lễ cho bà. Theo như tập tục thường kéo dài một tuần, lâu hơn hay ít hơn là tùy hoàn cảnh gia đình.

Một tối no, khi mọi người đang sốt sắng cầu lễ, bỗng dưng đèn tắt hết. Người chết xuất hiện, mình đầy lửa, mang dây xích, đến ngồi trên bộ ván, nói lớn tiếng: “Các người đừng cầu nguyện cho tôi nữa, bởi vì đã lỗi đức công bằng,  tôi xuống Hỏa ngục rồi“. Nói bây nhiêu lời rồi biến mất. Mọi người có mặt chết điếng người, lặng thinh và ngưng đọc kinh nhưng không dám đi một mình về nhà.

Ông chủ nhà nói: “Tôi không dám để bộ ván này trong nhà nữa, đem ra sông cái  liệng cho nó trôi khuất cho rồi“. Nói vậy nhưng có lẽ do quá sợ, ông không dám chở đi nên đã liệng xuống rạch bên hông nhà. Nhà ông ở trên ngọn, nhà ông biện Đài ở cuối nguồn, nên nước ròng ông biện đã vớt được tấm ván ghi dấu cái mông của linh hồn sa hỏa ngục, tấm kia trôi mất (bộ ván gồm hai miếng).

Ông biện Đài cố ý giữ tấm ván lại trong nhà để nhắc nhở con cháu và người đời sau nhớ rằng có Hỏa Ngục. Ông dặn con cháu sau này không được nói  tên người bất hạnh cho ai biết, để giữ thanh danh cho họ.

Bộ ván này dài gần 3 mét, dầy khoảng 8 cm, bằng gỗ sao gồm hai tấm. Linh hồn hiện về ngồi bên tấm ván này, chống hai chân và hai tay qua tấm ván bên kia. Tấm ván bên này để lại dấu mông, và tấm ván kia là dấu hai bàn chân và hai bàn tay úp xuống. Dấu lửa cháy ăn sâu xuống cả hai tấm ván. Không biết ngày xưa gìn giữ thế nào nhưng mấy mươi năm sau này, gia đình ông Nguyễn Văn Nhung bỏ phế ngoài vườn cây. Thời chiến tranh Ông Nhung đã dùng để làm hầm núp bom đạn. Chiến tranh chấm dứt, ông lại quăng tấm ván ra bờ mương. Một hôm có người đến ngỏ ý xin miếng ván, gia đình mới cạo rửa và định tống khứ nó đi. Khi hay được sự việc, cha sở Gs Thích đã ngỏ ý xin và đã đem về lưu giữ tại nhà xứ. Theo lời ông Thật thì có ai đó đã cưa  tấm ván mất mấy tấc. Có lẽ vì nó dài và nặng nề, khó di chuyển, nên đã vô tình cưa bớt đi.

Ông biện Nguyễn Văn Nhung thuật lại theo truyền khẩu của gia đình. Phần ông Nguyễn Văn Thật thì nói theo lời kể của ông Isiđôrô Võ Văn Vạn, thường gọi là Sáu Vạn, thầy tuồng của Cái Mơn ngày xưa. Ông là con đỡ đầu của Đức Cha Isiđôrô Đượm, tên Pháp là Dumortier, cha sở Cái Mơn, sau là Giám Mục Địa Phận Sài Gòn. Ông Vạn mất hơn 30 năm nay, thọ 90 tuổi.

Theo một số thông đáng tin cậy, thì người đã chết hiện về này có thể cùng thời với Thánh Philipphê Phan Văn Minh. Thánh nhân sinh năm 1815, như vậy, câu chuyện xảy ra cũng khoảng gần 200 năm có rồi.

Đối chiếu với gia phả của ông biện Nguyễn Văn Đài thì thời gian như vậy là đúng.

Ông biện Đài, sau thăng chức là Trùm Đài, không biết tuổi.

Con của ông Trùm Đài là ông Trùm Thiệu, sống 92 tuổi.

Con ông Biện Thiệu là ông biện Gioang, sống 72 tuổi.

Con ông Biện Gioang là ông Biện Nguyễn Văn Nhung đã mất, còn bà Nhung hiện nay trên 80 tuổi và đã có cháu cố.

Lm Phêrô Phạm Bá Trung

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

httpv://www.youtube.com/watch?v=J3X_DtEheYY&list=UU8Z8xvp0-Qwkhlsfcll6Zqg

Nếu không còn một ngày để sống

Nếu không còn một ngày để sống

Chuacuuthe.com

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

VRNs (01.11.2014) – Sống cho mọi người nhớ đến đã khó, chết đi rồi mà không một ai quên đó mới là điều khó khăn hơn gấp bội. Ngày nay, có rất nhiều cách giúp cho người ta khiến người khác nhớ đến mình khi còn đang sống. Có những cách gây ấn tượng một cách tự nhiên, chính trực. Ví như những nhà bác học, những thiên tài, những bậc vĩ nhân… Ngược lại, là cách gây chú ý bằng việc gây sốc, làm ra một loạt những vụ scandal. Tất nhiên, cách gây chú ý nào thiên về sự công chính chắc chắn sẽ khiến người ta nhớ mãi với lòng ngưỡng mộ, thương mến. Nếu như thế giới ai cũng cố gắng dù chỉ một lần khắc ghi tên tuổi của mình vào lòng nhân loại thì chắc chắn cuộc sống này sẽ bớt bất hạnh hơn. Khổ nỗi người tốt thì ít mà kẻ ác lại nhiều. Cho nên số lượng kẻ gây sốc cho người khác nhớ thì nhiều mà người gieo ấn tượng lại ít.

Quả thật, sống cho người ta thương đã khó, chết cho người ta nhớ lại càng khó hơn. Thế nhưng, đó chỉ là những cái nhớ cái thương của nhân loại. Còn cái nhớ với những kẻ đã qua đời đối với tín hữu Kytô giáo lại hoàn toàn khác biệt. Người tín hữu có bổn phận nhớ đến tất cả mọi anh chị em đã qua đời không phải vì những ấn tượng tốt họ đã làm hoặc các lỗi lầm họ đã phạm, nhưng chính là tình thương mến thương, sự hiệp thông của lời cầu nguyện giữa người đã qua đời và kẻ còn đang sống.

Giáo hội dành riêng tháng 11 để cầu nguyện cho mọi tín hữu đã mất, nhằm nhắc nhớ cho những ai còn đang sống biết rằng đến lượt mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ bỏ lại tất cả mà ra đi. Vậy hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng để sống, thay vì sẽ làm ra những điều gây sốc thì hãy tạo ấn tượng bằng cách khắc ghi những hành động đẹp giữa lòng thế giới, để khi mất đi, mọi người sẽ nhớ đến mình trong niềm tiếc thương và nhung nhớ.

Nói thì nói thế, nhưng thực tế lại không thể chút nào. Ai chẳng thích sống khiến người ta thích, người ta thương, người ta nhớ, nhưng đâu phải muốn là được. Chỉ khi nào bạn chọn Thiên Chúa làm cùng đích đời mình và bước đi trong đường lối của Ngài mới hòng mong có được những ấn tượng tốt trong lòng thế giới. Riêng ai sống chỉ biết đến bản thân mình, sống buông thả theo những đam mê, dục vọng cá nhân thì làm sao có thể?

Ai biết sống chu toàn lề luật Chúa, người ấy sẽ được diện kiến nhan thánh Ngài. Trái lại, ai từ chối Thiên Chúa, sống phản nghịch đường lối Ngài, chắc chắn sẽ phải chịu diệt vong. Giáo hội dành riêng tháng này để cầu nguyện cho họ, nhờ lời cầu nguyện của nhiều người mà Thiên Chúa đoái thương tha thứ những lỗi lầm họ đã trót phạm.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, ai cũng biết nói rằng tôi sẽ sống yêu thương hơn. Nhưng thực tế, chẳng ai chịu tin rằng tôi chỉ còn có một ngày để sống. Ai cũng nghĩ còn lâu tôi mới chết, tôi sẽ còn sống lâu lắm, rất lâu, rất lâu. Ai đang ở trong Giáo hội đau khổ đều có một lỗi lầm lớn nhất là như vậy. Vì cho rằng tôi sẽ còn sống lâu lắm kìa, không cần phải thay đổi. Đâu ngờ rằng, một ngày để sống xảy đến thật. Khi đã không còn cơ hội, họ mới bắt đầu đau khổ hối tiếc. Nhưng cái giá trị một ngày để sống không còn nữa, họ đã đánh mất cơ hội của mình và giờ đây chỉ còn đau khổ và hối tiếc. Bổn phận của chúng ta những người còn đang sống là cầu nguyện cho họ.

Tất nhiên, những ai khi còn sống biết khắc ghi tên tuổi mình bằng hành động đẹp, thì giờ đây khi họ no đầy ơn phúc trên Thiên quốc, chắc chắn họ sẽ cầu nguyện cho những kẻ khi còn sống hoặc đang sống chỉ biết gây rối, gây sốc bằng những hành động điên loạn của mình.

Mầu nhiệm Giáo hội cùng thông công là như vậy. Chúng ta những người đang sống trong Giáo hội lữ hành, hãy biết ý thức dù tôi đang sống đây nhưng luôn nhớ rằng sẽ có ngày mình chỉ còn một ngày để sống Và nếu ngày ấy là hôm nay, thì hãy biết sống tốt hơn, hầu không phải hối tiếc khi thời gian không còn nữa.

Lạy Chúa, nếu chỉ còn một ngày để sống, chắc chắn con sẽ thưa với Ngài rằng con sẽ sống tốt hơn. Nếu như con không thể khắc vào lòng người những ấn tượng tốt để khi chết đi có thể khiến người khác nhớ đến mình, thì con cũng biết khắc vào lòng Chúa tình yêu, sự hy sinh và lòng mến, để khi không còn một ngày để sống, con sẽ không phải hối tiếc vì chưa biết yêu thương.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-10-30

10302014-25y-velv-memories.mp3

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

AFP

Ngày 9/11 năm nay kỷ niệm 25 năm bức tường Berlin sụp đổ. Sự kiện đó trở thành biểu tượng của cuộc cách mạng Đông Âu thành công, xóa đi hệ thống cộng sản tại lục địa này. Nhân dịp này chúng tôi tìm gặp những nhân chứng của của diễn biến lớn lao bậc nhất trong xã hội loài người, để nghe câu chuyện ký ức 25 năm trước của họ. Hôm nay chúng tôi bắt đầu bằng quốc gia cộng sản đầu tiên chuyển biến trong năm 1989: nước Hungary.

Sự sụp đổ của hệ thống cộng sản

Đó là giai điệu dòng Danube xanh, con sông chảy ngang vùng Trung Âu thơ mộng, chảy ngang nước Hungary êm đềm, nơi cách đây đúng một phần tư thế kỷ đã bắt đầu những sự kiện khơi mào cho cuộc cách mạng nhung làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản.

Mùa hè năm 1989, hàng trăm ngàn người Đông Đức sang Hungary tìm đường sang Áo và Tây Đức. Trong một hành động mang tính biểu tượng, ngày 27/6/1989 hai Ngoại trưởng Hungary và Áo dùng kềm cắt bỏ hàng rào ngăn cách hai quốc gia.

Ngày 19/8/1989 những tổ chức dân sự Hungary tổ chức một sự kiện tên là Picnic toàn Âu để nói lên nguyện vọng về một châu Âu thống nhất, hàng ngàn người Đức đang tị nạn ở Hungary đã vượt biên giới sang nước Áo.

” Những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới

Anh Nguyễn Hoàng Linh”

Anh Nguyễn Hoàng Linh hồi tưởng những ngày tháng lịch sử ấy, khi anh là sinh viên tại thủ đô Budapest:

Khi cách biên giới khoảng vài cây số thì những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới. Phải nói rằng đó là một hình ảnh đối với anh em chúng tôi hết sức là cảm động, phải nói  là chấn động.

Cảm xúc rất là đặc biệt, tôi nghĩ là ai ở Hungary thời kỳ đó mà bỏ qua những cái đó thì bỏ qua những ấn tượng rất là lớn trong đời người.

Những cảm xúc chấn động của các sinh viên người Việt lúc ấy còn kèm theo cả sự ngạc nhiên. Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm, hiện là một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Đông nam Á ở Hawaii, là sinh viên năm thứ ba tại đại học Bách khoa Budapest vào năm 1989 nhớ lại rằng vừa bước ra khỏi khủng cảnh bao cấp khốn khó của Việt nam, thì Hungary đối với anh đã là một loại thiên đường.

Thế mà đọc báo thấy giới gọi là trí thức họ nói là tình hình rất khó khăn, chúng ta phải thay đổi rất ghê gớm. Đối với tôi đó là một cái gì rất là khó hiểu, và tôi tò mò để tìm hiểu. Thì mới hiểu rằng họ có những so sánh riêng còn người Việt nam mình nghèo quá thì như vậy đã là tốt rồi. Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do, được làm những việc lớn, mình cảm thấy thích thú lắm.”

” Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do

Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm”

Hiệu ứng dây chuyền

Chuyển biến chính trị ở Hungary giống như một mồi thuốc châm ngòi cho một phản ứng dây chuyền lan khắp Đông Âu, làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản xây dựng dưới bóng quân đội Liên xô từ sau năm 1945. Hơn hai tháng sau khi hàng rào biên giới Áo Hung bị gỡ bỏ, một hàng rào khác mang tính biểu trưng của bức màn sắt và xung đột chiến tranh lạnh bị xóa bỏ, đó là bức tường Berlin ngăn đôi thủ đô nước Đức bị đập tan vào ngày 9/11/1989.

Nhưng tất cả những sự kiện được lịch sử ghi lại chỉ là những dấu mốc, còn quá trình thay đổi ở Hungary đã diễn ra từ lâu, từ năm 1956 khi cuộc nổi dậy của người dân Hungary bị xe tăng Liên xô đàn áp, dẫn đến cái chết của người lãnh đạo cộng sản Hung lúc đó ủng hộ cuộc nổi dậy là ông Imre Nagy.

” 25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, hiện là một nhà hoạt động xã hội dân sự tại Hà nội, nói rằng chính ở Hungary, nơi mà ông học tập trước khi cuộc cách mạng 1989 nổ ra, ông đã nhận ra những lỗi không thể sửa chữa được của hệ thống cộng sản:

Vâng chính xác như vậy. Tức là ở đó, mình có nhiều thông tin hơn do cái sự cởi mở của người ta. Và mình tiếp cận được với những người có ý kiến khác nhau, mình nghe được những chính kiến khác nhau, thì mình phát hiện ra cái hệ thống này không thể phát triển được, không thể tồn tại một cách lâu dài.”

25 năm sau ngày những người cộng sản Hungary thay đổi ý thức, cùng với những người đối lập với họ tháo bỏ bức tường ngăn cách Đông Tây, cộng đồng người Việt tại Hungary vẫn hãy còn là một cộng đồng nhỏ so với các cộng đồng người Việt hải ngoại khác. Nhưng theo anh Nguyễn Hoàng Linh hiện sống và tham gia hoạt động truyền thông của người Việt tại Budapest thì người Việt ở đây đã bắt đầu quan tâm đến đời sống chính trị của quốc gia Hungary.

25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa.

Một hôm bước chân về giữa chợ,

Một hôm bước chân về giữa chợ,

Chợt thấy vui như trẻ thơ. Đời ta có khi là đóm lửa,
Một hôm nhóm trong vườn khuya.
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở, đời ta có ai vừa qua.”

(Trịnh Công Sơn – Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ)

(2Cor 1: 12 )

Trần Ngọc Mười Hai

Kìa, này bạn gần/xa. Bạn hát, sao nhiều thế? Nhiều thế, tức: cứ về đêm, là thấy thác đổ sao? Cứ về phố chợ, là thấy vui đời trẻ thơ sao? Lời bạn hát, có lẽ chưa thuyết phục mọi người, nhiều cho lắm. Nay đề nghị, bạn hãy hát thêm câu tiếp để xem sự việc ra sao, dẫu có thế nào! Câu ấy như sau:

“Một đêm bước chân về gác nhỏ,

chợt nhớ đóa hoa Tường Vi.

Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ,

giờ đây đã quên vườn xưa.

Một hôm bước qua thành phố lạ,

thành phố đã đi ngủ trưa.

Đời ta có khi tựa lá cỏ,

Ngồi hát ca rất tự do.

Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà,

Từ những phố xưa tôi về.

Ngày xuân bước chân người rất nhẹ,

Mùa xuân đã qua bao giờ”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thơ/nhạc bạn hát, cũng thơ mộng thật không ít. Tuy nhiên, dù bạn hát nhiều như thế nhưng nói năng lại rất ít. Thôi thì, chi bằng ta cứ ngồi đó nghe bầy tôi đây kể chuyện nhà Đạo, sẽ vui hơn. Vui, vì biết chuyện vừa xảy ra ở Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma, cũng từa tựa như chuyện trong làng/ngoài xã, ta đoán kết-cuộc ngay trước đó, rồi. Bởi, nhà Đạo của có tên tục gọi là “Vũ như Cẩn” (tức Vẫn Như Cũ) hoặc Nguyễn Y Vân (tức Vẫn Y Nguyên) mà.

Nhưng, trước khi xem sự thể ra sao ở nhà Đạo, bầy tôi chợt có ý-định đề-nghị bạn là: ta cứ nghe thử bọn trẻ kể chuyện tiếu lâm nhạt/chay, cũng hay hay:

“Truyện rằng:

Có hai bé em, xem chương-trình hỏi/đáp trên truyền-hình, lại cứ bảo:

-Khó quá mày nhỉ! Năm ngoái, chị tao biết trước đề thi cả 30 phút, thế mà vẫn rớt đấy!

-Vậy sao? Như thế, vẫn chưa bằng bà cô tao từng biết trước đề thi cả hai tháng, mà vẫn ra rìa, ngoài hạng!

-Ủa! Cô mày thi gì mà khó đậu thế?

-Thi Hoa Hậu ấy mà.

-Thi Hoa hậu mà khó thế sao?

-Đúng. Thường thì không, nhưng đằng này lại thi Hoa Hậu Phu Nhân, mới chết chứ!”

(Trích tiếu-lâm trên mạng, đọc cho qua).

Vâng. Truyện tiếu-lâm mà đọc trên mạng, thì đương nhiên chỉ cho qua dăm ba phút phù-du, chứ nào có là sự thật đâu mà để ý! Đằng này, chuyện nhà Đạo tuy nghiêm-trang/nghiêm-túc thấy vui. Vui, là bởi: nhà Đạo thường hay kể lể về các buổi họp-hành/bàn-luận rất cao-siêu nhiệm mầu nhà thờ, nhà thánh cũng nghiêm-trang như sau:

Tại Thượng Hội Đồng  vừa qua, cặp vợ chồng người Úc là ông Ron và bà Marvis Pirola nói rằng: “gia đình phải đối mặt với sự căng-thẳng trong việc bảo-tồn chân-lý đức tin trong khi vẫn phải thể-hiện lòng từ-bi và thương xót”. Họ kể lại việc bạn bè họ phải làm thế nào khi người con đồng tính của mình muốn đem bạn tình về nhà, dịp Giáng sinh: “Nó là con của con mà!”…

Vợ chồng này giải thích: “Dần dần chúng con nghiệm thấy có mối liên-hệ đặc-biệt giữa bí-tích hôn-nhân của chúng con là do Đức Kitô thiết-lập có liên-hệ trong đời sống tính-dục. Hôn-nhân là bí-tích diễn-tả trọn vẹn trong quan hệ tính dục.” “Chúng con tin rằng chỉ khi nào vợ chồng kính-trọng việc hợp-nhất trong tính-dục như phần quan-yếu của đời sống tâm-linh, thì họ mới hiểu rõ được giá-trị cao đẹp của giáo-lý hôn-nhân vốn được trình-bày trong Tông Huấn Humanae Vitae. Chúng con cần các phương-pháp mới và ngôn-ngữ dễ hiểu để chạm tới trái tim của mọi người…”

…Về điều này, ông Ron và bà Marvis đã giải thích thêm: “Mô-hình truyền-giáo cho các giáo xứ phải có khả-năng trả-lời các tình-huống tương-tự!” “Nhiệm-vụ và mục-đích chính của Giáo-huấn có từ Giáo-Hội là cho thế giới biết về tình-yêu của Thiên-Chúa.”

Cặp vợ chồng người Úc này còn kể lại kinh-nghiệm thực-tế khác: “Một người bạn của chúng con đã ly-dị, có nói rằng: đôi khi cô ấy cảm thấy mình không hoàn-toàn được đón-nhận trong giáo xứ mình ở. Tuy vậy, cô vẫn tham-dự thánh-lễ thường-xuyên và vẫn giáo-dục con cái rất tốt. Đối lại, giáo-xứ lại không có thiện cảm gì với cô và việc cô ly dị là một chướng tai/gai mắt đối với họ. Từ những người như cô, chúng con ngộ ra rằng: tất cả chúng con vẫn còn nhiều khiếm-khuyết trong cuộc sống. Nhận ra được khiếm khuyết, chúng con sẽ bớt đi việc phán-xét người khác. Bởi, phán xét làm cản-trở việc loan-báo Tin Mừng.” (Hoàng Minh tường trình về Thượng Hội Đồng Giám Mục Rôma tháng 10/2014 trên www.chuacuuthe.com 07/10/2014)

Kể ra, thì cũng tội. Đường đường là vợ chồng, thì ông bà Ron và Marvis Piola vẫn là cặp phối-ngẫu lý-tưởng sống đạo-hạnh, đại-diện cho Giáo-hội ở Úc “đem chuông đi đánh xứ người”. Kết cuộc, cũng  không có quyền “bỏ” phiếu, tức: chỉ gióng tiếng chuông lạ, nghe đã khó.

Kể ra, lại cũng vui. Đường đường, là nhà Đạo Công giáo, lâu lâu tổ-chức một “Thượng Hội Đồng” tốn kém khá nhiều để bàn “chuyện” của các gia-đình Công-giáo khắp nơi, có cả chuyện nghe được và được nghe, giống như chuyện của ông Vũ Như Cẫn, cũng công phu nhưng khó thành.

Kể ra, thì những chuyện xảy đến trước/sau ngày “Thượng Hội Đồng” kết thúc, có nhà báo/nhà văn và cũng là nhà đạo kia/nọ lại nhấn-mạnh đôi điều qua giòng trích-dẫn rất như sau:

Kết thúc Thượng Hội Đồng ngoại-thường về những thách đố mục-vụ gia-đình, mà không che giấu gì những khó khăn được trải qua trong suốt hai tuần tranh-luận vừa qua, Đức Phanxicô đã rút ra một bản tổng-kết tích-cực về kinh-nghiệm Thượng Hội Đồng này, được sống trong tự do phát-biểu thực-sự.

“Bằng tinh-thần đoàn-thể-tính và hội-đồng-tính, ta đã thực sự sống kinh nghiệm Thượng Hội Đồng, thực-sự hành-trình liên-đới cùng một con đường với nhau. Cũng như: trên mỗi con đường, đã có những thời-điểm chạy nhanh, hầu như muốn chinh-phục thời-gian và đạt tới đích một cách nhanh hết sức có thể, và những thời-điểm mỏi-mệt (…), những thời điểm nhiệt thành và hăng say khác…” (xem Tý Linh, Đức Phanxicô Kết Thúc Thượng Hội Đồng Bằng Một Bài Phát Biểu Đanh Thép, www.xuanbichvietnam.net 19/10/2014)

Bằng tinh-thần đoàn-thể-tính và Hội-đồng-tính”, có lẽ là “ý chính” trải rộng trong ngày các đấng bậc lu-bù họp hành để xem xét mọi sự, cho “rõ chuyện”. Bằng “hành-trình liên-đới và cùng một con đường với nhau”, có thể là “bài bản” hoặc “đường-đi-nước-bước” mà Giáo hội thời hiện-tại đang bước dần vào đời thường, của người thường.

Bằng bài bản của “tinh-thần tập-thể” hiểu theo đường-lối chính-mạch trong Đạo, thì: có thể là như thế. Thế nhưng, hiểu theo tầm-kích của báo đạo và/hoặc báo đời, ở ngoài đời thì có lẽ sẽ như sau:

“Thật ra, cũng không là chuyện thường tình xảy đến, khi người Công-giáo khắp nơi tụ-tập tại Rôma để xem Giáo hội mình đưa quyết định này khác, có theo cách-thế trong sáng/minh-bạch hay không? Các báo-cáo/tường-trình từ Thượng Hội Đồng về “chuyện” gia-đình, khiến ai có thói quen coi việc bàn-luận và cãi vã trong phòng kín, đều là “Sự đã rồi”, hết. Các đề-tài được Giáo hội gần như đồng-loạt biểu-quyết, ít ra cũng cho thấy: nay nhen-nhúm trong lòng Giáo-hội mức độ nào đó về tính đa-dạng, khác kiểu ít thấy kể từ ngày Công Đồng Vaticăng II kết thúc…” (X. Neil Ormerod, Catholic Church returns to Pluriformity of Vatican II, www.eurekastreet.com.au/article.aspx?aeid=42160 19/10/2014)

Thế đó, lại có thêm đôi nhận-định của đấng bậc khác ở đâu đó Úc-Châu, Âu-Châu hay Mỹ-Châu, mà người người nên để mắt hoặc tai xem thế nào. Trước nhất, là ý-kiến của một vị thày dạy ở Melbourne, Úc như sau:

“Phần đông dân chúng trông mong nhiều vào Thượng Hội Đồng Giám Mục hồi tháng 10/2014 khi phác-thảo được chuẩn-bị, rất kỹ…

Cuối cùng thì, với nhiều người, Thượng Hội Đồng Giám Mục kỳ này, là một thất-bại không nhỏ với vị Giáo-hoàng năng-nổ là Đức Phanxicô đương-đại. Thất-bại, để rồi mọi chuyện lại rơi vào bàn tay sắt đá của nhóm Giám-mục bảo-thủ. Là người đau khổ nhiều vì thất-bại, Đức Giáo Hoàng Phanxicô xem ra thấy cũng hiện rõ trên nét mặt.

Độc-giả ở đây, hẳn biết rõ Đức Phanxicô lâu nay thường tỏ-bày rằng: ngài chẳng bao giờ muốn hoặc có ý-định thay-đổi giáo-huấn của Hội-thánh, thế nên động-thái thư-thả, trầm-tĩnh của ngài cũng không có gì lạ. Đức đương kim Giáo-hoàng đây đơn-giản chỉ muốn tìm khả-năng mới để Giáo-hội Công-giáo có thể đến với người sống ngoài lề, hoặc xa cách. Điều, mà ngài quả-quyết cũng không có trọng-lượng là bao, đối với người vẫn cứ trông mong Giáo-hội có được đổi thay, cả những người chống đối mọi thay-đổi, cũng đều thế. Cả hai phía đều tin rằng: cung-cách thừa-tác mục-vụ, tự căn-bản, không thể thay-đổi nếu ta không đổi-thay về học-thuyết, lẫn tín-điều.

Thế nhưng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn cho điều ngài nói mang ý-nghĩa rất nhiều. Ý-nghĩa, có thể là ngài vẫn từng coi Thượng Hội Đồng kỳ này là một chiến-thắng đối với tầm-nhìn của ngài về sự quản-cai Giáo-hội, tức: cho phép người tham-gia cầm quyền được dự phần vào cuộc bàn cãi có mở rộng, mà trong đó không có rào cản nào, ở xung quanh.

Tính cởi mở trong trao-đổi được nhấn mạnh bằng thái-độ thẳng-thắn, bộc trực và sự khác-biệt trong say mê phát-biểu giữa các giám-mục khác nhau về trường-phái hoặc ngoài Thượng Hội Đồng. Tính trong-sáng cũng được tỏ-lộ qua thương-lượng để phác-thảo một văn-kiện “nháp” hầu đề-bạt và lấy phiếu bầu cho văn-kiện chung-cuộc.

Có thể nói, thách-thức lớn mà Thượng Hội Đồng đặt ra cho các Giám-mục tham-dự họp khi các ngài quay trở về địa-phận mình, là: làm sao tháp-nhập được tính cởi mở, trong-sáng trong quản-trị, lại là những điều lộ rõ nơi động-thái của quan-chức có mặt ở Thượng Hội Đồng. Đức Phanxicô đã chứng-tỏ rằng: cung-cách quản-cai giáo-hội xưa nay được xây dựng trên việc kềm-chế/kiểm-soát và bảo mật, có lẽ cũng nên thay thế cách nào đó cho tốt đẹp hơn; thay thế, nhưng trong đó vẫn có sự tham-gia của người dân bên dưới bằng các khuyến-khích đối-thoại cùng cởi mở và bằng sự trong-sáng/minh-bạch. Có giám mục coi đó là chuyện nên cổ võ; có vị, lại cứ coi như mình đang bị áp-lực từ gương lành của Đức Giáo hoàng hầu khai-phá thêm khả-năng khác có lợi cho giáo-hội địa phương mình…” (xem Lm Andrew Hamilton, Synod Affirms Francis’ vision of Church Governance, www.eurekastreet.net 21/10/14)

Với người ngoài, như nghệ-sĩ ở trên vẫn hát có câu ca khá lạc-điệu như:

“Nhiều đêm thấy ta là thác đổ,
Tỉnh ra có khi còn nghe.
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ,
Tôi nghĩ quanh đây hồ như.
Đời ta hết mang điều mới lạ,
Tôi đã sống rất ơ hờ.
Lòng tôi có đôi lần khép cửa,
Rồi bên vết thương tôi quì.
Vì em đã mang lời khấn nhỏ,
Bỏ tôi đứng bên đời kia”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Với đấng bậc nhân-hiền lành thánh, lại có ý/lời vẫn từng dẫn dụ như sau:

“Điều khiến chúng tôi tự hào là

lương tâm chúng tôi làm chứng rằng:

chúng tôi lấy sự thánh thiện

và chân thành Thiên Chúa ban

mà cư xử với người ta ở đời,

đặc biệt là với anh em.

Chúng tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời,

nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa.

(2Cor 1: 12)

Không cư xử theo lẽ khôn-ngoan người đời”, là lối cư-xử theo tính tập-thể rất hiệp-nhất, đúng như nhận-định của đấng bậc thày dạy từng đứng bục ở trường lớp rất Công-giáo, như sau:

“Nơi Giáo hội, ta nói nhiều về Tập-đoàn Giám mục, Hồng Y và đôi khi cả đến đoàn-ngũ linh-mục nữa, theo cung-cách mà các ngài vẫn thực-thi công-việc theo đội-ngũ. “Tôi rất lấy làm cảm-kích khi thấy ngài thực-thi hoạt-động theo tập-thể-tính biết dường nào” (Hồng Y Sean O’Malley nói về Giáo hoàng Phanxicô).

Loại hình tập-thể-tính như thế, vẫn còn thấy bên ngoài Giáo-hội đôi lúc nhiều hơn ở bên trong, hoặc giữa các đấng với nhau.

Lý do để ta có thể gọi được như thế, là vì: Giáo hội mình đích-thực là sự hiệp-thông hoặc như ai đó vẫn cứ gọi là: Tính tập-thể. Tính tập-thể vừa là ‘tiến-trình’ vốn dĩ cho phép Giáo-hội trổi bật lên trên và còn là sự diễn-tả về những gì khiến Giáo-hội phải trở-thành. Đáng tiếc thay, điều này thường không mấy hiện rõ, cho đủ. Giáo-hội mà lại không ‘hiệp-thông’ thì không phải là Giáo-hội. Và Hiệp-thông không thể xảy đến nếu không có tập-thể-tính.

Nay, ta sẽ cùng với Đức Giáo Hoàng Phanxicô đi vào hiểu-biết ngọn-ngành về Giáo-hội như một hiệp-thông (mà tiếng Hy-Lạp gọi đó là: koinonia). Với Giáo-hội hôm nay, thì vấn-đề “tập-thể-tính” đơn-giản lại chỉ được coi như một từ-vựng khác nữa về ‘hiệp-thông’ mà thôi, chứ chưa mang đúng ý-nghĩa, của từ-vựng.

Tập-thể-tính, hoặc hiệp-thông hoặc tính-cách được thấy ở Thượng Hội Đồng, vv.. còn mang ý-nghĩa của cung-cách mới được nhấn mạnh lần nữa về đường-lối suy-tư và sống-thực của Giáo hội. Điều này, làm nổi bật sự việc ta đến với nhau đi vào động-thái kết-hợp thành-viên Giáo-hội qua tư-cách là nhóm/hội vốn dĩ tự mình và do mình chọn theo cách tự-nhiên và theo đúng luật-lệ vẫn tản mác, khác nhau. Tập-thể-tính hoặc gọi đó là tính gì đi nữa, vẫn yêu-cầu để cho quyền cá-nhân riêng-lẻ cứ thế ra đi. Yêu-cầu ấy, do bởi các cá-thể và bè/cánh trong nhóm/hội ra như thế để dễ được sự đồng-tâm nhất-trí trong nhóm/hội đoàn-thể đang trào dậy. Điều này không làm cho nhóm/hội này khác trở thành bất-lực. Thật ra, thì sự đồng-tâm nhất-trí vượt khỏi lựa-chọn thông-phần sẻ-san để rồi sẽ không sử-dụng bất cứ quyền-bính nào mà cá-nhân hoặc phân-bộ nào đó có thể có, hầu để cho nhóm/hội được tốt-lành. Có thể nói, đây là khí-cụ tạo lợi-ích chung.

Ngoài ra, nói về tính tập-thể tức: không có ý nói phải làm sao tạo được đa số phiếu tuyệt-đối với thành-viên tham-dự; hoặc ít ra cũng phải 2/3 phiếu hoặc đa số tuyệt đối các phiếu bầu. Đây là vấn-đề thuộc về não-trạng. Nhưng, không là não-trạng của việc thắng/thua.

Điều này, không có nghĩa là mình cảm thấy vui lòng/thoải mái trước khi, trong lúc hoặc sau khi xảy đến sự việc. Điều này, cũng không là câu trả lời cho vấn-nạn nào ta không đồng-thuận với nó.

Tính tập-thể không là đòi hỏi phải hoàn-toàn đồng-thuận, nhưng đòi tất cả mọi người ở đó, phải tôn-trọng lẫn nhau. Và điều đó, còn quan-trọng hơn cả trách-nhiệm trở thành dân-con vào mọi lúc. Điều đó, đòi hỏi phải hủy bỏ/tách rời bất cứ và toàn-bộ quan-điểm nào mang tính cứng-ngắc hoặc cố-định.

Tính tập-thể, không có nghĩa là: lắng tai nghe những vị cứ cho rằng điều mình kể là những điều mà Đức Giáo Hoàng vẫn thích nghe.

Hiệp-thông lại cũng không mang ý-nghĩa của sự việc hoàn-toàn thống-nhất ý-kiến. Mà là cung-cách để ta khai-thác sự khác-biệt trong khi ta sống với những thứ ấy. Đó còn là cung-cách cứ để họ sống với ta. Đó là bối-cảnh để làm sáng tỏ bất cứ bất-đồng nào có thể.

Đây cũng không là đấu-trường trong đó ta có thể chống-đối sự bất khoan-nhượng với bất nhượng-bộ. Đó cũng không là cung-cách để ta củng cố những gì được đưa ra như quan-điểm triệt-để, hoặc đường-lối để người người đào sâu rẽ chia.

Tập-thể-tính bao gồm việc xem người khác bất-đồng với mình về chuyện gì, là địch-thủ chứ không là địch-thù của mình. Tính-chất này đòi phải có sự đồng-hàng với mọi người, không vì điều họ nói hoặc do họ bỏ phiếu bầu thuận hoặc nghịch, mà vì họ đang có mặt ở đó.

Đang có mặt ở đó”, đấy mới là vấn-đề, chứ vấn-đề tuyệt-nhiên không do mức-độ thông-minh hoặc trọng-lực của luận-cứ khi tranh-cãi. Tiến bước thêm về phía trước, là cốt để dời chỗ đi từ sự bất-đồng chính-kiến về giải-pháp đưa ra cho đến bất-đồng về những điều được coi như vấn-nạn muôn thuở. Và cứ thế, ta tiến dần về với vấn-nạn nào thực-sự là vấn-đề hoặc cả việc tự xem mình có thế không hoặc có còn như thế không. Đó, mới thành chuyện!

Nói tóm lại, đây là cách-thức ta thể-hiện sự khác-biệt trong hiệp-nhất; và cứ tạo hiệp-nhất mới-mẻ hơn…” (Xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Spelling Out The Issues of Collegiality, Strathfield ACU Workshop 23/8/2014, tr. 1 & 2 …)

Đi vào đời, đã thấy ngay đám trẻ bé đối-xử với nhau theo tính tập-thể, không uẩn-khúc. Nhưng, đã quan-niệm thoải mái qua các đoạn tả cảnh/tả tình về tình đời, như sau:

Để tả cảnh hoặc tả tình ông nội mình, có em nhỏ từng mô-tả như sau:

“Nhà em có nuôi một ông nội. Ông nội suốt ngày chẳng làm gì cả, chỉ trùm chăn ngủ. Đến bữa ăn, ông tỏ dấu vẫn cứ hỏi: Cơm chín chưa bay?

Để tả dụng cụ lao-động, em lại thích viết những điều như:

“Chiếc xẻng nhà em có rất nhiều công-dụng, và dùng nó để xúc phân của con chó nữa!”

Mô-tả về ông bố, có đoạn văn bất hủ của một học-trò khác như sau:

“Bố em có một hàm răng vàng, hàm răng vàng luôn chỉ bảo em những điều hay lẽ phải.”

Và, để miêu-tả mùa Xuân, có em lại viết rằng:

“Mùa xuân ở quê em mở rất nhiều hội. Vào những ngày ấy, trên đường có rất nhiều các ông các bà tay cầm ô đen ô đỏ, có vị còn mặc áo dài áo ngắn đứng ngồi lố nhố. Các cụ nói chuyện râm ran, như bầy chim líu lo gọi mẹ, mà em chẳng hiểu gì hết…”

Tả cây chuối, có em nọ lại viết những câu như:

“Nhà em có cây chuối rất to, chiều nào em cũng leo lên cây chuối, để thấy rõ hết mọi người ở bên dưới. Ngồi trên cành chuối rung rinh, em rất thích.”

Trả lời câu “Hãy tả con vật mà em yêu thích nhất”, có em nọ lại đã viết:

“Nhà em có nuôi một con gà trống rất đẹp. Em rất yêu nó. Vì hằng ngày nó tỏ ra hiên-ngang với các con gà mái yếu ớt. Hàng ngày, em cho nó ăn nên chiều chiều nó gáy những tiếng như con gà trống lớn coi thường mọi gà con dưới nó.”

Tả cái cặp đi học, có em khác lại cũng viết:

“Bố em mua cho em cái cặp rất to và đẹp, hàng ngày em đeo nó đến trường, cái cặp đựng được nhiều sách vở, nó to như cái bình thuốc sâu của mẹ.”

Tả cô giáo mà em yêu quí, em kia tả rất lẹ:

“Cô giáo em rất đẹp. Cô có vầng trán cao thể-hiện sự thông minh. Mái tóc cô dài thướt tha như giòng nước. Nhưng cái mà em thích nhất, vẫn là cái răng nanh của cô. Nó làm cho nụ cười của cô thêm phần quyến rũ. Cô hay đọc tập làm văn cho tụi em chép, nên em viết văn cũng giống cô…”

Tả người thày em yêu quí nhất, có em tả thế này:

“Thấm thoát đã 3 mùa hoa ban nở, thầy giáo phải tạm biệt chúng em để về xuôi. Cả làng cả bản đứng tiễn thầy vô cùng ngậm ngùi. Riêng em đứng nhìn theo thầy đến khi thầy xa dần, xa dần, đến khi nhỏ bằng con chó em mới quay lại bản.”

Tả anh lính chiến, có em tả như sau:

“Lính chiến làng em cao một thước hai, cây súng anh mang dài thước rưỡi. Thế mới oai…”

(Trích: “Các bài văn bất hủ của học trò” ở lên mạng, đọc cho biết).

Ở quê nhà, các em cũng đã học cách viết văn để miêu-tả những điều mình nhận-xét, như mọi người. Nhưng, người nhà Đạo lại suy-nghĩ hoặc viết-lách vẫn “cao siêu” hơn thế, rất nhiều. Cao và siêu, đến độ nhiều vị có chức-tước hoặc ngạch-trật cứ cãi nhau suốt, tưởng chừng không bao giờ chấm dứt.

Chấm và dứt sao được, khi người trong cuộc lại cứ nói và cứ cãi, những điều mình chẳng khi nào trải-nghiệm. Chấm và dứt làm sao, khi nhiều người những muốn nói điều mình trải-nghiệm, nhưng vì không ở cùng mạch chính, nên không có quyền quyết-định bằng lá phiếu.

Tóm lại, vấn-đề gì cũng thế, dù diễn ra ở trong hay ngoài cuộc, càng thấy khó bàn-cãi, nói chi đến “cuộc chơi”, ở đời. Thế đó, một vài ý mọn ở đâu đó, có bạn đạo nọ gom góp, nhặt nhạnh để lưu-giữ hầu biến nó thành kinh-nghiệm đời, cho mai sau. Kinh và nghiệm, là những gì bạn và tôi, ta cần cảm và nghiệm nhưng lại không hề “kinh nhi viễn chi”.

Trần Ngọc Mười Hai

Tuy chưa có kinh nghiệm

Quản cai ai cả

Nhưng vẫn muốn nghiệm và kinh

Hết mọi người mọi vị

ở trong đời.

Anh với tôi mộng canh trường

“Anh với tôi mộng canh trường,”

“Giăng kề song cửa, hoa kề gối

“Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 2: 13-22

Mai Tá lược dịch

Truyện sầu hay truyện mến thương của tôi và anh, đâu chỉ là chuyện của thi ca, và âm nhạc. Truyện như thế, vẫn trải dài ở nhiều nơi, cả ở ngoài đời lẫn trong Đạo.

Rất nhiều người ở đời thường, vẫn hay tỏ bày nỗi ngạc nhiên rất mực, khi khám phá ra rằng: ngay như nhà Đạo, vẫn có chuyện phân biệt giữa đền thánh với nguyện đường, ở địa phương. Điều mà nhiều người thường nghĩ, đó là: đền thánh Phêrô không phải là Nhà Thờ Chánh Toà của Giáo phận La Mã. Thậm chí, có khách hành hương còn đến đây, để tìm cho ra ngai triều của Đức Giáo Hoàng, tức Đức Giám Mục thành Rôma, nhưng không thấy.

Có người lại cứ tưởng chiếc ghế chạm trổ công phu của thánh Phêrô đặt sau bàn thờ trên cao, là ngai-triều chính-hiệu của ngài, nhưng vẫn lầm. Có người lại cứ nghĩ: chiếc ghế di-động mà Đức Giáo Hoàng thường ngồi, là ngai triều của ngài, cũng  không đúng.

Thánh đường Latêranô đích-thực là Vương Cung Thánh Đường, của La Mã. Ở nơi đó, có ngai-triều của Đức Giám Mục thành Rôma, rất đúng thực. Từ thế kỷ IV, Giáo hội dùng nơi này để cung-hiến thành chốn thánh dâng lên Chúa.

Nơi đây, mỗi năm Đức Giáo Hoàng vẫn thân-hành đến chủ-trì các nghi lễ phụng-tự, rất long trọng. Và chính tại thánh-đường này, ngài uy-nghi ngồi trên ngai-toà mình ngõ hầu ban huấn-từ, giãi-bày nhiều điều cho dân Chúa biết.

Trong cuộc sống Giáo hội, nhiều giáo hội địa phương cũng dùng việc kỷ-niệm cung-hiến thánh đường trong giáo-phận mình, coi như lễ trọng. Cung-hiến thánh-đường Latêranô, là lễ-hội toàn-cầu, nhằm nhắc ta nhớ mà hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng, trên cương-vị ngài là Giám Mục thành La Mã.

Bằng vào cử-chỉ này, ta chứng-tỏ rằng: Giáo-hội mình là Giáo-hội của chung, rất Công giáo. Nhưng, điều đáng buồn, là: đôi khi ta cũng thấy nhiều người nghĩ rằng họ được phép chọn-lựa giữa Giám-mục địa-phận mình với cả Giám-mục thành La Mã nữa. Điều này, thật cũng có ý nghĩa, nhưng đó không phải là tính-cách chung, của Công giáo.

Nói cho cùng, dù ta có lòng mến mộ Đức Giáo Hoàng đặc-biệt thế nào đi nữa, thì tình-cảm riêng-tư của ta vẫn không dẫn đến kết-quả như một hiệp-thông với ngài. Bởi, ta chỉ có thể hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng khi có được sự thông-hiệp ngang qua Giám-mục sở tại của mình, mà thôi.

Và, Đức Giám mục địa phận sở tại của ta cũng chủ sự cùng một Tiệc Thánh Thể như và với Đức Giám Mục thành La Mã là Đức Giáo Hoàng.

Trong cuộc sống thường-nhật, nhiều nguời cũng mắc phải sai lầm tựa như thế, cũng là điều dễ hiểu thôi. Nhiều năm qua, Hội-thánh ta vẫn tập-trung vào vai-trò của Đức Giáo Hoàng mạnh đến độ ta sẽ được tha thứ nếu nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng chỉ là Cán bộ Cấp Cao của Giáo triều Vaticăng.

Và Đức Giám Mục sở tại lại là Giám-đốc hay Thủ-trưởng, một chi-nhánh của giới cầm-quyền.

Nên, khi Đức Giáo Hoàng ra lệnh “hãy nhảy lên”, thì ta hỏi: “Dạ thưa, cao đến cỡ nào ạ?” Thành thử, vấn-đề này xem ra hơi giống thái-độ của những người “bảo hoàng hơn vua”, luôn có nguồn sử của Hội thánh, cũng tương tự như thế.

Chính vì thế, nên Công Đồng Vatican II đã làm sáng-tỏ vai-trò của Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai, giáo-huấn và thực-thi hiến-pháp, trong Giáo hội. Công Đồng Vatican minh định rất thận trọng, là nhằm hồi-phục chức-năng đúng-đắn khi xưa, về cương-vị lãnh-đạo của Đức Giáo Hoàng.

Công Đồng đây cho thấy, việc cai quản, giáo huấn và thi hành giáo-luật luôn chứa-đựng một bối-cảnh, vẫn có từ khi trước. Công Đông vẫn dạy rằng: Đức Giáo Hoàng thực thi cương-vị lãnh-đạo như vị thủ-lĩnh tối cao trong số các Giám mục. Ngài là mục-tử mang tính toàn-cầu. Là, dấu chỉ của sự hiệp-nhất trong Hội thánh.

Và, là người có trọng-trách giáo-huấn, duy-trì và bảo-vệ niềm tin của toàn-thể Hội thánh, ngang qua phương cách mà ngài xác nhận với những người anh em Giám mục có cùng một trọng trách trong giáo hội địa phương của các ngài.

Chính từ đó, nguồn cội của cụm từ “vâng phục” lại có ý nghĩa của sự việc “lắng nghe một cách cẩn trọng”.

Vì thế nên, Tiệc thánh hôm nay là để ta cử-hành sự hiệp-nhất trong đa-dạng, khi ta tập-trung nhấn mạnh đến Mẹ thánh Giáo-hội đối với các giáo-hội Công giáo La Mã, ở địa phương.

Cầu mong sao, từ đó ta lĩnh-hội được điều tốt đẹp để có quyết-tâm với Đức Giám Mục sở tại nơi ta sống. Bởi, ngài cũng là đấng kế-vị của các thánh tông đồ. Và, ngài cũng đáp-ứng với lời kêu gọi của Đức đương kim Giáo Hoàng giúp ngài nghĩ ra các phương-cách khả dĩ thực-hiện công việc phục-vụ Hội thánh. Đó, là “dấu chỉ” lớn lao hơn cho sự hiệp-nhất Đạo của Chúa với thế-giới nhân-trần, trong lai thời.

Cũng cầu mong sao, để mỗi người chúng ta nhớ được rằng: tinh-thần mà Tin Mừng hôm nay muốn tỏ-bày, chính là sự việc Giáo-hội cũng được dựng-xây bằng gạch hồ thật đấy. Thế nhưng, Thân Mình Rất Hiển Vinh của Đức Kitô lại vẫn được đúc-kết bằng những người con biết sống-thực tình yêu thương cứu-độ Ngài ban cho thế-giới, rất hôm nay.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm những điều như thế, ta lại sẽ ngâm nga câu hát của nhà thơ ở trên, vẫn hát rằng:

“Anh với tôi mộng canh trường,

Giăng kề song cửa, hoa kề gối

Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương.

Anh buồn từ thuở giăng lên núi

Ấy độ tôi về ước lại mong.”

(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)

Nỗi buồn, thuở nào cũng vẫn là buồn một nỗi thời muôn thuở. Miễn anh và tôi, ta cũng chớ buồn vì sự chênh-lệch quyền-bính ở nhà thờ và nhà Đạo, rất hôm nay. Bởi lẽ, quyền-bính với quyền-hành ngày hôm nay, dù ở nơi nào đi nữa, vẫn là vấn-đề muôn thuở của tôi và của anh, rất sáng ngời, đầy bực bõ.

Thế nên, giải quyết được tranh-chấp quyền-hành ở mọi chốn, cũng là giải quyết tận gốc mọi nỗi buồn của người con trong nhà Đạo, suốt mọi thời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

LỜI CỦA NGƯỜI ĐI (LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN)

LỜI CỦA NGƯỜI ĐI (LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN)

Tác giả: Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

1. Lịch sử của ngày lễ.

Ngay thời tiên khởi, Hội Thánh đã luôn luôn dạy hãy cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustinô viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”.

Nhưng Thuở ban đầu này, do ảnh hưởng thời tiền Kitô giáo, các nghi thức cầu cho người chết còn chứa nhiều màu sắc dị đoan. Kinh nghiệm của đời sống phụng vụ của Hội Thánh loại trừ dần những cổ hũ ấy. Mãi đến thời trung cổ, nhờ các ẩn sĩ, là những người có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm, một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.

Giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh: Mọi tu viện của dòng phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2.11, ngay sau lễ các Thánh hàng năm. Truyền thống này càng ngày càng lan rộng trong Hội Thánh. Sau cùng Hội Thánh chấp nhận và đưa vào niên lịch Công giáo Rôma.

Ý nghĩa thần học nền tảng của việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã qua đời, là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít ai đạt được đời sống trọn hảo, nhưng hầu hết đều mang vết tích tội lỗi trong khi qua đời. Đã là con người yếu đuối, nên cần thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn được đối diện với Thiên Chúa. Công Ðồng Triđentinô xác nhận lời cầu nguyện, những hy sinh của người sống, khi có ý dành cho người đang ở tình trạng luyện tội, có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người ấy.

Việc cử hành lễ cầu cho các tín hữu qua đời, ngày nay đã trở thành việc đạo đức quen thuộc, thường xuyên của mọi Kitô hữu. Ngay nay, người ta tổ còn tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng nến và hoa.

2. Sứ điệp của ngày lễ.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ, niềm hy vọng cho con người.

Trên đó cũng thường có tấm bia khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia người ta khắc ba chữ: R. I. P. (Viết tắt của câu Latinh: requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu).

Có những tấm bia trên phần mộ ghi câu Kinh Thánh hay những lời từ biệt, lời cám ơn. Phải chăng chết đi về thế giới bên kia là hết, là chấm dứt mọi liên đới ?

Chúa Giêsu, trong bữa Tiệc ly, đã nói lời từ giã trước khi tự nguyện hy sinh chịu chết: “Thày đi về cùng Cha Thày!” (Ga 14, 1-14). Lời từ biệt này nói lên mối dây ràng buộc niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa.

Người thân yêu đã ra đi, theo niềm tin của người Công giáo dựa trên chính lời Chúa Giêsu, đó cũng chính là lúc họ về cùng Thiên Chúa Cha. Và cũng như Chúa Giêsu, họ cũng để lại di chúc cho chúng ta và cho mọi người đi sau họ:

– Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Ðấng sinh thành ra tôi.

– Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này, nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

– Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha tôi. Tôi biết Ngài luôn yêu mến tôi.

Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người thân còn sống: Tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương đến mọi người quá cố. Xin đón rước và thứ tha cho ông bà, anh chị em, bạn hữu, và mọi người thân yêu, mọi người đã đi qua trong đời này mà nay đã an giấc.

Xin Chúa cũng thương tha thứ và đón nhận chúng con, những người còn lữ hành trên dương thế, được vào nước Chúa, vào một ngày mà Chúa gọi chúng con về trình diện trước Thánh Nhan Chúa. Amen.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

(Trích trong tập sách “Giờ Kinh Gia Đình với Lời Chúa” của giáo phận Phú Cường)