Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó (Bài mở đầu)

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó

Nguyễn Tiến Dân

16-10-2014

Bài mở đầu

QUỶ CỐC TỬ

持枢 TRÌ KHU

持Trì (cầm,nắm) – 枢Khu (trục, bản lề của cánh cửa). Trì khu, tức là phải tìm cho ra và nắm cho chắc điểm mấu chốt, điểm quan trọng nhất của sự vật, sự việc. Dựa vào đó, mà xử lý công việc. Công việc, sẽ  được giải quyết rất nhẹ nhàng. Giống như, mở 1 cánh cửa nặng, bằng cách đẩy nó quay quanh bản lề. Nói rộng ra, Quỷ Cốc Tử cho rằng: Tìm và Hiểu cho bằng được, quy luật của Tự nhiênThuận theo nó – sẽ tồn tại và phát triển bền vững. Tìm và Hiểu cho bằng được, quy luật của xã hội. Đi ngược với nó – chắc chắn, sẽ bị diệt vong. Nguyên tắc này, đúng với từng người, khi họ học phép dưỡng sinh. Đúng với từng doanh nghiệp, khi họ sản xuất và kinh doanh. Đúng với từng giáo phái, khi truyền Đạo cho tín đồ. Đúng với từng thể chế chính trị, khi Trị nước – An dân.

持枢谓春生夏长,秋收冬藏 . Trì khu, vị Xuân sinh – Hạ trưởng – Thu thu – Đông tàng .

Mùa Xuân, tiết trời mát mẻ, không khí ẩm thấp. Cây cối, nhờ thế mà vươn lên mơn mởn. Động vật chui ra khỏi hang, để đi tìm mồi. No ăn – rửng mỡ, chúng đi kiếm bạn tình. Vì thế, nói: “Xuân là mùa thuận tiện cho sự sinh sản”.

Mùa Hạ, trời nắng chói chang, thời tiết nóng nực. Cây cối vươn cành, tiếp thu ánh sáng mặt trời. Chất dinh dưỡng, được chuyển hóa, để nuôi cành lá xum xuê – nuôi quả ngọt lớn dần. Bào thai trong bụng động vật, cũng được nuôi dưỡng, để dần thành hình hài. Vì thế, nói : “Hạ là mùa của sự trưởng thành”.

Mùa Thu, trời trong xanh, gió mát. Cây – Quả đã chin nục. Người nông dân, đi gặt hái thành quả của mình. Thiên nhiên, chào đón những sinh linh mới ra đời. Vì thế, nói: “Thu là mùa của sự thu hoạch”.

Mùa Đông, cây trút lá, trơ những cành khẳng khiu đứng giữa trời. Chúng, hầu như không phát triển. Động vật, chui vào hang, để đi ngủ đông. Các loại hạt giống, mà người nông dân gieo, cũng im lìm, nằm dưới lớp tuyết dày. Vì thế, nói: “Đông là mùa của sự nghỉ ngơi – tàng trữ”.

天之正也,不可干而逆之. 逆之者,虽成必败. Thiên chi chính dã, bất khả can nhi nghịch chi. Nghịch chi giả, tuy thành tất bại.

Tứ quý luân phiên, bốn mùa thay đổi. Đó là, 1 trong những quy luật vận hành của Tự nhiên. Tự nhiên, bao giờ cũng được phát triển 1 cách có tuần tự. Con người, không thể tự tiện can thiệp. Cố tình can thiệp: Thành công, nếu có, chỉ là nhất thời. Chung cuộc, chắc chắn sẽ nhận được bại vong.

故人君亦有天枢,生养成藏. Cố nhân quân, diệc hữu thiên khu: Sinh – Dưỡng – Thành – Tàng .

Từ người Dân, cho đến bậc Đế vương. Từ hội nhóm, đảng phái, cho đến Quốc gia. Không ai thoát khỏi được vòng luân hồi của Tự nhiên: Xuất sinh – Dưỡng dục – Trưởng thành – Tàn lụi.

Con người ta, phải trải qua quá trình thai nghén trong bụng mẹ. Đủ ngày – đủ tháng, mới được sinh ra đời. Những đứa trẻ sinh thiếu tháng, chúng thường không được khỏe. Nuôi dưỡng chúng, rất vất vả và tốn kém. Nhiều người mê tín, họ chọn mổ đẻ vào những ngày – giờ đã định. Hy vọng, với những lá số Tử vi đã được chọn trước đó, sau này, con mình dễ trở thành ông nọ – bà kia. Có lẽ, họ không biết: Kể cả những thầy Tử vi cao tay nhất, không ai có thể lên và nói chính xác, về lá số của các cháu bé đó.

Chủ nghĩa Mác cho rằng: Xã hội loài người, phải lần lượt vận động qua các hình thái, Nguyên thủy – Nô lệ – Phong kiến – Tư bản – Cộng sản. Và, “cách mạng vô sản”, chỉ có thể thành công, khi nó xảy ra đồng thời, trên phạm vi toàn Thế giới.

Ông Lê nin, “Vận dụng sáng tạo” cái chủ thuyết này. Ông ta, làm “cách mạng vô sản” ở phạm vi 1 nước Nga. Khi đó, nền tảng công nghiệp của chủ nghĩa Tư bản,  còn chưa được phát triển đầy đủ. Cuộc cách mạng ấy, “đẻ non – chín ép”, mà vẫn thành hình hài – vẫn không bị chết yểu. Thậm chí, có lúc còn mạnh đến mức: Có thể tranh bá với Thiên hạ. Những người CS, họ phục ông Lê nin lắm. Họ, tôn ông ta là Thánh. Đâu hay rằng: để giữ được như thế, Liên xô đã phải trả giá, bằng bao nhiêu thời gian – bằng bao nhiêu tiền của – bằng bao nhiêu sinh mạng. Cuối cùng, “mèo vẫn hoàn mèo”. Liên xô vẫn phải tan rã. Một kết cục, thật là bi thảm.

Ông Lê nin đã “giỏi”, nhưng có người, còn trăm ngàn lần giỏi hơn. Đó là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, đã “vận dụng” chủ nghĩa Mác, 1 cách có tính chất “Đột – phá”. Hồ Chí Minh và đảng của ông, liều lĩnh đến mức: Cho tiến hành cách mạng vô sản, ở 1 nước Phong kiến lạc hậu. Phương thức sản xuất thì vừa nhỏ, vừa manh mún. Nền tảng công nghiệp, hầu như không có gì. Giai cấp công nhân (theo đúng nghĩa), còn chưa được hình thành. Ấy thế mà, ông cùng với toàn đảng của ông, vẫn cố nuôi hy vọng, có thể bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản. Để “Tiến nhanh – Tiến mạnh – Tiến vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội”. Một ảo tưởng vĩ đại. Để đến bây giờ, đảng CS Việt nam, phải âm thầm trở lại điểm xuất phát: Bắt đầu, xây dựng lại, nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Tư bản. Tuy vậy, những người CS Việt nam, vẫn không nhận và không chịu trách nhiệm, cho hàng loạt, những sai lầm của họ. Đất nước Việt nam, đâu có may mắn, để được hưởng sự vô can đó. Cả dân tộc Việt, đang phải trả giá, cho cái ảo tưởng vĩ đại của đảng CS Việt nam.

亦复,不可干而逆之.逆之, 虽盛必衰. Diệc phục, bất khả can nhi nghịch chi.Nghịch chi, tuy thịnh tất suy.

Những quy luật của xã hội, phải luôn được tôn trọng. Không được làm trái. Làm trái với quy luật của xã hội, tạm thời, có thế hưng thịnh. Nhưng , chung cuộc, chắc chắn sẽ bị suy vong.

此天道人君之大纲也. Thử Thiên đạo, Nhân quân chi đại cương dã.

Đó là quy luật của Tự nhiên, là Cương lĩnh căn bản của Quân chủ khi thống trị Quốc gia.

Lời bàn:

1-Hiểu được Trì khu, mỗi cá nhân, sẽ luyện được phép dưỡng sinh. Luyện được phép  dưỡng sinh, con người ta sẽ khỏe mạnh và trường thọ.

-Hãy sống hòa hợp với Thiên nhiên. Cơ thể của bạn, phải được tiếp xúc với bầu không khí ẩm thấp của mùa Xuân . Đừng vì cái nắng cháy da của mùa Hè, mà suốt ngày ngồi trong phòng lạnh. Hãy đến công viên, để tận hưởng thời tiết mát mẻ, dễ chịu của mùa Thu. Khi Đông về, hãy co ro đôi chút. Làm được như thế, cơ thể bạn sẽ dẻo dai và săn chắc. Thỏi thép kia, sở dĩ cứng rắn, bởi nó được nung trong lửa đỏ và tôi trong nước lạnh. Đừng nên ăn quá nhiều. Khiến dạ dày, chẳng còn có lúc được nghỉ ngơi. Đừng bắt trẻ con, học đến mức mụ mị. Hãy dành thời gian, để chúng chơi đùa và chiêm nghiệm những điều đã học. Đừng nên lạm dụng chất kích thích. Kháng sinh, chỉ dùng trong những trường hợp hi hữu.

-Có 1 định nghĩa vui: “Con người ta, chỉ hạnh phúc, khi mọi cái lỗ trên người, đều thông”. Hãy nói về 1 cái lỗ, rất ít được chú ý, lỗ chân lông. Nhiệm vụ chính của nó, là tống cặn bã dưới da ra ngoài. Về già, cơ thể ta yếu đi. Lỗ chân lông sẽ nở to ra, để giúp cho sự bài tiết tốt hơn. Nhiều người, muốn chống lại quy luật ấy. Họ săn lùng các loại thuốc, có thể làm “se khít lỗ chân lông”. Hy vọng, các loại thuốc ấy, sẽ giúp họ, lấy lại vẻ mịn màng của tuổi trẻ. Đâu hay, vẻ đẹp ấy, nếu có, cũng chỉ được nhất thời. Nhưng, mồ hôi không được toát ra, “bí hạ” nó sẽ “phá thượng”. Nay mai, viêm da và mặt mũi thì sần sùi như quả cam sành. Đó là điều, chẳng cần phải bàn cãi.

2-Những doanh nhân thành đạt, bao giờ họ cũng làm những việc, mà mình có thể mạnh. Không bao giờ, làm việc trong lĩnh vực, mà mình chẳng hiểu gì. Bao giờ, họ cũng sản xuất và bán ra những thứ, mà thiên hạ cần. Không cố tình sản xuất và bán ra, những thứ mà chỉ riêng mình thích. Khi máy ảnh kĩ thuật số ra đời, không ai dại gì, tiếp tục sản xuất film và máy ảnh dùng film. Dây chuyền sản xuất ấy, dù đắt tiền đến đâu, cũng phải bị phế bỏ. Không được luyến tiếc.

Cọp chết, để lại da – Người ta chết, để lại tiếng”. Con người ta, già rồi là phải chết. Chết rồi, thương mấy cũng phải đem chôn. Cái mà, người đã khuất, có thể để lại cho hậu thế, đó chính là sự nghiệp.

Đức Thánh Trần, dặn gia nhân: “Sau khi ta chết, hãy đem xác đi thiêu. Tro cốt, cho vào lọ sành. Chôn trong vườn, rồi phủ đất và trồng cây lên trên”. Đơn giản, chỉ có vậy. Nhưng, danh tiếng và sự nghiệp lẫy lừng của Đức Thánh, đâu có thể vì thế, mà nhanh chóng mai một theo thời gian.

Quang Trung Hoàng đế, sau khi chết, được con cái và các vị đại thần tôn vinh. Được cúng lễ linh đình. Được xây lăng to – mả lớn. Nhưng, ích gì. Sau khi chết, thân xác vẫn bị quan quân nhà Nguyễn, quật lên để làm nhục.

Ở nhiều nước, người ta chỉ trưng bày (bêu) xác của người đã khuất, trong trường hợp cần hạ nhục họ. Đổng Trác, bị người đời căm ghét. Khi chết, xác bị bêu trên phố, cho Thiên hạ tới phỉ nhổ. Cũng vì chưa chôn, nên binh lính mới có thể mạo phạm đến thi thể. Họ, cắm bấc vào rốn Đổng Trác, rồi đốt. Mỡ chảy lênh láng ngoài đường.  Gaddafi, được nhiều người “yêu” quá. Thế nên, sau khi chết, xác bị trưng bày nhiều ngày, ở lò mổ súc vật.

Hy vọng sau này, ông Lê nin, ông Mao… không bị đối xử như thế.

Sự nghiệp mà không có, dẫu cố tình, có để lại cái xác khô ở trên đời, phỏng có ích gì. Chỉ rác tai, để nghe Thiên hạ đàm tiếu.

Đạo đức – Tư cách chẳng ra gì, dẫu có được đem tạc bia đá – đúc tượng đồng và lập đền, để thờ cúng ở khắp mọi nơi, phỏng có ích gì. Cuối cùng, tránh sao cho khỏi, bị quần chúng tròng dây vào cổ, mà kéo sập xuống.

3-Trái đất này, có rất nhiều tôn giáo, như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hòa hảo, Tin lành…Tuy có nhiều nét khác nhau, về hình thức, về tổ chức, về nghi lễ thờ phụng…Nhưng, hết thảy, đều có 1 mẫu số chung. Đó là, các tôn giáo ấy, luôn dạy chúng sinh, làm điều Thiện – sống Ngay thẳng. Nhẫn nhịn và Thương yêu đồng loại. Nó hợp với tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của cả loài người. Vì vậy, nó được nhiều tín đồ tự nguyện theo . Nó có gốc rễ bền vững. Nên nó sẽ trường tồn.

Ngược lại. Ý thức hệ CS, căn bản dựa trên 2 trụ cột: Bạo lực và dối trá.

-Một trong những nguyên tắc cơ bản của học thuyết CS, đó là đấu tranh giai cấp. Muốn có chính quyền ư? “Súng (sẽ) đẻ ra chính quyền”. Cần gì phải rèn tài năng và tu đức độ: Để được dân bầu – Để được nắm chính quyền, 1 cách đàng hoàng và tử tế. Muốn có của cải ư? Cần gì phải học hành – phải siêng năng – phải tiết kiệm. Hãy đi ăn cướp của nhà giàu. Nếu có bị họ đánh chết, âu cũng chỉ là 1 cách, để giải thoát. Đó là, nguyên ý của câu: “Trong cuộc đấu tranh (giai cấpnày, giai cấp vô sản: Nếu được, thì được tất cả – Nếu mất, họ chỉ mất đi xích xiềng nô lệ”. Để được việc, họ sẵn sàng, xử tử cả những ân nhân của mình. Những người, đã từng nuôi nấng – cưu mang họ, trong lúc còn trứng – nước. Để thâu tóm quyền lực, họ chẳng  ngần ngại, dùng những thủ đoạn hèn hạ nhất, để thanh trừng, ngay cả đồng đội của mình. Họ bắt: Con phải tố cha – Vợ phải chửi chồng. Phá nát nền tảng đạo đức – gia đình. Để thâu tóm nhà máy – ruộng đất, họ xá gì chuyện bất hiếu: Lừa gạt, cả những giai cấp, đã sinh ra mình. Đâu rồi, lời hứa: “Nhà máy về tay thợ thuyền – Ruộng đất về tay dân cày”. Mượn nhà của ân nhân, thích thì chiếm đoạt luôn (trường hợp gia đình cụ Trịnh Văn Bô). Mượn đất của Tôn giáo, rồi thẳng tay cướp lấy (trường hợp Nhà Chung và giáo xứ Thái Hà). Mượn tiền của Dân, rồi lì lợm tìm mọi cách để chiếm đoạt. Người ta đi đòi, thì vu oan – giáng họa, để làm hại người ta.

-Trong các nhà trường CS, từ bé đến lớn, các cháu học sinh, được dạy 1 mớ kiến thức hổ lốn, cộng với thói ăn gian – nói dối. Học “Cuội” và thi cử không trung thực. Cho nên, bằng cấp của Việt nam, đâu có được Quốc tế thừa nhận. Học vị Tiến sĩ, khó là thế. Nhưng, cán bộ CS, ai cũng có.

Những người CS, nói mà không hề biết xấu hổ, rằng: “Việt nam, là nước theo chế  độ Dân chủ”. Rằng: “Dân chủ ở Việt nam, cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Họ, cũng leo lẻo nói rẳng: “Đi lên CNXH, là khát vọng của Nhân dân” và “Nhân dân Việt nam, không có nhu cầu đa đảng”. Nhưng, họ không bao giờ, dám làm 1 cuộc Trương cầu Dân ý về việc này. Bởi làm thế, họ sẽ bị lòi đuôi.

Lừa bịp Nhân dân đã quen. Đến Thủ tướng của họ, họ cũng không tha: “Tỉnh nào tôi đi làm việc, (cũng) đều (báo cáo, GDP tăng) từ 9 đến 14%,trong khi cả nước, (GDP cũng) chỉ (tăng có) 5,8%” (Những chữ in đậm, là nguyên văn lời ông Nguyễn Tấn Dũng).

Trừ Giáo sư Ngô Bảo Châu, còn ai cũng hiểu, 1 mệnh đề thật là đơn giản: “Toán học, không thể có chỗ đứng, trong 1 đất nước, mà ở đó, Tổng của những con số dương, là 1 số âm”.

Chủ thuyết CS, đầy rẫy những chuyện phi Luân thường – Đạo lý. Đâu có hợp lòng Dân. Nó trường tồn sao được.

4-Những người, làm nghề vận tải hỗn hợp sông – biển, bao giờ họ cũng phải tính toán con nước. Sao cho, khi thủy triều lên, họ sẽ ngược dòng – khi triều xuống, họ sẽ xuôi dòng. Hiệu quả kinh tế, sẽ rất lớn.

-Chính quyền, nếu ví như 1 con thuyền – thì Ý chí của Nhân dân giống như 1 dòng nước chảy xiết. Thuận lòng Dân, không tốn mấy sức lực, con thuyền cũng mau chóng về đến đích. Đối nghịch với Nhân dân, khác nào con thuyền, ngược dòng trong bão tố. Đợi đến khi: “Lật thuyền, mới biết sức Dân như nước”, thì mọi chuyện, đã trở nên quá muộn mằn.

Sau Đệ nhị Thế chiến, Nga xô chiếm được hàng loạt các nước ở Đông Âu. Họ dùng lưỡi lê và xe tăng, áp đặt cho Dân chúng ở đó, những Nhà nước Cộng sản. Những Nhà nước đó, không hợp với tâm nguyện của Nhân dân sở tại. Cuối cùng, nhà tù cộng với sự đàn áp, kìm kẹp hết sức dã man, cũng phải chịu thua ý chí của Nhân dân. Trước khí thế của quần chúng, Những nhà nước CS ở đó, đã sụp đổ tan tành.

-Đảng CS chỉ biết đến mình. Quyền lợi của đất nước, họ vơ hết vào lòng. Chính quyền, họ độc chiếm. Nhưng nghĩa vụ và trách nhiệm, chẳng thấy họ nhận bao giờ. Quy luật “Âm – Dương hòa hợp”, không được tôn trọng. Khiến xã hội đảo điên – thiên hạ hỗn loạn.

-“Chọn lọc Tự nhiên”. Đó là, một trong những quy luật phát triển của sinh giới.

Những người CS, họ không tôn trọng quy luật này. Thể chế của họ, được xây dựng trên cơ sở độc tài. Họ chủ trương: Triệt hạ đối lập, để không phải cạnh tranh.

Cán bộ của họ: Không phải, được chọn lọc ra, từ những người có tài. Không phải, được Nhân dân chọn lọc ra, từ những cuộc bầu cử Tự do và Bình đẳng. Xã hội, được điều hành, bởi những cán bộ là “Con ông cháu cha” – bởi những kẻ được “cơ cấu”, do có nhiều tiền và nhắm mắt tuân theo lệnh cấp trên, “bất cần biết đúng sai”. Những loại dốt nát – mù quáng đó: Nói gì sai đấy – Làm đâu hỏng đó. Bởi thế, chính thể của họ, không thể bám rễ được vào cuộc sống. Dĩ nhiên, nó không có sức sống. Chính thể ấy, đã già nua, lại đầy bệnh hoạn. Đứng vững sao được.

-Trên thế gian này, thông thường: Nhà nước, quản lý xã hội phải bằngLuật pháp. Những người CS, họ làm ngược lại.

Trong 1 phiên điều trần trước Quốc hội, một vị Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, ngang nhiên phát biểu: “Ơ nước ta xử đúng cũng được, xử sai cũng được, xử hòa cũng được, xử thắng cũng được, xử thua cũng được. (nguồn: “Tính nghiêm minh của Pháp luật”).  Đó là, lời thú nhận công khai, giữa thanh thiên – bạch nhật, rằng: “Những người Cộng sản, đang quản lý xã hội trên cơ sở Luật rừng”. Và dưới chế độ CS, không còn có khái niệm, gọi là Công lý và Đạo lý.

Sơ qua như thế, để thấy: Những người CS, họ đang đi ngược với những quy luật của Tự nhiên – của Xã hội. Bởi thế, dẫu tạm thời họ còn đang tồn tại, trong một thực lực, có vẻ rất mạnh. Nhưng , 太强必折 . Tháicường – tất chiết . Cứng quá, chỉ tổ dễ gãy. Ăn thua gì. Tương lai, họ sẽ đi theo vết xe đổ của Nga xô và các nước CS Đông Âu. Đó là 1 điều chắc chắn. Vấn đề còn lại, chỉ là nhanh hay chậm mà thôi.

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội .

Điện thoại : 0168-50-56-430.

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 1: Văn sư.

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó  –  Bài 1: Văn sư.

Nguyễn Tiến Dân

27-10-2014

Đôi lời của tác giả: “Lục thao”, là 1 trong “7 bộ Binh pháp kinh điển” của Trung hoa cổ đại (Võ kinh thất thư). Không dừng lại, ở việc luận binh. “Lục thao”, còn dạy các bậc Đế vương, cách trị nước – an dân. Đọc “Lục thao”, ta sẽ hiểu, vì sao các thể chế Dân chủ, trường tồn và ngày càng phát triển bền vững. Tại sao, các thể chế độc tài, ngày càng thưa hiếm và suy vong. Ngẫm vào thực trạng của Đất nước, ta sẽ thấy, tương lai của đảng CS Việt nam, “tươi sáng” đến mức nào.

Xin lần lượt, giới thiệu “Lục thao”, với bạn đọc.

VĂN SƯ

Thiên này, thuật chuyện gặp nhau lần đầu, giữa Chu Văn vương và Khương Tử nha. Chu Văn vương, là vị Vua, giỏi đến mức, có thể đặt lời thoán, chú thích cho “Chu dịch”. Nhưng, chưa bao giờ vỗ ngực, tự cho rằng, mình là “đỉnh cao trí tuệ của Nhân loại”. Vì đại nghiệp diệt Thương, ông xuống mình, “cầu hiền như khát”. Khương Thái công, hung hoài thao lược. Chỉ hận, chưa gặp được minh chủ. Bèn về chốn sơn cùng – thủy tận, câu cá – đợi thời.

Chí lớn, gặp nhau. Bởi thế, sơ kiến mà đã như cố tri. Hai người, thảo luận sách lược thu phục thiên hạ. Mục tiêu và các biện pháp thi hành. Họ, dùng ngay việc câu cá, làm đề tàì, để triển khai thảo luận.

Biết Văn vương còn do dự, bởi nhà Thương quá mạnh. Khương Thái công, ngầm chi rõ: Đó chỉ là, cái mẽ ngoài. Sự thực, Thương triều đã mục ruỗng, đến tận xương – tận tủy. Nhà Chu, nên thừa cơ, mà đoat thủ thiên hạ. Muốn thu phục được Thiên hạ, phải có người đứng đầu, để tập hợp quần chúngNgười này, phải có đầy đủ cả Nhân – Đức – Nghĩa – Đạo. Những phẩm chất này, Trụ vương của nhà Thương không có. Trong khi, Văn vương đủ đầy.

Hai người, đồng quan điểm: Đất nước, phải là của Nhân dân (Dân chủ) và phải để cho mọi người, được “Ngôn luận tự do”.

文师

文王将田,史编布卜曰:“田于渭阳, 将大得焉. 非龙, 非螭, 非虎, 非羆,兆得公侯. 天遗汝师, 以之佐昌, 施及三王”。Văn vương tương điền, sử Biên bố bốc viết : “Điền vu Vị dương, tương đại đắc yên. Phi long, phi li, phi hổ, phi bi, triệu đắc công hầu. Thiên di nhữ sư, dĩ chi tá xương, thi cập tam vương”

Văn vương muốn đi săn. Ngài sai sử Biên, đoán cát hung. Sử Biên gieo quẻ, rồi bẩm lại: “Đến bờ bắc của sông Vị thủy,  Đại vương sẽ thu hoạch được rất lớn. Không phải được rồng, đươc li (Theo truyền thuyết, giống như rồng, sắc vàng, không có sừng), không phải được hổ, được gấu. Điềm báo, đươc công hầu, mà trời dành riêng, để làm quân sư cho Đại vương. Vị công hẩu này, sẽ giúp Đại vương, hưng nghiệp tận ba đời”

文王曰: “兆致是乎?”  Văn vương viết: “Triệu chí thị hồ”

Văn vương hỏi: “Điềm tốt đến thế sao ?”

史编曰: “编之太祖史畴为禹占, 得皋陶, 兆比于此” . Sử Biên viết : “Biên chi Thái tổ sử Trù, vi Vũ chiêm, đắc Cao Đào. Triệu tỉ vu thử”

Sử Biên đáp: “Xưa, Thái tổ của thần là sử Trù, chiêm bốc cho vua Vũ. Quẻ ấy, báo đươc quý nhân Cao Đào. Điềm hôm nay, giống như vậy”

文王乃斋三日, 乘田车, 驾田马, 田于渭阳, 卒见太公, 坐茅以渔 . Văn vương nãi trai tam nhật, thừa điền xa, giá điền mã, điền vu Vị dương. Tốt kiến Thái công, tọa mao dĩ ngư

Mừng quá, Văn vương bèn trai giới ba ngày. Sau đó, sai sửa soạn loan giá (xe Vua), để ông mang đi đón hiền tài, ở bờ bắc của sông Vị thủy. Đến đó, ngài thấy Thái công, đang ngồi trên đám cỏ lau um tùm, để câu cá. Lưỡi câu đã thẳng, không mắc mồi, lại còn để trên  mặt nước. Tai lắng nghe chim hót, mắt nhắm nghiền suy tư.

文王劳而问之, 曰: “子乐渔耶?” . Văn vương lao nhi vấn chi, viết: “Tử lạc ngư da”

Thấy lạ, Văn vương xuống ngựa. Lệnh cho tùy tùng đứng ngoài. Ngài vất vả, tự tay rẽ cây mở đường, vào để gặp Thái công. Gặp rồi, mới hỏi thăm rằng : “Ông lão, ông thích câu cá theo kiểu gì, mà lạ vậy ?”

太公曰: “臣闻君子乐得其志, 小人乐得其事”. Thái công viêt: “Thần văn quân tử lạc đắc kì chí, tiểu nhân lạc đắc kì sự”.

Thái công đáp: “Thần nghe, người quân tử, chỉ mãn nguyện, khi thỏa được chí của minh. Kẻ tiểu nhân, chỉ vui, khi được việc của mình”.

Sinh thời, trung tướng Trần Độ, “Những mơ xóa ác ở trên đời”. Cho nên, nguyện “phó thân cho đất trời”, để đi làm “cách mạng”. Đất nước đã thống nhất. Nhưng, nhận thấy: Dưới chế độ mới, cái ác, không có bị mất đi. Nó lại luân hồi. Chí chưa thỏa. Ông tiếp tục đấu tranh. Cho dù, bị mất hết mọi quyền lợi của cá nhân. Thật là, 1 vị Chính nhân – Quân tử.

Đối nghịch với Trần Độ. Biết bao nhiêu kẻ, sẵn sàng, làm những việc táng tận lương tâm. Miễn sao, chúng giữ được, cái ghế quyền lực của mình.

今吾渔甚有似也, 殆非乐之也 . Kim ngô ngư thậm hữu tự dã, đãi phi lạc chi dã.

Nay, thần ngồi câu cá ở đây, cũng vậy. Mệt mỏi và không vui thú gì, với việc đi câu.

文王曰: “何谓其有似也?”.  Văn vương viết: “Hà vị kì hữu tự dã?”

Văn vương hỏi: “Sao lại cho rằng, có sự giống nhau ở đây?”

太公曰: “钓有三权, 禄等以权, 死等以权, 官等以权”. Thái  công viết : “Điếu hữu tam quyền: Lộc đẳng dĩ quyền – Tử đẳng dĩ quyền – Quan đẳng dĩ quyền”

Thái công trả lời : “Những tay câu thiện nghệ, đều hiểu: Muốn câu cá gì, phải sắm thính – luyện mồi, cho phù hợp với sở thích của loài cá đó. Thánh nhân, chiêu nạp hiền tài, giúp mình mưu việc lớn, cũng phải làm như vậy :

+Có kẻ theo ta, mong hưởng bổng lộc. Hãy lấy nhà đất, lương bổng, sổ hưu ra, mà chiêu dụ nó.

+Có người theo ta, để giúp dân – cứu nước. Gian khó, họ không sờn lòng. Hi sinh, họ không quản ngại. Hãy khắc thẻ tre, lưu danh họ vào lịch sử. Hãy lập đền thờ, để dân chúng, muôn đời hương khói cho họ. Người đã khuất rồi. Nhưng vợ con họ, vẫn còn đó. Nhớ thay mặt người ta, mà chăm sóc cha me – vợ con họ, cho đàng hoàng – tử tế. Chớ nói đãi bôi – Đừng làm lấy lệ.

+Lại có người, nghiện quyền lực, mà đi theo ta. Hãy lấy chức tước, mà ban cho họ.

, thì cho làm đội trưởng đội thiếu nhi. Lớn, hãy lấy lon thượng – đại tướng ra, mà phong bừa phứa cho họ. Hãy lấy nhôm mỏng, dập thànhhuân – huy chương, rồi gắn chi chit lên ngực họ. Già rồi, cũng phải dựng lên những hội hữu danh – vô thực như: hội khuyến họchội bảo vệ người tiêu dùng … rồi ấn họ vào đấy. Loại này, ngồi không dễ sinh tật. Nhưng chớ trao quyền lực, để chúng phục vụ nhân dân, cho đến “hơi thở cuối cùng

夫多久以求得也, 其情深, 可以观大矣 . Phù đa cữu dĩ cầu đắc dã, kì tình thâm, khả dĩ quan đại hĩ

Người ta đi câu, lâu mau – nhiều ít, khoan hẵng nói. Nhưng, ai cũng mong được cá. Đó là, chân lí sâu xa .Từ việc ngồi câu cá, ta có thể, ngẫm ra nhiều việc lớn trong Thiên hạ.

文王 曰: “愿闻其情” . Văn vương  viết : “Nguyện văn kì tình”

Văn vương : “Xin rửa tai, lắng nghe”

太公曰: “源深而水流, 水流而鱼生之, 情也”. Thái công viêt: “Nguyên thâm nhi thủy lưu, thủy lưu nhi ngư sinh chi, tình dã”

Thái công chỉ dòng Vị Thủy, mà nói rằng: “ Đầu nguồn sâu, lưu vực rộng thì con sông đầy nước. Sông đầy, thì đưa dòng phù sa, đi nuôi dưỡng, cho những cánh đồng phì nhiêu. Đưa nguồn thức ăn dồi dào, đi nuôi dưỡng các loài cá tôm. Khiến chúng sinh sôi – phát triển. Đó là, lý Tự nhiên”.

根深而木长, 木长而实生之,情也 . Căn thâm nhi mộc trường, mộc trường nhi thực sinh chi, tình dã

Ngài chỉ 1 cây cao, trên bờ Vị Thủy, mà tiếp rằng: “Rễ có sâu, thì cây mới có thể vươn cao. Cây càng vươn cao, thì lượng gỗ sinh ra càng nhiều. Đó là, lý Tự nhiên”.

Cây có bộ dễ chùm, càng cố vươn cao, càng dễ bị bão quật ngã. Những chính thể, không bám rễ được vào cuộc sống, càng “phát triển nóng” bao nhiêu, càng chóng sụp đổ bấy nhiêu. Đó cũng là, lý Tự nhiên.

君子情同而亲合, 亲合而事生之, 情也. Quân tử tình đồng nhi thân hợp, thân hợp nhi sự sinh chi, tình dã.

Chậm rãi nhìn Văn vương, Thái công nói tiếp: “Những người Quân tử, họ có lí tưởng tương đồng. Những cách biệt về địa lí, những khác biệt về xuất thân, không thể ngăn được họ kết thân với nhau. Kết thân được với nhau, họ sẽ phát huy được thế mạnh của mỗi người. Nhân dân và Đất nước, đang chờ những quyết sách của họ. Đó là, Chân lí”.

言语应对者, 情之饰也 . Ngôn ngữ ứng đối giả, tình chi sức dã.

Trong một cộng đồng, lời ta nói ra, nhiều người hiểu. Nhưng nỗi lòng ta, mấy ai biết cho. Bởi vậy, người ta phải dùng ngôn ngữ – chữ viết, để biểu đạt tình cảm.

言至情者, 事之极也 . Ngôn chí tình giả, sự chi cực dã.

Lời nói chí tình, bao giờ cũng xuất phát từ trái timNgười ta dùng nó, để góp ý chân thành với nhau. Lời nói chí tình, có thể, đẩy sự việc, đi theo hai hướng trái ngược nhau:

+Gặp những người nhỏ nhen, họ sẽ ghét ta. Bởi, họ cho rằng, ta cố tình bới móc, dạy khôn, đố kị và nói xấu họ. Ai đã từng góp ý (phản biện) về bô xit, về xây mới tòa nhà quốc hội, về điện hạt nhân…chắc thấu hiểu điều này.

+Gặp những người đại lượng, họ sẽ cảm ơn ta. Bởi, ta làm cho họ, tỉnh táo nhìn lại mình. Gạn đục – Khơi trong, họ sẽ không mắc, những sai lầm ngớ ngẩn. Không có tấm gương, ai mà nhìn thấy vết nhọ, ngay trên trán của mình? Không cám ơn tấm gương, sao được.

今臣言至情不讳, 君其恶之乎? Kim thần ngôn chí tình bất húy, quân kì ố chi hồ?

Nay, thần sẽ nói, những lời chí tình, không kiêng nể. Đại vương, có muốn nghe không ? Nghe rồi, có truy chụp thần không ?

(Ngay từ đầu, Khương Tử Nha đã đề xuất với Văn vương: Hãy để cho những người xung quanh, được nói thẳng chính kiến của mình. Nói cách khác, hãy để cho họ, được Tự do ngôn luận. Không biến họ, thành những con vẹt. Nói những lời, không phải suy nghĩ thực của lòng mình).

文王曰: “惟仁人能受直谏, 不恶至情. 何为其然”. Văn vương viết: “Duy nhân nhân năng thụ trực gián, bất ố chí tình. Hà vi kì nhiên?”

Văn vương nói: “Chỉ những người nhân nghĩa, mới có khả năng tiếp thu, những lời can gián ngay thẳng – chân thành. Họ đâu ganh ghét, đố kị với những người khuyên can họ. Đó, chẳng phải là lẽ tự nhiên ư?”

太公曰: “缗微饵明, 小鱼食之”. Thái công viết: “Mân vi nhĩ minh, tiểu ngư thực chi”

Thái công trả lời: “Dùng chỉ làm dây câu – dùng hạt cơm làm mồi. Người ta, chỉ câu được cá thầu dầu, thòng đong, cân cấn. Giỏi lắm, thì được con cá mài mại”.

缗调饵香, 中鱼食之 .  Mân điều nhĩ hương, trung ngư thực chi.

Dùng cước làm dây câu – dùng giun làm mồi. Người ta, có thể câu được cá trê – cá chép.

缗隆饵丰, 大鱼食之.  Mân long nhĩ phong , đại ngư thực chi.

Dùng cáp lụa làm dây câu – dùng con chó, con vịt làm mồi. Người ta, có thể ra khơi, mà câu cá mập – săn cá sấu.

夫鱼食其饵, 乃牵于缗. Phù ngư thực kì nhĩ, nãi khiên vu mân.

Con cá kia, tham mồi. Nên, bị trói buộc, bởi dây câu.

人食其禄, 乃服于君. Nhân thực kì lộc, nãi phục vu quân.

Con người ta, ăn lộc của Nhà nước, nên phải phục vụ Vua.

故以饵取鱼, 鱼可杀 . Cố dĩ nhĩ thủ ngư, ngư khả sát

Dùng mồi đi câu, ta có thể bắt được cá.

以禄取人, 人可竭. Dĩ lộc thủ nhân, nhân khả kiệt.

Dùng bổng lộc đãi người. Người ta, có thể tận tâm – kiệt lực với ta .

以家取国, 国可拔. Dĩ gia thủ quốc, quốc khả bạt.

Làm cho vài kẻ có chức – có quyền, ở cái nước man di – mọi rợ kia, được “vinh thân – phì gia”. Nước ấy, chiếm dễ như bỡn. (Nhưng, có giữ được hay không, lại là chuyện khác hẳn) .

以国取天下, 天下可毕 Dĩ quốc thủ thiên hạ, thiên hạ khả tốt

Đem quyền lợi của nước này, dâng cho nước khác. Đem tử huyệt của nước nọ, nói với nước kia. Rồi xúi giục, xúc xiểm chúng đánh nhau. Đã đánh nhau, là sứt đầu – mẻ trán, là kiệt quệ. Khi kiệt quệ, tất phải nhờ ta, đứng ra dàn xếp. Việc thiên hạ, do ta dàn xếp. Thiên hạ ấy, không phải của ta, thì hỏi rằng: Thiên hạ ấy, là của ai?

Nhớ khi xưa:

Trung cộng, xua quân đánh chiếm Hoàng sa của Việt nam. Tàu chiến của Đệ thất Hạm đội, đã lừng lững tiến vào, định can thiệp. Ta biết rất rõ: Chỉ cần, có sự hiện diện của Hải quân Hoa kì (không cần họ nổ súng), “ bố bảo”, Trung cộng cũng không bao giờ, dám đánh chiếm Hoàng sa. Nhưng cuối cùng, tàu chiến Hoa kì, được lệnh rút ra. Để mặc đồng minh VNCH, chiến đấu anh dũng trong tuyệt vọng. Và để mất Hoàng sa. Hoa kì, không đến nỗi, “Giữa đường, thấy sự bất bình, chẳng tha”. Họ cũng thừa biết, cái giá phải trả, cho việc đánh mất chữ tín, khi bỏ mặc đồng minh.

Nhưng ở đây, họ có chủ ý. Vì, đó là bài “Vứt xương, cho sư tử cắn nhau”. Hoàng sa, rõ ràng không phải của Mĩ. Nhưng miếng mồi này, lại được Mĩ, sử dụng 1 cách cực kì thâm – hiểm :

+Trung quốc, chẳng có chứng cớ pháp lí vững chắc nào, để khẳng định, Hoàng sa là của họ. Phi nghĩa, nhưng lại cướp được Hoàng sa, 1 cách quá dễ dàng.Trung cộng, làm gì mà không biết, có sự tiếp tay của Hoa kì. Dĩ nhiên, phải chịu ơn họ. Chịu ơn Hoa kì, quà ra mắt: Chống LX mạnh hơn. Bức tường “đoàn kết” trong phe cộng sản, sẽ nứt thêm một mảng to tướng.

+Mâu thuẫn giữa giữa Việt nam DCCH và Trung quốc, từ nay, sẽ hết sức căng thẳng. Họ, sẽ luôn gầm ghè nhau. Sức mạnh của họ, bởi thế sẽ giảm đi đáng kể.

+Bắc Việt ở thế kẹt :

-Nếu không nói ra, sẽ bị hiểu là bán nước . Đồng thời, Trung quốc sẽ có cớ, để nói Hoàng sa là của họ

-Nói ra, Trung quốc chắc chắn cũng không hoàn trả Hoàng sa. Đã thế, còn mất đi viện trợ. Trong khi, Bắc Viêt đang hết sức cần đến nguồn viện trợ này . Để “giải phóng Miền nam – thống nhất Đất nước”.

-Hậu quả, Nhân dân Miền nam nói riêng và Nhân dân cả nước nói chung, mất đi thiện cảm, với chính phủ VNDCCH và Mặt trận DTGPMN.

Tình hình biển Đông, ngày càng phức tạp. Chứng tỏ, người Mĩ hết sức cao tay. Những con diều hâu ở Bắc kinh, đã tỏ ra hết sức sốt ruột. Chúng, liên tục gây hấn. Còn người Mĩ, dùng đúng bài của Trung cộng khi xưa: “Mi không đụng đến ta, thì ta cũng không đụng đến mi”. Và tuyên bố, đứng ngoài tranh chấp lãnh thổ. Sự thực, có phải như thế không? Ngàn lần Không. Hoa kì đang ung dung, chờ gặt hái thành quả của mình. Bắc kinh chưa nổ súng, nhiều nước đã xun xoe, chạy đến cầu cạnh Hoa kì. Trước kia, đuổi họ đi. Nay, năn nỉ, mời họ vào. Chỗ đứng chân của Hoa kì, trong Chiến lược toàn cầu, đã trở nên quá vững chắc. Chưa kể tình huống: Bắc kinh do bị ấm đầu, mà khai chiến ở Biển Đông. Họ chưa chắc, đã chiếm được Trường sa. Nhưng, có thể khẳng định, 1 cách chắc chắn rằng: Cả khu vực này, sẽ tình nguyện, xin nằm trong mặt trận chung, để chống Trung quốc. Tất nhiên, do Hoa kì đứng đầu. Tấm lưới, mà Hoa kì tung ra, để bao vây Trung quốc, đã dần được xiết chặt.

Đây có thể, được coi là, mẫu mực của sách lược “Dĩ quốc thủ thiên hạ”

呜呼, 曼曼绵绵, 其聚必散.  Ô hô,man man miên miên, kì tụ tất tán.

Ô hô, Thương triều kia, từ khi tụ nghĩa, để khởi binh – lập nghiệp đến nay, thời gian đã quá dài. Thành cao – hào sâu; binh hùng – tướng hổ, ăn thua gì. Chẳng qua, chỉ là cái mẽ ngoài. Thực chất, dân chúng ghê tởm, họ đang quay lưng – sĩ phu khinh bỉ, họ đã ngoảnh mặt. Xã hội thối nát – quan lại bạo tàn. Mục ruỗng, đến tận xương – tận tủy rồi. Đã đến lúc:

Mây tán   –  Tuyết tan  –  Hoa tàn   –  Trăng lặn .

嘿嘿昧昧, 其光必远.  Mặc mặc muội muội, kì quang tất viễn

Trong đêm đông âm u và lạnh lẽ, ánh hào quang, phát ra từ ngọn Hải đăng, sẽ được người ta, trông thấy từ rất xa. Giữa cái tối tăm – mù mịt đến mức đặc quánh của nhà Thương, với ánh hào quang, vừa mới nhen nhóm của nhà Chu. Không nói, Thiên hạ cũng biết, phải đi theo con đường nào.

微哉! 圣人之德, 诱乎独见. 乐哉! 圣人之虑, 各归其次, 而树敛焉 . Vi tai! Thánh nhân chi đức, dụ hồ độc kiến. Lạc tai! Thánh nhân chi lự, các qui kì thứ, nhi thụ liễm yên.

-Thánh nhân, chỉ có mỗi 1 cách, để thể hiện Đức hạnh của mình: Hãy làm, cho quần chúng thấy – Thấy rồi, người ta sẽ tin – Tin rồi, người ta sẽ yêu quí và kính trọng mình.

Xin hãy 1 lần, nghe theo lời khuyên của Tổng thống Việt nam Cộng hòa, ông Nguyễn Văn Thiệu. Để, nhìn vào việc làm của lãnh đạo CS:

Ông thì nhìn thấy sâu – mà không dám bắt. Ông thì nhìn thấy chuột – nhưng chẳng dám đập. Ông thì hứa: “không chống được tham nhũng, xin từ chức” – nhưng rồi thấy, ông xù. Ông Chủ tịch Quốc hội quyết sai – ông bắt Dân, phải chịu trách nhiệm thay mình.

Từ trên xuống dưới, rặt 1 loại võ mồm. Chuyên ăn tục – nói phét. Làm gì có Đức hạnh, mà bắt Dân tin.

-Thánh nhân, ngày đêm trăn trở. Sung sướng gì hơn, khi chứng kiến, dòng người trong Thiên hạ, lũ lượt đổ về theo mình. Nhân tâm tụ hợp. Đó là, điều kiện tiên quyết, cho việc “dựng công – lập nghiệp”.

文王曰: “立敛若何,而天下归之?”. Văn vương viết: “Lập liễm nhược hà, nhi thiên hạ qui chi?”

Văn vương hỏi: “Thánh nhân, phải tạo lập ở mình, những phẩm chất gì, khiến Thiên hạ, họ tự nguyện theo?”.

太公曰: “天下非一人之天下, 乃天下之天下也. Thái công viết: “Thiên hạ phi nhất nhân chi thiên hạ, nãi thiên hạ chi thiên hạ dã”.

Thái công đáp :  “Thiên hạ, không phải là của riêng của 1 người, hoặc là của riêng của 1 nhóm người.Thiên hạ, là của người trong Thiên hạ”. Nói cách khác, chính những người DÂN, đang sinh sống trên đó, mới là CHỦthể của Thiên hạ. Và, muốn thu phục được Thiên hạ, khoan hẵng nghĩ đến mình. Đầu tiên, phải học cách cúi đầu trước Thiên hạ.

Cách đây mấy nghìn năm, giữa thời phong kiến thối nát, luôn coi, Thiên hạ là của Vua. Khương Tử nha, đã nêu ra luận điểm, hoàn toàn trái ngược: “Thiên hạ là của Dân”. Thật là tuyệt vời. Rõ ràng, Khương Tử nha, đã đi trước thời đại. Nhà Chu, tiếp thu ý tưởng “Dân chủ” của Khương Tử Nha. Sửa đổi cho phù hợp và thi hành tốt điều này. Nên, tồn tại khoảng 800 năm (Lâu gấp 14 lần, so với Liên xô – “Thành trì” của phe XHCN)

同天下之利者, 则得天下 .  Đồng thiên hạ chi lợi giả, tắc đắc thiên hạ.

Ai, có khả năng, chia cho mọi người, cùng hưởng thụ nguồn lợi của Thiên hạ. Người đó, sẽ chiếm được Thiên hạ.

Ở các nước, theo thể chế Dân chủ, tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên…được công khai cho toàn dân biết. Được đưa vào quỹ an sinh xã hội. Người ta dùng nó, để chi trả cho Giáo dục, cho Y tế, cho Trị an, cho chăm sóc Môi trường…Vì thế: Trẻ con, đi học không mất tiền. Thất nghiệp, có Nhà nước trợ cấp. Đau ốm, được chăm sóc thuốc men cộng với tình thương mến. Nhân dân, yêu quí Nhà nước. Những Nhà nước ấy, sụp đổ sao được.

擅天下之利者, 则失天下 . Thiện thiên hạ chi lợi giả, tắc thất thiên hạ.

Ngược lại, nguồn lợi của Thiên hạ, mình khư khư độc chiếm. Chuyện mất Thiên hạ, chỉ là vấn đề thời gia .

Ông Saddam Hussein và ông Gaddafi đều có một điểm chung: Tất cả, mọi quyền lợi kinh tế – chính trị – văn hóa của đất nước, đều được đem gom hết vào mình, vào gia đình mình, vào cánh hẩu của mình.Tóm lại là độc tài. Kết quả: Không những mất Thiên hạ, mà bản thân ?

Một người, bị quần chúng tóm cổ, lôi ra khỏi ống cống. Van lạy, cũng không được tha. Giữa thanh thiên – bạch nhật, bị đập chết, một cách thê thảm. Xác, được trưng bày, trong lò mổ xúc vật.

Người kia, may mắn hơn chút xíu . Được đem ra xét xử, một cách đàng hoàng. Nhưng cuối cùng, đâu có thoát được, cái thòng lọng của giá treo cổ.

Đảng CS Việt nam, đâu có kém cạnh gì những ông đó. Quyền lợi của Đất nước, họ vơ hết vào lòng. Chính quyền, họ độc chiếm. Tương lai của họ, là con đường, mà 2 ông kia đã đi.

天有时, 地有财, 能与人共之者, 仁也. Thiên hữu thời, địa hữu tài. Năng dữ nhân cộng chi giả, NHÂN  dã.

Trời, cho con người ta thời cơ – Đất, cho con người ta sản vât. Biết đem chia những thứ đó, cho mọi người cùng hưởng. Thế mới là, có NHÂN.

Nói về tuyển chọn cán bộ. Ở Việt nam, không ai không biết đến “tứ ệ”: Hậu du(con ông cháu cha) – Tiền t – Quan h – Trí tu. Những người thực tài, họ rất ít có cơ hội, để được phục vụ Tổ quốc – phục vụ Nhân dân.

Việt nam, hút được dầu mỏ. Nhưng, dân chúng, chẳng hề biết, bán được bao nhiêu tiền và tiền ấy, được dùng vào việc gì. Chỉ biết, họ vẫn phải mua xăng, với giá thành, mà thuế và phí, đã chiếm non nửa trong số đó.

Đâu dễ gì thuyết phục, để Nhân dân tin rằng, những người CS, họ có NHÂN.

仁之所在, 天下归  之.  Nhân chi sở tại, thiên hạ qui chi.

Ở đâu có NHÂN, Thiên hạ sẽ theo về đấy. Những kẻ bất Nhân, Thiên hạ sẽ quay lưng – ngoảnh mặt.

免 人之死, 解人之难, 救人之患, 济人之急者, 德也 . Miễn nhân chi tử, giải nhân chi nan, cứu nhân chi hoạn, tế nhân chi cấp giả , ĐỨC dã.

Phải khoan dung – độ lượng. Tháo gỡ, những khó khăn cho người dân. Cứu họ, trong cơn hoạn nạn. Tiếp tế, khi họ gặp cảnh thiên tai. Làm được tất cả những cái đó, Đại vương đã để ĐỨC cho Thiên hạ.

Công an CS, bắt dân lành vì những tội tào lao. Vào nha môn, khỏe mạnh. Lúc ra, chỉ là cái xác, không hồn. Không phải 1, mà là nhiều. Nhiều như thế, nhưng chẳng thấy kẻ nào, bị đền tội. Ngược lại, người Dân có lỗi tí ti, họ bị hành hạ lên bờ – xuống ruộng. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.

Không những, không tìm cách tháo gỡ khó khăn cho người dân. Chế độ CS, luôn tìm mọi cách, để hành Dân. Cán bộ của họ, thản nhiên dạy nhau: “Việc dễ, không làm cho khó, lấy đâu thịt chó mà ăn”. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.

Khi người ta đau yếu, không có tiền, đừng mong được bệnh viện CS cứu chữa. Không có phong bì, đừng mong có thái độ ân cần. 3 đến 4 thằng dân đen, nằm chung 1 giường bệnh, là chuyện bình thường. Tính mạng của chúng, đáng kể gì. Bao nhiêu kinh phí, còn phải dồn cho cán bộ CS. Để, họ được đi chữa bệnh, ở những bệnh viện tốt nhất thế giới. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.

Khi người ta, gặp thiên tai – địch họa. Lâm vào cảnh, màn trời – chiếu đất. Cán bộ CS, cũng chẳng bỏ lỡ dịp, để xà xẻo cả vào tiền cứu trợ của cộng đồng. Họ “Ăn của dân, không chừa 1 thứ gì”(Lời bà Nguyễn Thị Doan). Chỉ có chế độ thất đức, mới sinh ra những loại cán bộ như vậy.

德之所在, 天下归之 . Đức chi sở tại, thiên hạ qui chi.

Phải có Đức, Thiên hạ mới theo. Nếu Đại vương thất Đức. Dẫu có bị kề gươm vào cổ, Thiên hạ, người ta cũng không đi theo Đại vương.

与人同忧同乐, 同好同恶者, 义也 .  Dữ nhân đồng ưu đồng lạc, đồng hiếu đồng ố giả , NGHĨA  dã

Biết cảm thông, mà không hả hê với nỗi đau của người khác. Biết hân hoan, mà không ganh ghét với thành công của họ. Cùng sở thích với Thiên hạ. Cùng ghét cay ghét đắng, những gì Thiên hạ không ưa. Làm được như thế, gọi là có NGHĨA.

Trên đời, ai cũng muốn, làm những việc mình say mê. Làm rồi, phải được hưởng thành quả. Không ai muốn, bị kẻ khác cướp công.

Câu chuyện anh em Đoàn Văn Vươn, ở Tiên lãng – Hải phòng, là 1 ví dụ nổi bật, để thấy cái NGHĨA của những người CS.

义之所在, 天下赴之. Nghĩa chi sở tại, thiên hạ phó chi.

Đại vương có nghĩa, bá tính trong Thiên hạ, họ sẽ giao phó tính mạng – của cải – tài sản cho Đại vương.

Bạn cho chính quyền CS vay tiền của – cho họ mượn tài sản ư? Hãy tin tưởng 1 điều: Họ, sẽ không bao giờ, hoàn trả lại bạn. Đi đòi ư? Nhà tù của chế độ, còn rộng chỗ lắm. Họ sẽ vu oan – giáng họa, để tống bạn vào. Bạn mong chờ điều chi, khi lũ “Đầu trộm – đuôi cướp”, chúng lại ngồi, ở ghế quan tòa?

凡人恶死而乐生, 好德而归利, 能生利者, 道也 . Phàm nhân ố tử nhi lạc sinh, hiếu đức nhi qui lợi. Năng sinh lợi giả, ĐẠO dã.

Con người ta, không ai thích chết chóc, bệnh tật, nghèo hèn, thiên tai, mất mùa, thi trượt, lỗ vốn, khổ nhục, tù tội…Ai cũng thích được sống lâu, khỏe mạnh, phú quí, được tôn vinh, hiển danh. đắc ý, làm ăn phát tài, học hành tấn tới…Ai, cũng quí trọng, người nhân đức – việc nhân nghĩa. Nhưng trên hết, người đời hành động, theo cái lợi của riêng mình. Giúp dân, sinh lợi và trừ hại cho họ, đại vương, đã thực sự : “thế Thiên hành Đạo rồi”.

Khi dân bị hại, chính quyền không trừ được hại cho họ. Người xưa, đã xếp chính quyền ấy, vào loại vô Đạo. Trên cả mức ấy, có chính quyền chuyên làm hại dân – hại nước. Nhưng, chưa thấy người xưa, đặt ra cái thứ hạng gì, để có thể, xếp nó vào?

道之所在, 天下归之.  Đạo chi sở tại, thiên hạ qui chi.

Ở đâu có đạo, Thiên hạ sẽ theo về.

文王再拜曰: “允哉, 敢不受天之诏命乎!” 乃载与俱归. 立为师 . Văn vương tái bái viết: “ Doãn tai, cảm bất thụ thiên chi chiếu mệnh hồ !” Nãi tải dữ câu qui. Lập vi sư.

Văn vương, bái tạ 2 lần, rồi nói: “Nghe tiên sinh giảng giải, khác nào, như quét được đám mây mù, mà trông thấy trời xanh. Ta đâu dám, không tiếp thụ, chiếu mệnh của Ngọc Hoàng thượng đế”. Nói đoạn, mời Khương Thái công, ngồi cùng xe, hồi triều. Lập làm quân sư.

Lời bàn:

-Quản Trọng, là Tể tướng của nước Tề, thời Xuân Thu. Ông đã từng tổng kết: 争天下者, 必先争人 – tranh Thiên hạ giả, tất tiên tranh nhân. Nghĩa là, muốn thu phục được Thiên hạ, đầu tiên, phải nghĩ đến chuyện giành dân.

Nhà buôn, muốn bán được hàng, bao giờ, họ cũng tìm mọi cách, để chiếm được tình cảm của khách hàng. Họ cải tiến mẫu mã – tăng chất lượng hàng hóa – giảm giá thành và tăng chất lượng dịch vụ. Họ biết, không làm tốt việc đó, chỉ có mỗi con đường: Phá sản và đi ăn mày. Đối với nhà buôn, không vui sướng gì hơn, khi chứng kiến cảnh khách hàng, ùn ùn đổ về mua và dùng sản phẩm của mình.

Trong bầu cử, ở các thể chế Dân chủ. Ứng cử viên nào, cũng phải vận động cử tri. Thuyết phục họ. Để họ tin mình, để họ theo mình và để họ dồn phiếu cho mình. Thắng cử rồi, họ tận tâm – tận lực, phục vụ Nhân dân. Những ông Chủ – bà Chủ của họ.

Những người CS, thì khác. Họ luôn tâm niệm 1 điều: “súng đã đẻ ra được chính quyền”, thì “súng cũng sẽ giữ được chính quyền”. Bởi thế, họ chỉ cần, tìm mọi cách để nắm lực lượng vũ trang và hết lòng chăm lo cho chúng. Đối với họ, quần chúng, chỉ là một con số 0 tròn chĩnh. Giỏi lắm, quần chúng là nơi để họ bóc lột – là nơi để họ sai khiến và là nơi, để họ bố thí của ôi thiu – dư thừa. Họ thản nhiên ăn trên – ngồi trốc trên đầu Nhân dân. Đó là, sai lầm chết người của CS. Không có ai dạy, để cho họ biết rằng: Không có Dân, chính quyền, chỉ như một con thuyền nằm trên bờ.

Nga xô và các nước CS Đông Âu sụp đổ. Những người CS, họ đổ riệt cho: “Âm mưu diễn biến Hòa bình” và “Các thế lực thù địch và phản động”. Xem ra, họ chẳng khác gì, những con đà điểu. Thích rúc đầu vào cát, để không muốn nhận ra, 1 sự thực rằng: Chính những ung nhọt, trong lòng chế độ CS và chỉ nó, mới có thể phá nát những chế độ CS. Ung nhọt đó, bắt nguồn từ chỗ: “bất Nhân – phi Nghĩa – thất Đức – vô Đạo”. Họ, không có, những phẩm chất của 1 bậc Đế vương. Nên dân chúng không theo. Mất dân, cho nên họ mất tất.

Ở Việt nam cũng vậy. Mấy triệu con người, đã phải gạt nước mắt, bỏ lại nhà cửa, bỏ lại người thân, bỏ lại Đất nước, mà ra đi. Họ, thà làm mồi cho cá mập, thà bị cướp biển giết chóc – cưỡng đoạt, chứ nhất định, không chịu sống dưới chế độ CS. “Chế độ CS, phải như thế nào, người ta mới bỏ đi ồ ạt như thế chứ”.

Khi bỏ nước, để đi tìm “mảnh đất hứa”: Người ta, chọn đến xứ, có “cờ 50 sao”. Chẳng ai chọn đến xứ có “cờ 5 sao” cả. Chẳng cứ cá nhân, các Nhà nước cũng vậy. Khi cần chọn đồng minh, ai cũng chọn Hoa kì. Không ai chọn Trung quốc. Tất nhiên, trừ nhà nước CHXHCN Việt nam. Bởi, người thông minh, họ phải biết, đi tới chỗ sáng. Nơi có NHÂN – NGHĨA – ĐỨC – ĐẠO. Chỉ có ngu dốt, mới chịu sa chân, để bước vào nơi tối tăm mù mịt.

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ: 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội

Điện thoại: 0168-50-56-430.

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 2: Doanh hư

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 2: Doanh hư

Nguyễn Tiến Dân

DOANH HƯ

Thiên này, thảo luận việc hưng – suy – trị – loạn của 1 quốc gia.

Việc đó, không phụ thuộc, vào mệnh Trời. Không phụ thuộc, vào vị trí địa lí của Quốc gia. Không phụ thuộc, vào tập quán sinh hoạt của người Dân. Việc đó, hoàn toàn phụ thuộc, vào người đứng đầu quốc gia. Người đứng đầu giỏi, Đất nước sẽ phồn vinh. Nhân dân, sẽ ấm no – hạnh phúc. Ngược lại, lũ hôn quân – vô đạo, chúng, sẽ đưa Đất nước, đến chỗ điêu tàn. Đẩy dân chúng tới chỗ lầm than.

盈虚

文王问太公曰: “天下熙熙, 一盈一虚, 一治一乱, 所以然者, 何也. Văn vương vấn Thái công viết: “Thiên hạ hi hi, nhất doanh nhất hư, nhất trị nhất loạn, sở dĩ nhiên giả hà dã?”

Văn vương hỏi Thái công: “Thiên hạ, vốn dĩ hỗn loạn và phức tạp. Quốc gia: Có lúc, hưng thịnh – Có lúc, suy vong. Đất nước: Có lúc, của cải dư thừa – Có lúc, chết đói đầy đường. Dân chúng: Có lúc, an cư – lạc nghiệp. Có lúc, loạn lạc – bất yên. Cơ sự ấy tại đâu?”

其君贤不肖不等乎, 其天时变化自然乎? Kì quân hiền bất tiếu bất đẳng hồ, kì thiên thời biến hóa tự nhiên hồ?

Vua hiền, hay Chúa u mê không giống nhau, mà sinh ra chăng? Hay tại thiên thời – tự nhiên biến hóa, mà thành ra như vậy?

太公曰: 君不肖, 则国危而民乱. 君贤圣, 则国安而民冶. 祸福在君不在天时. Thái công viết: “Quân bất tiếu, tắc quốc nguy nhi dân loạn. Quân hiền Thánh, tắc quốc an nhi dân trị. Họa phúc tại Quân, bất tại thiên thời”

Thái công đáp: “Người đứng đầu Đất nước, có Tài hèn – Chí cùn. Tầm nhìn thiển cận. Tư duy nhiệm kì. Đã thế, lại còn ích kỉ. Chắc chắn, Quốc nguy, mà Dân loạn. Người đứng đầu Đất nước, Tài giỏi – Thông minh, có tầm nhìn xa – trông rộng. Hết lòng vì Dân – vì Nước. Chắc chắn, Quốc an, mà Dân trị. Họa – phúc của 1 Quốc gia, tại Vua – tại Chúa – tại người lãnh đạo.Thiên thời vô can”.

Cứ gì Quốc gia. Bill Gates, khởi đầu sự nghiêp, gần như, với 2 bàn tay trắng. Ông, chỉ có trong tay, niềm đam mê. Chỉ có trong tay, trí tuệ sắc bén. Cộng với, đầu óc tổ chức, cực tài. Bây giờ, nói đến ông và Microsoft, ai mà chẳng biết. Chương trình Bô xít của chúng ta, có dàn lãnh đạo, quá tồi. Chưa làm, đã thấy cửa bại. Nhưng, vẫn đâm đầu vào. Để đến giờ, càng làm – càng chết.

Cứ gì Doanh nghiệp. Gia đình nào, có ông bố tài năng – đức độ, có bà mẹ đảm đang – tháo vát. Gia đình ấy, ắt thuận hòa, ăn gia làm nên. Ngược lại, ông bố bất tài – nghiện ngập, bà mẹ vụng về – cờ bạc. Dẫu có hàng núi vàng, gia đình ấy, vẫn lục đục, chẳng bao giờ yên.

文王曰: 古之贤君可得闻乎?Văn vương viết: “Cổ chi hiền quân, khả đắc văn hồ?”

Văn vương hỏi: “Cổ đại, vị nào, có thể được coi là Vua hiền?”

太公曰: 昔者帝尧之王天下也, 上世所谓贤君也. Thái công viết: “Tích giả, Đế Nghiêu chi vương thiên hạ dã, thượng thế sở vị hiền quân dã”

Thái công trả lời: “Cổ – kim, đều ca tụng Đế Nghiêu. Ngài xứng đáng, được coi là, vị Vua hiền”.

文王曰:其治如何? Văn vương viết:“Kì trị như hà” .

Văn vương hỏi: “Đế Nghiêu, trị lí thiên hạ ra sao?”

太公曰: 帝尧王天下之时. 金银珠玉不饰, 锦绣文绮不衣. Thái công viết: “Đế Nghiêu vương thiên hạ chi thời, kim ngân, châu ngọc bất sức; cẩm tú, văn ỷ bất y”.

Thái công trả lời: “Đế Nghiêu khi làm Vua: Ngài, không dùng vàng bạc – châu báu, làm đồ trang sức. Không dùng lụa là – gấm vóc, để may y phục. Quần áo mặc, không may vá – thêu thùa cầu kì”.

奇怪珍异不视. 玩好之器不宝. Kì quái trân dị bất thị, ngoạn hảo chi khí bất bảo.

Việc li kì, không nghe. Vật quí hiếm, không xem. Trong nhà, không tàng trữ bảo vật, như ngà voi – sừng tê. Cũng không chứa đồ đẹp đẽ – chế tác cầu kì, như trống đồng, bình vàng, chén ngọc. Việc đó, Ngài dặn lại con cháu, xui lãnh đạo CS, loại như ông Lê Khả Phiêu. Để, ông ấy làm.

淫佚之乐不听, 宫垣屋室不垩. Dâm dật chi nhạc bất thính, cung viên ốc thất bất ác.

Nhạc dâm dật, không nghe. Thi Hoa hậu, không xem. Giữa thanh thiên – bạch nhật, trai gái, ôm riết lấy nhau, mà đú đởn trước liệt tổ – liệt tông, Ngài cấm chỉ. Hành vi đó, Ngài đóng hòm, cho xuất khẩu, sang Bộ Văn hóa của nước Nam.

Phòng Ngài ở: Tường, không cho bả – Vách, chẳng cho sơn. Xem ra, tư dinh của Ngài, chẳng bằng cái bếp, trong biệt thự của ông Bùi Thanh Quyến. Bí thư của 1 tỉnh, nhỏ xíu ở Việt nam.

甍、桷、椽、楹、不斫,茅茨偏庭不剪. Manh, giác, chuyên, doanh bất chước; Mao tỳ biên đình bất tiễn.

Cột, kèo, rui, mè để dựng nhà, Ngài không cho đẽo gọt – chạm trổ cầu kì. Mái điện, lợp bằng cỏ gianh. Nếu có lòa xòa, cũng chẳng cần cho cắt tỉa.

Thế mới hay, người xưa, chẳng biết thưởng ngoạn. Cung điện của Ngài, sánh sao cho được, với Hội trường Ba đình của Việt nam. Vậy mà, những người CS, họ vẫn cho đập đi. Để, xây Trụ sở Quốc hội mới. Tỷ lần, hoành tráng và đẹp đẽ hơn. Để, các ông nghị – bà nghị, có chỗ, vào đó mà ngủ gật.

鹿裘御寒, 布衣掩形. Lộc cừu ngự hàn; bố y yểm hình

Mùa đông, dùng da hươu, may áo. Khoác lên người, chỉ cốt chống rét. Mùa hạ, dùng vải thô, may y phục. Mặc vào người, chỉ cốt kín thân.

粝粱之饭, 藜藿之羹. Lệ lương chi phạn, lê hoắc chi canh

Cơm ăn, dùng gạo giã dối, để thổi. Canh chan, dùng rau hoang dã, để nấu. Không bao giờ, uống những chai rượu, giá bằng mấy con trâu. Chẳng cho phép, bán đi hàng chục tấn thóc. Để lập vườn, trồng sau sạch, chỉ dành riêng cho mình.

不以役作之故, 害民耕绩之时. Bất dĩ dịch tác chi cố, hại dân canh tích chi thời

Không cố, cưỡng ép dân, đi phu – đi lính. Nay hội, mai hè triền miên. Để làm hại tới ngân quỹ của Quốc gia và nông vụ của người Dân.

Thời Đế Nghiêu, “Vua – tôi đồng lòng. Anh – em hòa thuân. Cả nước gắng sức”. Bởi thế, Xã hội thanh bình. Toàn dân, liên kết, thành 1 khối thống nhất. Những nước láng giềng, dẫu có dã tâm, cũng không dám đến, để nhòm ngó. Nuôi làm gì lắm lính, để tổn hại, đến Ngân quỹ Quốc gia.

Những người CS, họ không có khả năng, đoàn kết được toàn dân. Họ, chẳng sợ Trung quốc. Vì, đấy là “bạn tốt” của họ. “Bạn ấy”, chỉ nhòm ngó thứ khác. “Bạn ấy”, đâu có nhòm ngó, ngai vàng của họ. Họ chỉ sợ, Nhân dân, sẽ lật đổ họ. Như Nhân dân, đã lật đổ các chế độ CS ở Nga xô và các nước CS Đông Âu. Vì thế, Công an “nhiều như quân Nguyên”. Nhưng, được giành phần lớn, để đi theo dõi và trấn áp người dân. Cướp – giết – hiếp – nghiện ngập đầy đường, đâu có thấy, bóng dáng các anh. Bộ đội, đông vô kể. Nhưng, thỉnh thoảng mới thấy họ. Khi, họ đi duyệt binh và khi, họ bám càng công an, để đi cưỡng chế Dân oan. Lãnh thổ, bị xâm phạm, chẳng thấy, ông lính nào, đến nhòm ngó.

削心约志, 从事乎无为. Tước tâm, ước chí. Tòng sự hồ vô vi.

Không muốn cao sang. Chẳng hề mơ mộng. Dân trí còn thấp, không siết ngân sách giáo dục, dành tiền nuôi gà nòi. Để mong, được giải Nô bel hão huyền. Kinh tế còn nghèo, không màng, xây những công trình “Xứng tầm khu vực và thế giới”. Chỉ cốt, khoe sự tham ăn và ngu dốt của mình.

Thuận theo tự nhiên, thuận theo dân ý mà trị nước, chăn dân. Ngài, không quy hoạch khu dân cư, ở vùng trũng. Bởi thế, triều cường, dẫu có lên đến đỉnh, cũng chẳng hề ảnh hưởng, đến việc đi lại và sinh hoạt của Nhân dân. Thuận theo nguyện vọng của Nhân dân, Ngài, tuyển chọn quan lại, thật kĩ càng.

吏忠正奉法者尊其位. Lại trung chính, phụng pháp giả, tôn kì vị.

Tiêu chuẩn, để tuyển chọn quan lại, bao gồm: Trung thành – Chính trực – Thượng tôn pháp luật. Và, chỉ những người, làm tốt các tiêu chí đó, mới được thăng chức.

Tục ngữ Việt nam, có câu: “Ăn cây nào – Rào cây ấy”. Quan lại, lĩnh lương của Nhà nước. Họ, phải có nghĩa vụ, trung thành với Tổ quốc và hết lòng, phục vụ Nhân dân. Họ không thể nhập nhèm: Lĩnh lương của Nhà nước, nhưng lại tuyên thệ trung thành và làm việc, cho 1 cái đảng nào đấy. Giống như sư sãi: Khi đã qui y, họ được ăn oản. Bắt buộc, họ phải ở lại chùa, mà quét lá đa. Họ, không được phép, mang lộc Chùa, để về, xây nhà thờ Tổ của mình.

Quan lại thời nay, đầy kẻ gian dối. Bằng cấp, chúng đi mua. Tuổi tác, chúng khai man. Quả trứng, có thể ăn cắp được. Xá gì, mà chúng, chẳng dám trộm bò. Đưa những kẻ lươn lẹo, vào hệ thống chính quyền. Chúng, sẽ phá nát chính quyền và chia nhau, ăn hết sạch của cải của Nhân dân.

Khi làm viêc, quan lại: “Lục thân đến, không được nhận – Đầu đảng nói, không được nghe”. Chỉ biết, “Thượng tôn pháp luật”. Pháp luật, cho người dân, được “Tự do ngôn luận”. Đừng bịt mồm – bịt miệng người ta. Pháp luật, cho người dân, được “Tự do đi lại”. Chớ xích chân – trói cẳng người ta. Pháp luật, cho người dân, được “Ứng cử tự do”. Đừng đem, “Mặt trận Tổ quốc” ra, làm trò mèo, để loại bỏ người ta.

廉洁爱人者厚其禄. Liêm khiết, ái nhân giả, hậu kì lộ.

Muốn Quan lại liêm khiết – thương dân, ít nhất, cũng phải trả cho người ta, đồng lương đủ để sống. Các thể chế Dân chủ, họ đều thực hiện cách này. Nhưng, thể chế CS, thì không. Cán bộ của họ, có đồng lương chết đói. Muốn sống sung túc, họ không từ 1 thủ đoạn nào, để vơ vét của Nhân dân.

民有孝慈者爱敬 之. Dân hữu hiếu từ giả, kính ái chi.

Xã hội, thời Đế Nghiêu. Những người, được kính trọng nhất: Không phải, là bọn trọc phú, lắm tiền. Không phải, là kẻ dốt nát, có quyền cao – chức trọng. Những người: Ở nhà mình, họ Hiếu thảo – Ra ngoài đường, họ Từ tâm. Họ, là người tốt, từ trong – ra ngoài. Họ, được cả xã hội, kính trọng.

Thời CS, cả xã hội, xun xoe trước những kẻ giàu và quị lụy, đến mức hèn hạ, trước những kẻ cầm quyền. Từ tâm và Hiếu thảo, là những thứ xa xỉ, hiếm gặp vô cùng. Mấy ai, biết rằng: Có bác sĩ, đã cấy vi trùng phong, vào dái tai của mình. Để chứng minh, bệnh phong không dễ lây. Để kêu gọi, cả xã hội, đừng kì thị những bệnh nhân, mắc chứng bệnh phong. Bao nhiêu người, biết rằng: Có cô nuôi dạy trẻ, lăn xả vào miệng rắn độc, để cứu cháu bé. Cô, bị rắn cắn. Nhưng, cháu được bình yên. Xã hội, thời CS, vinh danh họ, hay nghĩ rằng, họ là những người điên?

尽力农桑者慰勉之. Tận lực nông tang giả, ủy khuyến chi.

Tận lực, tăng gia sản xuất – khai hoang phục hóa, như Đoàn Văn Vươn. Ngài về tận nơi: Cầm tay, mà biểu dương – Cho vay thêm tiền, mà làm vốn – Cấp thêm ruộng đất, cho mà làm ăn. Bởi Ngài biết, Vươn mà ăn to – làm lớn, bao nhiêu người chậm chạp, họ sẽ có phận nhờ.

Trong hoàn cảnh, nhà nghèo – vốn ít – con đông. Những gia đình căn cơ, họ không bao giờ chia đều – cào bằng. Họ dồn tiền vốn – đất đai, cho đứa nào có khả năng, để nó sản xuất. Họ dồn tiền của – thời gian, cho đứa nào thông minh, để nó đi học. Họ gom vàng – bạc, cho đứa nào tháo vát, để nó vượt biên. Những người con đó, sau này, sẽ dìu dắt, tất cả những người còn lại của gia đình.

Những người CS, họ làm ngược lại. Đất đai – vốn liếng, họ không giao cho những người tài giỏi. Họ, giao hết vào tay, lũ đầu đất. Đầu tư vào chúng, khác nào, đổ tiền vào 1 cái thùng, không đáy. Không sạt nghiệp, sao được.

旌别淑德, 表其门闾. Tinh biệt thục đức, biểu kì môn lư.

Phụ nữ, có “Tiết hạnh khả phong”, được mọi người biết, ngay từ khi, đặt chân đến cổng làng.

Chư hầu, có quý bà, trải qua ba – bốn đời chồng, cuối cùng vẫn lấy được Vua. Vẫn được Vua, lập làm Hoàng hậu. Sự ô nhục ấy của Vua chư hầu và sự “tài giỏi” của Hậu, sẽ được vinh danh, nơi cửa chuồng trâu.

平心正节, 以法度禁邪伪. Bình tâm chính tiết, dĩ pháp độ cấm tà ngụy

Khí tiết thanh cao – Tấm lòng ngay thẳng. Lấy pháp luật, mà cấm chỉ tà ngụy – đồng cốt – bói toán quàng xiên. Không bao giờ, nghe lời xui dại của lũ Hòa thượng Quốc doanh, để làm những chuyện nhảm nhí. Tỉ như đúc 2 quả tim, rồi yểm cho tượng Thánh Gióng, lẫn con ngựa đồng. Nếu, những người CS, tin rằng, phải có sự ấy, thì tượng mới Linh thiêng. Bắt buộc, ta phải nghĩ rằng: Họ, đang hạ bệ, Thần tượng Hồ Chí Minh. Bởi, chắc chắn 1 điều: Trong lồng ngực của Chủ tịch, bây giờ, không có quả tim của Người.

所憎者, 有功必赏. Sở tăng giả, hữu công tất thưởng.

Người mà mình không ưa, có công, vẫn được trọng thưởng.

Trung tá Ngụy Văn Thà, cùng các chiến sĩ Hải quân Việt nam Cộng hòa, đã anh dũng hy sinh, để bảo vệ, sự toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước. Dẫu, không ưa chế độ Việt nam Cộng hòa. Nhưng, những người CS, vẫn phải có nghĩa vụ, vinh danh họ. Thế, mới phải Đạo.

所爱者, 有罪必罚. Sở ái giả, hữu tội tất phạt.

Người mà mình yêu quí, có tội, vẫn phải lôi ra chém đầu.

Xưa, Khổng Minh, phải gạt nước mắt, để chém Mã Tốc – một đệ tử yêu của mình. Do can tội, để mất Nhai đình. Nay, Vinashin, làm thất thoát của Đất nước, có nhõn 4 tỉ USD. Nhà nước CS, cho toàn dân biết “Bộ Chính trị quyết định, không xử phạt 1 ai”. Phép nước, “nghiêm” đến thế là cùng.

存养天下鳏, 寡, 孤, 独. 赈赡祸亡之家. Tồn dưỡng thiên hạ quan, quả , cô , độc ; Chẩn thiệm họa vong chi gia .

Lập trại dưỡng lão, để nuôi dưỡng người già yếu – cô đơn – cô nhi – quả phụ. Tổ chức cứu tế, cho những gia đình, gặp địch họa – thiên tai.

其自 奉也甚薄, 其赋役也甚寡. Kì tự phụng dã thậm bạc, kì phú dịch dã thậm quả

Bản thân sống cần kiệm – sinh hoạt đạm bạc. Thu của dân thì nhẹ thuế – ít phí. Không tùy tiện, bắt dân phu phen – tạp dịch.

Thông qua, 1 ví dụ cụ thể, là chiếc ô tô. Chúng ta hãy xem, những người CS, họ đã học được những gì, ở Đế Nghiêu. Chiếc ô tô, phải cõng trên mình nó, ít nhất, 3 loại thuế và 7 loại phí. Loại nào, cũng rất “nhẹ”. Cho nên, để sở hữu, một chiếc Hyundai SantaFe nhập khẩu, người tiêu dùng, phải bỏ ra, khoảng 83.000 USD. Trong khi, chiếc xe này, có giá tại Mỹ, chỉ là 23.000 USD.

CS, không chịu làm. Nhưng, họ ăn quá dầy.

故万民富乐而无饥寒之色. Cố vạn dân phú lạc nhi vô cơ hàn chi sắc.

Cho nên, vạn dân giàu có – yên vui. Muôn nơi, rộn tiếng cười. Không đâu, ngộ cảnh đói – rét.

百姓戴其君如日月, 亲其君如父母. Bách tính đái kì Quân như nhật nguyệt, thân kì Quân như phụ mẫu.

Trăm họ, mang ơn Vua, như đội ơn, hai vầng Nhât – Nguyệt. Thân thiết, kính trọng Vua, như cha mẹ của mình.

Đó, cũng chính là lý do, giải thích tại sao: “Các thế lực thù địch và phản động”, lẫn “Âm mưu diễn biến Hòa bình”, không dám và không thể, lật đổ được, vị Vua thân yêu của họ.

文王曰:大哉!贤君之德也! Văn vương viết: “Đại tai! Hiền Quân chi Đức dã”.

Đức hạnh của bậc Thánh nhân, cao siêu vời vợi. Rút gọn lại, chỉ gồm: Cần – Kiệm – Liêm – Chính. Chí công – Vô tư. Ai, mà chẳng nói được. Nhưng, có phải, ai cũng làm được như Đế Nghiêu đâu.

Vì thế, Văn vương phải thốt lên : “Ôi! Vĩ đại thay, cái Đức của bậc Thánh nhân”.

Lời bàn:

Ở Việt nam, có 1 ông, Trung ương ủy viên – phó trưởng Ban Tuyên huấn. Ông ta, làm như thể, mình là người đầu tiên, phát hiện ra 1 sự thật: “Nước ta, cùng Hàn Quốc, cách đây 50 năm, đều trong một hoàn cảnh giống nhau. Vậy mà hôm nay, ở Việt Nam, có khoảng 90.000 người Hàn Quốc. Họ, đều là những ông chủ – bà chủ. Còn, 90.000 người Việt ở Hàn Quốc. Tất thảy, đều đi đến đó, để làm tôi tớ”. Nếu biết điều, xin ông, hãy nói tiếp: “Nhật bản và Hàn quốc, giàu có và Văn minh. Bởi, họ có ban lãnh đạo tài giỏi, hết lòng vì Dân – vì Nước. Lãnh đạo Việt nam, có những phẩm chất ngược lại. Bởi thế, chúng ta đã – đang và sẽ mãi mãi, vẫn nghèo hèn và lạc hậu. Không thể khác được”.

Ông Tố Hữu, có 1 câu thơ: “Ta tự hào đi lên. Ôi Việt nam”. Không tự hào, sao được. Bởi, đường tới Thiên đàng của chúng ta, Thiên hạ, chẳng ai dám đi. Vì, họ biết, đích đến của nó, là vực thẳm. Chỉ có ta, nhắm mắt và hiên ngang bước tới. Đường chúng ta đi, lồi lõm, giống như mặt ruộng, lúc mới cày. Phố xá chúng ta ở, mưa xuống là thành sông. Sông ngòi của chúng ta, đen ngòm và đặc quánh. Đầy túi nilon và dư thừa xác xúc vật. Thủ đô “nghìn năm văn hiến”của chúng ta, bẩn thỉu – hôi thối – nhếch nhác – lộn xộn và kệch cỡm. Con người của chúng ta, được đảng giáo dục. Cho nên, Văn – Võ toàn tài. Văn: Bằng cấp của chúng ta, chẳng được ai tôn trọng và công nhận. Đi ra nước ngoài, họ cảnh báo chúng ta, bằng tiếng Việt: Xin đừng ăn cắp của họ. : Động tí, là đánh – chửi nhau. Đi ăn cắp chó, cũng có thể, bị đập chết, như 1 con chó. Những người cai trị chúng ta, họ thật là nhân từ. Họ, cư ngụ, trong những căn biệt thự xinh đẹp. Mặc kệ người Dân, sống vất vưởng. Họ, coi người dân, chỉ bằng nửa con mắt. Công an của chúng ta, “giỏi nhất Thế giới”. Bằng chứng, chính họ, phát truyền đơn, cảnh báo cho du khách, trộm cắp ở Việt nam, nhiều hơn rươi.

… và …

Xem bức tranh, phác họa 1 cách vội vàng đó. Bạn, thấy tự hào hay nhục nhã, khi cầm trên tay, cuốn Hộ chiếu của nước CHXHCN Việt nam? Quan trọng hơn, bạn nghĩ, đấng Quân vương của chúng ta: Hiền minh, hay là lũ đầu đất?

Những người CS, họ lập ra, cái gọi là, Ban Tuyên giáo Trung ương. Giao cho, 1 ông vua của đảng CS, cầm đầu. Tập hợp trong đấy, tinh những Giáo sư – Tiến sĩ. Họ được đào tạo, 1 cách, hết sức bài bản. Chuyên “định hướng dư luận” và “đấu tranh, với các luồng tư tưởng, đối nghịch với đảng CS”. Hướng ra nước ngoài, tất nhiên, họ không dám rồi. Bởi, ra ngoài đó: Ăn nói mà u mê – Diễn thuyết mà lẩm cẩm. Thiên hạ, người ta lập tức cấm cửa. Họ không dỗi hơi, nói chuyện với thằng khùng. Trong nước, một mình – một chợ. Sao chẳng dám, lập 1 diễn đàn công khai. Để, những tinh hoa của đảng CS, đối thoại trực tiếp với Nhân dân và vạch rõ, những luận điệu sai trái của “Các thế lực thù địch và phản động” ?

Chiến thắng “đối lập”, bằng lý luận và thực tiễn. Bao giờ, cũng vẻ vang hơn, chiến thẳng họ, bằng nắm đấm. Ban Tuyên giáo Trung ương, hãy chứng tỏ: các Anh – các Chị, có bản lĩnh; các Anh – các Chị, không phải là 1 thực thể thừa và các Anh – các Chị, không bao giờ, chịu núp sau đũng quần của ngành Công an. Xin, các Anh – các Chị, hãy dũng cảm lên.

Mang chiêng, đi đấm ở xứ mình.

Không kêu, cũng phải đánh 1 hồi, cho Thiên hạ biết danh

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội

Điện thoại : 0168-50-56-430

Đòn thù thâm độc của công an trại giam

Đòn thù thâm độc của công an trại giam

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-11-10

  • RFA

11102014-reveng-treat-to-poli-pri.mp3

Từ trái: anh Nguyễn Hữu Vinh, chị Cấn Thị Thêu và anh Đặng Xuân Diệu.

Từ trái: anh Nguyễn Hữu Vinh, chị Cấn Thị Thêu và anh Đặng Xuân Diệu.

RFA files

 

Nhiều tù nhân chính trị/lương tâm kiên quyết không chịu nhận tội phải đón nhận những hành xử mang tính trả thù dữ dội trong trại giam.

Anh Basam Nguyễn Hữu Vinh

‘Kiến nghị về việc đổi người giam cùng buồng với nghi can Nguyễn Hữu Vinh’ do luật sư Hà Huy Sơn gửi Viện Kiểm sát Tối cao và giám thị trại giam B14 Bộ Công An ký vào ngày 31 tháng 10 vừa qua. Trong thư luật sư Hà Huy Sơn, người bào chữa cho trường hợp của blogger AnhBasam Nguyễn Hữu Vinh, hiện đang bị tạm giam và khởi tố về điều 258 Bộ luật hình sự Việt Nam ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ …’ thuật lại lần làm việc vào ngày 30 tháng 10, đích thân ông Nguyễn Hữu Vinh cho biết đang bị giam giữ cùng một bị can nhỏ hơn chừng 20 tuổi có biểu hiện tâm lý bất thường. Người này từng có tiền án giết người và đang bị khởi tố về một tội hình sự đặc biệt nghiêm trọng. Ông Nguyễn Hữu Vinh đã sử dụng nhiều phương cách để khuyên nhủ, chấn tĩnh tâm lý cho bị can giam chung phòng; thế nhưng mọi biện pháp đều không hiệu quả và nếp sinh hoạt bất thường của bị can đó gây ảnh hưởng đến tinh thần của ông Nguyễn Hữu Vinh một cách nghiêm trọng, cũng như có nguy cơ không bảo đảm an toàn cho ông Vinh. Bản thân ông này đề nghị được đổi người giam chung cùng phòng như thế.

Luật sư Hà Huy Sơn vào ngày 9 tháng 11 cho biết như sau:

Trong buổi làm việc cùng điều tra viên thì ông Vinh có trình bày như vậy. Tôi với trách nhiệm của luật sư tôi cũng làm kiến nghị và tôi gửi cho các cơ quan chức năng và tôi thông báo cho gia đình, vợ ông Vinh được biết.

Dân oan Cấn Thị Thêu

Một trường hợp khác được gia đình lên tiếng kêu cứu là của tù nhân Cấn Thị Thêu hiện đang bị giam chung với hai tù nhân nhiễm HIV nặng, thân hình bị lở lói. Thông tin này được một tù nhân khác cũng là dân oan Dương Nội vừa mãn án tù cho các con của bà Cấn Thị Thêu biết.

Anh Trịnh Bá Phương, con trai bà Cấn Thị Thêu, nói về việc nhận được tin xấu đó:

Sau khi cô Nguyễn thị Ngân và Nguyễn thị Toàn, hai người cùng trong đoàn Dương Nội bị bắt, trước khi ra tù hai cô ở cùng buồng giam của mẹ tôi gần một tháng. Sau khi ra tù, các cô cho biết thông tin ở trong đó là mẹ tôi bị nhốt chung với hai tù nhân bị nhiễm HIV và trong trại giam họ có nhiều sai phạm, ngược đãi tù nhân. Qua lời cô Nguyễn thị Ngân thì mẹ tôi bị nhốt cùng hai tù nhân bị nhiễm HIV từ khi bị bắt vào. Cũng theo lời cô Ngân, sau khi xử xong mẹ tôi chuyển sang buồng khác thì hai tù nhân đó cũng đi theo sang. Tôi nghĩ rằng đây là một sự sắp đặt, cố tình nhốt mẹ tôi với hai tù nhân nhiễm HIV.

Về việc ngược đãi, qua lời cô Ngân, cô Toàn, thì mẹ tôi bị cấm cả buồng giam khoảng hơn 20 người không ai được giao tiếp, không ai được nói chuyện với mẹ tôi. Nếu ai nói chuyện sẽ bị kỷ luật trực thêm 5 ngày. Cô Ngân một lần thấy mẹ cháu mệt đến vuốt đầu thì bị đe dọa kỷ luật; thế nhưng mẹ cháu đấu tranh nên không bị.

Mặc dù hai vợ chồng bà Cấn Thị Thêu và ông Trịnh Bá Khiêm bị đưa ra xét xử sơ thẩm vào ngày 19 tháng 9 vừa qua, nhưng đến nay gia đình chưa phép được thăm nuôi hai ông bà này, lý do được cơ quan chức năng đưa ra với gia đình như sau, qua lời của anh Trịnh Bá Phương:

Từ ngày 25 tháng tư khi hai bố mẹ tôi bị bắt thì hai anh em chúng tôi chưa được gặp mặt. Chỉ có em gái được gặp ở phiên tòa thôi, còn hai anh em chúng tôi do không vào được phiên tòa nên từ đó đế nay không được gặp. Họ lấy lý do án chưa có hiệu lực, còn kháng án, án sơ thẩm chưa chính thức có hiệu lực nên chưa cho gặp.

Tù nhân Đặng Xuân Diệu

Vào ngày 7 tháng 10 vừa qua, anh Trương Minh Tam mãn án một năm tù và ra khỏi Trại giam số 5 Yên Định, Thanh Hóa. Cựu tù nhân này tiết lộ thông tin tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu bị giam trong một phòng giáp vách với anh này bị đối xử rất hà khắc vì anh Đặng Xuân Diệu không chịu nhận tội, không mặc áo tù. Theo cựu tù nhân Trương Minh Tam thì tình trạng của anh Đặng Xuân Diệu rất nguy cấp và mọi người cần phải lên tiếng để cứu tù nhân lương tâm này trước những đòn thù mà nhà tù dành cho anh này.

Phản ứng của cơ quan chức năng

Sau khi có sự lên tiếng của cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Tam về trường hợp tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu, trong lần thăm gặp hồi tháng 10 vừa qua, thân nhân anh này được trại giam cho thấy mặt anh trong vòng chừng một phút. Trước đó từ khi chuyển trại đi thi hành án, vì không chịu nhận tội và mặc áo tù, nên trại giam cắt thăm gặp của gia đình đối với tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu.

Đối với trường hợp của bà Cấn Thị Thêu, các con của bà cùng dân oan Dương Nội đã đến các cơ quan chức năng tại Hà Nội yêu cầu ngưng việc giam chung bà với những người nhiễm HIV nặng như thế; tuy nhiên việc kêu cứu đó chưa hề được lắng nghe. Anh Trịnh Bá Phương cho biết:

Đơn thư thì gia đình và bà con đã gửi rồi, phản ánh vi phạm trực tiếp của trại giam đã vi phạm Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền Con người và các công ước mà Việt Nam đã ký về quyền dân sự và chính trị. Theo công ước này mẹ tôi bị vi phạm nghiêm trong điều 7 điểm 10, điều 1 và điều 4. Kể cả luật pháp Việt Nam hiện hành là khi những người vào tù phải được đảm bảo sức khỏe và an toàn tính mạng. Nhưng việc nhốt chung với những người nhiễm HIV là đe dọa trực tiếp đến tính mạng của mẹ tôi. Hành vi này là hành vi cố ý giết người, nhưng đến nay chưa có cơ quan nào đứng ra để giải quyết, chúng tôi đã đến cả Bộ Công An và rất nhiều cơ quan rồi nhưng đến nay chưa có ai đứng ra để giải quyết.

Luật sư Hà Huy Sơn cũng cho biết về sự lên tiếng cho trường hợp mới nhất của blogger Anh Basam Nguyễn Hữu Vinh và một số trường hợp khác trước đây và phản hồi từ phía cơ quan chức năng như sau:

Khi xảy ra các dấu hiệu nguy hiểm thì người bị giam cùng và luật sư khi biết cần phải có thông báo với ban giám thị trại và đơn vị thụ lý giai đoạn cuối cùng. Thường chỉ có sự khiếu nại thôi chứ sự đáp ứng luật sư không được thông báo. Nguy cơ như thế nhưng giải quyết thế nào, bản thân tôi trong các trường hợp tôi làm chưa thấy trường hợp nào được trả lời.

Việt Nam tham gia ký kết Công ước Chống Tra tấn và quốc hội kỳ 8 khóa 13 đang họp vừa được chủ tịch nước Trương Tân Sang trình công ước để phê chuẩn. Có thể nói Hà Nội tham gia rất sớm nhiều công ước quốc tế, thế nhưng việc thực thi những công ước đó rất hạn chế. Những đối tượng như tù chính trị, tù nhân lương tâm, những thành phần đối kháng, bất đồng chính kiến… tại Việt Nam luôn đối diện với những hành xử mà những người trong cuộc nói là ‘trả thủ’ nặng nề khi không khuất phục được họ.

ĐỪNG TỨC TỐI MỘT CÁCH VÔ LÝ

ĐỪNG TỨC TỐI MỘT CÁCH VÔ LÝ

Nguyễn Trọng Vĩnh

Việt Nam và Ấn Độ hợp tác khai thác dầu khí tại vùng biển phía nam của Việt Nam, Trung Quốc cũng phản đối. Sau chuyến thăm Ấn Độ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai nước sẽ lại tăng cường hợp tác khai thác dầu khí ở biển Đông thuộc vùng biển của Việt Nam.

Báo nhân dân TQ tức tối phản đối, nói: ” Hà Nội phải thực tâm trên vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo,… Việt Nam đã khai thác trái phép trên biển Đông thu lợi khổng lồ,… dùng nước khác để chọc tức TQ,… Việt Nam nên chứng tỏ thực tâm trong quan hệ với TQ” .

Ô hay! Việt Nam và Ấn Độ hợp tác khai thác trong lãnh hải và thềm lục địa của mình phù hợp với UNCLOS, công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982, việc gì mà TQ phải hằn học?

Ai trái phép? Nhà cầm quyền TQ chỉ dựa vào cái “đường chín đoạn” (lưỡi bò) mà chính phủ Tưởng Giới Thạch tự vẽ từ năm 1948 phi lý, phi pháp, không giải thích được, bị quốc tế phủ nhận để tuyên bố chủ quyền gần hết biển Đông mới là trái phép vì biển Đông là đường hàng hải quốc tế, chứ đâu phải là cái “ao nhà” của TQ! Đúng là sự tức tối của lòng tham bành trướng, bá quyền.

Ai không thực tâm?

Chính là TQ không thực tâm với Việt Nam.

Khi TQ nêu ra phương châm 16 chữ và 4 tốt, lãnh đạo Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh. TQ đã không thực hiện, trái lại còn gây ra bao nhiêu điều tai ác trên bộ và trên biển đối với Việt Nam.

Ngày 27/10/2014, Dương Khiết Trì sang Hà Nội, thái độ tỏ ra ôn hòa, đấu dịu nói những là: “quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và TQ đang phát triển lành mạnh, tranh chấp cần giải quyết hòa bình, song phương, việc ổn định tình giữa hai bên là phù hợp với nguyện vọng giữa hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển…“, trong khi đó TQ vẫn xúc tiến hoàn thiện đường bay và căn cứ quân sự tại cụm bãi đá Gạc Ma chiếm của Việt Nam năm 1988 nhằm đến thời cơ nào đó đánh chiếm nốt Trường Sa của Việt Nam, còn chuẩn bị xây dựng “bến tàu nổi” ở đây nữa. Rõ là “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”. TQ thật tâm với quan hệ Việt -Trung như thế ư?!

Nhớ lại trước đây, trong thời kỳ TQ đặt giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, bị chúng ta phản đối quyết liệt, dư luận thế giới phê phán, Dương Khiết Trì cũng đã sang Việt Nam lúc đó ông ta vẫn còn nêu ra với ta nhiều yêu cầu vô lý có tính vị kỷ nào là: “Việt Nam không nên làm quá ồn ào vấn đề tranh chấp, không nên kiện TQ, không nên công bố những tư liệu mà Việt Nam nói là có về các quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) làm cho Thế giới “hiểu nhầm” (!), không nên xích gần với Mỹ, v.v.”. Sau khi ông ta về, báo chí TQ còn láo xược đăng :“Đồng chí Dương Khiết Trì sang Việt Nam để kêu gọi đứa con hoang đãng trở về“!!

Lần này (27/10/2014), ông ta sang đội lốt ôn hòa, hạ giọng (tạm giấu bồ dao găm đi), cố ý làm như tình hình biển Đông đã lắng dịu là nhằm mục đích gì?

Chả là trước các hội nghị APEC, ASEAN, EAS trong đó có TQ và nhiều nước tham dự, ông Tập muốn khoác lại cho mình chiếc áo “trỗi dậy hòa bình” giả dối để trong các hội nghị đó, người ta không nêu vấn đề biển Đông và chỉ trích TQ gây tình hình căng thẳng. Đó là thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt của nhà cầm quyền TQ: “hòa dịu là sách lược, bá chiếm biển Đông là chiến lược”, “hòa dịu tạm thời, để thực hiện quyết tâm không thay đổi”.

Các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế sẽ không mất cảnh giác.

N.T.V.

Hàng chục người Sài Gòn tố bị lừa xuất cảng lao động qua Mỹ

Hàng chục người Sài Gòn tố bị lừa xuất cảng lao động qua Mỹ

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN 9-11 (NV) – Hàng chục nạn nhân tố cáo một phụ nữ và công ty ở quận Bình Thạnh, Sài Gòn, hứa hẹn đưa họ sang Mỹ làm việc, nhưng thực chất là lừa đảo, chiếm đoạt tiền của họ.

Trụ sở công ty VietNam Daily bị cáo buộc lừa xuất khẩu lao động. (Hình: VietnamNet)

Bản tin của Vietnamnet hôm Chủ Nhật cho hay như vậy về lá đơn của khoảng 20 người tố cáo phụ nữ tên Nguyễn Thị Mỹ Phương và công ty cổ phần đầu tư thương mại xây dựng và du lịch VietNam Daily (gọi tắt là công ty VietNam Daily, trụ sở trên đường Nguyễn Hữu Cảnh, phường 22, quận Bình Thạnh) có “dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thông qua hình thức “xuất khẩu lao động sang Mỹ.”

Nguồn tin kể rằng “Anh N.V.T (SN 1992, quê Tiền Giang) trình báo, khoảng nửa năm trước anh quen biết với bà Phương. Lúc này bà Phương giới thiệu là kế toán công ty VietNam Daily. Bà này tư vấn với anh T rằng, hiện công ty đang có nhu cầu tuyển dụng lao động đưa sang Mỹ làm việc, có thu phí dịch vụ.”

Hy vọng có cơ hội kiếm tiền cũng như tin lời bà Phương, Vietnamnet nói “giữa Tháng Sáu anh T nộp cho bà Phương 50 triệu đồng và mang đến công ty VietNam Daily giao nộp các hồ sơ, giấy tờ mà bà Phương yêu cầu. Tuy nhiên nhiều tháng trôi qua, anh T thường xuyên hỏi thăm nhưng phía công ty lẫn bà Phương liên tục hứa hẹn…”

Đến cuối Tháng Chín, nguồn tin trên nói bà Phương gọi cho anh T “thông báo thủ tục của anh không đi Mỹ được và yêu cầu anh đến công ty nhận lại tiền. Từ đó đến nay anh T nhiều lần đến công ty VietNam Daily đòi tiền nhưng được một số người ở đây thông báo bà Phương đã nghỉ việc. Anh T tìm gặp tổng giám đốc công ty nhưng không được.”

Vì không biết cách nào đòi lại tiền, anh T làm đơn tố cáo vụ việc đến công an phường 22, quận Bình Thạnh. Được biết, tại thời điểm anh T tố cáo, trước đó có khoảng 20 người cũng nộp đơn tại công an địa phương này tố cáo bà Phương và công ty VietNam Daily có dấu hiệu lừa tiền của họ với hình thức tương tự. Các nạn nhân này khai báo đã nộp cho bà Phương và công ty VietNam Daily khoản tiền hơn 800 triệu đồng.

Hồi Tháng Tám vừa qua, hai anh em Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Văn Tú giới thiệu là công an công tác tại “Cục An Ninh” và “cảnh sát kinh tế” ở Hà Nội, nên đã lừa được ông Nguyễn Đình Tiến (Hải Dương) số tiền 200 triệu đồng để lo lót đi xuất khẩu lao động tại Anh, theo tin Người Lao Động.

Hồi Tháng Ba, một đường dây lừa xuất khẩu lao động đi Canada, Nam Hàn… ở tỉnh Nghệ An đã bị cáo buộc lừa tiền lối 2.5 tỷ đồng cho những người muốn được xuất cảng lao động, hy vọng thoát đói nghèo, theo tin tờ Tuổi Trẻ ngày 28 Tháng Ba.

Theo tờ Tuổi Trẻ, tính đến ngày hai kẻ chủ mưu bị bắt, có tất cả 28 nạn nhân đã nộp tiền, có người mất đến $10,000, nhưng chờ mãi không thấy gọi lấy vé máy bay đi nước ngoài.

Hồi Tháng Bảy, theo VNExpress, khoảng 30 người đã bị một tổ chức lừa xuất cảng lao động sang Nhật với số tiền lên khoảng 3 tỷ đồng. (TN)

Sau 25 năm Việt Nam vẫn kém Đông Âu

Sau 25 năm Việt Nam vẫn kém Đông Âu

Nguyễn Giang bbcvietnamese.com

Châu Âu làm lễ kỷ niệm ngày đập tường Berlin 9/11/1989

Đúng một phần tư thế kỷ đã trôi qua từ ngày Bức tường Berlin sụp đổ, một khoảng thời gian đủ dài – một phần ba cuộc đời, năm nhiệm kỳ tổng thống, tổng bí thư – để so sánh Việt Nam và Đông Âu.

Tôi sang Berlin hè năm 1990 từ Ba Lan bằng hộ chiếu Việt Nam với visa Đông Đức, một trong số tấm thị thực cuối cùng Đại sứ quán của họ ở Warsaw cấp cho người nước ngoài, vì đến tháng 10 năm đó, Đông Đức chấm dứt tồn tại.

Lúc tôi đến xem, Bức tường Berlin khi ấy vẫn còn dài, chạy vòng vèo qua các khu phố, bờ sông, cánh rừng của thành phố đầy ắp dấu ấn của sự chia cắt.

Nhưng cổng thành Brandenburg đã mở để ai thích thì đi xe thênh thang sang phía Tây, xem chủ nghĩa tư bản là cái gì mà sáng choang như thế.

Các bạn bè và thân nhân của tôi ở Đông Berlin vào năm 1990 thì đều băn khoăn với câu hỏi về hay ở, và ở thì làm ăn tại chỗ hay đi tiếp sang Tây Đức.

Giữa cơn sốt buôn bán, đổi tiền, mua hàng, tích trữ quà cáp, ai cũng nhớn nhác suy tính xem ở lại sẽ có một tương lai tốt hơn hay về nước.

Bao trùm lên nỗi băn khoăn đó thực ra là câu hỏi ‘Việt Nam sẽ ra sao những năm tới?’

Nhưng dù phải lo kinh tế và cuộc sống cá nhân, không phải người ta không thấy vụ kéo đổ tường Berlin báo hiệu một cơn bão chính trị.

Chủ nghĩa xã hội đã phá sản ngay trên quê hương của nó.

Nhưng Việt Nam đã không chọn con đường của các nước đầy những người bạn giàu lòng nhân hậu, tư duy thoáng đãng, bao dung, không xỏ lá, trịch thượng, không bắt nạt kẻ kém hơn mình.

Giờ nhìn lại, theo cảm quan của riêng tôi, một người bám sát các biến đổi ở Đông Âu từ đó đến nay, thì sự lựa chọn của các vị thế hệ cha anh của tôi về đường hướng cho Việt Nam là hoàn toàn thông cảm được vào thời điểm đó nhưng là quyết định chỉ đạt điểm trung bình kém.

Nhiều tác giả đã phân tích về sự nghiệp Đổi Mới ở Việt Nam và nói về lựa chọn của lãnh đạo nước này khi Đông Âu chuyển mình.

Nỗi sợ đổ vỡ, sợ bị ‘bọn tư bản’ lấn chiếm, lật đổ…là điều hoàn toàn hiểu được bởi các lãnh đạo quá nửa đời sống trong cuộc chiến mà kẻ thù chính là Phương Tây.

Bức tường Berlin một thời chia cắt Đông và Tây Âu

Không chỉ bác bỏ mô hình mà Ba Lan, Hungary, CH Czech…chọn lựa, báo chí ở Hà Nội từng có lúc tự hào là không cần thay đổi thể chế mà vẫn phát triển được kinh tế, vẫn hội nhập quốc tế thành công.

Ta hãy so sánh tiêu chuẩn kinh tế, xã hội và mức độ hội nhập để xem lựa chọn của Việt Nam và Đông Âu cũ hơn kém ra sao, chưa nói đến nhân quyền, dân chủ.

Đầu tiên là về thu nhập bình quân đầu dân.

Theo tiêu chuẩn Liên Hiệp Quốc, GNI năm 2012 thì không tính vùng Đông Đức nay thuộc Cộng hòa Liên bang Đức giàu mạnh nhất châu Âu, dân các nước Ba Lan (12 nghìn USD), Hungary (12 nghìn USD), Lithuania (11 nghìn USD), Slovakia (8600 USD), Romania (7700 USD), Bulgaria (6000 USD), đều nhiều tiền hơn dân Việt Nam.

Thậm chí dân Albania, quốc gia nghèo nàn lạc hậu nhất châu Âu từ thời cộng sản đến nay, và chưa là thành viên EU vẫn có thu nhập 3800 USD, bỏ xa Việt Nam ở mức 1600 USD.

Cuộc chiến khốc liệt sau khi Nam Tư tan rã từng làm nhiều người Việt Nam lo sợ.

Nhưng nay các nước đó đều ổn định, phát triển và giàu có hơn Việt Nam.

Bosnia nghèo cũng có GNI 4500 USD, còn Croatia không chỉ giàu hơn (13 nghìn USD) mà còn là điểm du lịch nổi tiếng với bờ biển đẹp, các di tích cổ và cả bảo tàng về cuộc chiến 1991, thu hút đông đảo du khách châu Âu.

Như thế, không thể nói mô hình Việt Nam chọn 25 năm qua là điều gì kỳ diệu vì nó mới chỉ giúp nước này thoát nghèo mà thôi.

Thứ nhì là về công bằng và an sinh xã hội.

Sau chừng 15 năm chuyển đổi cơ chế, từ 2004 đến 2013, một loạt quốc gia Đông Âu đã gia nhập ngôi nhà chung EU.

Công dân họ ở lại hay sang Đức, Hà Lan, Anh, Pháp… đều được hưởng các quyền lợi như các nước dân chủ tư bản lâu đời, từ an sinh xã hội đến quyền giáo dục, y tế, bầu cử…

Nếu không thỏa mãn với toà án nước mình, họ có thể kiện lên các toà nhân quyền châu Âu để đòi công lý.

Việt Nam cũng tiến triển trong hội nhập quốc tế và công dân đã có thể sang ASEAN không cần thị thực nhưng không được hưởng quyền gì hết, đôi khi còn bị kỳ thị như ở Thái Lan, Singapore gần đây.

Và để tìm vận hội, người Việt nghèo lại tìm đến vùng Đông Âu cũ nay thuộc EU.

Các nước gốc Đông Âu cộng sản như Romania vẫn có thu nhập cao hơn Việt Nam

Ở Việt Nam, ai có thu nhập cao hơn mức trung bình 1300 USD một năm đó thì cũng nên thận trọng vì điều đó có nghĩa là còn một số rất đông sống dưới mức đó.

Mất cân bằng thu nhập và thiếu cơ hội vươn lên trong một bộ phận dân cư đông đảo đang là quả bom nổ chậm cả về an ninh lẫn kinh tế.

Thứ ba là về chính cơ chế kinh tế và tốc độ hội nhập.

Cải cách, ‘cải nhiều mà vẫn cách đó’, ở Việt Nam đã ngày càng lộ ra tính nửa vời vì không tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng của thị trường.

Vốn liếng của quốc gia thường bị dồn vào cho các tập đoàn nhà nước làm ăn yếu kém, lãng phí.

Khối tư nhân đóng thuế cao, tạo nhiều công ăn việc làm hơn thì bị kỳ thị, bóp nặn.

Tư duy chính trị độc tôn ‘Đảng và Nhà nước trên hết’ vì không bị kiềm chế nên các quán tính xấu của nó như dùng quyền lực can thiệp vào kinh tế không hề giảm đi mà còn ngày càng mạnh lên.

Các sự kiện như gia nhập WTO được báo chí nhà nước ở Việt Nam đề cao như một thành tích về tiến bộ của cải cách.

Đa số các nước Đông Âu cũng đã vào WTO và còn vào sớm hơn Việt Nam.

Ví dụ như Romania vào năm 1995 khi Việt Nam mới bắt đầu đàm phán để gia nhập chính thức năm 2007.

Nghèo như Albania và vừa thoát khỏi nội chiến như Croatia cũng đã vào WTO từ năm 2000.

Điều này cho thấy sức ì của cải tổ cơ chế chính trị nói chung đã khiến Việt Nam chậm chân hơn nhiều so với các nước Đông Âu trong việc hội nhập kinh tế thế giới, bất kể tuyên truyền nói gì.

Điều cần nói nữa là di sản rất đặc thù, khủng khiếp hơn ta vẫn tưởng của mô hình Liên Xô.

Một khi đã dính vào mô hình này, quốc gia nào cũng sẽ phải trả giá, trả giá rất cao, rất lâu dài.

Nhiều lần quay lại các bang thuộc Đông Đức cũ cho tôi cảm nhận rất rõ rệt về điều này.

Cùng một dân tộc thuộc hàng văn minh nhất của nhân loại, người Đông Đức chỉ phải chịu đựng mô hình Liên Xô trong 40 năm mà ngày nay các bang phía Đông vẫn chưa thực sự hồi sinh.

Đến thăm một số bạn Việt Nam ở Chemnitz, thành phố từng mang tên Karl Marx, tôi thấy chỉ có mấy hộ gia đình ở cả một toà nhà nhiều tầng, phần còn lại bỏ hoang.

Lý do là người dân Đức cứ còn sức, còn tuổi trẻ là bỏ đi sang phía Tây, để lại những khu phố gió lùa vắng lặng, công viên lá vàng đẹp rực rỡ nhưng thiếu bóng người.

” Bạo lực chuyên chính do mô hình Liên Xô tích tụ, ép xuống, dồn nén vào dân đã gây ra các xung lực đa chiều phá tung các tế bào xã hội, bẻ cong nhiều chuẩn mực, làm biến dạng nhân cách”

Về đêm, Đông Berlin vẫn ít ánh đèn, tối hơn hẳn Tây Berlin sau 25 năm thống nhất.

Việt Nam từng tự hào là tránh được nội chiến, xung đột sắc tộc như ở Nam Tư một thời.

Nhưng bạo lực chuyên chính do mô hình Liên Xô tích tụ, ép xuống, dồn nén vào dân đã gây ra các xung lực đa chiều phá tung các tế bào xã hội, bẻ cong nhiều chuẩn mực, làm biến dạng nhân cách.

Y tế và giáo dục tiếp tục trên đà xuống dốc, giao thông thì kinh khủng hơn và hệ thống công quyền tham nhũng, tư pháp hà khắc chính là ‘món quà từ mối tình Liên Xô’ còn gây di hại.

Việt Nam ngày hôm nay đã khác nhiều.

Hiển nhiên, Việt Nam hôm nay không phải là những ngày tháng u ám của thập niên trước Đổi Mới.

Xã hội và con người đã tiến bộ lên rất nhiều, tự do cũng tăng và tư duy từ quan chức đến người dân đều cởi mở hơn trước vượt bậc.

Điều này một phần nhờ làn sóng giao lưu con người, thông tin tăng cao trên toàn thế giới, nhờ sự hỗ trợ tài chính, khuyến khích kiên trì không ngừng nghỉ của các cường nước có trách nhiệm toàn cầu.

Nhưng cũng phải ghi nhận đóng góp của nhiều vị lãnh đạo, các nhà hoạch định kinh tế, giới ngoại giao, doanh nghiệp, văn nghệ sỹ, giới vận động dân chủ, nhân quyền và người dân nói chung cho sự biến đổi dần nhận thức, thúc đẩy các xu hướng mới.

Việt Nam cũng nhanh chóng nối lại quan hệ thân thiện với toàn bộ các nước Đông Âu cũ và tỏ quyết tâm làm bạn, làm đối tác chiến lược với Đức, Anh, Pháp trong EU.

Xã hội Việt Nam cần xây dựng chung một tương lai dựa trên những điều tiến bộ chính mình đạt được.

Tuy thế, trong nhận thức mới này vẫn cần một đánh giá công minh về thành quả của Đông Âu và lòng dũng cảm để nói rằng lựa chọn của Việt Nam 25 năm qua còn nhiều thiếu hụt.

Ngày nay người Việt lại tiếp tục trở lại Đông Âu làm ăn

Bài học cho Việt Nam vì thế là bài học của các nước nhỏ vùng Đông Âu đã thành công trong cả cải cách chính trị và kinh tế, không chạy theo đại cường hạt nhân như Trung Quốc và Nga vốn luôn có tính toán của họ.

Vào những đêm sôi động đập tường Berlin 25 năm về trước, nhiều bạn tôi đã ‘chui nách’ các công dân Đức to cao để sang xem phía Tây có gì lạ.

Ngày nay, hàng triệu người Việt, từ quan chức đến người dân đã đi nước ngoài, đã biết rõ những điều hay dở của thế giới ngày nay.

Để bước hẳn sang miền văn minh, tiến bộ, cần dỡ bỏ nốt những bức tường lo sợ trong tư duy và nghiệm lại bài học của các nước Đông Âu một thời là đồng minh đồng chí.

Bài đã đăng trên trang Facebook của BBC Tiếng Việt và của tác giả.

Bài thơ đôi dép

Bài thơ đôi dép

Tác giả: Nguyễn Trung Kiên

Bài thơ đầu tiên anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng viết thành thơ

Hai chiếc dép kia gặp gỡ tự bao giờ
Có yêu đâu mà chẳng rời nửa bước
Cũng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung, xuống cát bụi cùng nhau

Cùng bước cùng mòn không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác
Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế sẽ trở thành khập khễnh
Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu

Cũng như mình trong những phút vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

Đôi dép vô tư khắn khít bước song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt có đôi

Không thiếu nhau trên những bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc có một bên phải trái
Nhưng anh yêu em bởi những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau bởi một bước đi chung

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia

Cuộc đời ta mãi mãi chẳng xa lìa
Mất một chiếc, chiếc kia vào sọt rác
Hay cố lê bên những gì phế thải
Sống âm thầm nơi xó góc tối đen

Rồi ngày kia buồn chán không ánh đèn
Chiếc còn lại cũng ra đi vĩnh viễn
Ngày ra đi không một người đưa tiễn
Nhưng vui lòng vì gặp lại chiếc kia

Một nơi xa hai chiếc chẳng chia lìa
Vì đã thoát khỏi cảnh đời ô trọc
Không hơn thua ghét ghen hay lừa lọc
Bước song hành một dạ đến ngàn thu
[1][2]

Ông Phùng Quang Thanh dối trá Quốc hội?

Ông Phùng Quang Thanh dối trá Quốc hội?

Nguyễn Đình Ấm

http://thanhtra.com.vn/portals/0/news_images/2014/10/huonggiang/bo_truong_qp_phung_quang_thanh_tra_loi_pv_1.JPG

Trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội “Tại sao có sân golf trong sân bay?”, chiều 4/11/2014, ông đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh giải trình: “…Trước hết là sử dụng đất, thì đất ở đây là đất lưu không, đất ở loại khung sườn, tức là không dùng gì vào việc xây dựng hạ tầng ở bên dưới…”.

Tôi cũng như dư luận rộng rãi ở ngành hàng không Việt Nam (HKVN) hết sức kinh ngạc, bất bình về lời giải thích này của ông PQT. Ông Thanh nói, đất mà doanh nghiệp quân đội làm sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất (TSN) là đất “lưu không, đất khung sườn, tức không dùng gì vào việc xây dựng hạ tầng…” là hoàn toàn xuyên tạc. Bởi vì: Ở một sân bay, để máy bay hoạt động an toàn thì nó phải có khoảng tĩnh không rộng đủ cho việc hạ, cất cánh nên ở sân bay nào cũng phải có quỹ đất để trống rộng gấp nhiều lần những diện tích có công trình như đường băng, nhà ga, xưởng… Những khoảng đất trống ấy phải bằng phẳng, không có vật cứng (địa không), thoáng đãng (tĩnh không) để phòng khi máy bay gặp sự cố hạ cánh bắt buộc không trúng đường băng trượt ra đó mà vẫn an toàn. Ngoài tác dụng trên, những khoảng đất trống đó còn làm quỹ đất dự trữ để đáp ứng giai đoạn phát triển sau đó của sân bay. Vậy khu đất làm sân golf ở TSN có địa hình đồi núi, ao hồ nhân tạo, có nhà nghỉ, biệt thự, chung cư… có đáp ứng với khu địa không, tĩnh không, dự trữ phát triển cho sân bay hay không?

Ông PQT nói khu đất làm sân golf là “khung sườn” tức đất bên rìa, không vuông vắn, bề ngang hẹp… Vậy hãy xem một khu đất 157,6 ha mà “loại sườn” thì nó dài đến bao nhiêu, có thể làm được sân golf “khủng” như vậy? 157,6 ha đất khu vực “đất vàng” của TP HCM mà là “vô dụng” ư?

Từ những năm 2005, 2006 sân bay TSN đã quá tải chỗ đỗ, nhiều chuyến bay đến TSN giờ cao điểm không có chỗ đậu phải bay vòng chờ hoặc đỗ ở nơi xa, thuê chỗ đỗ bên quân sự sân bay TSN, ngành HKVN đề nghị dùng đất dự trữ bên quân sự để làm thêm sân đỗ. Cuối năm năm 2007 chính phủ cho phép TSN quy hoạch theo hướng tăng thêm 30 ha đất sang bên quân sự để làm thêm 30 vị trí đỗ máy bay nhưng “bên quân sự không thỏa thuận”. Từ đó TSN luôn thiếu chỗ đỗ, hãng HK quốc gia phải thuê bên quan sự để hoạt động (chưa rõ số tiền này ai hưởng?).

Vì vậy, việc ông PQT nói đất làm sân golf, biệt thự, chung cư, tổ hợp thương mại, giải trí… trong sân bay TSN như là khu đất “vô tích sự” là không đúng sự thật, lừa dối quốc hội.

Tại đây, ông PQT cũng khẳng định “Những cái này (sân golf, biệt thự, chung cư…) làm từ năm 2005, 2006 được các bộ, ngành liên quan như Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông, cục HKDD, Bộ KHĐT thẩm định đồng ý…”. Xin khẳng định: Việc làm sân golf 157,6 ha trong đất quốc phòng khi không theo luật đất đai, chưa được Quốc hội cho phép là sai pháp luật. Những người, cơ quan ông Thanh dẫn ra kia không có thẩm quyền để cho phép một doanh nghiệp lấy đất tĩnh không, địa không, đất dự trữ của một sân bay quốc tế, một sân bay quân sự, một khu đất chuyên dùng cho an ninh, quốc phòng làm các công trình kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, cản trở sự hoạt động và phát triển của TSN. Có dấu hiệu ông cũng bịa ra việc này: Tại kỳ họp Quốc hội tháng 11 năm 2011 khi đại biểu chất vấn Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng, ông Thăng không trả lời và khẳng định: “Đó là công trình của Bộ Quốc phòng, đại biểu chất vấn nhầm”. Còn Bộ trưởng KHĐT Bùi Quang Vình thì: “Khi đi kiểm tra thì cơ bản dự án đã làm xong” (GTVT onlines 20/11/20110)…

Cần khẳng định hai sân golf của doanh nghiệp dưới sự quản lý của ông PQT ở TSN và Gia Lâm là sai pháp luật. Có luật nào cho phép các ông lấy đất phục vụ an ninh quốc phòng làm cơ sở kinh doanh cho cá nhân để “không phải bồi thường” khi thu hồi để đẩy sân bay TSN đến chỗ chật hẹp, “quá tải”? Luật nào cho phép các ông lấy 75 ha đất quốc phòng ở sân bay Gia Lâm và 40 ha đất nông nghiệp màu mỡ, hai vụ lúa, một vụ màu (nguồn sinh sống quan trọng của dân phường Phúc Đồng, Gia Thụy…) làm sân golf, nhà hàng, khách sạn kinh doanh trong khi sân bay Gia Lâm đã được chính phủ phê duyệt quy hoạch trong hệ thống sân bay quốc gia?

clip_image002[5]

Xe của đại gia sân golf sân bay Gia Lâm qua cầu Vĩnh Tuy chở đất (quá tải) rải đầy đất cát ra cầu không hề bị phạt

Năm 2010, 2011 ngành HKDD đã bàn với Bộ Quốc phòng lập dự án sử dụng sân bay Gia Lâm rất ít máy bay quân sự hoạt động để chuyển các chuyến bay nội địa ngắn từ Nội Bài về Gia Lâm, tiết kiệm thời gian, nhiên liệu và giảm tải cho Nội Bài, nhưng cũng không thành. Nay tại sân bay Gia Lâm về đêm sân golf sáng rực đèn còn họat động bay thì vắng teo, cả tuần chỉ có vài chuyến bay quân sự…

Ban đêm sân bay Gia Lâm vắng teo nhưng sân golf sáng rực bởi hàng nghìn bóng đèn cao áp

Tại hội nghị Shang-ri 13 ở Singapore tháng 6/2014, khi Trung Quốc đang xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam, ông PQT phát biểu ví hành vi xâm lược đó chỉ như chuyện xích mích trong gia đình, trái hẳn với sự phản kháng của cộng đồng quốc tế và với thủ tướng Nguyễn tấn Dũng; hôm cùng 9 tướng đi Trung Quốc về ông nói quần đảo Trường Sa của VN như là bãi đất vô chủ “Trung Quốc xây công trình, Philippines cũng xây, ta cũng xây”… thì có lẽ chuyện cấp dưới, người nhà hoặc người thân của ông xây công trình kinh doanh trong khu đất an ninh quốc phòng, đất dự trữ của sân bay và nói dối Quốc hội để đẩy hàng không dân dụng TSN đi chỗ khác cũng chỉ là chuyện nhỏ.

N.Đ.A.

Nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ bức tường Berlin

Nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ bức tường Berlin

Những mảnh tường của Bức tường Berlin được trưng bày để bán tại thành phố Teltow, gần Berlin, Đức, vào dịp kỷ niệm 24 năm bức tường này sụp đổ.

Những mảnh tường của Bức tường Berlin được trưng bày để bán tại thành phố Teltow, gần Berlin, Đức, vào dịp kỷ niệm 24 năm bức tường này sụp đổ.

Andre DeNesnera

29.10.2014

WASHINGTON—

Ngày 9 tháng 11 đánh dấu 25 năm ngày bức tường Berlin sụp đổ.

Các sử gia nói trong các thập niên 1960 và 1970, Tây Đức đã phát triển một nền kinh tế vững mạnh, và Tây Berlin chia sẻ sự thịnh vượng đó.

Ông Frederick Taylor, một chuyên gia về Bức tường Berlin, tác giả cuốn The Berlin Wall – A World Divided 1961-1989 – tạm dịch là Bức tường Berlin – Một Thế giới chia cách 1961-1989, nói rằng Đông Đức cũng có một hình thức tiến bộ kinh tế nào đó, tuy không ở mức ngang với Tây Đức.

Ông Taylor nói: “Trong thời gian từ 1961 đến khoảng 1973-74, tiêu chuẩn sinh hoạt và sự sẵn có của hàng hóa tiêu thụ bên trong Đông Đức được cải thiện rất nhiều. Có máy giặt, máy truyền hình, thậm chí cả xe hơi – có thể phải đợi 5 năm mới mua được một chiếc, nhưng tôi nghĩ vào năm 1961, chỉ có ba phần trăm người Đông Đức có được xe hơi, và đến 1975 thì tỷ lệ đó là 15 phần trăm. Không phải là nước Mỹ, nhưng cũng rất tốt so với tình trạng trước đó. Vấn đề là tất cả là nhờ vào dầu và nguyên liệu do Nga trợ cấp.”

Vào giữa thập niên 1970 diễn ra vụ chấn động về dầu hỏa ở Trung Đông, đẩy mạnh giá dầu. Các khoản trợ cấp của Liên bang Xô viết bị cắt và theo ông Taylor, giới lãnh đạo Đông Đức không còn có khả năng cung cấp cho công dân hàng tiêu thụ nữa.

Ông Taylor nói: “Hoa quả và rau cỏ nhập khẩu chẳng hạn, bắt đầu biến mất khỏi các quầy hàng. Chỉ là những thứ lặt vặt – như không có đủ hắc ín để rải đường, nên đường càng ngày càng xấu. Lúc đầu đã khá xấu, nhưng còn tệ hơn nữa vào thập niên 1970 và bước vào thập niên 1980. Các tòa nhà không được sửa chữa. Mọi thứ không được nhập – các mặt hàng xa xỉ vân vân – chỉ có được nếu có những khoản ngoại tệ lớn, tiền có giá, cụ thể là đôla Mỹ hay đồng Mark của Đức chẳng hạn.”

Ông Taylor và những người khác nói cho đến khi ông Ronald Reagan lên làm tổng thống năm 1980, quân đội, nhưng nhất là sự yếu kém về kinh tế của Đông Âu và toàn bộ khối Xô viết đã trở nên rõ ràng.

(Ảnh tư liệu) Tổng thống Mỹ Ronald Reagan (phải) và nhà lãnh đạo Liên bang Xô viết Mikhail Gorbachev ký Hiệp ước Các lực lượng Hạt nhân tầm trung (INF) tại Tòa Bạch Ốc, 8/12/1987.

(Ảnh tư liệu) Tổng thống Mỹ Ronald Reagan (phải) và nhà lãnh đạo Liên bang Xô viết Mikhail Gorbachev ký Hiệp ước Các lực lượng Hạt nhân tầm trung (INF) tại Tòa Bạch Ốc, 8/12/1987.

Các nhà phân tích nói một người cảm thấy sự yếu kém này và biết rằng chế độ cộng sản phải thay đổi là ông Mikhail Gorbachev, người đã trở thành nhà lãnh đạo liên bang Xô viết vào tháng 3 năm 1985.

Ông Serge Schmemann là một cựu thông tín viên ở Moscow và Bonn của tờ New York Times, nêu nhận xét:

“Một khi ông Gorbachev đề xuất chính sách đổi mới glasnost, một khi ông nới lỏng những dây trói, là tất cả các nước Đông Âu bắt đầu cảm nhận một hình thức phong trào hoặc bên trong các đảng cộng sản hoặc từ bên dưới lên – một sự cởi lỏng.”

Tại Đông Âu, sự độc quyền của các đảng cộng sản, được Liên bang Xô viết hỗ trợ từ mấy chục năm, đang trên đường bị phá huỷ. Ba Lan và Hungary dẫn đầu.

Các chuyên gia phân tích nói năm 1989 là một năm quyết định. Sử gia Frederick Taylor nói một quyết định của ông Gorbachev đã có hậu quả tức thời cho Đông Âu – nhất là Đông Đức.

Ông Taylor kể: “Điểm thực sự cấp thiết vào năm 1989 xuất hiện vào mùa hè khi mọi sự rõ ra là ông Gorbachev, nhà lãnh đạo cải cách mới ở Liên bang Xô viết không sẵn sàng sử dụng Hồng Quân để đàn áp giới bất đồng, đàn áp các cuộc biểu tình, đàn áp sức ép đòi cải cách ở bên trong Đông Đức. Và giờ khắc mà theo một cách nào đó, ông ấy rút đi một phần tư triệu ngọn mác đã giữ vững toàn bộ nước cộng sản Đông Đức, cũng chính là lúc bức tường trở nên vô vọng.”

Ông Gorbachev thực sự đã bác bỏ chủ thuyết Brezhnev nói rằng nếu bất cứ nước nào tìm cách tách ra khỏi sự kiểm soát của Xô viết, thì Moscow có thể dùng vũ lực can thiệp như vào năm 1956 ở Hungary, và năm 1968 ở Tiệp Khắc.

Các chuyên gia phân tích nói một khi ông Gorbachev có quyết định đó, các diễn biến ở Đông Âu và nhất là ở Đông Đức tăng hẳn nhịp độ.

Ông Taylor nói vào tháng 8, chính phủ Hungary đã có quyết định quan trọng là mở cửa biên giới với nước Áo.

Ông Taylor kể: “Điều này có nghĩa là thực ra, lần đầu tiên từ gần 30 năm, người dân Đông Đức có thể ra khỏi nước để sang một nước bạn cộng sản, đó là Hungary – và bước vào một nước tư bản là nước Áo, rồi từ đó đi bất cứ nơi nào họ thích: đi Munich, Miami, Montevideo – bất cứ nơi nào họ muốn. Và sau đó những người còn ở lại Đông Đức đã biểu tình đòi cải cách, đòi được phép đi lại một cách dễ dàng và hợp pháp, đòi chấm dứt những cuộc bầu cử gian lận, đòi cải thiện kinh tế.”

Nhà sử học nói các cuộc biểu tình tăng lên khắp Đông Đức trong các tháng 9 và tháng 10 năm 1989. Các cuộc biểu tình đó ôn hoà. Các cuộc biểu tình lớn nhất diễn ra ở thành phố Leipzig.

Ông Taylor nói vào đầu tháng 10, một cuộc tập hợp ồ ạt được tổ chức ở thành phố ấy. Các binh sĩ dù tinh nhuệ sẵn sàng chờ lệnh. Họ được phép sử dụng đạn thật nếu cần. Ông Taylor nói người đứng đầu đảng Cộng sản Đông Đức là ông Erich Honecker cùng các nhà lãnh đạo khác xem cuộc biểu tình trên đài truyền hình.

Ông Taylor nhắc lại: “Họ phải quyết định phải làm gì. Và đây là điểm then chốt mà ông Honecker, một người theo chủ trương cứng rắn cũ, vẫn còn lẩm bẩm, ‘ta phải có biện pháp nào đó. Ta phải đưa tất cả những tay cảnh sát này và đám binh sĩ này tới, mà chúng ta lại không làm gì cả.’ Và ông đã quay ra nói với vị tướng lãnh quân đội trong phòng. Và vị tướng lãnh quân đội nói ‘Tôi sẽ không làm điều đó. Tôi sẽ không ra lệnh ấy.’ Và đó chính là lúc – thời điểm đó và việc ông Gorbachev không muốn sử dụng Hồng quân. Và rõ ràng là không thể ngăn được các cuộc biểu tình bằng vũ lực. Có thể nói sẽ không giống như Quảng trường Thiên An Môn. Phải lưu ý rằng Bộ chính trị của đảng Cộng sản Đông Đức là một trong số ít các nước Đông Âu đến năm 1989 đã gửi lời chúc mừng ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc sau vụ đàn áp Thiên An Môn hồi tháng 6 năm 1989.”

Trong vòng vài tuần lễ, ông Erich Honecker đã ra đi. Ban lãnh đạo mới chuẩn bị các quy định cập nhật cho việc du hành ra nước ngoài.

Một cảnh vệ Tây Berlin đứng trước bức tường bê tông chia cắt Đông và Tây Berlin ở Bernauer Strasse, trong khi các công nhân Đông Berlin chất các khối gạch lên bức tường để xây cao bức tường chắn này, 7/10/1961.

Một cảnh vệ Tây Berlin đứng trước bức tường bê tông chia cắt Đông và Tây Berlin ở Bernauer Strasse, trong khi các công nhân Đông Berlin chất các khối gạch lên bức tường để xây cao bức tường chắn này, 7/10/1961.

Tại một cuộc họp báo ngày 9 tháng 11 ở Đông Berlin, ông Guenter Schabowski, một thành viên của Bộ chính trị cầm quyền Đông Đức, tuyên bố du hành tư nhân và xuất cảnh vĩnh viễn khỏi Đông Đức nay được phép. Được hỏi khi nào thì luật lệ có hiệu lực, ông Schobowski nói ngay lập tức, không trì hoãn.

Sau đây vẫn là lời sử gia Frederick Taylor:

“Đa số dân chúng ở Đông Berlin, nhất là vào thời điểm khi các diễn biến quan trọng xảy ra hàng ngày, đã không theo dõi tin tức chính thức của Đông Đức kể lại toàn bộ việc này theo một phiên bản được sửa đổi và nói hãy xếp hàng một cách có trật tự tại văn phòng cấp hộ chiếu ở địa phương vào ngày mai. Họ xem truyền hình của Tây Đức và đài truyền hình Tây Đức nói ‘bức tường đã sập, bức tường đã mở.’ Và trước cuối bản tin 15 phút, mọi người bắt đầu đến nơi, người dân Đông Đức, người dân Đông Berlin bắt đầu đến các trạm kiểm soát khác nhau và nói, ‘được rồi, chúng tôi phải làm gì để ra khỏi đây?’”

Rất mau chóng, hàng ngàn người Đông Đức đã tụ tập ở các trạm kiểm soát. Ông Taylor nói vụ chen lấn tại các chốt biên giới này không thể tưởng tượng được. Binh sĩ canh gác không được lệnh nào. Cuối cùng họ nói, “Hãy mở các cổng ra.”

Ông Taylor kể tiếp: “Thế là hàng ngàn người, dĩ nhiên ùa vào Tây Berlin và mọi việc bung ra. Đến hết đêm, tất cả các chốt biên giới khác đều mở và người Đông Berlin tràn vào Tây Berlin, còn người Tây Berlin, thì tràn vào Đông Berlin, bởi vì, tại sao không? Ta có thể trở lại mà.”

Cựu thông tín viên của tờ New York Times Serge Schmemann có mặt ở đó.

Ông nói: “Vào khoảng nửa đêm, tôi đến bức tường và buổi liên hoan lên đến cực điểm. Có người nhảy múa trên bức tường, đổ xô qua bức tường, và tất cả những người Tây Đức đem rượu sâm panh tới. Rượu đổ tràn hàng trăm thước về mọi hướng. Đó là một buổi liên hoan trác tuyệt kéo dài nhiều ngày. Và tôi còn nhớ đó là một trong những bữa tiệc đẹp nhất mà tôi từng đến dự. Thực là một giờ khắc hân hoan tột cùng.”

Cuối cùng, bức tường Berlin đã sụp đổ mà không có một tiếng súng nổ. Như sử gia Anh Frederick Taylor nói, vào cuối ngày 9 và 10 tháng 11 mọi người đều cảm thấy rằng mọi thứ và bất cứ thứ gì đều có thể xảy ra được.

Janet Nguyễn, người phụ nữ VN đầu tiên được bầu vào Thượng viện California

Janet Nguyễn, người phụ nữ VN đầu tiên được bầu vào Thượng viện California

Hoài Vũ, phóng viên RFA
2014-11-09

11092014-janet-ngy-win-senat.mp3

Janet Nguyễn, người phụ nữ gốc Việt đầu tiên trở thành thượng nghị sĩ tiểu bang California.

Janet Nguyễn, người phụ nữ gốc Việt đầu tiên trở thành thượng nghị sĩ tiểu bang California.

Photo Ngọc Lan, RFA

Cộng đồng người Việt khắp nước Mỹ hân hoan vui mừng sau khi có tin Janet Nguyễn đắc cử vào thượng viện bang California. Ở tuổi 37, Janet Nguyễn là phụ nữ châu Á đầu tiên của đảng Cộng hoà được bầu vào thượng viện bang California và là phụ nữ gốc Việt đầu tiên là thượng nghị sĩ đắc cử ở một bang của nước Mỹ. Tạp chí phụ nữ tuần này xin giới thiệu chân dung người phụ nữ giỏi giang này.

Trước hôm 4/11, cái tên Janet Nguyễn đã nổi đình đám trong cộng đồng người Việt nói riêng, cộng đồng Mỹ ở bang California nói chung. Bà Janet Nguyễn, năm nay mới 37 tuổi, hiện là phụ nữ gốc Việt giữ vị trí cao nhất trong chính phủ Mỹ.

Janet Nguyễn tranh cử vào thượng viện bang California với chủ trương cổ vũ giáo dục cấp đai học cho thanh niên, bảo vệ duy trì thuế, đặc biệt là thuế đất. Bà cũng đứng về phía các doanh nghiệp ở California, để có thể tạo nhiều công ăn việc làm ở bang này.

Bà vừa được bầu vào thượng viện bang, đại diện cho quận 34, từ Long Beach tới Orange County. Phát biểu về cảm nghĩ sau khi đắc cử, Thượng nghị sĩ đắc cử Janet Nguyễn cho biết:

Janet Nguyễn: Mình rất là mừng, cái mừng đó không phải mừng cho riêng Janet Nguyễn mà mình mừng cho cộng đồng chúng ta, cộng đồng Việt Nam, cộng đồng Mỹ gốc Việt đã trong 40 năm qua Mỹ, bỏ nước mẹ của chúng ta, bỏ quê hương, bây giờ mình có được một đứa con gái, một đứa cháu của cộng đồng thành thượng nghị sĩ của tiểu bang lớn nhất ở trong nước Hoa Kì. Số phiếu mình mà số đầu tiên nó rất là mạnh, rất là nhiều. Cái đó nói sức mạnh của cộng đồng và tiếng nói của mình đã đoàn kết  bởi vì không có cách nào Janet thắng được con số rất mạnh mẽ như vậy được mà không có cộng đồng đoàn kết với nhau.

” Mình rất là mừng, cái mừng đó không phải mừng cho riêng Janet mà mình mừng cho cộng đồng chúng ta, cộng đồng VN, cộng đồng Mỹ gốc Việt đã trong 40 năm qua Mỹ, bỏ nước mẹ của chúng ta, bỏ quê hương, bây giờ mình có được một đứa con gái, một đứa cháu của cộng đồng thành thượng nghị sĩ của tiểu bang lớn nhất ở Hoa Kì

Janet Nguyễn”

Giấc mơ Mỹ

Trong video phát động tranh cử, Janet Nguyễn cho biết quá khứ của gia đình bà đã định hướng cho những suy nghĩ của bà. Bà nói rằng gia đình bà đã đạt được cái gọi là “Giấc mơ Mỹ” song cũng phải trải qua đủ đắng cay ngọt bùi.

Câu chuyện của gia đình Janet Nguyễn cũng giống nhiều người Việt Nam từng làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà trước đây. Janet Nguyễn sinh năm 1976 tại Sài Gòn. Cha của bà từng là một người lính trong dhính quyền Sài Gòn cũ. Sau năm 1975, cả gia đình đã phải trốn về quê sống cùng bà ngoại của Janet Nguyễn để tránh không phải vào trải cải tạo của chế độ mới.

Gia đình của nữ thượng nghị sĩ đắc cử đã trốn đi nước ngoài nhiều lần, tuy nhiên cũng nhiều lần thất bại. Sau mỗi lần thất bại như thế, cha mẹ của Janet Nguyễn bị tống giam còn anh chị em của bà thì ở cùng bà ngoại. Cuối cùng, khi bà 3-4 tuổi, gia đình bỏ đi sang Thái Lan. Lúc này, Thái Lan không thể tiếp nhận thêm người tị nạn do quá nhiều người bỏ sang quốc gia này. Họ không có nhiều sự lựa chọn nào nữa. Janet Nguyễn kể lại về chuyến vượt biên cùng mẹ:

Janet Nguyen: Lúc đó, chúng tôi chỉ có ba sự lựa chọn. Trở về Việt Nam mà không còn đồ ăn và nước uống thì cũng chết thôi. Nếu trở về được thì dễ bị giết. Sự lựa chọn thứ ba là đánh đắm cái thuyền rồi bơi vào bờ.

Khi đến Thái Lan, cả gia đình được đoàn tụ và sau đó họ được một nhà thờ giúp đỡ làm giấy tờ sang Mỹ vào năm 1981, khi đó Janet Nguyễn mới 5 tuổi. Janet Nguyễn nhớ lại:

Janet Nguyễn: Khi qua Mỹ, gia đình mình rất nghèo mà lại không biết tiếng Anh. Mình cũng sống nhờ trợ cấp và tem phiếu.

Nữ thượng nghĩ sĩ cho biết bà đi học trường công và nhận đồ từ thiện, chẳng hạn như quần áo thì nhận từ Salvation Army. Có lúc, bà phải mặc đồ con trai đi học do họ không có đủ đồ dành cho các cô bé gái. Đến Giáng sinh, gia đình họ không có tiền để mua quà mà phải nhờ tới lòng thương của nhà thờ.

” Mình muốn đóng góp vào trong tiến trình này, rằng những cái luật gì mà ảnh hưởng tới một người như Janet, một người phụ nữ, một người Mỹ gốc Việt, một người mẹ, một người trả thuế, một người có doanh nghiệp nhỏ, một người đi làm, mình muốn nêu lên những mối quan tâm của những người đó tới những người dân cử

Janet Nguyễn “

Cha mẹ của Janet Nguyễn hết lòng vì con cái. Trong khi đi học tiếng Anh ở một trường học, ông còn tranh thủ làm bồi bàn cho một nhà hàng. Cả hai cha mẹ của Janet Nguyễn đều đi làm để con cái có thể đến trường học đại học và trở thành bác sĩ, luật sư. Janet Nguyễn đáng lẽ sẽ trở thành một bác sĩ như mong ước của cha mẹ bà. Trong năm thứ hai đại học ở trường California tại Irvine, bà học một lớp về chính trị và từ đó say mê con đường này. Lớp học của Janet Nguyễn khi đó do một giáo sư khách mời đứng lớp. Đó chính là chủ tịch ban giám sát Bill Steiner. Bà Janet Nguyễn khi đó vừa đi học vừa đi làm ba công việc ngoài giờ đã xin thực tập ở chỗ của vị giáo sư kia. Sau khi đợt thực tập kết thúc, bà cảm thấy muốn đóng một vai trò tích cực hơn trong quá trình xây dựng luật ảnh hưởng tới phần đông dân số.

Janet Nguyễn kể lại:

Janet Nguyen: Mình thấy đi làm bác sĩ giúp người cũng tốt thôi, nhưng trong xã hội thì mọi thứ đều do chính phủ lãnh đạo. Vì thế, mình muốn đóng góp vào trong tiến trình này, rằng những cái luật gì mà ảnh hưởng tới một người như Janet, một người phụ nữ, một người Mỹ gốc Việt, một người mẹ, một người trả thuế, một người có doanh nghiệp nhỏ, một người đi làm, mình muốn nêu lên những mối quan tâm của những người đó tới những người dân cử đưa ra luật ảnh hưởng tới đời sống của mình.

Kể từ đó, Janet ngày càng đi sâu vào con đường chính trị. Bà trở thành người phụ nữ gốc Á đầu tiên của đảng Cộng hoà trong Thượng viện bang California. Bà hiện vẫn giữ chức giám sát viên của quận Cam, bang California.

” Một cái mình muốn cho các em gái biết là mình chỉ cần làm việc chăm chỉ thôi, đừng tạm ngừng sự nghiệp vì mình muốn có một gia đình. Chúng ta có thể có cả hai. Có thể khó khăn hơn nhưng mình làm được

Janet Nguyễn”

Chiến thắng của Janet Nguyễn trong cuộc bầu cử vừa qua có thể coi là một chiến thắng lịch sử cho phụ nữ di dân. Nó cũng cho thấy sự trưởng thành của cộng đồng gốc Việt trong xã hội Mỹ sau gần 40 năm có mặt trên mảnh đất của những cơ hội đổi đời này.

Người vợ, người mẹ

Người ta biết đến Janet Nguyễn với vai trò một chính trị gia thành công. Ngoài ra, bà còn là một người vợ và là mẹ của hai cậu con trai, Tommy, năm nay 3 tuổi, và Timothy mới 21 tháng tuổi. Đối với người phụ nữ này, gia đình chính là một chỗ dựa vững chắc cho bà. Bà cho biết làm chính trị cũng chính là vì thế hệ tương lai.

Janet Nguyen: Cái chính trị mình làm là vì tương lai con cái, không phải là chỉ vì con cái của Janet mà là con cái của cả cộng đồng mình, con cái của hạt 34.

Chồng của Janet Nguyễn, tên là Tom Bonikowski, luôn ủng hộ bà trong con đường sự nghiệp làm chính trị. Ông chính là người đầu tiên bà hỏi ý kiến khi muốn ra tranh cử thượng nghị sĩ bang California. Trong những tháng ngày vận động tranh cử cam go, Tom luôn đảm bảo hai cậu con vẫn duy trì cuộc sống thường nhật. Bà Janet Nguyễn cho biết:

Janet Nguyen: Chồng mình rất ủng hộ mình. Hai đứa con còn thỉnh thoảng tham gia các cuộc họp với mình. Tommy, ba tuổi, còn đi gõ cửa từng nhà để xin phiếu (cho mẹ).

Dù công việc vận động tranh cử bận rộn, nữ thượng sĩ đắc cử cho biết bà luôn về nhà ăn bữa tối một tuần ba lần. Gia đình bà cũng đi theo các cuộc họp để gắn kết nhau hơn.

Bà khẳng định rằng một phụ nữ có thể có tất cả, cả gia đình hạnh phúc lẫn sự nghiệp chính trị thành công. Bà khuyên các cô gái như sau:

Janet Nguyễn: Một cái mình muốn cho các em gái biết là mình chỉ cần làm việc chăm chỉ thôi, đừng tạm ngừng sự nghiệp vì mình muốn có một gia đình. Chúng ta có thể có cả hai. Có thể khó khăn hơn nhưng mình làm được.

Nữ chính trị gia Janet cho rằng chìa khóa của sự thành công là tìm được một sự nghiệp mà bản thân thực sự say mê. Bà nói niềm đam mê của bà là phục vụ cộng đồng. Bà nói rằng bà muốn có mặt tại nơi mà các quyết định được đưa ra ảnh hưởng tới những người như bà. Đó chính là chìa khoá thành công của nữ chính trị gia gốc Việt, người phụ nữ gốc Việt đầu tiên được bầu vào trong thượng viện của bang California.

Tạp chí phụ nữ tuần này xin tạm dừng tại đây. Hải Ninh xin cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Mọi đề nghị hay thắc mắc liên quan tới nội dung của trang tạp chí phụ nữ, xin mời quý thính giả gửi tới hộp thư của ban Việt Ngữ tại vietweb@rfa.org hoặc trang Facebook của đài Á châu Tự do tại www.facebook.com/rfavietnamese.

Hải Ninh xin chúc quý vị một tuần mới vui vẻ.