Nhiều người Mỹ hối tiếc vì Hoàng Sa 1974′

Nhiều người Mỹ hối tiếc vì Hoàng Sa 1974′

Thứ ba, 3 tháng 6, 2014

Hải quân Trung Quốc

Trung Quốc muốn khẳng định vị thế siêu cường quân sự số một thế giới, theo giới quan sát.

Trước những gì Trung Quốc đang thể hiện ở Biển Đông, Hoa Kỳ nay thấy ‘hối tiếc’ vì từng ‘bật đèn xanh’ để Trung Quốc chiếm thuận lợi các đảo ở Hoàng Sa từ tay chính quyền Việt Nam Cộng hòa năm 1974, theo một nhà phân tích tình hình châu Á và Trung Quốc từ Mỹ.

Hoa Kỳ có vẻ đã đánh đổi một lợi ích ngắn hạn, để ngày nay nhận lấy việc để cho vị thế quân sự và chính trị chiến lược của Hoa Kỳ ở châu Á – Thái Bình Dương bị Trung Quốc thách thức, vẫn theo ý kiến này.

Trao đổi với BBC hôm 02/6/2014 từ Đại học Maine, Hoa Kỳ, Giáo sư Ngô Vĩnh Long nói:

“Theo tôi biết, trong nội bộ hai đảng ở Mỹ là đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, đúng là có nhiều người nuối tiếc.”

“Lúc đó Mỹ đang chơi lá bài Trung Quốc và Mỹ kéo những chiến hạm của họ ra xa để họ không can dự, để cho Trung Quốc có thể đánh chiếm.

“Theo tôi biết, trong nội bộ hai đảng ở Mỹ là đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, đúng là có nhiều người nuối tiếc”

GS. Ngô Vĩnh Long

“Khi Trung Quốc lấy quần đảo Hoàng Sa, chiếm một số đảo ở Hoàng Sa và chiếm một số đảo ở Trường Sa, là cố tình để xây dựng cơ sở để chiếm lĩnh toàn bộ Biển Đông, gây mất an ninh và bắt chẹt thế giới.”

Theo Giáo sư Long, xâu chuỗi các sự kiện qua nhiều năm, có thể thấy những động thái của Trung Quốc tại Biển Đông nay đã là một vấn đề an ninh ở cấp độ thế giới mà không chỉ còn riêng ở tầm khu vực.

Ông nói: “Đây là vấn đề an ninh của khu vực, vấn đề an ninh của toàn thế giới, chứ không chỉ là vấn đề Trung Quốc đặt một giàn khoan hay là vấn đề tranh cãi chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc về đảo Hoàng Sa.”

Giáo sư Ngô Vĩnh Long cho rằng chính giới Mỹ đã nhận ra ‘lỗi lầm’ khi tính toán sai và để Trung Quốc nay có điều kiện thuận lợi ‘thách thức’ và ‘lấn lướt’ Mỹ ở khu vực, đe dọa an ninh quốc tế. Nhưng nhà phân tích cũng liên hệ trách nhiệm với quốc tế và ở khu vực của Việt Nam trong đối sách với các thách thức của Trung Quốc.

Ông Long nói: “Lúc đó, Mỹ vẫn còn chơi lá bài Trung Quốc, Mỹ ủng hộ Trung Quốc rất mạnh. Nhưng bây giờ là lúc khác, bây giờ mọi người thấy rõ ràng rằng năm 1974 và năm 1988, và sau đó Mỹ để cho Trung Quốc chiếm một số đảo của cả Philippines là những lỗi lầm. Bây giờ Mỹ và các nước trong khu vực thấy đây là lỗi lầm, mà bây giờ họ thấy đây là sự đe dọa cho cả khu vực và cho cả thế giới.

“Nếu bây giờ Việt Nam không cương quyết, tôi nghĩ đây đúng là lúc mà không phải chỉ có một, hai, ba hay bốn người trong lãnh đạo ở Việt Nam sẽ bị lịch sử lên án sau này, mà nhiều người trên thế giới sẵn sàng lên án Việt Nam là không giúp họ bảo vệ an ninh trong khu vực và cho thế giới mà lại ỡm ờ.”

Hôm 30/5, Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng nói với hãng tin Mỹ Bloomberg rằng Việt Nam đã ‘chuẩn bị xong’ các bằng chứng và đã sẵn sàng để kiện Trung Quốc về vụ giàn khoan Hải Dương 981.

Trong khi đó, hôm 31/5, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh nói với diễn đàn Shangri-La rằng quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn ‘tốt đẹp’ và kêu gọi Trung Quốc ‘cùng đàm phán’ với Việt Nam về vụ hạ đặt giàn khoan.

Bình luận về những phát biểu này, Giáo sư Long nói: “Tôi hy vọng rằng Việt Nam nói nhún nhường như thế, nhưng lại có đi đêm phía sau, tất nhiên nói nhẹ nhàng như vậy để mua thời gian, nhưng đằng khác chuẩn bị để có những quan hệ tốt hơn với Nhật Bản, Philippines, Malaysia và qua đó với Mỹ…

“Bề ngoài nói như vậy là một chuyện khác, nhưng tôi mong rằng phía bên trong có những bước đi chắc chắn, chứ nếu một sự thoái lui… thì cái đó rất đáng tiếc cho đất nước.”

‘Nước cờ không thể thối lui’

Về khả năng giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể có ‘thỏa thuận ngầm’ để Việt Nam không kiện, nhà phân tích bình luận: “Không biết là lãnh đạo Việt Nam có nghĩ là họ có thể đàm phán song phương với Trung Quốc hay không, nhưng nếu họ làm như thế thì Việt Nam sẽ cô lập mình đối với toàn thế giới và như vậy Việt Nam sẽ bị Trung Quốc càng ngày càng bắt chẹt.

Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói Việt Nam đã sẵn sàng kiện Trung Quốc.

“Đây là một cơ hội rất lớn cho Việt Nam để chứng minh cho thế giới biết rằng khi Trung Quốc lấy đảo Hoàng Sa và chiếm một số đảo ở Trường Sa là cố tình để xây dựng những cơ sở ở đó để chiếm lĩnh toàn bộ Biển Đông, gây mất an ninh và bắt chẹt thế giới.”

Theo Giáo sư Long, đây là thời điểm quyết định để Việt Nam xử lý dứt điểm vấn đề chủ quyền biển đảo với Trung Quốc.

Ông nói: “Đây là một cơ hội rất tốt để Việt Nam vận động sự ủng hộ của thế giới. Bây giờ thụt lùi, thì rõ ràng không những mất mặt cho Thủ tướng Dũng, mà còn cho các nước khác thấy là họ ‘bị lừa’ hay sao đấy.”

Ông nói tiếp: “Tôi nghĩ rằng đã dũng cảm nói ra rồi, dân chúng ủng hộ rồi, thế giới họ cũng vỗ tay rồi, mà bây giờ rụt đi nữa, thì không những anh mất tiếng đối với thế giới, mà anh cũng để cho những đối thủ của anh ngay trong nước dùng cái đó để tấn công anh để hạ anh.

“Tôi nghĩ rằng những người ủng hộ đường lối của Thủ tướng nên thúc đẩy Thủ tướng. Nghĩa là đây là nước cờ cũng như là nước cờ cuối rồi mà anh đã đi một nước cờ như vậy, mà anh lại thối lùi nữa, anh sẽ không những thua mà lại có hại cho đất nước nữa,” Giáo sư Long nói với BBC.

Thất vọng lớn sau một tháng mất chủ quyền

Thất vọng lớn sau một tháng mất chủ quyền

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-02

06022014-hd981-namnguyen.mp3

053_4SOUTHCHINASEA20140529-600.jpg

Các thuyền viên của tàu tuần tra Cảnh sát biển Việt Nam trên vùng quần đảo Hoàng Sa hôm 28/5/2014.

AFP photo

Giàn khoan HD 981 của Trung Quốc với sự yểm trợ của phi cơ, tàu chiến, tàu hải cảnh, hải giám đã hạ đặt, khoan thăm dò và di chuyển ở vùng biển Việt Nam từ ngày 2/5 đến nay đã bước sang tháng thứ hai.

Tình hình bế tắc, vì sao?

Học giả Đinh Kim Phúc một nhà nghiên cứu biển Đông từ Saigon bày tỏ sự thất vọng lớn lao về các đối sách và cách thực hiện của nhà nước trong vụ giàn khoan HD 981. Ông nói:

“Vấn đề giàn khoan HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam đến nay đã một tháng. Mặc dù Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những tuyên bố hết sức rõ ràng, những quan điểm được nhân dân ủng hộ. Nhưng rất tiếc rằng, hình như có một lấn cấn gì đó trong đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay về giải quyết vấn đề trong mối quan hệ với Trung Quốc… Và qua những phát biểu của Đại tướng Phùng Quang Thanh Bộ trưởng Quốc phòng ở Singapore vừa qua đã làm cho mọi người thất vọng.”

Theo Học giả Đinh Kim Phúc, những hành động của Trung Quốc khởi nguồn từ năm 1956 khi đánh chiếm phần phía tây, phần phía đông quần đảo Hoàng Sa rồi đến năm 1974 là cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, đến năm 1988 đánh chiếm một số đảo trên quần đảo Trường Sa và đỉnh điểm là giàn khoan HD 981 kéo vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Tất cả những hành động này Trung Quốc đã vi phạm điều 2 khoản 4 Hiến chương Liên Hiệp Quốc có nghĩa là dùng vũ lực đánh chiếm vùng lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền. Học giả Đinh Kim Phúc nhấn mạnh:

“Đây là một hành động xâm lược chứ không gọi là xung đột, cũng không gọi là va chạm trên biển, là một Bộ trưởng Quốc phòng mà lại hạ thấp tính chất xâm lược của Trung Quốc vẫn hy vọng Trung Quốc sẽ vì tình hữu nghị 16 chữ vàng 4 tốt để dời giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế lãnh thổ Việt Nam là một ảo tưởng.

Mình là người trong cuộc, mình là người bị xâm lược nhưng vẫn mong kẻ xâm lược ban bố cho một số đặc ân gì đó thì hoàn toàn là ảo tưởng. Tôi hoàn toàn thất vọng trong vấn đề này.
– Học giả Đinh Kim Phúc

Tôi đã thất vọng với phát biểu của ông Bộ trưởng Quốc phòng và tôi từng nói rằng, cái ý thức hệ đồng chí anh em đã không giải quyết được trọn vẹn thắng lợi của Việt Nam tại trận Điện Biên Phủ thể hiện ra Hội nghị Genève 1954.  Ý thức hệ cũng không cứu Việt Nam ra khỏi việc mất biển đảo và ngày hôm nay ý thức hệ đó đã chứng minh là lạc hậu lỗi thời nhưng một số người vẫn còn bám vào ý thức hệ đó thì tôi không biết rằng đây là  chiến lược hay chiến thuật.

Nhưng dù chiến thuật hay chiến lược thì vẫn là một sai lầm nghiêm trọng trong đối sách với bọn xâm lược, trong khi những cường quốc trên thế giới họ thấy được sức yếu của Việt Nam, thấy được chính nghĩa của Việt Nam, họ lên tiếng ủng hộ. Mình là người trong cuộc, mình là người bị xâm lược nhưng vẫn mong kẻ xâm lược ban bố cho một số đặc ân gì đó thì hoàn toàn là ảo tưởng. Tôi hoàn toàn thất vọng trong vấn đề này.”

Cơ hội đang bị bỏ lỡ

053_6SOUTHCHINASEA201405291135-200.jpg

Một lính hải quân trên tàu Cảnh sát biển Việt Nam quan sát tàu Trung Quốc trong vùng biển Đông hôm 27/5/2014. AFP photo

Dư luận rất thắc mắc về việc Nhà nước cứ mãi chần chừ chưa sử dụng biện pháp pháp lý, hay nói cụ thể khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Trên báo chí Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rằng giải pháp đấu tranh pháp lý đã được nhà nước chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ Chính trị sẽ quyết định.

TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập từ Saigon phát biểu:

“Tôi có cảm giác bộ chính trị Việt Nam luôn luôn có tình trạng ngần ngừ chần chừ và không quyết đoán, lúc này thì ông Nguyễn Tấn Dũng nói chờ Bộ Chính trị, nhưng mà tôi có cảm giác là Bộ Chính trị đang chờ ông Nguyễn Tấn Dũng. Còn ông Nguyễn Tấn Dũng lại có vẻ đang chờ ông Phạm Bình Minh, ông Phạm Bình Minh sắp tới có thể đi Mỹ theo lời mời của ông John Kerry. Tất cả mọi người chờ nhau, tóm lại là nhà nước Việt Nam hình như đang chờ động thái từ phía Mỹ. Phía Mỹ đã tuyên bố thẳng thắn thẳng thừng đối với Trung Quốc như vậy rồi thì người Việt Nam còn chờ cái gì nữa và nếu như người Việt Nam không hành động, thì làm sao phía Mỹ có thể ra tay được và có thể tăng cường hạm đội 7 để giúp cho Việt Nam bảo vệ lãnh hải trên biển Đông được.”

Phải chăng Việt Nam đang bỏ lỡ thời điểm thích hợp nhất để sử dụng biện pháp pháp lý chống lại việc Trung Quốc xâm phạm vùng biển chủ quyền Việt Nam. Học giả Đinh Kim Phúc đưa ra nhận định:

Phía Mỹ đã tuyên bố thẳng thắn thẳng thừng đối với Trung Quốc như vậy rồi thì người Việt Nam còn chờ cái gì nữa và nếu như người Việt Nam không hành động, thì làm sao phía Mỹ có thể ra tay được…
– TS Phạm Chí Dũng

” Tôi nghĩ rằng việc trung Quốc kéo giàn khoan HD 981, đây là thời điểm chín mùi để Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế để bảo vệ chủ quyền của mình không còn thời cơ nào nữa cả. Vì bản thân Trung Quốc trong vấn đề biển Đông, không phải mới đây thời Tập Cận Bình, hay trước đây thời Hồ Cẩm Đào mà Đặng Tiểu Bình đã định nghĩa ‘chủ quyền thuộc ngã gác tranh chấp cùng nhau khai thác’, đây là phương châm bất di bất dịch của Trung Quốc và Trung Quốc ôm mộng nuốt trọn biển Đông cũng như biển Hoa Đông.

Đừng ảo tưởng đối với Trung Quốc và cũng đừng ảo tưởng đối với cường quốc nào vào bênh Việt Nam, bảo vệ Việt Nam, vì mỗi cường quốc họ đều có quyền lợi của họ. Việt Nam phải biết phát huy nội lực của mình để bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ. Còn những ai không biết phát huy nội lực, không biết biến thời cơ thành sức mạnh, không tranh thủ được sự đồng thuận của thế giới thì lịch sử muôn đời sẽ nguyền rủa kẻ đó.”

Vào thời điểm ngày thứ 31, Trung Quốc duy trì giàn khoan HD 981 và lực lượng tàu chiến, máy bay chiếm cứ vùng biển Việt Nam, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, một nhà hoạt động xã hội dân sự hiện sống và làm việc ở Đà Nẵng nhận định:

“Bối cảnh Việt Nam có một bất hạnh đó là ở gần Trung Quốc, nó cài cắm người để nó lèo lái thì đó là một bất hạnh vô cùng cho dân tộc Việt Nam. Theo cái đà kiểu như thế này thì mất nước là cái chắc…”

Tuy vậy, GSTS Nguyễn Thế Hùng nhận định rằng, cùng tắc biến và đây là cơ hội cho một nước Việt Nam thay đổi xây dựng thể chế dân chủ, mọi người dân thực sự làm chủ đất nước của mình. Theo lời ông tới một lúc nào đó cả dân tộc sẽ vùng lên như là thác đổ thì không có thế lực nào ngăn cản được. GSTS Nguyễn Thế Hùng tin rằng thể chế dân chủ sẽ giúp cho Việt Nam thoát khỏi sự lệ thuộc Trung Quốc.

Nhật tạm ngưng hỗ trợ ODA cho Việt Nam

Nhật tạm ngưng hỗ trợ ODA cho Việt Nam

Thứ ba, 3 tháng 6, 2014

Nhiều dự án đường sắt ở Việt Nam sử dụng vốn ODA từ Nhật

Nhật Bản tạm ngưng viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam vì cáo buộc hối lộ liên quan tới một dự án đường sắt, truyền thông Nhật đưa tin.

Đại diện chính phủ Nhật Bản đã thông báo cho phía Việt Nam về quyết định này tại một cuộc họp song phương nhằm phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong các dự án sử dụng ODA.

Thông tin trên trang web của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) Việt Nam cho biết cuộc họp này đã diễn ra hôm 2/6, với sự chủ trì của Thứ trưởng GTVT Nguyễn Ngọc Đông và ông Kimihiro Ishikane, Vụ trưởng Vụ hợp tác Quốc tế của Nhật Bản.

Tuy nhiên, trang Bộ GTVT Việt Nam không nói về quyết định đình chỉ của phía Nhật Bản mà chỉ dẫn lời ông Ishikane nói “để có thể tiếp tục triển khai những dự án ODA và nhận được sự thấu hiểu cũng như sự ủng hộ của người dân cả 2 nước thì cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc vụ việc này”.

Trong khi đó, các cơ quan truyền thông Nhật Bản nói Tokyo sẽ đình hoãn việc cho vay ODA giai đoạn 1 của dự án xây dựng đường sắt đô thị số 1.

Hãng tin AFP thì cho biết thêm các khoản cho vay mới cũng bị tạm ngừng.

Bản tin của hãng thông tấn AFP cho biết Nhật Bản cũng đã đình chỉ ODA cho Uzbekistan vì vụ việc liên quan JTC, và đang thảo luận với nhà chức trách Indonesia.

Tuy vậy, chính phủ Nhật Bản nói sẽ xem xét nối lại ODA cho Việt Nam tại một cuộc họp khác vào cuối tháng Sáu, dựa trên kết quả điều tra của Việt Nam.

Đặt điều kiện để nối lại ODA, Tokyo yêu cầu Hà Nội điều tra có xảy ra bê bối hay không trong các hợp đồng liên quan Tập đoàn Tư vấn giao thông Nhật Bản (JTC) và Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam

Tại một cuộc họp cuối tháng Sáu, Nhật Bản sẽ xem xét nối lại ODA sau khi xem kết quả điều tra và biện pháp phòng ngừa của Việt Nam.

Hồi đầu tháng Năm, cơ quan cảnh sát điều tra của Việt Nam đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam 6 bị can nguyên là các viên chức ngành đường sắt Việt Nam.

Điều tra

“Để có thể tiếp tục triển khai những dự án ODA và nhận được sự thấu hiểu cũng như sự ủng hộ của người dân cả 2 nước thì cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc vụ việc này”.”

Ông Kimihiro Ishikane, Vụ trưởng Vụ hợp tác Quốc tế của Nhật Bản

Vụ việc nổi lên hồi cuối tháng Ba, sau khi báo Nhật Yomiuri Shimbun đưa tin Chủ tịch Tập đoàn Tư vấn Giao thông Nhật Bản (JTC) khai với cơ quan công tố Tokyo việc hối lộ một quan chức Việt Nam 80 triệu yen (tương đương 16 tỷ đồng) để giành dự án có sử dụng vốn ODA trị giá 4,2 tỷ yen.

Đây là một phần trong dự án xây dựng tuyến đường sắt trên cao ở Hà Nội.

Theo báo Nhật, ông chủ tịch tập đoàn khai đã chi tiền lại quả cho các quan chức ở Việt Nam, Indonesia và Uzbekistan.

Ông này được cho là đã ký vào bản khai. Trước đó ông đã tự nguyện đến làm việc với Văn Phòng Công tố Tokyo hôm thứ Ba ngày 18/3 sau khi Cục thuế Tokyo phát hiện JTC đã chi một khoản không minh bạch trị giá 130 triệu yen.

Trong tổng số 130 triệu yen chi không minh bạch này, 80 triệu yen là chi cho quan chức Việt Nam, còn 30 triệu chi ở Indonesia và 20 triệu chi ở Uzbekistan.

Tất cả đều với mục đích giúp cho JTC giành được hợp đồng các dự án có sử dụng vốn vay ODA của Nhật ở các quốc gia này.

Trong một diễn biến khác, Bộ trưởng Giao thông Vận tải Việt Nam quyết định cho thay Tổng Giám đốc Đường sắt Việt Nam, trong bối cảnh đang có điều tra nghi án nhận hối lộ từ Tập đoàn JTC (Nhật Bản).

Ông Nguyễn Đạt Tường mất chức tổng giám đốc, để chuyển sang làm thành viên chuyên trách Hội đồng Thành viên của Tổng Công ty này.

Quyết định thay ông Nguyễn Đạt Tường đã có trong tháng Năm, nhưng được công bố chính thức hôm 3/6.

Ông Vũ Tá Tùng, nguyên phó tổng giám đốc Đường sắt Việt Nam, chính thức lên thay vị trí của ông Nguyễn Đạt Tường kể từ ngày 3/6. Ông Tùng cũng đang kiêm chức Tổng Giám đốc Đường sắt Sài Gòn khi có quyết định này.

Bộ Giao thông Vận tải không nói việc ông Nguyễn Đạt Tường mất chức tổng giám đốc là có liên quan tới cuộc điều tra nghi án nhận hối lộ từ Tập đoàn JTC (Nhật Bản).

Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng nói ông Tường là người “đạo đức trong sáng” nhưng “công việc anh làm không tốt nên buộc phải thay”.

“Anh đứng đầu một đơn vị, công việc trì trệ thì anh phải làm việc khác cho phù hợp, lý do chỉ có thế,” Bộ trưởng Thăng cho biết.

CHUYỆN CỦA BỆNH NHÂN TÔI

CHUYỆN CỦA BỆNH NHÂN TÔI

Bs. THANH THỦY

Tri’ch EPHATA 612

Chuyện thứ nhất

“Tốn hơn 2.500.000 đồng bao xe lên Sàigòn khám bệnh được gặp bác sĩ chưa đầy 5 phút !” Câu nói thật lòng của thầy giáo cũ làm tôi thấy ray rứt. Dù thầy không có ý mỉa mai nhưng sao hai con số cứ như lờn vờn, thách thức nhau. Quả thật, tôi cũng có những bệnh nhân từ Phú Quốc, Hà Tiên, Quảng Ngãi, Nha Trang lên thành phố khám bệnh. Cảm giác đầu tiên là tôi thấy đồng nghiệp của mình có lỗi. Có thể vì không giải thích rõ ràng cho bệnh nhân hoặc vì không có nhiều thì giờ để lắng nghe bệnh nhân, hay thậm chí vì bản tính cố hữu là không muốn nghe bệnh nhân nói nhất là những lời kể lể dông dài, ta thán ! Và tôi thấy mình cũng phạm lỗi nếu như không tìm ra đúng bệnh cho bệnh nhân. Bệnh nhân cất công tìm đến đây, vất vả vượt đoạn đường dài, bỏ cả công ăn việc làm chỉ mong gặp bác sĩ nói hết dấu hiệu bệnh tật, đôi khi thổ lộ cả nỗi lòng… Nhưng sao bác sĩ quá đỗi lạnh lùng ! Đôi khi bác sĩ thờ ơ khám bệnh chẳng buồn nhìn mặt bệnh nhân !

Chuyện thứ hai

“Bác sĩ ơi, lần trước bác sĩ quên cho tôi thuốc bao tử !”

“Có chứ, thuốc số 5 đó chị, tôi ghi rõ kế bên tên thuốc mà…” Chị ngập ngừng nhìn tôi: “Bác sĩ ơi, tôi không biết… chữ !”

“Vậy nhờ con cái đọc cho nghen…” Chị bỗng òa khóc nức nở. Chị có đứa con gái duy nhất mười ba tuổi. Chị chăm lo cho nó từ việc học hành cho đến ăn mặc, chỉ sợ con mình thua kém bè bạn trang lứa. Nhà chị nghèo, mồ côi cha, đông anh em nên thiệt thòi. Chị bù đắp cho con tất cả những gì chị từng thiếu thốn. Đứa con gái chỉ biết đón nhận và xem đó như là lẽ tự nhiên ! Con bé thường đến khám với tôi vì sốt, đau họng và ho. Trông nó không đến nỗi ương bướng. Tôi lân la trò chuyện.

Có hôm tôi nói: “Nếu cô là mẹ con, cô sẽ không cho con đi học.” Nó tròn xoe mắt nhìn tôi, tôi nhẹ nhàng nói tiếp: “Vì mẹ không biết chữ, cho con đi học là vô ích. Con nghĩ lại xem, cô nói đúng không ? Con may mắn được đến trường, con không thấy thương mẹ mình không biết đọc, biết viết sao ? Mẹ nhờ con đọc có mỗi cái toa thuốc, con nặng nhẹ mẹ đủ điều trong khi con có thể giúp mẹ học được chứ”… Bẵng đi một thời gian, tôi không nhớ đến mẹ con chị. Bỗng một hôm nhân Ngày Thầy Thuốc, tôi nhận một lẵng hoa hồng nhỏ xinh xinh kèm theo thiệp chúc mừng với dòng chữ nguệch ngoạc non nớt: “Bác sĩ ơi, mừng ngày Thầy Thuốc 27.2. Chúc bác sĩ vui khẻo ( khỏe ) và hạnh phúc. bệnh nhân không biết chữ.” Tôi lặng người xúc động, vui sướng.

Chuyện thứ ba

“Bác sĩ ơi, cứu con, con chỉ có một lần thôi mà… Ba con biết là giết con. Giúp con với bác sĩ ơi”. Cô bé nấc lên, sụp xuống chân tôi. Tôi nắm tay nâng cô bé đứng dậy. Thuyết phục cô bé giữ lại cái thai 10 tuần tuổi là vấn đề không đơn giản. Cô bé đang hoảng loạn. Tôi khuyên nhủ, dỗ dành cô bé. Miễn là cô bé chịu gặp chị bạn của tôi – một bà nội trẻ rất thông cảm và thương yêu cháu gái lỡ lầm. Nhờ tài “ăn nói” của chị, cô bé đồng ý về sống ở mái ấm.

Mái ấm chúng tôi tự nguyện giúp các em lỡ lầm. Mái ấm chúng tôi tìm gặp ba mẹ cô bé để thuyết phục họ chấp nhận cháu ngoại dù là ngoài ý muốn. Mái ấm chúng tôi không phân biệt bà mẹ và các bé. Đại gia đình mà ông ngoại – người sáng lập mái ấm – là người độc thân. Chúng tôi có hơn ngàn đứa cháu ngoại, đứa nào cũng thật dễ thương. Đôi mắt chúng trong veo. Nụ cười chúng ngây thơ. Những bà mẹ đơn thân nhưng lòng đầy can đảm dám giữ lại đứa con và quyết nuôi dạy chúng nên người.

Dù không nói ra chúng tôi thầm trách những người cha vô trách nhiệm, những con người bội bạc. Lối sống ích kỷ, thực dụng là căn bệnh trầm kha của thời đại…

Chuyện thứ tư

Bệnh nhân tôi đến khám định kỳ với mắt trái bầm tím. Ngoài giờ lái xe đưa rước học sinh, anh còn chạy xe ôm kiếm tiền cho con học thêm. Một cuốc xe đêm 50.000 đồng đến địa chỉ cụ thể. Gần đến nơi vị khách này bỗng nài xin đi xa hơn nữa, là phía sau nghĩa trang tối mịt. Anh hoảng sợ khi nghĩ đến chuyện cướp xe nên từ chối. Thế là nó xuống xe chẳng những không trả tiền mà còn vung tay đấm thẳng vào mắt anh. May là có người đi đường…

Anh thuộc diện Bảo Hiểm Y Tế hộ cận nghèo nên toa thuốc nào tôi cũng tính toán để anh khỏi phải đóng tiền vượt ngưỡng. Phòng khám tôi hỗ trợ người nghèo bằng cách không thu phí khám bệnh. Đó cũng là lý do vì sao tôi gắn bó với nơi này dù tiền lương không cao lắm. Anh bệnh mãn tính, chị vợ mới phát hiện bị u đại tràng. Anh lo lắng, bận bịu nuôi vợ bệnh, không thấy đến tái khám theo hẹn. Tôi thấy lo lo, mong cho gia đình nhỏ của họ bình yên…

Chuyện thứ năm

“Lâu quá chú không tới khám bệnh rồi thuốc đâu mà uống ?” Người đàn ông gầy gò gần bảy mươi tuổi nhìn tôi ngập ngừng: “Đợi con dâu cho tiền cô ơi ! Vài tháng nó cho năm, bảy chục ngàn…”

“Chú nhớ đừng tự ý bỏ thuốc nghen !”

“Khổ lắm bác sĩ ơi ! Con trai tôi bỏ đi lâu rồi, không tìm ra tung tích. Con dâu lấy người khác rồi dắt thằng đó về ở nhà tui…”

“Chú không nói gì sao ?”

“Tôi già rồi, sống nay, chết mai…” Hai giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má già nua, hốc hác.

Chuyện thứ sáu

Bà mẹ cõng con trai hơn 2 tuổi trốn Bệnh Viện Nhi Đồng tỉnh Đồng Nai, đi xe bus xuống Sàigòn tìm tôi. Bà mẹ không tin bệnh viện vì nằm hơn tuần lễ vẫn không biết bé bệnh gì và chuẩn bị ngày mai làm xét nghiệm máu đóng tiền đến 500.000 đồng. Trước đây tôi từng khám bệnh giúp hai cháu con của chị. Lần này bà mẹ cũng nhận toa thuốc không tốn tiền. Tiếc rằng hôm đó tôi không mang theo nhiều tiền gởi thêm cho hai mẹ con cháu…

Chuyện thứ bảy

“Lần sau không biết tui còn được khám bệnh nữa không, bác sĩ ơi !”

“Sao vậy anh ? Cao huyết áp, tim mạch anh uống thuốc mỗi ngày đó nghen !”

“Ở phường kêu tui đóng phân nửa tiền mua bảo hiểm.”

Anh ở nhà thuê, chạy xe ôm, vợ bệnh tật ở nhà nhận xếp bao bì ( giấy ), cô con gái làm công nhân lương tháng 3.500.000 đồng. Cô con gái đầu lòng mất từ nhiều năm trước vì điên loạn. Tìm đâu ra 300.000 đồng lúc này…

Chuyện thứ tám

Hai vợ chồng cùng bước vào. Người vợ trấn tĩnh chồng, khích lệ: “Nói với bác sĩ đi”. Người chồng được Bệnh Viện tỉnh VL. và Phòng Khám Loan Trâm chẩn đoán xơ gan, theo dõi ung thư. Hai vợ chồng khóc hết nước mắt, đành chờ chết. Không hiểu sao có người cùng ở Phước Định khám bệnh với tôi và hai vợ chồng quyết định đến Phòng Khám này… Rất may người chồng chỉ bị viêm gan B. Anh đều đặn, đúng hẹn mỗi tháng hai lần đi Sàigòn lãnh thuốc, định kỳ ba tháng kiểm tra lại bệnh. Tôi khuyên anh về Bệnh Viện VL. khám bệnh, lãnh thuốc nhưng anh ngại ở đó không cho đúng thuốc. Tiền thuốc anh hưởng theo bảo hiểm tốn kém không nhiều nhưng tiền xe hàng tháng ngốn mất 500.000 đồng. Vậy là cứ hai tuần tôi đăng ký khám bệnh, lãnh thuốc dùm anh và gởi về qua xe khách.

Chuyện thứ chín

Anh bị cường giáp, suy tim, uống thuốc liên tục gần một năm nay. Nhắc anh thử máu kiểm tra chức năng tuyến giáp, tim mạch, anh hẹn lần lữa vì không đủ tiền ( lý do này về sau tôi đoán biết ). Thử máu xong, nhận toa thuốc, anh nán lại tôi hỏi chuyện. Hai vợ chồng thiếu 300.000 đồng mua đậu đường bán chè, hỏi vay tiền thì bị buộc vay đủ 500.000 đồng, bắt phải trả 100.000 đồng tiền lời mỗi tháng. Người ta hẹn anh tối nay đến lấy tiền vay…

Chuyện thứ muời

Riêng anh không là bệnh nhân của tôi. Mùng 4 Tết năm đó tôi đi viếng Đất Thánh Tân Ngãi, ghé thăm Nhà Thờ Fatima Vĩnh Long. Tôi lang thang, bách bộ về nhà. Tôi nhác thấy anh lê lết, đôi chân teo quắt, hai bàn tay xỏ đôi dép kẹp rướn người chậm rãi đi mà như bò dưới ánh nắng gay gắt ban trưa. Tôi quay lại hỏi cặn kẽ về anh. Anh tên Bé, quê Trà Ôn, bỏ xứ lên Vĩnh Long lang thang bán vé số. Hơn tháng sau anh nhận chiếc xe lắc Kiến Tường trong niềm vui bất ngờ. Cám ơn soeur N. đã tin tôi dù chưa một lần gặp mặt, cám ơn nhà hảo tâm Kiến Tường giúp tôi dù chỉ nói chuyện qua điện  thoại. Cám ơn cha Sở Fatima Vĩnh Long vất vả tìm anh, rao trong Nhà Thờ như rao hôn phối, nhờ đó Giáo Dân dò tìm ra địa chỉ anh ở trọ.

Bệnh nhân của tôi khốn khó như vậy thì làm sao tôi dửng dưng cho được ! Trong cuộc sống tôi tự nhủ, nhắc nhở mình nhìn xuống. Nhìn xuống, nhìn xuống, cúi xuống thấp hơn, thấp hơn nữa để thấy những mảnh đời tơi tả, để mở chút lòng nhân ái, bao dung. Tôi giúp bệnh nhân không hề tính toán, có khi rất kín đáo – bệnh nhân không hề biết toa thuốc, tiền làm cận lâm sàng đã có người thanh toán mọi chi phí…

Thật là mâu thuẫn… khi tôi định sắm sửa cho mình, tôi cân nhắc từng li từng tí nhưng khi cho bệnh nhân tôi chẳng nghĩ ngợi điều gì ! Người nghèo ngay trước mặt tôi, người nghèo nhan nhản nơi tôi ở… Mỗi người có cách riêng tùy điều kiện và khả năng giúp họ, thì xin ai đó đừng buộc người khác đóng góp theo cách của mình ! Xin hãy mở lòng ra với mọi người…

Bs. THANH THỦY

 

Lý Quang Diệu viết về Hoa Kỳ

Lý Quang Diệu viết về Hoa Kỳ

Biên dịch: Nguyễn Việt Vân Anh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
HOA KỲ: Nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số 1

Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lí là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.

Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin, Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này.

Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam. (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.

Ví dụ như Việt Nam, là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam. Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.

Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore. Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công về dài hạn của Hoa Kỳ?

Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore. Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York. Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá , dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York, bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Lam Kim Trong goi

Tướng Thanh bị chỉ trích vì gọi Trung Quốc là ‘bạn’

Tướng Thanh bị chỉ trích vì gọi Trung Quốc là ‘bạn’
Sunday, June 01, 2014

Nguoi-viet.com
SINGAPORE (NV) – Nhiều người bày tỏ sự thất vọng và phẫn nộ khi ông Phùng Quang Thanh, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam gọi Trung Quốc là “bạn” và so sánh xung đột chủ quyền Việt-Trung như “mâu thuẫn gia đình.”

Ðại Tướng Phùng Quang Thanh phát biểu tại Diễn Ðàn Shangri-La, Singapore. (Hình: Roslan Rahman/AFP/Getty Images)

Trong diễn văn tại Diễn Ðàn Shangri-La ở Singapore, ông Thanh nói rằng: “Quan hệ giữa Việt Nam và ‘nước bạn láng giềng Trung Quốc’ về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Ðông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng.” Cũng theo ông Thanh, “trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.”

Một blogger có nickname là “Cầu Nhật Tân” nhận định, phát biểu của ông Thanh đã đưa Hoa Kỳ và Nhật vào “thế việt vị.”

Trước đó, cũng tại diễn đàn này, diễn ra rong ba ngày, từ 30 Tháng Năm đến 1 Tháng Sáu, ông Chuck Hagel, bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, công khai cáo buộc Trung Quốc gây bất ổn ở biển Ðông và xem vụ giàn khoan 981 là hành động đe dọa quá trình phát triển của khu vực. Ông Hagel nhấn mạnh, Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ khi có quốc gia khác coi thường luật pháp quốc tế.

Trước ông Hagel, với tư cách một diễn giả chính của diễn đàn, ông Shinzo Abe, thủ tướng Nhật, khẳng định Nhật sẽ ủng hộ tối đa cho nỗ lực bảo đảm an ninh vùng biển và bầu trời, duy trì tự do hàng hải và tự do hàng không của các quốc gia ASEAN.

Ông Abe nhấn mạnh, tất cả các quốc gia phải tôn trọng luật pháp quốc tế. Cụ thể là các tuyên bố về chủ quyền trên biển phải dựa vào luật lệ quốc tế. Không quốc gia nào có thể dùng vũ lực hay hăm dọa để khẳng định chủ quyền. Tranh chấp về chủ quyền trên biển phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình.

Ở diễn đàn tại Singapore lần này, Việt Nam cử Ðại Tướng Phùng Quang Thanh dẫn đầu một phái đoàn gồm 20 viên chức tham dự. Ông Thanh là đại biểu duy nhất gọi Trung Quốc – bên tạo ra tình trạng căng thẳng do đòi chủ quyền gần như trên toàn bộ biển Ðông, khiến cộng đồng quốc tế lo ngại – bằng cụm từ “nước bạn láng giềng.”

Thay mặt chính quyền Việt Nam, ông Thanh “đề nghị Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và cùng Việt Nam đàm phán để giữ được hòa bình ổn định và quan hệ hữu nghị hai nước.”

Theo truyền thông Việt Nam, trong ngày 31 Tháng Năm, khi ông Thanh đang phát biểu ở Singapore, “nước bạn láng giềng” của ông Thanh đã gia tăng tấn công các tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam. Lợi dụng ưu thế về kích thước, tàu cảnh sát biển mang số hiệu 3401 của “nước bạn láng giềng” đã đâm vào tàu cảnh sát biển mang số hiệu 8001 của Việt Nam sáu lần. Phóng viên của tờ Lao Ðộng cho biết, cũng trong ngày 31 Tháng Năm, một tàu vận tải lớn của “nước bạn láng giềng” đã cặp giàn khoan 981 để cung cấp thêm mọi thứ cần thiết cho giàn khoan này tiếp tục hoạt động trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam. (G.Ð.)

 

KHOẢNG CÁCH

KHOẢNG CÁCH

Trên đời có nhiều loại khoảng cách: Khoảng cách địa lý, khoảng cách không gian, khoảng cách thời gian, khoảng cách xã hội, khoảng cách tình cảm, khoảng cách giai cấp, khoảng cách trình độ, khoảng cách thực tế, khoảng cách trừu tượng, khoảng cách địa vị, khoảng cách tình cảm, khoảng cách tôn giáo, khoảng cách tâm linh,… Nói chung, có rất nhiều loại khoảng cách, với mức độ cũng rất khác nhau.

Có khoảng cách rất… “tự nhiên” là một đứa bé nằm trên đống tiền và một đứa bé nằm trên đất cát. Đứa-bé-nằm-trên-đống-tiền là đứa bé con nhà giàu, ngậm vú giả, quần áo tươm tất, nhưng mắt mở to, không ngủ được. Đứa-bé-nằm-trên-đất-cát đen đủi, bẩn thỉu, quần áo rách bươm, nhơ nhớp, nhưng nằm ngủ ngon giấc. Hai hình ảnh trái ngược khiến chúng ta phải suy tư nhiều. Đứa-bé-nằm-trên-đất-cát thanh thản vì biết quẳng gánh lo đi, còn đứa-bé-nằm-trên-đống-tiền không thể ngủ được vì chờ đợi hoặc đòi hỏi cái gì đó ở người khác. Một triết-lý-sống thú vị mà nhức buốt lắm !

Có lần Chúa Giêsu bảo: “Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó( Mt 6, 34 ). Khổ đâu mà lắm thế nhỉ ? Nghe đến “cái khổ” thì chắc là ai cũng buồn lắm, ngao ngán lắm ! Chẳng phải Chúa “triệt buộc” hoặc “chơi ép” chúng ta đâu, mà chắc chắn “cái khổ” phải có giá trị lắm !

Trong Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu đưa ra hai mối phúc liên quan “cái khổ”. Mối thứ nhất: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” ( Mt 5, 3 ), và mối thứ hai: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” ( Mt 5, 5 ). Hoàn cảnh NGHÈO nàn thì phải KHÓ khăn, thế nên luôn cảm thấy KHỔ và SẦU. Toàn là những chữ “hắc ám” hết sức !

Không ai muốn nghèo, nhưng có người đã cố gắng hết sức mà vẫn nghèo, lận đận cho tới chết. Người nghèo bao giờ cũng nhiều hơn người giàu: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” ( Ga 12, 8 ). Vì thế, Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương người nghèo và bảo chúng ta phải yêu thương người nghèo. Thế nhưng trong thực tế, người nghèo vẫn bị đối xử phân biệt, bị coi thường, không chỉ đối với xã hội đời thường mà với tôn giáo cũng chẳng hơn gì !

Ngay tại Hong Kong hoa lệ và sang trọng vẫn có những người nghèo rất khổ. Họ phải “sống chui” trong các “chuồng” ( chứ cũng chẳng được giống như căn phòng nhỏ ). Mỗi “chuồng” có chiều dài khoảng 180 – 200cm, chiều rộng từ 70 – 90cm. Các “chuồng” chồng lên nhau và nằm sát nhau ( hình bên ). Tương tự, ở Việt Nam cũng có rất nhiều khu ổ chuột, thậm chí ngay tại Sàigòn mà vẫn có người sống trên chiếc ghe nhỏ, nhìn thôi cũng đã thấy muốn ngộp thở !

Có hai dạng thực-tế-thật, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Thực tế thứ nhất: Xe hơi “dễ chơi” hơn xe máy, xe máy “đáng ngại” hơn xe đạp, xe đạp “dễ hạp” hơn đi bộ, đi bộ nhìn “ngộ” lắm. Thực tế thứ nhì: Biệt thự “bự” hơn nhà lầu, nhà lầu “ngầu” hơn nhà xây, nhà xây “hay” hơn nhà lá, nhà lá nhìn “lạ” lắm. Người ta vẫn hô hào “xóa đói, giảm nghèo”, nhưng chẳng thấy “xóa” hoặc “giảm” được gì. Ngay cả trong tôn giáo cũng vẫn có tình trạng “chạy đua”, xây Nhà Thờ hàng chục tỷ, như Nhà Thờ Bác Trạch (*) được coi là Nhà Thờ đồ sộ nhất Việt Nam hiện nay. Ở đây không có ý dám phê phán nhưng thiết tưởng cũng nên cân nhắc lắm !

Gọi là san bằng “khoảng cách” nhưng đôi khi chúng ta bị ngộ nhận hoặc ảo tưởng, và rồi có thể chúng ta lại “vô tình” làm cho khoảng cách càng thêm xa và rộng hơn. Thức tế vẫn thấy có những “con chiên ghẻ” bị “lạc bầy”. Những con lợn béo luôn bán được giá cao. Và “chiên béo” cũng “được giá” hơn hẳn loại “chiên ghẻ” hoặc “chiên gầy mòn ốm o”. Thánh Gioan nói: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm( 1 Ga 3, 18 ). Thánh Giacôbê cũng xác định: “Đức Tin không có hành động là Đức Tin chết( Gc 2, 17 và 26 ). Giảng cho hay, viết cho tốt, nghe cho biết, đọc cho vui. Thế thôi ! Người nghèo ở rất gần nhưng Thiên Chúa xa lắc xa lơ, “khoảng cách” vẫn còn đó !

Trình thuật Lc 16, 19 – 31 cho thấy có một loại khoảng cách đặc biệt: KHOẢNG CÁCH ĐỜI ĐỜI. Khoảng cách này phát xuất từ một dụ ngôn do chính Chúa Giêsu kể, Tổ phụ Ápraham gọi là Vực Thẳm. Gọi là dụ ngôn nhưng vẫn rất thực tế ở đời thường, xưa cũng như nay. Chuyện kể và nghe “rất quen” rằng…

Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !” Ông Ápraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”.

Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !” Ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”.

Chúng ta thấy trong dụ ngôn này có một “khoảng cách”. Đó là khoảng cách sang – hèn, khoảng cách giàu – nghèo. Vừa trừu tượng vừa cụ thể. Khoảng cách này chỉ có thể san bằng hoặc lấp đầy bằng “chất” yêu thương ( Đức Ái, Đức Mến, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, sự chạnh lòng, thậm chí là… thương hại ).

Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo Ladarô không còn là khoảng-cách-tạm-thời hoặc bình thường như trước, mà nay là khoảng-cách-đời-đời, hóa thành “vực thẳm” rồi. Không thể thay đổi được gì nữa. Thật là đáng sợ !

Về Đức Ái, không phải cứ CHO là bác ái. Đừng lầm lẫn hoặc cố ý không hiểu. Người đời nói: “Của cho không bằng cách cho”. Đúng vậy, “cách cho” thực sự quan trọng hơn “của cho”. Có những “kiểu cho” khác nhau thì cũng có những cấp độ bác ái – tạm chia ba cấp: Cấp thấp, cấp vừa, và cấp cao.

1. Yêu thương “cấp thấp” là BỐ THÍ. Đó là chuyện “Người Bạn Quấy Rầy” ( Lc 11, 5 – 8 ). Chủ nhà không hề cảm động trước hoàn cảnh của người hàng xóm kia, nhưng vì anh ta cứ quấy rầy mãi mà chủ nhà đành phải đưa đồ ăn cho anh ta để anh ta đi rồi. Hành động của chủ nhà hoàn toàn vì mình, mang tính ích kỷ. Rõ ràng chủ nhà vị kỷ chứ không vị tha.

2. Yêu thương “cấp vừa” là CÔNG BÌNH ( công bằng ). Kinh Thánh không có câu chuyện nào liên quan “cấp độ” này. Đây là dạng “chia sẻ”. Tôi có nhưng tôi chưa hoặc không dùng tới thì tôi chia sẻ cho bạn. Không vị kỷ cũng chẳng vị tha. Vô thưởng, vô phạt, giống như thuốc không bổ mà cũng không hại.

3. Yêu thương “cấp cao” là BÁC ÁI. Đó là chuyện “Bà Góa Và Hai Đồng Tiền” ( Lc 21, 1 – 4; Mc 12, 41 – 44 ). Những người bỏ tiền vô thùng đều là tiền dư ( bạc nén, bạc lượng, bạc trăm, bạc triệu, bạc tỷ… ), nghĩa là không “chạm” đến cuộc sống của họ. Có bà góa già chỉ bỏ 2 đồng tiền thôi, thế mà Chúa Giêsu khen nức nở. Tại sao ? Hai đồng tiền đó quá nhỏ bé, chưa bằng số lẻ của nhà giàu cho bọn trẻ ăn quà vặt, nhưng 2 đồng đó có “ảnh hưởng” miếng cơm hằng ngày của bà. Bà hy sinh để làm từ thiện, giúp người nghèo. Như vậy, 2 đồng tiền đó có “dính máu” của bà. Hoàn toàn vì thương cảm người khác. Vị tha chứ không vị kỷ. Do đó, 2 đồng tiền nhỏ lại hóa thành tài sản lớn. Còn khuya chúng ta mới làm được như bà góa này, nghĩa là chúng ta đừng vội nhận là mình làm việc bác ái !

Thú thật, cho đến nay tôi vẫn chưa làm được việc bác ái nào đúng nghĩa, vì tôi chưa dám “cắt máu thịt” mình hoặc “rút ruột” ra vì người khác. Tôi cũng chưa đủ mức công bình, vì tôi không có của dư để cho người khác. Tôi cũng chưa có dịp bố thí, vì chẳng ai quấy rầy tôi, họ cứ thấy tôi là họ “chạy mất dép” rồi. Tóm lại, cứ nói “toạc móng heo” là tôi KHÔNG HỀ BÁC ÁI. Vâng, đó là phần tồi tệ của tôi. Và tôi chỉ còn biết xin lỗi Chúa !

Khi làm từ thiện, giúp người nghèo, làm việc tông đồ,… người ta vẫn nói là “làm việc bác ái”. Nghe “kêu” dữ nghen ! Thật ra, người ta chỉ gom quần áo cũ, đồ dư, đồ mình không ăn được, …rồi đem cho người khác chứ có mấy ai mua đồ mới mà cho, hoặc mời ăn đồ ngon ? Và vẫn “vô tư” nói là “làm việc bác ái”. Dĩ nhiên người nghèo họ không dám đòi hỏi, có đồ là tốt lắm rồi. Thế nhưng có lẽ người cho cũng nên “vắt tay lên trán” một chút đấy !

Chữ “nghèo” liên quan chữ “hèn” và chữ “khổ”, “hèn” mà bị “nhục”, “khổ” mà bị “đau”. Việt ngữ vô cùng độc đáo. Quả thật, người nghèo khổ lắm. Khổ đủ thứ. Khổ về thể lý mà “bị dí” luôn tinh thần. Thậm chí họ khổ cả về phương diện tôn giáo. Họ cũng thương ông bà, cha mẹ,… lắm chứ, nhưng họ không có tiền mà xin Lễ. Nhiều người còn ra “giá Lễ” phải là “thế này, thế nọ” thì làm sao họ xin nổi chứ ? Họ cũng muốn mua ân nhân nhưng họ có đủ sức đâu mà mua ? Chiên ghẻ và chiên bệnh thì chẳng ai muốn lại gần, “hôi hám” thấy mồ !

Họ nghèo vật chất, nhưng có thể họ giàu tâm linh. Chắc họ cũng được an ủi khi nghe Chúa Giêsu nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ). Mà thật, vào Nhà Thờ thấy ai cũng như chiên, ra khỏi Nhà Thờ thấy ai cũng hóa thành cọp, y như có phép “tàng hình” vậy !

Hằng ngày, người ta có nhiều cuộc “chạy đua” lắm, thậm chí còn so đo ngay trong những việc đạo đức. Trên trời không có chỗ cao hoặc chỗ thấp, cũng không có Thánh nhỏ hoặc Thánh lớn. Người ta còn “khoái” coi cái chính là cái phụ, còn cái phụ là cái chính. Thật là ngược đời quá ! Chẳng hạn, người ta thích “chuyền tay” nhau kinh này và sách nọ, sứ điệp nọ sự lạ kia,… Cũng tốt thôi. Nhưng nếu chỉ “chăm chú” cái hình thức đó, tạo “bề nổi” mà bỏ “chiều sâu” thì có ích gì ? Kinh Thánh có đầy đủ, nhất là Phúc Âm, vậy sao không tìm hiểu cho sâu, cho kỹ ?

Thánh Inhaxiô Loyola so sánh: Không có Đức Ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy”. Còn Thánh Phaolô căn dặn: Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” ( Rm 12, 9 – 11 ). Thánh Phaolô nói chắc nịch: “Anh em phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” ( Ep 4, 32 ).

Mùa Chay là dịp “xét mình” một cách rất nghiêm túc, để có thể thực sự “xé lòng”, quyết tâm “xé tâm hồn” để xứng đáng “gặp” Đức Giêsu Kitô qua Bí Tích Thánh Thể và qua tha nhân, đồng thời hãy cùng nhau tâm niệm hai điều:

– Ad Majorem Dei Gloriam – Để vinh danh Chúa hơn.

– Vivere Summe Deo in Christo Jesu – Sống tuyệt vời cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta cũng hãy cùng nhau cầu xin như Thánh Augustinô: “Domine, noverim Te, noverim me” ( Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con ). Và hãy mơ ước như Thánh Phanxicô Assisi: “Con chỉ mong yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con”. Nhờ đó, chúng ta có thể trưởng thành về Đức Ái để có thể san bằng mọi “khoảng cách” trong cả cuộc sống đời thường và tâm linh.

TRẦM THIÊN THU, Mùa Chay 2014

Ghi chú: (*) Nhà Thờ Bác Trạch, xã Vân Trường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, thuộc Giáo Phận Thái Bình, được khánh thành ngày13.10.2013. Tổng kinh phí xây dựng là 58,6 tỷ VND. Tổng số vật liệu xây dựng: 46 vạn gạch, 351 tấn sắt, 527 tấn vôi, 2.859 tấn ximăng, 15m3 gỗ lim, 1.000m2 đá các loại, khoảng 1.000m2 sơn trong ngoài, 122 tấm kính tranh; gần 100 tượng tròn, phù điêu, tranh vẽ các loại (http://giaophanthaibinh.org/a4397/Hinh-anh-ve-tan-Thanh-duong-Giao-xu-Bac-Trach.aspx ).

From: ngocnga_12 & Anh chi Thu Mai goi

Lay Chúa, cứu vớt kẻ lạc đường …

Lay Chúa, cứu vớt kẻ lạc đường …

Chuacuuthe.com

VRNs (31.05.2014) – Sài Gòn – Tôi tin là trong đời Linh Mục, mình được Chúa ban cho có “cái duyên gặp gỡ” khá đặc biệt, đó là được gặp rất nhiều người Tân Tòng từ vô thần mà trở nên tín hữu, từ đảng viên mà thành con cái Thiên Chúa. Thoạt tiên không để ý, cứ nghĩ như chuyện tình cờ ngẫu nhiên, nhưng rồi khi mọi sự đã diễn ra, tạm gọi là xong xuôi đầu đuôi trọn vẹn, nhìn lại tất cả, tôi ngỡ ngàng buột miệng ồ lên một tiếng vui nhè nhẹ nhàng trong lòng: đúng là có cái duyên !

Bản thân tôi cuộc đời đến hôm nay vừa tròn 55 tuổi, sinh ra và lớn lên trong miền Nam trước biến cố 75, chẳng có dính líu gì đến Đảng CS, gọn một tiếng, tôi không thích, ghét nữa là khác, mà đúng hơn, phải nói là… sợ ! Ghét là ghét cái chủ thuyết CS ấy, và sợ là sợ cái lý lẽ “cứu cánh biện minh cho phương tiện” chắp vá vay mượn của Machiavelli, không từ một trò độc ác tàn bạo nào mà không làm để đạt cho bằng được mục đích của họ. Vậy chứ với con người đảng viên chung chung, tôi chỉ thấy ghê ghê, ngại ngại, cũng thấy tội tội họ nữa, vì hầu hết đã bị chiêu dụ cuốn hút vào với Đảng CS trong những cơn xoáy lịch sử kinh khủng của đất nước tôi trong hơn 80 năm vừa qua.

Ấy thế mà rồi, trong khoảng mấy mươi năm trở lại đây, khi tôi buộc phải sống chung với những người theo CS, phải chịu lấy cái ách của chế độ CS, tôi đã gặp gỡ được khá nhiều người CS trong những hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đặc biệt đến nỗi tôi phải gọi đó là có “cái duyên” với họ.

Trong bài viết này, tôi chọn kể lại 3 trong số rất nhiều “cái duyên gặp gỡ” như thế…

Chuyện thứ nhất:

Tôi còn nhớ một kỷ niệm thật xúc động năm 2001. Dạo ấy, sau khi tôi chịu chức Linh Mục âm thầm từ năm 1998 ở trong Nam, gia đình anh chị ruột mãi sau mới biết, còn dòng họ nội ngoại tuyệt nhiên không có chuyện “vinh quy bái tổ” với lại tiệc tùng liên hoan chi cả, tôi xin Bề Trên cho về phục vụ Giáo Phận Bắc Ninh là quê nội tổ xa xưa của mình. Một lần có dịp xuôi từ Bắc Giang về Hà Nội, tôi cố gắng dò tìm cho ra những người họ hàng nội ngoại còn sót lại. Cuối cùng tôi gặp được anh Q. của tôi.

Anh Q. 72 tuổi, là con trai út của bác Cả, còn tôi lúc ấy 42 tuổi, là con trai út của ông Ba. Bước qua cổng ngôi biệt thự tương đối là “oách” giữa lòng thủ đô Hà Nội nhà dân san sát chen chúc, tôi ngờ ngợ anh Q. phải là một cán bộ “oách” tương xứng. Anh em gặp nhau lần đầu, chỉ mấy lời xác định tông chi trong họ là một già một trẻ cách nhau 30 năm, ôm chầm lấy nhau. Anh Q. tỏ ra ân hận, kể chuyện xưa, lúc anh mới 16 tuổi đã thoát ly gia đình năm 45 để theo Việt Minh, làm một chú vệ quốc quân. Ông nội chúng tôi biết được, vốn dĩ đã ghê sợ người CS với chủ trương Tam Vô ( vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc ), đã bắt bác Cả phải đi lôi cổ anh con trai ham vui về, nện cho một trận gãy đôi cả cây phất trần. Vậy mà chứng nào tật nấy, anh Q. tôi lại bỏ nhà ra đi cho đến năm 54, nghe tin ông nội mất đã mấy năm, mới dám lò dò về thăm nhà dù lúc ấy đã là một anh… CA coi trời bằng vung !

Đến một lúc câu chuyện thân tình, anh Q. khóc nấc lên, nắm lấy bàn tay chú em họ nhỏ hơn đến 30 tuổi, nói một hơi trong nghẹn ngào:

“Giêsu Ma lạy Chúa tôi, đâu có bao giờ anh nghĩ trong họ tộc nhà mình lại có được một Linh Mục như em. Cuộc đời anh, anh thề với em, anh tuy là CA nhưng anh chưa hề làm chuyện gì sai với lương tâm. Em xem, anh bỏ Đạo theo Đảng, Đảng bố trí cho lấy vợ cũng đảng viên CA, nhưng lý lịch anh suốt đời vẫn cứ bị xếp hạng hai, họ không tin anh nên anh chỉ được làm chân CA bàn giấy… Giêsu Ma, lạy Chúa tôi, đấy, lâu lắm rồi bây giờ gặp em, anh mới dám gọi “Giêsu Ma”. Của đáng tội, biết đâu đấy em nhỉ, nhờ vậy mà anh không có dịp phạm tội ác chăng ? Anh hứa với em, em thông cảm cho anh, em là Linh Mục, em xin Chúa tha thứ cho anh. Bây giờ anh về hưu rồi, chỉ vài năm nữa thôi, sau khi mấy đứa con anh nó ổn định kinh tế chính trị cả rồi, không ngại trù giập gì nữa, anh xin trở lại với Chúa, em giúp anh nhé…”

Thật tiếc là tôi đã không còn có dịp gặp lại anh Q. Tối hôm ấy, bà chị dâu họ của tôi, vợ đảng viên CA của anh Q., khi biết tôi là “cố đạo” đã thay đổi hẳn thái độ, anh em tôi trò chuyện với nhau chỉ được khoảng nửa giờ mà bà ấy cứ đảo qua lượn lại, đuổi khéo tôi bằng cách thúc ông chồng uống thuốc rồi còn phải đi nghỉ.

Tôi ôm ông anh già khọm tội nghiệp lần cuối rồi ra về. Âu cũng là “cái duyên gặp gỡ”, vâng, một lần “gặp” duy nhất nhưng chắc là cũng “gỡ” được khá nhiều những nút rối dày vò ân hận trong tâm hồn một đảng viên CS trót lạc đường.

Chuyện thứ nhì:

Năm 2006, khi vừa phôi thai Mục Vụ Bảo Vệ Sự Sống của DCCT, Nhóm BVSS Sàigòn được thành lập với hơn mười chị em, trong số này có cô T. Cô T là người miền Nam, vì tế nhị tôi chưa bao giờ hỏi cô đầu đuôi chuyện vợ chồng cô đã theo Đảng như thế nào, chỉ biết cô tìm đến với Nhóm BVSS trong nước mắt của sám hối vì đã một lần phải theo chính sách Nhà Nước mà trót phá thai.

Gần như những chuyển biến trong tâm hồn cô T. xảy ra cùng một lúc và rất nhanh, rất mạnh. Cô T. được người quen rủ đi dự các buổi cầu nguyện với Thánh Kinh tại DCCT. Phần tôi thì lại thường được mấy anh chị đứng đầu nhóm này mời dâng Thánh Lễ cho họ vào buổi tối sau những buổi học hỏi và cầu nguyện. Nhiều lần trong các bài giảng, xoay đi xoay lại với nội dung bài Tin Mừng một hồi, thế nào tôi cũng đề cập đến thảm họa nạo phá thai tại Việt Nam, đặc biệt kinh khủng tại Hà Nội và Sàigòn.

Tôi tha thiết ngỏ lời xin anh chị em hiệp ý cầu nguyện, rồi cụ thể hơn, xin họ hãy là những “chiến sĩ BVSS” được Chúa Thánh Thần sử dụng trong một cuộc chiến không cân sức, giữa một bên là cả một lý thuyết sống vô thần, một chính sách kế hoạch hóa gia đình được hậu thuẫn bởi luật Nhà Nước cho tự do phá thai, và một bên là những người dân bình thường, với “vũ khí” trên tay chỉ là tràng chuỗi Mai Khôi, nỗ lực sống theo nền văn minh Tình Thương và văn hóa Sự Sống mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã kêu gọi.

Cô T. và chắc nhiều người khác nữa, cuối cùng đã được Chúa Thánh Thần tác động. Họ trải qua một nỗi xót xa dữ dội khi nhận ra trong quá khứ họ đã bị Nhà Nước CS lừa dối tinh vi xảo quyệt suốt mấy chục năm liền. Chính cô T. và nhiều người phụ nữ khác đã kể tất cả cho anh em Linh Mục chúng tôi sự thật phũ phàng, họ đã ngu ngơ dại dột tin vào những lời tuyên truyền khéo léo, rằng phôi thai mới hình thành mấy tuần chỉ là… cục thịt, chỉ là giọt máu, loại bỏ đi thì chẳng có tội vạ gì mà sợ, ngược lại còn là có công với chính sách dân số, được thưởng, được khen vì biết “dừng lại ở hai con”. Hành vi giết người, giết chính con mình được che đậy dưới các mỹ từ “hút điều hòa kinh nguyệt”, “kế hoạch hóa dân số”… Mỉa mai là Trung Tâm Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em lại là nơi phá thai đạt thành tích cao nhất !

Cuối cùng thì cô T. đến xin tôi cho cô được… xưng tội. Cô nói cô không phải là người Công Giáo nhưng thật sự sám hối vì đã trót phá thai. Tôi phải thuyết phục một hồi cô T. mới hiểu ra để bắt đầu xin học đạo để theo Chúa. Ngày cô được tôi đổ nước cũng là ngày cô chính thức trả thẻ Đảng.

Từ nay, trong việc BVSS, cô T. hăng hái và can đảm kỳ lạ. Luôn luôn cô tin là được chính Chúa Giêsu sai đi cứu một người sắp phá thai nào đó. Và thường thì cô chiến thắng vẻ vang. Dù vậy, cô vẫn khiêm tốn bảo đó là công của Mẹ Maria, Thánh Bổn Mạng kính yêu của cô, chứ đối với cô, chỉ là nỗ lực “đái công chuộc tội” mà thôi !

Khi đến chơi nhà dịp Tết, ông chồng của cô T. lúc ấy còn đang làm trong ngành du lịch, đã tự ý khất với tôi xin cho ông một thời gian nữa, ông cũng sẽ theo Chúa, ông bảo bây giờ bà xã cứ đi học Giáo Lý với cha thế nào thì về nhà thế nào cũng giảng lại cho ông, ông đã tin Chúa, nhưng xin chờ mấy năm nữa, về hưu, ông sẽ toàn tâm toàn ý theo đạo…

Chuyện thứ ba:

14053100

Một ngày đầu tháng 4 vừa qua, tôi được cha Thoại báo tin với một sự dè dặt chừng mực: nhạc sĩ Tô Hải muốn được rửa tội theo Chúa. Lễ An Táng thầy giáo Tân Tòng Phêrô Đinh Đăng Định vừa xong, dư âm về quang cảnh, bầu khí Thánh Lễ ở DCCT, và đặc biệt là bài giảng thấm thía của cha Nguyễn Thể Hiện, biết đâu tất cả những điều ấy làm cho cụ Tô Hải xúc động rồi nhất thời cụ nẩy ra ý xin theo đạo ?!? Anh em chúng tôi không dám võ đoán thêm, quyết định phải đến thăm tận nhà cụ, lắng nghe trực tiếp tâm sự và ước nguyện của cụ xem sao.

Thú thật là trước dịp này, tôi chỉ được nghe biết rất ít về cụ, một thoáng về cuốn “Hồi ký của một thằng hèn” gây chấn động dư luận trong và ngoài nước của cụ, thế thôi. Đi thang máy lên đến tầng 11, thoạt bước vào căn hộ chung cư của cụ, tự dưng tôi cảm thấy như bước vào nhà một người thân quen tin cậy nhau từ lâu. Cách tiếp đón của vợ chồng cụ thật niềm nở hồn hậu. Ngoài ra còn khá đông anh chị em thân hữu khác, đôi bên chào hỏi nhau ríu rít. Hóa ra được điện thoại của cha Thoại, gia đình cụ gọi người này người kia đến, cứ như là đón thượng khách !?!

Thế rồi ngay trong buổi sơ giao, tôi và cha Thoại đã thấy rõ Lòng Tin của cụ Tô Hải vào Chúa là chín chắn xác thực, không phải chuyện xúc động nhất thời, hời hợt bề ngoài. Chúng tôi có vội vàng lỡ hứa với cụ sẽ cử hành các Bí Tích gia nhập đạo cho cụ vào Thánh Lễ Xa Quê cầu nguyện cho Hòa Bình và Công Lý Chúa Nhật 27 tháng 4 tại DCCT. Cụ và mọi người mừng lắm… Đến khi về nhà bàn bạc với các Bề Trên mới thấy như vậy vội quá, cụ còn tương đối minh mẫn sáng suốt, sức có yếu, thở có khó, phải ngồi một chỗ, nhưng không phải là trường hợp nguy tử, rất cần có thêm thời gian giúp cụ những điểm căn bản của Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.

Vậy là trong mấy tuần tiếp theo trong tháng 5, tôi tìm đến với cụ Tô Hải, lúc nào cũng rủ thêm mấy bạn trẻ Nhóm Fiat, có ý sẽ giúp cụ tiếp nhận những chân lý cốt yếu của Tin Mừng Chúa Giêsu. Tiếng là đến giúp Giáo Lý, nhưng của đáng tội, lần nào cũng vậy, tôi chỉ ngồi yên chăm chú lắng nghe, còn cụ thì thao thao bất tuyệt, lắm khi sặc nước bọt hoặc hụt hơi thở không kịp. Tôi thật sự tôn trọng với những giờ phút mở lòng bộc bạch chân thành của cụ, lịch sử đất nước như diễn lại với trận đánh Điện Biên Phủ tàn khốc năm 1954, với vụ án Nhân Văn Giai Phẩm bi thảm năm 1956, với bao nhiêu là máu và nước mắt, bất công và dối trá… Còn các bạn trẻ thì cứ tròn xoe mắt trước một chứng nhân lịch sử tự giới thiệu là quá… hèn vì “đã 62 năm sống trong lừa dối và đi lừa dối mọi người”, nhưng nay thì hết hèn, dứt khoát lột trần tất cả sự thật !

Thế rồi, như ơn Chúa soi sáng, đến đúng chỗ cần phải trình bày Giáo Lý Tin Mừng thì tôi tìm ngay được khoảng hở để nói chen vào. Một lần tôi nhẹ nhàng đề nghị cụ sáng tác một bài hát như ông đại úy Nguyễn Hữu Cầu đã sáng tác trong tù biệt giam bài “Khỏe re như con bò kéo xe”… Chỉ mới nghe có thế thôi mà cụ phản ứng nhanh và mạnh: “Nói thật với cha, điểm nào tôi cũng kính phục ông Cầu, chỉ có mỗi chuyện ông ấy bảo phải quên hết, tha thứ hết, không oán thù chi nữa, thì tôi dứt khoát không đồng ý ! Làm sao mà tha thứ được chứ, càng nghĩ càng giận, càng uất hận cái lũ tàn ác với nhân dân và phản bội tổ quốc chứ !”

Nói xong, cụ mệt vã ra, thở hổn hển và tay run lập cập. Tôi nhỏ nhẹ nói: “Cụ ơi, cụ theo Chúa Giêsu thì rồi cụ cũng sẽ sống, sẽ cư xử như Ngài đấy. Ngài bị kẻ dữ nó đánh, nó chửi, nó vu khống, nó kết án chết oan uổng, vậy mà cụ biết không, Ngài thưa với Cha của Ngài: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Thưa cụ, Chúa Giêsu kịch liệt lên án tội ác nhưng Ngài lại không bao giờ lên án tội nhân. Vậy mai này cụ theo Chúa Giêsu rồi, cụ vẫn là cụ lâu nay, can đảm, dõng dạc, mạnh mẽ lên án tội ác, nỗ lực sống điều thiện để cái ác dần dần bị đẩy lui và không thể làm hại con người nữa, nhưng chuyện hận thù thì cụ sẽ buông rơi tất cả, chỉ hát Kinh Hòa Bình của ông Thánh Phanxicô mà cụ yêu quý tự ý chọn làm Thánh Bổn Mạng, thậm chí cụ còn cầu nguyện cho chính những bọn ác biết cải tà quy chánh…”

Có lẽ cụ Tô Hải lần đầu tiên nghe được một luận chứng kỳ lạ như thế, cụ bâng khuâng thinh lặng một lúc, các nếp nhăn trên khuôn mặt vị lão trượng 88 tuổi đời như giãn ra, ánh mắt như rạng lên sau cặp kính dày cộm, rồi cụ sực tỉnh nhớ lại tinh thần của Nguyễn Trãi, cụ móm mém đọc chậm rãi: “Lấy chí nhân mà thay cường bạo, đem đại nghĩa để thắng hung tàn”. Mà đây, Tin Mừng của Chúa Giêsu còn cao trọng hơn đường lối của bậc anh hùng xưa trong việc trị quốc, bình thiên hạ. Nếu tôi không nhìn lầm, cụ đã khóc ! Và tôi tin đó là giọt nước mắt của Metanoia…

Chúa Nhật 25.5.2014 vừa qua, đúng giờ hẹn, cụ Tô Hải có mặt, ngồi trên xe lăn, quần áo màu nâu nhạt rất nhã, thắt cà vạt chỉnh tề, được người thân đẩy vào trước gian kính Mẹ Hằng Cứu Giúp trong Nhà Thờ. Tôi vắn tắt giới thiệu cụ trước cộng đoàn rồi đích thân chuẩn bị các nghi thức tiếp nhận cụ. Sau bài giảng, Bí Tích Thánh Tẩy và Bí Tích Thêm Sức được long trọng cử hành, cha Vũ Khởi Phụng là người đỡ đầu cho cụ. Có thể nhận thấy hai cụ già cách nhau gần một con giáp, một Linh Mục Mátthêu, một Tân Tòng Phanxicô, từ nay sẽ trở thành đôi bạn vong niên cùng giúp nhau “sinh hoa kết quả” trong Đức Tin như lời chia sẻ Tin Mừng của cha.

Cha Lê Quang Uy (bên trái) đang ử hành các Bí Tích gia nhập Kitô giáo cho ông Phanxicô Tô Đình Hải.

Cha Lê Quang Uy (bên trái) đang ử hành các Bí Tích gia nhập Kitô giáo cho ông Phanxicô Tô Đình Hải.

Thay lời kết

Ấy “cái duyên gặp gỡ” trong đời tôi là vậy. Với bài viết này, tôi chỉ kể được có ba, còn khá nhiều những anh chị em, những người đàn ông đàn bà, trẻ có già cũng có, từng là đảng viên lão thành hoặc cốt cán mà tôi đã được Chúa cho may mắn gặp gỡ, nghe họ tâm sự, rồi đóng góp phần nhỏ bé của mình để giúp họ “thoát thai vào đời”.

Vâng, bản thân họ đã được ơn thiêng lạ lùng để nhận ra họ đang “lạc đường” giữa bao cảnh huống nhiễu nhương của cuộc sống. Không ai khác, mà chính là Chúa Giêsu đã đến với họ bằng nhiều cách thế kỳ diệu và bất ngờ, giúp họ hạnh ngộ, khám phá một chân lý sâu xa: chính Ngài là Đường, rồi Ngài lại còn là Bạn Đường bước đi tay trong tay, ngay kề bên. Dù đang ở độ tuổi nào, không hề mất trí nhớ nhưng họ lại sẵn sàng quên hết quá khứ thương đau, lắm khi đầy tủi hận, để làm lại từ đầu, để chập chững đi lại từ đầu với niềm vui của một trẻ thơ an nhiên.

Đối với riêng cụ Phanxicô Tô Hải, cụ đã có đến hai lần đổi đời, lần đầu để không còn là “một thằng hèn”, và lần sau này để không còn là “một kẻ lạc đường”.

Cuối cùng, tôi xin chép lại lời bài ca cụ Tô Hải đã sáng tác dâng tặng Chúa Giêsu chỉ mấy ngày trước khi được Thánh Tầy…

LẠY CHÚA, CỨU VỚT KẺ LẠC ĐƯỜNG

Lạy Chúa Giêsu lòng lành bao la sáng mãi trên Trời,
Thương con, đây một kiếp người lạc lối giữa cõi thế mất hết niềm tin.
Giờ đây bên chân Chúa, con xin được nguyện cầu,
Quên đi hận thù, để cho bóng tối sẽ sớm được xua tan
Trên quê hương Việt Nam của chúng con…

Bài Thánh Ca vang vọng về nơi nơi có Chúa trên đời,
Mong sao qua một quãng đời tội lỗi, Chúa chứng giám tiếng hát niềm tin.
Lời ca dâng lên Chúa mang theo lời nguyện cầu,
Mong trong cuộc đời niềm tin nơi Chúa, cái ác phải tan đi
Trên quê hương Việt Nam của chúng con. Amen.

( Phanxicô Tô Hải, 20.5.2014 )

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT
140531002

Trung Quốc vẫn duy trì tàu quân sự bảo vệ giàn khoan HD981

Trung Quốc vẫn duy trì tàu quân sự bảo vệ giàn khoan HD981

RFA 31.05.2014

6_GHLD-305.jpg

Các họng súng trên tàu hải cảnh Trung Quốc luôn trong tư thế dỡ bạt che phủ, chĩa về phía tàu Việt Nam, ảnh chụp trước đây.

Courtesy GDVN

Đã sau một tháng, giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc vẫn hoạt động trong khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Tại hiện trường thực địa hôm qua, 30 tháng 5, truyền thông trong nước dần nguồn của Cục Kiểm Ngư Việt Nam nói rằng các lực lượng kiểm ngư phía Việt Nam đến được cự ly 2,8 hải lý của giàn khoan Hải Dương 981. Lực lượng chấp pháp của Việt Nam tiếp tục sử dụng loa kêu gọi Trung Quốc rút tàu và đưa giàn khoan ra khỏi khu vực chủ quyền của Việt Nam.

Tuy nhiên phía Việt Nam thừa nhận tàu cá của Trung Quốc họp lại thành từng nhóm khoảng 35 tàu và cùng với hai tàu hải cảnh ngăn cản, vây ép tàu của Việt Nam. Phạm vi vây cản ra đến cách giàn khoan cả 30-35 hải lý.

Hiện Trung Quốc vẫn duy trì bốn tàu quân sự, trong đó có hai tàu hộ vệ tên lửa và hai tàu quét mìn cách giàn khoan Hải Dương 981 từ 7 đến 10 hải lý.

Song phương với Trung Quốc là vô phương cứu chữa

Song phương với Trung Quốc là vô phương cứu chữa

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-05-31

namnguyen05312014.mp3

000_Hkg8715299-305

Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang (trái) gặp gỡ Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường ở Bắc Kinh vào ngày 20 tháng 6 năm 2013. (ảnh minh họa)

AFP

 

 

Nhà nước Việt Nam luồn lách giữa các giải pháp song phương và đa phương trong vấn đề biển Đông. Trong vụ giàn khoan Trung Quốc HD 981 xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam có vẻ nhà nước đang chuyển qua giải quyết đa phương.

Bảo vệ quyền lực?

Sau Hội nghị Thành Đô 1990, Việt Nam bình thường hóa bang giao với Trung Quốc và càng ngày càng yếu thế, lép vế trong quan hệ được tô vẽ là hữu nghị 4 tốt 16 chữ vàng. Từ khi Trung Quốc để lộ tham vọng chiếm cứ biển Đông với đường chủ quyền 9 đoạn gọi là đường lưỡi bò, Việt Nam luôn khẳng định giải quyết tranh chấp song phương với Trung Quốc cho vấn đề vịnh Bắc bộ, vùng biển Hoàng Sa Trường Sa mà Việt Nam khẳng định chủ quyền.

Giờ đây Việt Nam đang cố gắng tranh thủ vận động dư luận, vận động ngoại giao tìm sự ủng hộ của thế giới trong cuộc đấu tranh với kẻ xâm lăng là Trung Quốc. Tuy vậy nhà nước vẫn lập đi lập lại không tham gia bất kỳ một liên minh quân sự nào, cũng không chống lại Trung Quốc.

TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập từ Saigon nhận định:

“Họ vẫn đang tính toán là làm sao có thể đi dây giữa các quốc gia các thế lực siêu cường trên thế giới mà không ảnh hưởng tới quyền lợi, quyền lực của họ.
-TS Phạm Chí Dũng”

“Tôi nghĩ Việt Nam không thay đổi đâu, họ từng có chủ trương Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước cho nên là song phương lúc này đa phương lúc khác. Chuyện đó là điều gần như tất yếu đối với Việt Nam, chỉ có điều là song phương hay đa phương thì tôi cũng nghĩ họ không chủ động, họ gần như ở trong thế bị động. Và lúc này nếu có một câu chuyện đa phương giữa cả Tây Âu, Hoa Kỳ và với cả Trung Quốc thì tôi nghĩ là họ vẫn đang tính toán là làm sao có thể đi dây giữa các quốc gia các thế lực siêu cường trên thế giới mà không ảnh hưởng tới quyền lợi, quyền lực của họ.”

Trong việc Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào khoan thăm dò trên vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam, nguyên tắc giải quyết tranh chấp song phương sẽ làm cho Việt Nam đã yếu thế càng lép vế hơn nữa.

Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên Luật quốc tế ở TP.HCM, thành viên Quỹ nghiên cứu biển Đông nhận định:

Chinh-phu-hop-1_29514-250.jpg

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại phiên họp thường kỳ Chính phủ hôm 29/5/2014. Courtesy chinhphu.vn

“Trung Quốc đang muốn kéo vấn đề này trở thành song phương, nghĩa là về Hoàng Sa là tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng mà việc Việt Nam mong muốn tranh thủ công luận quốc tế, thì Việt Nam phải có một chiến dịch đối ngoại để cho thế giới thấy rằng, đây không phải là vấn đề song phương, mà Hoàng Sa liên quan đến vấn đề rộng hơn là toàn bộ khu vực Biển Đông, trong đó liên quan tới an ninh và an toàn hàng hải Biển Đông.”

Ngày 29/5 trong phiên họp thường kỳ của chính phủ ở Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiết lộ là lãnh đạo Việt Nam đề nghị gặp người tương nhiệm Trung Quốc để thảo luận giải quyết vụ giàn khoan HD 981, nhưng Bắc Kinh từ khước và trả lời “không phải thời điểm thích hợp.” Tuy ông Dũng không chỉ rõ lãnh đạo Việt Nam là vị nào nhưng thông tin trên các mạng xã hội cho biết người đó là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo Chính phủ kiên quyết đấu tranh với Trung Quốc trên biển Đông, nhưng vẫn giữ quan hệ ngoại giao, kinh tế bình thường, tuyệt đối lên án các hành vi kích động, bài trừ người Hoa.

Kịch bản nào của lịch sử?

Giàn khoan HD 981 hạ đặt bất hợp pháp trên vùng biển Việt Nam đã bước sang tuần lễ thứ 5. Phía Trung Quốc đã khảo sát khoan thăm dò ở hai vị trí trên vùng biển ngoài khơi duyên hải tỉnh Quãng Ngãi. Trung Quốc đã triển khai hơn 100 tàu các loại kể cả tàu quân sự và máy bay yểm trợ để bảo vệ giàn khoan. Lực lượng chấp pháp Việt Nam với các tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư vừa ít về số lượng vừa quá nhỏ bé so với các tàu hải giám, hải cảnh Trung Quốc. Có thể nói lực lượng tàu chấp pháp của Việt Nam bị kẻ thù trấn áp thô bạo với 30 tàu bị đâm va gây hư hỏng. Nhưng tàu chấp pháp Việt Nam được lệnh trên chỉ cố gắng hiện diện mà không phản ứng. Lệnh xua đuổi tàu Trung Quốc và giàn khoan HD 981 theo lệnh Thủ tướng nghe có vẻ mỉa mai. Tin ghi nhận trong 4 tuần qua chỉ có một lần duy nhất tàu kiểm ngư Việt Nam đáp trả tàu kẻ thù bằng vòi rồng, sự việc xảy ra vào sáng ngày 12/5.

“Một phép thử nho nhỏ mà Việt Nam chỉ từ thua tới thua thì sẽ làm sao đối với một chiến dịch dài hạn  Trung Quốc có thể đưa ra rất nhiều phép thử khác.
-TS Phạm Chí Dũng”

Việt Nam đang bị mất chủ quyền trên vùng biển của mình, các biện pháp đấu tranh hòa bình với Trung Quốc sẽ có kết quả như thế nào trong tình hình và tương quan lực lượng hiện nay. TS Phạm Chí Dũng từ Saigon nhận định:

“Tôi cho là không chỉ song phương mà là vô phương đối với giàn khoan HD 981 và tất cả những giàn khoan sau này mà Trung Quốc sẽ hạ đặt trái phép ở vùng biển Việt Nam. Bởi vì một phép thử nho nhỏ mà Việt Nam chỉ từ thua tới thua thì sẽ làm sao đối với một chiến dịch dài hạn  Trung Quốc có thể đưa ra rất nhiều phép thử khác. Và chúng ta thấy tàu cá Việt Nam bị đâm thủng, hai người ngư dân bị chết ở Quảng Ninh mà cho tới giờ một số tờ báo Việt Nam vẫn dùng từ tàu lạ, thì không hiểu nổi lòng tự trọng dân tộc và tình cảm đồng loại của họ để ở đâu.”

Lịch sử Việt Nam từng có một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, nhưng người Việt Nam vẫn quật khởi gìn giữ đất nước và không bị phương bắc đồng hóa. Sử sách ghi nhớ Việt Nam từng có những triều đại anh minh hùng cường biết chiêu hiền đãi sĩ, tôn trọng lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân chống ngoại xâm. Thế kỷ 21 ngày nay những đại quốc đầy tham vọng có thể có sự đô hộ kiểu mới, đưa các tiểu quốc yếu hèn vào vòng lệ thuộc mà chẳng cần phải đem quân chiếm đóng. Câu hỏi đặt ra là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện sẽ rơi vào kịch bản nào của lịch sử?