Những Đồi Hoa Sim – thơ Hữu Loan & Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng -thơ Phạm Thiên Thư & Ai Nhớ Chăng ai Duy Quang

Những Đồi Hoa Sim – thơ Hữu Loan

httpv://www.youtube.com/watch?v=snN2v0vC1Sc&list=PLNBxCTIUVE70WqqxZNJrO3-7La8kXmWHY&index=8

Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng -thơ Phạm Thiên Thư

httpv://www.youtube.com/watch?v=WfdAeIuDGaI&list=PLNBxCTIUVE70WqqxZNJrO3-7La8kXmWHY&index=19

Ai Nhớ Chăng ai Duy Quang

httpv://www.youtube.com/watch?v=AjHdVamMH9s

Nguyễn Công Khế: Tự do báo chí, không còn cách nào khác

Nguyễn Công Khế: Tự do báo chí, không còn cách nào khác

Mặc Lâm, RFA
2014-11-19

vml11192014.mp3

nguyencongkhe-305.jpg

Nhà báo Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên.

Courtesy of Thanh Nien online

Nhà báo Nguyễn Công Khế trả lời RFA về sinh hoạt báo chí ở VN

Báo International New York Times trong số ra ngày hôm nay 19/11 có đăng một bài viết của nhà báo Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên viết về vấn đề tự do báo chí tại Việt Nam.

Bài báo này xuất hiện vào lúc Quốc hội Việt Nam chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các bộ trưởng mở ra một góc tối của tự do báo chí tại Việt Nam cần phải được Quốc hội và người đứng đầu chính phủ có thái độ dứt khoát vì tính chất quan trọng khó chối cãi của nó.

Biên tập viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn tác giả bài báo, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên Nguyễn Công Khế, về bài viết này.

Sự cấm đoán trong làng báo VN

Mặc Lâm: Thưa ông, là một nhà truyền thông có bề dày và kinh nghiệm trong bối cảnh xã hội Việt Nam chưa quen thuôc với tự do báo chí, ông đã mang kinh nghiệm khó khăn ấy để viết lên bài báo với tựa đề “Một nền Tự do báo chí cho Việt Nam” nói về sự cấm đoán trong làng báo Việt Nam và đăng trên một tờ báo lớn có lịch sử trong ngành báo chí thế giới là tờ International New York Times. Xin ông cho biết đây có phải là thời điểm thích hợp cho bài báo này hay không?

Nguyễn Công Khế: Cách đây không lâu, khi trả lời chính thức trên báo Thanh Niên và báo Một Thế Giới, tôi đã nói rõ việc này. Chính vì sự cấm đoán và mở rộng các vụ nhạy cảm của các nhà lãnh đạo, nó đã để báo chí đi vào ngõ cụt. Những thông tin cần thiết nhất thì lại không được đến từ những tờ báo chính thống.

Bây giờ với thời đại thông tin này, người ta phải đọc trên mạng, hàng nghìn trang xuất hiện. Hồi trước chúng ta làm báo nhật trình, tức là báo ngày.

Bây giờ không phải là báo ngày nữa mà là báo phút. Do vậy, nếu chúng ta không để cho những tờ báo chính thống do chính phủ kiểm soát ở Việt Nam nói những điều cần thiết và những sự thật thì dứt khoát người ta sẽ đọc các trang mạng và tin đó là sự thật.

 

NguyenCongKhe-NewYorkTimes-300.jpg

Bài viết của ông Nguyễn Công Khế trên báo New York Times số đề ngày 19/11/2014.

Ví dụ như cuốn Đèn Cù của ông Trần Đĩnh chẳng hạn, rồi một số cuốn sách người ta in ra trên mạng ở nước ngoài thì anh đâu có kiểm soát được. Cả một bộ máy chính thống không hề nói lại một câu từ “cải cách ruộng đất” cho đến “bệnh tình của các nhà lãnh đạo” tức là làm cho cả một nền báo chí thụ động. Và từ đó làm cho mất niềm tin của nhân dân đối với chính sách thông tin này.

Nhà báo e ngại, lãnh đạo sợ mất ghế

Mặc Lâm: Với kinh nghiệm của Tổng biên tập một tờ báo lớn khi ông quyết định cho đăng các bài báo có tính đối diện với thời cuộc, đối diện với những vấn đề bị cho là nhạy cảm trong kinh tế xã hội hay chính trị…sau khi bài báo ấy xuất hiện ông có quan sát những hiệu quả mà nó mang tới hay không?

Nguyễn Công Khế: Thời của tụi tôi thì cách đây không lâu đâu –như tôi, Tô Hòa, Võ Như Lanh, Kim Hạnh…. một số Tổng biên tập trước đó. Khi đăng một bản tin chúng tôi nghĩ đến công chúng, đến đất nước mình nhiều hơn là nghĩ đến cá nhân của Tổng biên tập.

Bây giờ, từ các cán bộ nhà nước cho đến các cơ quan báo chí, người ta sợ bị “mất ghế” cho nên người ta không dám dũng cảm để nói lên sự thật mặc dù sự thật đó rất có lợi cho đất nước.

Nghị quyết của đảng, của chính phủ, quốc hội đang đặt vấn đề tham nhũng lên hàng đầu. Thế nhưng khi đặt bút viết chống tham nhũng của các vụ lớn thì các nhà báo rất e ngại, rất sợ, chùn tay. Điều đó làm cho tham nhũng hoành hành và dẫn đến nhiều hệ quả của đất nước.

Vấn đề nợ công, nợ xấu, những vấn đề mà cả đất nước và rất nhiều người dân quan tâm thì không làm được. Tôi nghĩ không phải là các nhà báo kém, thiếu chuyên nghiệp nhưng mà người ta ngại. Lãnh đạo các tờ báo thì sợ “mất ghế. Còn phóng viên thì ngại từ kiểm duyệt.

Tôi nghĩ nền báo chí như thế nó rất có hại, tai hại cho một đất nước đang phát triển. Sự công khai minh bạch của báo chí giúp cho sự phát triển của đất nước rất nhiều.

Lãnh đạo các tờ báo thì sợ “mất ghế. Còn phóng viên thì ngại từ kiểm duyệt. Tôi nghĩ nền báo chí như thế nó rất có hại, tai hại cho một đất nước đang phát triển.

Nguyễn Công Khế

Sa đà vào những chuyện vặt vãnh

Mặc Lâm: Theo nhận xét chung của chúng tôi thì ngày nay nhiều tờ báo dám xâm nhập vùng cấm, vùng nhạy cảm hơn mặc dù chấp nhận sau đó bài báo có thể bị gỡ xuống và Tổng biên tập có thể bị mất chức. Tuy nhiên các hiện tượng đó không nhiều. Theo ông những hoạt động ngoài lề này phải chăng là chủ trương của nhà nước mở một chút cửa để không khí tràn vào xóa bớt sư ngộp thở của tự do báo chí nhưng vẫn chưa đủ không khí cho một lá phổi lành mạnh. Theo ông nếu nhà nước mở hẳn cánh cửa này thì sự lợi hại ra sao?

Nguyễn Công Khế: Tôi nghĩ nhà nước mở ra chỉ có lợi hơn chứ không có hại. Bây giờ như VTV đang bàn đến vấn đề Công Phượng, nói về lý lịch của Công Phượng. Đó chỉ là một việc rất nhỏ thôi. Công Phượng với các hồ sơ của Tư pháp ở xã, phường vùng nông thôn Việt Nam rất lơ mơ. Vấn đề tuổi Công Phượng 19 hay 21 thì có gì thiết yếu đâu mà người ta lại ầm ầm trên đài. Những vụ lớn, những vụ tham nhũng, những vấn đề nhức nhối của đất nước thì không.

Việt Nam chúng ta sống phụ thuộc vào cái gì? Lao động rẻ, công nhân rẻ, tài nguyên thô và chúng ta sử dụng vốn ODA rất không hiệu quả. Tất cả những vấn đề nhức nhối thì báo chí ít đề cập đến.

Còn không thì báo chí sẽ phạn ra hai con đường. Một là các trang lá cải sẽ đăng cô đào này, bữa nay mặc cái áo này, bữa nay hở cái vòng một, vòng hai; Rồi người ta đi quá đà để khai thác, để câu view, tìm bạn đọc. Còn những vấn đề chính thì lại không đề cập. Đó là cái tai hại chứ.

Tôi nghĩ một chính quyền mạnh, một chính phủ mạnh thì cần một nền báo chí minh bạch, một nền thông tin minh bạch.

Mặc Lâm: Và ông nghĩ chính phủ hiện nay đã đủ mạnh chưa đề tiếp cận các nguồn thông tin minh bạch ấy?

Nguyễn Công Khế: Tôi thấy họ vẫn chưa dám để cho có thông tin nhiều chiều, có các phản biện thuyết phục. Một chính quyền mạnh, tôi nói trước đây-thời của chúng tôi cách đây không lâu như tôi đã nói ở trên- những phản ảnh của chúng tôi về tình hình thực trạng của kinh tế, chính trị, xã hội khi được đưa ra mà hơi gay gắt và nó gần với sự thật thì tôi nghĩ điều đó thúc đẩy cho xã hội lành mạnh. Nó chả có hại gì cả. Khi mà thông tin minh bạch thì người dân đặt lòng tin vào đất nước họ, vào xã hội nhiều hơn.

Con đường, chính sách minh bạch thông tin và tự do báo chí trước sau gì nó cũng đến và dứt khoát mình phải làm thôi. Không có cách nào khác, không có lựa chọn nào khác.

Nguyễn Công Khế

Thời của Minh bạch, Tự do sẽ đến

Mặc Lâm: Phải nói đây là một chủ đề rất gay gắt trong chính trường Việt Nam hiện nay. Ông là một đảng viên kỳ cựu, đã có những cống hiến nhất định cho đất nước, cho Đảng Cộng sản Việt Nam và hơn nữa cho ngành báo chí với tư cách một Tổng biên tập…khi ông đưa những nhận xét này trên một tờ báo lớn của thế giới ông có lo ngại sẽ có những động thái nào đó từ chính quyền gây khó khăn cho ông hay không?

Nguyễn Công Khế: Tôi trả lời báo trong nước còn mạnh hơn báo này nhiều. Anh phải đọc lại bài “Tôi đã bị trả giá nhiều lần” và “Dân thường không có quyền tham nhũng”. Trong các bài đó tôi nói mạnh hơn bài này rất nhiều. Tôi nói chủ yếu về chính sách thông tin của nhà nước hiện nay.

Mặc Lâm: Nhưng đó là những bài báo trong nước nhưng bây giờ thì ông công khai trên diễn đàn báo chí quốc tế và do đó nhà nước sẽ để ý hơn và có biện pháp khác hơn? Nó có thể phát sinh hai vấn đề, một là phản ứng tích cực có nghĩa là họ sẽ thay đổi theo đề nghị của ông hai là họ tiêu cực trong thái độ phủ nhận và chống đối. Giữa hai thái độ đó ông hy vọng nó diễn ra theo chiều hướng nào?

Nguyễn Công Khế: Tôi nghĩ nó sẽ diễn ra chiều hướng tích cực. Tôi đặt vấn đề trong nước rồi. Tôi có cảm giác là người ta đồng tình với tôi nhiều hơn. Tuy người ta chưa sửa được nhưng tôi nghĩ phần đồng tình nhiều, rất nhiều.

Tôi nghĩ con đường, chính sách minh bạch thông tin và tự do báo chí trước sau gì nó cũng đến và dứt khoát mình phải làm thôi. Không có cách nào khác, không có lựa chọn nào khác.

Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.

Bùi Văn Phú: Tín nhiệm hay không?

Bùi Văn Phú: Tín nhiệm hay không?

Bùi Văn Phú

18-11-2014

Quốc hội Việt Nam tuần qua đã bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo. Sau nhiều ngày bàn luận và chất vấn, 484 đại biểu đã đánh giá việc làm của 50 lãnh đạo từ Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội đến các bộ trưởng, thủ trưởng ban ngành.

Phiếu đánh giá có 3 chọn lựa: “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm” và “tín nhiệm thấp”. Các đại biểu không có lựa chọn “không tín nhiệm” dành cho bất cứ lãnh đạo nào.

Kết quả, tất cả các lãnh đạo cao cấp đều nhận được đại đa số phiếu “tín nhiệm cao” hay “tín nhiệm” của các đại biểu.

Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đạt 380 phiếu tín nhiệm cao (78.51%) và 84 tín nhiệm (17.36%) trên tổng số 484 phiếu, tức 95.87% tín nhiệm cao và tín nhiệm cộng lại. Năm ngoái ông được tổng cộng 94.3%.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đạt 340 (70.25%) và 93 (19.21%), tổng cộng 89.46%. Năm ngoái ông được 94.92%.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đạt 320 (66.12%) và 96 (19.83%), tổng cộng 85.95%. Năm ngoái ông được 67.48%.

Ông Dũng có tiến bộ nhiều nhất so với năm ngoái và cả ba người đứng đầu nước năm nay đều đạt trên 85% tín nhiệm từ đại biểu quốc hội.

Trong kỳ bỏ phiếu này, một số quan chức bị nhiều phiếu “tín nhiệm thấp” là bộ trưởng y tế Nguyễn Thị Kim Tiến với 192 phiếu tức 40%, bộ trưởng giáo dục Phạm Vũ Luận với 149 phiếu tức 31%.

Bà Tiến trong năm qua bị chỉ trích vì vụ việc thuốc tiêm chủng gây tử vong cho nhiều thiếu nhi. Ông Luận bị điểm xấu liên quan đến xuất bản sách giáo khoa, bằng cấp và tiến sĩ giấy trong ngành giáo dục. Tuy nhiên hai vị vẫn không từ chức.

Nhìn vào số phiếu, với mức tín nhiệm thấp là 40% và 31% thì bà Tiến và ông Luận vẫn còn được tín nhiệm cao và tín nhiệm ở mức 60% và 69%.

Như thế dù có dư luận bức xúc muốn họ từ chức thì không lãnh đạo nào làm thế vì quốc hội toàn là người của đảng. Đảng bố trí nhân sự lãnh đạo, cả quốc hội là người của đảng vẫn đồng ý tín nhiệm thì tại sao họ lại phải từ chức.

Nhìn chung, trừ một vài quan chức như bà Tiến hay ông Luận, còn lại 50 lãnh đạo các bộ, ban ngành đều được quốc hội tín nhiệm trên 70%. Một con số mơ ước cho lãnh đạo các quốc gia tự do dân chủ trên thế giới.

Vấn đề đặt ra là mức tín nhiệm các đại biểu dành cho lãnh đạo Việt Nam có phản ánh được lòng dân hay không?

Tổ chức chính trị và lãnh đạo nhà nước tại Việt Nam là cơ chế độc đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền cai trị đất nước, như ghi trong Điều 4 Hiến pháp.

Các ứng viên đại biểu quốc hội phải được cơ sở ngoại vi của Đảng Cộng sản là Mặt trận Tổ quốc đề cử. Rất ít người dám tự ứng cử vì làm thế sẽ bị sách nhiễu, trấn áp. Có hai ứng viên độc lập là luật sư Lê Quốc Quân và tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã rơi vào trường hợp như thế. Vì tự ra ứng cử và tham gia những hoạt động dân chủ, ông Vũ đã bị kết án nhiều năm tù và nay phải sống lưu vong ở Mỹ. Luật sư Quân hiện bị tù vì trốn thuế.

Lần bầu quốc hội mới nhất là năm 2011 có gần 900 ứng viên được Mặt trận Tổ quốc chấp thuận để tranh 500 ghế đại biểu.

Như thế, đại biểu quốc hội chỉ phản ánh ý của đảng viên Đảng Cộng sản. Việc bỏ phiếu tín nhiệm cao thấp cũng là vì quyền lợi của đảng và các phe nhóm trong đảng.

Trong các chế độ tự do dân chủ, như ở Thái Lan, Nhật, Ấn Độ hay ở Anh quốc, nếu thủ tướng, cũng là người đứng đầu một đảng, thấy không còn được sự ủng hộ trong quốc hội thì sẽ tuyên bố giải tán quốc hội để dân bầu chọn lại.

Khi đó, các đảng sẽ vận động cử tri để họ chọn người của đảng mình vào quốc hội. Đảng nào chiếm được đa số đại biểu sẽ chọn người làm thủ tướng để lãnh đạo đất nước.

Tại Hoa Kỳ, một nước theo chế độ tổng thống, đầu tháng này đã có bầu giữa nhiệm kỳ tổng thống. Hôm 4/11 cử tri Mỹ đã bầu chọn 36 trong tổng số 100 thượng nghị sĩ và toàn thể 435 hạ nghị sĩ ở cấp liên bang và hàng nghìn dân cử các cấp khác.

Thăm dò dư luận của Viện Gallup vào cuối tháng 10 cho thấy số người ủng hộ Tổng thống Barack Obama là 42%, số không ủng hộ là 53%.

Sự bất đồng của dân Mỹ đối với các chính sách của Tổng thống Obama phản ánh qua kết quả bầu cử vừa rồi.

Tại hạ viện, cộng hòa vẫn chiếm đa số và tăng lên đến 243/435. Tại thượng viện, cộng hòa đạt 52/100 giành luôn đa số đang do đảng dân chủ nắm giữ.

Trong hai năm tới, tổng thống và quốc hội sẽ phải làm việc sao cho được lòng dân. Nếu không những lá phiếu của cử tri lại làm thay đổi chính trường Mỹ trong kỳ bầu chọn năm 2016.

Sinh hoạt chính trị ở Nam Triều Tiên, Indonesia, Mexico, Philippines cũng thế, tổng thống và quốc hội được dân bầu lên qua các kỳ bầu cử với ứng viên của nhiều đảng.

Tại những quốc gia tự do dân chủ, tiếng nói của dân được phản ánh trong các cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước.

Ở Việt Nam chưa có bầu cử đa đảng và quyền tự do phát biểu quan điểm chính trị còn bị đe dọa bởi những bản án tù.

Đơn giản nếu có ai thực hiện thăm dò ý kiến mức tín nhiệm của dân với lãnh đạo thì sẽ vào tù ngay. Năm ngoái, dịp quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên, nhà báo tự do Trương Duy Nhất đưa ra thăm dó ý kiến đánh giá lãnh đạo, trong đó có cả lựa chọn “không tín nhiệm”. Sau đó ông bị bắt giam và đầu năm nay bị kết án 2 năm tù vì “lợi dụng tự do dân chủ để xâm phạm quyền lợi nhà nước” theo điều 258 luật hình sự.

Năm 2000, báo Tuổi Trẻ Xuân công bố một thăm dò dư luận xem ai là người được ái mộ. Kết quả Chủ tịch Hồ Chí Minh được điểm cao nhất, kế đến là Tướng Võ Nguyên Giáp, rồi đến Tổng thống Bill Clinton, Thủ tướng đương nhiệm Phan Văn Khải. Hệ lụy của việc thăm dò này là số báo xuân bị thu hồi và tổng biên tập bị kỷ luật.

Vì thế kết quả bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo của quốc hội Việt Nam tuần qua chỉ là hình thức để cho có vẻ dân chủ, chứng tỏ lãnh đạo có ít nhiều trách nhiệm với dân.

Trên thực tế, hiện nay người dân Việt vẫn chưa có quyền định đoạt tương lai chính trị của đất nước và thay đổi lãnh đạo quốc gia qua các cuộc bầu cử tự do, đa đảng.

Lãnh đạo có được tín nhiệm hay không, tất cả đều là sự sắp xếp trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, của Bộ Chính trị và hai triệu đảng viên. Hơn 80 triệu người dân vẫn đứng bên ngoài.

© 2014 Buivanphu

Khi nhà cầm quyền đã đánh mất lương tâm

Khi nhà cầm quyền đã đánh mất lương tâm

Chuacưuthe.com

VRNs (19.11.2014) – Bình Dương – Những gì xảy ra cho giáo hội Mennonite (Bình Dương) trong Chúa nhật 16/11 và những ngày trước đó cho thấy một điều: Nhà Cầm quyền đã đánh mất lương tâm.

Bất cứ xã hội nào cũng phải có Bậc cầm quyền lãnh đạo xã hội, gọi là chính quyền. Chính quyền trước hết ra từ dân và làm việc cho dân. Nhiệm vụ trước mắt của họ là bảo vệ dân… nên mới được gọi là “chính quyền” (Một quyền lực chính đáng – đáng được tôn trọng)

Một chính quyền làm ngơ trước sự lộng hành của cái ác và sự đau khổ của người dân họ không còn là chính quyền, không xứng đáng được gọi là chính quyền nữa. Phải gọi đó là “Tà quyền”.

Những ngày qua, mục sư Nguyễn Hồng Quang cũng như những Mục sư – truyền Đạo của giáo hội Mennonite đã thẳng thắn tuyên bố với công luận thế giới rằng: “Chính quyền – công an tỉnh Bình Dương đã sai dùng côn đồ, xã hội đen tấn công, đánh phá cơ sở giáo hội Mennonite”. Việc tố cáo này không phải là chuyện nhỏ. Một là chính quyền trung ương cũng như địa phương phải làm việc ngay với những người tố cáo và đưa ra lời giải thích với công luận quốc tế một cách thuyết phục, để bảo vệ uy tín và danh dự của chính quyền. Hai là phải điều tra và bắt ngay băng nhóm tội phạm nào đã làm điều đó (tấn công, đánh phá cơ sở giáo hội)… đó mới là Chính quyền. Còn im lặng trước những lời tố cáo đó là “coi như thừa nhận”.

Cơ sở thờ tự của Giáo hội Mennonite (Bình Dương) bị đập phá.

Cơ sở thờ tự của Giáo hội Mennonite (Bình Dương) bị đập phá.

Đã là Chính quyền thì đâu đó phải rõ ràng: Tất cả phải công minh bằng Hiến pháp- pháp luật. Một chính quyền không phải là không có sai- Hồ Chí Minh hoặc ai đó nói rằng “không sợ sai, chỉ sợ sai lầm mà không chịu sửa chữa”- Chính quyền khi đã sai thì phải xin lỗi người dân và bồi thường cho dân thì mới xứng đáng được tôn trọng và được gọi là Chính quyền hoặc “nhà Cầm quyền”… Một chính quyền lúc thì bảo mình đại diện cho luật pháp, lãnh đạo nhân dân… lúc thì cấu kết với những thành phần tội lỗi, bất hảo trong xã hội (hoặc chính một bộ phận của lực lượng chức năng “đóng vai, đội lốt xã hội đen”) để tấn công người dân thì đó không còn là chính quyền hoặc nhà cầm quyền nữa, mà chỉ là một lực lượng “đội lốt chính quyền” chứ không phải là chính quyền đúng nghĩa. Hoặc nói một cách đúng hơn đó là “thời kỳ hết thuốc chữa của một chế độ, một chính thể”, thời kỳ xuống dốc thê thảm của một lực lượng được gọi là “nhà cầm quyền”… Sự cuối cùng của một đảng phái chính trị sắc máu, sống nhờ sự dối trá và bạo lực.

Đạo đức Hồ Chính Minh đâu?

Trong khi cả hệ thống chính trị của nhà cầm quyền tuyên truyền và giáo dục trong quần chúng nhân dân cách ráo riết với nhiều sự tốn kém về “đạo đức HCM”… thì những gì diễn ra tại Bình Dương, cho dẫu rằng, đó chỉ là sự việc “mâu thuẩn dân sự”, những việc “hoàn toàn thuộc về dân sự, chính quyền không nhúng tay”… mà chính quyền làm ngơ không biết đến thì đã là “vô đạo đức, vô trách nhiệm, đánh mất lương tâm, thua giang hồ đất cảng…” chứ đừng nói là “chính quyền hay đạo đức HCM”! Trong thế giới giang hồ, “giang hồ thứ thiệt không chơi bẩn”. Kẻ nào nhân danh giang hồ mà chơi bẩn sẽ bị giang hồ trừng trị, vì “tội làm ô danh giang hồ”! Chỉ cần một kẻ nào đó “mượn danh giang hồ, cướp rỗ bánh ít của một bà lão nghèo đi bán kiếm sống”… là giang hồ thứ thiệt sẽ xử ngay kẻ đó… Trong khi một “băng nhóm xã hội đen” nào đó, tấn công một cơ sở tôn giáo cách dã man, nơi có người già vè trẻ em đang sống một cách lạnh lùng, vô lương tâm… mà chính quyền ở đó hoặc trung ương gọi là “không biết đến” thì chính quyền đó thua một băng đảng giang hồ thứ thiệt! Tổng bí thư của cái đảng chính trị đó thua một “đại ca đất Cảng Hải phòng”! Vì cả một đảng chính trị nắm quyền trên cả một đất nước, có đầy đủ quyền lực, pháp luật, phương tiện trong tay mà hành xử với người dân còn thua một đám “du côn miệt vườn” thì chính nghĩa còn đâu mà cũng tự xưng, tự phong là “chính quyền”?

Nay là thời đại nào mà chính quyền còn tin vào “dối trá và bạo lực” sẽ đưa đến… “thành công”?

Hay là chính quyền- đảng CSVN hiện nay, cho tới nay mà vẫn “chưa thuộc bài”?

Stalin từng nói “diệt tôn giáo bằng vũ lực là ngu”!

Những gì diễn ra tại giáo hội Mennonite – Bình dương… nếu chính quyền đứng phía sau là “chính quyền NGU” (nếu Stalin nói đúng). Nếu chính quyền “vô can” trong vụ này thì chính quyền vô lương tâm, vì xã hội đen lộng hành mà chính quyền “không biết đến” thì quả thật rằng “một chính quyền như vậy là một lũ ăn hại”, một “lũ sâu dân mọt nước”, một lũ “phá nước hại dân, nặng tội với dân tộc, với lịch sử”… chứ chẳng phải là chính quyền gì cả! Hoặc đó đích thực là một lũ “Tà quyền đội lốt thương dân”.

Xét cho cùng thì “cuộc chiến tại Bình dương giữa chính quyền và giáo hội Mennonite… Chính quyền THUA TRẬN HOÀN TOÀN”! Vì sao?

Đối với quan niệm “tôn giáo” thì giáo hội Mennonite “chẳng có gì để mất”. Vì đối với quan niệm tôn giáo chung thì “vật chất là cái phù du”, không nghĩa lý gì. Sống có danh dự và trách nhiệm với đồng bào, đồng loại, dân tộc mới đáng sống. Sống ngay thẳng, không khuất phục TÀ QUYỀN, tội ác… sống như vậy “chết cũng vinh”! Cho nên dùng cái bạo lực, khủng bố để tấn công, mong họ khuất phục là chính quyền quá dại! Cái dại thứ hai là chính quyền đã tự “lột áo cho thế giới xem lưng”, khoe mình có xăm hình “xã hội đen” nhưng cái hành động là thứ “du côn miệt vườn” chứ không phải là “dân giang hồ thứ thiệt”! Thế giới sẽ phỉ nhổ vào cái thứ “du côn miệt vườn” mà cũng xưng mình là “đại ca”!

Cho nên trong cuộc chiến tại Bình dương vừa qua giữa chính quyền và giáo hội Mennonite, chính quyền Bình dương thật sự đã “gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh cho giáo hội Mennonite” và đã tự “bôi tro trét trấu vào mặt mình”! Mennonite không có gì để mất, nếu có chết một ai thì cũng về với Chúa cách xứng đáng, xứng danh một thánh đồ của Chúa Jesus! Được thiên sứ nghinh đón một cách long trọng! Còn Chính quyền BD và những kẻ nào tiếp tay sẽ lãnh quả báo trong nay mai!

Kinh thánh chép:

Khi ngươi thấy trong xứ có kẻ nghèo bị hà hiếp, hoặc thấy sự phạm đến lẽ chánh trực, sự trái phép công bình, thì chớ lấy làm lạ; vì có kẻ cao hơn kẻ cao vẫn coi chừng, lại còn có Đấng cao hơn nữa.” (Truyền đạo 5: 8)

– Đức Chúa Trời sẽ sớm kết thúc một chế độ “lấy sự dối trá, bạo lực là sức mạnh để tồn tại”, coi dân như cỏ rác mà cũng tự xưng là chính quyền!

Nầy, Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, sẽ dùng oai mạnh đốn các nhánh cây; những kẻ cao lớn đều bị chặt, những kẻ kiêu ngạo bị hạ xuống.” (Ê-sai 10: 33)

– Một chính thể coi dân như cỏ rác, coi công lý như rác rưỡi, đồ chơi… sẽ sớm bị Đức Chúa Trời hạ xuống và bị Công lý xét xử.

Sự cường bạo của kẻ ác sẽ đùa chúng nó đi;
Vì chúng nó không khứng làm điều ngay thẳng
.” (Châm ngôn 21: 7)

– Bạo lực là con dao hai lưỡi: Nếu dùng nó cho tôn giáo là “tự sát”! Nhất là khi anh đã dùng nó đối với Hội thánh của Đức Chúa Trời.

Hồ Chí Minh hoặc ai đó nói rằng “không sợ sai, chỉ sợ sai lầm mà không chịu sửa chữa”- Chính quyền khi đã sai thì phải xin lỗi người dân và bồi thường cho dân.

Đối với chính quyền, việc xin lỗi và bồi thường vật chất cho giáo hội Mennonite là chuyện “không lớn”… Nó bằng “củ khoai rớt trên đường của một người đi bán khoai”! Hãy làm điều đó để lấy lại danh dự trước khi quá muộn màng!

Huỳnh Thúc Khải

(Được giáo hội Mennonite sắc phong mục sư năm 2010)

LHS- 18/11/2014

Việt Nam nằm trong top 10 nước có du học sinh đông nhất ở Mỹ

Việt Nam nằm trong top 10 nước có du học sinh đông nhất ở Mỹ

Sinh viên quốc tế chiếm khoảng 4,2% tổng số sinh viên nhập học tại các trường đại học ở Mỹ.

Sinh viên quốc tế chiếm khoảng 4,2% tổng số sinh viên nhập học tại các trường đại học ở Mỹ.

18.11.2014

Báo cáo hàng năm của Viện giáo dục quốc tế (IIE) và Bộ Ngoại giao Mỹ công bố cho biết Việt Nam vẫn nằm trong nhóm 10 nước có đông du học sinh ở Mỹ nhất, xếp ở vị trí thứ tám.

Tổng số sinh viên Việt Nam hiện đang theo học tại các trường của Mỹ trong năm 2014 là 16.579 người, tăng 3% so với 16.098 người năm 2013.

Số lượng sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học của Mỹ đã tăng 75% trong ba năm qua, lên gần 275.000 người trong năm học 2013-2014.

Báo cáo hàng năm của Viện Giáo dục Quốc tế cho biết sinh viên đến từ Trung Quốc chiếm số lượng đông đảo nhất trong số 886.052 du học sinh nước ngoài ở Mỹ vào năm ngoái, ở mức 31%. Ấn Độ đứng thứ hai, chiếm 12% tổng số và thứ ba là Hàn Quốc với 7,7%.

Theo bản báo cáo, sinh viên quốc tế chiếm khoảng 4,2% của tổng số sinh viên nhập học tại các trường đại học của Mỹ.

Các trường có nhiều sinh viên nước ngoài là Đại học New York, Đại học Nam California và Đại học Illinois tại Urbana-Champaign.

Nguồn: IIE, VOA

Đừng Tìm Hạnh Phúc

Đừng Tìm Hạnh Phúc

Nếu hạnh phúc là thứ tìm có thể thấy thì có lẽ con người chẳng phải nếm mùi khổ đau nhiều như vậy . Nếu hạnh phúc là thứ ẩn nấp để cùng con người tham gia trò trốn tìm thì cuộc sống này liệu có còn thời gian cho yêu thương?
Vì thế, hãy dừng cuộc tìm kiếm hạnh phúc ấy lại bởi nó không phải là đích đến mà nó là thứ luôn hiện hữu song hành bên ta, chỉ vì ta quá bận rộn với cuộc sống bộn bề mà ta quên mất nó đấy thôi.

Hạnh phúc ở đâu ?

Hạnh phúc nằm ở đôi môi của bạn đấy.
Một đôi môi biết mỉm cười và biết nói lời yêu thương chính là cửa ngõ dẫn đến hạnh phúc an nhiên của con người.
Nếu bạn chỉ biết than vãn, chỉ biết oán trách những trớ trêu của cuộc đời, chỉ biết dùng lời nói để chê bai, mỉa mai, công kích người khác thì đừng hỏi “Vì sao tôi không thấy hạnh phúc”. Hãy nói về những yêu thương tốt đẹp, hãy mỉm cười với cuộc sống xung quanh, hãy dành những lời ngọt ngào cho những người bạn yêu quý và bạn sẽ thấy hạnh phúc nảy nở từ đôi môi.

Hạnh phúc nằm ở sự tha thứ.

Chẳng có ai ôm trong lòng mối hận thù mà cảm thấy vui vẻ và thoải mái cả. Có thể, họ đã làm tổn thương bạn, họ đã phản bội lòng tin và hằn trong lòng bạn một vết thương sâu hoắm và nhức nhối nhưng hãy đặt tay lên ngực mình và dặn với chính mình “Cuộc đời này vốn không đủ dài để yêu thương chỉ sao lại phí hoài nó cho hận thù”
Vì thế, bằng cách này hay cách khác, hãy quên đi những vết thương và quên đi người để lại vết thương ấy, bạn cho đi sự tha thứ cũng chính là cách bạn tự cho chính mình một món quà chứ đầy hạnh phúc và an nhiên.
Tôi không chắc chúng ta có thể lại tin, lại yêu người ấy như chưa có chuyện gì nhưng chỉ cần bản thân tha thứ được thì ta sẽ lại có thể mỉm cười khi giáp mặt nhau.
Như vậy, không phải sẽ tốt hơn sao.

Con đường hạnh phúc

Hạnh phúc nằm ở chữ Cho chứ không phải chữ Đòi.

Hãy cho đi những thứ bạn muốn nhận rồi cuộc đời sẽ trả lại cho bạn những điều mà bạn muốn, có thể nó không đến từ người bạn cần nhưng chắc chắn rằng trong dòng đời sau này, sẽ có người cho bạn lại những điều như thế.
Đừng đòi hỏi điều gì khi bản thân không làm được. Sự hụt hẫng khi điều mình muốn không được đáp lại rất dễ đẩy bạn vào hố sâu của thất vọng.
Vì thế, đừng tự giết cảm xúc của mình chỉ vì những đòi hỏi cho thỏa mãn cảm xúc của bản thân, hãy học cách cho đi thật nhiều, cuộc sống này, không để bạn chịu thiệt thòi đâu.

alt

Hạnh phúc là khi bạn biết Đủ.

Nói theo kiểu dân gian là “cái gì quá cũng không tốt”.
Yêu thương quá sinh ra gò bó, quan tâm quá sẽ khiến mất tự do, ghen tuông quá cũng mất vị tình yêu và cái gì cũng thế, chạm đến chữ Đủ sẽ chạm được hạnh phúc tròn vị.

Đừng chạy theo cái gì quá hoàn chỉnh và cũng đừng ép bản thân phải trở nên quá hoàn hảo, yêu thương vừa đủ, ấm áp vừa đủ, quan tâm vừa đủ và bên nhau vừa đủ có lẽ sẽ hạnh phúc hơn.
Và hạnh phúc chẳng nằm ở đâu xa, nó nằm ngay trong trái tim của chính ta, khi bản thân chông chênh mệt mỏi, hãy đặt tay lên tim và tự nỏi “Rồi mọi thứ sẽ ổn”.
Khi nối buồn xâm chiếm tâm trí và cô đơn thống trị lấn át hạnh phúc, hãy tìm một khoảng không gian riêng với những bản nhạc ta yêu, những món ăn ta thích và tự nói với lòng “Hết hôm nay thôi nhé, ngày mai ta sẽ lại mỉm cười”.
Đừng gắng gượng, hãy đối diện và tìm cách giải tỏa nỗi buồn và mang hạnh phúc quay về.

Hạnh phúc của ta nên tự ta xây lấy, đừng chạy theo người khác để thỏa mãn lòng họ và mang về thứ hạnh phúc ảo sẽ chết theo thời gian.

Xin Được Tha Thứ!

Xin Được Tha Thứ!

Trong những năm 1944-1945 dân Roma khiếp sợ mỗi khi nghe nhắc đến tên Peter Koch, một sĩ quan mật vụ Ðức quốc xã đã từng giết hại không biết bao nhiêu mạng người.

Sau chiến tranh, anh ta bị bắt và bị kết án tử hình.

Anh viết thư cho Ðức Giáo Hoàng Piô 12 để xưng thú các tội ác mình đã phạm và đặc biệt xin Ngài tha thứ cho anh tội đã tấn công vào Vương Cung thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành.

Ðức thánh cha đã sai một linh mục đến nhà tù để gặp anh ta và chuyển đến anh sự tha thứ của Ngài, đồng thời trao cho anh ta một tràng hạt mân côi.

Ðến nhà giam, sau khi đã làm theo lời căn dặn của Ðức Giáo Hoàng, vị linh mục đã nghe người tử tội thốt lên như sau: “Tổ quốc con nguyền rủa con, đó là điều hợp lý. Tòa án đã kết án con, điều này cũng rất công bình. Ðức Giáo Hoàng đã tha thứ cho con và đã cho con một bài học cao quý.  Giả như con đã luôn nghĩ đến việc tha thứ, thì giờ này có lẽ con không phải ra pháp trường như thế này”. Nói rồi anh bật khóc: “Con không dám động đến tràng hạt của Ðức Giáo Hoàng bằng đôi tay vấy máu của con.  Xin cha đeo tràng hạt vào cổ cho con”.

Ít phút sau, Peter Koch ngã gục dưới loạt đạn, miệng anh vẫn còn cầu khẩn Mẹ Maria…

Xin được tha thứ, đó là một trong những hành động vĩ đại nhất của con người…

Quỷ Satan đã có lần trách móc Thiên Chúa như sau: “Ngài không công bình.  Có biết bao nhiêu tội nhân đã làm điều ác.  Họ chỉ trở lại một đôi lần, nhưng lần nào Ngài cũng niềm nở tiếp đón họ.  Tôi chỉ có làm một điều bậy, tôi chỉ có phạm tội một lần, thế mà Ngài đã tuyên phạt tôi đời đời”.

Nghe thế, Thiên Chúa mới hỏi vặn lại Satan: “Thế ngươi có bao giờ mở miệng xin tha thứ và ăn năn sám hối chưa?”.

Mở miệng kêu xin tha thứ là bước lần đến ngưỡng cửa Thiên Ðàng.  Nhưng xin tha thứ cho chính mình thôi, chưa đủ, con người cần phải tha thứ cho người khác.  Cánh cửa Thiên Ðàng sẽ mở ra mỗi khi con người thành thực thứ lỗi cho người khác.

Nhận ra lầm lỗi của mình, kêu cầu sự tha thứ và tha thứ cho người khác: đó là đôi cánh Thiên Thần giúp con người bay lên tới Chúa.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

DI CHÚC

DI CHÚC

Rồi cũng có một ngày, bác sĩ sẽ nói với tôi rằng bộ não của tôi không còn khả năng hoạt động nữa, hay nói cách khác là cuộc đời tôi hầu như đã chấm dứt.

Khi điều đó xảy ra, xin đừng cố gán ghép một cuộc sống nhân tạo vào trong cơ thể tôi bằng tất cả những thứ máy móc đó.  Xin đừng gọi đó là “giây phút lâm chung” của cuộc đời tôi, mà hãy gọi đó là một khởi đầu của sự sống mới vì tôi sẽ góp tấm thân này để giúp những người khác có được một cuộc sống lành lặn hơn.

Hãy đem ánh sáng của tôi dâng tặng cho một người đàn ông chưa từng một lần nhìn thấy ánh nắng mặt trời, chưa bao giờ được thấy gương mặt dễ thương của trẻ thơ, và chưa từng nhìn thấy tình yêu trong đôi mắt của một người phụ nữ.

Hãy tặng trái tim của tôi cho một người luôn bị trái tim mình hành hạ bằng những cơn đau đớn triền miên.

Hãy truyền những giọt máu của tôi cho cậu bé đang thương tích đầy mình sau tai nạn giao thông kia để nó có thể sống cho tới ngày được nhìn thấy cháu chắt của mình.

Tôi sẽ hiến hai quả thận của mình cho những ai phải sống lần hồi qua ngày bằng chiếc máy chạy thận nhân tạo.

Hãy lấy xương của tôi, từng thớ thịt của tôi, và tất cả những sợi dây thần kinh này nữa nếu điều đó giúp cho những đứa trẻ tật nguyền có thể đi lại được.

Hãy nghiên cứu từng ngóc ngách trong bộ não của tôi.  Nếu cần thiết, hãy lấy cả các tế bào, đem phát triển chúng, thí nghiệm chúng để một ngày nào đó chúng có thể giúp cho một cậu bé câm có thể bật lên tiếng nói hay để một cô bé bị điếc có thể nghe thấy tiếng mưa rơi bên ngoài cửa sổ.

Nếu tôi có còn lại gì thì hãy đem thiêu tất cả rồi thả tro vào trong gió, biết đâu nhờ gió mang đi, chúng cũng giúp ích được gì cho những bông hoa xinh đẹp kia.

Nếu buộc phải đem chôn thứ gì đó của tôi, xin hãy chôn đi tất cả những tội lỗi, yếu kém, hay những định kiến mà tôi đã dành cho những người chung quanh.

Hãy đem tội lỗi của tôi đến cho quỷ dữ.  Đem linh hồn tôi đến cho Thượng đế.  Nếu như, dù chỉ tình cờ thôi, bạn muốn nhớ đến tôi, thì hãy thay tôi làm những điều tốt hay nói những lời yêu thương với những ai đang cần đến bạn.  Nếu bạn làm đúng tất cả những điều tôi đã dặn, thì tôi sẽ không bao giờ chết!

 

***********************************************

Lạy Chúa,

Đứng trước cái chết, con cũng run sợ như ai

Vì con chưa thấy sẵn sàng để gặp Chúa.

Cả cuộc đời con, con đã lo toan rất nhiều,

Nhưng điều quan trọng nhất là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy

Thì con lại chưa làm gì cả.

Con thật dại khờ khi nghĩ rằng con sẽ có đủ thời gian,

Con sẽ làm được điều đó bất cứ lúc nào con muốn.

Nhưng sự thật là con chưa bao giờ tự làm chủ được sự sống của mình

Làm sao con lại dám cho mình cái quyền làm chủ được sự chết?

Ngày nào đó con đến trước mặt Chúa

Không biết Chúa có nhận ra con hay không,

Hay là Chúa bảo “đi cho khuất mắt Ta, hỡi phường gian ác”

 

Lạy Chúa là Chúa Tạo Vật,

Con xin Chúa sự khôn ngoan

Để sống trọn vẹn giây phút hiện tại

Trong ân nghĩa của Chúa

Để rồi ngày nào đó con đi gặp Chúa,

Sẽ không như hai người xa lạ

Nhưng là hai người rất thân quen.

Lúc đó, Chúa sẽ gọi con bằng tên rất trìu mến

Và giang đôi tay đón con vào lòng.  Amen!

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ.

QUỐC VỤ

Thiên này, đi sâu vào giảng giải: Cốt lõi của phép trị nước – Đó là, phải thương dân.

Người đứng đầu Đất Nước, phải lo toan cho Dân: Phải bảo vệ, quyền lợi hợp pháp của họ – Phải giúp họ, biến ước mơ, thành hiện thực – Không bao giờ, dồn họ, vào bước đường cùng – Không được bóc lột họ, 1 cách nặng nề – Làm cho Dân, có cuộc sống hạnh phúc – Không được chọc giận, để họ, nổi khùng lên.

Ở Việt nam, người thấu hiểu đạo lý này nhất, có lẽ, là Đức Thánh Trần. Trước lúc lâm chung, Cụ còn thiết tha, dặn lại vua Trần: “Khoan thư sức dân. Đó là kế, sâu rễ – bền gốc. Là thượng sách, để giữ nước”.

国务

文王问太公曰:愿闻为国之大务,欲使主尊民安,为之奈何? Văn vương vấn Thái công viết: “Nguyện văn vi quốc chi đại vụ. Dục sử chúa tôn, dân an, vi chi nại hà?”

Văn vương hỏi Thái công: “Xin Tiên sinh, giảng giải, những nét đại cương, về phép trị nước. Muốn Vua – Chúa, được dân chúng tôn trọng. Còn dân chúng, được an cư – lạc nghiệp. Ta phải làm thế nào?”

太公曰:爱民而已! Thái công viết: “Ái dân nhi dĩ”.

Thái công trả lời : “Đại vương, hãy yêu thương dân chúng của mình. Thế là đủ”.

Sông, có nguồn – Cây, có cội. Rừng, bị tàn phá. Sông, thiếu đi nguồn cung – tất kiệt. Đất, bị khô hạn và không được bón phân. Cây, không hút được dinh dưỡng – tất khô. Để có được, dòng sông nước đầy ăm ắp – Người ta, phải chăm sóc rừng đầu nguồn. Để có được, thân cây cường tráng – Người ta, phải chăm tưới nước và bón phân cho nó.

Tự cổ – chí kim, thể chế nào cũng phải, “Lấy Dân làm gốc”. Nhà nước nào sống được, cũng phải dựa vào Dân. Dân cung cấp sức người – sức của cho Nhà nước. Dân cung cấp nhiều, Nhà nước tất mạnh. Sức Dân kiệt, Nhà nước tất nguy. Thương yêu và chăm sóc dân chúng, đó là cách, để bậc Đế vương, thể hiện Đức – Hạnh của mình. Thương yêu và chăm sóc dân chúng, cũng là cách, để nuôi dưỡng nguồn thu. Nó giống như, chăm sóc rừng đầu nguồn – giống như, tưới nước và bón phân cho cây vậy.

Trong đám dân chúng: Người giàu, ví như, con suối lớn. Người tài, khác gì, thứ dinh dưỡng thượng hạng. Khơi được 2 nguồn này, Đất nước tất mạnh. Không khơi được 2 nguồn này, Đất nước tất suy.

Tưởng Giới Thạch, sau khi thăm Liên xô, ông nhận thấy: Những người CS, họ rất ghét người giàu và đố kị với người tài (2 động lực chủ yếu, để thúc đẩy sự phát triển của xã hội). Do đó, ông kiên quyết chống lại chủ trương: “liên Nga – liên cộng – phù trợ công nông” của Tôn Trung Sơn. Ông, lãnh đạo Trung hoa Dân quốc, theo cách riêng của mình. Sự phát triển vượt bậc của Đài loan và sự ì ạch của Trung hoa đại lục ngày nay, minh chứng, cho viễn kiến của ông.

Những người CS Việt nam, họ chủ trương: “Trí – Phú – Địa – Hào, đào tận gốc – trốc tận rễ”. Chẳng cần nói, ta cũng biết, tương lai “tươi sáng” của một chủ trương sai lầm.

文王曰:爱民奈何?Văn vương viết : “Ái dân nại hà?”

Văn vương hỏi: “Yêu dân, được đánh giá, theo những tiêu chí nào?”

太公曰:利而勿害, Thái công viết: “Lợi nhi vật hại”

Thái công trả lời: Hãy làm lợi cho dân và tiêu diệt sạch sẽ, những gì, có thể hại họ.

Vì quyền lợi của dân chúng, phải thanh lọc bộ máy lãnh đạo. Không để ở đó, những loại vô tài – thất đức. Chúng, chỉ giỏi hại Dân – hại Nước. Hãy chăm sóc môi trường, để người dân, không phải sống, trong cảnh ô nhiễm. Hãy kiểm soát gắt gao, để người dân, không phải dùng, thực phẩm độc hại. Hãy tạo ra quỹ nhà ở dồi dào, để ai cũng có thể, có nơi ăn – chốn ở tử tế. Hãy cải cách, để người dân, không bị, 1 rừng hủ tục hành chính hành hạ. Hãy thông thoáng luật – lệ, để người dân, có thể tự do làm ăn và thỏa sức sáng tạo. Hãy triệt bạo – ngược, để người dân, được sống, trong 1 xã hội thanh bình.

成而勿败. Thành nhi vật bại.

Tạo điều kiện, để người ta thành công. Đừng để người ta thất bại.

Giáo sư Ngô Bảo Châu, đã thành danh. Nhưng, đâu phải, trên quê hương của mình. Nếu, ở lại Việt nam: Ông, chắc gì, đã hơn Lê Bá Khánh Trình. Cũng lại, mòn đũng quần ở giảng đường. Tối – ngày, đi dạy thêm và tướt bơ, với ngày 2 bữa ăn. Sao, có thể, nên cơm – thành cháo được.

Trần Quốc Hải, đam mê, chế tạo trực thăng. Ông không được, nhà nước CS, động viên và khuyến khích. Họ ngăn cấm, thậm chí, giam cầm máy bay của ông. Thật chua xót, con dân Đất Việt, chỉ biết đến ông, nhờ người…Campuchia. “Nước bạn, kêu tôi sang làm khoa học. Họ cấp nhà đất, xe cộ, bảo đảm kinh tế. Mình, chỉ cần, chuyên tâm sáng tạo”. So sánh, 2 Nhà nước, 2 cách đãi ngộ, ta sẽ hiểu: Tại sao, Campuchia, từng bước đuổi kịp và sẽ vượt Việt nam , trong 1 tương lai không xa. Campuchia, còn chưa chắc, đã ăn đứt được họ. Mơ làm gì, đến những chuyện cao sang. Tỉ như: “Dân tộc Việt nam, sẽ bước tới đài vinh quang,để sánh vai với các cường quốc 5 châu”.

生而勿杀. Sinh nhi vật sát.

Tạo điều kiện, cho người ta sinh tồn. Đừng triệt đường sống của họ.

Đừng cướp, ruộng đất của nông dân. Khiến họ, mất sạch tư liệu sản xuất. Mất tư liệu sản xuất, nông dân sẽ bị, dồn đến bước đường cùng. Bị, dồn đến bước đường cùng, dẫu chỉ có, cuốc – thuổng – gậy gộc – súng hoa cải, người ta, cũng không ngần ngại, mà nã thẳng vào đầu của nhà cầm quyền.

Thế gian, có 3 điều, không nên cưỡng ép:

Khẩu vị. Sư ông ăn chay. Nhưng, chẳng thấy sư nào, bắt đệ tử, không được ăn mặn.

Tình cảm. Con trẻ, nó thương yêu ai, hãy tôn trọng, sự lựa chọn của chúng. “Ép dầu – ép mỡ. Ai nỡ ép duyên”.

Đức tin. Thế gian, có nhiều Tôn giáo. Tôn giáo nào, cũng tốt. Bởi, nó dạy con người ta, sống thiện. Hãy để, các Tôn giáo, sống hài hòa với nhau. Mình không thể, vì thích Phật giáo, mà bắt, tất cả mọi người, ai cũng phải thờ Phật và triệt, tất cả các tôn giáo còn lại. Mình không thể, vì thích lí tưởng CS, mà cưỡng ép toàn dân. Bắt họ, phải đi theo, cái lí tưởng ấy. Ai không theo, vu cho là phản động và tìm mọi cách để tiêu diệt.

与而勿夺. Dữ nhi vật đoạt.

Trong điều kiện có thể, hãy phổ thi ân huệ. Đừng tùy tiện, cưỡng đoạt.

Trên đời, bọn lục lâm – thảo khấu, chúng thường trương biển: “Đi cướp của nhà giàu, để chia cho người nghèo”. Vì, chúng còn biết ngượng, để che bớt đi, bản chất “đầu trộm – đuôi cướp”. Dẫu, thật sự, có chia của ăn cướp, cho người nghèo. Chúng, cũng khó mà được, sự ủng hộ của quần chúng. Trên cả bọn lục lâm – thảo khấu, là những băng đảng Mafia. Cướp được ruộng đất của Địa chủ. Chúng, chẳng hề, đem chia cho những người, cùng đi ăn cướp với chúng. Đã thế, đất đai – ruộng vườn – nhà cửa của họ, chúng lại trấn lột tiếp, để vơ hết cả vào lòng. Như thế, là táng tận lương tâm – là tận cùng của sự khốn nạn.

乐而勿苦. Lạc nhi vật khổ.

Làm cho người ta, an cư – lạc nghiệp. Đừng làm họ khổ.

Hạnh phúc, chỉ có ở những người: “Sáng, họ khát khao tới nơi làm việc.Vì, họ say mê, công việc của mình – Tối, họ khát khao trở về nhà. Vì, họ yêu quý, gia đình của mình”. Hãy giúp Dân: Để họ, có được 1 tổ ấm, đầy ắp tình thương. Con trẻ, được đến trường. Người già, ốm đau, được bệnh viện chăm sóc. Xã hội, an ninh và trật tự. Mọi người, ai cũng có, 1 công việc yêu thích và hợp với khả năng của mình. Nhà nhà Hạnh phúc, Đất nước, tự khắc bình yên.

Ai, đem Hạnh phúc, đến cho mọi người. Quần chúng, sẽ tôn trọng, biết ơn và ủng hộ người đó.

喜而勿怒. Hỉ nhi vật nộ.

Làm cho người ta vui vẻ. Thay vì, khích nộ họ.

Tôn Tử, có viết 1 câu, trong Binh pháp của mình: 故杀敌者,怒也. Cố sát địch giả, nộ dã (thiên Tác chiến). Nghĩa là: Muốn binh lính hết sợ và hăng say giết địch – Bằng mọi cách, phải làm cho họ tức giận.

Ai cũng biết: “No thì mất ngon – Giận thì mất khôn”. Quần chúng, ai chẳng sợ cường quyền. Bởi, ai cũng biết, thịt da nào, rắn bằng sắt – thép. Muốn làm Cách mạng, phải làm cho họ, hết sợ địch. Muốn, làm cho họ, hết sợ địch, không gì hiệu quả hơn, đó là khích nộ họ.

Còn gì, có thể ngu hơn, khi chính ta, khích nộ quần chúng. Để, họ coi thường và chẳng còn sợ ta nữa.

Mùa Xuân Ả Rập”, là 1 ví dụ. Nó được bắt đầu, bởi: Quan lại thì tham nhũng. Còn Cảnh sát, hống hách và ngược đãi dân lành. Mohamed Bouazizi, chỉ là 1 chàng trai, đi bán hàng rong, thật thà và chất phác. Ngọn lửa tự thiêu của Anh, thổi bùng lên, ngọn lửa căm giận của quần chúng, đối với chế độ độc tài. Quần chúng, vùng lên. Và ngọn lửa của “Mùa Xuân Ả Rập”, ít nhất, đã thiêu rụi 3 chế độ độc tài, tại Tunisia, tại Ai Cập và tại Libya.

Những người CS, nên nhìn vào những tấm gương ấy, mà chùn tay lại. Và nên, dõi mắt sang Miến điện, để học và làm theo cách của họ.

文王曰:敢请释其故! Văn vương viết: “Cảm thỉnh thích kì cố”.

Văn vương nói : “Xin Tiên sinh, giải thích từng mục”.

太公曰:民不失务则利之;农不失时则成之;省刑罚则生之;薄赋敛则与之. 俭宫室台榭则乐之,吏清不苛扰则喜之。Thái công viết: “Dân bất thất vụ, tắc lợi chi. Nông bất thất thời, tắc thành chi. Tỉnh hình phạt, tắc sinh chi. Bạc phú liễm, tắc dữ chi. Kiệm cung thất đài tạ, tắc lạc chi. Lại thanh, bất hà nhiễu, tắc hỉ chi”

Thái công trả lời: “Người dân, không lỡ vụ, họ sẽ được lợi. Nhà nông, không lỡ thời, thì bội thu. Giảm đi số tội danh, bớt đi phần hình phạt, đó là, mở cho dân, con đường sống. Nhẹ thuế – ít phí, là đã cho dân rồi. Bớt xây lâu đài – ít xây trụ sở, người dân, ắt mừng rỡ. Quan lại thanh liêm – không hà khắc – không nhũng nhiễu, dân chúng, mới được yên vui”

民失其务则害之;Dân thất kì vụ tắc hại chi

Doanh nghiệp, nhập nguyên – phụ liệu, để may quần áo mùa hè. Nếu, hành người ta, mà giữ lại. Hết hè, mới trả. Tuy hàng hóa, không bị hỏng hóc gì. Nhưng lỡ vụ, cũng có thể, khiến người ta sạt nghiệp.

农失其时则败之;Nông thất kì thời tắc bại chi.

Nhà nông, không được mưa thuận – gió hòa, mùa màng chắc thất thu.

无罪而罚则杀之. Vô tội nhi phạt tắc sát chi

Vô tội, mà vẫn bắt người ta vào tù. Sau đó, vì không có chứng cớ xác đáng. Nên, không dám, đưa ra xét xử công khai. Dấm dấm – dúi dúi, như lũ trộm đêm – như loài gián đất, sợ ánh sáng mặt trời. Trước tòa, lí luận, không lại được với người ta. Nên, phải dùng bài cùn: Che miệng bị cáo – Bịt mồm luật sư. Định án tùy tiện – Bất cần Luật pháp. Khiến người dân, hàm oan. Việc đó, quá bằng giết người ta.

重赋敛则夺之;Trọng phú liễm tắc đoạt chi.

Thuế và phí, chủng loại thì nhiều. Đã thế: Thuế – chồng lên thuế. Phí – chồng lên phí. Bóc lột dân chúng, 1 cách thậm tệ. Thế gian này, chỉ có lũ cướp ngày, chúng mới hung hăng và táo tợn, để làm như thế.

Hết tiền và có thể vỡ nợ, vào bất cứ lúc nào. Những người CS, chỉ có mỗi cách: tăng thuế. Trước mắt, họ sẽ tăng thuế, đánh vào rượu – bia – thuốc lá. Họ nại ra rằng: Các nước khác, thuế đánh vào những mặt hàng này, rất nặng. Theo logic ấy, tới đây, CS cũng sẽ phải giảm thuế xăng – dầu và ô tô, cho bằng với thông lệ của Quốc tế. Không làm được việc ấy, chứng tỏ: Tất cả lí do, mà họ đưa ra, đều chỉ là ngụy biện. Thực chất, họ đang cố tình, móc túi dân lành. Đâu phải, chỉ dừng lại, ở rượu – bia – thuốc lá. Tương lai, còn nhiều thứ, sẽ bị tăng thuế. Dân lành, sẽ có dịp, “thể hiện lòng yêu nước”, cho đến đồng xu cuối cùng. Chúng ta, hãy chờ xem.

多营宫室台榭以疲民力则苦之;Đa doanh cung thất, đài tạ dĩ bì dân lực tắc khổ chi

Thể chế, mà từ Vua – đến Quan, rặt 1 lũ “Mũi nhòm mồm”. Chúng, không chịu, lo làm – lo ăn. Chúng chỉ thích và đua nhau, xây thật nhiều Cung điện – xây thật nhiều Trụ sở – xây thật nhiều Nhà hát – bày ra thật nhiều, những cuộc vui chơi – tổ chức lia lịa, những “lễ kỉ niệm”. Để, ăn phần trăm và tiêu cho bằng sạch, những đồng tiền của Nhân dân. Chúng, ăn nhiều như thế – chơi nhiều như thế, còn đâu tiền, để xây bệnh viện cho Nhân dân – xây trường học cho con trẻ. Bà con, làm chi mà không khổ.

吏浊 苛扰则怒之. Lại trọc, hà nhiễu, tắc nộ chi

Quan lại hủ bại – hà khắc – nhũng nhiễu, thì dễ khích nộ dân chúng.

Thanh liêm, ai bằng ông Nông Đức Mạnh. Chính ông, phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương Đạo đức của Hồ Chí Minh”. Thanh liêm như thế, cho nên, ông chỉ đủ tiền, mua 1 mảnh đất hết sức lớn và xây được mỗi căn nhà, đẹp như mơ. Bên bờ Hồ Tây, thơ mộng. Đạo đức, ai bằng ông Nguyễn Trường Tô. Chính ông, lên án nghiêm khắc, ông thầy hủ bại Sầm Đức Xương. Bởi, Sầm Đức Xương tổ chức đường dây và cung cấp học sinh của mình: Cho chúng, đi ngủ với quan trên. Đạo đức như thế, cho nên, ông chỉ chơi có vài cô, trong đường dây này. Thế thôi.

Luật nào, hà khắc bằng luật CS. Chỉ vì trò đùa, giật mũ của các bạn gái, 4 thiếu niên, ở Tiên lãng – Hải phòng, phải chịu, tổng cộng 94 tháng tù giam. Trong khi, cũng tại huyện ấy,những kẻ, khiến Đoàn Văn Vươn, “nhà tan – cửa nát”, vẫn nhởn nhơ, ngoài vòng pháp luật.

Doanh nhân nước ngoài, họ ghét và sợ phải đưa hối lộ lắm. Ở nước họ, đấy là trọng tội. Sang Việt nam, “tùy gia – nhập tục”. Họ, cũng phải đưa hối lộ, cho yên thân. Nhưng, họ làm khéo đến mức, cơ quan Thanh tra của chúng ta, dẫu “Giỏi nhất Thế giới”, cũng chẳng thể, tìm cho ra, dấu vết của bất kì 1 vụ, đưa hối lộ nào. Những vụ, bị phát hiện, tất thảy, đều do nước ngoài, họ làm hộ. Người nước ngoài, được chúng ta “trải thảm đỏ – mời đến, để đầu tư”. Vậy mà, còn bị sách nhiễu, đến mức phải “nôn tiền”. Người trong nước, nói đến làm chi, cho thêm sầu lòng.

故善为国者,驭民如父母之爱子,如兄之爱弟. Cố thiện vi quốc giả, ngự dân như phụ mẫu chi ái tử, như huynh chi ái đệ

Giỏi trị nước, phải biết thương Dân. Phải chăm sóc họ : “Như cha mẹ, chăm lo cho đửa con cầu tự – Như người anh, chăm lo cho đứa em bé bỏng, thân thương của minh”.

Giỏi trị quân, phải biết thương lính. Ngô Khởi, là 1 danh tướng, thời Chiến Quốc. Ông, thương yêu lính lắm. Cùng ăn – cùng ở – cùng chia xẻ, những khó khăn – nhọc nhằn với họ. Chuyện kể, có lần, ông đưa miệng, hút mủ ở vết thương của 1 người lính. Mẹ người lính, được tin, khóc ngất. Bởi, bà biết: Ông, thương lính một– Lính, sẽ kính trọng ông mười. Với 1 đội quân cha – con như thế, con bà, sau này, ắt sẽ vì chủ tướng, mà chết. Nó chết, bà biết nương tựa vào ai. Thương con – thương mình, bà không khóc, sao được.

Giỏi kinh doanh, phải khắc sâu trong lòng “Khách hàng là Thượng đế”. Bởi khách hàng và chỉ có họ, mới quyết định, sự sống – chết của doanh nghiệp. Do đó, phải thương yêu và tận tụy chăm sóc họ.

见其饥寒则为之忧, Kiến kì cơ hàn tắc vi chi ưu,

Dân chúng đói rét, minh Quân, thấy ưu tư. Còn lũ hôn Quân, vẫn vô tư. Đi cứu trợ, cho bà con bị thiên tai: Vẫn thấy chúng, quần là – áo lượt và cười toe toét, trước ống kính truyền hình.

见其劳苦则为之悲. Kiến kì lao khổ tắc vi chi bi.

Thấy công nhân, làm nhiều – ăn ít, đến nỗi teo cả cơ. Phải thấy xót thương – phải thấy day dứt. Phải xuống tận nơi, bắt bọn chủ Tư bản, đảm bảo quyền lợi cho công nhân. Không làm được việc ấy, hãy cúi gầm mặt xuống. Đỗ Thị Minh Hạnh, thay mình làm việc ấy. Không cảm ơn và ủng hộ, thì thôi. Mặt mũi nào, mà tống cô ta, vào tù.

赏罚如加于身. Thưởng phạt như gia vu thân .

Khi đặt ra mức thưởng, phải nghĩ rằng, những người đến nhận, chính là con cháu của mình. Nghĩ như thế, người ta, sẽ không thưởng 320.000 VND (tương đương 15 USD), chia đều, cho 3 nhân viên Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức. Vì, họ đã dũng cảm, tố cáo vụ “Nhân bản phiếu xét nghiệm”.

Khi đặt ra mức phạt, phải nghĩ rằng, người chịu phạt, chính là bố mẹ của mình. Nghĩ như thế, người ta, sẽ không phạt 3 ông nông dân, tổng cộng 13 năm tù. Chỉ vì, họ ăn cắp, có 02 (hai) con vịt.

赋敛如取已物. Phú liễm như thủ kỉ vật

Muốn thu thuế và phí của dân , phải đặt mình, vào vị trí của họ. Người dân đóng thế nào, chính mình, cũng phải đóng như vậy. Người dân, bị hạch hỏi, từng đồng tiền mà họ kiếm được. Chính mình, cũng phải công khai, trả lời: Tiền đâu, mà cán bộ CS, ai cũng có nhà cao – cửa rộng. Con cháu họ, đứa nào, cũng được đi du học, ở phương trời Tây, xa vời.

Nghĩ được như thế, khi phạt Điếu cày – Lê Quốc Quân, mỗi người mấy năm tù, vì tội trốn thuế. Tất, phải sờ đến, ông Nông Đức Mạnh – ông Lê Khả Phiêu – ông Trần Văn Truyền … Với, khối tài sản nổi khổng lồ như thế, họ đã đóng, được bao nhiêu tiền thuế. Và, mức án nào, sẽ được dành cho họ?

此爱民之道也. Thử ái dân chi đạo dã

Thưa đại vương, đó là đạo ái dân. Là cốt lõi của phép trị Nước – an Dân.

Lời bàn

Chỉ có bậc minh Quân, mới có thể, hiểu được đạo Ái dân và vận dụng nó, 1 cách thành thạo. Chưa biết đến nó, nên ở lại nhà mình, để chăn gà, nấu cám heo và giặt giũ cho vợ. Chớ bén mảng, tới chốn quan trường. Ra đấy mà làm chi, cho Dân khổ – Nước suy. Ra đấy mà làm chi, cho mình thân bại – danh liệt. Đồng tiền kiếm được, chắc gì đã được tiêu. Nắm xương tàn, chắc gì, sẽ không bị quần chúng quật lên, để hạch tội.

Ở những thể chế Dân chủ: chính quyền, là của người Dândo ngườiDân bầu ra – Nhân Dân mà phục vụ. Những thể chế này, “lấy Dân làm gốc”. Bởi thế, người Dân, luôn được thương yêu và quý trọng.

Những thể chế độc tài: chính quyền, là của 1 cái đảng nào đó – do dùng vũ lực mà cướp được – đương nhiên, nó phải vì cái đảng đó, mà phục vụ. Những thể chế này, “lấy vũ lực làm gốc”. Bởi thế, lực lượng vũ trang, được cưng chiều. Quần chúng, chỉ được xếp ngang hàng, với nô lệ. Tâm tư – nguyện vọng của họ, không bao giờ, được nhà cầm quyền, đoái hoài. Rất dễ đoán biết, quần chúng, tin tưởng đến mức nào, đối với những thể chế này.

Viết đến đây, chợt nhớ lời, đại tướng CS Nguyễn Chí Thanh. Ông nói, thật chí lí: “Mất đất, chưa phải là mất nước. Chúng ta, chỉ sợ mất lòng tin của dân. Có lòng tin của dân, là có tất cả”. Hậu thế của ông, không làm được như vậy. Tình hình, rất tồi tệ, cho những người CS. Bằng chứng, chính ông cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, đã phải thảng thốt kêu lên: “Bỏ điều 4, là tự sát”. Câu nói của ông Triết, buộc phải hiểu là: Nếu chấp nhận đa nguyên – đa đảng – bầu cử tự do và bình đẳng, vào ngay lúc này. Đảng CS Việt nam, sẽ bị Nhân dân Việt nam, phế bỏ ngay tức khắc.

Thông qua 1 ví dụ cụ thể, chúng ta hãy nhận chân, 2 cách ái Dân của 2 chế độ:

Cùng là lính, nhưng sinh mệnh của người lính Hoa kì, quý lắm. Họ, được đãi ngộ tốt, được bảo vệ và yểm trợ, đến mức tối đa. Họ chết, bằng mọi giá, chính phủ, cũng phải mang hài cốt của họ, về cho gia đình. Người chết, còn được đối xử như vậy. Người sống, nói đến làm gì.

Đối nghịch, là 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt nam, ở đảo Gạc ma. Các Anh được lệnh, đứng yên, làm bia sống, cho lũ Trung cộng điên cuồng, xả súng giết hại. Đảng CS và nhà nước Việt nam, biết rất rõ, địa điểm hi sinh của các Anh, trên đất nước mình. Nhưng, hài cốt của các Anh, đâu đã được, đưa về cho người thân, cho gia đình và yên nghỉ nơi Đất Mẹ.

Không biết, do Việt cộng chủ trương: Xong việc rồi, không cần đến các Anh nữa, nên không tính chuyện, đưa các Anh về. Hay, do Trung cộng, chúng vô nhân đạo, nên không chịu trả lại, hài cốt các Anh. Những người CS, nên nhớ câu này:

Thương dân, dân lập đền thờ

Hại dân, dân đái ngập mồ, thối xương

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội

Điện thoại : 0168-50-56-430

Xin xem lại các bài trước:

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó (Bài mở đầu)

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 1: Văn sư.

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 2: Doanh hư

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam: Trung thành với Đức Tin

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam: Trung thành với Đức Tin

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

11/13/2014

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19.6.1988 tại Rôma, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại.

Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo…Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!

Đọc lại hạnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi nhận thấy, các ngài can đảm phi thường, vì yêu mến Chúa Kitô nên coi nhẹ mọi cực hình đau đớn, một lòng trung thành giữ vững đức tin. Dòng máu tử đạo ấy đã trở thành những hạt giống Tin mừng, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam những mùa gặt bội thu.

1.Trung thành với đức tin.

Đối với các Thánh Tử Đạo, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Các ngài đã trung thành giữ vững đức tin trước mọi thử thách gian lao. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Xin kể ra đây một vài chứng từ về lòng trung thành (x.Thiên Hùng Sử).

– Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 đứa con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con : Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng”. Lời sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”

– Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.

– Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.

– Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giàu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng vẫn luôn bình tĩnh vui tươi. Ngài nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.

– Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt ngài bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.

– Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.

– Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.

– Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.

– Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.

2. Can đảm phi thường.

Vì đức tin, các ngài đã phải chịu đủ mọi thứ cực hình dã man. Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

-Lòng lang dạ sói của con người nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác, thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích”.

-Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.

-Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.

-Sáng ngày 5.6.1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ngài cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ngài.

-Sau ba tháng tù tại Bình Định, ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.

3. Coi thường sự đau đớn.

Là con người, ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ai mà không tham sống sợ chết! Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt những khổ hình dã man. Lòng yêu mến Chúa đã giúp các ngài vượt thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình. Vì thế các ngài xem nhẹ khổ hình, vui mừng và hãnh diện vì được chết cho đức tin.

-Trước khi bị chém, Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời”.

-Năm vị: Đaminh Nhi, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, còn bốn vị đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.

-Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao:“Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”.

-Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835. Sáng hôm đó, ngài gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc mẹ mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết.”. Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ của Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ bị xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù, con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con”. Khi được con cho biết là không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”. Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, bà nhận lấy kỷ vật đó và chưa cho là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con trai cho bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:“Ôi con trai yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”. Rồi bà đem về an táng trong nhà.

Các Thánh Tử Đạo coi thường đau đớn với lòng can đảm lạ lùng là vì các ngài trung thành với đức tin. Do đó, các ngài vui mừng được chết vì Chúa Kitô. Các ngài đã chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang vì đã đáng được chịu đau khổ cho Chúa Kitô. Các ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy chương, huân chương, chiến công. Các ngài chết tử đạo là chết vì Chúa Kitô, đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu (x.Thiên Hùng Sử, trang 4). Chết vì Chúa Kitô là niềm hạnh phúc “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; x.Lc 6,22). Chính trong ánh sáng của Chúa Kitô, Vị Tử Đạo tiên khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc âm : “Đầy tớ không lớn hơn chủ” (Ga 15,20); “Nếu chúng đã bách hại Thầy, chúng sẽ bách hại các con…Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng… Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các con đừng lo phải nói thế nào, vì không phải các con, nhưng Thánh Linh của Thầy sẽ nói trong các con… Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.” (Mt 10,16-25). Các Thánh Tử Đạo không tìm đến cái chết mà chỉ trung thành với đức tin cho dù phải chịu muôn vàn gian truân đau đớn. Các ngài tìm cách nên giống đời sống của Thầy Giêsu, nhất là giống cử chỉ yêu thương tột cùng đã đưa Thầy đến cái chết.

Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng muôn ngàn vạn nét. Nét căn bản nhất chính là Niềm Tin Phục Sinh. Tin vào Chúa Kitô đã chết và đã sống lại nên các ngài đã chấp nhận tất cả mọi cực hình, vượt thắng mọi truân chuyên. Yêu mến Chúa Kitô và bước theo Người nên các ngài luôn sống niềm tín thác, lạc quan. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát thánh ca, thánh vịnh. Ra pháp trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Alleluia, luôn hướng về trời cao với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát mãi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin của những con người xác tín rằng: chết vì Đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh cửu; chết là cánh cửa im lìm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.

4. Kế thừa dòng máu hào hùng để tiếp nối sứ vụ loan Tin mừng.

Hạt giống Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.

Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Ðạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.

Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái… khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó, những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.

Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người Kitô hữu sống giữa lòng đời và chia sẽ đời sống của anh chị em chung quanh mình. Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng. (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. (x. Ga 15,13).

Các Thánh Tử Đạo là những chứng nhân can trường dám chết cho niềm tin, sống cho tình yêu, và loan báo chân lý Tin Mừng. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin.

Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Làm chứng chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”… như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng. Sống đạo như thế, chúng ta góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã can đảm phi thường làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

Việt Nam và chuyện ‘phủ quan cả nước’

Việt Nam và chuyện ‘phủ quan cả nước’

Nguyễn Giang bbcvietnamese.com

 

Hệ thống phình to là gánh nặng cho tiền thuế của dân

Trả lời chất vấn trước Quốc hội, sáng 18/11/2014, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam, ông Nguyễn Thái Bình nói hơn 99% công chức hoàn thành nhiệm vụ, căn cứ vào báo cáo từ các bộ ngành và địa phương.

Nhưng cũng mới hồi tháng 10 vừa qua, báo chí Việt Nam trích Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Hồng Hà (Hà Nội) cho rằng, khoảng 25-30% công chức, viên chức khu vực nhà nước có “chất lượng lao động thấp”.

Như vậy, nếu 100% họ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng công việc chỉ còn chừng 70% là tốt, là có ích, còn lại là dở.

Nhưng trong lúc ta cần một điều tra chi tiết về chất lượng dịch vụ công mà các cơ quan nhà nước ở Việt Nam đem lại cho dân, điều rõ thấy nhất là chính số lượng rất đông đảo cán bộ, quan chức ở Việt Nam đang là một vấn đề.

Báo chí Việt Nam vài năm qua đã nhắc đến chuyện một xã nghèo là Quảng Vinh, huyện Quảng Xương ở Thanh Hóa có con số kỷ lục 500 cán bộ.

Chế độ đông quan

Thanh Hoá cũng có con số gần 43 nghìn cán bộ cả tỉnh cho 673 xã.

Với số dân 3,5 triệu, Thanh Hóa có số quan gần bằng con số 74 nghìn quan chức, viên chức chuyên trách của bộ máy Liên hiệp châu Âu (500 triệu dân).

Và chắc đây không phải là tỉnh duy nhất ‘phủ sóng bằng quan’ trên mọi địa bàn ở Việt Nam.

Quan chức thời này là những ai mà đông như vậy?

Chỉ ở cấp xã thôi, Điều 3, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam nêu ra một danh sách cán bộ có quyền lực với dân, và được hưởng lương bổng rất dài:

a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;

b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;

c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;

d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;

g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);

h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

Ngoài ra, công chức cấp xã có các chức danh sau đây:

a) Trưởng Công an;

b) Chỉ huy trưởng Quân sự;

c) Văn phòng – thống kê;

d) Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã);

đ) Tài chính – kế toán;

e) Tư pháp – hộ tịch;

g) Văn hoá – xã hội.

Căn cứ vào đây thì quả không có gì quá đáng khi Việt Nam bị phê là đang có hệ thống trị dân toàn diện, bao phủ mọi ngóc ngách của đời sống, khiến xã hội dân sự không còn chỗ thở.

Nhưng triết lý phủ sóng bằng quan ở cả nước còn có hệ quả nghiêm trọng với quốc gia ở ba lĩnh vực.

Đầu tiên là kinh phí ngân sách nhà nước Việt Nam mà thực chất là tiền thu từ dân, thuế doanh nghiệp, tiền vay nước ngoài, tiền bán tài nguyên…phải gánh chịu để nuôi bộ máy khổng lồ phi sản xuất.

Người dân phải góp thóc nuôi cán bộ xã ở một số tỉnh

Điều thứ nhì là dù chính phủ trung ương nỗ lực cải tổ nền kinh tế nhưng ở hàng nghìn xã có những đội ngũ đông đảo, cán bộ luôn sẵn sàng bảo vệ quyền lợi của mình, nên gây cản trở cho công cuộc hiện đại hóa, dân chủ hóa.

Và điều nữa là hệ thống này áp đặt cơ chế ‘xin – cho’ vào đời sống xã hội.

Hiển nhiên, về nguyên tắc, bộ máy quan liêu ở đâu cũng có xu hướng ngày càng phình to – một ví dụ bị phê phán là các cơ quan thuộc Liên hiệp châu Âu – nhưng ở Việt Nam, vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều vì con số quan chức quá đông.

Hệ thống độc thoại

Trong những lần các lãnh đạo nhất gặp gỡ cử tri, nếu nhìn kỹ ra thì số ‘cử tri’ đa phần đó cũng là cán bộ về hưu, cựu chiến binh, công nhân viên có chân trong Mặt trận, Đoàn Thanh niên, Hộ phụ nữ, Hội Nông dân ở phường xã.

Như thế xét cho cùng đó chỉ là cuộc nói chuyện của hệ thống với chính nó.

Và bỏ phiếu tín nhiệm xét cho cùng cũng khó thay đổi được gì vì đây là chuyện của những người giống nhau, tín nhiệm nhiều hay ít với nhau, mang tính nội bộ.

Kể cả khi có sự bất tín nhiệm một vài chục vị, thậm chí hàng trăm vị ở trung ương thì tình hình với hơn 3 triệu quan chức trải khắp các tỉnh thành cũng không có gì thay đổi.

Hàng ngày họ vẫn lĩnh lương, vẫn hưởng các phụ cấp, trợ cấp và thậm chí như Nghị định 92 ghi rõ, nếu họ có về nghỉ thì vẫn đàng hoàng hưởng 90% lương, và nhỡ có chết thân nhân còn được tới 10 tháng lương lo ma chay.

Không có gì quá đáng khi Việt Nam bị phê là đang có hệ thống trị dân toàn diện, bao phủ mọi ngóc ngách của đời sống, khiến xã hội dân sự không còn chỗ thở.

Đây là một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam vì làm quan thời phong kiến cũng phải thi cử đàng hoàng (viết được chữ Nho không dễ), còn làm cán bộ ở Việt Nam như chính Nghị định 92 ghi, chỉ cần trình độ sơ cấp.

Nước nào thời nay cũng có bộ máy quan liêu điều tiết nhiều hoạt động của xã hội nhưng ở đa số các quốc gia tiên tiến nó bị hạn chế bởi lá phiếu cử tri qua cơ chế dân chủ và truyền thông tự do.

Còn ở Việt Nam, nó đến từ Liên Xô và Trung Quốc, và du nhập trong bối cảnh chiến tranh nên ngay từ lúc sinh ra đã được ‘cài đặt’ mã kiểu Leninism để kiểm soát toàn diện cả xã hội.

Trong truyện ngắn chỉ có đúng một đoạn văn, ‘Del rigor en la ciencia’, Jorge Louis Borges kể câu chuyện ở xứ sở nọ người ta tạo được tấm bản đồ hoàn hảo, tỷ lệ 1-1.

Quả là tuyệt, vì bản đồ nào có thể chính xác hơn, toàn diện hơn tỷ lệ ôm trọn cả lãnh thổ quốc gia như thế?

Nhưng trong tác phẩm ẩn dụ tạm dịch là ‘Sự chính xác của khoa học’, Borges viết tấm bản đồ to bằng đúng quốc gia đó đã trở nên vô dụng.

Bởi xem bản đồ cũng chẳng khác gì đi luôn ra ngoài thực địa nên chẳng còn ai cần nó nữa.

Còn ở Việt Nam, chuyện không tinh tế như thế mà rất thực tiễn: đó là chuyện bát cơm.

Khổ tâm nhất là ở xã Quảng Vinh, Thanh Hóa chính quyền phải thu lúa gạo của dân để nuôi cán bộ, cứ năm tấn thóc thì thu một tấn, theo các báo Việt Nam.