Những bài học cho cuộc sống:
CHÚT SUY NGHĨ VỀ THỜI GIAN
http://www.mediafire.com/…/Suy+ngh%C4%A9+v%E1%BB%81+th%E1%B…

Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44)
Những bài học cho cuộc sống:
CHÚT SUY NGHĨ VỀ THỜI GIAN
http://www.mediafire.com/…/Suy+ngh%C4%A9+v%E1%BB%81+th%E1%B…
EM HỎI ANH NÈ
Vật nào cũng: có gốc và có ngọn
Trái đất tròn, ngọn gốc sao hở anh?
Ai khéo sanh những nguyên tử hiền lành?
Ai nhặt nhạnh hình thành mặt trăng ấy?
Ai vực dậy một mặt trời như vậy?
Những áng mây: gốc ngọn nằm hướng nào?
Mình từ đâu tới? Mai về phương nao?
Vũ trụ từ đâu? Kỳ hoa dị thảo?
Trăng huyền ảo đâu làm ai điên đảo!
Có hề gì! Dù nhỏ nhặt, lớn lao
Chẳng hề chi những ốm, mập, thấp, cao…
Đường chánh đạo con chiên nào chẳng tốt.
Rõ mồn một: thiện lành điều mấu chốt
Có sinh, thời, sẽ có diệt mà thôi!
Cố gắng gom nhân ái, cùng vun bồi
Mỗi việc thiện tâm mình tự hoan hỷ!
Dù Phật, Chúa vẫn từ bi tâm, ý
Vuông, méo, tròn… cứ ngay thẳng mà đi
Ai sân si, mình hỷ xả nụ cười
Người thức tỉnh, mình lời to: thiện nghiệp.
Ý Nga,
25-11-2014
Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 4: Minh truyền
Nguyễn Tiến Dân
26-11-2014
Thiên này, lấy giác độ sống – còn của 1 quốc gia, mà thảo luận phép trị Nước.
Nhà Chu, nghiên cứu rất kĩ, về vấn đề này. Cha truyền – con nối, đều dạy nhau, Nước mất – Nhà tan, bởi:
– Khinh thường quần chúng. Nên, chẳng được họ, ủng hộ
– Dốt nát và nhu nhược. Nên, dễ bị kẻ khác, đè đầu
– Bản thân xấu xa và hủ bại. Nên, nói chẳng ai nghe.
Họ, không đổ lỗi cho người khác. Họ, dạy nhau, phải tu dưỡng Đạo đức. Họ, dặn nhau, không bao giờ, được sống buông thả. Chính vì vậy, họ giữ vững được chính quyền. Trong suốt 800 năm ròng, không một “thế lực thù địch và phản động” nào, có thể lật đổ được họ. Không biết, trên Trái đất. có triều đại nào, tồn tại được lâu như vậy không?
明传:
文王寝疾,召太公望,太子发在侧. Văn vương tẩm tật, chiêu Thái công Vọng, Thái tử Phát tại trắc.
Văn vương, bệnh nặng. Ngài cho vời, Khương Thái công và Thái tử Cơ Phát, tới bên giường bệnh.
曰:“呜呼!天将弃予,周之社稷,将以属汝. 今予欲师至道之言,以明传之子孙”.
Viết: “Ô hô! Thiên tương khí dư, Chu chi xã tắc, tương dĩ thuộc nhữ. Kim dư dục sư chí đạo chi ngôn, dĩ minh truyền chi tử tôn” .
Vương, nắm tay 2 người, mà dặn dò: “Ô hô! Trời sắp bỏ ta. Xã tắc nhà Chu, nay mai, sẽ giao cho con quản lí. Nay, mời Quốc sư đến. Xin Người, hãy vì Ta, mà cởi lòng, nói ra những điều, nung nấu nhất trong tâm can, về phép trị Nước – an Dân. Cơ Phát con, đó cũng chính là di chúc, mà Cha sẽ để lại, cho con và cho cháu chắt, muôn đời sau”.
Ôi, nhân tình – thế thái. Cùng là cách, ký thác con côi. Thế gian, mỗi người mỗi kiểu. Lưu Bị, vụng về đóng kịch, vờ muốn trao lại quyền hành, cho Khổng Minh. Sau khi bị từ chối, mới dặn con, coi Khổng Minh như cha. Chu Văn vương, giỏi – khéo và thâm thúy hơn nhiều. Ông chân tình, dặn con: Thiêng liêng, như Di chúc, Ta cũng để Khương Thái công, nói thay. Bởi, Khương Thái công, thấu hiểu ruột gan Ta. Ta với Khương Thái công, tuy 2 mà là 1. Lời của Thái công, chính là lời của Ta. Sau này, phải nghe lời chỉ bảo của Thái công. Hai Thày – Trò, phải kết hợp với nhau, để giữ vững đại nghiệp.
太公曰:王何所问?Thái công viết: “Vương hà sở vấn?”
Thái công nói: “Đại vương, muốn hỏi điều gì?”
文王曰:先圣之道,其所止,其所起,可得闻乎?Văn vương viết: “Tiên Thánh chi đạo, kì sở chỉ, kì sở khởi, khả đắc văn hồ?”
Văn vương nói: “Thánh – Hiền thủa trước, khi luận về đạo trị Nước – an Dân, họ đã đúc kết: Nguyên nhân nào, khiến Nước mất – Nhà tan. Nguyên nhân nào, khiến Nước mạnh – Dân giàu. Quốc sư, có thể nói, cho Cơ Phát nghe, được không?”
Cùng là cách, chăm lo cho con. Đại bàng, khác hẳn chim sẻ.
Đại bàng, để lại Đất nước cho con. Nhưng, không dạy con, cách ăn cướp – cách bóp nặn Thiên hạ, để ăn trên – ngồi trốc họ. Đại bàng, dạy con cách giữ chế độ lâu dài và chọn cho con, một ông thày tuyệt vời. Để, chỉ bảo cho con, cách làm việc đó.
Chim sẻ, dạy con cách liều lĩnh, lao vút vào thinh không, để thể hiện mình. Trong khi, con nó, đâu có bộ lông dày – đâu có “6 đốt xương trụ vững chắc”. Không kiệt sức, cũng phải chết rét. Đó là tương lai, của chú sẻ non.
Khi con còn trẻ – dốt nát và không có bản lĩnh. Cố tình, đẩy nó ra chính trường. Đó là, cách nhanh nhất, để giết chết nó.
太公曰:见善而怠. Thái công viết: “Kiến thiện nhi đãi”.
Thái công trả lời: “Coi khinh quần chúng bần hàn – lương thiện”. Đó là nguyên nhân số 1, để mất chế độ.
Một chế độ, ra rả kêu rằng, họ “lấy Dân làm gốc”. Nhưng, thực chất, chúng coi Nhân dân, chỉ như 1 bầy nô lệ. Chúng, không chăm lo cho Dân, đã đành. Ngược lại, thông qua, sưu cao – thuế nặng, chúng bóc lột họ, đến tận xương – tận tủy Chúng, lăng nhục – mạt sát họ thậm tệ. Ai cũng có thể, là thằng – là con – là “các thế lực thù địch và phản động”. Chúng, thẳng tay đàn áp, khi người Dân, không nói và làm theo chúng. Thích bắt – là bắt. Thích thả – là thả. Luật – lệ, do chính chúng ban ra, có cũng như không. Bởi, chúng chỉ thích, dùng luật rừng. Có tai như điếc – Bởi, chúng đâu có thèm nghe, tiếng ai oán, vang động khắp trời của dân chúng. Có mắt như mù – Bởi, chúng đâu có thèm nhìn, cuộc sống cơ hàn của quần chúng. Dối trá và bịp bợm. Bởi, chúng luôn cho rằng, quần chúng bần hàn, chỉ là 1 lũ ngốc.
时至而疑,Thời chí nhi nghi.
Vua – Chúa ngu dốt, cho nên nhu nhược – đớn hèn. Thời cơ đến, không bao giờ dám quyết. Đó, đâu phải, là phẩm Đức của bậc Đế vương. Không có phẩm Đức của bậc Đế vương, nhưng vẫn an nhiên, ngồi trên ngai báu. Ắt sẽ bị, Dân chúng coi thường – Thuộc hạ khinh bỉ. Không có nhiều người, tự nguyện “làm đầy tớ cho thằng dại”. Họ, sẽ hành động. Đó là, nguyên nhân thứ 2, để mất ngôi báu.
Lãnh thổ – lãnh hải, bị ngoại bang công khai mò đến. Chúng ngang nhiên khoanh vùng – đóng cọc, để đào bới. Trong nhà – ngoài ngõ, đều sôi lên sùng sục. Ai cũng muốn, làm cho “ra ngô – ra khoai”, với lũ kẻ cướp. Có mấy cách, để lựa chọn:
-Ngồi lại với nhau, để nói chuyện “phải – trái”.
-Không được, thì lôi nhau ra Tòa.
-Cuối cùng, là dùng nắm đấm, để nói chuyện với nhau.
Nhưng, cả cung Vua – phủ Chúa, đều im thin thít. Nghị viện, cũng câm như hến. So vai – rụt cổ, thể hiện sự hèn hạ vô cùng. Nhân dân xuống đường, thì đàn áp người ta. Trong khi, lại muốn Quốc tế biểu tình, để ủng hộ mình. Rõ là lũ khôn vặt. Tài – trí, chỉ sánh ngang, với tầng lớp tiểu nông. Đâu có, khí phách của bậc Đế vương. Uy tín và ngôi báu, không mất mới là sự lạ.
知非而处,Tri phi nhi xử.
Biết điều sai trái – xấu xa, vẫn thản nhiên làm. Lúc đó, hủ bại, đã trở thành bản chất của giới cầm quyền. Khi mình hủ bại, “há miệng – mắc quai”. Nói – chẳng ai nghe. Đe – chẳng ai sợ. Không điều hành được Đất nước, tất phải mất nước. Đó là, nguyên nhân thứ 3, để mất chính quyền.
Biết kẻ bất nhân – vẫn dùng. Cổ nhân dạy, khi “sâu bọ lên làm người”, lúc ấy, thế nước đã mạt. Nay, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, đã công khai thú nhận : Cán bộ của ông, đầy 1 lũ sâu bọ. Dĩ nhiên, là vô tài và thất đức. Nhưng, chúng vẫn được giao cho quyền hành. Thậm chí, chúng phá hoại, cũng không bị phế bỏ. Vì sợ: “bầu không kịp”. Thế gian, chỉ có CS, mới dám làm việc này. Còn các nước Dân chủ, họ kinh hãi loài sâu bọ. Sợ chúng, làm “hỏng nồi canh”. Nên không bao giờ, để chúng mon men, tới chốn quan trường.
Biết của bất nghĩa – vẫn nhận. “Ăn uống ở nhà hàng này, nhà hàng nọ, tiền ấy chẳng phải từ tham nhũng, thì từ đâu mà ra? Không tham nhũng, lấy đâu tiền mà chạy chức vụ này – chức vụ kia…”. (Nguyễn Sinh Hùng Chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam). Có lẽ, ông Chủ tịch Quốc hội, nên bố xung thêm: “Không bóp nặn của Dân lành – không bóp nặn của thuộc cấp, lấy đâu tiền, để xây biệt thự. Lấy đâu tiền, để gửi Ngân hàng nước ngoài. Lấy đâu tiền, để ăn chơi văng mạng…” . Và, ông hãy thử, sờ tay lên gáy của mình. Ông, hãy công khai tài sản và giải trình, nguồn gốc của chúng, cho Thiên hạ biết. Có dám làm không, mà nói hăng thế.
Biết việc thất đức – vẫn làm. Như Hitler đó: Sẵn sàng, tuyệt diệt dân Do Thái. Sẵn sàng, đặt ách nô dịch lên toàn châu Âu và thế giới. Đốt nhà Quốc hội Đức, để vu oan – giáng họa, cho những người Cộng sản. Giết lính biên phòng Đức, rồi vu cáo cho Ba lan, mà phát động Đệ nhị thế chiến. Chung cuộc của Hitler, chắc chẳng cần phải nhắc lại.
Suy cho cùng, vẫn không bằng, có nhà nước, cho xe tăng – xe bọc thép, chà nát học sinh – sinh viên của mình. Khi, các cháu, chỉ có khát vọng Dân chủ – Tự do. Và, trong tay, không có nổi, một mẩu thép.
Biết việc trái đạo – vẫn đem ra thi hành.
Xưa, An Dương vương, tự dẫn sói vào nhà, khiến Nước mất – Nhà tan.
Nay, nhà nước CS, phớt lờ lời cảnh báo của tướng Giáp, để dẫn Trung cộng vào Tây nguyên – Tử huyệt của Đất nước. Nào có phải, họ đến, là để làm giàu cho Đất Việt. Họ đến, để khai thác Bô xít. Về kinh tế, thì lỗ. Về môi trường, thì độc hại và tiềm ẩn, thảm họa cho Đất nước. Về văn hóa, làm nhạt nhòa, bản sắc văn hóa của các dân tộcTây nguyên. Tai hại như thế, nhưng đã là “chủ trương lớn của đảng”, nên cứ phải, nhắm mắt – nhắm mũi mà thi hành.
此三者道之所止也。Thử tam giả, đạo chi sở chỉ dã
Chế độ nào, hội đủ 3 yếu tố này, chế độ đó, chắc chắn sẽ bị diệt vong .
柔而静. Nhu nhi tĩnh
Ôn hòa và mềm dẻo – Bình tĩnh và công bằng, để giải quyết công việc.
Là nước lớn, nhưng ai cũng nhận thấy, Hoa kì, hành xử rất thân thiện và có trách nhiệm. Họ không hung hăng, bắt nạt các nước nhỏ. Không sợ xun vòi, trong quan hệ với các nước lớn. Họ nguyện bảo vệ, các giá trị của Tự do – Dân chủ. Bởi vậy, đi đến đâu, Tổng thống Hoa kì, cũng được dân chúng yêu mến và chào đón nồng nhiệt. Một trời – một vực, khác với thái độ của họ, dành cho lãnh đạo CS.
恭而敬,Cung nhi kính.
Tôn trọng dân chúng và cẩn thận từng li – từng tí, trong công viêc hàng ngày. Người như thế, đâu dễ mắc, những sai lầm ngớ ngẩn.
Hãy thử 1 lần, ngắm nhìn bức ảnh, ông Obama, cho 1 cháu bé 5 tuổi, sờ lên đầu của mình. Ta biết, ông tôn trọng dân chúng, đến mức nào. Hãy nhìn, những bức ảnh, cán bộ CS, đứng ưỡn bụng và dạng háng, trước công chúng. Hãy nhìn, những cái vỗ tay hững hờ của họ. Ta sẽ biết, trình độ văn hóa của họ, cao đến mức nào.
强而弱. Cường nhi nhược.
Cành cây già, tất cứng. Cứng, thì dễ gãy. Những nhành cây to, mới nhú, nó còn mềm. Nó, có thể phát triển được. Đó là, lí tự nhiên.
Con người ta, dù mạnh đến đâu, cũng cần phải khiêm tốn. Khiêm tốn, giúp người ta, vươn lên mãi. Ương ngạnh cho rằng, chỉ có mình mới đúng và phủ nhận, tất cả những quan điểm khác mình. Như thế: khác gì. cành cây già – khác gì, cỗ xe đã lên đến đỉnh dốc và chuẩn bị đổ đèo. Chỉ có xuống và chẳng còn lên được nữa.
忍而刚. Nhẫn nhi cương.
Thời cơ chưa đến – nhẫn nhịn đợi thời . Thời cơ chin muồi – kiên quyết nắm chắc, để đoạt thủ thiên hạ. Nhịn những cái nhỏ. Nhưng, không bao giờ được nhượng bộ, những vấn đề, có tính nguyên tắc.
Khi đàm phán, để hoạch định Biên giới trên bộ: Nguyên tắc chung, là phải tôn trọng Hiệp ước Pháp – Thanh. Tôn trọng những cột mốc, đã được cắm, theo qui định của Hiệp ước này. Khi, bổ xung cột mốc mới, có thể nhượng bộ, xê xích tí chút. Không hiểu sao, Việt cộng, dễ chấp nhận nguyên tắc, do Trung cộng đưa ra: “Trên các dòng sông chung, Biên giới Quốc gia, được tính theo trung tuyến của dòng nước chảy”. Kết quả, Việt nam, mất đứt đi, ít nhất là nửa bãi Tục Lâm – nửa thác Bản Giốc.
Tại sao họ bị lừa? Chỉ có Trời, mới biết.
此四者,道之所起也. Thử tứ giả, đạo chi sở khởi dã.
Quân chủ, có 4 đức tính này, mà lãnh đạo xã hội. Xã hội ấy, nhất định: Dân thì giàu – Nước thì mạnh.
故义胜欲则昌,欲胜义则亡. Cố, nghĩa thắng dục tắc xương, dục thắng nghĩa tắc vong.
Ở 1 Quốc gia, khi quyền lợi của Đất nước, được đặt trên quyền lợi của đảng phái – được đặt trên quyền lợi của gia đình. Đất nước, sẽ hưng thịnh. Bởi, nó thuận Đạo: Quân – Sư – Phụ. Ngược lại, khi “Hiến pháp của Đất nước, đứng đằng sau Cương lĩnh của đảng”. Khi đó, dục vọng của đảng CS, đã chiến thẳng công lí. Kết quả: “đất nước Việt Nam, mãi mãi là đất nước vô pháp luật” (Đại tá Phạm Đình Trọng). Và, không thể phát triển được.
Trong con người của bậc Vua – Chúa , khi chính nghĩa, chiến thắng dục vọng thấp hèn của bản thân, Quốc gia sẽ hưng thịnh và ngược lại. Đổng Trác và Lã Bố, cùng tranh nhau nàng Điêu Thuyền. Đó là, khởi đầu cho quá trình: Đổng Trác chết – Lã Bố vong. Dân Việt, khinh cái sự ấy lắm. Họ, gọi cái sự ấy, là: “cha – con, ăn chung 1 máng”. Không biết, ở Việt nam, có lãnh đạo nào, mà cha – con, đã từng ăn chung 1 máng chưa?
敬胜怠则吉, 怠胜敬则灭。Kính thắng đãi tắc cát, đãi thắng kính tắc diệt.
Từ việc lớn, cho đến việc nhỏ – Từ viêc quan trọng, cho đến chuyện bình thường. Khi đã bắt tay vào làm, người Nhật, đều làm với niềm đam mê. Họ, làm cho bằng tốt, mới thôi. Chính vì vậy, sản phẩm, mang nhãn hiệu Made in Japan, được người tiêu dùng, rất ưa chuộng. Ngược lại, người Trung quốc, coi thường khách hàng. Sản phẩm của họ làm ra, có chất lượng tồi và thường được khuyến mại thêm, sự độc hại. Chính vì vậy, khách hàng, chỉ tìm đến họ, khi không còn sự lựa chọn nào khác.
Chăm chỉ làm việc, để tạo ra nhiều của cải cho xã hội, thì tốt. Chăm ăn – chăm chơi, mà không chăm làm, mấy chốc mà bị diệt vong. “Rừng vàng – Biển bạc”, đâu có tác dụng gì, với lũ lười biếng.
Lời bàn
Vi trùng, hiện diện, ở khắp mọi nơi. Mầm bệnh, trong người, ai mà không có. Người ta ốm, bởi vì người ta yếu. Họ, khỏe mạnh, bởi có cơ thể tráng cường. Đó là, lí tự nhiên.
“Các thế lực thù địch và phản động” với chính quyền, nơi nào mà không có. Đảng CS Mĩ, chẳng hạn. Họ, công khai hoạt động và hoạt động có tổ chức. Họ ra rả, nói vào tai dân Mĩ: Chủ nghĩa Tư bản, là xấu xa và tồi tệ. Hãy ủng hộ, để họ lên nắm quyền. Họ, sẽ lo cho dân Mĩ, một Thiên đường, vạn lần tốt hơn hiện nay. Nhưng, dân Mĩ thông minh. Qua lá phiếu của mình, họ phủ nhận nó. Chính quyền hiện nay của họ, thực sự đã là của Dân – do Dân và vì Dân. Nên, nó cực kì vững mạnh. “Các thế lực thù địch và phản động”, nói thế, chứ nói nữa, nó cũng chẳng thể đổ được.
Ngược lại, “Các thế lực thù địch và phản động” của chính quyền CS: Qui mô – nhỏ lẻ. Hoạt động – phân tán. Hành động – không thống nhất. Tài chính – chẳng có gì. Nhưng, sao chính quyền CS, luôn sợ nó, đến mức phát cuồng lên? Đơn giản, vì chính quyền CS, không dựa vào Dân. Nên, nó rất yếu. Chỉ hắt hơi – xổ mũi sơ sơ, cũng có thể lăn đùng ra, mà đi đến, Đài hóa thân Hoàn vũ. Nga xô và khối CS Đông Âu, là những ví dụ.
Yếu, thì phải chết. Đó là Chân lý. “Tháo dạ, đừng đổ vạ cho cơm”. Đừng đổ lỗi, cho “Các thế lực thù địch và phản động”. Đó chỉ là, ngụy biện. Là cái cớ, để đốt tiền, cho các lực lượng vũ trang – cho bộ máy tuyên truyền. Mà thực chất, chúng chỉ là, lũ ăn hại.
Luận, về sự sụp đổ của 1 thể chế, nhà Chu cho rằng, có 2 nguyên nhân cơ bản và họ đưa ra, 2 đối sách tương ứng, để đối phó:
Thứ nhất, do người trong nước, vùng lên lật đổ. Có thể, do khởi nghĩa vũ trang. Tỉ như, cách mà Nga xô, đã làm với chính quyền Nga hoàng. Có thể, thông qua hình thức ôn hòa. Tỉ như, nhà Trần, giành chính quyền từ tay nhà Lý. Tỉ như, Nhân dân Ba lan, giành chính quyền, từ tay thể chế CS.
Thứ 2, do ngoại bang, mang quân đến phế bỏ. Tỉ như, người Việt nam, đã làm ở Campuchia.
Lịch sử, đã chỉ rõ: Vô luận, trong bất cứ trường hợp nào. Chính quyền bị lật đổ, cũng đang, ở trong trạng thái mục ruỗng – thối nát , đến tận xương – tận tủy. Vì vậy, nhà Chu, đề ra biện pháp đối phó, hết sức chủ động. Họ không mong, đối lập yếu đi. Họ chỉ mong, xây dựng chính quyền của họ, vững mạnh. Tất nhiên: Không phải, bằng bạo lực – Không phải, bằng tuyên truyền dối trá. Xây dựng chính quyền vững mạnh, phải dựa trên cơ sở: Tự sửa mình và Chăm lo cho “gốc – rễ”. Đó là, Nhân dân.
Riêng, trong trường hợp “mang quân, đến phế bỏ người”. Nhà Chu, không dạy con cháu, cách “ăn sống – nuốt tươi”, cách “lấy thịt – đè người”. Như người Mĩ, đã từng làm ở Iraq. Họ dạy con cháu, cách khôn khéo hơn nhiều. Cách đó, mới là, “Âm mưu diễn biến hòa bình” chính hiệu. Đề tài này, xin được trình bày ở bài sau: Văn phạt.
Nguyễn Tiến Dân
Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội
Điện thoại : 0168-50-56-430
Chấn hưng dân trí: Làm cách nào để sự giả dối không truyền đến đời con cháu?
Vũ Cao Đàm
Trên trang Bauxite Việt Nam ngày 24/11/2014 có một bài viết với cái tít rất thú vị của Duy Chiến trong câu chuyện với ông Nguyễn Minh Nhị, Cựu chủ tịch UBND Tỉnh An Giang, và Duy Chiến đã trích lời ông Nhị: “Tôi sợ sự giả dối truyền đến đời con cháu”.
Đọc xong bài viết của Duy Chiến, tôi giật mình sững sờ, và thốt lên một lời than: “Bác Nhị ơi, nó, cái sự giả dối ấy, đang truyền qua đời con cháu rồi đó. Nó đã đi trước sự cảnh báo của bác Nhị rồi”.
Chí sỹ Phan Châu Trinh dạy ta phải “Khai dân trí”. Vậy thì trên con đường Chấn hưng dân trí, thế hệ chúng ta phải làm sao “Khai dân trí” cho lớp con cháu chúng ta?
Tôi xin góp với Duy Chiến một câu chuyện mà tôi thấy rất “tâm tư”, “tâm tư” mỗi khi lên giảng đường thảo luận bài vở với lớp trẻ – lớp sinh viên đáng tuổi cháu nội cháu ngoại của các thầy cô còn đứng trên giảng đường cùng với lứa tuổi tôi. Đây có lẽ chính là cái “đời con cháu” của bác Nhị, mà thế hệ chúng ta đang được may mắn chia sẻ với họ những tư tưởng và tình cảm qua các mảnh đời trải nghiệm.
Trong một lần hướng dẫn sinh viên (lứa sinh năm 1994-1995) thuộc nhiều ngành học khác nhau, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, về phương pháp nghiên cứu khoa học, tôi được nghe một sinh viên trình bày một nghiên cứu về phân tích “Nguyên nhân chống phá nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù địch”.
Khi nghe bạn sinh viên trẻ măng, còn kém tuổi cháu nội cháu ngoại của mình, trình bầy một Research Question và một Research Hypothesis về âm mưu của các thế lực thù địch muốn xóa bỏ cái thiên đường viễn tưởng này, như một ước vọng cao cả của nhân loại (giống như tôi đã từng nghe báo cáo của các vị tuyên huấn từ những năm tháng của thập niên 1960), tôi chợt giật mình, sững sờ vì cái “Dân trí” của lớp trẻ, mà tôi vốn nghĩ một cách rất chân thành, rằng đáng ra họ phải chỉ mặt thế hệ chúng ta mà mắng nhiếc, để mà sỉ vả, rằng: “Chính các ông bà đã từng làm những vệ sĩ trung thành của cái hệ thống đầy khuyết tật này, và chúng tôi, lớp con cháu, phải hàn gắn lại những đống phế thải ấy, không biết đến bao giờ mới khắc phục được”.
“Chính các công bà đã từng tiếp tay cho những kẻ ký cho quân xâm lược vào trấn đóng Tây Nguyên, cho chiến hạm của quân xâm lược ra vào cửa ngõ vô cùng hiểm yếu về chiến lược của cảng sâu Vũng Áng”
“Chính các ông bà đã thờ ơ trước những kẻ đã cho quân xâm lược trấn đóng trên cả một vùng đất rộng lớn hàng nhiều chục ngàn héc ta rừng đầu nguồn, cho kính viễn vọng của bọn cướp biển được đặt chính giữa đèo Hải Vân, một địa thế yếu hầu trấn giữ đường biển để khống chế đất nước chúng ta”.
“Chính các ông bà đã tạo dựng nền móng cho những kẻ đang tâm để quân xâm lược gặm dần gặm mòn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, để rồi không biết đến thế kỷ bao nhiêu các thế hệ con cháu mới đòi lại được”.
Tôi thành tâm mong đợi lớp con cháu chỉ mặt thế hệ chúng ta để mắng nhiếc, để sỉ vả những lời như thế.
V.C.Đ.
Tác giả gửi BVN
Đèn Cù tập 2: Bí ẩn cung đình đỏ và thân phận con người
Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-11-25

Bích chương quảng cáo Đèn Cù tập 2 của Trần Đĩnh.
Courtesy Người Việt Books
Tác phẩm Đèn cù phần 2 của nhà văn Trần Đĩnh sẽ ra mắt bạn đọc trong thời gian tới đây. Những dòng tự sự về thân phận con người trong chế độ cộng sản cũng như những bí ẩn chính trị bị che dấu tiếp tục được phơi bày. Sau đây là góc nhìn của một trong những độc giả đầu tiên của Đèn cù phần hai.
Hồng cung bí sử
“Ông Lê Trọng Nghĩa xuất thân là một sinh viên khoa Luật, thông thạo nhiều thứ tiếng. Năm 23 tuổi (tức 1945) ông làm thuyết khách gặp gỡ Trần Trọng Kim, thuyết phục chỉ huy Nhật ở Trại Bảo an binh và tham gia đàm phán với Tổng chỉ huy quân đội Nhật ở Hà Nội. Chia sẻ về công việc của mình, ông nói: “Tôi theo dõi tất cả các vấn đề có quan hệ tới đối phương như Pháp, Mỹ, và các nước khác có liên quan đến cách mạng Việt Nam. Dựa vào những tin tức đó, Bộ Chính trị đưa ra chủ trương, quyết sách”. Giai đoạn Cách mạng Tháng 8, ông Nghĩa đại diện chính quyền Việt Minh liên hệ với quân đội Nhật. Chủ trương lúc đó của Việt Nam là chỉ huy quân giải phóng đánh vào quân Nhật đang co cụm ở Thái Nguyên để mở đường Nam tiến.”
Đó là đoạn trích từ bài báo ngày 11/10/2014 trên báo mạng Vnexpress tại Việt nam. Bài báo này ghi nhận cảm nghĩ của ông Lê Trọng Nghĩa về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng thời cũng ghi vắn tắt tiểu sử của ông Nghĩa, một người từng đứng đầu ngành tình báo Việt nam và giữ vai trò quan trọng nhất trong cuộc cướp chính quyền tháng Tám năm 1945.
Điều mà báo này không nhắc đến là chuyện ông Nghĩa bị bắt, không án trong cái gọi là vụ án xét lại chống Đảng.
” Sự thành công của cách mạng tháng tám không phải là sự tổ chức sắc sảo từ đầu đến cuối của đảng cộng sản Việt nam mà là một khoảng trống về quyền lực lúc ấy trên bán đảo Đông Dương.
-Trần Đĩnh”
Điều này lại được tác giả Trần Đĩnh ghi nhận rất chi tiết trong phần hai cuốn tự truyện Đèn Cù. “Nhưng thân phận cựu Đại tá tình báo Lê Trọng Nghĩa không quan trọng bằng tiết lộ của ông về cuộc cách mạng tháng tám mà Trần Đĩnh ghi lại”. Theo tiết lộ này thì trong tháng tám 1945 những người đứng đầu Việt minh, mà nòng cốt là đảng cộng sản đã ra quân lệnh số 1 tấn công quân đội Nhật bản đang chiếm đóng Đông dương lúc ấy. Trong khi đó thì bộ phận Việt minh ở Hà nội do ông Lê Trọng Nghĩa đứng đầu thương lượng thành công với quân đội Nhật để lên nắm chính quyền. Ông Hồ Chí Minh và các cố vấn của ông đều không biết việc này. Và khi những đội quân Việt minh đầu tiên tiến về Hà nội từ Việt bắc vẫn phải xin phép quân đội Nhật.
“Điều này có nghĩa là sự thành công của cách mạng tháng tám không phải là sự tổ chức sắc sảo từ đầu đến cuối của đảng cộng sản Việt nam mà là một khoảng trống về quyền lực lúc ấy trên bán đảo Đông Dương.”
Những tiết lộ lịch sử ấy ắt hẳn là điều mà nhiều người quan tâm đến lịch sử và chính trị Việt nam mong đợi từ quyển sách Đèn Cù tập 2 sắp xuất bản, cũng như họ đã mong đợi từ phần một quyển tự truyện này.
Một điều có lẽ cũng sẽ gây ngạc nhiên cho người đọc khi Đèn cù 2 tiết lộ rằng Lê Duẫn đã từng tiếp xúc với tình báo Mỹ, mặc dù sau đó tại đại hội trung ương đảng lần thứ 9 ông là người đứng đầu phái thân Mao chủ trương dùng bạo lực để tiến đánh miền Nam.

Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp.
Cũng liên quan đến ông Lê Duẫn, những điều Trần Đĩnh ghi chép lại cho biết rằng sự “bất kính” của ông Duẫn đối với ông Hồ đã bắt đầu từ khi ông được huấn luyện bởi các bậc đàn anh như Trần Phú, Hà Huy Tập, những người được Quốc tế cộng sản công nhận chứ không phải là ông Hồ, một kẻ bị thất sủng, dù ông cũng là người được Đệ tam quốc tế đào tạo từ rất lâu.
Người ta cũng sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Trần Đĩnh nghi ngờ nhân vật Trần Xuân Bách khi ông này đề ra những ý tưởng cải cách chính trị cởi mở hơn cho Việt nam.
Và những câu chuyện thâm cung bí sử về những nhân vật chính trị một thời của đảng cộng sản Việt nam tiếp tục được ghi lại qua ngòi bút dí dỏm của Trần Đĩnh, người chỉ khiêm tốn đặt tên cho quyển sách đầy ắp tư liệu lịch sử của ông là “Truyện tôi”.
Những chi tiết lịch sử ấy Trần Đĩnh gọi là “Hồng cung bí sử”.
Thân phận con người
Những sự kiện lịch sử dù bị che dấu, cũng sẽ dần dần lộ ra trong thời đại thông tin toàn cầu này, “điều mà Trần Đĩnh đem đến nhiều nhất cho người đọc chính là sự mô tả thân phận con người trong và dưới chế độ cộng sản.”
Những nhân vật trong guồng máy như các ông Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Đặng Kim Giang, Ung Văn Khiêm,… những người có công gầy dựng nên đảng cộng sản bị đối xử một cách tàn khốc khi sa cơ thất thế, bị chính các đồng chí ngày hôm qua của họ giáng xuống những bản án nặng nề. Trần Đĩnh viết:
” Đất nước bị mắc phải một giống vi trùng có tên là tính đảng. Nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.
-Trần Đĩnh”
“Đất nước bị mắc phải một giống vi trùng có tên là tính đảng. Nó kháng lại mọi yêu cầu tử tế của con người.”
Ông viết thêm là ở nước Việt nam, nhờ có đảng mà cái gì cũng là hai mặt, hai mang. Và những tư tưởng giai cấp mà đảng cộng sản đem vào Việt nam đã để lại những sự đảo điên vô cùng nghiêm trọng cho xã hội Việt nam:
“Nó gây sốc đảo điên dân tộc, nó đem vào lập trường đấu tranh giai cấp, đi vào trong mọi quan hệ xã hội, họ hàng gia đình, bạn bè để đấu tố nhau, xin mạng nhau.”
Tuy nhiên cuộc đấu đá quyền lực của những người lãnh đạo cộng sản không làm họ xao nhãng việc cai trị. Trần Đĩnh viết tiếp:
“Tôi lạ là các bộ óc đầy hằn học, nghi ngờ nhau như vậy vẫn nhất trí được với nhau trong việc trị dân.”
Sự phản kháng của dân chúng trước sự toàn trị ngặt nghèo của đảng được Trần Đĩnh mô tả lại qua những buổi trò chuyện dài giữa ông và anh thanh niên vá xe đạp. Qua đó người đọc thấy sự phản ứng rất đặc biệt của người dân dưới chế độ cộng sản: Không có những cuộc biểu tình, những cuộc nổi dậy mà có sự châm biếm các giới lãnh đạo, sự biến thái của ngôn ngữ để chuyển tải những câu chuyện khôi hài đen.
Đọc Đèn cù tập 2 người ta cũng thấy một mối quan hệ đặc biệt giữa những người bất đồng chính kiến, những người bị chế độ lên án với những nhân viên an ninh theo dõi họ. Họ tồn tại song song nhau, khai thác nhau. Bộ máy an ninh dày đặt đã gieo rắc sự sợ hãi vào trong lòng dân chúng, và cả những người có cương vị trong xã hội. Trong xã hội ấy một khi người ta ngại tiếp xúc với các cơ cấu của bộ máy quyền lực chính là lúc người ta bắt đầu có biểu hiện của sự khủng hoảng tâm thần do bị đàn áp về tinh thần. Đó là nhận xét của Trần Đĩnh về những thân phận con người xung quanh mình và ông thường xuyên tự nhắc mình rằng trong cái sợ đó “phải ứng phó làm sao cho đúng cốt cách một con Người”.
Dù biết rằng bất cứ sự so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng câu chuyện về những nhân vật cộng sản Việt nam mà Trần Đĩnh ghi lại, không khỏi gợi cho độc giả nhớ đến cuốn tiểu thuyết chính trị của nhà văn Pháp Andre Malraux mang tựa đề “Thân phận con người”, mô tả cuộc nổi dậy của lực lượng cộng sản tại Thượng hải, Trung quốc vào những năm 1930. Người ta thấy nhiều âm mưu, nhiều sự bội phản, nhiều sự cơ hội, và trên hết là sự ảo tưởng mà Trần Đĩnh gọi là sự Mộng tưởng. Sự mộng tưởng vào chủ nghĩa cộng sản ám ảnh tác giả lớn đến mức mà ông lập lại đến hai lần trong phần hai của tác phẩm Đèn cù:
“Mộng tưởng không trọng lượng nhưng đè sập biết bao đời người.”
Xã hội “loạn”, đi về đâu bây giờ?
Hà Văn Thịnh
Chỉ trong mấy ngày, báo chí cùng lúc đưa những tin thật buồn: Hà Nội nằm trong ‘top ten’ điểm đen thế giới về nạn móc túi và TP. HCM thì lâu nay đã trở thành miền ‘đất dữ’ bởi hàng ngàn con nghiện tiêm, chích ma túy như thể uống cà phê, ăn sáng… Chưa hết, báo Thanh Niên trong mục Chào buổi sáng (05:30, 6.11.2014) còn có cảnh báo khá nghiêm trọng về tình trạng bất an của nông thôn từ Kon Tum tới Đà Lạt, Miền Đông Nam Bộ.vv..
Con nghiện tiêm, chích ma túy như thể uống cà phê, ăn sáng

Xã hội “loạn”, đi về đâu bây giờ?
Nếu đọc qua thì đó chỉ là những tin tức cũng… bình thường như bao tin khác về các tệ nạn xã hội đang phát triển, có lẽ với cấp số nhân, trên khắp cả nước ta. Thế nhưng, nếu ngẫm kỹ một tý thì chắc chắn phải giật mình vì một thực trạng đáng sợ: Từ thành phố tới nông thôn, từ thủ đô đến ‘Hòn ngọc Viễn Đông’, từ Nam chí Bắc, đâu đâu cũng thấy sự lộng hành của cái ác; sự coi thường pháp luật của kẻ xấu; sự lo lắng của người dân; sự thờ ơ – nếu không muốn nói là sự gần giống với bất lực của bộ máy công quyền…
Điều đáng phải ngạc nhiên đến mức… hốt hoảng là, tình trạng gia tăng các loại tội phạm lại… tỷ lệ thuận với sự phình to của bộ máy hành chính các cấp mà báo chí đang bàn tới bàn lui nhiều đến mức đọc không xuể.
Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Nghệ An tâm sự với người viết bài này rằng năm ngoái (2013), tổng thu ngân sách của toàn tỉnh là 6.500 tỷ đồng, trong khi phải chi đến 14.000 tỷ đồng! Trong số 14.000 tỷ đồng phải chi ấy, có phần không nhỏ chi cho bộ máy cảnh sát, an ninh. Ai cũng biết lương thượng tá ngang với lương thứ trưởng; trung tá, thiếu tá thì ngang ngửa với vụ trưởng, vụ phó…
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao đi đâu cũng gặp các sĩ quan cảnh sát mà ‘hòn ngọc’ thì thành ‘đất dữ’, thủ đô bị biến thành một trong 10 thành phố nhiều trộm cắp nhất thế giới? Nếu biện minh rằng thôi thì các thành phố lớn trên thế giới đều thế cả thì trả lời sao đây với chuyện mà Thanh Niên đã đưa: Nông dân phải để lại một phần mủ cao su trong các bát cho thế lực đen nếu không vườn cao su bị phá; vườn cà phê không chung chi thì bị ‘làm cỏ’ còn cánh đồng trồng hoa thì bị xe bán tải đến cướp hoa đem đi… bán, giữa ban ngày?

Chưa bao giờ đất nước lâm vào tỉnh cảnh rối bời như hiện nay, dẫu có dùng núi mỹ từ hay uyển ngữ để bao che, giảm tải. Nợ công đến 1.000 USD cho mỗi người dân, chẳng có dân nào nuôi nổi bộ máy hành chính cồng kềnh cứ cắp ô đi về mặc dân bất an, khổ sở, rồi nạn tham nhũng tràn lan, rồi sách giáo khoa soạn cẩu thả, dốt nát đến tệ hại…
Sự xuống cấp với tốc độ chóng mặt và diễn ra với mức độ toàn thể ấy không thể dùng cách nào khác hơn để diễn đạt: Đất nước đang đứng ở cái ngưỡng báo động màu da cam (mức độ nguy hiểm cao nhất theo chuẩn quốc tế) trên mọi lĩnh vực – đổng nghĩa với sự bất ổn nhiều hệ lụy (nếu không muốn nói là nguy hiểm) mà sự chần chừ, thờ ơ, lảng tránh, xoa dịu… đều đồng nghĩa với tội ác.
Tại sao không nghĩ rằng một khi con nghiện nhiều như nấm độc sau mưa – theo số liệu rất đáng lo ngại nếu chúng ta tạm bằng lòng với cách tin của lứa tuổi mười ba, mười bốn, mỗi năm nước ta tăng thêm 7.000 con nghiện (SGGP, 27.10.2014) thì ít nhất mỗi năm phát sinh thêm 7.000 kẻ sẵn sàng trộm cắp, cướp bóc, đe dọa, tống tiền. Như vậy, chỉ mươi năm nữa, ‘đội quân’ nghiện sẽ đông đến hàng trăm ngàn. Có ai nghĩ với hình ảnh ‘đất dữ’, ‘điểm đen’ ghê gớm như thế mà tính trung bình, mỗi năm Hà Nội hay TP. HCM chỉ tăng thêm 111 con nghiện (7.000 chia cho 63 tỉnh, thành )?
Không thể chấp nhận một đất nước mà lòng dân thường xuyên bị tổn thương, bất an, bất lực trước cái ác, cái xấu; trong khi hàng ngày phải è cổ ra nuôi cả một bộ máy cồng kềnh. Làm sao có thể an nhiên tự tại khi các số liệu, tự chúng, chứng minh rõ ràng về sự bi hài: Quản lý 90 triệu dân, tài sản GDP mỗi năm hơn 200 tỷ USD mà cần đến 2,8 triệu công chức, nhân viên. Trong khi đó, nước Mỹ với 310 triệu dân, GDP 17.500 tỷ USD, có mặt ở mọi điểm nóng trên toàn thế giới, chỉ cần 2,1 triệu người làm quản lý.
Huế, 7.11.2014
Hà Văn Thịnh

Bữa ăn của dân Homeless
Thực đơn thân ái
Mỗi tháng một lần và đôi khi 2 lần, chương trình dọn ăn thực đơn Việt Nam cho khách giang hồ tổ chức vào chiều thứ bẩy lần thứ tư tại Lữ quán đường Montgomery, San Jose. Năm nay, chiều thứ bẩy 22 tháng 11-2014 sẽ do hội Petrus Ký của bác sĩ Trần Văn Nam lên phiên. Đặc biệt có sự tiếp sức của hội gia tộc họ Vũ về tài chánh và sự hiện diện của nhóm ái hữu Hoa hậu phu nhân với nhiều quà tặng mùa đông. Qua chiều chủ nhật 28 tháng 11-2014 sẽ có một tiệm vàng bảo trợ do sự phối hợp của cô Hoàng Mộng Thu. Tháng tới mùa Giáng Sinh sẽ đến lượt gia đình họ Vũ chính thức lên phiên. Bài viết này để tặng cho các nhà hảo tâm và nhân viên tình nguyện.
Vấn nạn 100 năm cũ
Vào ngày Lễ tạ Ơn và Giáng Sinh, tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân năm nào cũng dậy sớm đi lễ nhà thờ và buổi chiều thì đi dọn ăn cho Homeless Hoa Kỳ.
Từ hơn 100 năm nay, truyền thống của nước Mỹ đã trở thành tục lệ. Hiệp Chủng quốc là đất nước tiền rừng bạc bể, viện trợ cho khắp thiên hạ nhưng ngay tại quê nhà, mỗi năm vẫn có cả ngàn người Hoa Kỳ đói rét và nằm chết ở gầm cầu, xó chợ trong kiếp sống không nhà. Không một chính quyền nào, Dân Chủ hay Cộng Hòa, không một vị lãnh đạo nào giải quyết được hoàn toàn vấn đề Homeless. Các chính khách chỉ còn cầu nguyện buổi sáng và đãi ăn khách không nhà buổi chiều.
Thời kỳ còn chiến tranh lạnh, các vị nguyên thủ của khối Cộng muốn làm Hoa Kỳ mất mặt thường tìm cách đi thăm các khu nghèo tại Nữu Ước và tìm đến phát quà cho dân Homeless ở xóm Mỹ đen Harlem.

Nước Mỹ kể cả Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp cùng với truyền thông đều coi như chuyện nhỏ, không đáng kể. TV và báo chí vẫn chụp hình và loan tin tự do. Mọi người đều biết rõ là xã hội công nghiệp và đời sống của đô thị đã sinh ra giai cấp không nhà. Đôi khi họ là Homeless thường trực Full-time, có khi là Homeless bất chợt, Part-time thuộc loại lỡ độ đường.
Nước Mỹ ngày xưa chưa có các đô thị lớn, dân nào cũng là dân quê, cuộc sống gần thiên nhiên thì sự phân biệt giữa dân có nhà và dân Homeless không cách biệt. Ngày nay với trên 300 triệu dân, với hàng ngàn đô thị đông đảo thì số người không nhà lên cao là chuyện không có gì mới mẻ.
Con số không nhà
Toàn quốc Hoa Kỳ tính ra lúc nhiều lúc ít, hiện nay lên đến 3 triệu dân không nhà. Và con số này gia tăng nhiều hơn mức độ dân số phát triển hàng năm. Như vậy cứ 100 người Mỹ là một người ở ngoài đường dù là cố ý hay vô tình. Vô tình trở thành Homeless vì đói. Cố ý Homeless vì điên.
Niềm đau thương hơn cả là trong số hơn 3 triệu Homeless đàn ông và đàn bà có cả một triệu trẻ em. Những đứa trẻ từ lúc sinh ra đã sống ở ngoài đường và suốt thời thơ ấu không được tắm trong nhà, không được ngủ với cửa buồng đóng lại, không được nằm trong chăn ấm, bên ngọn đèn ngủ và lời ru của mẹ.
Tất cả những đứa trẻ đó đều là công dân Hoa Kỳ, đang cư ngụ trên đất mẹ, ở xứ sở thiên đường mà hàng triệu người di dân trên thế giới muốn đến để lập nghiệp. Những cụ già, các gia đình, trẻ em homeless đều không bận tâm xin thẻ xanh hay thi quốc tịch. Tất cả đều là công dân hợp lệ.
Tại sao lại có hiện tượng vô lý như vậy? Không một nhà giáo dục, không nhà xã hội học, các kinh tế gia, các chính khách, các vị lãnh đạo chính phủ lãnh đạo tôn giáo tìm ra được giải pháp cho vấn nạn Homeless tại Hoa Kỳ.
Hiện nay, các đại học Mỹ có ngành xã hội và nhân chủng đều bỏ ra hàng triệu Mỹ kim để nghiên cứu giải pháp. Hàng chục ngàn cơ quan thiện nguyện từ trung ương đến địa phương đều nỗ lực đi tìm cách giúp đỡ và chấm dứt nạn Homeless tại các đại đô thị. Tất cả đều vô phương.
Các tiểu bang đều có những đô thị với nạn Homeless trầm trọng. Riêng California dẫn đầu với Los Angeles, San Francisco, Berkeley, và Fresno. Florida cũng có 3 điểm nóng. Texas cũng có 3 thành phố lên bảng đen. Ngay cả Las Vegas và Honolulu cũng nổi tiếng có nhiều Homeless.
Và Homeless cũng có nơi hiền lành, có nơi nảy sinh nhiều tội ác và những phiền phức cho xã hội. Ăn mày, ăn xin, trộm cắp, phóng uế bừa bãi, xả rác nơi công cộng, chiếm cứ các công viên, phá hoại môi sinh.
Homeless luôn luôn đi cùng với cần sa, ma túy, rượu chè, cờ bạc, đĩ điếm. Vì Homeless mà đi đến tứ đổ tường hay vì tứ đổ tường mà trở thành Homeless. Dù ngược hay xuôi thì cũng đen tối như nhau.
Đi tìm nguyên nhân
Một trong các yếu tố căn bản của Homeless là tinh thần tự do cá nhân cùng với bệnh tâm thần. Hoa Kỳ đã từng có nhiều người muốn sống gần thiên nhiên nên suốt đời ở với núi rừng. Đã có cả một thời xưa, dân Ho Bo chuyên sống và di chuyển dọc theo đường xe lửa. Và ngày nay, nhiều gia đình và phần đông là dân Mễ, cả vợ chồng con cái sống trên xe, đi từ cánh đồng này qua cánh đồng khác, sống theo mùa gặt.
Và rất nhiều các tay da đen uống rượu thích lấy đất làm giường và trời cao làm mái nhà. Khi các đấng lưu linh đã say sưa thì trời đất quay cuồng và nhà cửa không còn là vấn đề quan trọng.
Vì vậy vào mùa đông, các trại tạm trú của chính phủ mở ra với đạo quân cứu tế đi đến các công viên, khiêng dân Homeless lên xe chở về nơi cư ngụ để khỏi chết cóng.
Có nhiều trường hợp khách giang hồ ăn xong lại trốn ra ngoài để hoàn tất giấc mơ với cuộc sống tự do.
Tin tức thống kê
Thống kê Hoa Kỳ kiểm tra khảo sát quanh quẩn thì cũng chỉ có từng đó đáp số. Chỗ có nhà thì không có dân. Trên khắp nước Mỹ đang có nơi hàng ngàn căn nhà trống. Chỗ không có nhà thì dân kéo về quá đông. Không có công việc, không có tiền và không đủ nhà. Lương thấp, tiền nhà cao nên dân thầy thợ đôi khi có việc làm nhưng không có đủ nhà để cư ngụ, dù là nhà thuê.
50% Homeless thiếu ăn, không biết cách xoay sở nên cả vợ con đều đói. Không có nhà nên không có địa chỉ và vì vậy không thể khai trợ cấp. Nhiều quận hạt cho khai rồi giữ Check lại, tháng tháng Homeless đến lãnh Check, lãnh Foodstamp. Tất cả đều biến thành rượu và chỉ một tuần là hết sạch.
Rồi thiên tai, hỏa hoạn, nước lụt đóng góp thêm vào các hiểm họa đưa con người vào chỗ không nhà.
Tùy theo từng vùng dân số nhưng luôn luôn da đen, da đỏ, Mễ và dân Châu Mỹ La Tinh có số lượng Homeless cao nhất. Dân Á châu tương đối còn đùm bọc nhau được nên lại có con số thấp nhất.
Mặc dù như vậy, nhưng không bao giờ chính phủ có con số Homeless chính xác. Cứ 10 năm một lần, Hoa Kỳ đếm đầu người, gửi phiếu kiểm tra để biết lòng dân mà cai trị đất nước. Gọi là kiểm kê dân số.
Biết dân số tăng giảm, số trẻ con ra đời, người lớn về già. Biết ước mong của toàn dân qua phiếu kiểm kê để mở trường, lập nhà thương và làm nhà cửa đường xá. Nhưng dân không nhà thì không bao giờ ghi giấy kiểm kê nên không hề có ý kiến nào được ghi nhận.
Các toán công tác đi đếm Homeless phải đi lúc nửa đêm, chiếu đèn ở xó chợ, gầm cầu mà đếm từng người. Nhờ đó mới biết được bao nhiêu ông, bao nhiêu bà, bao nhiêu trẻ em Homeless.
Từ thập niên 90 cho đến 2000 rồi 2010 chúng tôi có tham dự những kỳ đi đếm Homeless ban đêm. Không khác gì ở Việt Nam, cảnh sát công an khám sổ gia đình. Việt Nam vào nhà vì lý do an ninh. Ở Mỹ, ra đường mà đếm vì lý do xã hội. Chỉ có khác ở chỗ là nửa đêm dựng đầu khách giang hồ đứng lên để đếm. Không cần kiểm tra giấy tờ, không bắt bớ nhưng cũng bắt gặp biết bao nhiêu chuyện phi pháp và đồng thời nhân viên chính phủ cũng nghe chửi điếc cả tai. Được cái, dân Homeless chửi từ thống đốc lên tổng thống chứ không thèm chửi cấp dưới nên cả hai bên đều hết sức vui vẻ để chia tay, sau khi đã chào hỏi và Good Night.
Chúng ta có thể làm gì?
Sau khi có dịp đi đếm Homeless, chúng tôi lại tiếp tục họp các buổi điều trần về vấn đề xã hội tại địa phương và ước mong có thể đóng góp phần nhỏ vào công tác chung. Tất cả các giới chức có kinh nghiệm đều nói rằng, hãy bắt đầu bằng những bước cụ thể. Hãy tới các trung tâm xã hội ở địa phương tìm hiểu một thời gian và thấy rằng, chúng ta có thể làm được điều gì dễ dàng và thực tế cho người không nhà.
Riêng tại tại quận hạt Santa Clara hiện có cả chục cơ quan thiện nguyện lo cho dân Homeless. Nào là nơi phát thực phẩm cho người nghèo như Food Bank. Rồi đạo quân cứu tế Salvation Army, thêm vào đó còn có City Team và Inn Vision đều lo cho các gia đình vô gia cư tạm trú và thức ăn hàng ngày.
Chúng tôi đã đến thăm Inn Vision tại San Jose vào một buổi sáng mùa Giáng Sinh 1991, và quan sát các họ đạo Hoa Kỳ chia phiên nấu ăn cho Homeless. Đây là kỷ niệm đáng ghi nhớ 23 năm về trước.
Theo truyền thống lâu đời, các Homeless trong vùng là đàn bà, trẻ em thì được ưu tiên nuôi ăn. Còn các Homeless độc thân thì phải tự túc mà lang thang đây đó.
Mỗi chiều về dân độc thân đến khu tập trung ở cơ quan cứu tế. Có gì thì phát ra thứ đó. Đa số thực phẩm từ các chợ, các quán ăn, nhà tư còn dư đem cho, thấy còn ăn được là đem phân phối. Đây là thức ăn nguội. Mỗi cuối tuần thì các nhà thờ chia phiên đem thức ăn nóng có chuẩn bị ngon lành đến cho bà con Homeless.
Sau khi quan sát và ước lượng tình hình, cơ quan IRCC tại San Jose chúng tôi ghi tên nhận 2 kỳ 1 tháng. Một kỳ chính thức lên phiên vào mỗi chiều thứ Bảy lần thứ tư và một kỳ thường trực bất thường tức là bất cứ lúc nào họ kêu trước vài giờ là phải có ngay. Đồ ăn nguội cũng tốt.
Mở đường khai lối
Bắt đầu từ tháng 1-1991, chương trình Thực Đơn Thân Ái, dọn cơm Việt Nam 3 món cho Homeless San Jose bắt đầu. Suốt năm 1992 tổng cộng 12 tháng, cơ quan IRCC một mình lên phiên nên khá vất vả.
Phiên thường lệ vào mỗi thứ Bảy còn chuẩn bị được. Phiên khẩn cấp thí dụ có hội nhận lời nhưng giờ chót bỏ cuộc phải thay thế cấp cứu thì chúng tôi gọi điện cho 4 tiệm quanh Downtown San Jose mua mỗi nơi 25 ổ bánh mỳ cắt đôi là đủ 200 phần ăn. Mỗi phần ăn kèm theo một lon nước.
Từ lúc được báo tin cho đến lúc có đủ 200 phần ăn chỉ cần 2 giờ đồng là sẵn sàng. Gọi điện thoại cho 3 hay 4 nơi đặt hàng, ghé lấy rồi đưa đến phát ngay.
Tuy nhiên, cứ như vậy quanh năm 1992 tuy chuyện nhỏ mà cũng trở thành gánh nặng. Qua năm 1993, chúng tôi mời gọi sự cộng tác của các đoàn thể. Mỗi nơi một năm chỉ cần lên phiên một lần. Xem ra rõ ràng là gánh nặng đã nhẹ đi nhiều mà các tổ chức đều có cơ hội tham gia công việc từ thiện vô cùng ý nghĩa.
Công việc cứ như vậy tiến hành đều đặn suốt 23 năm, kể từ 1992 đến hết năm nay 2014. Qua 2015 là bắt đầu vào năm thứ 24. Chương trình Thực Đơn Thân Ái đã tổ chức cả phiên chính thức lẫn đặc biệt là 265 lần với vào khoảng 100 ngàn phần ăn đã dọn ra.
Biết bao nhiêu là sự khen thưởng của các giới chức xã hội từ liên bang, tiểu bang và quận hạt. Tuy nhiên, lời khen thưởng gây xúc động nhất vẫn là những ánh mắt vui vẻ của khách hàng. Những tràng pháo tay của quý vị đến ăn. Những tiếng cảm ơn bằng Việt ngữ của Homeless học được qua các bạn Việt Nam.
Đa số các vị đến ăn đều rất tự nhiên, không hề mặc cảm vì hoàn cảnh không nhà. Họ ăn uống rất thoải mái. Có đôi khi cả gia đình vợ chồng, con cái đến ăn. Có những người trông rất tả tơi, nhưng cũng có những người ăn mặc rất lịch sự.
Trong một gian phòng ăn rộng rãi, ấm cúng, mọi người xếp hàng trật tự tiến qua quầy thức ăn. Các nhân viên của hội đoàn Việt Nam đội nón nhà bếp màu trắng, áo choàng trắng, bao tay múc thức ăn cho quan khách đưa khay đến trước mặt. Cơm chiên, gà quay, chả giò, rau trộn, tráng miệng, trái cây, bánh ngọt. Những bàn tay ân tình, những lời nói chào đón lịch sự. “Thưa ông, thưa bà. Cảm ơn. Vâng, xin một chút nữa. Thưa đủ rồi. Không có chi.” Người dọn ăn và người được mời đều hết sức lễ độ. Xin mời thêm nước uống. Sữa hay nước cam. “Vâng xin ông cứ tự nhiên dùng cả hai.” Các em nhỏ Việt Nam mắt long lanh ngời sáng đứng lo quầy nước. Các bà nội trợ đứng hàng tiền đạo múc thức ăn. Các đấng phu quân đứng phía sau lo tiếp liệu từ nhà bếp. Quầy rau trộn đổi tay làm việc để tăng cường. Các khay cơm đã hết, đưa ra phía sau để khay cơm mới thay thế.
Thực khách ăn xong một lượt thì tạm nghỉ rồi làm thêm vòng thứ hai và đôi khi đi vòng thứ ba.
Thực phẩm thì vơi dần nhưng tình cảm thì tăng cao. Thực khách trong cả phòng chợt dừng tay nghe ông đại diện Homeless nói lời cám ơn Việt Nam rồi tràng pháo tay vang dội. Không phần thưởng nào sánh bằng.
Quan khách không bao giờ biết, đây là đại diện tôn giáo nào hay tổ chức nào. Không biết quan điểm chính trị Dân Chủ hay Cộng Hòa. Không biết đây là hội ái hữu địa phương nào. Tất cả chỉ là người Việt Nam và thức ăn Việt Nam. Ngon lành và rất hậu hĩnh.
Và chương trình Thực Đơn Thân Ái bền bỉ nhất đã góp phần trên 23 năm, nuôi ăn Homeless San Jose, những khách giang hồ không nhà hiền lành nhất Hoa Kỳ.
Trong lịch sử 100 năm Homeless tại Mỹ, San Jose là vùng đất tương đối bình yên. Các tiệm ăn Việt không bao giờ bị Homeless làm phiền. Nước Mỹ không giải quyết dứt khoát được vấn nạn Homeless nên chính tổng trưởng an sinh và xã hội phải lên tiếng kêu gọi toàn dân tiếp tay. Chúng ta là dân Mỹ gốc Việt, đã đến đất nước này, xin tiếp tay với Thực Đơn Thân Ái là bày tỏ chút ân tình cụ thể và dễ dàng nhất.
Hơn 23 năm qua rất nhiều hội đoàn đã tiếp tay với chúng tôi nhiều lần. Tuy nhiên, thành tích đáng kể công tác từ 10 lần trở lên gồm có 5 tổ chức: Ban Xã Hội Công Giáo, Gia Đình Phật Tử An Lạc, nhóm anh em Báo Mõ, Gia Đình Kiến Trúc Việt Nam và Hiệp Hội Kim Hoàn.
Cộng đồng Việt Nam hiện nay tại Bắc và Nam Cali, tại Houston – Texas đều bắt đầu tiếp tay với chính quyền địa phương về việc giúp đỡ Homeless. Tuy nhiên, vẫn còn ở giai đoạn rất tượng trưng chỉ làm vào mùa lễ hội. Thực ra, nhu cầu nhân đạo cho Homeless phải là việc làm quanh năm.
Khi bài báo này phổ biến mở đầu lễ hội 2014, quý vị độc giả vẫ còn có thì giờ để đóng góp từ thiện nếu muốn ghi thành tích cho mùa thuế năm nay.
Dành lời kêu gọi cuối năm gửi đến quý vị muốn góp một bàn tay cho các em nhỏ Homeless Hoa Kỳ. Xin nhắc lại, một triệu em bé tại Mỹ hoàn toàn vô tội, không cần sa ma túy, không rượu chè, chỉ vì sinh ra ở ngoài đường nên trở thành Homeless từ lúc còn thơ ấu. Mở mắt chào đời mà chỉ thấy trời xanh. Cả tuổi thơ chưa thấy cái trần nhà. Không ai có thể tưởng tượng được rằng, nước Mỹ có đến một triệu em bé Homeless. Có thể tưởng tượng được không. Trong số này lại có cả hàng ngàn trẻ em homeless còn đi học. Các em bé trai, bé gái như con cháu quý vị. Sáng dậy dưới gầm cầu, đi bộ đến trường có bữa ăn trưa miễn phí. Giờ tan học em làm homework trong thư viện cho dến khi đóng cửa. Em sống nhờ nhà vệ sinh của trường. Chiều em về lại gầm cầu một mình. Không muốn mẹ đẩy xe chợ đón em. Không bao giờ em muốn trông thấy mẹ đi xin tiền gần trường học. Mẹ phải đi làm ở nơi nào thật xa…
Hãy gửi cho chúng tôi $3 Mỹ kim, chúng tôi sẽ bỏ thêm công sức để làm thành một bữa ăn Việt Nam cho một em bé Hoa Kỳ đang sống ở nơi gầm cầu hay xó chợ trên đất nước hùng mạnh nhất thế giới hiện nay.
Nghĩa cử của quý vị luôn luôn được ghi nhận và đồng tiền đóng góp của quý vị sẽ được xử dụng một cách xứng đáng, trân trọng nhất.
Xin chúc quý vị một mùa Tạ Ơn và Giáng Sinh bình an.
© Giao Chỉ
© Đàn Chim Việt
GIÁO DỤC NHÂN BẢN VÀ GIÁO DỤC CỘNG SẢN
Hà Minh Thảo
Nhân ngày nhà giáo Việt Nam (hay lễ Hiến chương nhà giáo Việt Nam) được tổ chức hằng năm vào ngày 20 tháng 11, chúng ta cùng nhìn lại triết lý của hai nền giáo dục đã được thực thi tại Việt Nam Cộng hòa và cộng sản được áp dụng tại đây sau ngày Đất Nước thống nhất. Lý do thành lập ngày này là để ‘các thế hệ học trò bày tỏ lòng biết ơn với những người thầy’ và ‘ngành giáo dục đánh giá lại hoạt động của mình hầu nâng cao chất lượng giáo dục’.
I.- GIÁO DỤC NHÂN BẢN.
Năm 1958, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tổ chức Đại hội Giáo dục Quốc gia lần I tại Sài gòn với sự tham dự của mọi thành phần xã hội: giáo sư các cấp từ tiểu đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật…, phụ huynh học sinh, học giả, đại diện quân đội và các tổ chức tư nhân để xây dựng một nền Giáo dục Quốc gia theo ba nguyên tắc ‘nhân bản’, ‘dân tộc’, và ‘khai phóng’ được ghi cụ thể trong tài liệu ‘Những nguyên tắc căn bản’ do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và, sau đó, trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967. Đó là :
1./ Nhân bản là triết lý chủ trương con người giữ một địa vị quan trọng trong quốc gia (lấy con người làm gốc và cuộc sống của họ là căn bản; xem con người là cứu cánh chứ không phải là phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào. Triết lý này chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2./ Giáo dục dân tộc tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa cùng những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
3./ Giáo dục khai phóng không nhất thiết phải bảo thủ tinh thần dân tộc, nhưng phải biết mở rộng cửa hầu tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ, tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ ba nguyên tắc căn bản đó, Tổng thống Ngô Đình Diệm đề ra những phương hướng chính cho nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa nhằm đạt mục tiêu: Sau khi được giáo dục, những bạn trẻ nước Việt sẽ nên Công Dân như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại? Đó là :
a./ Phát triển toàn diện cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị từng học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện từng cá nhân theo bản tính tự nhiên mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
b/. Phát triển tinh thần quốc gia nơi học sinh, được thực hiện bằng giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống và lối sống của người dân; giúp hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu nước mình, phát huy tinh thần đoàn kết, tranh đấu chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học tiếng Việt và sử dụng tiếng này một cách có hiệu quả; giúp nhận biết nét đẹp của quê hương, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp người trẻ có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
c./ Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học bằng giúp học sinh tổ chức các nhóm làm việc độc lập, qua đó, phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp họ có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
Những kỷ niệm bản thân.
a.) Cá nhân chúng tôi được theo học tiểu học tại trường công lập, dù vào thời Pháp thuộc, nhưng chắc chắn được đãi ngộ hơn thời cộng sản chỉ biết ‘thủ tục đầu tiên’. Các Thủ tướng đều là những trí thức biết cung cấp cho đồng bào một chương trình giáo dục gần như tại mẫu quốc vì họ cần đào tạo các công chức và những nhà chuyên môn. Thầy và cô giáo là những nhà mô phạm đáng kính vì có khả năng, chứ không do ô dù đảng. Sinh hoạt kinh tế không quá đắc đỏ, nên lương bổng bảo đảm đời sống đầy đủ. Trước Tết Nguyên đán, mẹ chúng tôi làm ít mứt bí và gừng để mừng tuổi các Thầy và Cô giáo.
b.) Khi chúng tôi bước vào trung học, đúng lúc Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa dành lại Độc lập (chủ quyền, tài chính…) cho Việt Nam và Quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, nhưng vì trường công cấp này chưa nhiều nên phải thi tuyển. Biết khả năng của con, song thân đã tín nhiệm tư thục Lasan Taberd cho chúng tôi vào học. Trường này được phụ trách bởi các Tu sĩ Dòng Lasan, do Thánh Linh mục Gioan Tiền hô de la Salle thành lập, hiện diện trên Quê hương từ năm 1866. Sứ vụ Giáo Hội Công Giáo trao cho các Sư huynh, vừa là Thầy và là Anh đối với giới trẻ đàn em. Để ‘Phát triển tinh thần quốc gia nơi học sinh’ việc chào Quốc kỳ màu vàng được lưu truyền từ Trưng Trắc và Trưng Nhị đánh thắng Tô Định chạy về Tàu. Mỗi thứ hai, Quốc Ca cũng được trổi lên cùng lúc Cờ Việt được kéo lên. Sau đó, Sư huynh Hiệu trưởng có đôi lời với các thầy và học sinh và tuyên đọc danh sách các trò đến trể tuần qua : kỹ luật nghiêm nhặt để kết quả ‘tiên học lễ, hậu học văn’ đạt được kết quả mỹ mãn trong các kỳ thi theo chương trình Pháp lẫn Việt. Sau giờ học, thầy trò gặp nhau trong các cuộc tranh tài thể thao. Trường Taberd đã cung cấp cho Bóng bàn Việt Nam những cây vợt đẳng cấp thế giới : Lê Văn Tiết (vô địch quốc tế Pháp 1959) và với Mai Văn Hòa, Trần Cảnh Được và Trần Văn Liễu, Việt Nam Cộng hòa đoạt vô địch toàn đội Á châu năm 1958 và huy chương đồng vô địch quốc tế 1959… Hàng năm, sáng sớm ngày áp lễ Chúa giáng sinh, cựu học sinh Ngô Đình Diệm đến hiệp dâng Thánh Lễ và thăm Thầy cũ cùng trò chuyện với học sinh nội trú.
Đến ngày 30.04.1975, Giáo Hội Công Giáo điều hành 226 trường trung học và 1.030 trường tiểu học, với các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd và các trường Lasan khác tại Thủ đức, Đà lạt, Mỹ tho, Nha trang, v.v.. (dành cho nam sinh); Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới), Saint Paul, Thiên Phước (dành cho nữ sinh) bị nhà nước Cộng sản đóng cửa và ‘mượn’ trường ốc.
II. GIÁO DỤC CỘNG SẢN.
Theo Wikipedia, Giáo dục Việt Nam hiện nay chưa có lời phát biểu rõ ràng và chính thức về triết lý giáo dục của mình. Có người cho rằng Việt Nam cần thiết phải có một triết lý giáo dục phù hợp với nhu cầu đổi mới và hội nhập’. Tháng 9/ 2007, Học viện Quản lý Giáo dục Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội thảo ‘Triết lý giáo dục Việt Nam’, nhưng các đại biểu cho rằng nền giáo dục Việt Nam từ trong truyền thống và hiện đại đều có triết lý giáo dục, thể hiện qua những câu như: ‘Không thầy đố mày làm nên’; ‘Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu mến thầy’; ‘Học thầy không tày học bạn’; ‘Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người’; v.v..
Điểm báo liên quan.
Lang thang trên xa lộ thông tin, chúng tôi đọc được mẫu tin sau : Trong đời đi dạy 17 năm, tôi sợ nhất ngày 20-11. Ngày ấy, tôi thường trốn phụ huynh và rất sợ những tấm thiệp mà kèm trong đó là một, hai trăm ngàn đồng. Cách đây 7 năm, lúc ‘văn hóa phong bì’ bắt đầu trong mối quan hệ giữa phụ huynh và thầy cô giáo, học trò nào cũng mang tặng tôi một tấm thiệp được ba mẹ dán cẩn thận, tôi đã phải bất đắc dĩ mở từng tấm thiệp, đọc lời chúc, còn tiền để lại phong bì, nhờ các em mang về đưa bố mẹ, tôi đã gọi điện để giải thích từng phụ huynh. Có những phụ huynh dè bĩu: đã nghèo lại còn bày đặt! Nhưng cũng có em học sinh đã khóc khi thấy tôi làm vậy. Tôi đã ôm em để sau này em sẽ hiểu hơn! Các giáo viên đều mong muốn là sự thành thật, là cách cư xử của các em, chứ không phải những phong bì kia! Nghèo, chúng tôi cũng đã nghèo rồi, có thêm từng đó cũng chẳng giàu! Chỉ mong phụ huynh hãy cùng chúng tôi dạy dỗ các em trong bối cảnh xã hội có rất nhiều điều khiến các em xao nhãng việc học! Đó là món quà lớn nhất đối với chúng tôi!
Để tiếp nối truyền thống sư phạm Công Giáo, các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp phụ trách Trường tư thục mẫu giáo Duy An – Gò Vấp thông báo: « Chân thành cám ơn quý Phụ huynh đã tín nhiệm gởi các cháu đến học… Dịp 20/11 này, nhà trường xin không nhận tất cả các loại quà, dù là bất cứ hình thức nào’. Đây là một hành động can đảm từ chối văn hóa phong bì, được bôi trơn bởi biếu xén và ‘hoa hồng’… ». Giáo Hội Công Giáo cần được góp phần chuyên môn của các nhà sư phạm Công Giáo vào nền Giáo dục Việt Nam các cấp để phù hợp với lời mời thực hiện của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II trao cho các Giám mục Việt Nam ngày 22.01.2002 : « Nhà nước và Giáo Hội, tuy độc lập với nhau và tự trị trong lãnh vực chuyên biệt của mình, nhưng vì cùng cần phải hoàn tất sứ mạng riêng biệt để phục vụ cùng một tập thể đồng bào Việt Nam, sự phục vụ sẽ càng hữu hiệu hơn nhờ ‘Sự Hợp tác lành mạnh’ hầu tạo sự phát triển từng cá nhân và xây dựng một xã hội công bằng, đoàn kết và bình đẳng ». Để hoàn thành sứ vụ phục vụ các trẻ em ở cấp mẫu giáo, các nữ tu phải vượt biên giới để khẩn cầu các ân nhân ngoại quốc trợ giúp tài chính để xây dựng trường ốc hay tân trang sau hàng chục năm sử dụng.
Sự thật, Việt Nam không xứng danh một quốc gia xã hội chủ nghĩa mà chỉ là một nước cộng sản, trong đó, cộng đảng hoang phí và tóm thu tài nguyên đất nước. Tại các quốc gia xã hội thật sự, chính phủ, bằng biện pháp thuế khóa, kêu gọi người dân có thu nhập cao đóng góp vào ngân sách để giúp đở người nghèo hơn. Ở các nước xã hội Âu châu, cha mẹ bị cưỡng bách phải để con cái đi học đến 16 tuổi và đó là một quyết định chánh trị, nên ngân sách quốc gia phải đài thọ mọi chi phí trường ốc, lương giáo viên và công chức, … Phụ huynh học sinh không phải đóng học phí. Ngoài ra, vì tôn trọng tự do của các cha mẹ muốn chọn cho con theo học tại trường tư thục và vì họ cũng đã đóng thuế, nên ngân sách quốc gia phải trợ cấp cho các trường tư. Học bổng quốc gia được cấp cùng tiêu chuẩn không phân học sinh trường công hay tư.
Một vấn đề khác, đảng cộng sản đã chỉ thuê những thầy cô giáo ‘hồng hơn chuyên’. Trong đó, có giáo sư chưa hề một phút nếm tự do tại Việt Nam Cộng hòa lại sang Hoa kỳ đòi viết nghiên cứu về người ‘Việt tị nạn’, làm sao để hiểu thấu tâm trạng người đã mất tự do đó và phải ly hương. Đó chỉ việc tư bản Mỹ liệng ra một số đô la cho kẻ muốn gây tranh cải giữa người Việt với nhau vì một sự kiện vô lý.
Hành động hữu lý và cao cả của giới sư phạm ‘đỏ’ là phải lên tiếng về trường hợp sinh viên Nguyễn Phương Uyên và chống lại quyết định vô nhân đạo do Hiệu trưởng Đặng Vũ Ngoạn, Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ chí Minh ký ngày 29.11.2013, buộc Phương Uyên thôi học vì cô đã vi phạm pháp luật. Hành vi này có thể trái luật vì, theo Luật hình sự, sau khi ra tù, việc đình chỉ đảm nhiệm chức vụ chỉ có thể từ 1 đến 5 năm, trong khi quyết định này có tính cách vĩnh viễn. Hơn thế nữa, điều 65, khoản 3 Luật thi hành án hình sự quy định ‘Người được hưởng án treo được cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp tiếp nhận học tập thì được hưởng quyền lợi theo quy chế của cơ sở đó’ù. Do đó, Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nói với chị Thanh Trúc (đài RFA ngày 07.12.2013) : « Té ra Việt Nam ngày nay trong việc tôn trọng quyền học tập của con người, không khá hơn chế độ Apartheid và cũng không bằng chế độ mà người ta vẫn thường cho là ngụy quyền! ». Ngày nay, sau sự kiện ‘giàn khoan dầu HD 981 mà Trung quốc đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam’, hai câu mà Phương Uyên viết bằng máu mà nhà nước cộng sản buộc tội ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’ đã là những lời tiên tri phải được thực thi nếu người Việt muốn ‘Sống trên Quê hương mang tên Việt Nam’.
Tại Pháp, ngày 04.10.1994, Florence Rey, 19 tuổi, sinh viên văn khoa, và người yêu Andry Maupin, 22 tuổi, sinh viên triết, đã cướp súng của cảnh sát để đi ăn cướp. Với súng cướp được, họ chận một tắc xi, có chở một khách, buộc phải chạy theo lệnh họ. Tài xế cố tình đụng xe tuần cảnh và hét ‘chúng giết chúng tôi’. Maupin nổ súng bắn chết ba cảnh sát và người tài xế. Hai người qua đường bị thương. Chúng bắt làm con tin một tài xế xe du lịch để chạy trốn vào khu Bois de Vincennes. Một cảnh sát chạy mô tô đuổi theo, bị chặn bởi rào cản, Maupin nổ súng bắn chết cảnh sát này. Maupin bị thương và chết hôm sau tại bệnh viện. Trong vòng 25 phút chạm súng, 5 người chết và Florence Rey đã nạp mình, sau khi hôn từ biệt tình nhân. Tại Phiên tòa Đại hình Paris từ ngày 17 đến 30.09.1998, thời gian cần thiết để các bên có dịp nói hết ý muốn và các thẩm vấn từ Chánh án và Công tố viên. Các chuyên viên tâm lý và nhân chứng trình bày nhận xét của mình cũng như các luật sư tự do bào chữa, tranh luận. Sau 5 giờ 30 phút nghị án, Tòa tuyên án 20 năm tù cấm cố cho Florence vì là đồng phạm giết người nhưng được giảm khinh do bị áp lực tình yêu mù oán. Trong khi thụ án, Florence đã học và dự thi thành công brevet de technicien supérieur (BTS, văn bằng chuyên môn 2 năm sau Tú tài) Phụ tá quản lý năm 2007. Để hoàn tất học trình, cô được phép rời nhà tù để thực tập tại xí nghiệp. Nhờ có hạnh kiểm tốt, năm 2009, tức 15 năm thi hành án, Florence Rey được trả tự do.
Xin nhắc lại một trong những lý do thành lập ngày này là để ‘các thế hệ học trò bày tỏ lòng biết ơn với những người thầy’. Trong bài ‘Hồi ức và suy niệm về chuyện thầy trò’ http://www.boxitvn.net/bai/30818 , nhà giáo Tiêu Dao Bảo Cự, đang bị quản chế, cảm thấy cô đơn ghê gớm vì bị cô lập khỏi xã hội, không ai dám quan hệ và, ngay thời kỳ bị thực dân nước ngoài xâm lược, người cộng sản đã làm được việc hô hào nhân dân nổi dậy nhưng nay, dưới sự cai trị của họ, bạo lực bộ máy đàn áp thực kinh khủng, gây nỗi sợ hãi nơi toàn bộ xã hội mà người dân muốn thoát thì xem ra khó khăn gấp bội. Sáng ngày Nhà giáo, Đan Tâm đi đến trường dự lễ : Trường và Hội phụ huynh học sinh cho mỗi giáo viên nữ một bộ quần áo dài nhưng phải may đồng phục với vải màu xanh, khi mặc vào, trông như những cây biết đi… Tối qua, một phụ huynh chở hai con đến thăm Đan Tâm và tuôn ra một tràng những lời sáo rỗng, trao phong bì và xin kiếu đi đến giáo viên khác. Bà từ chối phong bì nhưng thày đã để lại. Trong bao, có 20.000 đồng… Gần đây, ông gặp một học sinh cũ ở chợ huyện. Đã gần 40 tuổi, gầy gò, quần áo bẩn thỉu, ngồi ở bậc thềm chợ, em đã chào ông và cả hai nói chuyện với nhau chừng 10 phút, em đã nói ngay với ông, giọng đầy trách móc: « Ngày xưa thầy đã lầm khi kêu gọi đấu tranh lật đổ chế độ cũ và tụi em cũng làm theo. Bây giờ thầy có nhận ra điều đó và có hối tiếc không? » Ông hơi sững người trước câu hỏi bất ngờ đó và vì đang đứng trước chợ, tôi lại có chuyện vội nên không tiện lý giải vấn đề mà chỉ trả lời qua loa, hẹn sẽ gặp em vào dịp khác để nói chuyện. Cho đến bây giờ thầy vẫn chưa có dịp gặp lại người học trò cũ đó, cũng chưa nhớ ra tên em và hỏi em đang làm gì nhưng, qua bề ngoài, chắc em sống rất khó khăn, nghèo khổ. Thày thật sự xúc động vì biết đã từng có những học sinh tin tưởng mình đến thế và thấy trách nhiệm của mình thật quá nặng nề.
Hà Minh Thảo
Nên thánh
VRNs (25.11.2014) – Sài Gòn
Chúa đã dạy: “Hãy trở nên hoàn thiện
Giống như Cha, Đấng ngự ở trên trời” (*)
Chúa bảo con phải nên thánh đấy thôi
Không nên thánh, nghĩa là phụ lòng Chúa
Đường nên thánh không có hoa thắm nở
Đầy trắc trở, gập ghềnh và chông gai
Chuyện nên thánh không ở thời tương lai
Mà là chuyện hằng ngày, thời hiện tại
Với Thiên Chúa, người khôn là kẻ dại
Còn kẻ dại lại chính là người khôn
Đích nên thánh không xa mà rất gần
Là bỏ mình từ những điều rất nhỏ
Vác thập giá đôi khi cũng té ngã
Cứ ngã rồi lại cố gắng đứng lên
Chẳng hề có thập giá nào dịu êm
Nên người vác sẽ chịu nhiều bầm giập
Tài sản quý của con người nhiều thật
Tính ích kỷ, thói kiêu ngạo, giả hình
Thích người giàu, ai nghèo hèn thì khinh
Đâu ai muốn bán hết tài sản đó
Không bán hết thì đừng mong theo Chúa
Không theo Chúa thì chẳng nên thánh đâu
Vác thập giá phải trước cũng như sau
Không nên thánh nếu “bán đồ nhi phế”
Muốn nên thánh ắt phải chịu đau khổ
Đau thân xác và khổ cả tinh thần
Vác thập giá mà tà tà, an nhàn
Chắc chắn rằng không thể nên thánh được
Lạy Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót
Xin giúp con bán hết cả cuộc đời
Không giữ lại điều gì, dù nhỏ nhoi
Vì con muốn theo Ngài để nên thánh
TRẦM THIÊN THU
‘Tôi sợ sự giả dối truyền đến đời con cháu’
Duy Chiến thực hiện
“Hậu quả của lối làm ăn chụp giật, giả dối này ghê gớm lắm. Tôi sợ nhất là nó truyền đời đến con cháu”, nguyên Chủ tịch An Giang, ông Nguyễn Minh Nhị chia sẻ.
LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Minh Nhị, tên thường gọi là Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang.

Ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch An Giang. Ảnh: Duy Chiến
Mở đầu những trăn trở về nông nghiệp và người nông dân VN, ông Bảy Nhị chia sẻ câu chuyện thăng trầm của cá ba sa – loài cá được dựng tượng đài tại Châu Đốc – An Giang vì tầm quan trọng của nó.
Làm ăn kiểu “tình chị duyên em”
Sau khi thịt cá ba sa phi lê tìm được đường xuất khẩu vào thị trường Mỹ đầu những năm 1990, trải qua quá trình nghiên cứu, khảo sát vất vả, ông Nhị và các đồng nghiệp đã thành công trong việc cho loài cá này sinh sản nhân tạo. Một thời cơ vàng dường như mở ra khi chúng ta chủ động được nguồn giống và nhu cầu thị trường lúc đó đang rất lớn.
Vậy nhưng…
Ông Nguyễn Minh Nhị: Tôi còn nhớ có lúc cao điểm giá cá ba sa xuất khẩu lên đến 8 USD/kg! Các bè cá mới mọc san sát trên sông Hậu. Các nhà máy, cơ sở chế biến tấp nập ra đời.
Lúc ấy tôi cũng lo là để phát triển tự phát sẽ chèn ép lẫn nhau, cạnh tranh sẽ không đảm bảo chất lượng, có sự gian dối nên đề nghị Nhà nước phải quản lý, nhất là khâu giống. Nhưng không ai nghe cả. Họ nói: “Thị trường là tự do! Nhà nước không nên can thiệp”.
Khi nhu cầu cá ba sa tăng nhanh thì khách hàng ở Mỹ, mấy ông Việt kiều gợi ý đưa cá tra vào nuôi đội lốt cá ba sa kiếm lời khủng. Cá tra dễ nuôi, năng suất cao, trong khi cá ba sa rất ‘trưởng giả”, khó tính. Cũng nên biết rằng, trên thế giới này chỉ có Việt Nam nuôi cá ba sa thương phẩm thành công.
Vậy là bất chấp tất cả, có quy hoạch hay không, bất kể đất lúa màu mỡ, rất nhiều người cứ thế đào ao nuôi cá tra rồi quy hoạch sau. Phong trào rộ lên từ tỉnh đầu nguồn, lan ra khắp ĐBSCL, rồi đến lượt các nhà máy chế biến cũng bị hút vào cuộc, thi nhau vay vốn đầu tư.
Từ sau năm 2000, sản lượng nuôi tăng vọt, số nhà máy chế biến cũng tăng theo. Từ đó cung vượt cầu, sinh ra cạnh tranh kiểu “tự hủy diệt”. Cứ sau mỗi kỳ hội chợ thủy sản ở Boston (Mỹ), Brussels (Bỉ) hay ở Việt Nam là giá cá lại sụt, vì các DN đến hội chợ chủ yếu “đi đêm” chào giá thấp.
Khi dự hội nghị Chính phủ tại Hà Nội, tôi từng phát biểu tình hình này với tâm trạng rất bức xúc. Bức xúc nhất là việc gian lận đánh tráo cá tra vào, mà tôi gọi là “Tình chị duyên em”, khiến cá ba sa không còn mấy người nuôi. Hành vi này làm mất uy tín Việt Nam trên thương trường, vừa làm cạn kiệt một giống loài là nguồn thực phẩm quí hiếm mà thiên nhiên ban tặng.
Bây giờ ngay tại An Giang, quê hương của cá ba sa mà cá ba sa cũng chẳng còn. Tôi đi tiếp khách vào nhà hàng thấy thực đơn có món cá ba sa, bèn gọi. Dù đã hỏi, căn dặn nhà hàng mấy lượt là phải đúng cá ba sa, họ dạ dạ vâng vâng nhưng đưa lên toàn cá tra! Tôi giận quá, truy hỏi tại sao, họ trả lời: “Dạ, bây giờ không còn ai nuôi cá ba sa nữa. Bác thông cảm!”. Chết không?
Con cá ba sa trời ban tặng cho miền sông Hậu đã đi vào truyện cổ tích mất rồi. Tôi đang viết lại câu chuyện này để con cháu mai sau còn nhớ trên quê hương mình có giống cá “độc nhất vô nhị” mà không giữ được!
Thưa ông, thời ông làm Chủ tịch UBND tỉnh, An Giang xây tượng cá ba sa, bông lúa – hai biểu tượng kinh tế nông nghiệp của An Giang. Nay cá ba sa đã “đi vào cổ tích”, ông có lo cây lúa cũng theo bước?

Tượng đài cá Basa tại Châu Đốc. Ảnh: Bazantravel
Ông Nguyễn Minh Nhị: Có chuyện này tôi mới nghe mà hết hồn hết vía! Nhiều hộ nông dân đang áp dụng kiểu ăn gian, ngày mốt cắt thì bữa nay xả nước vào ruộng, phun thuốc vào. Hôm sau xả nước ra để ngày mai cắt lúa. Kiểu gian dối này cho thêm khoảng 1 tấn/ha.
Tôi điện hỏi mấy anh em DN có biết không? Họ trả lời biết rồi, nhưng không sao vì họ có máy móc thiết bị đo độ ẩm, dễ gì ăn gian được. Chết là mấy ông hàng xáo đi thu mua, nhưng họ cũng chỉ một lần bị mắc lừa nông dân thôi.
Người ta nói “điếm vườn sao bằng điếm chợ”, nông dân mình cứ tưởng làm vậy là khôn, có cái lợi trước mắt. Nhưng chính họ sẽ bị trả giá nhiều nhất, không chỉ bị thương lái biết rồi ép trở lại, mà họ không thấy rằng uy tín của hạt gạo không có thì họ cũng bị thiệt nhất.
Làm ăn không nhìn xa thấy rộng, chỉ thấy lợi trước mắt, bất chấp thiệt hại lớn gấp nhiều lần sau đó. Nuôi cá cũng vậy, trồng lúa cũng vậy, rất chụp giật…
Đừng trách người nông dân
Thưa ông, tại sao tầng lớp nông dân luôn được xem là thật thà, chất phác mà lại có những trò gian dối như vậy? Không chỉ có trong nuôi cá và trồng lúa, họ sẵn sàng phun thuốc trừ sâu vào rau để sáng mai thu hoạch bán, bất chấp sức khỏe của người tiêu dùng?
Ông Nguyễn Minh Nhị: Nông dân mình có nhiều cái tệ, nhưng không trách họ được, và cũng không nên trách. Họ không có điều kiện để hiểu biết hết nên thấy cái gì có lợi là làm, hứng lên là làm. Có ai chỉ [cho] họ làm cái gì cho có hiệu quả đâu? Họ phải tự mày mò, tự mưu sinh, làm ra sản phẩm may thì bán được, không may thì lãnh đủ nợ nần!
Họ không có tổ chức, không có ai hướng dẫn họ làm cái gì, không nên làm cái gì, làm ra bán ở đâu. Họ phải tự mưu sinh bằng những cách làm hại chính cả họ. Và, cuối cùng họ vẫn là người chịu thiệt thòi nhất. Theo tôi biết, ở các nước, nông dân được quan tâm, được tổ chức rất tốt chứ không bỏ mặc như nông dân ở ta đâu.
Theo ông, nguyên nhân những khiếm khuyết đó của nông dân ta, mà trầm kha nhất là chụp giật, tầm nhìn ngắn, tự đục vào chân mình là gì?
Ông Nguyễn Minh Nhị: Ngày xưa, nông dân ta luôn được đánh giá là lương thiện, đạo đức, cần cù. Còn ngày nay, họ cũng bị ảnh hưởng rất nhiều thói xấu. Tất cả bắt nguồn từ sự chụp giật, tranh thủ tối đa, bất kể hậu quả. Căn bệnh này đã lây lan rộng chứ không chỉ nông dân. Nhưng với nông dân thì quả thật đau lòng, vì họ lẽ ra phải là thành trì của đạo đức, của sự lương thiện, chất phác phải không?
Theo tôi, chúng ta phải nhìn sâu xa vào những nguyên nhân từ trong chính sách. Bản chất của nông dân là gắn với đất đai, cả ngàn đời nay là vậy. Nông dân là đất, đất là nông dân.
Khi đất không phải của nông dân mà chỉ được sử dụng có thời hạn thì họ chẳng còn gắn bó máu thịt với đất đai như xưa.
Không còn gắn bó thì cũng không còn gìn giữ, bồi đắp vào cho đất, vì ngày mai có còn là của mình nữa đâu! Nhiều cái xấu ra đời từ đây, chính vì không gắn bó với đất, không nặng lòng với đất mà lương tâm, tình làng nghĩa xóm, tình quê hương bị tha hóa, sẵn sàng đánh đổi vì những lợi ích ngắn hạn.
Tôi còn nhớ hồi mới giải phóng, ta thực hiện chính sách “nhường cơm sẻ áo” giống như ở miền Bắc trước đây. Hồi ấy, những người có nhiều ruộng đất trong Nam là do họ cần cù, siêng năng, chịu khó mà có nên nặng lòng với đất. Tôi nhớ như in nhiều nông dân nghèo được Nhà nước chia lại ruộng của những người này, đã không nhận. Họ nói: “Người ta làm sáng tối, không biết nghỉ mới có nhiều đất. Mình lấy không của người ta coi sao được!”.
Tôi báo cáo việc này lên Tỉnh ủy, ông Bí thư lúc ấy kết luận: “Nếu không nhận đất thì không phải là nông dân, thì không cho nữa!”. Đơn giản thế thôi. Lúc ấy chúng ta không lường được hậu quả tai hại như ngày nay đang chứng kiến.
Người nông dân vốn dĩ là tốt, đã chuyển hóa và tha hóa từ đó. Lúc đầu thấy nhận đất của người khác, tức mồ hôi và nước mắt của người khác là “kỳ lắm”, “coi không được”, quyết không nhận! Nay thì khác rồi. Hai đám ruộng của hai nhà liền ranh còn lấn nhau từng chút huống chi những chuyện khác có nhiều lợi ích hơn. Cái gì lợi cho mình thì dẫu có hại cho người khác cũng làm.
Cái tình của người nông dân với đất phôi phai đi cũng làm cho cái tình với quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn không còn thiêng liêng như xưa. Những giềng mối gìn giữ đạo đức, lương tri, nhân bản chân chất nhất cũng từ đấy mà sút sổ, long ra.

Làng bè cá Châu Đốc
“Nói một đàng làm một ngả” nhiều quá
Từng giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, về hưu trở lại làm nông dân trồng lúa và nuôi cá, ông nhìn nhận các chủ trương, chính sách và công tác quản lý nhà nước với nông nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Nhị: Tình trạng chung nhất là “Nói một đàng làm một ngả” nhiều quá. Có muôn thứ chuyện chứng minh cho điều này.
Chẳng hạn chuyện vận động nông dân làm ra nhiều lúa gạo rồi bán không được, mặc cho họ bị thua lỗ. Xui nông dân nuôi con nọ, trồng thứ cây kia rồi bỏ chạy mất, không biết bán cho ai. Lẽ ra, bảo nông dân trồng lúa thì phải có công ty mua số lúa làm ra chứ. Có bên quăng thì phải có bên hứng, phải tổ chức cho khớp nhau thì nói và làm mới đi đôi chứ?
Gần đây tôi nghe Bộ NN-PTNT triển khai kế hoạch chuyển 200.000 ha đất lúa kém hiệu quả chuyển sang trồng bắp, đậu nành và màu. Tôi thấy băn khoăn không hiểu trồng những thứ đó rồi nông dân bán cho ai hay lại đẩy họ vào chỗ khó như các chương trình chăn nuôi bò trước kia?
Thưa ông, theo tôi biết hàng năm Chính phủ vẫn cho thu mua tạm trữ, giảm áp lực tiêu thụ lúa cho nông dân mà?
Ông Nguyễn Minh Nhị: Chuyện này tôi quá hiểu! Khi lúa chín rộ, các công ty lương thực sàng bên này, lách bên kia để chậm triển khai. Bởi giá lúa càng thấp thì họ càng có lợi. Đến khi triển khai cũng đâu có làm đúng như tinh thần chỉ đạo. Nông dân gần như chẳng được gì.
Tôi có ông bạn cùng quê xứ Tịnh Biên làm công tác thu mua lúa. Tôi đến mấy trạm thu mua của ông ấy kiểm tra, thấy có hai giá mua, cao và thấp khác nhau. Giá rẻ để ngoài là giá mua thật cho nông dân, còn giá cao cất bên trong, khi có đoàn kiểm tra đến thì trưng ra! Bữa tôi bất ngờ đến, họ thay không kịp, tôi hỏi sao làm ăn vậy. Họ trả lời: “Giá cao là giá Nhà nước quy định. Còn giá thấp là giá thu mua theo… thị trường!”. Bất nhẫn vậy đấy. Nhà nước cho vay không lãi để thu mua song thực chất họ mua vẫn ép nông dân chứ có nương gì đâu!
Tôi cũng nhiều lần đi ký hợp đồng xuất khẩu gạo với anh em. Ký xong về giá lúa lên là… bẻ chĩa ngay!
Hậu quả của lối làm ăn chụp giật, giả dối này ghê gớm lắm. Tôi sợ nhất là nó truyền đời đến con cháu sau này thành một xã hội giả dối. Thế hệ chúng tôi dù sao cũng được “chích ngừa”, còn phản kháng lại được.
Còn thế hệ sau thì sao? Lo lắm!
D.C.
(Còn tiếp)
Nguồn:http://m.vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/198130/-toi-so-su-gia-doi-truyen-den-doi-con-chau-.html#
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-11-23
11232014-pettitio-n-hanoi-face.mp3

Bà con dân oan Dương Nội bị ngăn cản khi đến Bảo tàng Lịch sử quốc gia, phố 25 phố Tôn Đản, Hà Nội để xem triển lãm Cải cách ruộng đất.
Photo:FB Trịnh Bá Phương & Bạch Hồng Quyền
Người khiếu kiện khắp mọi tỉnh thành phải về đến tận các cơ quan trung ương của chính phủ và đảng ở Hà Nội để yêu cầu giải quyết cho trường hợp bị cho là oan ức của họ.
Do không được giải quyết thỏa đáng nên họ phải bám trụ tại thủ đô. Tuy nhiên cứ vào những dịp quan trọng như lễ lạc, quốc hội họp …, họ bị xua đổi, thậm chí đánh đập vì cho làm mất mỹ quan của thủ đô Hà Nội.
Gia Minh trình bày tình trạng của họ trong những ngày diễn ra kỳ họp thứ 8, quốc hội khóa 13 hiện nay.
Xua đuổi, đánh đập
Từ ngày 20 tháng 10 vừa qua, khi quốc hội bắt đầu khai mạc khóa họp thường kỳ thứ hai trong năm, những người dân oan có mặt tại Hà Nội lại phải chịu cảnh dồn ép đưa đi hay bị đánh đập.
Chị Nguyễn thị Thúy, một dân oan từ Đồng Linh Hải Phòng cho biết diễn biến một vụ càn quét dân oan trong những ngày cuối tháng 10 như sau:
Dân oan đi khiếu kiện lên Hà Nội này hầu như ai cũng bị bắt bớ, trong đó có tôi. Chúng tôi chỉ bị bắt đưa về Ngô thì Nhậm thôi chứ có anh Trần Văn Thông, đoàn Tây Ninh bị đánh đến trọng thương luôn. Anh này bị đưa về đồn Công an Quang Trung và bị đánh trọng thương. Hầu như ai trong đợt này cũng bị đánh do côn đồ.
Hôm ngày 22 khi chúng tôi ở chợ Phủ chủ tịch giăng biểu ngữ cũng đã bị công an ra giật khẩu hiệu và dùng lời lẽ nói “cho côn đồ đánh chết những bà khiếu kiện này đi’. Gia đình tôi có 6 người lớn và 4 trẻ nhỏ cũng bị ra giằng giật, cướp mày rồi cũng bị đánh đập. Lúc đó chúng tôi xác định đi ở cổng Phủ chủ tịch mà họ đối xử với dân oan bằng cách đánh thì mình phải tự vệ.

Hình ảnh trấn áp dân ngay tại Hà Nội
” Hôm ngày 22 khi chúng tôi ở chợ Phủ chủ tịch giăng biểu ngữ cũng đã bị công an ra giật khẩu hiệu và dùng lời lẽ nói “cho côn đồ đánh chết những bà khiếu kiện này đi’. Gia đình tôi có 6 người lớn và 4 trẻ nhỏ cũng bị ra giằng giật, cướp mày rồi cũng bị đánh đập
Chị Nguyễn thị Thúy”
Áo ‘phản cảm’
Do đơn thư không được ngó ngàng đến nên gần đây một số người dân viết lên áo mặc tóm tắt trường hợp khiếu kiện và yêu cầu của họ. Tuy nhiên khi vào các cơ quan công quyền, họ bị yêu cầu phải cởi bỏ những chiếc áo đó ra vì lý do được nói là phản cảm.
Một video clip được truyền tải trên mạng ghi lại cảnh một phụ nữ đến gặp các đại biểu quốc hội và bị yêu cầu cởi chiếc áo có ghi những nội dung khiếu kiện kêu oan với lý do phản cảm.
Nguyên nhân được nêu
Chị Phương Bích, một người dân Hà Nội, tham gia giúp đỡ những người dân oan cơ nhỡ, thiếu thốn, bệnh tật, lập luận cần phải tìm ra nguyên nhân khiến cho những người dân phải ‘dầm sương, giải nắng’, ngày này qua ngày khác đến tại các cơ quan công quyền trung ương để khiếu kiện như thế. Chị nói:
Xấu rồi, nhưng xấu do ai gây nên? Một thủ đô nói là hòa bình, dân chủ mà có những đoàn dân oan ‘mặc áo’ đi ròng rã hết ngày này qua ngày khác. Điều đó là rất xấu nhưng phải hỏi đó là gì và nguyên nhân gây ra cái đó là gì. Hỏi mà đã có câu trả lời rồi. Những phòng tiếp dân hay trụ sở tiếp dân của chính phủ hay quốc hội đi nữa chỉ là những nơi chuyển đơn mà họ không hề là những người giải quyết. Kể cả ông trưởng ban tiếp dân ở số 1 Ngô Thì Nhậm, quyền không ở trong tay ông ta. Khi tôi gặp ông ta tôi cũng nói thế: các ông không hề có quyền giải quyết.
Chị Nguyễn thị Thúy nói về cáo buộc cho rằng những người dân đi khiếu kiện làm xấu bộ mặt thủ đô như sau:
” Xấu rồi, nhưng xấu do ai gây nên? Một thủ đô nói là hòa bình, dân chủ mà có những đoàn dân oan ‘mặc áo’ đi ròng rã hết ngày này qua ngày khác. Điều đó là rất xấu nhưng phải hỏi đó là gì và nguyên nhân gây ra cái đó là gì
Chị Phương Bích”
Chúng tôi đi khiếu kiện là làm đúng chứ không làm xấu, đó là điều mà nhà cầm quyền vu khống cho chúng tôi. Đơn chúng tôi gửi thì đùn đẩy cho nhau không bao giờ nhận. Theo luật thì nếu không nhận, chúng tôi phải xuống đường biểu tình để cho họ nhận đơn. Chúng tôi đi đòi quyền lợi chính đáng của mình, chúng tôi là những người bị mất đất, mất nhà, bị đánh đập, bị đàn áp, mất quyền sống, quyền làm người. Chúng tôi sống không bằng chết nên chúng tôi đi đòi quyền của mình. Họ chuyên vu khống, ‘cỗ máy’ của họ đàn áp, nạt nộ dân chứ không bao giờ thấy được nỗi khổ của dân, họ đối xử với dân không bằng một con súc vật.

Ngày 8/10/2014, bà con dân oan Dương Nội cùng với người dân Văn Giang, Đồng Linh Hải Phòng và nhiều nơi khác trên cả nước đã biểu tình tại Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, số 46 Tràng Thi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
Ngoài cáo buộc cho rằng những người dân đi khiếu kiện, mặc áo dân oan như thế làm nhếch nhác thủ đô, một số quan chức vừa qua khi nói về việc khiếu kiện của người dân còn cho rằng những người khiếu kiện lâu năm ở Hà Nội bị những ‘thế lực xấu’ kích động. Ngoài ra còn do những người dân tại Hà Nội cho gạo, mỳ tôm … hằng tháng cho họ nên việc khiếu kiện tiếp tục được.
Bản thân những người khiếu kiện đều bác bỏ những cáo buộc như thế và họ nói rõ việc nhận sự giúp đỡ từ những người khác vì tình đồng loại mà chia sẽ không có gì sai trái; nhất là khi sự giúp đỡ dành cho những người nông dân mất hết công cụ sản xuất là đất đai, không còn phương kế sinh nhai nào khác.
” Tôi nói với bà con dân oan trước mặt công an, an ninh chụp ảnh như thế: bà con hãy cố lên chỉ có chế độ mới người ta mới giải quyết cho bà con thôi, mấy chục năm bà con ra đây rồi mà không ai giải quyết cho bà con cả!
Chị Phương Bich”
Bế tắc
Một người nông dân ở Thanh Oai, Hà Nội cho biết vụ việc lấy đất bất công ở xã người này đã được trình đến các cơ quan trung ương, nhưng rồi chính cán bộ tiếp dân cho thấy có sự bao che rõ ràng. Ông này cho biết:
Thực tế tôi thấy chính quyền (cấp dưới) có sự bưng bịt là do cấp trên. Tôi từng tham gia đi nộp đơn tại ngoài cơ quan trung ương chính phủ. Tôi nói với những người nhận đơn nếu không trực tiếp ‘ra tay’ thì đến lúc phía dân đổ máu mới nhận sao; chứ gạt bỏ và cách tiếp dân như thế này là bao che cho cấp dưới. Chính bà Nguyễn thị Nhiên, phó thanh tra chính phủ, khi dân ra kêu gào có gọi về chủ tịch huyện nhưng chủ tịch huyện không ra để đối chất, sau đó gọi thanh tra huyện lên, nhưng từ tháng tư đến nay vẫn chưa đi đến đâu, vẫn chưa trả lời dân.
Chị Phương Bich thì nói đến một giải pháp rốt ráo cho vấn đề khiếu kiện của nhiều dân oan khắp nơi tại Việt Nam như sau:
Tôi cảm thấy bất lực, tôi nói với những người khiếu kiện ở Hà Nội hãy cầm hơi để chờ đến ngày một chế độ mới; chứ như thế này thì không bao giờ giải quyết được. Tôi nói với bà con dân oan trước mặt công an, an ninh chụp ảnh như thế: bà con hãy cố lên chỉ có chế độ mới người ta mới giải quyết cho bà con thôi, mấy chục năm bà con ra đây rồi mà không ai giải quyết cho bà con cả!
Cách thức mà chị Phương Bích vừa nêu ra chắc hẳn sẽ bị cho là âm mưu lật độ chính quyền như nhiều người từng bị kết tội khi mà cho rằng cần phải thay đổi thể chế hiện nay vì không còn khả năng điều hành đất nước, mang lại cơm no- áo ấm, cuộc sống ổn định cho người dân.
Mùa xuân đến em lên đồi gọi gió
Trần Ngọc Mười Hai
VRNs (24.11.2014) – Úc Đại Lợi – Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ nhất Mùa Vọng năm B 16-11-2014
“Mùa xuân đến em lên đồi gọi gió,
Thả đam mê và buông những ưu phiền.”
(Nhạc: Anh Bằng/Thơ: Trần Mộng Tú – Gọi Anh Mùa Xuân)
(2 Cor 1: 3-5)
Ưu-phiền thật đấy, chí ít là khi cả anh lẫn em đều nghe truyện kể không lê thê ướt át, nhưng vẫn buồn. Buồn làm sao, khi người kể cứ kết vội câu chuyện ngăn ngắn bằng những tiếng, rất như sau:
“Một ông kể lại chuyện cãi nhau với vợ :
Vợ tôi hỏi: Trên TV có gì không anh?
Tôi trả lời: Có rất nhiều bụi bặm, chắc tại em quên lau.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Cuối tuần, vợ tôi muốn đi đến một nơi thật đắt tiền.
Tôi chở bả tới tiệm bán xăng.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Ngày mai sinh nhật bà xã tôi, tôi hỏi bả muốn gì? Bả nói bả muốn một cái gì láng cóng, đi từ 0 tới 200 trong vòng 3 giây. Tôi mua cho bả cái cân nhỏ để trong phòng tắm.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Vợ tôi khỏa thân đứng trước tấm gương ngắm nghía 5 phút rồi bảo tôi:
– Em thấy hình như em ốm đi và giảm cân một chút phải không anh?
Tôi nói: Chắc em cần phải đi bác sĩ mắt khám lại.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau
Vợ tôi khỏa thân đứng trước gương ngắm nghía 5 phút rồi lại bảo tôi:
– Sau hai mươi năm lấy nhau, em thấy mình già hơn, mập hơn và xấu hơn trước nhiều phải không anh? Em buồn quá, ơ anh nói gì đi chứ.
Tôi nói: Tuy vậy mắt em vẫn còn tốt như hai mươi năm về trước, 20/20.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Kỷ niệm hai mươi năm cưới nhau, tôi hỏi bả muốn đi đâu.
Bả nói: Em muốn đi đến một chỗ mà từ lâu em đã không đặt chân đến.
Tôi nói: Ủa em muốn vào trong bếp hả?
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Vợ tôi hỏi: Anh ơi cái quần xanh này có làm mông em to hơn không anh?
Tôi nói: Ừa, nhưng mà không to bằng cái quần trắng hôm qua.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Khi đi ngang qua tiệm Walmart, tôi mua 4 cái vỏ bánh xe hơi, vợ tôi
cằn nhằn: “Anh mua vỏ bánh xe làm gì, anh đâu có xe đâu”.
Tôi nói: Chứ hồi nãy em mua 4 cái xu – chiêng anh có cằn nhằn gì em đâu?
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Tôi nói: Sau ngày cưới em anh thành triệu phú.
Vợ tôi: Em hãnh diện quá. Có phải nhờ em anh thành công không?
Tôi nói: Trước khi cưới em anh là tỷ phú.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Vợ tôi: Ngày cưới em có phải là ngày vui nhất đời anh không?
Tôi nói: Không! Chỉ là ngày vui hạng nhì thôi.
Vợ tôi: Chứ ngày vui thứ nhất là ngày gì?
Tôi nói: Là cái ngày em về bên má em 3 tuần. Giời ơi ngày nào cũng xỉn.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau. Giận dỗi.
Trước ngày Tình nhân vợ tôi nói: “Đêm hôm qua, em nằm mơ thấy anh tặng em cái nhẫn hột soàn, thế nghĩa là gì hả anh?”
Ngày lễ Tình nhân tôi tặng nàng cuốn sách “Đoán điềm giải mộng”.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Tôi đăng báo bán: “Một quyển từ điển Bách Khoa Việt Nam, dày 3.000 trang còn mới giá rẻ hơn 200 nghìn đồng, lý do lấy vợ tháng vừa rồi không cần nữa, có vợ cái gì cô ấy cũng biết hết”
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Thói quen hoặc chủ-trương cãi vã/tranh-luận giữa hai vợ chồng hoặc hai bạn tình, là cvhuyện dài ở huyện.Chuyện dài ấy, còn kéo lê cả đến tư-thế sống giữa nhiều người như truyện kể ở bên dưới:
Tôi với vợ tôi vào phòng khám bệnh nha khoa.
– Bác sĩ nhổ răng tốn bao nhiêu tiền vậy?
– 100 USD
– Ồ! Đắt quá bớt được không?
– Nếu không dùng thuốc tê 80 USD.
– 80 USD vẫn đắt.
– Nếu nhổ bắng cái kìm bình thường để nhổ đinh thì 40 USD.
– Vẫn còn đắt.
– Ok 20 USD nhưng học trò tôi sẽ nhổ chứ không phải tôi.
– Được… được. Em, em mau mau ngồi xuống trước khi bác sĩ đổi ý.
Lần này hai vợ chồng uýnh nhau chứ không cãi nhau.
Tôi hỏi: Tối hôm qua em đi đâu, suốt đêm không về?
Vợ nói: Em ở bên nhà con Phượng – bạn thân em, đánh tứ sắc suốt đêm.
Tôi nói: Em học tính nói láo từ hồi nào vậy? Anh ở bên con Phượng suốt đêm có thấy em đâu?.
Lần này suýt chút nữa phải gọi xe cứu thương, con vợ gì đâu dữ dằn quá! (trích truyện kể do sưu-tầm-gia ký tên là St siêu tầm để cho vui)
Siêu-tầm hay sưu-tầm chuyện ngoài đời, giữa vợ chồng như thế nghe cứ như là chuyện thật và vẫn cứ là chuyện thật ở đời.
Siêu-tầm hay truy-tầm chuyện kể xảy ra ở nhà Đạo mình về một số đề-tài thần-học hay triết-lý tuy không có những câu kết ngăn ngắn như thế, nhưng vẫn có ý/lời được nói rõ rất như sau:
“Ngày 7 tháng Năm 2006, tuần báo The Catholic Weekly ở Sydney, trong mục giải đáp thắc mắc, Lm John Flader có trả lời một số câu hỏi do bạn đọc gửi đến những vấn nạn như: tại sao Đức Giêsu phải chết? Ngài chết có phải để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không? Phải chăng Ngài chết cách đặc-biệt như thế là để cứu ta khỏi mọi tội của gian trần? Ngài chết đi, hẳn cũng vì lý do chính-trị nào đó chứ? Phải chăng Ngài chết chỉ cốt để thách-thức giới cầm-quyền ở nhiều nơi mà thôi không? Chết như thế, là Ngài để lại cho ta một bài học khách quan và đơn giản? Phải chăng Ngài có chết, mới đem đến cho ta sự tha-thứ có từ Thiên-Chúa-là-Cha? Và đơn giản hơn, nội việc Ngài chết đi cũng đủ nói lên quan-điểm/lập-trường nào đó khiến mọi người đều quan-tâm? vv..
… Lm John Flader lại đã không trả lời các câu hỏi do người đọc đưa ra như một tổng-thể để bàn thảo, nhưng ông lại gộp chung các vấn-nạn trên thành thắc-mắc duy-nhất chỉ hỏi rằng: phải chăng Đức Giêsu chết đi là để cứu-chuộc loài người, tức Ngài đã đền bù tội lỗi của con người rồi? Câu trả lời là: Có! Lm John Flader vẫn cho rằng cụm-từ “cứu-chuộc” hoặc “cứu-rỗi”, “cứu độ” ngang bằng cụm từ “đền bù tội lỗi”, thế thôi. Mặt khác, ông cũng chẳng bình-giải hoặc định-nghĩa tự-vựng nào cho riêng rẽ, hết. Ông cho rằng, khi trả lời “có” với luận-điểm tuyệt-đối như thế mới phù-hợp với huấn-thị trước-sau-như-một của Kinh Sách và Thánh-truyền ở Đạo mình.
Nhưng sau đó, ông lại trưng-dẫn một số chương/đoạn rút từ Kinh Sách rồi gọi đó là nền-tảng của Giáo-hội. Có 6 đoạn Kinh Sách được ông trưng-dẫn cũng trong cùng mục-đích đó. Có đoạn tập-trung vào câu chuyện được bàn-thảo nhiều hơn chương/đoạn khác. Tuy nhiên, đoạn nào cũng bao gồm các tự-vựng như: cứu-chuộc, tội lỗi, thứ-tha, hoà-giải, chuộc tội. Làm thế, chỉ cốt trả-lời cho các thắc-mắc thông thường có liên-quan đến vấn-đề đặt ra. Nói cách khác, ông làm như thế cũng đủ để đáp-ứng và thực-hiện mục-tiêu đề ra trong một bài viết khá ngắn cho tuần báo đạo. Bởi, tất cả đều dẫn đến cao điểm là lời trích từ kinh Tin Kính có từ thời Công đồng Nixêa trong đó có câu nói được nhấn mạnh, là: “Vì loài người chúng tôi và để cứu-chuộc chúng tôi”.
Đã đành là, ngôn-từ đặt ra như thế từng thấy có trong văn-bản Kinh Sách và Thánh-truyền đã từ lâu. Tuy nhiên, bản dịch tiếng Anh đâu phải lúc nào cũng giống thế. Thông thường, thì tự-vựng được dùng có mục đích để chuyên chở tính-cách được diễn-tả ở tiếng Hy-Lạp là bản-văn gốc được sử-dụng ngay từ đầu, tức cho thấy rằng: khi tác-giả viết những điều như thế thành lời nói là cốt sử-dụng cho mục-đích viết ra, mà thôi. Tính-cách này được tiếp-tục suốt năm thập-niên qua hoặc còn xa hơn nữa, từ một nền văn-hoá khác với văn-hóa của chúng ta.
Ngôn-ngữ ta sử dụng, là để diễn-tả các tư-tưởng không có ở kinh-kệ và/hoặc Sách thánh được dịch sang tiếng Anh. Những lời như thế, tuyệt nhiên, không mang tính hời-hợt bên ngoài nhưng là hiểu theo cung-cách thần-học, chúng còn phong-phú hơn cụm-từ giản đơn, như: “cứu-chuộc”, “đền bù tội lỗi”. Thời xưa, các tự-vựng này nói lên thứ gì đó khác hẳn lời dịch mà ta thường dùng ở nhiều nơi. Truyền-thống Giáo-hội, chẳng bao giờ mang ý-nghĩa nào như mấy tự-vựng ở trên muốn chuyển-tải cả. Đúng hơn, làm thế như là để cho giới kinh-điển ta suy nghĩ thêm về niềm tin mình đang có…”
Trong lời giải-đáp thắc-mắc trên tờ The Catholic Weekly, Lm John Flader còn trích dẫn hai đoạn Kinh Sách trọng-yếu khác, đó là Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 20 câu 28 và đoạn 26 câu 28, đại ý nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Còn, đoạn sau ghi: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”.
Nói chung thì: ở hai trích-dẫn này, tác-giả Mát-thêu đều rút từ Tin Mừng do thánh Máccô viết trước, nhưng đã không thay-đổi điều gì, trong đó. Tự-vựng chính được thánh-sử ghi, lại đã biểu-hiện một cách chính-xác việc Chúa “ban-phát Tâm-Thân của Ngài như một đảm-bảo cho lời hứa với quần-chúng nói chung, chứ không riêng gì cho người Do thái, thôi.”
Hôm nay, chúng ta đã đi vào với ý-nghĩa chính của văn-bản trọng-yếu này. Điều này, muốn nói rằng Đức Giêsu đã chọn con đường đi vào với thứ chính-trị hoặc thứ nào đó không mang tính quyền-lực, cốt để ra khỏi cuộc chạy đua phù-phiếm vốn tạo nên mọi khó khăn và vi-phạm nơi con người để rồi tìm được ở nơi đó sự tự-do vượt khỏi mọi hình-thái của mọi quyền-lực, rất bức bách… (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-Chuộc và giòng tuy-tư cùng một chiều, www.thanhlinh.net ngày 1/5/2014)
Để ra một bên điều mà có thể sẽ có người cho rằng đây chỉ là một tranh-luận thần-học giữa hai đấng bậc nhà Đạo. Nhưng thực ra không phải thế, và hơn thế. Hơn thế, ở chỗ: là đấng-bậc dẫn dắt người thường về thần-học, cũng nên có động-thái thận-trọng sau khi đã học rộng hiểu nhiều hơn người khác.
Đó là ý-kiến của bậc thày thần-học kinh thánh hơn 40 năm sống ở Sydney, như sau:
“Ở cuối bài viết, Lm John Flader có đề-cập đến tự-vựng “chén máu” trong Tiệc Tạ Từ khi Chúa nói: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Lm John Flader trích câu này từ Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 26 câu 28. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, chỉ có mỗi thánh Mát-thêu là tác-giả duy-nhất sử-dụng thành-ngữ “muôn người được tha tội”, là ở đây…
Bài viết trên tuần báo nói ở trên, Lm John Flader lại tiếp tục khẳng-định rằng: nhờ vào giáo-huấn rút ra từ văn-bản như thế, Hội-thánh của ta luôn chủ-trương rằng: Con-Thiên-Chúa-làm-người đã cứu-chuộc ta bằng cái chết khổ nhục trên thập-tự. Và, công-cuộc cứu-chuộc của Ngài tựa hồ như con đường tắt-ngang đưa dẫn người bị mờ-mắt vào với ý-nghĩa của văn-bản. Và, văn-bản đây có thể cũng cùng một ý-nghĩa ra như thế. Nói thế, tức: muốn hiểu sao lại thế, thì có lẽ, ta cũng nên tạo một thế quân-bình bằng động-thái quay về với công-việc của Ủy-Ban Thần-Học Quốc-Tế là cơ-quan từng đăng-tải vấn-đề này.
Đấng bậc phụ-trách dẫn dắt công việc này, khi ấy, là Hồng Y Ratzinger. Và, chính Hồng Y Ratzinger -sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16- đã có thẩm-định riêng của ngài ngang qua tư-cách của nhà thần-học chính-mạch. Có thể là: ngôn-từ diễn-tả nơi câu viết: “Máu Giao Ước đổ ra cho muôn người được tha tội”, nếu không giải-thích cho rõ, có thể sẽ khiến ta có cảm-tưởng rằng: tự nơi thâm-tâm của những người từng nghĩ đến, thì văn-bản đây không cố ý diễn-tả chỉ chuyện ấy theo nghĩa đen, thôi.
Cuối cùng thì, linh mục John Flader lại kết-thúc bài viết của ông bằng hai đoạn trích rút từ sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo để dẫn-chứng cho điều ông biện-minh trước đó. Hai đoạn trích này đều nói về việc Đức Giêsu là Đấng Bậc ở trên cao đã “kiến-tạo” nên tội “tổ-tông” để rồi hậu-quả của tội này lại sẽ đổ lên đầu cộng-đồng nhân-loại. Thật ra thì, sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo cũng để ra hai đoạn viết riêng-rẽ, tách-bạch cùng qui về tội “tổ-tông”, nhưng cả hai lại không ăn-khớp với nhau cách trọn-hảo, như ta tưởng. (Ở đây, xin mở thêm một dấu ngoặc để nhắn với anh em rằng: sau đây, ta sẽ dành ra nguyên một chương để bàn về tội “tổ-tông” cho ngọn ngành, ra nhẽ).
Tuy nhiên, cũng nên nói ngay ở đây rằng, thành-ngữ “kiến-tạo nên sự việc”, là ngôn-từ dù không do Lm John Flader chọn, nhưng cũng đã đề-nghị một quan-điểm thần-học riêng-tư mà Hội-thánh chưa từng dính-dự vào đó theo cung-cách biệt-lập, có một không hai.
Lạ thay, các đoạn trích mà Linh mục John Flader sử-dụng lại không phù-hợp với khuôn-khổ của bài giải-đáp thắc-mắc đăng trên báo, do không đủ chỗ, để người đọc có thể qui-chiếu số lượng khổng-lồ gồm các nghiên-cứu/học-hỏi nghiêm-túc về cuộc đời của Đức Giêsu trong vòng chỉ hơn một phần tư thế-kỷ, thôi. Bởi những điều như thế, đều dựa trên căn-bản chú-ý nhiều vào trọng-tâm của bản-văn đến độ có thể khiến người đọc thêm băn-khoăn/bối rối về văn-bản và về lời bình-giải nội-dung mang tính lịch-sử nơi các sự-kiện xảy đến với đời Ngài. Cũng từ đó, lại thấy xuất-hiện ảnh-hình đặc-trưng cho thấy cung-cách Đức Giêsu từng sống như thế nào và Ngài chết ra làm sao.
Quả là, Đức Giêsu đã sống kết-hợp với người nghèo hèn sống ở thời Ngài, từng bị ức-hiếp đến mức độ ra sao. Và, Ngài đã đứng lên bênh-vực họ để chống lại quyền-lực trần-thế và giới cầm-quyền từng áp-bức những người yếu thế. Ngài cũng đã khổ-sở vì hậu-quả các động-thái ấy khi giới có quyền và nắm trong tay quyền-lực đã loại bỏ Ngài rồi giết chết Ngài cách thảm-hại. Nhưng Ngài lại đã trỗi dậy từ cõi chết do Thiên-Chúa của những người nghèo hèn ấy đã nâng nhấc Ngài. Và, Thiên-Chúa đã thuỷ-chung ở với họ và với Đức Giêsu, cốt duy-trì công-việc của Chúa sống-động mãi, ngang qua động-thái giải-trừ mọi độc-hại của quyền-lực.
Động-thái giải-trừ, không là trò chơi được sử-dụng để thay cho quyền-lực; nhưng là để khước-từ mọi quyền-uy thế-lực đến từ bất cứ nơi đâu, chốn gian-trần. Và, đó lại là ý-nghĩa rất mới được Chúa đưa vào làm thành-phần ngôn-ngữ cũ/xưa của Kinh Sách, tựa hồ như tự-vựng “ơn cứu-chuộc”, ta thường dùng. Chúa đưa vào đó bằng cách-thế mới của sự sống không quyền-uy thế-lực nào hết.
Đến đây, tôi muốn trở về với các câu thắc-mắc ban đầu người đọc gửi đến nhờ linh mục John Flader giải-thích.
Đức Giêsu chết đi phải chăng là để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không?
Vâng. Đúng thế. Nhưng, không theo cách rất chung chung như ta thường thấy. Đức Giêsu minh-chứng cho ta thấy tình-thương-yêu mà loài người không thể tưởng-tượng được của Thiên-Chúa với người nghèo hèn/bé nhỏ, bị áp-bức. Và, bằng vào tình thương-yêu thần thánh của Ngài, Thiên-Chúa luôn khước-từ mọi quyền-lực dù chỉ để chống lại những kẻ từng bức-bách đám “thân-cô thế cô”, đi nữa. Khi nói Đức Giêsu chết đi để chứng-tỏ tình-thương-yêu của Ngài với con người, nói như thế không làm giảm-suy những gì Ngài từng thực-hiện. Nếu so sánh với ý-tưởng về “tình yêu” thông-thường ở đời, thì Tình-thương-yêu của Ngài, ở đây, cần được thăng-hoa dàn trải thật lớn rộng.
Phải chăng Ngài chết cách đặc-biệt như thế là để cứu ta khỏi mọi tội của gian trần?
Ở đây, trước tiên, cần làm sáng-tỏ ngôn-từ ta sử-dụng, như câu nói: “Tội lỗi của chúng ta”. Chỉ nên hiều, là: tội và lỗi mà mọi người hằng phạm phải mỗi ngày, cả những hành-xử đầy tội-phạm theo nghĩa nặng, ở chốn riêng-tư và có thể cả cuộc sống hiện tại của ta ở nhà nữa, đều không dính-dự cách “đặc-trưng/đặc-thù”, nào hết. Chúng ta –hoặc các lỗi tội này/khác của ta trong hiện tại- đều không là những “cớ sự” để có thể giết được Chúa.
Mà, chính tính chuyên-quyền lộng-hành ở quyền-lực, trong hệ-thống toàn-trị chuyên hà-hiếp người khác, mới là những gì giết chết Ngài, như sử-sách còn ghi chép. Đó là ý-nghĩa diễn-lộ ra ngoài của lỗi-tội; và, đã tỏ-bày ngang qua cuộc sống và nỗi chết của Đức Giêsu. Lỗi tội của ta, là những tội và những lỗi thuộc loại-hình này, tức: đã dùng đến quyền-lực để hà-hiếp kẻ khác, cho đến nay, chỉ thấy hiển-hiện khi chúng diễn-bày quyền-lực ra bên ngoài, trên người khác.
Nói khác đi, nếu ai đó có phạm tội hay lỗi gì đi nữa, cũng chỉ là vi-phạm những điều chống lại tình thương-yêu, tức thể-loại Tình-yêu Chúa từng tỏ-bày cho người đó, qua Đức Giêsu. Tình-thương-yêu tỏ-lộ cho mọi người, chứng-tỏ Ngài sống và chết đi như thế nào, chỉ vậy thôi.
Ngài chết đi, hẳn cũng vì lý do chính-trị nào đó đấy chứ?
Đương nhiên, ở đây, chuyện chính-trị có dính-phần ở trong đó. Giới cầm-quyền thời đó đã ra quyết-định mang tính-cách chính-trị hoặc chiến-thuật, nhằm tạo điều lợi cho thể-chế cai-trị tạm-bợ, để rồi họ nhất-định loại-bỏ Ngài đi, vì họ vẫn coi Ngài như thế-lực tiềm-ẩn (chứ không thực-thụ) ngấm-ngầm đe-doạ thế-đứng của họ. Nhìn vào giới thẩm-quyền ở đời hoặc trong đạo, có thể cả hai đều có chung một phán-đoán tựa như thế. Và, nhiều giới-chức cầm-quyền ở các nơi, cả ở trong đạo lẫn ngoài đời, nay vẫn còn làm như thế, không ngừng nghỉ.
Thế nhưng, Đức Giêsu lại đã chết cho thứ gì đó còn sâu-sắc hơn cả chính-trị, rất nhiều. Ngài chết đi, vì Ngài quyết chung-thủy với thứ tình-thương-yêu không dựa vào quyền-lực mà Thiên-Chúa dành-để cho người hèn kém/bé nhỏ. Đó là điều mà thánh Phaolô khi xưa vẫn ưa gọi là sự “công chính của Thiên-Chúa” rất khác thường. Đó cũng không là chính-trị, mà là “hồi chuông báo tử” một lần cuối dành cho các tầm-kích quyền-lực của mọi chính-trị nơi loài người.
Phải chăng Ngài chết đi là để thách-thức giới cầm-quyền ở nhiều nơi mà thôi không?
Tôi không nghĩ như thế. Động-thái Ngài hành-xử, không hề mang tính thách-thức nào hết. Đó, là động-thái không chỉ chứng-tỏ cho họ mà thôi, nhưng còn đưa họ vào với tình-thương-yêu và tính-chất “vô quyền/bất-lực” mà họ không am hiểu nổi. Và, điều đó sẽ tẩy rửa họ cũng như toàn-thể thế-giới sạch khỏi các sự việc mang tính quyền-uy/thế-lực họ thực-thi.
Chết như thế, có phải là Ngài để lại cho ta một bài học khách quan và đơn giản?
Không. Những gì Ngài thực-hiện, có thể gọi đó như bài học đạo-đức cho tất cả chúng ta, nhưng thật ra, còn hơn thế nhiều. Ngài chết, là để lấy đi quyền-uy/thế-lực ngay trong ý-nghĩa đầy tính huỷ-hoại và bức-ép của nó, bằng cách dìm nó vào chính sự “vô-quyền/bất-lực”, là thế. Phục sinh/trỗi dậy, khiến Đức Giêsu có thể truyền-đạt khả-năng sống thực để những ai tin vào Ngài và những người thương-yêu kẻ hèn kém/bé nhỏ của Ngài. Khả-năng này không chỉ để khích-lệ một đạo-đức, mà đích-thực là năng-lực khiến cải-hoá được cuộc sống của mọi người, tự bên trong.
Phải chăng Ngài có chết, mới đem đến cho ta sự tha-thứ có từ Thiên-Chúa-là-Cha?
Vâng, đúng là thế và có thể cũng không thế. Đúng, là hiểu một cách chắc-chắn theo nghĩa: Ngài đã “cho đi chính mình Ngài”. Cho, tức là đã thứ-tha những người mà Ngài và Cha yêu-thương họ biết chừng nào; và cho như thế Ngài đã trừ khử được mọi tính-chất tiêu-cực cũng như trò chơi quyền-lực của thế-giới, bằng việc Ngài tự biến Mình Ngài thành hư-vô/trống-rỗng, không quyền-thế.
Trả lời là: “không”, tức: theo nghĩa bảo rằng: trước nhất Ngài ưu-tư đi thẳng vào động-thái “thứ tha. Tha thứ, theo nghĩa nghi-thức hoà-giải mà ta đang thực-hiện, mãi đến hôm nay.
Việc Ngài chết đi có đủ nói lên quan-điểm/lập-trường nào đó không?
Câu trả lời là: Không! Không, ở đây, theo nghĩa của người đặt câu hỏi từng có dụng-đích/ý-đồ nào đó. Nhưng, câu trả lời thực ra là “Có”! Ngài có đưa ra một luận-điểm. Luận-điểm này, trước đây, chưa ai làm thế. Nhưng buồn thay! Luận-điểm này, cho đến nay, vẫn không được nhiều người chú ý nắm bắt.” (xem thêm Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu Chuộc và khúc cuối một giòng sử, www.thanhlinh.net ngày 08/5/2014)
Đấng bậc trong Đạo học về Chúa cũng rất nhiều, nghiên-cứu về Đức Giêsu lịch-sử ở Kinh thánh, lại không thiếu. Các ngài có học có nghiên-cứu nhiều như thế, cũng tựa-hồ nhưng bậc thánh-hiền từng quyết rằng:
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái,
và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an.
Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách,
để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ,
chính chúng ta cũng biết an ủi
những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.
Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô,
thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi.”
(2 Cr 1: 3-5)
Có biện-luận về cái chết của Chúa hay về Ơn Cứu-chuộc là cứu và chuộc để đưa mọi người đi thẳng vào tình thương-yêu Chúa tỏ bày cho hết mọi loài, mà thôi. Nghiên-cứu hay biện-luận, để rồi sẽ luôn chúc tụng Thiên Chúa là Đấng luôn ủi-an, yêu thương hết mọi người trong chúng ta.
Để bài phiếm hôm nay được nhẹ nhàng thư-thái, cũng xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi ta cứ hiên ngang ca vang bài ca vừa khởi xướng, cứ hát rằng:
“Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,
Trái tim em mảnh vườn cũ quê xưa.
Cành mai chiết tay ai còn in dấu,
Thiều quang ơi hoa nhớ đến xót xa.
Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,
Trái tim em thành đốm lửa hải đăng.
Lửa sinh diệt thắp hoài không dám tắt,
Bờ bến nào mà cá vẫn bặt tăm.
Em mở áo cho xuân coi lồng ngực,
Trái tim em trầm quế đợi xông hương.
Con chim nhỏ đã bay qua biển Bắc,
Ai tìm ai ngậm ngải giữa mù sương.
Đã lâu quá anh không về gõ cửa,
Lồng ngực em trái đỏ vẫn còn nguyên.
Ôi có phải mùa xuân đang nhóm lửa,
Tay lạnh thế này ai sưởi cho em.”
(Anh Bằng/Trần Mộng Tú – bđd)
Hát ca từ tình-tự như thế, chỉ để bạn và tôi ta hiên ngang tiến về phía trước mà chúc tụng Thên-Chúa-Là-Tình-Yêu, luôn sáng tỏ tình Ngài với muôn người. Ở đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Cầu mong cho mắt mình sẽ sáng mãi
Và cũng tỏ như bao giờ.