Có kềm hãm giữ mình khi giận tức,

“Có kềm hãm giữ mình khi giận tức,”

Có thứ tha những kẻ nghịch ghét ghen.

Thì tâm hồn mình sẽ mạnh thêm lên.

Sớm nhận thức đâu là phần thưởng thật.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Đỗ)

Mc 1: 1-18

Mai Tá lược dịch

Kềm giữ với hãm mình, còn gì bằng vào lúc mình đang thèm khát. Thèm và khát, không chỉ bây giờ hoặc mai sau, nhưng cả vào mọi tuổi, mọi thời như tâm-tình của chú bé Đanien, kể bên dưới.

Mùa vọng năm ấy, chú bé Đanien tự dưng chạy đến ôm hôm người mẹ hiền, đề nghị một yêu cầu rất nhỏ: “Quà Giáng Sinh năm nay, mẹ nhớ mua cho con một chiếc xe, mẹ nhé.” Nghe lời xin, người mẹ giựt mình, nhưng vẫn từ tốn đáp lại: “Con ạ, nhà mình còn nghèo, mẹ không đủ sức mua xe cho con đạp chơi đâu. Hay là, con chạy đến xin Chúa Hài đồng, xem sao!”

Bé Đanien bèn chạy vào bàn, viết ngay một lá thư ngắn đại ý nói:

Chúa dấu yêu, con biết mình phải thật là ngoan mới được Chúa cho quà. Con nay đã ngoan từ hồi khuya sớm. Vậy, con xin Chúa cho con một chiếc xe đạp nho nhỏ thôi. Chúa nhớ gửi xuống cho con nhé.

Ký tên Đanien.

Viết xong, đọc lại thấy không ổn. Đanien nghĩ lại, mình đâu có ngoan gì cho lắm, mà dám xin món quà lớn lao như thế. Nghĩ vậy, bé xé thư đi rồi viết lại:

“Chúa dấu yêu ơi. Để con kể Chúa nghe nhe. Suốt năm rồi, con là đưa bé khá ngoan. Con muốn xin Chúa một chiếc xe đạp, chạy chơi. Chúa đồng ý cho con nhé.

Ký tên: Đanien của Chúa.”

Viết xong, bé Đanien lại nghĩ: Viết thế này, cũng chưa được đúng cho lắm, lại xé thư, viết lần nữa:

“Chúa Giêsu bé nhỏ của con ơi, lâu nay con vẫn nghĩ con là đưa bé ngoan và giỏi. Có thể nào Chúa cho con một chiếc xe đạp được không?

Ký tên, Đanien.”

Cuối cùng, bé nghĩ: “vẫn không xong. Phải làm thế này, mới chắc ăn”. Đanien chạy một mạch đến nhà thờ. Bưng đại bức tượng nhỏ nơi máng cỏ mang vể cất dưới gầm giường để mẹ mình khỏi la mắng, rồi viết một thứ khác, đầy doạ nạt:

“Chúa mên yêu, con vừa trót dại phạm một điều răn, là: làm bẹp mất búp bê của nhỏ em con, và nhiều chuyện khác khủng khiếp hơn. Con ôm tượng Mẹ Maria về nhà con rồi. Chúa có muốn nhìn lại Mẹ của Chúa dịp Giáng sinh này, thì phải tặng cho con chiếc xe đạp mới. Chúa biết mình phải làm gì rồi, phải không?”

Lời lẽ trong thư Đanien viết cho Chúa Hài Đồng, giống hệt thư tống tiền của băng đảng ngoài đời. Trong đời thường, chuyện của Đanien cũng na ná đôi chút chuyện của nhiều người chúng ta. Nhiều lúc, ta vẫn nghĩ là mình có thể cù cưa/mặc cả với Chúa, rất nhiều điều, để đạt ý mình mong ước. Tuy nhiên, các vụ kèo nài/mặc cả như thế thường không xứng với niềm tin của người tín hữu Đức Kitô, nhất thứ trong khung cảnh mùa Vọng.

Tình huống kèo/trả giá là yếu tố xưa cũ vẫn còn lưu lại nơi đầu của tác giả lịch sử thánh khi ngài viết bài đọc, như: sấm của tiên tri Isaya, như thánh vịnh 84, thư của thánh Phaolô và cả đến Phúc Âm thánh Mác-cô nữa, nhất nhất bộc lộ tâm trạng kèo nài/hạch sách, thế nào đó.

Các bài đọc hôm nay, nhắc nhớ ta một điểm: Đức Chúa vẫn yêu thương loài người. Ngài chẳng bao giờ giữ lại điều gì riêng cho Ngài. Và, khi chấp nhận thân-phận bọt bèo của người phàm có da có thịt, thì Ngài vẫn làm tất cả để ta nhận ra được tình thương yêu cứu-độ, Ngài tặng không. Ngài đã trưng-dẫn tình thương yêu của Ngài bằng chính cuộc sống, để ta theo đó mà làm.

Thành thử, ta phải sống cuộc đời Ngài tặng ban, ăn ở cho công-minh chính-trực và biết thương-yêu ở mức cao độ. Từ đó và qua đó, ta mới thay-đổi được thế-giới đời thường ta đang sống; hầu biến cải thế-giới nên tốt đẹp hơn.

Các tình-huống cuộc đời trong đó ta cứ kèo nài/trả giá với Chúa, vẫn thấy dẫy đầy trong thần-học, cũng như kinh-nguyện/phụng-vụ. Tệ hơn nữa, có nhiều tình-huống ta cứ ngụp lặn trong các thói tật giống như thế, từ thế-hệ này sang thế-hệ khác. Thậm chí, có người còn cả gan trả giá với Chúa bằng nhiều hình thức, rất cầu xin. Thương thảo. Tỉ như câu:

“Lạy Chúa, nếu Chúa giúp sức cho con qua được đại hạn kỳ này,

nghĩa là: ăn như cũ, ngủ như xưa, nhất định con sẽ ăn ở tử tế hơn..”

Có bạn trẻ, chẳng ngại-ngần đánh bạc cả với Chúa. Nghĩa là, có lời lẽ như:

“Lạy Chúa, con xin hứa: con sẽ quay về đi lễ trở lại như lúc trước,

nếu như Chúa cho con thi đỗ khoa này..”;

hoặc:

“Con hứa sẽ cho cháu nhỏ rửa tội và theo Đạo,

nếu như Ngài cho con làm đám cưới/hỏi cho suông sẻ, trót lọt.

Nhất định con sẽ làm như thế..”

Tệ hơn, có người còn thưa với Chúa, như sau:

“Chúa cho con trúng số đi,

con sẽ cúng dâng nhờ một nửa số tiền con lãnh được, để giúp người nghèo…”

Kèo nài/trả giá, thật chẳng hợp với lẽ Đạo, chút nào. Tuy nhiên, Hội thánh cũng chẳng nên trách móc một ai. Tốt hơn, Hội thánh cứ tự nhận trách nhiệm, rồi sẽ sửa đổi não trạng ù lì/chai sạn của dân đi Đạo.

Vào thời đầu, Kinh thánh đã đưa ta về với những lời khuyên nhắn của thánh Gio-an Tẩy Giả, về: sự sống, nỗi chết và sự Phục sinh quang vinh của Chúa. Cả về việc Chúa Thánh Linh vẫn tiếp tục hoạt động trong ta. Ở đây. Bây giờ.

Kinh thánh cũng dạy ta, rằng: ta thật có phước được Chúa cam chịu mọi hiểm nguy, rủi ro của một bội phản, để ta hiểu rõ thế nào là sống chung với thế giới. Sống trong hiện tại, và cho mai ngày. Chúng ta vẫn ôm trọn vào mình cả một mùa Vọng hôm nay, lẫn các mùa lễ khác trong niên lịch phụng vụ. Nơi đó, chứa đựng mọi chân lý ngàn đời.

Từ đó, ta được dặn là hãy loan truyền Tình thương yêu của Đức Chúa. Ngài gỡ bỏ mọi quyền năng mà Ngài có, để đến với loài người qua thân phận hài nhi bé bỏng. Đấy không phải là hành vi của người chỉ kèo nài, trả giá. Đấy, là diện mạo Đức Chúa, Đấng rất mực thương yêu.

Mùa Vọng năm nay, ta đừng để mình trở thành người con bé nhỏ chỉ biết kèo nài/trả giá với các tay độc quyền đòi thiện chí. Cũng chỉ nên nguyện Chúa Nhân Hiền xin Ngài gửi đến với ta, những gì thật cần thiết, đáng ban ân.

Nguyện cầu để cùng hiệp thông, với nhau. Cầu và nguyện, nhưng vẫn tin rằng Đức Chúa đã nghe tiếng ta khẩn cầu. Chính vì Ngài đã nghe tiếng ta cầu nài, nên Ngài mới cho ta Tình yêu đích thực hiển hiện nới Đức Kitô, Con của Ngài.

Trong tinh-thần hiệp-thông cùng nhau nguyện-cầu, ta lại ngâm vang lời thơ trên rằng:

“Có can-đảm, cả khi mình nhút-nhát,

Có khôn-ngoan trong lúc rất hoang-mang.

Có hiên-ngang cả những lúc đầu hàng,

Mới cảm được cõi hồn cao muôn trượng.”

(Nguyên Đỗ – Mỗi Kinh Nghiệm, Một Bài Học)

Can-đảm cả khi nhút nhát, còn là đức-tính và kinh-nghiệm để đạt “cõi hồn cao muôn trượng”. Cõi hồn ấy, mai ngày sẽ không còn giận tức, ghét ghen hay nhút nhát, nhưng vẫn cứ tỏ-bày thương-yêu, tha thứ với mọi người, rất ở đời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Chuyện tình của lão Jim

Chuyện tình của lão Jim

Người viết: Mônica Têrêsa Túy Nga

Lão Jim ơi,

Mình là cái bà được Thiên Chúa cho sinh ra và lớn lên tại vùng ven biển có con sông Cái Lớn của tỉnh Kiên Giang thuộc Miền Nam Việt Nam . Mình hân hạnh được biết lão qua một bài thơ tự do dài trên 100 câu, mang tên “Lời nguyện của lão Jim”, do một người ký tên tắt là DH chuyển dịch ra tiếng Việt, và do cha giáo cũng là cha sở mới về của mình hiện nay cho in ra để gởi tặng cho từng học viên trong lớp học Kinh Thánh vào mỗi tối thứ sáu hằng tuần.

Thú thật với lão nha lão Jim thân mến! Bài thơ đã làm chao động lòng mình dữ quá, và nó cũng đã đánh động mạnh mẽ vào tâm linh của mình, về một cách cầu nguyện có thể bị người đời cho là thấp hèn …. vậy mà lại có sức hút mãnh liệt đối với Chúa Giêsu. Còn với mình, đến đỗi mình không nghĩ lão là một nhân vật hư cấu. Mà chính lão, lão Jim nghèo khổ, tâm tính bình dân hài hòa, đi tới đâu là mang niềm vui đến tới đó cho mọi nơi, là một người hoàn toàn có thật!

Vì vậy, hôm nay mình ngồi viết những dòng suy tư này. Hy vọng dù lão đang ở nơi đâu, lão đang ở trên trời với Thiên Chúa Cha, hay lão đang còn lang thang trên cõi tạm này, lão cũng đều nhận được bài chia sẻ này của mình, và mình xin lão, lão hãy cầu nguyện cho mình và cho những ai chưa từng biết Chúa nữa, nha lão Jim!!

“Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Jim đang ở nơi đây!”

Lão “luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày”, như đôi tình nhân không bao giờ quên nhau, dù chỉ trong một giây phút vắn vỏi bay qua, là lão đã “gãy đúng chỗ ngứa” của Chúa Giêsu, và làm cho Người luôn nghe khoái tỉ tê trong lòng rồi, lão có biết hay không hả lão Jim??

Rồi theo mình, vì yêu thương lão vô cùng, nên Chúa không muốn lão có cảnh sống giàu sang, vì người sang giàu ít khi biết nghĩ tới Chúa. Chúa muốn lão sống một cuộc đời cô đơn hiu quạnh và phải lê lết đi tìm miếng cơm manh áo trong một công xưởng, ở cách xa Thánh đường. Giờ trưa, mọi công nhân khác ăn trưa xong rồi đi nằm nghỉ, chờ vào giờ của ca làm chiều. Còn lão, hằng ngày lão lợi dụng giờ này, để đi tới Thánh đường tìm gặp Chúa Giêsu, với “Túi đồ ăn đeo lủng lẳng bên lưng” …Đã vậy, râu tóc của lão lại còn quá lôi thôi nữa.  Cái áo khoác ngoài của lão thì “chắc lượm của chó tha!” Nên:

“Ông tu sĩ lòng nghi ngờ quá đỗi

Sợ lão ta muốn trộm cắp chi đây?”

Vì thế, lão phải đính chính  sự hiện diện của mình:

“Ông thấy đó! Tôi chỉ vào đây một lát

Vì xưởng tôi, từ đó cũng xa đây

Tôi chỉ quỳ và chuyện trò cùng Chúa

Lời cầu xin ….chỉ đơn giản thế này:

Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Jim đang ở nơi đây!”

Và, thế là:

“Vị tu sĩ bỗng thấy mình ‘cả đẩn’!

Nói với Jim:Thôi chuyện chẳng có gì

Và không sao, cứ tới đây cầu nguyện

Cửa Thánh đường luôn chào đón mỗi khi

Hết giờ, Jim đứng lên vội vã

Miệng lão cười và nói tiếng cám ơn”

Còn vị tu sĩ thì:

“Trái tim lạnh bỗng trở nên bừng ấm

Gặp Giêsu, Tình Chúa đắm chìm

Dòng lệ rơi và trái tim thổn thức

Ông học theo lời nguyện của lão Jim:

Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Con đang ở nơi đây!”

Bỗng một ngày …và ít hôm kế tiếp nữa, vị tu sĩ không nhìn thấy bóng dáng của lão Jim ở đâu. Nóng lòng ngài tìm đến công xưởng để hỏi, ngài mới biết lão Jim đã bị bệnh rồi.

“Ở nhà thương, nhân viên đều lo lắng

Còn lão Jim cứ làm họ phải cười

Họ chẳng hiểu tại sao Jim hạnh phúc

Khi không có hoa, không ai tới thăm nuôi?!

Vị tu sĩ nói với người y tá:

Tôi thấy lão vẫn luôn cô độc

Bạn bè nào có để mà cầu!

Thật không ngờ lão Jim cười ha…hả…

-Ông nói sai, cô y tá cũng sai!

Có điều này, tôi chưa cho ai biết

Người ở đây, Người luôn ở nơi đây!

Mỗi buổi trưa Người luôn ghé đến

Người là bạn tôi, là bạn rất thân quen

Nắm tay tôi, bên giường Người ngồi xuống

Và tôi nghe, một giọng nói êm đềm:

Bạn Jim hỡi, hôm nay tôi lại đến

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Kể từ khi ta kết tình bằng hữu

Tội của anh, tôi đã thứ tha

Tôi lắng nghe mỗi lần anh cầu nguyện

Và tôi luôn nghĩ tới bạn hằng ngày

Này anh Jim! Bạn của lòng tôi hỡi!

Hãy nhìn xem: Giêsu đang ở nơi đây!!”

Lão Jim à,

Vì trang viết có hạn, nên mình chỉ trích ra những câu thơ làm nổi bật chuyện tình của lão với Chúa Giêsu mà thôi. Và hai câu thơ cuối bên trên là hai câu kết thúc.

Nhà thơ thật là lắc léo ở chỗ không cho biết sau đó Chúa Giêsu có rước linh hồn lão về Trời cùng Người hay không? Nhưng dù đã có hay chưa có thể có, do Người còn cần lão làm chứng về Người trên nước thế gian này, thì lão cũng đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để Người luôn ấp ủ vào Trái Tim sốt nóng của Người rồi. Lão sướng nha!!!

Và, cuối cùng trong bài viết hôm nay, mình muốn nói với lão rằng: Vâng! Lão là vị Thầy xuất sắc dạy mình cầu nguyện cùng Chúa Giêsu. Một chuyện làm đơn giản, không cần cầu kỳ hoa mỹ chi cả…Mình cám ơn lão vô vàn. Mình yêu Chúa Giêsu và mình cũng yêu lão nữa …Lão  Jim yêu mến ạ!!

M. T. TN

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bài 2: Về Đặc trưng thứ Hai và Đặc trưng thứ Ba

Trần Quí Cao

Tiếp theo bài 1 đánh giá các thành quả Việt Nam đã đạt được sau 39 năm xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xét theo các tiêu chí của đặc trưng 1, bài này đánh giá theo các tiêu chí của đặc trưng 2 và đặc trưng 3 (1).

Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ

Chúng ta đã minh định trong bài 1 rằng nước ta không Dân Chủ. Nay ta phân tích chi tiết hơn trong mục này.

Hiểu theo nghĩa thông dụng, Dân Chủ là Nhân dân là chủ của xã hội, của quốc gia. Khái niệm người chủ bao hàm ý: có các quyền tự do đương nhiên của người chủ.

Hiểu theo khía cạnh học thuyết chính trị thì:

Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận Nhân Dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Có hai nguyên tắc mà bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi (2).

Như vậy, hiểu theo cách thông dụng hay theo khía cạnh học thuyết chính trị, Dân Chủ luôn gắn liền với Tự Do. Không có các quyền Tự Do căn bản, Dân Chúng không thể thực hiện quyền, chức năng làm chủ của mình. Nói cách khác: nếu Dân Chúng không được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng rãi trên thế giới thì quốc gia không có Dân Chủ. Các quyền Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Báo Chí, Tự Do Ứng và Bầu Cử, Tự Do Lập Hội, Lập Đảng là các quyền Tự Do chính yếu trong một nền Dân Chủ.

Trên thực tế, dân Việt Nam không có bất kỳ một quyền nào trong các quyền kể trên.

Ngoài ra, các nhà chính trị học còn nêu lên một thuộc tính của thể chế Dân Chủ là Tam Quyền Phân Lập. Đây là một đặc điểm chính yếu của chính thể Dân Chủ, đặc điểm này phân biệt chính thể Dân Chủ xứng danh với chính thể Dân Chủ mạo danh.

Nhà cầm quyền Việt Nam luôn khẳng định không có Tam Quyền Phân Lập. Như vậy, rõ ràng là, cùng với các quyền tự do căn bản mà người dân không được hưởng, nước Việt Nam không có Dân Chủ, không do Nhân Dân Làm Chủ.

Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu

Đặc trưng này nói về nền kinh tế với 2 tiêu chí: lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại.

Hãy so sánh với các nước có trình độ phát triển kinh tế xấp xỉ Việt Nam vài thập niên trước.

Chúng ta đã so sánh với Hàn Quốc bên trên. Trong các tập đoàn lớn nhất của Hàn Quốc (SamSung, Hyundai, LG…) tập đoàn nào cũng có sản phẩm được sản xuất bởi công nghệ hiện đại, cạnh tranh ngang tay với các tập đoàn lừng danh của Nhật và Âu Mỹ… Các tập đoàn này là đối tác kinh doanh toàn cầu được nể trọng của các tập đoàn có truyền thống hùng mạnh của thế giới như General Electric (Mỹ), General Motor (Mỹ), DuPont (Mỹ), Exxon Mobile (Mỹ), BASF (Đức), Siemens (Đức), Total (Pháp)… Khi SamSung triển khai chương trình đầu tư vào Việt Nam, SamSung dành ưu tiên cho các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam cung cấp cho họ 170 sản phẩm chưa phải là cao cấp, thì Việt Nam không thể cung cấp được một sản phẩm nào!

Hãy so sánh thêm với Thái Lan, một nước có nền kinh tế phát triển chưa cao lắm. Năm 2012, ngành công nghiệp xe hơi của họ đứng thứ 9 trên thế giới, một năm sản xuất khoảng 1 triệu rưỡi chiếc xe trong khi Việt Nam sản xuất khoảng 50,00 chiếc, chỉ khoảng ba bốn phần trăm của họ (3). Với Mã Lai, một nước có nền công nghiệp phụ trợ điện tử được ưa chuộng trong khu vực, với Đài Loan, vùng lãnh thổ kinh tế có vị trí thứ tư trên thế giới về nền công nghiệp phụ trợ cung cấp linh kiện cơ khí cho thế giới… So với các nước đó, thì vị trí Việt Nam chúng ta nằm ở đâu?

Trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chúng ta xuất khẩu ở dạng thô chứ không ở dạng tinh chế. Chúng ta xuất ở vị trí thấp, thậm chí rất thấp, chứ không ở vị trí cao trên chuỗi giá trị gia tăng. Theo những đánh giá về công nghệ cao, phần đóng góp của công nghệ cao vào nền sản xuất của Việt Nam là rất nhỏ, vài phần trăm.

Việt Nam đã có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại chưa?

Nền kinh tế phát triển cao dực trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu

Trên lý thuyết, Việt Nam có chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Quả thật, các Tổng Công ty, các Tập đoàn Kinh tế nhà nước bao trùm mọi mặt kinh tế đất nước.

Tuy nhiên, trên thực tế, lợi nhuận từ các tổng công ty, tập đoàn đó rơi vào túi một thiểu số cá nhân quyền lực mà người ta thường gọi là  “nhóm lợi ích”. Điều quan trọng là lợi nhuận tìm được bởi các biện pháp độc quyền (thí dụ trong các ngành Điện, Nước, Xăng Dầu, Than, Khoáng Sản…), bằng các biện pháp hành chánh ưu tiên hay cưỡng bức (thí dụ trong ngành Lúa Gạo), bằng các biện pháp tham nhũng, hối lộ (thí dụ được thấy rõ trong các vụ án Vinashin, Vinalines…) chứ không phải bằng cạnh tranh bình đẳng. Lợi thì vô túi riêng của nhóm lợi ích, Lỗ thì dân gánh chịu.

Có phải những sự việc kể trên chỉ là khuyết điểm của phân bổ không công bình, không quan hệ gì với tính công hữu? Thực ra thì mục tiêu của công hữu là nhằm lo cho số đông dân chúng, nếu công hữu chỉ để một thiểu số vơ vét tài sản của số đông thì chế độ công hữu đó chỉ là chiếc áo thầy tu khoác lên mình tướng cướp. Chế độ công hữu vận hành phối hợp với chế độ độc tài sẽ gây tai hại khủng khiếp cho số đông, người dân làm ra đồng nào sẽ bị gỡ tay lấy hết đồng đó.

Hiện nay, chính sách tư nhân hóa, cổ phần hóa các công ty nhà nước đang được đầy mạnh. Trong hoàn cảnh người dân không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, không được tiếp cận quyền lực, rất nhiều người lo ngại rằng một phần lớn “tư liệu sản xuất chủ yếu” trước đây thuộc “công hữu” và đã được tận dụng tạo “giá trị thặng dư” cho “nhóm lợi ích”, nay sẽ được “tư hữu hóa” để cho “các nhóm lợi ích” chia chác thêm nữa tài sản quốc gia.

Và, như vậy, mục tiêu của công hữu nhằm, như lý thuyết nói, ngăn cản, hạn chế sự bất công, lại có tác dụng đẩy bất công và bóc lột lên một mức cao chưa từng thấy.

Xét trên khía cạnh này, Việt Nam hoàn toàn không có chế độ công hữu xứng danh, nghĩa là không có sự công hữu được thực hiện và quản lý theo những chuẩn mực xã hội văn minh hiện đại.

Tóm lại:

Nước Việt Nam không đạt tiêu chí duy nhất trong đặc trưng thứ hai là do nhân dân làm chủ. Và cũng không đạt hai tiêu chí của đặc trưng thứ ba là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Trần Quí Cao

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Hữu Nghĩa. “Những đặc trưng thể hiện yính ưu việt của Chủ nghĩa Xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng”, Tham luận tại tại phiên họp sáng 14/1 Đại hội XI của Đảng (TTXVN/VIETNAM+) LÚC : 14/01/11 16:52.

2. Wikipedia. Dân chủ http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7

3. Wikipedia. Automotive Industry In Thailand. http://en.wikipedia.org/wiki/Automotive_industry_in_Thailand

Làm sao tránh bệnh lẩn -Alzheimer

Làm sao tránh bệnh lẩn -Alzheimer

Gần phân nửa số người Mỹ 85 tuổi mắc bệnh Alzheimer’s, một chữ mà người Việt ở Mỹ đã quen thuộc và thường dịch là bệnh lẩn. Một số người còn mắc bệnh này khi chưa đến 65 tuổi, được gọi là bệnh lẩn sớm. Căn bệnh quái ác này thường lởn vởn trong óc tất cả chúng ta và nhiều người thường tự hỏi “Có phải mình đang mắc chứng Alzheimer’s sớm?”

Thực ra thì bệnh hay quên thường được gặp ở mọi lứa tuổi: không thể tìm thấy chìa khóa, quên tên người đối diện hay người trong một câu chuyện đang kể, hoặc bước vào một căn phòng rồi không thể nhớ tại sao lại vào đó. Đối với đa số thì vấn đề chỉ là do thiếu ngủ hoặc căng thẳng tạm thời. Nhưng đôi khi những triệu chứng này trở nên thường xuyên hơn và đáng lo ngại hơn khiến chúng ta cần đến gặp bác sĩ để được chẩn bệnh chính xác. Rất may là nghiên cứu gần đây cho thấy nhiều loại thực phẩm có thể giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer và thậm chí có thể đảo ngược các vấn đề của trí nhớ khi chúng được phát hiện sớm.

Khi xem xét óc của những người bệnh Alzheimer’s, các nhà khoa học thấy giữa các tế bào não là mảng nhỏ li ti, được gọi là mảng beta- amyloid. Dưới kính hiển vi, những mảng này trông giống như viên thịt hoặc cuộn len. Họ cho rằng những mảng này đã dần dần phá hủy các tế bào óc.
Tại sao có những mảng này? Các nhà nghiên cứu ở Mỹ và châu Âu cho rằng câu trả lời tìm thấy trong thói quen ăn uống của chúng ta. Một số thức ăn làm dễ bị bệnh Alzheimer’s và ngược lại, một số khác giúp ngăn chặn bệnh.

“Chất béo xấu”

Chất béo bão hòa thuộc loại chất béo không lành mạnh: đây là chất béo trong thịt và đặc biệt là trong các sản phẩm sữa, chẳng hạn như phô mai và kem. Các nhà nghiên cứu trong Chicago Health and Aging Project thấy rằng những người ăn nhiều những “chất béo xấu“ có hơn ba lần nguy cơ mắc bệnh Alzheimer’s so với những người tránh ăn những chất béo này. Và đây là điều đáng sợ: Nếu bạn ăn hai quả trứng và một miếng bacon (thịt ba chỉ ướp mặn) cho bữa ăn sáng, một miếng ức gà không da với một ly sữa cho bữa ăn trưa, và một bánh pizza pho mát nhỏ cho bữa ăn tối, bạn đã lấy đủ “chất béo xấu” để được xếp vào nhóm có nguy cơ cao. Đúng vậy. Những thức ăn hàng ngày mà chúng ta quen ăn khiến chúng ta bị xếp vào nhóm có nguy cơ bị bệnh. Chất transfat có trong bánh donut và các món ăn vặt khác cũng làm tăng nguy cơ bị các vấn đề của trí nhớ sau này.

Sắt , đồng và các kim loại khác

Kim loại – sắt và đồng – từ các loại thực phẩm và từ nồi chảo có thể là một phần của vấn đề. Chúng ta đều cần sắt cho hồng huyết cầu và đồng cho các phân hóa tố (enzyme), nhưng với số lượng lớn, các kim loại này sản xuất các gốc hóa học làm tổn thương các tế bào não.

Các kim loại này đến từ đâu? Chất sắt có trong các loại thịt và tất nhiên là trong chảo gang, do đó nên dùng nồi chảo làm bằng thép không rỉ (stainless steel), an toàn hơn. Chất đồng được tìm thấy trong ống nước – vì vậy ta nên dùng máy lọc nước – cũng như trong gan và nhiều loại thực phẩm khác. Cả chất sắt và chất đồng thường được thêm vào các loại vitamin, vì vậy nên đọc kỹ nhãn hiệu vitamin bạn mua và chọn những loại thuốc không có các kim loại này .

Chất nhôm cũng đã được tìm thấy trong óc của bệnh nhân Alzheimer’s. Trong khi các nhà khoa học tiếp tục tranh luận xem các kim loại này là thủ phạm hay chỉ là một chất có mặt vô tội vạ, tốt hơn hết là ta đừng đem chúng vào người. Không nên dùng nồi nấu bằng nhôm và đọc nhãn hiệu kỹ khi mua baking powder, thuốc antacid, và thực phẩm chế biến sẵn để chọn loại không có các chất này.

Thực phẩm bảo vệ khỏi bệnh Alzheimer’s

Không phải tất cả các thực phẩm đều có hại. Một số thực phẩm thực sự bảo vệ óc. Chúng là:

-Các loại hạt chứa nhiều vitamin E, đã được chứng minh là giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer’s. Đặc biệt tốt là hạnh nhân (almonds), quả óc chó (walnuts), quả phỉ (hazelnuts), hạt thông (pinenuts), quả hồ đào (pecans), quả hồ trăn (pistachios), hạt hướng dương (sunflower seeds), hạt vừng (sesame seeds), và hạt lanh (flaxseed). Chỉ cần một ounce (một nắm) mỗi ngày là đủ.

-Quả việt quất (blueberries) và nho có được màu đậm là từ anthocyanins, chất chống oxy hóa mạnh mẽ giúp học tập tốt và tăng trí nhớ trong các nghiên cứu tại Đại học Cincinnati.

-Khoai lang là thức ăn chính của người Okinawa, giống người sống lâu nhất trên trái đất. Họ cũng được biết là có thể duy trì tinh thần minh mẫn vào tuổi già. Khoai lang chứa nhiều beta- carotene, một chất chống oxy hóa mạnh mẽ .

-Các loại rau lá xanh cung cấp sắt trong một hình thức dễ hấp thụ hơn khi cơ thể cần nhiều và ít được hấp thụ khi cơ thể bạn đã có dư, bảo vệ bạn khỏi tình trạng quá dư chất sắt, có thể gây hại cho não. Rau xanh cũng có rất nhiều chất folate, một loại vitamin B bảo vệ óc.

-Các loại đậu và chickpeas có vitamin B6 và folate cũng như protein và cancium, không có chất béo bão hòa hoặc transfat.

-Vitamin B12 rất cần thiết để giúp hệ thần kinh và các tế bào não khỏe mạnh. Folate , vitamin B6 và vitamin B12 hợp chung sẽ loại bỏ homocysteine, là chất tích tụ trong máu – giống như chất thải nhà máy – và làm hư não.

-Ăn chay, nhất là ăn thuần chay rất tốt. Một nghiên cứu tại đại học Loma Linda cho thấy người ăn chay không chỉ sống lâu hơn những người ăn thịt mà họ giữ được sự minh mẫn lâu dài hơn.

Vận động bộ óc thường xuyên

Dùng những cách sau để vận động bộ óc:

-Làm trái tim đập mạnh hon: Đi bộ nhanh 40 phút ba lần mỗi tuần mang oxygen lên óc và có thể đảo ngược sự co rút do tuổi cao của óc, theo trường đại học Illinois.

-Vận động trí óc: Những bài tập kích thích não – từ sách, báo hay các bài tập não đã được chứng minh là làm óc mạnh lên.

-Ngủ. Giấc ngủ rất cần thiết để gìn giữ trí nhớ. Nửa đầu của đêm rất quan trọng cho giấc ngủ sóng chậm, khi bộ óc tổng hợp các sự kiện và từ ngữ học được trong ngày. Nửa thứ hai của đêm nhấn mạnh giấc ngủ REM, khi những cảm xúc và kỹ năng thể lý được tổng hợp. Nên đi ngủ vào khoảng 10:00 tối, và ngủ đủ tám tiếng hoặc nhiều giờ như có thể được.

-Bảo vệ trí nhớ của bạn
Tránh những “chất béo xấu” trong các loại thịt , các sản phẩm sữa, bánh ngọt ăn vặt, và tận dụng các chất dinh dưỡng tốt trong các loại rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt , và đậu. Vitamin B12 là một chất dinh dưỡng cần thiết. Và đừng quên tập thể dục cho thể xác cũng như tinh thần mỗi ngày.

Đừng chần chờ. Nếp nhăn bắt đầu rất sớm và cuộc sống cũng như tóc bạc và những thay đổi trong bộ óc đã bắt đầu và tiến hành trước khi hầu hết chúng ta nhận ra. Ngay bây giờ là thời gian để tận dụng các loại thực phẩm tốt cho não.

Anh chị Thụ Mai gởi

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 39 NĂM XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bài 1: Về đặc trưng thứ nhất và đặc trưng thứ hai

Trần Quí Cao

Ông Trần Quí Cao hứa với chúng tôi sẽ tập trung công sức viết một hệ thống gồm 4 bài xoay quanh chủ đề “đánh giá lại một cách tổng thể thành quả đạt được sau 39 năm Việt Nam xây dựng cái gọi là Chủ nghĩa Xã hội”. Nay cả 4 bài đã hoàn tất, ông gửi đến trang BVN. Xin được lần lượt đăng lên, mỗi ngày một bài, để bạn đọc rộng rãi tham khảo.

Bauxite Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam hạ quyết tâm tiến hành việc xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam dù phải trả bất cứ giá nào và dù chưa một lần trưng cầu dân ý để biết lòng dân có thuận hay không. Ngày 14/1/2011 ông Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, có bài tham luận cho rằng (1):

a. Xã hội Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng dựa trên thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về Chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

b. Xã hội đó có 8 đặc trưng thể hiện tính ưu việt của nó. Tám đặc trưng đó là:

1. Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ.

3. Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

4. Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

6. Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

7. Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

8. Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Từ sau năm 1975, khi toàn thể đất nước thu về một mối và toàn dân tộc Việt Nam nằm dưới sự lãnh đạo của đảng duy nhất của nước Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam (thực ra trước khi khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ, Việt Nam cũng có 2 đảng làm kiểng là Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội, tuy nhiên quyền lãnh đạo cũng hoàn toàn trong tay Đảng Cộng sản), cho đến nay đã hơn 39 năm, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại xem Việt Nam đã đạt được những thành quả nào trong tám đặc trưng nói trên. Trong bài này chúng ta sẽ xét đặc trưng thứ nhất, và chỉ đánh giá thành quả chứ chưa thảo luận nguyên nhân của các thành quả đó.

Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Dân giàu:

Năm 2012, tính trong các nước ASEAN, GDP/đầu người của Việt Nam nằm ở vị trí thứ 7 theo thứ tự như sau (2):

Brunei, Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Indonexia, Philippines, Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia.

Trong đó, GDP/đầu người của Việt Nam xấp xỉ bằng 1/7 của Mã Lai, bằng 1/4 của Thái Lan, bằng 1/2,5 Indonesia, bằng 1/15 của Hàn Quốc, và 1/30 của Nhật.

Vậy, Việt Nam có giàu không?

Nước mạnh:

Bàn về nước Mạnh hay Yếu, ta cần xét trên hai mặt:

1. Thứ nhất, mạnh là bảo vệ được chủ quyền, được tính tự chủ của quốc gia đối với kẻ đang muốn xâm chiếm đất nước. Luxembourg không có nguy cơ bị xâm lấn nên Luxembourg không cần mạnh. Với Luxembourg, chỉ cần giàu là mạnh. Với Việt Nam thì khác, mạnh có nghĩa là Trung Hoa không dám lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam dù đó là đất liền hay hải đảo.

2. Thứ hai, mạnh ở đây nên hiểu theo nghĩa tổng hợp, nghĩa là mạnh trên nhiều mặt: quân sự, ngoại giao, kinh tế, chính trị, nội trị… Sức mạnh tổng hợp của các mặt đủ khiến kẻ có dã tâm không dám lấn chiếm hay can thiệp vào chủ quyền của ta.

Ngoại giao: Việt Nam giao thiệp rộng, nhưng yếu vì không có bạn sống chết, nghĩa là không có đồng minh chí cốt, không là Đối tác chiến lược, không có Hiệp ước Phòng thủ chung với một đại cường quốc nào. Khi Trung Hoa tiến công lãnh thổ đất liền Việt Nam, không một quốc gia nào đứng cạnh Việt Nam. Khi Trung Hoa tiến chiếm biển đảo Việt Nam, không một quốc gia nào đứng cạnh Việt Nam. Chỉ khi Trung Hoa lộ rõ ý đồ độc chiếm biển Đông thì thế giới mới phản đối, nhưng để bảo vệ tự do hàng hải, chứ không phải vì Việt Nam là đồng minh chí cốt của họ. Về mặt này, so sánh Việt Nam với Nhật hay với Philippines, Hàn Quốc, ta thấy rõ rằng Việt Nam rất yếu ớt vì cô đơn ngoại giao.

Kinh tế: Việt Nam nằm ở vị trí thấp về thứ bậc kinh tế tính theo tổng hợp (composite) hay tính theo từng tiêu chí khác nhau. Hệ số ICOR là một trong các ví dụ rõ nét. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng và độ lớn của nợ công là những thí dụ khác. Nền kinh tế của VN càng yếu ớt hơn vì tính mất cân bằng và, do đó, tính lệ thuộc của nó. Sự lệ thuộc này, tai hại thay, lại là lệ thuộc Trung Hoa, nước ngàn năm nay luôn muốn chiếm nước ta, và hiện đang bộc lộ rõ ý đồ không chế Việt Nam!

Chính trị: Sự đoàn kết toàn dân làm nên sức mạnh của quốc gia, nhất là một quốc gia bên cạnh Trung Quốc to lớn và luôn mang ý đồ bành trướng. Chính thể độc tài và toàn trị đã phá hỏng nền tảng sức mạnh này của Việt Nam vì nó liên tục khiến lòng dân bất an và bất mãn. Do đó, nội trị tất phải dựa trên công an trị. Dưới bề mặt có vẻ như ổn định, xung đột sâu sắc giữa giới cầm quyền và dân chúng luôn trong trạng thái âm ỉ và có nguy cơ bùng phát. Sinh lực của dân tộc thay vì dành cho phát triển và bảo vệ tự chủ của quốc gia, lại bị dốc vào đàn áp và trấn áp. Sự hao tổn sinh lực này có thể so sánh với một cuộc nội chiến giới hạn cho dù chưa xảy ra chiến tranh giữa các thành phần dân tộc.

Một đất nước có nền ngoại giao cô đơn, kinh tế lệ thuộc, chính trị không phù hợp, nội trị bất an và tiềm ẩn nội loạn, thì vũ khí hiện đại nào có thể giúp chống ngoại xâm và giữ chủ quyền? Huống chi, sức mạnh kho vũ khí ta đang có cũng rất giới hạn so với kho vũ khí của nước đang uy hiếp chúng ta! Vậy thì, đối diện với Trung Hoa, nước duy nhất trên thế giới có ý đồ và khả năng xâm lược Việt Nam, Việt Nam chẳng những không mạnh mà còn rất YẾU so với họ.

Dân chủ: Một nước mà người dân không có quyền tự do ứng cử, bầu cử, không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, không có quyền tự do lập hội, lập đảng, một nước chỉ có một đảng độc tài và toàn trị, không có Tam quyền phân Lập, nước đó có làm gì có Dân Chủ!

Bình đẳng: Một nước chỉ có một đảng độc tài và toàn trị, và danh sách ứng cử viên vào Quốc hội phải được đưa ra bởi đảng độc tài đó, người dân trong nước có bình đẳng trong việc tiếp cận quyền lực không? Một nước mà, trong thực tế, người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể bị đưa ra tòa án (ngoại trừ khi đảng viên đó đã bị khai trừ khỏi đảng), thì dân chúng có bình đẳng trước pháp luật không?

Công bằng: Chính thể độc tài và toàn trị khiến quốc gia suy thoái mọi mặt, tầng lớp cầm quyền tham nhũng “không thứ gì không ăn” tạo thành một “bầy sâu tham nhũng lúc nhúc”, họ nắm hàng tỉ đô la trong một đất nước mà mức thu nhập trung bình trên đầu người khoảng hai ngàn đô la/năm. Đất nước có công bằng không? Một nước mà các cơ quan chính quyền cấp bộ nắm các tổng công ty hay công ty rất lớn, hoạt động kinh doanh trong nhiều lãnh vực kinh tế không liên quan hay liên quan rất ít với các lãnh vực then chốt về an ninh, quốc phòng… dân chúng trong nước có được tiếp cận nguồn lực phát triển của Tổ quốc một cách công bằng không?

Một nước không giàu mạnh, không dân chủ, không bình đẳng, không công bằng, nước đó không thể gọi là văn minh!?

Tóm lại:

Nước Việt Nam không đạt một tiêu chí nào trong 5 tiêu chí của đặc trưng thứ nhất là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

T.Q.C.

(còn tiếp)

Tài liệu tham khảo

1. Lê Hữu Nghĩa. “Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng”, tham luận tại phiên họp sáng 14/1 Đại hội XI của Đảng. (TTXVN/VIETNAM+) LÚC : 14/01/11 16:52.

2. Wikipedia. List of ASEAN countries by GDP (nominal). http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_ASEAN_countries_by_GDP_(nominal)

3. Wikipedia. Dân chủ. http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7

Nguồn: https://anhbasam.wordpress.com/2014/11/26/3124-danh-gia-thanh-qua-dat-duoc-sau-39-nam-xay-dung-xa-hoi-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-bai-1-va-bai-2/

Thiên nhiên đã nổi giận?

Thiên nhiên đã nổi giận?

RFA

Đất lở, đá chuồi, lũ quét, động đất, mưa đá, bão tố quăng quật… Hàng loạt thiên tai xuất hiện dày đặc và cuồng bạo ở khắp ba miền đất nước trong vài năm trở lại đây đã làm cho đời sống vốn nghèo khổ của đa phần người dân lại càng thêm khó khăn, ngột ngạt.

Thú rừng xuất hiện ngày càng nhiều ở đồng bằng sau mỗi trận lụt, và con người sau cái đói của ngày mưa tháng lũ lại hè nhau đi tìm thú để săn lùng, không có ngóc ngách nào là con người bỏ qua, từ đào đất tìm hang cho đến đặt bẫy, săn bắn, châm điện, ném thuốc nổ… Không có thủ đoạn nào là con người không dùng đến.

Khi con người càng điên cuồng với thiên nhiên, cái giá phải trả là thiên nhiên nổi cơn thịnh nộ bằng thiên tai, dịch hoạ, hiện tượng lạ bất lợi cho đời sống con người và hàng loạt những tai ương như một ẩn số luôn phục kích loài người.

Một tháng nay, hầu như cả miền Trung náo động vì chuyện rắn lục đuôi đỏ xuất hiện ngày thêm nhiều và số người bị loài rắn này cắn ngày càng gia tăng. Báo chí trong nước đã đồng loạt đưa tin về chuyện này. Có nhiều cách đặt vấn đề khác nhau, trong đó có người nghi ngại “nước lạ“ đã lén lút thả loài rắn này để cắn người Việt Nam, cũng có nhiều người lại nghiêng về giả thuyết thiên nhiên đã nổi giận.

Ở hướng giả thuyết thiên nhiên nổi giận, người ta nói về sự mất cân bằng sinh thái, sự mất đi số lượng quá lớn của cầy, cáo, chuột… Đã làm ảnh hưởng nặng nề đến nguồn thức ăn cũng như loài khắc tinh của rắn lục đôi đỏ, khiến nó trở nên hung dữ và tìm xuống đồng bằng để tìm thức ăn…

Nhưng trong giả thuyết này không đặt câu hỏi: Loài rắn này vốn dĩ không quen với môi trường đồng bằng, chủ yếu sống trên các dãy núi, trong đó phần lớn sống trong dãy Trường Sơn, làm thế nào nó đã thiên di hàng trăm cây số xuống đồng bằng để sinh sống? Và tại sao nó chỉ xuất hiện ở miền Trung? Và đáng sợ hơn cả là loài rắn vốn không sống trong môi trường nước này hiện tại có khả năng di chuyển trong nước rất nhanh, có thể sống trong môi trường nước một cách bình thường.

Phải chăng chỉ có miền Trung thường xuyên xãy ra lũ lụt, đặc biệt trong vài năm trở lại đây, sau những trận lụt lớn, ở đồng bằng xuất hiện nhiều thú rừng, rắn lục đuôi đỏ cũng là một trong những loài bò sát đã thiên di theo dòng nước nhưng con người chưa phát hiện, chưa săn bắt vì loài này có trọng lượng không lớn, sống kín đáo trong các lùm cây?!

Và những công trình thuỷ điện, hồ chứa mọc lên khắp miền Trung nhấn chìm hàng triệu mét vuông rừng tự nhiên vào lòng hồ cũng đã nhấn chìm hàng ngàn loài thú rừng xuống nước. Để thich nghi và tồn tại, loài rắn này tập làm quen với môi trường nước. Chính dòng nước lũ đã đưa chúng về đồng bằng?

Ở đồng bằng hiếm hoi chồn,cầy rừng, chỉ có chó nhà nhưng chó nhà không dám ra đường vì sợ bọn người đập trộm, chính vì thế, điều kiện sinh tồn của nó rấn đuôi đỏ rất cao. Đặc biệt năm nay tuy có mưa, độ ẩm cao nhưng thuỷ điện không xả đập, không có lụt, loài rắn này tha hồ sinh sôi nay nở vì gặp thời tiết thuận lợi… Thật là đáng sợ khi nghĩ đến chuyện môt ngày nào đó thuỷ điện xả lũ, nước tràn về bất ngờ, mọi thứ giao thông tê liệt, loài rắn này bò lỏm ngỏm trong dòng nước… Lúc đó, tai hoạ khó mà lường được!

Nhưng có phải vì thế mà tìm cách giết sạch loài rắn này? Câu hỏi này rất quan trọng đối với người Việt Nam. Với thói quen chỉ nhìn thấy trước mắt, đa phần nông nổi, thiếu tầm nhìn chiến lược, đã có hàng ngàn bài học trả giá bằng máu và nước mắt kể từ khi “thống nhất đất nước” đến nay nhưng người ta vẫn cứ để tái diễn bởi lòng tham và sự nông cạn.

Ngay ở trung tâm thành phố Sài Gòn và Hà Nội, nơi được xem là trung tâm kinh tế, văn hoá của hai đầu đất nước, người ta có thể ngang nhiên chặt bỏ hàng trăm cây gỗ lớn thuộc vào hàng cổ thụ trăm năm. Trong khi đó, để có một cổ thụ, phải tốn rất nhiều năm, thậm chí vài trăm năm, vài mươi thế hệ để trồng, chăm sóc và giữ gìn.

Nhưng để xây dựng bất kì công trình nào cho dù vĩ đại, tầm cỡ quốc tế, lịch sử gi gì đó, người ta cũng không tốn quá mười năm.  Điều đó cho thấy người ta đã mang cái hàng trăm, hàng ngàn năm ra đổi lấy cái vài năm. Cách làm này, con người tiến bộ và biết suy nghĩ không bao giờ chọn, bởi nó không chỉ mang tính lich sử, nhân văn mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh của con người.

Một cây gỗ rừng phải tốn đến cả vài trăm năm, thậm chí những cây gỗ lớn, thuộc hàng danh mộc có thể sống cả ngàn năm nơi rừng thiêng, nhưng, với con người, đó là món hời để ốp trần nhà, ốp tường, thậm chí lót sàn để thể hiện “đẳng cấp”. Không ai dám trả lời ngôi nhà tồn tại được bao lâu, khi nào người ta sẽ đập phá để xây dựng cái mới nhưng cái cây thì chắc chắn mất đi vĩnh viễn!

Cũng như để ngồi nhậu với nhau vài giờ đồng hồ, người ta sẵn sang bỏ ra hàng đống tiền để giết chết một con vật đã tồn tại và giúp con người cân bằng sinh thái mấy mươi năm. Không ai trả lời được là bữa nhậu giúp ích được gì và sự ích lợi này kéo dài được mấy năm.

Chung qui, để thoả mãn sự ham thích, lòng tham ngắn ngủi, con người đã bất chấp đánh đổi những gì vốn dĩ tồn tại lâu năm, có quan hệ mật thiết với đời sống của đồng loại cũng như đời sống của hành tinh này. Nhưng, ai đã đánh đổi?

Một người nghèo có đủ khả năng ốp trần nhà, ốp tường nhà, lót sàn nhà bằng gỗ quí, gỗ lâu năm? Một phó thường dân có đủ khả năng chi trả một bữa nhậu thịt rừng quí hiếm trong nhà hàng sang trọng? Không, chỉ có những quan chức, những triệu phú, tư bản đỏ mới đủ khả năng làm chuyện này!

Đến đây, không cần nói gì thêm, ngay cả bài học thời niên thiếu dưới mái trường Cộng sản xã hội chủ nghĩa về một đất nước “rừng vàng biển bạc…” cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đất nước khô kiệt tài nguyên, thú hoang tan loạn chạy và đụng chạm với con người như hiện tại.

Thiên nhiên đã nổi giận. Nhưng nổi giận với ai? Và ai đang hưởng thụ, ai đang trả giá cho việc hưởng thụ ngu xuẩn đó. Đã đến lúc cần phải trả lời rốt ráo và giải quyết triệt để câu hỏi này!

Lịch sử Ngày Lễ Tạ ơn

Lịch sử Ngày Lễ Tạ ơn

Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng  

  • 1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
  • 2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower
  • 3/ Nơi đến không định trước
  • 4/ Khó khăn lúc đầu
  • 5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
  • a) Lễ Tạ Ơn tại Mỹ
  • b/ Lễ tạ ơn tại Canada
  • 6/ Các món ăn
  • 7/ Tem cho lễ Thanksgiving
  • 7/Hình ảnh của Mayflower

1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  do  những  nguyên do khác  nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh… Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ

Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn  của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận.  Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..

Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng  năm có tổ chức  lễ hội để cúng dường Demeter,  nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.

Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và  lễ lạc

Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người  Do Thái vẫn còn tồn  tại từ ba ngàn năm đến nay

Nhà  thám hiÃm Martin Frobisher

Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng trưng  múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông  bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang  lại sự phồn thịnh cho những ai bà  muốn ban phước.

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  có  những  lý do khác  nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh…

Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower

Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người  rất sùng  đạo Tin lành đã bị  vua Jacques đệ nhất đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) .  Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng.  Tại Anh, có những  cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng  không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát… Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một “Jérusalem mới” ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng  Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến  vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.

3/ Nơi đến không định trước

Các Pilgrims  lên tàu vào tháng  9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra  tai nạn về lửa nên  người ta phải ăn thức  ăn  lạnh. Nhiều hành khác  đau bịnh.  Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là “người đã làm một chuyến du hành”). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau  65 ngày trên biển lạnh, , vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc  đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy  biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước  sống  hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những  viên chức  hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng  ngày càng rộng  lớn  ra, không thể mời tất cả các  trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.

4/ Khó khăn lúc đầu

Le premier repas de Thanksgiving (novembre 1621)

Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620.  Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước  hòa bình với người dân da đỏ khi vực  láng giềng  (Narranganset và  Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng  không  quan trọng  lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch  đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số  18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp.   May mắn thay mùa gặt năm 1621  thành công giúp những  người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ  Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức  lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.

Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên  họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang  một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng  và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.

5/ Định ngày lễ Tạ Ơn

a) L ễTạ Ơn tại Mỹ

Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông
Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên  ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc  lập và khi George Washington thoát khỏi cuộc bao vây ở  Valley Forge, ông đã  tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.

 

 

Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc  thành lập ngày lễ Tạ Ơn  và sau đó bà Sarah Josepha  Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.

Đến khi  Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11

Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến,  Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công  lao những người đã hy sinh và ông Franklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.

b/ Lễ tạ ơn tại Canada:

Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng  10

Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã  sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những  buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức  tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện  mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước

6/ Các món ăn:

Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không  thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ “turkey” lúc  bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ … Chắc chắn là họ không làm bánh nướng  nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông  không  ăn  khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống  lại các côn trùng, nên  đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).

Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp

Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây  luôn luôn được gắn liền với lễ này

Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống  những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.

7/ Tem cho lễ Thanksgiving

Năm 2000  được tuyên bố là năm quốc tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba văn phòng của Liên Hiệp Quốc ngụ tại Gabrielle Loire (Pháp) và Rorie Katz (Hoa Kỳ)

8/ Hình ảnh của Mayflower

Sau khi rời Plymouth, những  ngày đầu tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..  Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị ngọn khổng  lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ. Ông  là người thứ 13 ký tờ  Mayflower Compact Act và cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn  lần đầu. Ông sinh 10 con  và  82 cháu. Tưởng tượng  nếu như ông  buông tay và không được cứu sống thì sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley

http://www.mikehaywoodart.co.uk

Dr Mike Haywood họa sĩ chuyên vẽ tranh và chân dung về biển

Bài đọc thêm:

George Washington

Abraham Lincoln

Franklin Delano Roosevelt

Anh chị Thụ Mai gởi

MỪNG CHÚA ĐẾN TRONG GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỀ GIAO THÔNG CÔNG CỘNG

MỪNG CHÚA ĐẾN TRONG GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỀ GIAO THÔNG CÔNG CỘNG

Tác giả: Lm. PX. Ng Hùng Oánh

Công đồng Vatican II dạy : (Quod ultra individualisticam ethicam progediendum sit)  Profunda  et velox rerum immutatio urgentius postulat ut nemo sit qui , ad rerum cursum non attendens vel inertia torpens , ethicae  mere individualisticae indulgeat. Iustitiae ac caritatis  officium  magis ac magis adimpletur per hoc quod unusquisque , ad bonum commune iuxta  proprias capacitates et aliorum necessitates conferens , etiam institutiones sive publicas sive privatas promovet et adiuvat quae hominum vitae conditionibus in melius mutandis inserviunt . Sunt autem qui , largas generosioresque opiniones profitentes , ita tamen semper reapse vivunt ac si nullam societatis necessitatum curam habeant. Immo plures , in variis regionibus , leges et praescriptiones sociales minimi faciunt . Non paucis , variis fraudibus ac dolis , iusta vectigalia vel lia quae societati debentur effugere non verentur . Alii normas quasdam vitae socialis ,e , gr, ad valetudinem tuendam , aut ad vehiculorum ductum moderantum statutas , parvi aestimant , non animadvertentes se tali incuria vitae suae et aliorum periculum in ferre. (Gaudium et Spes. 30)

(Cần vượt xa ra khỏi thứ luân lý cá nhân chủ nghĩa ) Hoàn cảnh biến đổi sâu rộng và nhanh chóng đòi hỏi cấp bách đừng ai chủ trương một thứ luân lý duy cá nhân mà không lưu tâm hoặc không màng chi  tới diễn tiến thời cuộc .Bổn phận công bình và bác ái được chu toàn mỗi ngày một hơn là do mỗi người biết , tùy theo những khả năng của mình và nhu cầu của kẻ khác mà mưu ích chung, bằng cách cổ võ và trợ giúp những tổ chức công hay tư nhẳm cải thiện những điều kiện sống của con người . Lại có những  người ngoài miệng thì chủ trương rộng rãi và đại lượng , mà thực tế họ luôn luôn sống như là chẳng quan tâm gì tới những nhu cầu của xã hội . Hơn nữa tại nhiều nơi có nhiều người cỏn coi thường các luật lệ và những quy định của xã hội. Một số người không ngần ngại dùng những hình thức gian lận và lừa đảo để trốn những thuế vụ chính đáng hoặc trốn tránh những gì xã hội đòi buộc . Có người lại coi nhẹ một số luật lệ trong cuộc sóng xã hội , chẳng hạn những luật lệ liên đới tới bảo vể sức khỏe , hoặc việc xe cộ lưu thông , bởi vì họ không nhận thức rằng do bất cẩn như thế sẻ gây nguy hiểm cho tính mạng của họ và của những người khác (Bản dịch của Giáo hoàng học viện Pio X )

Những điều có thể thành tội do Công đồng nêu ra :

Người ta coi thường luật lệ liên quan tới sức khỏe như :

  1. Không giữ vệ sinh chung ( vứt vác ra đường, phóng uế ngoài đường..).
  2. Làm cho môi trường sống bị nhiễm độc ( xả rác độc ra sông,  vào không khí … )
  3. Ngay cả khi không chích thuốc ngừa bệnh để cho mình mắc bệnh làm cho người khác lây bệnh .

2. Người ta coi thường luật lệ giao thông công cộng như ;

a. Lái xe trái đường.

b. Lái xe vượt qua đèn đỏ .

c. Lái xe khi mình đang ngà ngà rượu .

Tất cả những điều nầy buộc đòi phải tránh, không phải chỉ tránh khi biết rõ sẽ gây ra tai nạn cho mình hoặc cho kẻ khác trong trường hợp cụ thể, dự đoán chắc chắn xảy ra, mà còn phải tránh trong trường hợp phỏng đoán nữa giống như phải tránh dịp tội gần mà còn phải tránh dịp tội xa, nhất là vì sự hữu ích  của luật lệ (vì sự hữu ích của luật lệ nên tôi phải giữ kể cả khi không có nguy cơ gần hoặc xa ).

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

Sự Im Lặng Ngọt Ngào

Sự Im Lặng Ngọt Ngào

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa của thành phố New York để trở về nhà.

Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ, theo truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đang đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để truyện trò với nhau.

Wendy hiểu được “tiếng nói” ra dấu bằng tay, vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật, nên cô đã học được cách ra dấu tay, để trò truyện với những người câm điếc.

Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã khá thông thạo “tiếng nói” này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm xe, Wendy đã “nghe lóm” được câu chuyện của hai người.  Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì “trả lời” là anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực này, nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái.  Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay, để “nói” trong câu chuyện của họ.

Khi xe lửa đến trạm, thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ e-mail cho nhau.  Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò truyện dùng tin nhắn của điện thoại cầm tay, rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau.
Chàng trai tên là Jack và cô gái tên là Debbie.  Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập cảng, và ở cách nhà Wendy không xa.

Từ những tin nhắn điện thoại, e-mail thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chỗ trở thành bạn thân lúc nào không hay.  Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong công viên, nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ ngơi.

Tuy phải ra dấu để trò truyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện, mà cô lại có dịp trau dồi “tiếng nói bằng tay”, để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn. Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu “I Love You”, thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.

Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào “phòng trò truyện” (chatroom) đấu láo với bạn bè. Mỗi khi Wendy đặt câu hỏi, “Bạn có thể có tình yêu với một người câm điếc hay không?”, thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát.  Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.

Vào dịp lễ Tạ Ơn năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu, “Wendy có chịu làm bạn gái của mình không?” Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc, nhưng tiếp theo đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân.

Quả nhiên, cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái “lầm đường lạc lối” trở về.  Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ cô vận động tới để thuyết phục cô.

Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack. Cô cho mọi người biết là thái độ lạc quan cùng đầu óc thực tế và tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi anh hơn là với những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.

Gia đình sau khi nghe cô giải bày đã không còn quá khắt khe phê bình nữa.  Mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người.

Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12, sau khi mọi người đã hưởng được một đêm Giáng sinh bình yên cho tâm tư lắng đọng.   Wendy đã có quyết định trong đầu là nếu như cha mẹ và anh chị của cô có những cử chỉ cùng hành động khinh miệt Jack, thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để xin ơn và sự chúc lành của Thiên Chúa.

Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack.  Chàng mỉm cười ra dấu cho nàng:

– Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.

Đó là lần đầu tiên trong đời, cô sinh viên Trường Dược rơi những giọt lệ cảm động.  Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ.  Nàng nói:

– Thưa ba mẹ, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc đến.

Câu nói của nàng vừa thốt ra, thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất.  Chàng nhào tới ôm nàng trong vòng tay khỏe mạnh của chàng.

Một điều mà Wendy không thể ngờ được, là nàng bỗng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ miệng của Jack:

-Trời đất, em biết nói à?

Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.

Mọi người ngoài cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên, trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm, thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến, mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt, vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian

“…Thượng Đế của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm qua…Dành cho những ai yêu, nhưng chưa dám thổ lộ cùng người mình yêu.”

Anh chị Thụ Mai gởi

ÁNH-SÁNG TẠ-ƠN

ÁNH-SÁNG TẠ-ƠN

Nguyễn Văn Thông

Đối với người lành và nhạy-cảm thì chuyện tạ-ơn là chuyện mỗi ngày vì họ lúc nào cũng đầy lòng khiêm-tốn nhận ra mọi khía-cạnh trong đời sống đều có sự liên-quan rộng-lớn, đều là sự cống-hiến của nhiều người. Cơm ăn, áo mặc, phương-tiện đi lại, truyền-thông, mạng nối toàn cầu, bài ca, điệu nhạc, những bức tranh đẹp, những sự-kiện lịch-sử, gia-đình, bạn-hữu, tình thân-ái…. tất cả đều đóng một vai-trò làm cho cuộc đời thêm phong-phú, tươi-đẹp. Cho nên ngày lễ Tạ Ơn mỗi năm đối với họ chỉ là một dịp đặc-biệt để bày-tỏ và tôn-vinh tấm lòng biết cảm-nhận mỗi người cần phải có đối với người và thế-giới quanh mình.

Thế nhưng ta không thể phủ-nhận rằng có những người và hoàn-cảnh đáng thương đến độ khó làm cho người ta nghĩ đến sự tạ-ơn cho được. Họ là những người bị bệnh nan-y, bị bỏ quên, cô-độc, hay tàn-phế… Tôi thường nghe người ta an-ủi nhau bằng lời nói rằng, “Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống thì chẳng ai bằng mình” mà đôi khi thấy lòng bất nhẫn. Thế những người không bằng ai, ở đáy của sự cùng-cực thì làm sao? Họ so-sánh với ai được để thấy mình đỡ khổ? Thế hóa ra ta an-ủi mình bằng sự ganh-tị, nghĩa là ta cần có người kém mình để thấy mình đỡ khổ hay sao? Tại sao ta đánh lừa mình như thế? Thực ra câu tục-ngữ trên cũng đúng ở khía-cạnh bảo cho ta rằng, ta chưa khổ lắm đâu, ta đang hưởng nhiều điều hay mà ta không chịu nhìn-nhận. Có thể ta đứng núi này trông núi kia cao.

Dầu sao, cả hai mặt, ta khó có thể phủ-nhận. Trong khi ta đang được hưởng bao ơn lành, có thể còn lẫn-lộn những khổ-đau thì có những người đau-khổ cùng-cực mà không ai có thể thông-cảm được, sự đau-khổ của họ vượt ra ngoài kinh-nghiệm và tầm hiểu-biết của ta.

Năm vừa qua mẹ tôi qua đời sau 21 năm bị tai-biến mạch máu não, trong đó có 10 năm nằm liệt giường. Bố tôi là người chăm-sóc hầu-hết thời-gian ấy một cách tuyệt-vời thì bỗng khám-phá ra bị ung-thư gan. Từ lúc khám-phá ra đến lúc ra đi chỉ có sáu tháng. Mẹ tôi mất sau bố tôi ba năm. Tôi là con trai cả nhưng chưa gặp mặt bố mẹ suốt 32 năm. Khi bố tôi nằm bệnh, tôi gọi về bằng Skype, bố con nhìn thấy nhau. Bố cười bảo vợ chồng tôi nom còn đẹp đôi lắm. Tôi quan-sát bố nằm trên võng từ đầu tới chân. Hai gót chân của bố tôi nhẵn-nhụi và trắng hồng. Tôi bảo, “Gót chân thầy đẹp quá, con chưa bao giờ thấy. Hồi xưa chỉ thấy gót chân thầy nứt-nẻ vì cả đời lội ruộng rau muống và gánh nước tưới rau. Gót chân thầy bây giờ đẹp hơn gót chân con, hơn 30 năm ở Mỹ mà vẫn sần-sùi nứt-nẻ.” Tôi cảm thấy vui, coi như được đánh đổi chút gì với bố. Tôi ngập-ngừng nói, “Con không về được…” Bố tôi bảo, “Khỏi về. Bố con mình hẹn nhau trên Thiên Đàng.” Tôi gạt ngấn nước mắt tràn mi trong nỗi buồn vui lẫn-lộn.

Bố tôi mất được vài năm thì tôi theo được thằng con trong quân-đội đi công-tác ghé vào Việt Nam. Cháu báo cho tòa đại-sứ Mỹ dòm chừng cho tôi về thăm mẹ. 32 năm vật đổi sao dời, cái ngõ cũ nhà tôi không còn như xưa, người quen lối xóm nhìn kỹ mới nhận ra được vài người, nhiều thế-hệ lớn lên ngơ-ngác. Tôi gạt đi trăm thứ chuyện để chỉ chú ý đến mẹ, chị và các em. Mẹ  bây giờ nặng tai, nói chuyện thật khó. Tôi xắp-xếp gường cho mẹ; vợ tôi đi giặt màn, chăn, gối, rồi chúng tôi lau chùi quanh phòng, quanh nhà. Tới ngày về, chúng tôi không biết Sàigòn có món ăn nào ngon nhưng cảm thấy ấm lòng.

Về Mỹ, trong cộng-đoàn nhà thờ của tôi, Cô Lan có bố ruột và bố chồng vừa vào nhà thương vì bệnh ung-thư gan hay phổi. Các bác đều đã lớn tuổi nên việc khám-phá ra bệnh cũng là lúc đáng lo. Thế là trong gia-đình có tới ba người bệnh nặng. Cô Lan mới bốn mấy mà đã chiến-đấu với bệnh ung-thư của cô đã năm năm, từ khi mang bầu đứa con út, bác-sĩ khám thai tìm ra. Thằng nhỏ lớn mấy tuổi là từng đó năm Cô Lan mang bệnh. Mái tóc dài mượt rụng dần cho tới khi cô phải đội khăn như một bà già trầu. Cả cộng-đoàn Mỹ cũng như Việt coi cô như người thân. Thấy vắng cô một ngày lễ là hỏi-han. Thấy cô đến được nhà thờ là túm lại thăm-hỏi. Tôi nhìn chồng cô và ba đứa con mà xót-xa.

Ngày tháng trôi đi lúc nhanh lúc chậm. Tôi quen nhiều với bố Cô Lan hơn bố chồng cô. Bác hay đến với ca-đoàn chúng tôi xin cầu-nguyện, khi thì ý này, lúc thì ý nọ. Bác nhìn gầy và da mặt xám hơn nhưng vẫn còn nhanh-nhẹn, vẫn giữ nụ cười tươi khi nói chuyện. Hè vừa rồi bác quyết-định về Việt Nam thăm gia-đình đứa con còn lại và các cháu, bảo là lần cuối. Khi trở lại, nhìn thấy bác vẫn bình-thường. Hỏi thăm, câu trước câu sau, bác bảo, “Xin anh chị cầu-nguyện cho em Lan.” Bây giờ Bác không còn lái xe được nữa nên rủ tôi đi thăm một người bệnh trong hospice (nơi an-dưỡng chờ chết) sau thánh lễ buổi sáng ngày thường.

Người bệnh trong hospice qua đời sau đó vài tuần, là một cựu quân-nhân VNCH, chẳng có thân-nhân, bộ xương bọc da nằm dưới lớp chăn nhìn như không, không có bề dầy nào nổi lên. Vài tuần sau, bác và bác thông-gia vắng bóng ở nhà thờ. Những buổi đọc kinh Lòng Chúa Thương Xót không còn bác quay xuống nói ý-chỉ cầu-nguyện. Ít tuần sau, bác thông-gia qua đời.  Bãi đậu xe của nhà quàn đầy xe vào buổi chiều viếng xác. Hình như bà con ra về vì cần nhường chỗ cho người đến sau.

Sau một tuần, bố Cô Lan qua đời. Mấy ngày trước đó, tôi tới thăm và đọc kinh. Niềm tin của bác vững-vàng, bác sẵn-sàng ra đi, nhưng đôi mắt bác ướt long-lanh. Tôi đoán bác đang nghĩ tới con gái và ba đứa cháu. Tôi không biết cuộc đối-thoại của bác với Chúa có những gì. Bác gởi-gấm hay năn-nỉ Chúa điều gì? Bác gái lúc nào cũng như một chiếc bóng can-trường, và dính chặt với bác trai khi bác trai ra đi. Tôi thấy Cô Lan ngồi trên xe lăn do chồng cô đẩy trước cửa nhà quàn ngày viếng xác bố, đầu cúi xuống. Đôi vai cô chỉ còn xương lồi-lõm trong bàn tay tôi. Bạn-bè và người thân cố mỉm một nụ cười với cô. Vài người Mỹ già lẩm-bẩm, “God has to do something!” (Chúa phải làm gì chứ!)

Đấy là lần cuối cùng tôi thấy cô còn sức sống. Hơn một tuần sau, buổi sáng sớm ở sân trước nhà nguyện đông người nhưng im-lặng khác thường. Có tiếng thì-thào, “Lan vừa qua đời sáng nay.” Rồi chỉ còn những ánh mắt, mọi âm-thanh khác mất hút vào chân-không. Chuyển-động còn đó chậm-chập trong không-gian nhưng câm-lặng. Tôi không thể cảm được sự đổ-vỡ nào trong lòng người ở lại – chồng Cô Lan và các con, và tấm lòng của người bà đối với các cháu.

Lễ an-táng Cô Lan đầy người, Việt và Mỹ. Ca-đoàn trang-trọng hát bài Cô Lan đã chọn cho mình từ mấy tháng trước cho lễ an-táng của mình: “All I Ask Of You”. Con chỉ xin Chúa một điều là nhớ đến con là người yêu Chúa. Dù ở chân trời góc biển nào trong đời, trong niềm vui hay nỗi đau, nơi tim con có Chúa hiện-diện. Chúa là ơn-huệ cho con cho tới ngày thân con rã-tan trong tro bụi…

Cô Lan ơi, cảm ơn cô cho tôi một ánh-sáng tạ-ơn. Trong những năm tháng đau thương, cô có bao giờ nhìn lên hay nhìn xuống để thấy mình “chưa đến nỗi nào” để nói lên được lời tạ-ơn không nhỉ? Tôi nghĩ cô đã khám-phá ra nguồn tạ-ơn trong đau-khổ sâu-xa hơn sự so-sánh đánh lừa mình khi khám-phá ra tình-yêu Chúa, Đấng cứu-chuộc nhân-loại qua đau-khổ, Đấng thánh-hóa đau-khổ, Đấng mời gọi những con người quảng-đại mang trong cuộc đời mình những đau-khổ, biến chúng thành phương-tiện cảm-thông, tương-thân tương-trợ, biết xót thương, biết tìm-tòi để xoa-dịu nỗi đau của tha-nhân.

Cảm-tạ Chúa đã chịu đau-khổ. Tạ-ơn Chúa cho con cảm-nhận được giá-trị của khổ-đau.

Nguyễn Văn Thông

Thanksgiving 2014

Anh chị Thụ Mai gởi

Hãy luôn tỉnh thức!

Hãy luôn tỉnh thức!

Chuacuuthe.com

VRNs (29.11.2014) – Tin Mừng CN I Mùa Vọng – Năm B (Mc 13, 33-37)

Ở Việt Nam, thỉnh thoảng nơi công cộng, nơi nhà ở chúng ta thấy những bảng cảnh báo “coi chừng móc túi”, “coi chừng mất xe”, “coi chừng chó dữ”, … xem ra đáng xấu hổ cho người Việt mình quá! Nhưng đó lại là những lời nhắc nhớ chúng ta đề phòng, cảnh giác để khỏi phải “tiền mất tật mang”, “hao tài tản mạng” rất đáng để lưu ý.

Mở đầu Năm Phụng vụ, chuẩn bị đón mừng Đại lễ Giáng Sinh, cũng tương tự thế, Giáo hội cho chúng ta nghe lại những lời cảnh báo của Chúa Giêsu. Nhưng không phải nghe chỉ để khỏi bị hao tài tản mạng, mà hơn thế nhiều, quan trọng hơn nhiều, lời cảnh báo của Chúa liên quan đến “phần rỗi” của mỗi người chúng ta!

“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến!”(Mc 13, 33).

Phải coi chừng! Phải tỉnh thức!

Chúa không bảo “hãy” coi chừng, “hãy” tỉnh thức! Đó chỉ là một lời kêu gọi, nhắc nhớ. Nhưng Ngài bảo “phải” coi chừng, “phải” tỉnh thức. Như một đòi buộc gắt gao cho tất cả mọi người chúng ta, bất kể là ai.

Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã nói rõ ràng: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!(Mc 13, 37).

Mừng Chúa Giáng sinh trong những ngày sắp đến đây, chúng ta nhớ lại một kỷ niệm trọng đại ngày Con Chúa Giáng Trần, không chỉ vậy thôi! Nhưng “phải coi chừng, phải tỉnh thức” “vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến”(Mc 13, 35b), mới thật là quan trọng!

Chủ nhà là Thiên Chúa chúng ta sẽ đến cách vinh quang sáng láng, trong ngày tận cùng của vũ trụ để phán xét kẻ lành người gian. Chủ nhà là Thiên Chúa chúng ta cũng sẽ đến với riêng từng người, trong ngày cuối cùng của một kiếp làm người.

Cả hai cách đến của Chủ Nhà thì không ai biết được:

Khi các môn đệ hỏi về ngày giờ của cách đến thứ nhất, Chúa Giêsu đã trả lời rõ ràng: “Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi”(Mt 24, 36).

Rõ rồi nhé!

Còn cách đến thứ hai cho riêng mỗi người chúng ta, thì ôi thôi “thiên hình vạn trạng”! Ngày giờ thì chẳng biết đâu mà lần, như chúng ta đã quá biết về những cái chết bất ngờ cho tất cả mọi người thuộc mọi lứa tuổi, mọi kiểu mọi cách, mọi nơi mọi chốn, …!

Nói tóm lại là tất tần tật, đủ cách đủ kiểu … chết!

Chắc chúng ta không thể nào quên được sự kiện thảm khốc 11/9/2001 tại Mỹ, trong chốc lát đã làm chết 2.974 người, 24 người mất tích! Và trận động đất sóng thần Tohoku kinh hoàng ngày 11/3/2011 tại Nhật, con số còn khủng khiếp hơn: 15.854 người chết, 3.155 người mất tích, 9.677 người phải thương tật!

Theo thống kê hiện nay, trên thế giới trong vòng một phút thì có khoảng 200 người được “thần chết” đến thăm! Tại Việt Nam hiện nay, chỉ tính riêng vì tai nạn giao thông không thôi, một ngày đã có khoảng 26 người phải “chầu diêm vương”!

Thế đó, chẳng biết lúc nào đến lượt Bạn và tôi – chúng ta được “chủ nhà đến”? Do vậy Chúa đã bảo chúng ta phải coi chừng, phải tỉnh thức. Đó là điều đương nhiên với tấm lòng một Người Cha, luôn lo lắng để nhắc nhớ con cái mình.

Vậy thì, Bạn và tôi – chúng ta phải coi chừng, phải tỉnh thức như thế nào đây?

Không có gì to tát, phải lo lắng lắm đâu! Không cần phải thức suốt đêm với súng ống để canh giữ, đừng cho “thần chết” vào nhà mình đâu! Không cần phải mua thật nhiều nến, đến nhờ ông cha làm phép, để đề phòng “tối 3 ngày 3 đêm” đâu! …

Đơn giản thôi!

Bạn và tôi hãy cố gắng, luôn sống trong Ơn Thánh Chúa với tâm hồn đơn sơ tốt lành, tốt lành với Chúa và với mọi anh em. Trong mọi chức vụ, công việc, bổn phận của hôm nay, của hiện tại, hãy lo chu toàn cách tốt lành với hết trách nhiệm và lòng yêu mến. Để bất cứ lúc nào “chủ nhà đến”, chúng ta cũng đều “vô tư” thoải mái trả lời như Thánh Đôminicô Saviô sau đây:

Một hôm đang trong giờ chơi thể thao với các bạn, bất ngờ Thánh Gioan Boscô gọi cậu Saviô ra và hỏi:

  • Nếu ít phút nữa Chúa gọi con về với Ngài, thì con sẽ làm gì?
  • Thưa cha, thì con vẫn tiếp tục chơi – Saviô đơn sơ mau mắn đáp.
  • Thế con không vào Nhà nguyện cầu nguyện hay đi xưng tội sao? – Thánh

Boscô tiếp tục.

Vẫn thái độ bình thản, Saviô vui vẻ trả lời Cha Boscô:

  • Thưa cha, bây giờ là giờ thể thao, mọi người phải chơi cho thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ làm như vậy là đẹp ý Chúa nhất. Vả lại, tâm hồn con lúc nào cũng trong tình trạng sẵn sàng để về với Chúa mà!

Thật tuyệt vời phải không Bạn?

Cũng thái độ tích cực, luôn sẵn sàng như thế trong mọi bổn phận Chúa đã trao, Đức Hồng y Fx Nguyễn Văn Thuận cũng đã viết: “Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn Chúa, là tìm Nước Chúa, là tin ở tình yêu vô bờ của Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người ngay trong giây phút này(ĐHV 26).

Với sự hèn kém của mình, chắc chắn chúng ta khó có thể sống được như các Thánh. Nhưng trông cậy vào Ơn Chúa, chúng ta cố gắng tập tành ngay từ hôm nay, luôn biết chuẩn bị, tỉnh thức, sẵn sàng để “khi nào chủ nhà đến, lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”(Mc 13, 35b) đều không “bắt gặp anh em đang ngủ”(36 b).

Nếu cố gắng được như thế, thì không lẽ gì mà Ông Chủ không ban thưởng cho chúng ta lúc Ông về nhà, đúng không?

Còn nếu không cố gắng, không chuẩn bị sẵn sàng, mà Ông Chủ về bất ngờ, lúc tâm hồn chúng ta đang mãi mê trong tội, thì sao đây? Cánh cửa nào sẽ mở cho chúng ta đây?

Chắc chỉ có 2 cửa thôi: hoặc là Hỏa ngục, nơi phải xa cách Chúa đời đời; hoặc là may mắn hơn, nơi Luyện hình để chờ đợi ngày về với Chúa!

Ước mong Bạn và tôi – chúng ta bước vào Mùa Vọng với một tâm hồn chuẩn bị chu đáo. Luôn luôn tỉnh thức, sẵn sàng để chào đón ngày Con Chúa ra đời và một Mùa Giáng Sinh sắp tới trong hoan lạc, an bình!

Micae Hữu Liên

THÊM BẠN – BỚT THÙ

THÊM BẠN – BỚT THÙ

Tác giả: Luật sư Đoàn Thanh Liêm

Tôi thật tâm đắc với câu khuyên nhủ chỉ gồm có 4 chữ rất là thông dụng trong dân gian. Đó là câu : “Thêm Bạn – Bớt Thù”. Và tôi luôn cố gắng noi theo lời khuyên bảo chí tình đó. Tôi xin chia sẻ với bạn đọc cái kinh nghiệm bản thân mình đã trải qua, đại khái như sau.

Chữ Bạn luôn đi kèm với một chữ hay vài chữ nữa như là : Bạn bè, Bạn hữu, Bạn quý, Bạn hiền; Bạn thân thiết, Bạn tâm giao, Bạn vong niên, Bạn đồng môn, Bạn đồng nghiệp, Bạn đồng cảnh v.v…

Cũng tương tự như vậy, chữ Thù thường đi kèm với một hay vài chữ nữa, như : Thù nghịch, Thù óan, Thù hằn, Thù ghét; Thù truyền kiếp, Thù dai dẳng, Thù ân óan, Thù hận chồng chất; “Lòng hận thù ngất trời” như trong bài hát “Giải Phóng Miền Nam” của tác giả Hùynh Minh Siêng (tên thật là Lưu Hữu Phước) v.v…

Nói chung, thì bạn hữu là những người có mối tình cảm thuận thảo tốt đẹp với ta, luôn gắn bó chia sẻ với ta trong lúc vui cũng như trong lúc buồn  – chia vui với ta lúc ta gặp may mắn thành công thắng lợi – cũng như thăm viếng an ủi ta khi ta gặp chuyện xui xẻo đau buồn họan nạn.

Ngược lại, kẻ thù thường gây cho ta cái cảm giác bất an, không thỏai mái vì ta luôn phải đề phòng trước những sự việc, tình huống mà họ sẵn sàng gây ra cho ta – như gây tranh cãi, gây hấn, nói xấu, phao tin thất thiệt về cuộc sống riêng tư của ta. Họ thường tìm cách gây thiệt hại, gây khó chịu cho ta cách này cách khác – do sự óan thù, tỵ hiềm, ghét bỏ vốn tích lũy từ lâu ngày …

1 – Như tôi đã có dịp viết là mình có hai niềm say mê vui thích, đó là vui thú với sách vở, báo chí và vui thích gắn bó thân thiết với bạn bè. Bạn thân thiết từ hồi còn học chung với nhau trong lớp bậc Tiểu học trước năm 1945 và sau này ở bậc Trung học trước năm 1954. Bạn đồng nghiệp trong công sở, trong Luật sư đòan. Bạn đồng đội trong quân ngũ. Bạn chung với nhau trong họat động xã hội trước năm 1975. Và nhất là bạn cùng bị giam giữ trong nhà tù cộng sản sau năm 1975 v.v…

Tôi đã có được niềm vui thật trong sáng, tươi đẹp với cả ngàn các bạn mình có duyên được quen biết, sát cánh bên nhau trong nhiều năm tháng của cuộc đời mình. Và các bạn đó luôn quí mến bao bọc nâng đỡ cho tôi mỗi khi tôi gặp tai nạn hay đau bệnh gì – trong đó phải kể đến khá đông các bạn là người ngọai quốc nữa. Hơn thế nữa, tôi còn học hỏi được từ nơi các bạn ấy nhiều điều quý báu, ích lợi cho bản thân mình – thật đúng như câu nói trong ca dao tục ngữ từ xưa là : “Học Thầy chẳng tầy học Bạn” vậy.

2 – Còn về mặt Thù nghịch, Ân óan với ai trong xã hội, thì quả thật là tôi không có bất kỳ sự kình địch, oán hận, thù hằn đối với riêng một ai cả. Có người nói xấu về tôi, nhưng tôi cố gắng không bao giờ đối đáp, hay ra tay đôi co hạch hỏi đối với họ. Tôi coi là mình đã gặp được nhiều cái may lành ở trên đời rồi, do đó mà sẵn sàng chịu thua thiệt chút đỉnh, chịu tỏ ra hèn kém đối với họ. Nhờ vậy mà bản thân mình tránh được chuyện cãi lộn, lời qua tiếng lại khiến cho mối liên hệ giao tiếp giữa hai bên trở thành trầm trọng căng thẳng, tệ hại hơn nữa. Đàng khác, sự chê bai, chỉ trích đó tuy có làm cho ta khó chịu, bực bội đấy – nhưng nó cũng giúp cho ta tránh bớt được thái độ ngông nghênh tự phụ, mà người trí thức thường hay mắc phải.

Cụ thể như chuyện này đây : Cha tôi bị cộng sản Việt minh bắt đi mất tích từ năm 1948 lúc tôi mới có 14 tuổi. Và chính bản thân tôi cũng bị cộng sản bắt giam từ năm 1990 và xử phạt tôi 12 năm tù giam. Nhưng tôi không hề thù oán đối với cá nhân một người cộng sản nào cả. Xưa nay, tôi vẫn kiên quyết chống đối cái chế độ cực kỳ bất nhân, ác đức, vô nhân đạo do đảng cộng sản áp đặt trên đất nước ta từ 70 năm nay – mà không lúc nào giữ lòng hận thù óan ghét đối với riêng một người nào cả.

Tôi làm như vậy, đó là áp dụng theo lời khuyên bảo của cha ông ta từ xưa là “Lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”.

Có người chê bai tôi là “ngây thơ gàn dở”, “quân tử tàu”, là “cù lần, hèn nhát”, mơ mộng, lãng mạn, hão huyền thế này, thế khác v.v… Tôi nghe biết vậy, nhưng mà tôi vẫn một mực sống theo tôn chỉ như thế này là : “ Nhất quyết không để cho mình vướng mắc chuyện hận thù, không để tâm mà oán ghét đối với bất kỳ người nào trên cõi đời này”.

Tóm lại là tôi chỉ có tình cảm thân thương quí mến nhiều hay ít với mức độ khác nhau đối với người này, người khác. Chứ tuyệt nhiên tôi không coi mình là kẻ thù nghịch của một người nào cả.

Nhờ vậy, mà tôi luôn sống thanh thản, an nhiên tự tại trong tuổi xế chiều hiện nay trên đất Mỹ. Và có thể nói : Dù đã phải trải qua bao nhiêu thử thách nghịch cảnh éo le bi đát vì chiến tranh, vì tù đày – tôi vẫn tìm cách tạo cho cuộc sống mình có ý nghĩa lương hảo, có phẩm chất tốt đẹp, cao quý vậy./

Westminster California Tháng 11 Năm 2014.

Đoàn Thanh Liêm