LỜI HAY Ý ĐẸP – CUỘC SỐNG – BP
httpv://www.youtube.com/watch?v=kOEVMxR7z_g&feature=em-uploademail
httpv://www.youtube.com/watch?v=kOEVMxR7z_g&feature=em-uploademail
Nguồn gốc “Ngày của bố”
Hôm nay là “Father’s Day” rồi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về lịch sử của ngày lễ đặc biệt này nhé các bạn!
Chúng mình đã quen với ngày lễ của Mẹ, ngày quốc tế phụ nữ (08/03), ngày phụ nữ Việt Nam (20/10),… vậy còn những ngày lễ cho “đấng mày râu” thì sao nhỉ? Những ngày lễ để tôn vinh “phái mạnh” không nhiều bằng “phái đẹp”. Thế nên, “Ngày của Bố” thực sự là dịp để vinh danh những cống hiến của “giới XY” cho sự hoàn thiện của cuộc sống chúng ta.
Tuổi đời non trẻ nhưng “Ngày của Bố” là ngày lễ tôn vinh một nửa dân số thế giới. Đây là dịp để các bà mẹ, con cái thể hiện sự quan tâm, chia sẻ về người chồng, người bố của mình rõ ràng nhất.
“Ngày lễ của Bố” được tổ chức lần đầu tại nước Mỹ vào năm 1972. Kể từ đó tới nay nó gần như đều được diễn ra ở hầu hết các nước vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng 06 hàng năm.
Lịch sử
Thực tế, “Ngày của Bố” đã được diễn ra đầu tiên ở Fairmont , Tây Virginia vào ngày 05/07/1908. Nó được tổ chức bởi bà Grace Golden Clayton, người muốn kỷ niệm cuộc sống của 210 người đàn ông (họ đều đang làm bố) đã bị hy sinh trong thảm họa khai thác mỏ Monongah vài tháng trước đó tại Tây Virginia. Clayton đã chọn ngày chủ nhật gần nhất, ngày sinh nhật người bố của bà vừa mới qua đời để tổ chức buổi lễ. Thật không may, ngày lễ đó đã bị lu mờ bởi các sự kiện khác trong thành phố. Tiểu bang Tây Virginia cũng không chính thức đăng ký cho buổi lễ, từ đó nó không được tổ chức trở lại.
Sau sự kiện ở Tây Virginia 2 năm, cô Sonora Louise Smart Dodd, sống tại Shokane, Washington, nghĩ ngay đến một ngày để vinh danh các người bố khi nghe bài thuyết giáo ngày của mẹ năm 1909. Sonora là con gái lớn nhất trong sáu chị em. Bố cô là ông William Jackson Smart, còn mẹ cô qua đời trong lúc sinh. Sonora yêu quý và kính trọng bố vì đã một thân nuôi gia đình.
Năm 1910, Sonora đã chọn ngày 19 tháng 6 là “Ngày của Bố” vì ngày đó là sinh nhật của bố cô. Với sự giúp đỡ từ Hội Bộ trưởng Spokane và YMCA (Young Men’s Christian Association — Hiệp hội thanh niên Thiên chúa giáo), “Ngày của Bố” đầu tiên được tổ chức vào ngày 19 tháng 6 năm 1910.
Lễ kỷ niệm
Năm 1966, Tổng thống B. Johnson (Mỹ) đã đưa ra lời loan báo đầu tiên tôn vinh bố, ông chỉ định chủ nhật thứ ba trong tháng sáu là “Ngày của Bố”. Sáu năm sau, ngày kỷ niệm ý nghĩa này đã được thực hiện một cách trang trọng như một kỳ nghỉ lễ thường xuyên hàng năm tại Mỹ khi Tổng thống Nixon đã ký nó thành luật vào năm 1972.
Từ đó, “Ngày lễ của Bố” dần dần được phổ biến rộng rãi và được tổ chức khắp thế giới, đặc biệt là tại châu Mỹ và châu Á. Tuy nhiên, ở một số nơi thời điểm tổ chức và hình thức lại không đồng nhất, nó mang những nét đặc trưng riêng của từng quốc gia và sự sáng tạo đặc trưng trong các buổi lễ.
Mỹ
Đây là quốc gia tổ chức “Father’s Day” rộn ràng nhất thế giới. Một ngày được nghỉ lao động, trẻ em được ra đường vui chơi như ngày quốc tế thiếu nhi. Báo đài, các quan chức chính quyền luôn đề cập về ngày lễ đặc biệt này. Đồng thời rất nhiều quà cáp, thư từ và điện thoại được chuyển đi để bày tỏ sự quan tâm về người bố trong ngày lễ. Ở Mỹ, ngày lễ của bố được tổ chức vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng 06 hàng năm.
Việt Nam
“Ngày lễ của Bố” mới được du nhập vào Việt Nam những năm gần đây. Hiện nay, giống như một số nước, Việt Nam kỷ niệm ngày lễ của bố vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng sáu hàng năm (năm nay là ngày 15/06/2014).
Tại nước ta, đây không phải là ngày được nghỉ lễ, tuy nhiên vẫn có những sự thăm hỏi, quan tâm bằng thư từ, điện tín được truyền đi rất nhiều trong ngày này. Đa số ngày lễ chỉ được tổ chức với các buổi sum họp gia đình, bạn bè, người thân.
Đức
Tại đất nước châu Âu này, “Ngày của Bố” được tổ chức trùng với ngày lễ Thăng Thiên. Lễ được kỷ niệm vào ngày thứ năm gần nhất sau 40 ngày kể từ ngày lễ Phục Sinh.
Ở Đức “Ngày của Bố” còn được gọi là “Lễ quý ông”. Đây là một lễ hội liên bang và là dịp để mọi người thực hiện các chuyến du lịch thiên nhiên (đa số là đàn ông).
Thái Lan: tổ chức “Ngày của Bố” vào ngày sinh nhật của vua Bhumibol, đó là ngày 05/12.
Hàn Quốc: lễ được tổ chức vào ngày 08/05 ngày “Lễ của Bố – Mẹ”.
Rất nhiều thời gian và hình thức tổ chức khác nhau diễn ra để kỷ niệm “Ngày của Bố”. Nhưng mục đích chung cuối cùng là thể hiện sự biết ơn về những cống hiến của người bố trong gia đình.
Bố ơi, con nhớ Bố .
Cháu gái từ Mỹ gởi chúc mừng ngày Người Cha . Không rõ các nước có mừng Cha khác nhau không, nhưng Cha chỉ có 1 và luôn là người ít được nhớ hơn bà Mẹ dịu dàng, gần gũi con cái.
Tôi cũng gần Mẹ hơn Cha , nhưng trong kí ức của tôi người Cha quá cố vẫn nguyên vẹn hình bóng nhân hậu, lặng lẽ thương yêu gia đình, con cháu, anh em và những người bên dưới của ông, kể cả khi ông rầy rà con cháu ngỗ nghịch . Ông ít nói , ít tranh cãi , ít ra lệnh, mà chỉ sống bằng hành động theo đạo lý của tôn giáo và thế hệ ông, cho gia đình và cuộc sống quanh ông. Công bằng, bác ái và chân thực là điều ông đã dậy tôi qua những ngụ ngôn của La Fontaine và giáo lý của chúng tôi .
Là con út nhỏ hơn người anh kế gần 10 tuổi , tôi được ông ” chiều” hơn anh chị một chút . Ông ăn 1 lóng mía tôi cũng được ngồi bên, tôi lại chỉ thích khúc “đầu mặt” khi ông cắt thêm vào khúc ” mía thịt ” dài hơn cho tôi, Mẹ tôi không chịu được mùi thịt trâu bò, thịt chó, bơ sữa , anh chị tôi theo mẹ , mâm hai Bố con ăn riêng khi có những món đó đã giúp tôi thành ” Vô Kị” khi ra đời . Lúc 3 chị em còn sống với Bố Mẹ chưa ai lập gia đình , ví tiền của ông chỉ mình tôi dám lục khi thèm quà vặt do Mẹ không hề cho tiêu tiền . Ông lĩnh lương là đưa hết cho Mẹ, Mẹ thường “lục” ví ông kiểm soát để ” châm” thêm tiền cho ông ăn sáng , tôi lục để tìm tiền lẻ . Có lần tôi thèm kem quá mà trong ví ông chỉ có tờ bạc 50 chục tôi liều lĩnh một cách ngu ngốc lấy tờ 50 chục này định chiều về trả lại tiền dư , hôm đó ông ăn phở Tầu Bay mở ví không còn tiền phải để ông tài xế của sở trả , chiều về ông âm thầm hỏi tôi khi tôi đưa ra 1 nắm tiền đúng…49 đồng. Ông kéo tôi ra 1 góc để tránh Mẹ và từ đó tôi được nghe nhiều lần chuyện ngụ ngôn ” Au Loup” , con chó sói của cậu bé đùa dối hô hoán giả tạo và lần sau cậu đã chết vì chó sói thật do không ai đến cứu . Là người Bắc trong nhà không có chuyện con trai ở trần mặc quần đùi, tối đi ngủ dù trời nóng cũng phải mặc pyjama hay quần ta dài, áo may ô , ông không bao giờ la rầy tôi khi phá luật mà chỉ ” dũa” ông anh không chăm dậy em. Sáng sớm thức dậy ông bắt mỗi anh em vào toilet ngồi 15 phút , anh em tôi thoát khỏi di truyền bệnh táo bón khủng khiếp của Mẹ chính nhờ “cữ ” mặc niệm bắt buộc mỗi sáng này của ông .
Ông còn cả kho ca dao, cách ngôn cho mọi trường hợp để dậy tôi . Hay sang nhà bạn thì ” Năng mưa thì tốt lúa đường – Năng qua lại lắm xem thường nhau đi ” , quần áo luộm thuộm thì ” Y phục xứng kì đức ..” . Duy có một điều ông không hề dậy tôi bằng lời nhưng từ hành vi của ông, có lần ông đưa cả tháng lương cho người thuộc cấp than thở vợ con đau bệnh không có tiền lo , lâu quá Mẹ hỏi lương thì ông mới rì rầm nói” Nhà nó nghèo quá , đưa cả rồi !!” , khi làm ở Báo Văn Nghệ Tiền Phong đám kí giả văn nghệ sĩ thưòng nắm áo ông vay tiền trước , ông ” vay” từ túi Mẹ đưa họ rồi chịu im lặng nghe bà cằn nhằn. Sống như thế nhưng ông không uống thứ nước nào ngoài nước đun sôi , không trà, rượu, cà phê, tất nhiên không thuốc lá và đàn đúm bạn bè , chỉ có công việc, nhà thờ và gia đình , thỉnh thoảng gia đình tụ họp em cháu cuối tuần mở canh Bài Chắn giải trí ông chơi rất dở , có khi còn bị Mẹ tôi cấm vận , tôi hay lấy nê con út lăn vào cầm bài cho Bố để bà thôi cằn nhằn .
Các cháu con chị tôi ở Thủ Đức thường nhắc chuyện sau 75 ông đã gần 80 mà vẫn đạp xe từ Tân Bình lên ra vườn dọn dẹp cây cối , hỏi han vài điều, uống li nước lạnh rồi lại đạp xe về lo cho đám cháu nội ở Saigon, lúc đó cả hai anh em tôi đều còn cải tạo. Thời gian trước khi ông mất năm 2005 , ông đã hơi lẫn và chướng, nằm bệnh viện bác sĩ muốn vô nước biển ông nhất định là ” Nó định đầu độc tôi cho thuốc giả “, các cháu phải gọi tôi về thủ thỉ giải thích, ông lại cười nói ” Bố phải cảnh cáo trước ” rồi đưa tay cho vô thuốc. Những năm cuối đời của Cha Mẹ, tôi thật may phước được gần bên để cùng con cháu chăm lo cho hai vị , được các cụ thường đòi có mặt khi nhập viện hay tưởng là trăn trối lần cuối . Cha tôi đã mê man ít ngày trước khi mất , người không trăn trối điều gì cho con cháu được ngoài ” thương hiệu ” di sản của một con người hiền hòa, nhân hậu, bình dị . Mất nhiều năm tôi mới hiểu lí do mình gần Mẹ hơn ông , bà trò chuyện với tôi nhiều hơn ông , dậy dỗ con cái nghiêm khắc hơn ông , cũng làm nhiều quyết định và gánh vác đời sống gia đình, gia tộc nhiều hơn ông . Sự sắc sảo, khôn ngoan rất chính đáng của bà chi phối không chỉ gia đình mà còn toàn gia tộc và mỗi giai đọan quan trọng trong đời tôi ,khi ở xa đau yếu, khó khăn thì chính bà là người chủ trì bàn tính hay đích thân lo liệu, các con, cháu tôi, anh chị tôi , cháu ông bà cũng một tay bà lo liệu .
Ông chỉ gần tôi khi tôi đã rất trưởng thành , gần 10 năm cuối đời ông thì hầu như tôi là điểm tựa , sự an tâm, vui thú của ông , là người bạn trẻ duy nhất của ông khi kiên nhẫn giải thích những điều ông hỏi, khi đưa ông đi đây đó vẫn để ông thỏa thích nghiền ngẫm, quan sát , hỏi han về những điều mới lạ quanh ông, suốt đời ông không khi nào nắm giữ, đòi hỏi tiền bạc, tài sản nhưng gần cuối đời ông thường nói tôi đưa tiền , chỉ những số tiền rất nhỏ , khi ” Để Bố hớt tóc “, khi ” Để bỏ nhà thờ hay cho kẻ khó ” , kể cả khi ông đã lẫn thường đến một tiệm thuốc Tây quen gần nhà tự định bệnh, tự kê toa đòi lấy thuốc và nói : ” Cháu T. sẽ trả tiền ” . Anh dược sĩ quen đồng ý với tôi cứ đưa ông 1 liều thuốc bổ vô thưởng vô phạt cho ông vui.
Vâng, đó là cha tôi , người con cả thừa kế của một gia đình địa chủ giầu ruộng đất, được đi học trường Tây trên tỉnh, ” Cậu Cả ” đã có xe đạp từ thời trước Thế Chiến thứ Hai , về làng cũng ngấm nghé các cô xinh đẹp, nhưng suốt đời ông từ khi cưới Mẹ tôi ông bà không rời nhau được một ngày mà không bồn chồn, bà chỉ đi thăm bà con vài tiếng ông đã bắt cháu đi tìm , khi ông mất bà đã lẫn , khi tỉnh khi mê nhưng khi tỉnh biết ông đã mất bà đã gào khóc làm chúng tôi đau đớn bội phần ” Ông ơi , sao ông không gắng sống thêm cho tôi hầu hạ ông . Các con ơi, các con mồ côi Bố rồi !!!”
Xin chúc mừng các người Cha là anh, là bạn, là con cháu tôi, nhân viên của tôi hôm nay . Xin những bạn còn Cha hãy tận hưởng tình cha con thân thiết và lòng thảo hiếu dành cho người lúc tuổi gìa bóng xế .
Bố ơi, con nhớ Bố .
Chúa Nhật 15/6/2014 Saigon
Lâm Mạnh Di và Tình tự của một người cha, người ông
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-06-14
Bé Freddy Lâm Gia Nghi.
Photo courtesy of Lâm Mạnh Di
Trong dịp Father’s day năm nay, Mặc Lâm xin giới thiệu bài viết cảm động của tác giả Lâm Mạnh Di về người con trai cũng như đứa cháu nội hai dòng máu mà ông rất thương yêu. Tình tự của một người cha, người ông trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử Việt Nam có lẽ khiến những cung bậc tình cảm tăng theo với dòng chảy một thời buồn bã của rất nhiều gia đình. Tác giả Lâm Mạnh Di đã gửi gấm niềm xúc động của ông qua hai bài viết Tình phụ tử và Tháng 4, Những giòng chữ cho Freddy Lâm Gia Nghi.
Lâm Mạnh Di: Tôi có tất cả là 4 người con trai, và cháu Thi, đứa mà tôi đề cập trong bài viết Tình phụ tử ra đời trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Cháu ra đời trong một trại tỵ nạn mà lúc đó tôi còn ở lại Vũng Tàu có lẽ vì lý do đó mà tôi có một tình cảm thật đặc biệt với cháu. Nhưng tôi nghĩ trong hoàn cảnh đất nước của chúng ta thì không ít các cháu đã ra đời trong hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.
Tình phụ tử – Lâm Mạnh Di
Vũng Tàu khoảng 16h chiều…
Trời còn rất nóng, rất khó chịu. Một căn phòng nhỏ trên đường Nguyễn An Ninh gần ngã tư giếng nước. Phòng chứa toàn sách vở ngổn ngang, bàn ghế chẳng có gì xa xỉ. Một ông già có lẽ chưa đến 60 cặm cụi sắp sếp lại các cuốn sách cho ngăn nắp. Ông mỉm cười khi cầm cuốn Album hình ảnh gia đình ông trên tay, cứ đến mỗi trang ông xem lại lẩm nhẩm vài tiếng, chen lẫn với tiếng thở dài…
Có tiếng gõ cửa thật lớn, ông già hơi ngạc nhiên vì ông rất ít bạn bè đến thăm ông. Bạn bè thân thiết của ông hiện đang ở khắp nơi trên thế giới, nếu có về Việt Nam thăm ông đều báo trước cho ông biết…
Ông ra mở cửa và ngạc nhiên đến nghẹn ngào: “Trời ơi, con đấy à”… T. ôm bố, nước mắt dàn dụa, bằng giọng nói tiếng Việt không thành thạo…”bố ơi, con về thăm bố đây…!”
Ngày Father’s day tôi chỉ biết cầu nguyện ơn trên hãy thương xót cho dân tộc Việt Nam, thương xót cho những cháu bé trong hoàn cảnh nghiệt ngã.
-Lâm Mạnh Di
T. tên thật là Lâm Gia Thi, và ông bố chính là người đang ngồi viết những dòng chữ này…
Thi và bố gặp nhau đã nhiều lần, nhưng chưa lần nào ở Việt Nam và bất thình lình như lần này. Thi nhân cơ hội đi họp ở vùng Đông Nam Á về thăm bố và mang về cho bố đủ loại thuốc.
Bố dẫn Thi đi xem Vũng Tàu, đi mua sắm ở chợ Năm Tầng… Nét mặt Thi rạng rỡ, không còn căng thẳng như qua buổi họp, lúc nào đi bên bố cũng nhè nhẹ đấm lưng cho bố.
Thi ơi, trong những đứa con của bố, có lẽ bố thương Thi nhất. Vì ngày Thi chào đời không có sự hiện diện của bố, con chào đời trong 1 trại tỵ nạn.
Tôi dẫn Thi ra biển, những cơn sóng vỗ về, tiếng sóng và gió biển dạt dào làm tôi nhớ 1 ngày nào đó năm 1980. Tôi chỉ cho Thi nơi mẹ cùng anh Huy xuông thuyền đi vượt biên. Lúc đó Thi còn là 1 thai nhi trong bụng mẹ … Cuộc đời là tử biệt sinh ly, có ai ngờ sau 25 năm Thi lại trở về đây và đang đứng lặng lẽ bên tôi.
Thi nhìn xa xăm ra khơi, nơi có những ánh đèn chớp tắt của người đi đánh cá đêm. Tôi bắt gặp những giọt nước mắt chảy trên má Thi mà thương con vô cùng.
Hai bố con ngồi với nhau trên bãi biển, chẳng để ý đến thời gian qua mau… Có lẽ buổi tối hôm đó là ngày sinh nhật đẹp nhất đời tôi, chỉ có 2 bố con ngồi cô đơn nghe sóng biển, nghe đời mình như những cơn mơ…
Năm giờ sáng tài xế đến Vũng Tàu để đón Thi trở lại Sài Gòn, Thi có kể cho tôi biết về dự án mà Thi có trách nhiệm. Và Thi đã quyết định làm việc tại Việt Nam 1 thời gian. Lý do duy nhất cho quyết định này là chỉ để được gần bố.
Thương con quá …!
Lâm Mạnh Di: Hôm nay các con tôi đã trưởng thành và tôi cũng hạnh phúc được thành ông nội của ba đứa cháu thật ngoan và hiền. Có cháu mang hai dòng máu Việt và Mỹ. Đương nhiên về tuổi già khi nhìn thấy con cháu như vậy thì tôi cũng rất hạnh phúc và có đôi chút nào đó tự hào…
Tháng 4 – Những giòng chữ cho Freddy Lâm Gia Nghi
Hình minh họa. AFP PHOTO.
Hơn 30 năm về trước, bà Nội con lũ lượt theo giòng người bỏ xứ ra đi, mang theo bố con trong bụng, một thai nhi vừa đươc vài tháng, và bác Huy của con lúc đó vừa tròn 7 tuổi.
Lần đầu tiên trong đời ông mới biết thế nào là đau khổ của sự chia ly. Có lẽ dùng chữ đau đớn mới đúng. Ví ai biết được có còn ngày tao ngộ?
Và ông cũng chẳng ngờ, trong đời ông lại có 1 đứa cháu nội mang 2 giòng máu, đứa cháu nội thật xinh, có cặp mắt to với hàng lông mi cong vút. Mỗi lần con theo cha mẹ con về thăm ông, dẫn con ra đường chẳng ai biết là 2 ông cháu, ai cũng khen con hiền và đẹp, cứ ngỡ ông là người giúp việc cho 1 gia đình người ngoại quốc nào đó.
Trong cuộc sống khép kín cô đơn của ông, dường như ông chỉ vui được vài tuần ngắn ngủi khi bố mẹ con dẫn con về thăm ông. Về lần cuối thì con cứ huyên thuyên nói với ông bằng tiếng Tây Ban Nha, thay vì tiếng Mỹ như thường lệ, làm ông chẳng hiểu cứ ôm cháu vào lòng mà cười. Cái nghề nghiệp cứ bắt bố con vài năm là lại phải đi đến 1 nước khác làm việc kể cũng tốt cho con.
Thời gian hạnh phúc nhất trong đời ông, có lẽ đó là lúc bố con về Việt Nam làm việc, lúc đó con vừa thôi bú mẹ. Ông chăm sóc con cẩn thận lắm, cứ cầm quạt phe phẩy cho con suốt ngày vì sợ có con muỗi nào nó chích vào da thịt non nớt của con. Ba năm trời được sống bên con, bên cha mẹ con, là những giờ phút ông luôn có nụ cười, làm ông quên được những tháng năm sống trong hẩm hiu đau khổ. Và ông cũng chẳng ngờ, càng lớn con càng quấn quít ông hơn bố mẹ con, lúc nào hai ông cháu mình cũng cứ quanh quẩn bên nhau.
Ba năm trời qua nhanh như 1 giấc mơ, rồi ông phải ngậm ngùi chia tay những người mình thương yêu nhất đời. Hôm đưa gia đình con trở lại Mỹ, đó là một ngày mưa tầm tã. Mẹ con dù là người phương Tây cũng rơi lệ, tim ông quặn đau khi con cứ nắm chặt tay ông không chịu rời. Phi trường Tân Sơn Nhất hôm đó sao mà ảm đạm… rồi bóng dáng 3 người thân yêu cứ xa dần, xa dần… Ông còn nghe tiếng con gào khóc sau bức tường cách ly của phi trường.
Thế là hai ông cháu mình xa nhau thật rồi, nước mắt ông dàn dụa… và ông ngã quỵ trong tay hai người bạn cùng đi theo. Về lại nhà, ôi sao mà trống vắng, tiếng cười nói của con còn loáng thoáng đâu đây. Ông nằm liệt giường cả tuần, chẳng màng đến cơm nước…
Tôi nghĩ trong hoàn cảnh đất nước của chúng ta thì không ít các cháu đã ra đời trong hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.
-Lâm Mạnh Di
Bây giờ con đã 8 tuổi, một học sinh thông minh và hiền hậu. Con có đôi mắt thật buồn của bà Nội, có chuyện vui buồn gì cũng gọi điện thoại cho ông. Bố con biết ông thích bài Bên Cầu Biên Giới nên nhờ thầy dạy nhạc dạy cho con đàn bài này… nghe tiếng đàn piano của con qua điện thoại, ông cũng hát nhỏ theo “Bên cầu biên giới… Tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi… Sông nước xa xôi… mây núi khắp nơi… Không tỏ một đôi lời…”
Freddy, ông biết con thương ông lắm. Cả bố mẹ con nữa, mọi người đều muốn ông rời Việt Nam để theo gia đình. Khi nào con đủ lớn khôn có lẽ con sẽ hiểu vì sao ông không muốn bỏ Sài Gòn mà ra đi. Chính phủ này là 1 Chính phủ tàn bạo trong các Chính phủ tàn bạo trên thế giới, họ đã làm gia đình mình và hàng triệu gia đình tan nát. Nhưng ông vẫn chọn cuộc sống ở đây chỉ vì ông thương yêu bao nhiêu là kỷ niệm. Sài Gòn là quê hương của ông, nơi đây ông gặp bà Nội và đó là lần đầu tiên ông biết yêu. Những con đường, những hè phố, những buổi trưa nắng oi ả, những người bạn thân thương, những quán cóc bên đường… là tất cả những gì ông còn giữ lại cho đời mình.
Ông không biết mình sẽ làm gì trong 1 không gian xa lạ, nếu ông rời Việt Nam. Rồi khi cha mẹ con đi làm bận rộn, con phải đi học, có lẽ ông sẽ co ro 1 mình trong phòng…
Cháu ngoan, con ráng học hành cho giỏi nhé. Và nhớ mỗi năm theo bố mẹ về thăm ông vài tuần, như vậy là ông vui lắm rồi. Ông sẽ cố gắng đi học tiếng Tây Ban Nha, để về kỳ tới có thể chuyện trò với con, hay ít ra ông có thể dịch lá thư này để mai mốt con đọc.
Ông viết lá thư này vào những ngày tháng 4, thời gian này cũng là thời điểm của những bọn lố nhố lăng nhăng đang sửa soạn ăn mừng chiến thắng trên hàng triệu xác người. Ông chẳng màng đến họ, những con diều hâu đang rỉa thây dân tộc Việt Nam, vì ông bây giờ chỉ sống với hình ảnh con cháu, vui khi con cháu điện thoại về thăm ông. Đó là những sức mạnh của yêu thương, vực ông dậy để sống trong những ngày cô quạnh.
Lâm Mạnh Di: Tôi đọc báo và được biết các thế hệ con cháu người Việt tỵ nạn được lớn lên và học hành ở nước ngoài đa số là đã thành công trong cuộc sống và có những cháu làm rạng rỡ cho quê hương của chúng ta.
Ít nhiều gì khi nói đến đây tôi lại thấy thương các cháu sinh ra trong những gia đình nghèo khó tại Việt Nam. Những hình ảnh các cháu lam lũ đến trường với quần áo rách rưới có lẽ ai trong chúng ta khi nhìn những hình ảnh đó sẽ thấy trong lòng quặn đau. Có những cháu tuổi vừa lên 10, 11 gì đó đã phải vất vả làm những công việc thật nặng nhọc để giúp đỡ cho gia đình các cháu.
Trong ý nghĩa của ngày Father’s day tôi chỉ biết cầu nguyện ơn trên hãy thương xót cho dân tộc Việt Nam, thương xót cho những cháu bé trong hoàn cảnh nghiệt ngã. Có cháu phải lội sông lội suối đến trường, hãy thương hãy độ trì cho các cháu có được bữa ăn no áo quần tươm tất và được học hành đến nơi đến chốn…
Hiểu lầm chính sách, vị thành niên Trung Mỹ ào ạt vượt biên vào Mỹ
June 14, 2014
WASHINGTON (Washington Post) – Hiện đang ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự tăng vọt hàng chục ngàn trẻ vị thành niên từ vùng Trung Mỹ vượt biên giới Mexico để vào Texas đang xảy ra phần lớn vì cho rằng sẽ được ở lại Mỹ theo chính sách mới về di trú của Tổng Thống Obama.
![]() Một sĩ quan tuần tra biên giới khám một di dân bất hợp pháp tại biên giới Mexico và Texas. (Hình: Scott Olson/Getty Images) |
Các giới chức chính quyền liên bang Mỹ, khi trước đã hoàn toàn bác bỏ các báo cáo này, nay phải có phản ứng bằng cách cảnh cáo giới cha mẹ ở các quốc gia khác đừng gửi con cái vượt biên bất hợp pháp, trong khi giới hữu trách đang hết sức vất vả để nuôi giữ hàng chục ngàn trẻ hiện đã ở Texas.
“Những người vượt biên giới trái phép, ngay cả trẻ em, sẽ không được vào quốc tịch,” Bộ Trưởng Nội An Jeh Johnson tuyên bố tuần này. “Những người bị chặn bắt ở biên giới Mỹ sẽ có ưu tiên trục xuất… bất kể là hạn tuổi nào.”
Cuộc khủng hoảng về di trú hiện nay là một vấn nạn chính trị mới cho Tổng Thống Barack Obama và là cơ hội để phía Cộng Hòa chỉ trích dự luật cải tổ di trú ông muốn thông qua.
Phía chính phủ Obama từng giải thích rằng sự tăng vọt trong số trẻ tràn vào Mỹ là do tình hình bạo động băng đảng ở Guatemala, Honduras và El Salvador. Số trẻ vị thành niên bị chặn bắt trong chín tháng qua chỉ riêng từ ba quốc gia này đã lên tới 34,611 người, tăng 31.5 lần so với cả năm 2012.
Năm 2012 là năm ông Obama lần đầu tuyên bố sẽ không trục xuất trẻ di dân bất hợp pháp từng được cha mẹ mang theo vào Mỹ trước năm 2007.
Một văn thư nội bộ của cơ quan Biên Phòng Mỹ hồi tháng qua ước lượng rằng khoảng 90,000 trẻ sẽ bị chặn bắt năm nay và tăng lên 142,000 trong năm tới.
Không chỉ phía Cộng Hòa, ngay cả nữ Nghị Sĩ Dianne Feinstein, Dân Chủ, tiểu bang California cũng cho hay rằng nhân viên văn phòng bà có được bằng cớ cho thấy gia đình các trẻ nhỏ được thành phần đưa người vượt biên bất hợp pháp hứa hẹn chúng sẽ không bị trả về vì đây là chính sách mới của chính phủ Obama. (V.Giang)
ĐÊM TỪ PHỤ VINH DANH CÁC NGƯỜI CHA
Xúc động đầy ấn tượng
Hà Tường Vy
Như thường lệ, tôi là người vẫn đều đặn tham dự các Đêm Gia Đình từ những lần tổ chức đầu tiên tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange do Gia Đình Nazareth tổ chức.
Đối với tôi, Đêm Gia Đình là một sinh hoạt rất giá trị và ích lợi cho những ai đang sống trong đời sống hôn nhân, gia đình, cũng như cho những ai đang phải đối diện với những khó khăn đến từ nhiều mặt, từ tâm lý, tâm sinh lý, giáo dục, xã hội, luật pháp, cũng như những vấn đề liên quan đến việc thực hành niềm tin tôn giáo. Điểm son của Gia Đình Nazareth là ở chỗ vẫn trung thành tổ chức các Đêm Gia Đình và đã không ngừng tìm kiếm những đề tài, cải tiến những hình thức sinh hoạt, nhờ đó thu hút số người tham dự ngày càng đông đảo.
Đêm Gia Đình, do đó, là một sinh hoạt nhằm đưa Gia Đình Nazareth đi vào dòng chính của sinh hoạt xã hội, của sinh hoạt tôn giáo. Với Đêm Gia Đình, Gia Đình Nazareth đã thực hành đúng phương châm sinh hoạt của mình: “Gia Đình Nazareth đồng hành với các gia đình”.
Đôi dòng lịch sử của Đêm Gia Đình:
Đêm Gia Đình là một sinh hoạt mang tầm mức Cộng Đồng và mở rộng cho mọi thành phần tham dự. Đêm Gia Đình đầu tiên được tổ chức vào chiều ngày 5 tháng 9 năm 2012 dưới sự chủ tọa, và giảng thuyết của Đức Cha Mai Thanh Lương. Kể từ đó đến nay, liên tiếp hàng tháng vẫn có những Đêm Gia Đình. Sinh hoạt này vì thế đã trở thành nét đặc thù của Gia Đình Nazareth.
Được tổ chức vào mỗi tối thứ Sáu, tuần thứ 2 trong tháng từ 7giờ đến 9giờ tối tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, Đêm Gia Đình đã thu hút nhiều thành phần trong cộng đồng Công Giáo cũng như những thính giả đến từ các tôn giáo bạn, hoặc từ các nơi xa. Điểm đặc biệt của Đêm Gia Đình là sự phối hợp nhịp nhàng giữa phần tâm linh và phần sinh hoạt đời thường.
a) Sinh hoạt tâm linh:
Bao gồm những đề tài về giáo lý, Giáo Hội, và Thánh Kinh nhằm giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về mục đích, giá trị, và ý nghĩa của sinh hoạt tâm linh trong ứng dụng thực tế vào đời sống ơn gọi hôn nhân, gia đình. Đức Cha Mai Thanh Lương, Cha Giám Đốc Nguyễn Thái, các Cha Cựu Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo như cha Nguyễn Uy Sỹ và cha Mai Khải Hoàn, cha Phạm Ngọc Hùng, Viện Phụ Phạm Sỹ Hanh, Đan Viện Xitô, cha Trần Đình Thụy, Giáo Sư đại chủng viện Thánh Qui, Cần Thơ, cha Vũ Thế Toàn Dòng Tên, Cha Timothy Nguyễn, Cha Trịnh Ngọc Danh, linh hướng Gia Đình Nazareth, phó tế Hoàng Thanh Sơn, phụ tá linh hướng Gia Đình Nazareth và nhiều linh mục tên tuổi, phó tế đã đến với các Đêm Gia Đình qua những chủ đề khác nhau.
b) Sinh hoạt đời thường:
Bao gồm những chủ đề về tâm lý giáo dục, tâm lý tuổi trẻ, tâm lý hôn nhân, tâm lý gia đình, tâm lý cao niên, tâm lý xã hội, luật lệ xã hội, và những vấn nạn liên quan đến gia đình, bạo hành gia đình… Các chủ đề này được trình bày do các nhà tâm lý, luật sư, bác sĩ, và những chuyên gia giầu kinh nghiệm như Bác sĩ Trung Chỉnh, Tiến Sĩ Phạm Kim Long, Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt, Tiến Sĩ Tâm Lý Phan Nguyễn Kim, Tiến Sĩ Tâm Lý Lê Văn Ẩn, Tiến Sĩ Giáo Dục Phạm Thị Huê, Luật Sư Nguyễn Quốc Lân, Luật Sư Phòng Biện Lý của Quận Cam (District Attorney of Orange County) chuyên lo về bạo hành trong gia đình, Đại diện văn phòng Cảnh Sát của Quận Cam chuyên lo về ngăn ngừa rượu, ma túy, Anh chị Nguyễn Văn Nhuệ-Thu Nhi, và Ông Kenny Phan, Giám Đốc của PNA Insurance…
Đêm Từ Phụ vinh danh người cha:
Không như những Đêm Gia Đình khác trong đó trình bày những chủ đề về đạo hiếu, về tình thương vợ chồng, về những ưu tư của cha mẹ đối với con cái, Đêm Gia Đình lần này được gọi là “Đêm Từ Phụ. Đêm Vinh Danh Các Người Cha”. Những gì xảy ra trong đêm nay đã gây xúc động cho mọi người tham dự, không những đối với những người cha mà cả những người mẹ, người con nữa.
Phần tâm linh của đêm hôn nay đã được bắt đầu bằng thánh lễ tạ ơn do linh mục Christ Phạm Quốc Tuấn chủ tế và giảng thuyết qua đề tài “Gia Đình là Cộng Đoàn Cầu Nguyện, Cộng Đoàn Yêu Thương”. Là một linh mục trẻ, hoạt bát, rất hăng say trong các sinh hoạt mục vụ tông đồ. Cha từng là linh hướng của Chương Trình TTHN, và hiện giờ là linh hướng của Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng. Một trong những điểm khiến tôi tâm đắc và suy nghĩ nhất là câu nói của Thánh Augustine đã được linh mục giảng thuyết nhắc lại trong bài giảng của mình: “Gia đình cầu nguyện chung, gia đình ăn cơm chung với nhau là gia đình sống cho nhau”. Một tư tưởng nói lên đầy đủ ý nghĩa thế nào “Gia đình là cộng đoàn cầu nguyện, cộng đoàn yêu thương”, nhưng có lẽ đây cũng là một thách đố lớn lao đối với nhiều gia đình trong nếp sống hiện tại do thiếu ý thức trách nhiệm của các phần tử, và cũng do vì quá chú trọng vào những thu hút của cuộc sống trước mắt.
Phần sinh hoạt đời thường hôm nay mới thật sự gây ấn tượng hết sức đặc biệt đối với mọi người tham dự qua nghi thức “rửa chân cha” do các em đã tình nguyện rửa chân cho cha mình.
Nghi thức bắt đầu sau khi các người cha đã ngồi vào những chiếc ghế danh dự được chỉ định sẵn. Trước mặt họ là các con tuổi từ 8, 9, 10 đến 25, 29. Có em đã là những kỹ sư, chuyên viên computer, sinh viên y khoa, hoặc sinh viên các đại học, trai cũng như gái tất cả đều quì gốc rửa và lau chân cho cha mình. Nhiều gia đình cả mấy anh chị em cùng tham dự với nhau. Lúc đầu mọi người xem như bỡ ngỡ và coi đây như một hành động vui đùa, tượng trưng, nhưng khi thấy các em làm công việc này với tất cả tấm lòng biết ơn cha mình, thì cả hội trường đều thổn thức, đặc biệt, đối với những ai không còn cha. Và nhiều người đã thấy những giọt nước mắt lăn trên những gò má xám nắng vì công việc của một vài người cha. Việc này càng khiến tôi cảm động hơn khi nhớ lại câu chuyện của hai mẹ con đã trao đổi hôm trước Đêm Gia Đình như sau:
-Mẹ ơi, con nghĩ con không cần mua quà cho ba trong ngày Father’s Day nữa.
-Vậy con định làm cái gì cho ba. Hay là con mời ba đi ăn tối?
-Không. Con không nói trước được, chỉ cần mẹ nhớ nhắc ba và cả mẹ nữa đi dự Đêm Gia Đình tối mai là được. Tối mai con sẽ cho ba và mẹ xem quà gì con tặng cho ba.
-Con định tham dự nghi thức “Rửa Chân Cho Ba”?
-Mẹ đừng đoán nữa, sợ lộ chuyện, tối mai sẽ biết.
-Mẹ không đoán nữa, nhưng mà con trai của mẹ ngoan quá, mẹ không ngờ con lại biết tỏ lòng kính yêu cha mẹ như vậy. Mẹ biết thế nào ba con cũng sẽ cảm động lắm.
-Con sẽ làm một cử chỉ đẹp cho ba con, vì từ hồi nào tới giờ con ít khi nghĩ đến việc phải đền đáp công ơn của ba con. Nhưng cũng từ hôm nay, ngay bây giờ con muốn mẹ khi nào khen con, mẹ cũng thêm ba trong đó nữa, thí dụ như “Con trai của Ba Mẹ …tử tế, dễ thương, giỏi giang quá ”, tại vì con nghĩ rằng nếu không có Ba thì cũng không có con.
Gia Đình Nazareth đã đi tiên phong trong việc tuyên dương công đức người cha bằng việc làm rửa chân này. Nếu bên Đại Hàn, người ta đã xúc động nghẹn ngào khi chứng kiến hàng trăm các em qùi trước mặt mẹ, rửa chân, và cúi đầu lạy mẹ các em trong một chương trình vinh danh hiền mẫu nhân ngày của mẹ, thì ở đây, cũng trong một hội trường đông đảo, nhiều người đã rưng rưng dòng lệ khi thấy hàng chục em quì trước mặt cha mình, rửa và lau chân cho cha mình trong một nghi thức vinh danh cha nhân ngày từ phụ.
Qua việc làm rửa chân này, Gia Đình Nazareth đã đem mọi người tham dự trở về với nguồn gốc gia đình và tinh thần hiếu thảo, khi hướng dẫn các em “rửa chân” cho cha mình như một món quà đặc biệt tặng cha nhân ngày Từ Phụ. Đây không phải là nghi thức rửa chân của tôn giáo, nhưng qua hình thức rửa chân này cũng đã nhắc nhở cho các con nhớ đến công ơn của cha mình. Nhờ những bàn chân bụi bậm, bầm dập, trầy trụa của cha mà các con mới có của ăn, áo mặc, mới có tương lai tươi sáng. Nhờ những bàn tay sạm nắng, chai cứng của cha mà cả gia đình được bảo toàn và sống những ngày bình an không thiếu thốn. Nhờ những cặp mắt nghiêm nghị của cha mà các con mới hiểu thế nào là kỷ luật. Nhờ những vất vả, mồ hôi nhễ nhãi của cha mà con mới hiểu thế nào là bổn phận, là trách nhiệm. Nhiều em đã khóc ròng, thổn thức khi nâng niu những bàn chân mà các em có lẽ chưa bao giờ cảm thấy hoặc sờ được cái chai cứng, sần xùi, và xấu xí của cha mình. Có lẽ chính những giây phút ấy, các em mới nhận ra món quà quí giá mà Thượng Đế đã ban tặng cho các em là người cha, mặc dù bề ngoài những món quà ấy có được gói ghém và mang những hình hài không như các em nghĩ.
Ca dao Việt Nam có câu:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Nhưng có lẽ khi nói về tình mẹ, nghĩa cha, đa số chỉ nhắc đến công ơn sinh thành của mẹ, nhưng lại quên đi công đức dưỡng dục của người cha. Sinh thành và dưỡng dục phải đi đôi với nhau, sự hòa nhịp và gắn bó này không thể thiếu cho sự phát triển đồng đều và cần thiết của người con. Người con mỗi khi nhớ đến chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm của mẹ, cũng phải nghĩ đến sự dưỡng dục ân cần, những giọt mồ hôi và cả nước mắt của người cha trong khi lo lắng bảo toàn sự an nguy của gia đình, của con cái.
Xin thắp nén hương lòng dâng về người cha kính yêu. Người cha không còn trên cõi đời này để cùng đồng hành với con.
Đêm Gia Đình vinh danh những người cha.
13 tháng 6 năm 2014
Tường Vy
Thư Gừi Ông Chủ Tịch TLĐLĐVN
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Công đoàn độc lập không thể là một tổ chức hữu danh vô thực như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) và các cấp công đoàn cơ sở của hệ thống nhà nước, khi các tổ chức này đã chỉ được biết đến như một khâu trung gian hưởng thụ 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp mà chưa hề đồng thuận với bất kỳ yêu cầu biểu thị chính đáng nào của công nhân trong gần 1.000 cuộc đình công tự phát hàng năm.
Tuyên bố ngày 8/6 của Các Hội Đoàn Dân Sự Về Công Đoàn Độc Lập Việt Nam
Tưởng gì chớ cái nghèo thì tôi quen lắm. Những cảnh đời nghèo/ khó, nghèo/ khổ, nghèo/hèn – tất nhiên – tôi cũng cũng đều rành tuốt luốt. Tôi sinh ra và trưởng thành trong một đất nước nghèo khốn mà. Người Việt chúng tôi không chỉ mang nỗi sầu vạn cổ mà còn đeo cái nghèo vạn cổ nữa cơ.
Nghèo triền miên cũng có điểm hay là nó giúp cho mình khỏi bị nao núng, hay sợ hãi trước những cảnh đời cùng quẫn. Tôi vẫn nghĩ như thế cho đến khi nhìn thấy bức ảnh chụp nơi cư trú của công nhân ở quận Bình Tân, Sài Gòn:
Dù đã trải qua nhiều trại lính, trại tù, và trại tị nạn nhưng tôi vẫn vô cùng ái ngại khi nghĩ đến gia đình, vợ chồng, con cái của những con người phải chui rúc dưới những mái tranh mục nát thế này? Họ sinh hoạt (ăn uống, giải trí, nghỉ ngơi, làm tình, và bài tiết) ra sao cạnh một nơi bùn lầy nước đọng như vậy?
Hiếm họa công luận mới được tiếng kêu thương lẻ loi (và vô vọng) về điều kiện sinh sống và làm việc của giới công nhân Việt Nam. Cách đây vài năm, báo Lao Động, số ra ngày 1 tháng 6 năm 2010, có đăng tải bức thư của bà Nguyễn Thị Thắm gửi đến ông Đặng Ngọc Tùng – Chủ Tịch Tổng LĐLĐVN. Xin ghi lại một vài đoạn chính:
Kính gửi: Ông Chủ tịch Tổng LĐLĐVN
Tôi tên: Nguyễn Thị Thắm – Công nhân (CN) kiểm hàng (QC) của Cty TNHH Hansoll Đồng Nai – Khu công nghiệp (KCN) Bàu Xéo – Trảng Bom – Đồng Nai.
CN chúng tôi ở đây có rất nhiều bức xúc mà không biết đi đâu để tìm ra lẽ công bằng. Tôi cũng đã tìm sự giúp đỡ từ các tổ chức xã hội nhưng chưa thấy hồi âm. Sau thời gian tìm địa chỉ, tôi cũng đã suy xét kỹ càng và quyết định viết lá thư này gửi đến ông. Không! Tôi không “kiện” Cty, tôi viết ra tiếng nói của tôi – NLĐ, mong ông bớt chút thời gian để lắng nghe và thấu hiểu tiếng “than ôi” trong lòng chúng tôi. Mong ông đặt mình vào vị trí của tôi – NLĐ để cảm thông cho số phận CN, cương vị Chủ tịch Tổng LĐLĐVN nhận xét xem công dân của nước Việt đang làm việc trong cảnh thế nào.
Trước khi viết ra những bức xúc, tôi có lời xin lỗi trước. Nói một cách chua chát thì Cty lấy “tiền” dán “miệng thiên hạ” để che đậy cho cái gọi là “áp bức, bóc lột sức lao động”. Sự thiếu tri thức và hiểu biết Luật Lao động đã xiềng xích quyền lợi hợp pháp của NLĐ. Chúng tôi đã phải vất vả lao động, trái lại đồng lương thì ít ỏi mà “luật” thì quá nhiều. Cty yêu cầu CN đi sớm để họp “trước giờ”, nhưng về trễ thì chẳng có thêm đồng nào, làm hành chính nghỉ trưa 1h mà cũng bị “chém đầu, chém đuôi” 20 phút.
Vào giờ là làm đến có chuông mới được rời vị trí đi ăn cơm, trong giờ đi tiểu hoặc uống nước còn bị dòm ngó, chửi bới. Chính tôi đây kiểm hàng một mình một làn, vội đi vệ sinh để trống bàn, chuyên gia người Hàn Quốc (tôi cũng chưa biết tên) la lối ầm lên, chưa được 5 phút tôi đã quay ra và được giội xối xả những câu chửi tiếng Hàn, bực quá tôi cũng nạt lại “đi vệ sinh mà cũng cấm sao” mặc bà ấy muốn nói thêm gì thì nói…
Ông Đặng Ngọc Tùng, ỦyViên Trung Ương Đảng, Chủ Tịch TLĐLĐVN. Ảnh: Dân Việt
Có người rơi nước mắt vì miếng cơm, lấy khay cơm mà như thể xin ăn. Phần ăn thì chẳng khác phần cho “mèo” ăn, không hiểu Cty có xem CN chúng tôi là “con người” hay không.
Thưa ông, ông cảm thấy thế nào khi các chuyên gia người Hàn chửi mắng CN chẳng tiếc lời và còn ném cả áo vào mặt CN? Chính bản thân các chuyên gia, quản lý họ chưa làm ra được sản phẩm tốt, họ ép CN may đạt 100%, không làm được thì họ chửi mắng chẳng cần biết đúng sai, có tình có lý. Quản lý bị chửi thì chửi lại các tổ trưởng, tổ trưởng lại trút cơn giận lên CN còn CN tức tưởi “nuốt” nỗi tủi nhục ấy…
Bất công quá, CN bỏ việc nhưng họ cũng chẳng giải quyết với bất cứ lý do gì, CN đành bỏ ngang và chấp nhận mất mấy ngày lương và sổ bảo hiểm (nếu có). Còn và còn rất nhiều những bất công mà chúng tôi phải chịu đựng. Tôi nghĩ với cương vị Chủ tịch Tổng LĐLĐVN, ông cũng từng nghĩ đến cảnh tình này của CN, nhưng ông có cảm nhận được cái uất nghẹn đang trào lên trong ruột gan chúng tôi, đã đấu tranh, có đình công nhưng chẳng thay đổi được gì.
Chính tôi đây không cam tâm, tôi tìm đến toà soạn báo Đồng Nai, báo Người Lao Động, báo Lao Động nhờ giúp đỡ về mặt pháp lý, nhưng chưa thấy hồi âm. Tôi nghĩ với bề dày kinh nghiệm ông sẽ hiểu những thứ đang “lung lay” trong lòng NLĐ, mong rằng nó sẽ không phải tiếng “oán trách”.
Tôi cũng như toàn thể CN ở đây mong ông hiểu được cái quyền bình đẳng, quyền được tôn trọng, quyền nhân sinh đang bị người sử dụng lao động chà đạp, chúng tôi không biết phải làm sao, đấu tranh hay không, nếu đấu tranh thì như thế nào là đúng đắn, dựa vào ai, tin vào ai? Tôi luôn chờ nghe lời hồi âm, ít ra tôi cũng tự hào rằng mình là người VN, thừa hưởng tinh thần kiên cường của cha ông mình.
Cuối thư xin cảm ơn vì ông đã lắng nghe!
Ông Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động VN (e) là chả có nghe ngóng gì ráo trọi, nói chi đến chuyện “lắng nghe” cho nó rườm rà. Bằng chứng là với thời gian cuộc sống của giới công nhân mỗi lúc một thêm thảm hại – theo tường trình của Các Hội Đoàn Dân Sự Về Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, đọc được trên trang Dân Luận vào ngày 8 tháng 6 vừa qua:
“Không những không được cải thiện, mức thu nhập bình quân của công nhân còn bị giảm tương đối 25-30% trong khi mặt bằng giá cả tăng vọt từ 2-3 lần từ ít nhất năm 2011 đến nay. Tại nhiều nhà máy và xí nghiệp, công nhân phải làm việc ít nhất 10 giờ mỗi ngày và sáu ngày một tuần, nhưng mức thu nhập hoàn toàn không đủ sống. Tình trạng thảm thương đó vẫn tiếp tục tăng tiến bất chấp Việt Nam đã có cơ hội tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ năm 2007, nhưng đã chỉ trở thành cơ hội để hố phân hóa giữa 5% số người có thu nhập cao nhất với 5% người nghèo nhất ước tính lên đến ít nhất 60-70 lần.”
Trước đó, trên báo Dân Việt – số ra ngày 16 tháng 02 năm 2014 – cũng có bài viết với nhiều tình tiết hơn (“Nghiệt Ngã Phận Đời Làm Công Nhân”) của nhà báo Khánh Hoà:
“Rời bỏ quê lên thành phố lập nghiệp với mong ước có một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng nghiệt ngã thay, nhiều bạn trẻ đi làm công nhân đã bị vướng cái vòng luẩn quẩn nơi phố phường hoa lệ là thu không đủ chi. Tiền lương công nhân trung bình khoảng trên dưới 3 triệu đồng/người/tháng dường như là quá ít so với cuộc sống thị thành, nhất là thời gian gần đây, mọi thứ đều tăng giá một cách chóng mặt…
Hiện nay, chuyện những người công nhân đi làm phải tăng ca ban đêm đã là rất bình thường, thậm chí nhiều người còn mong mỏi xin được tăng ca, được làm thêm để có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống nhưng vì tình hình kinh tế chung đang trong giai đoạn suy thoái nên nhiều nơi, công ty chỉ hoạt động cầm chừng, có muốn tăng ca cũng không có.
Thế nên, những công nhân này, ban ngày đi làm, chiều tan ca về thì đàn ông lại xách xe đi chạy xe ôm ở mấy ngã ba, ngã tư hòng kiếm thêm vài chục ngàn đồng. Ngoài ra, nhiều người phải nhận hàng về nhà làm thêm ban đêm hoặc đi bốc vác, phụ bồi bàn ở các quán ăn, quán cà phê ban đêm với mong muốn kiếm thêm chút đỉnh. Riêng với những công nhân nữ, dù biết là tội lỗi, là nhục nhã nhưng nhiều người vì miếng cơm, manh áo vẫn nhắm mắt đưa chân để làm cái việc nhơ nhuốc là đi bán dâm, như một cứu cánh duy nhất trong cơn cùng quẫn…”
Ông Đặng Ngọc Tùng, ỦyViên Trung Ương Đảng, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động VN chắc chắn không nghe, không thấy, không biết gì về những cảnh đời cùng quẫn như trên. Chỉ hai tuần lễ trước khi xẩy ra vụ hàng chục ngàn công nhân đình công và bạo động ở Bình Dương, vào ngày 13 tháng 5 năm 2014, ông vẫn lạc quan, mạnh miệng hô hào khẩu hiệu (như thể là kẻ đang từ trên trời rớt xuống đất nước Việt Nam) theo như tường thuật của Người Lao Động:
“… phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về lịch sử ngày Quốc tế Lao động; 85 năm xây dựng, trưởng thành của tổ chức CĐ Việt Nam, truyền thống đấu tranh cách mạng của giai cấp CN; kết hợp các hoạt động với tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong CNVC-LĐ, nhất là việc triển khai 4 chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI CĐ Việt Nam; tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, nhất là ở trong các KCX-KCN, khu lưu trú nhằm tạo không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết, gắn bó trong đoàn viên CĐ, CNVC-LĐ…”
Rồi ba tuần lễ sau, sau biến cố Bình Dương, chân của ông Đặng Ngọc Tùng (dường như) vẫn chưa chạm đất – theo lời của ký giả Lê Thanh Phong:
“Trong phiên thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội tại Quốc hội vừa qua, liên quan đến giàn khoan Hải Dương 981, Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Đặng Ngọc Tùng nhận định: “Hoàn toàn bất ngờ, không có trong dự báo, trong khi phản ứng, đối phó của chúng ta là không linh hoạt và chậm.”
Riêng cá nhân ông Chủ tịch Tổng LĐLĐVN Đặng Ngọc Tùng, xem chừng, lại “linh động” quá. Ông có thể “tạo không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết, gắn bó trong đoàn viên” ngay cả khi họ bán dâm hay bán máu để sống qua ngày.
Tôi không quan niệm rằng Đảng CSVN là mọi nguyên nhân, cũng như tác nhân, của tất cả những tội ác và tệ trạng xẩy ra ở xứ sở này. Tuy nhiên, tôi vẫn cam chắc rằng bao giờ mà giai cấp công nhân vẫn còn bị Đảng nắm chặt trong tay (như hiện nay) thì đời sống của họ vẫn còn khốn khổ và khốn nạn.
Nực cười, phẫn nộ, nhưng không dễ đương đầu
Việt-Long- RFA
2014-06-13
Bản đồ của Cục bản đồ thuộc phủ Thủ tướng Việt Nam ghi Hoàng Sa và Trường Sa là Tây sa và Nam sa
Internet document
Nực cười- phẫn nộ- ngạc nhiên!
Trước hết là nực cười, rồi phẫn nộ. Đó là cảm tưởng của hầu hết, nếu không nói là toàn thể 100% người Việt trong nước và khắp thế giới, khi nghe tin Trung Quốc tố cáo Việt Nam đâm va vào các tàu của họ 1416 lần!
Nực cười là vì cung cách hành xử của một nước lớn, giàu mạnh trong thế kỷ 21 mà không khác nào một nước Cộng Sản lạc hậu trong thời chiến tranh lạnh, thản nhiên đổi trắng thay đen, trắng trợn nói không làm có. Và phẫn nộ vì Trung Quốc trước sau vẫn trơ trẽn không khác nào một quốc gia lạc hậu về văn minh, chẳng khác gì Bắc Hàn ngày nay. Việc này có thể còn gây chút ngạc nhiên cho những ai từng ngưỡng mộ sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc trong mấy thập niên qua.
Nhưng đó là cảm tưởng chủ quan của những người Việt Nam, trong khi hầu hết các nước khác lại không bày tỏ chút gì gọi là nực cười hay phẫn nộ trước cung cách hành xử kiểu “Chí Phèo Bắc Hàn” của Trung Quốc. Phải chăng một cái nhìn khách quan sẽ đưa đến kết luận khác?
Câu trả lời là hầu hết các chính phủ nước ngoài không thể phán xét như người Việt Nam trong cuộc, dù họ biết rõ hành động của Trung Quốc là thô bạo, áp bức nước nhỏ hơn, chỉ vì ảnh hưởng về mọi mặt của Trung Quốc trên trường quốc tế, nhất là đối với khối ASEAN.
Tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam, bị nói ngược lại – Courtesy of thanhnien.com
Người Việt Nam dù khách quan tới đâu cũng thấy rõ và biết rất chính xác rằng Trung Quốc đã cướp đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bây giờ khư khư giành chiếm chủ quyền, thi hành chiến thuật tằm ăn dâu và thay đổi hiện trạng, lại dùng những thủ đoạn thấp kém đổi trắng thay đen, trong khi ai ai cũng phải thấy thực tế không thể chối cãi là phía Việt Nam là phía bị ức hiếp, bị đàn áp trên mặt biển với những chứng cứ rõ ràng, dưới sự chứng kiến của các phóng viên quốc tế.
Điềm gở?
Một nước lớn đang tranh đua làm cường quốc hàng đầu thế giới mà hành xử như vậy thì chỉ chứng tỏ trình độ trí não vẫn còn ở dưới mức kém cỏi, chưa thể gọi là văn minh ngang hàng những cường quốc cùng ngồi trong Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc với họ.
Điều này càng chứng tỏ Trung Quốc khó lòng vươn lên tới hàng cường quốc văn minh. Từ thời Đặng Tiểu Bình là lúc Trung Quốc đã thức tỉnh và nay đang hiện đại hóa với một tốc độ ít ngờ, thì cung cách đó quả là đã kéo lùi Bắc Kinh về với tinh thần thời chiến tranh lạnh, chẳng khác nào Bắc Hàn ngày nay vẫn còn là một xã hội cô lập, ngủ quên trên thời gian, hệt như đang dừng lại bên một cái đồng hồ chết, và cứ thế mà vùi đầu mãi trong các thập niên 1950-1970
Tuy nhiên, không phải tất cả các nước đều có thái độ e dè thụ động như vậy. Người ta không quên là Nhật và Mỹ đều mạnh mẽ đả kích Trung Quốc và bênh vực Việt Nam. Riêng Châu Âu thì đang chết dở với đống đổ nát của nền tài chính, lại căng thằng thần kinh vì vấn đề Ukraine với Nga, nên không bụng dạ nào nói đến chuyện biển Đông.
Những dữ kiện khó giải thích
Thế nhưng trong khi công luận có thể coi thường Bắc Kinh ở sự tố giác Việt Nam một cách thô thiển như vậy, thì điều đáng suy nghĩ cho Việt Nam là việc Trung Quốc đã cùng lúc trưng dẫn và phổ biến tại Liên Hiệp Quốc những tài liệu về hành động của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đây trong các lãnh vực ngoại giao cũng như giáo dục, mà được Bắc Kinh coi là đã chính thức và toàn tâm toàn ý nhìn nhận chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
Bài địa lý lớp 9, 1974, do Việt Nam biên soạn – Annex 5/4 of Chinese document to the UN
Cho đến nay, ngày thứ sáu 13 tháng 6, 2014, báo chí và truyền hình truyền thanh ở Việt Nam không có tin tức hay nhận định nào nói một tí gì cụ thể đến những tài liệu giáo dục nói trên, đi kèm với bản tuyên bố về lãnh thổ của Trung Quốc năm 1958 và văn thư liên quan của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, thì người ta hiểu rằng đó là điểm yếu của Việt Nam trong cuộc tranh biện quốc tế về chủ quyền và hành vi xâm lấn.
Biện trạng của Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa bằng những chứng cứ lịch sử thì có thể không mang giá trị pháp lý khi ra trước công luận quốc tế hay tòa án quốc tế, nhưng những văn thư liên quan đến hành động công nhận của Việt Nam đối với chủ quyền đó của Trung Quốc là điều rất khó xử cho Việt Nam.
Trung Quốc đã nhiều lần nói đến bản tuyên bố 1958 của Bắc Kinh và văn thư tán thành của Hà Nội đối với bản tuyên bố ấy, nhưng đến nay mới trưng dẫn trước Liên Hiệp Quốc những tài liệu chứng minh Hà Nội thực sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa ngay trong hành động của bộ ngoại giao Việt Nam và các tài liệu giáo dục của Việt Nam, không phải chỉ ở văn thư ngoại giao chính thức.
Bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc ghi rằng chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố bề rộng của hải phận Trung Quốc là 12 hải lý; nhưng quan trọng hơn thế, văn thư viết: “Điều khoản này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của CHNDTH, bao gồm… quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và tất cả các quần đảo khác thuộc về Trung Quốc.”
Văn thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi ngày 14 tháng 9 năm 1958 viết rằng: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Công hòa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.” Đoạn sau viết rằng VNDCCH tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai, 14 tháng 9, 1958
Nhìn qua ngôn từ của Việt Nam, người ta cho rằng Hà Nội có thể cũng còn chỗ xoay sở trước một tòa án quốc tế, tuy rằng chỗ khá chật hẹp. Nên Bắc Kinh cẩn thận kèm thêm những tài liệu kia làm phụ lục của bản tuyên bố trước Liên Hiệp Quốc mới đây.
Bản tuyên bố ngày 8 tháng 6, 2014 tại Liên Hiệp Quốc của Trung Quốc, dịch sang Anh ngữ, viện dẫn hai văn thư nói trên của CHNDTH và VNDCCH, viết rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc”.
Kèm theo đó, Trung Quốc còn trưng dẫn bài học địa lý lớp 9 niên khóa 1974 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và tập bản đồ thế giới do Cục đo đạc và bản đồ thuộc phủ Thủ tướng xuất bản, ghi là tại Hà Nội 1972.
Bài học địa lý lớp 9 tựa đề “Nước CHNDTH” có đoạn viết về biên giới Trung Quốc :”Phía đông mở rộng ra Thái Bình Dương, giáp các biển Bột Hải, Hoàng hải, Hoa đông và Hoa nam …. Vòng cung dẫn từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài Loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn… làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc…”
Tập bản đồ 1974 thì có bản đồ “Phi Líp Pin, Ma Lai Xi a, In đô Nê Xi a, Xin Ga Po” có chú giải quần đảo Hoàng Sa là “Q.đ. Tây Sa”, và quần đảo Trường Sa là “Q.đ. Nam Sa”.
Vẫn còn cơ hội
Có lẽ chính những yếu tố này đã khiến Việt Nam phải thận trọng và chậm bước để tham khảo giới chuyên môn cùng những thành phần ủng hộ Việt Nam trước khi muốn đưa Trung Quốc ra đối diện với pháp lý quốc tế.
Ý kiến của các chuyên gia về pháp lý quốc tế, cả người Việt Nam lẫn ngoại quốc, có nhiều khác biệt, có khi mâu thuẫn, về luận cứ mà Việt Nam có thể đưa ra trước tòa cũng như về cơ hội thắng kiện của Việt Nam.
Trong khi đó Bắc Kinh từng tỏ ra rất e ngại về chuyện bị đưa ra trước một tòa án quốc tế. Bắc Kinh từng nhắc Việt Nam đừng làm theo Philippines mà kiện họ ra tòa trọng tài quốc tế.
Trước thái độ đó của Trung Quốc, và cân nhắc, so sánh nhiều ý kiến của giới chuyên gia, có thể nói Việt Nam vẫn có cơ hội thắng kiện.
Vì thế dù Bắc Kinh có phủ nhận mọi phán quyết, hay không hầu tòa khiến phiên tòa không diễn ra được, Việt Nam vẫn phải tiến hành hành động pháp lý đối với Bắc Kinh.
Dường như Việt Nam trì hoãn và chờ đến thời hạn tháng 8 để xem động tĩnh của Trung Quốc ra sao với cái giàn khoan HD-981.
Giả sử Hà Nội tin rằng Bắc Kinh không rút, thì có thể họ vẫn muốn chờ qua thời điểm đó để hành động pháp lý được mạnh hơn về chính nghĩa và về mặt tinh thần tôn trọng hoà bình và hữu nghị, khi Trung Quốc đã chứng tỏ họ hết mực ngoan cố.
httpv://www.youtube.com/watch?v=9TTKk4KqTMM&index=1&list=PLD62E11EE07BA43AF
httpv://www.youtube.com/watch?v=5lkgUXPTF3w&list=PLD62E11EE07BA43AF&index=4
httpv://www.youtube.com/watch?v=xLTTz3oqt3M&index=10&list=PLD62E11EE07BA43AF
Vé độc đắc như chén rượu độc!
Chu Nguyen
Cuối tháng 03, 2013, giới truyền thông Anh quốc được phen giới thiệu một bi hài kịch của một chàng trung niên của vương quốc sương mù. Nhân vật Roger Griffiths đang sống cuộc sống bình thường của một trí thức bậc trung, kinh tế ổn định hạnh phúc bên vợ là Lara và hai con gái kháu khỉnh thông minh, bỗng nhiên trúng số với vé trúng 1,8 triệu bảng Anh tương đương với khoảng 2,6 triệu Mỹ kim. Nhưng trong thời gian chưa đầy 6 năm, anh ta chỉ còn có 7 bảng Anh hay vào khoảng 10 Mỹ kim.
Trúng số thay đổi cuộc đời, có thể tốt hơn hay xấu hơn có khá nhiều thí dụ trong đời sống thường ngày. Nhưng có điều chắc chắn, trúng số đã khiến người ta thay đổi cuộc đời và áp lực thay đổi khiến nhiều nhà tân triệu phú mất hẳn cái bản sắc, cá tính vốn có lúc chưa trúng số.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng từng viết truyện Trúng số độc đắc. Nhân vật chính là Nguyễn văn Phúc, thất nghiệp bị gia đình và vợ khinh bỉ, xin việc thì bị chủ Tây vứt đơn vào sọt rác. Nhưng bỗng nhiên chàng trai trúng số và bắt đầu cảm thấy có sự đổi thay nơi bản thân, cả thế giới bên ngoài như đổi hẳn cách nhìn anh ta. Từ đó, tạo ra biết bao bi hài kịch của một người khố rách áo ôm chỉ vì bỗng nhiên trở nên giàu có.
Truyện đời thực không nhằm mỉa mai đời mà tập trung vào người trong cuộc. Hai vợ chồng cầm trong tay món tiền từ trên Trời rơi xuống và rất thường tình, họ bàn tán có nên bỏ việc không, làm cách nào làm giàu thêm nhờ có vốn nhưng rồi tiền bạc làm thay đổi cách sống của họ, “ăn theo thuở ở theo thời” nên chỉ trong thời gian ngắn là tiêu hết của hoạnh tài và đôi lứa “không nhìn về một phía” nữa mà nhìn nhau, trách móc nhau.
Roger Griffiths bào chữa trước lời chỉ tích của vợ: “Cô ấy trách tôi làm tiêu tan 1,8 triệu bảng… nhưng sao cô ấy không nhớ đã tiêu biết bao nhiêu ở Louisvutton ?”
Nguyên nhân nào khiến tiền bạc trôi nhanh như nước chảy về đông? Không phải kẻ bàng quan đoán mò mà chính người trong cuộc đã cho báo chí biết tình trạng của họ.
Vinh hoa kéo dài 6 năm:
Đôi vợ chồng trẻ Roger Griffiths trước 2005, sống êm đềm và đầy đủ trong một căn nhà bốn phòng ở Boston Spa ở West Yorkshire, Anh quốc, và chẳng bao giờ đóng trễ tiền mortgage. Người chồng kiếm 38.000 bảng mỗi năm. Lương người vợ cũng xấp xỉ. Có thể nói vợ chồng Griffiths “trông lên không bằng ai nhưng trông xuống cũng nhiều kẻ không bằng mình” vì lương của chồng, giám đốc một bộ phận tuyển dụng trong ngành IT, và lương vợ, giáo sư môn nghệ thuật tại một trường trung học, đủ để họ sống hết kiếp trong sung túc. Nhưng họ không tri túc mà muốn trở thành phú ông, sống như triệu phú, và cách duy nhất để nuôi hy vọng là mua vé số quốc gia. Mỗi tuần Griffiths để ra 2 bảng để đánh số. Có trúng số mới được làm triệu phú và sống vô giới hạn nghĩa là tự do, thoải mái và có thể đạt được giấc mơ trong đời mình.
May cho họ, thần tài gõ cửa vào 2005 với vé độc đắc trúng 1,8 triệu bảng Anh.
Đêm nghe tin trúng độc đắc, vợ chồng Griffiths đã tung tiền ra cho dạ tiệc và tưới sâm banh vào chiến thắng. Tiếp đó mua ngay chiếc Audi giá 18.000 bảng và Lara thì vội vàng tổ chức du lãm Dubai cùng chồng con bằng hạng dành cho kỹ nghệ gia và ở khách sạn 5 sao cho thỏa thích. Roger nhớ lại và có ý tự hào về sự xài sang: “Trong mười ngày chúng tôi đã xài hết 15.000 bảng”.
Roger còn kể thêm, Lara thì thích sắm đồ và cả ngày lượn quanh khu bán sắc tay loại xịn Louis Vuiton bất chấp giá cả hoặc chọn trang sức hột xoàn đắt tiền. Còn anh, anh khiêm tốn hơn… chỉ thích chơi xe sang và ăn mặc bảnh bao..
Trở về Anh họ tính mua nhà và chọn một kiến trúc ở Whetherby. Họ đã bỏ ra 18.000 bảng để tân trang như ý và 25.000 bảng để sắm đồ đạc.
Không ngừng tại đó, Roger thay xe Porsshe cho xứng vời danh hiệu phú ông, còn Lara thì đổi Audi sang Lexus. Hai cô con gái cũng được đổi trường, Ruby, giờ đã 9 tuổi, còn Kitti, 6, lập tức được chuyển trường tư, tốn phí 20.000 bảng mỗi năm.
Giàu thì phải sống như triệu phú mới được, họ thường tổ chức đi du lịch, sau Dubai, là New York, Florida và Rome và luôn luôn chọn khách sạn hạng sang như Royal Suite of St. Regis vì có người quản lý riêng.
Thứ bảy nếu buồn, vợ chồng tân triệu phú lên London thuê khách sạn thứ xịn là One Aldwych để hưởng thụ cho tiện nhưng giá không rẻ đâu nhé vì tới 300 bảng một đêm vui. Không sao vì họ có dịp gặp những ngôi sao màn bạc nổi danh và chụp ảnh chung làm kỷ niệm.
Vốn đẹp trai nhưng có tiền thì nên đánh bóng cho hình thức thẩm mỹ như làm trắng bộ răng ám thuốc lá, xài 300 bảng mỗi lần cho việc bơm Botox, tốn hơn 500 bảng xăm hình, trong đó trên bắp vế có cả tên người vợ là Lara.
Roger Griffiths không phải chỉ tung tiền ra mua những xe sang trọng nhất, mà còn toan đầu tư kiếm lời chứ không bằng lòng với số lợi nhuận do tiền gửi ngân hàng trả hằng tháng vào khoảng 340 bảng Anh một ngày, nhất là hai vợ chồng đã bỏ việc mà muốn chơi sang.
Có tiền thì muốn thực hiện giấc mộng khi còn tay trắng mộng đầy, Griffiths có máu nghệ sĩ, anh ta nhớ lại lúc còn học ở đại học cùng bạn bè lập một băng nhạc nhưng không có tiền để phát triển băng này nên sau khi rời trường thì thành viên tan tác. Griffiths bèn tập hợp bạn bè cũ lại và cho ra album mới sau khi đầu tư £25,000 (50.000 Mỹ kim) nhưng số xui, quảng cáo ra rả nhưng chỉ bán được 600 đĩa CD.
Không phải Griffiths không có ý đầu tư. Vợ chồâng anh ta đã bỏ ra 200.000 bảng Anh để lập thẩm mỹ viện, lấy tên là The Spa Lounge ở Boston Spa.
Griffiths cho biết đã làm cật lực để đưa Spa lên nhưng chỉ mấy tháng kinh doanh đầu tiên có lời rồi thì kinh tế khủng hoảng khiến vợ chống anh ta thua lỗ.
Như thế lỗi không hoàn toàn ở Roger Griffiths mà do thời cuộc đã làm tan giấc mộng vàng của vợ chồng anh. Hơn thế nữa, hình như đồng tiền xổ số mang lại không phải không có chút bất hạnh. Trước hết là thân phụ Lara lâm bệnh, chết năm 2009 rồi đêm trừ tịch Tết Tây 2010 một đám cháy bất ngờ phát ra làm tiêu tan biết bao tài sản trong tổ ấm của vợ chồng Griffiths. Cặp này lại bảo hành không đủ mặt nên phải móc túi ra cho việc sửa chữa. Hai tháng sau khi trở về nhà cũ và Lara đau đớn phát giác trong email của chồng có dấu hiệu ngoại tình. Roger chối và bị vợ cật vấn thì cuộc cãi nhau bùng nổ và chàng khăn gói ra đi.
Như trên đã nói, một cuộc đầu tư vụng trong thời gian kinh tế khủng hoảng, đã khiến Griffiths không những mất tiền, mất nhà và hôn nhân tan vỡ. Giờ đây chàng trai nợ nần cùng mình đi làm cũng để trả nổi những “bill” khi có tiền vung tay quá trán và giờ đây, thất thế đành ngửa tay xin tiền cha mẹ giúp lúc cùng đường. Cựu triệu phú tâm sự: “Số tiền giờ đây tôi kiếm được không đủ dùng để trả hóa đơn chồng chất cái thuở hoàng kim. Nếu không có gia đình giúp đỡ thì tôi nguy rồi. Nhìn lại mới thấm thía cầm vé số độc đắc chẳng khác gì nhận ly rượu độc”.
Hoàn cảnh Lara vô cùng áp lực. Không còn chọn lựa nào khác ngoài tiếp tục bơm tiền vào dịch vụ bằng cách cầm cố nhà lấy tiền củng cố cửa hàng. Những lỗ này tiếp theo lỗ khác nên nhà có cơ nguy bị tịch thu.
Trước đó, Roger Griffiths lại bay bướm, tìm của lạ khi có tiền trong tay và khi vỡ nợ thì gánh nặng tiền bạc đổ vào đầu Lara, chàng ta nhanh chóng dọn ra ngoài thuê phòng trọ, còn nàng nuôi con và kiếm tiền hằng tháng nhưng không đủ trang trải nợ nần và có cơ nguy mất nhà.
Cuộc tình 14 năm tan vỡ, chồng đổ cho vợ, vợ đổ tội cho chồng về việc tiêu quá nhanh “món tiền trời cho” và hậu quả tới nước trắêng tay lại mang nợ.
Lara nghĩ tới lần trúng số mà tê tái. Nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt Lara tâm sự với một ký giả: “Tôi đã nhận ra trúng số không tốt như người ta tưởng đâu. Một số người sau khi trúng số lại tệ hơn lúc trước khi hưởng độc đắc, chỉ vì chúng ta thắng được món tiền chứ không kiếm ra nó. Tôi không những phải làm lại từ đầu mà hoàn cảnh còn tệ hại hơn trước khi trúng số”.
Lara cho đến nay khi nhắc lại thất bại của đời mình đều đổ tại chồng vụng tính. Bà than thở: “Anh ấy đưa giấy tờ đầu tư mỹ viện nhưng tôi không đọc và chỉ biết ký tên và khi biết thì đã muộn phải gánh chịu hậu quả thua lỗ”.
Ngày nay Lara phải làm việc với vai trò chuyên viên thẩm mỹ cho mỹ viện mà trước kia của mình nhưng sau này phải bán sau khi lỗ 500.000 bảng Anh.
Trở lại cảnh nghèo sau khi tỉnh giấc mộng nam kha lẽ ra cả hai vợ chồng Roger Griffiths có thể đối phó được nếu Roger vẫn là chàng trai thuở ban đầu. Lara nhớ lại, cả hai gặp nhau khi cùng học ở Đại học Lanscaster và lấy nhau vào năm 1997. Lara tâm sự: “Trong dịp kỷ niệm 10 năm lễ cưới anh ta gửi cho tôi một tấm thiếp cho tôi biết anh tự hào vì có tôi và rằng mỗi giây trôi qua tình yêu của anh dành cho tôi càng tăng thêm”.
Nhưng sau khi trúng số Roger đã biến thành một người khác xa lạ với Lara. Hờ hững và đôi khi nặng lời với vợ, theo đuổi vụng trộm cô gái khác, lạnh lùng với con. Những biểu hiệu này làm hôn nhân từng kéo dài 14 năm tan vỡ. Lara tâm sự: “Tôi chấp nhận lấy Roger vì anh ta là người biết suy nghĩ và rất tốt. Anh ấy săn sóc tôi và con cái và là người cha ưu tú… Giờ đây nhìn lại chúng tôi chỉ trao đổi ý kiến qua text và nhiều khi “gặp nhau ghé nón chạm vai chẳng chào”.
Phải chăng tiền bạc vun xới ái tình và chính nó có thể dập tắt lửa tình và trúng số có thể xây dựng lâu đài hạnh phúc nhưng cũng đôi khi xói mòn chân móng hạnh phúc.
5 câu chuyện hay về người Cha
Câu chuyện thứ 1: Con có còn dư đồng nào không?
Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi. Từ nhà đếnchỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:”Có dư đồng nào không con?”. Tôi đáp:”Còn dư bốn ngàn ba ạ”. Ba nói tiếp:”Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa”. Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng…
(ST)
Câu chuyện thứ hai: Quà con tặng bố
Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà màu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp giấy.
Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ vẫn mang hộp quà đến nói với cha: “Con tặng bố!”. Người cha cảm thấy bối rối vì cơn giận dữ của mình tối hôm trước, nhưng rồi cơn giận dữ lại bùng lên khi ông mở ra, thấy cái hộp trống rỗng.
Ông mắng con gái. Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, thưa: “Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào hộp để tặng bố mà!”.
Người cha giật mình. Ông vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ cầu xin con tha thứ.
Đứa con gái nhỏ, sau đấy không bao lâu, qua đời trong một tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn khư khư giữ cái hộp giấy bên mình, mỗi khi gặp chuyện nản lòng, ông lấy ra một nụ hôn tưởng tượng và nghĩ đến tình yêu mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.
Trong cuộc sống, chúng ta đã và sẽ nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy tình yêu và những nụ hôn vô tư từ con cái của chúng ta, từ bạn bè, gia đình. Trên đời này, chúng ta không thể có được tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu vô tư như thế.(ST)
Câu chuyện thứ ba: Ngọn nến không cháy
Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ, hạnh phúc. Một hôm, đứa bé gái chẳng may bị bệnh và ra đi mãi mãi. Người cha quá đau khổ , tuyệt vọng, quay lưng lại với tất cả mọi người. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống nữa. Ông tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi.
Một hôm, ngưòi cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước đèn. Tất cả ngọn đèn đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé cuối. Đứa bé ấy cầm một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là đứa con gấi bé bỏng của mình.
Ông tiến lại gần và hỏi con rằng: ” Tại sao nến của con lại không cháy?”. Bé gái đã đáp rằng: ” Con đã cố lắm nhưng không được cha à! Mỗi lần con thắp lên ngọn nến thì những gịot nước mắt của cha lại dập tắt hết ngọn nến của con”.
Đến đó thì người cha choàng tỉnh. Từ đó, ông lấy lại thăng bằng, lại sống vui vẻ, giúp đỡ mọi người xung quanh bởi ông không muốn những giọt nước mắt của ông lại dập tắt ngọn nến hi vọng của con ông.
Nước mắt chỉ có thể xoa dịu phần nào chứ không thể làm tan biến hoàn toàn nỗi mất mát lớn lao. Hãy cứ khóc khi bạn cần, nhưng hãy đứng lên vững vàng bạn nhé! Bởi ngoài kia, đâu đó, ở một nơi nào đó, người thân của bạn đang nhìn bạn mỉm cười
(ST)
Câu chuyện thứ tư: Tô mì
Vào một buổi chiều mùa xuân lạnh lẽo, trước cửa quán xuất hiện hai vị khách rất đặc biệt, một người cha và một người con. Nói đặc biệt là bởi vì người cha bị mù. Người con trai đi bên cạnh cẩn mẫn dìu người cha. Cậu con trai trạc mười tám mười chín tuổi, quần áo đơn giản, lộ rõ vẻ nghèo túng, nhưng từ cậu lại toát lên nét trầm tĩnh của người có học, dường như cậu vẫn đang là học sinh..
Cậu con trai tiến đến trước mặt tôi: “Cho hai bát mì bò!”, cậu nói to. Tôi đang định viết hoá đơn, thì cậu ta hướng về phía tôi và xua xua tay. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta, cậu ta nhoẻn miệng cười biết lỗi, rồi chỉ tay vào bảng giá treo ở trên tường, phía sau lưng tôi, bảo tôi rằng chỉ làm 1 bát mì cho thịt bò, bát kia chỉ cần rắc chút hành là được. Lúc đầu, tôi hơi hoảng, nhưng sau đó chợt hiểu ra ngay. Hoá ra, cậu ta gọi to hai bát mì thịt bò như vậy là cố tình để cho người cha nghe thấy, thực ra thì tiền không đủ, nhưng lại không muốn cho cha biết. Tôi cười với cậu ta tỏ vẻ hiểu ý.
Nhà bếp nhanh nhẹn bê lên ngay hai bát mì nóng hổi. Cậu con trai chuyển bát mì bò đến trước mặt cha, ân cần chăm sóc: “Cha, có mì rồi, cha ăn đi thôi, cha cẩn thận kẻo nóng đấy ạ!”. Rồi cậu ta tự bưng bát mì nước về phía mình. Người cha không vội ăn ngay, ông cầm đũa dò dẫm đưa qua đưa lại trong bát. Mãi lâu sau, ông mới gắp trúng một miếng thịt, vội vàng bỏ miếng thịt vào bát của người con. “An đi con, con ăn nhiều thêm một chút, ăn no rồi học hành chăm chỉ, sắp thi tốt nghiệp rồi, nếu mà thi đỗ đại học, sau này làm người có ích cho xã hội.” Người cha nói với giọng hiền từ, đôi mắt tuy mờ đục vô hồn, nhưng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn lại sáng lên nụ cười ấm áp. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên đó là, cái cậu con trai đó không hề cản trở việc cha gắp thịt cho mình, mà cứ im như thóc đón nhận miếng thịt từ bát của cha, rồi lại lặng lẽ gắp miếng thịt đó trả về.
Cứ lặp đi lặp lại như vậy, dường như thịt trong bát của người cha cứ gắp lại đầy, gắp mãi không hết. “Cái quán này thật tử tế quá, một bát mì mà biết bao nhiêu là thịt.” Ông lão cảm động nói. Kẻ đứng ngay bên cạnh là tôi, chợt toát hết cả mồ hôi, trong bát chỉ có vài mẩu thịt tội nghiệp, quắt queo bằng móng tay, lại mỏng chẳng khác gì xác ve. Người con trai nghe vậy vội vàng tiếp lời cha: “Cha à, cha ăn mau ăn đi, bát của con đầy ắp không biết để vào đâu rồi đây này. ” “Ừ, ừ, con ăn nhanh lên, ăn mì bò thực ra cũng có chất lắm đấy.”
Hành động và lời nói của hai cha con đã làm chúng tôi rất xúc động. Chẳng biết từ khi nào, bà chủ cũng đã ra đứng cạnh tôi, lặng lẽ nhìn hai cha con họ. Vừa lúc đó, cậu Trương đầu bếp bê lên một đĩa thịt bò vừa thái, bà chủ dẩu dẩu môi ra hiệu bảo cậu đặt lên bàn của hai cha con nọ. Cậu con trai ngẩng đầu tròn mắt nhìn một lúc, bàn này chỉ có mỗi hai cha con cậu ngồi, cậu ta vội vàng hỏi lại: “Anh để nhầm bàn rồi thì phải?, chúng tôi không gọi thịt bò.” Bà chủ mỉm cười bước lại chỗ họ: “Không nhầm đâu, hôm nay chúng tôi kỉ niệm ngày mở quán, đĩa thịt này là quà biếu khách hàng. ” Cậu con trai cười cười, không hỏi gì thêm.
Cậu lại gắp thêm vài miếng thịt vào bát người cha, sau đó, bỏ phần còn thừa vào trong một cái túi nhựa. Chúng tôi cứ im lặng chờ cho hai cha con ăn xong, rồi lại dõi mắt tiễn hai cha con ra khỏ quán. Mãi khi cậu Trương đi thu bát đĩa, đột nhiên kêu lên khe khẽ. Hoá ra, đáy bát của cậu con trai đè lên mấy tờ tiền giấy, vừa đúng giá tiền của một đĩa thịt bò, được viết trên bảng giá của cửa hàng. Cùng lúc, Tôi, bà chủ, và cả cậu Trương chẳng ai nói lên lời, chỉ lặng lẽ thở dài, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.”
(ST)
Câu chuyện thứ năm: Đấu giá cuối cùng (đã phổ biến)
Có một người đàn ông yêu thích mỹ thuật. Ông ta say mê đến mức gần như sống vì niềm say mê của mình. Sưu tập tranh là mục tiêu cả đời của ông.
Ông làm việc rất chăm chỉ để dành tiền tiết kiệm nhằm mua thêm các tác phẩm hội họa cho bộ sưu tập của mình. Ông mua rất nhiều tác phẩm của các họa sỹ nổi tiếng.
Người đàn ông này đã góa vợ. Ông chỉ có một người con trai. Ông đã truyền lại cho con mình niềm say mê sưu tầm đó. Ông rất tự hào về con trai của mình khi anh ta cũng trở thành một nhà sưu tầm nổi tiếng như ông.
Một thời gian sau, đất nước bỗng có chiến tranh. Người con trai, cũng như mọi thanh niên khác, lên đường tòng quân. Và sau một thời gian thì câu chuyện xảy ra…
Một hôm, người cha nhận được một lá thư thông báo rằng người con đã mất tích khi đang làm nhiệm vụ. Người cha đau khổ đến tột cùng. Thật là khủng khiếp khi người cha không thể biết được điều gì đang xảy ra với con mình. Vài tuần sau ông nhận được một lá thư nữa. Lá thư này báo với ông rằng con ông đã hy sinh khi làm nhiệm vụ. Ông gần như chết đi một nửa người. Thật khó khăn khi đọc tiếp lá thư đó, nhưng ông vẫn cố. Trong thư, người ta báo rằng con ông đã rút lui đến nơi an toàn. Nhưng thấy trên bãi chiến trường vẫn còn những đồng đội bị thương, con ông đã quay lại và đưa về từng thương binh một. Cho đến khi đưa người cuối cùng về gần đến khu vực an toàn thì con ông đã trúng đạn và hy sinh.
Một tháng sau, đến ngày Noel, ông không muốn ra khỏi nhà. Ông không thể hình dung được một Noel mà thiếu con trai mình bên cạnh. Ông đang ở trong nhà thì có tiếng chuông gọi cửa. Đứng trước cửa nhà là một chàng trai tay cầm một bọc lớn.
Chàng trai nói “Thưa bác, bác không biết cháu, nhưng cháu là người mà con bác đã cứu trước khi hy sinh. Cháu không giàu có, nên cháu không biết đem đến cái gì để đền đáp cho điều mà con bác đã làm cho cháu. Cháu được anh ấy kể lại rằng bác thích sưu tầm tranh, bởi vậy dù cháu không phải là một họa sỹ, cháu cũng vẽ một bức chân dung con trai bác để tặngcho bác. Cháu mong bác nhận cho cháu.”
Người cha đem bức tranh vào nhà, mở ra. Tháo bức tranh giá trị nhất vẫn treo trên lò sưởi xuống, ông thay vào đó là bức chân dung người con. Nước mắt lưng tròng, ông nói với chàng trai “Đây là bức tranh giá trị nhất mà ta có được. Nó có giá trị hơn tất cả các tranh mà ta có trong căn nhà này.” Chàng trai ở lại với người cha qua Noel đó rồi hai người chia tay. Sau vài năm, người cha bị bệnh nặng. Tin tức về việc ông qua đời lan truyền đi rất xa. Mọi người đều muốn tham gia vào cuộc bán đấu giá những tác phẩm nghệ thuật mà người cha đã sưu tầm được qua thời gian.
Cuối cùng thì buổi bán đấu giá cũng được công bố vào ngày Noel năm đó. Các nhà sưu tầm và những nhà đại diện cho các viện bảo tàng đều háo hức muốn mua các tác phẩm nổi tiếng. Toà nhà bán đấu giá đầy người.
Người điều khiển đứng lên và nói “Tôi xin cám ơn mọi người đã đến đông đủ như vậy. Bức tranh đầu tiên sẽ là bức chân dung này…”
Có người la lên “Đó chỉ là chân dung đứa con trai ông cụ thôi! Sao chúng ta không bỏ qua nó, và bắt đầu bằng những bức có giá trị thật sự?”
– Người điều khiển nói “Chúng ta sẽ bắt đầu bằng bức này trước!”
– Người điều khiển bắt đầu “Ai sẽ mua với giá $100?”
– Không ai trả lời nên ông ta lại tiếp “Ai sẽ mua với giá $50?”
– Cũng không có ai trả lời nên ông ta lại hỏi “Có ai mua với giá $40?”
Cũng không ai muốn mua. Người điều khiển lại hỏi “Không ai muốn trả giá cho bức tranh này sao?” Một người đàn ông già đứng lên “Anh có thể bán với giá $10 được không? Anh thấy đấy, $10 là tất cả những gì tôi có. Tôi là hàng xóm của ông cụ và tôi biết thằng bé đó. Tôi đã thấy thằng bé lớn lên và tôi thật sự yêu quý nó. Tôi rất muốn có bức tranh đó. Vậy anh có đồng ý không?”
Người điều khiển nói “$10 lần thứ nhất, lần thứ nhì, bán!”
Tiếng ồn ào vui mừng nổi lên và mọi người nói với nhau “Chúng ta có thể bắt đầu thật sự được rồi!” Người điều khiển nói “Xin cảm ơn mọi người đã đến. Thật là vinh hạnh khi có mặt những vị khách quý ở đây. Bữa nay chúng ta sẽ dừng tại đây!”
Đám đông nổi giận “Anh nói là hết đấu giá? Anh vẫn chưa đấu giá toàn bộ các tác phẩm nổi tiếng kia mà?” Người điều khiển nói “Tôi xin lỗi nhưng buổi bán đấu giá đã chấm dứt. Mọi người hãy xem chúc thư của ông cụ đây, NGƯỜI NÀO LẤY BỨC CHÂN DUNG CON TÔI SẼ ĐƯỢC TẤT CẢ CÁC BỨC TRANH CÒN LẠI! Và đó là lời cuối cùng!”
“Lướt theo chiều gió,”
Một con thuyền, theo trăng trong
Trôi trên sông thương, nước chảy đôi giòng.”
(Đặng Thế Phong – Con Thuyền Không Bến)
(Lc 6: 36)
Thuyền trên sông Thương hay sống “Mến” có nước chảy đôi giòng, mà lại không có bến, thì chỉ có nước cứ lênh đênh ba chìm bẩy nổi, rất long đong. Thuyền nhà Giáo hội, lại cũng là thuyền trên giòng sông Yêu-thương xưa nay vẫn có bến/có bờ, chẳng nghi ngờ gì một tình-huống long đong rất như thế.
Thuyền Hội-thánh Công-giáo La Mã hôm nay, chắc cũng không giống như câu hát tiếp:
“Ðêm nay thu sang cùng heo may
Ðêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng
Như nhớ thương ai chùng tơ lòng.
Trong cây hơi thu cùng heo may
Vi vu qua muôn cành mơ say
Miền xa lời gió vang thông ngàn
Ai oán thương ai tàn mơ màng.”
(Đặng Thế Phong – bđd)
Vâng. Thuyền không bến bờ, mà lại hát “ai oán thương ai tàn mơ màng” như thế, chắc sẽ mãi mãi chẳng thấy bờ bến thương yêu, mỹ-miều ở đâu hết. Thuyền Hội thánh, thật ra tuy chẳng hát nhiều nhưng vẫn thấy nhà Đạo khẳng định tình thương xót xa rất thánh-hội, như ý-kiến của Đức Hồng Y Walter Kasper qua câu trả lời phỏng vấn do nhà báo đặt ra như sau:
“Nhà báo: Thưa Đức Hồng Y, trong cuốn có tựa đề là “Mercy: The Essence of the Gospel and the Key to Christian Life”, ngài có viết: “Tình Thương Yêu Xót Xa, là bản-chất của Thiên-Chúa. Vậy, làm sao để người đọc hiểu được Lòng thương-xót của Chúa, đây?
Hồng Y Kasper: Tín-điều Chúa gửi đến với ta, là do ta hiểu-biết về bản-thể của Chúa rất như thế. Thiên-Chúa, đương nhiên là thế, và còn hơn thế nữa. Điều này không có gì là sai quấy hết. Nhưng, Kinh Sách Đạo Chúa hiểu một cách sâu-sắc và tư riêng hơn. Chẳng hạn: trong chuyện kể về Bụi Cây Bốc Cháy ở Cựu Ước, tương-quan giữa Giavê Thiên-Chúa với Môsê qua Lời Ngài khẳng-định bảo rằng: “Ta có” mà là: “Ta có với ngươi. Ta có là cho ngươi. Ta cùng đi với người”. Trong bối cảnh này, lòng xót thương đã đặt nền tảng kiên cố ở Cựu-Ước. Thiên-Chúa của Cựu-Ước không là Đức Chúa chuyên giận-dữ mà là Đức Chúa chuyên tỏ lòng xót thương, nếu đọc kỹ. Và, các Thánh vịnh còn cho thấy rõ điều này nữa.
Lối hiểu-biết tận thâm căn về Thiên-Chúa khi xưa cũng khá mạnh đến độ Thiên-Chúa được xem là Đấng Công-Chính, chứ không là Đấng Đầy Xót Thương. Thánh Tôma Akinô từng nói rõ: tình thương mang ý-nghĩa căn-bản/triệt-để hơn, bởi lẽ Thiên-Chúa không là lời đáp-trả cho các đòi hỏi nơi qui-định của con người. Lòng Thương Xót là tính-chất rất đáng tin-tưởng của Thiên-Chúa đối với bản-thể đầy tính thương-yêu của Ngài. Bởi lẽ, Thiên-Chúa là Tình-yêu. Và, lòng xót thương là Tình-yêu bày tỏ cho ta bằng hành-động và lời nói rất cụ-thể. Thế nên, lòng xót thương trở nên không chỉ là thuộc-tính trọng-yếu của Thiên-Chúa mà thôi, nhưng còn là chìa khoá cho lòng Đạo rất hiện-hữu nữa.
Thành thử, hãy tỏ lòng thương-xót với mọi người như Thiên-Chúa đầy lòng xót-thương. Và, ta vẫn cứ phải học đòi bắt chước Lòng Chúa xót-thương mới được.
Nhà báo: Thưa Đức Hồng Y, tại sao hôm nay, Giáo hội cần phải nói lại cho mọi ngươòi hiểu điều đó, thế?
ĐHY Kasper: Thế kỷ thứ 20 là một thế-kỷ đầy tăm-tối với 2 cuộc chiến thế-giới, lại qui-tụ nhiều hệ-thống độc-tài toàn trị, những đảo ngục tù kiểu gulag, trại tập-trung, nạn diệt chủng người Do-thái, vv… Và, thế-kỷ thứ 21 khởi-đầu một cách không mấy tốt đẹp hơn trước. Chúng dân cần được thương-xót và thứ tha. Đó, cũng là lý-do khiến Đức Giáo Hoàng Gioan 23 có viết trong cuốn tiểu-sử linh-đạo trong đó ngài có nói: lòng xót thương là “thuộc-tính” đẹp nhất của Thiên-Chúa. Và, trong bài phát-biểu mở đầu Công Đồng Vaticăng 2, ngài lại nói: Giáo-hội Chúa luôn cưỡng-chống lại các sai sót của thời-đại, thông thường với tất cả tính nghiêm-túc cần có, nhưng ngày này ta lại cứ phải dùng đến thang thuốc của lòng xót thương, để làm thế. Đây là một bước nhảy rất lớn lao. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị đã sống xuyên suốt qua giai-đoạn cuối của Thế Chiến thứ 2 và rồi cũng đã ngang qua chế độ Cộng-sản ở Ba Lan. Thế nên, ngài thấy rõ nỗi khổ của dân ngài và của chính nỗi khổ-tâm ngài từng gánh chịu, trong đời. Với ngài, lòng xót thương là yếu-tố rất quan trọng, trong đời người. Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16 lại cũng ra tông-thư đầu tay qua đó ngài nhất mực khẳng định: Thiên-Chúa là Tình-Yêu. Và nay, thì Đức Giáo hoàng Phanxicô, từng sống trải-nghiệm với chúng dân ở Nam Bán Cầu, nơi đó lại có đến hai phần ba người Công Giáo đang sống trong cảnh thiếu thốn, khó nghèo. Thế nên, ngài cũng đã coi lòng xót thương là trọng-điểm cho triều-đại giáo-hoàng của ngài. Theo tôi, thì đây là câu trả lời cho các dấu chỉ của thời đại ta đang sống…” (xem Matthew Boudway và Grant Gallicho, Phỏng vấn Đức Hồng Y Walter Kasper, 7/5/14)
Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng: Đức Hồng Y nhà mình nhận-định về lòng xót thương mà dân con trong Đạo từng am hiểu qua nhiều năm tháng ngày giờ như thế rất không sai. Nhưng hỏi rằng: dân con trong đạo hiểu và sống thế nào, về lòng xót thương của Chúa, lại là chuyện khác.
Và, trước khi nghiên-cứu những chuyện rất khác thế, cũng nên về với thi ca mà hát rằng:
“Biết đâu bờ bến
Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu?
Trên con sông Thương, nào ai biết nông sâu?
Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng
Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng
Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong
Ánh trăng mờ chiếu, một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la, thuyền mơ bến nơi đâu?”
(Đặng Thế Phong – bđd)
Nói gì thì nói. Hát gì thì hát, cũng nên hát và nói những lời vàng được thánh sử Luca từng ghi lại:
“Anh em hãy có lòng nhân từ thương xót,
như Cha anh em
là Đấng nhân từ xót thương.”
(Lc 6: 36)
Nay hỏi rằng, “lòng nhân từ thương xót” được thánh-sử ghi lại ở trên có là khẳng-định “ắt và đủ” cho dân con nhà Đạo, chăng? Và, dân con Đạo mình có thực-thi điều đó hay không? Và, các nhà thần-học cùng chú giải Kinh thánh, nói thế nào về những điều này?
Và đây, là một trong các ý-kiến của đấng bậc nhà Đạo, từng giảng-giải về “lòng thương xót Chúa cho đi hết mình Ngài, như sau:
“Chúa cho đi, không phải sự sống của Ngài, cho bằng cả “tâm-thân” Ngài. Và, Ngài tặng ban “tâm-thân” Ngài hiểu theo nghĩa cụm-từ “Lytron” bên tiếng Hy-Lạp, là từ-vựng chính buộc ta phải xem xét ngay với tự-vựng tiếng Aram là ‘hoi polloi”, tức khối lượng những người không mang bất kỳ tên gọi một ai hết. Đây là sự-việc nói về “tình yêu dành cho tha-nhân” được hiểu một cách không hạn-hẹp về sự chết của Ngài, nhưng bao gồm mọi thứ thuộc toàn-bộ con người của Ngài và toàn-bộ tất cả những gì Ngài làm trong đời, cả bản-thể Ngài cũng như những gì Ngài làm trong cuộc sống có Phục sinh/trỗi dậy. Đây là sự “cho đi” chính bản-thể của Ngài, chứ không chỉ mỗi cuộc sống rất xác-phàm của Ngài mà thôi. Đó là tính-cách “lytron”, ban đầu được sử-dụng để đưa ra ý-nghĩa về một “thế-chấp bảo-kê” cho những ai được đưa vào tương-quan giao-ước rất miên trường. Họ là ai? Là chúng dân ở khắp nơi, bất cứ nơi nào cũng có họ ở đó. Họ là những người bị bỏ rơi, quên lãng, tức những kẻ bị hạ giá/xuống cấp ở bất cứ xã-hội nào đặt dưới hệ-thống quyền-lực hoặc cơ-chế của đế-quốc.” (xem Lm Kevin O’Shea, CSsR Ơn Cứu Chuộc và thần-học lịch-sử từ Thánh Kinh, www.giadinhanphong.blogspot.com 01-4-2014).
Và, đã nói thì phải nói cho cùng, cho xuyên suốt một ý-nghĩa thần-học về lòng xót thương của Đức Chúa, để chứng-minh cho cái chết Ngài chấp-nhận cho riêng Ngài, không phải chỉ để đền bù mọi lỗi tội của người phàm trần, mà là để xác-chứng lòng thương xót vô bờ bến của Ngài, như đấng bậc ở trên, lại đã viết rất như sau:
“Hỏi rằng: Đức Giêsu chết đi phải chăng là để chứng minh rằng Thiên-Chúa yêu thương loài người chúng ta không?
Câu trả lời, là: Đúng thế! Nhưng, không theo cách rất chung chung như ta thường thấy. Đức Giêsu minh-chứng cho ta thấy tình-thương-yêu mà loài người không thể tưởng-tượng được của Thiên-Chúa với người nghèo hèn/bé nhỏ, bị áp-bức. Và, bằng vào tình thương-yêu thần thánh của Ngài, Thiên-Chúa luôn khước-từ mọi quyền-lực dù chỉ để chống lại những kẻ từng bức-bách đám “thân-cô thế cô”, đi nữa. Khi nói Đức Giêsu chết đi để chứng-tỏ tình-thương-yêu của Ngài với con người, nói như thế không làm giảm-suy những gì Ngài từng thực-hiện. Nếu so sánh với ý-tưởng về “tình yêu” thông-thường ở đời, thì Tình-thương-yêu của Ngài, ở đây, cần được thăng-hoa dàn trải thật lớn rộng.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Ơn Cứu-Chuộc và Khúc cuối một Giòng Suy-Tư, bđd 08/5/2014).
Lại có đấng bậc khác, quan niệm Lòng Xót Thương của Chúa diễn tả rất rõ ở truyện kể Tin Mừng về “Người Con Đi Hoang”, đã bảo rằng:
“Điều dễ hiểu lầm là nhiều người vẫn rằng: dù ta làm gì tệ phạm đi nữa, cuối cùng rồi Chúa cũng xót thương, tha thứ. Vậy nên, cứ tha hồ làm điều xấu. Trong tương quan với Đức chúa, có hai việc cần minh định. Trước nhất, Chúa yêu thương mọi người chúng ta. Tình yêu của Ngài không mang điều kiện nào hết. Chẳng cần biết ta là ai? Ta có làm gì chống Chúa, chống anh em? Tình yêu Ngài đối với ta, tuyệt nhiên không suy xuyển.
Thứ đến, có điều chắc chắn, là: chẳng phải vì ta hiền lành/thánh thiện mà Ngài sẽ yêu hơn hoặc nếu ta phạm lỗi, Ngài yêu ít đi. Thiên Chúa là Tình yêu. Tình Ngài yêu ta rất trọn vẹn. Dù là, đối với các vị thánh như Mẹ Têrêsa. Hoặc, với các kẻ độc tài, hình sự. Bởi nếu không, thì Ngài cũng thiên vị, như ai. Chính vì thế, Ngài mới bảo: “Có là người bệnh mới cần đến thầy lang.”
Dầu sao, việc Chúa thứ tha mọi tội, là hành xử vô điều kiện. Điều này thấy rõ nơi dụ ngôn “người em đi hoang” có thái độ của người con đã trót dại: “thích lang thang, ngổ ngáo với đời” và “thích phiêu bạt rong chơi”, như nhà thơ diễn tả. Dù rồ dại, Cha vẫn yêu đứa con “hoang tàng”. Cha không mang thành kiến, hoặc kỳ thị các con: “mãi từ xa trông thấy, Cha đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ người con, và hôn lấy hôn để…” Tình yêu của Cha là như thế. Nhưng tình thương yêu tha thứ của Cha chỉ nên trọn vẹn, khi con biết tỉnh giấc, quay về. Nói khác đi, chỉ có thứ tha trọn vẹn khi có hoà giải. Khi vết thương chia cách được chữa lành. Đây chính là ý nghĩa của bí tích hoà giải, thứ tha.
Trong hòa giải với Chúa, bước dấn thân đầu tiên như “người em đi hoang” đã nghĩ là bước quan trọng. Quan trọng, vì biết chắc Cha sẽ giang rộng đôi tay già ra chào đón ta trở về. Chẳng còn chữ “nếu”, chữ “nhưng”. Chẳng điều kiện, cũng không dè chừng. Không hình phạt, cũng chẳng đòi bồi thường. Điều này, được thánh Phao-lô mạnh dạn nói rõ: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giê-su đã đến thế gian, để cứu người tội lỗi, mà kẻ đầu đàn là tôi.” (1Tm 1: 15).
Cũng thế, đường lối Chúa đón nhận “người em đi hoang” trở về, phải được chứng xác bằng tương quan ta có với người khác nữa. Trong lời cầu Chúa dạy, rõ ràng ta vẫn quyết: “Xin tha cho con mọi lỗi lầm trót phạm, cũng một kiểu như con đã làm cho người anh em.”
Cuối cùng ra, khi đã được tha thứ, cũng nên nhớ thêm Lời Ngài đã phán: “Hãy trở nên trọn lành, vì Cha của chúng ta trên trời là Đấng trọn lành”. Điều này mang ý nghĩa rất sáng tỏ: hãy yêu thương hết mọi người, một cách vô điều kiện, như Chúa hằng yêu ta. Và, hãy sẵn sàng tha thứ cũng như hòa giải với từng người như Ngài đã từng làm như thế, với từng người một.
Việc này không dễ. Nhưng không phải là chẳng thể làm được. Nhưng với sự trợ giúp của Cha, ta luôn hy vọng. Vào tiệc lòng mến hôm nay, ta cứ hân hoan và hy vọng. Hy vọng là Chúa vẫn thứ tha. Hy vọng là ta cũng sẽ tha thứ hết mọi người. Từ “người em đi hoang” thích phiêu bạt giang hồ, cho chí người anh “vẫn hầu hạ Cha, chẳng khi nào trái lệnh”, và tất cả mọi người.” (xem Lm Richard Leonard sj, Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 24 thường niên năm C, www.suyniemloingai.blogspot.com 15/9/2013)
Hiểu theo ý-hướng thần-học thì như thế. Còn lại, là tâm-tưởng của dân thường ở huyện nghĩ ra sao? Để trả lời, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên đi vào vùng trời truyện kể để lắng nghe câu chuyện diễn tả rất xa xa về ý-hướng, ý-nguyện của người dân thường, như bên dưới
“Có người thợ mộc già nọ làm việc rất chuyên cần và hữu-hiệu lâu năm cho hãng thầu xây cất nọ. Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia-đình. Tuy không còn lãnh lương nữa, nhưng ông muốn nghỉ ngơi để an-hưởng tuổi già. Hãng đề-nghị ông cố-gắng ở lại giúp hãng xây một căn nhà chót trước khi thôi việc. Ông nhận lời. Nhưng, vì biết mình sẽ giải-nghệ lại bị miễn-cưỡng làm việc, nên ông làm một cách tắc-trách qua quít, xây nhà bằng vật-liệu tầm thường kém phẩm-chất, miễn có bề ngoài đẹp là được.
Mấy tháng sau, khi xây dựng xong căn-nhà cuối cùng ấy, ông được chủ hãng mời tới, đưa cho ông chìa khoá nhà và nói: “Ông đã tận-tụy phục-vụ hãng rất nhiều năm, để trả công cho những đóng góp của ông cho sự thịnh-vượng của hãng, nay xin tặng ông ngôi nhà vừa xây xong!” Thật bàng hoàng. Nếu người thợ xây như ông biết là mình sẽ xây căn nhà cho chính mình, thì ông đã làm việc cẩn-thận và chọn vật-liệu có phẩm-chất tốt hơn. Lối làm việc tắc trách cho căn nhà ấy chỉ mình ông là biết tới, và nay thì ông đành phải sống trong căn nhà mà chỉ riêng ông mới biết là nó kém phẩm-chất.” (trích truyện kể từ điện-thư vừa mới nhận hôm rồi).
Truyện kể vỏn vẹn chỉ mỗi thế. Không thêm hoa lá cành và cũng chẳng lý-luận, phân bua gì hết. Nhưng, người kể hôm nay, lại muốn chia sẻ một bài học rút từ câu chuyện răn đời ở đây: Chuyện kể đây cũng giống chuyện đời người của mọi người. Mọi người đều giống ông thợ già kể ở trên, tạo cuộc sống xa hoa/hào nhoáng, rất tạm bợ, lại cứ đua đòi nhiều thứ, chứ không chú tâm vào phẩm-chất của mọi sự.
Nhiều lúc ngồi nghĩ về hành-xử của mình trong quá khứ, ta thấy mình cứ phải cam chịu hậu-quả do việc mình làm. Đời người, là công-trình kiến-trúc do mình tạo ra. Đời sống hiện-tại vẫn là kết-quả của mọi tạo-dựng ta làm nên trong quá-trình sống. Cuộc sống tương-lai, lại là kết quả của những gì ta tạo-dựng ngay từ hôm nay. Hãy xây dựng đời mình cho đúng đắn, để rồi không hối-hận gì nữa hết, cho mai ngày.
Quyết thế rồi, giờ đây mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên-ngang, đứng thẳng người mà tuyên-bố với mọi người rằng: lòng thương xót Chúa là gương-lành để ta bắt chước, chứ không phải để mình chiêm-ngưỡng theo cung-cách bái lạy đưa lên bàn thờ mà thờ phượng, như thần tượng. Một thứ tượng-thần mới, khi xưa ít thấy có, nhưng nay lại đã thấy ở khắp khung trời mở ngỏ của nhà Đạo.
Chuyện còn lại, vẫn là chọn lựa của tôi, của bạn và của mọi người trong sống đời thương yêu, thương xót hết mọi người như Lời Chúa từng căn dặn ở nhiều nơi.
Nhận định thế rồi, sá gì một vài phút giây để tôi cùng bạn, ta lại hát lên câu ca ở trên làm đoạn kết một cuộc tình, rất xót thương và cũng thương xót, như sau:
“Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng
Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng
Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong
Ánh trăng mờ chiếu, một con thuyền trong đêm thâu
Trên sông bao la, thuyền mơ bến nơi đâu?”
(Đặng Thế Phong – bđd)
Vâng. Sự thật là như thế. Như thế, cũng như thể cuộc đời người cứ như con thuyền không bến không bờ, nếu thiếu đi tình xót thương vô bến bờ, thiếu đợi chờ và vấn vương.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ nhủ người
Và tự nhủ
Đừng quên sót
Lòng xót thương vô bến bờ
Với mọi người.
“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,”
“Ta với đời, thực sự chẳng nương nhau.
Ta với đời, tất nhiên là thua cuộc,
Vì áo cơm, là những ngọn lao nhanh.”
(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Ga 6: 51-58
Với nhà thơ, cuộc đời người chỉ cần mỗi cơm áo gạo tiền có ngọn lao nhanh vút đâm thấu đời lạnh giá. Nơi nhà đạo, cuộc sống ở Nước Trời nào cần đến tiền bạc lẫn cơm áo, nhưng chỉ cần người người biết thương yêu sẻ-san khi đói kém, thiếu thốn mỗi tình người, mà thôi.
Có lần, Đức Gioan Phaolô II từng đặt chân đến Lima, thủ đô nước Pêru thăm dân tình ở đây, ngài cũng cảm-nghiệm được tình-thế của dân con đói nghèo cả cơm áo lẫn tình thương hơn thế. Thoạt lúc ngài đến, có khoảng hai triệu người tìm đến gặp ngài. Thông thường, vào những buổi viếng thăm như thế, hai vị Tổng thống ngoài đời và Hồng Y Giáo chủ trong đạo nước này đều sẽ ra nghênh tiếp và chào mừng Đức Giáo Hoàng, rất êm vui.
Nhưng hôm ấy, lại thấy cặp nam nữ giáo dân bình thường là Irene và Viktor Charo, là hai người nghèo sinh sống tại khu nhà ổ chuột, tiến lên máy vi âm để đạo đạt ý kiến cùng Đức Giáo Hoàng. Vào lúc cả quảng trường chìm lắng trong thinh lặng, hai người đại-diện đã tiến về phía Đức Gioan Phaolô II vỏn vẹn nói mấy câu sau đây:
“Thưa Đức Thánh cha, dân chúng đây đang bị nạn đói hoành hành. Nhiều người trong chúng con đang ốm đói, thiếu ăn, thiếu mặc. Có người không có công ăn việc làm. Con cháu chúng con đang chết dần mòn vì suy dinh dưỡng. Hôm nay, chúng con lên đây để thưa với Đức Thánh Cha, là: chúng con vẫn mạnh mẽ tin vào Đức Chúa của sự sống. Nhưng, cũng xin Đức Thánh Cha biết cho rằng: chúng con đang ốm đói, thèm có gạo/bánh để mà ăn cho đỡ đói bụng”.
Cả triệu người vẫn im lặng như tờ, chờ xem Đức Giáo Hoàng sẽ ứng xử làm sao trước một tình huống ra như thế. Bấy giờ, Đức Gioan Phaolô II lên tiếng hỏi dân chúng bằng ngôn-ngữ Tây Ban Nha:
–Phải chăng quý vị muốn nói: dân chúng ở đây đang thiếu ăn, không?”
Cả triệu người đồng thanh đáp lại: “
-Dạ, đúng thế! Đúng là như thế!”
Đức Gioan Phaolô II lại hỏi tiếp:
–Quý vị cũng nói rằng quý vị đang đói Chúa, có phải không?”
Mọi người đáp:
–Dạ, đúng! Đúng là như thế!”
-Thế thì, hôm nay, Cha mong những người đang đói Chúa vẫn cứ vậy nhé. Và, Cha cũng mong cho người đang thèm khát của ăn/thức uống được no đầy, mãn nguyện!”
Lúc ấy, Đức Gioan Phaolô II quay mặt về phía các tướng lãnh và chính-trị-gia ăn no mặc ấm mà phần đông là người Công-giáo ngoan đạo mà nói bằng một giọng đanh-thép, rõ ràng:
“Hôm nay, tôi không chỉ đơn giản nói rằng tôi muốn quý vị san xẻ những gì mình đang có cho người nghèo đói. Nhưng, tôi muốn khẳng định với quý vị là: Hãy trả lại cho họ. Hãy trả tất cả lại cho họ. Vì thức ăn và của cải ấy là của họ, của những người nghèo.”
Quả là, lời lẽ Đức Gioan Phaolô II nói hôm ấy thật khác thường. Hệt như Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay về Thánh-Thể còn khác thường, gấp nhiều lần. Chương 6 Tin Mừng thánh Gioan, cũng cho thấy rất nhiều người đã sửng sốt khi thấy Đức Kitô tỏ bày Ngài đang thực-sự hiện-diện nơi Thánh-Thể. Và, họ cắt đứt không theo Ngài nữa.
Thật ra, thánh-sử Gioan đã nối-kết việc Đức Kitô ban tặng chính Thân Mình Ngài là vì Vương Quốc Nước Trời. Và, Ngài làm thế là để cứu độ dân con loài người. Thành thử, qua hiệp-thông rước Chúa vào lòng, ta thật-sự sẻ-san Thân Mình Chúa bằng việc tham-dự Tiệc Thánh-thể mỗi tuần.
Tiếp nhận Chúa Phục-sinh vào lòng, qua hiệp-thông rước Mình Máu Chúa, là biểu-tượng hùng-hồn chứng-minh rằng: Ngài đang hiện-diện, ở trong ta. Đây, là “dấu-chỉ” để ta thấy Ngài thực-sự sống-động trong ta như thế nào.
Chính vì thế, nên mỗi khi đón nhận Mình Máu Chúa, ta thưa “Amen!” là ta công-nhận đấy là Thân Mình đích-thực của Chúa. Bởi, chính Đức Kitô cũng đã chấp-nhận ta cùng kiểu-cách như thế. Ngài trao ban cho ta chính Mình Ngài, để rồi có như thế ta mới biến-đổi chính con người mình hầu tháp-nhập vào với Thiên-tính của Đức Kitô. Nói theo ngôn-ngữ thời-đại, thì: đó là đón nhận Ngài vào Tiệc thánh, khi ấy Chúa sẽ nói với ta như sau:
“Này bạn, Tôi đây. Tôi đang xé nát tâm can Tôi và đổ đầy tình-yêu cho bạn đây. Bạn hãy tiếp nhận Tôi đi. Tôi có mặt ở đây là vì bạn đấy”.
Cái nguy của mọi quà tặng và ở nơi quà này, là: ta rất dễ ngộ-nhận cho rằng quà mà Chúa trao ban là chỉ cho mỗi mình ta, thôi. Nhưng, đây phải là phút giây thân-tình thắm-thiết giữa ta với Chúa. Đúng là như thế. Và, còn hơn thế nữa. Ngày 9 tháng 8 năm 413, trong bài san-sẻ Lời Chúa về ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể , thánh Augustin có nói:
“Thánh lễ bao giờ cũng gồm 3 yếu tố: sự tốt lành, tình hiệp thông và lòng thương yêu lẫn nhau”. Và, để quảng-bá tư-tưởng nêu ở trên, thánh-nhân lại xác quyết rằng:
“Giả như ta không sống tốt lành, cũng chẳng hoạt động cho sự hiệp-nhất và không có lòng yêu thương đích-thực mà vẫn tham-dự Tiệc Thánh mỗi tuần, thì Tiệc ấy sẽ mất hết ý nghĩa và lý do tồn tại nữa rồi.”
Thành thử, giống như Đức Gioan Phaolô II đã nói nhân ngày ngài đến với Lima, thủ-đô của Pêru, thì: nhiều người đã nối-kết việc nhận Bánh Hằng Sống ở Tiệc Thánh với việc ban phát cơm bánh để duy-trì sự sống, sau bữa Tiệc.
Tính bình quân, thì hiện nay trên thế giới, mỗi ngày có đến 26 ngàn người chết vì đói hoặc khát. Năm 1961, tổng thống John F Kennedy cũng đã nhận-định về nạn đói khi ông bảo: “Chỉ một thứ giữa ta và việc xóa-bỏ nạn đói kém nên tồn-tại là niềm ước-ao thấy việc ấy được thực hiện”. Thật ra, chúng ta có thể nuôi-dưỡng được nhiều người. Nhưng thật lòng, lại không muốn làm thế.
Trong buổi hội thảo về Tiệc Thánh Thể, cố Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, là cha Pedro Arrupe có nói: “Bao lâu thế giới này vẫn còn người đói và khát, thì bấy lâu Tiệc Thánh Thể mà ta cử hành vẫn còn có điều gì đó, rất thiếu xót.”
Nói thế, ngài không có ý bảo rằng: việc ta tề-tựu cử-hành thánh-lễ đây là chuyện vô bổ. Nhưng, cố linh-mục Pedrp Arupe chỉ muốn nhấn mạnh một điều, là: khi ta quay-quần quanh bàn Tiệc đây là để nhận của ăn rất thánh, thì thực tế, trên thế giới còn rất nhiều người vẫn đói ăn, tức: vẫn thiếu mất cái gì đó rất cần cho sự sống. Vẫn có một thứ trống rỗng nào đó, ở quanh đây.
Quả là trống rỗng ấy đang mời ta dấn-bước vào trong đó để đong cho đầy. Chúa đến với ta ở buổi Tiệc Thánh qua của ăn đích-thực Ngài tặng, rằng: điều mà Đấng Thánh nhắn nhủ ta trong Kinh Sách, vẫn còn đó: “Khi Ta đói, các con có cho Ta ăn đâu?”
Câu nói này, muốn xác-định một điều, là: Chúa cho ta no đầy thế nào, thì ta vẫn có thể và vẫn cần phải giúp-đỡ nhau cho thật đầy thật no, giống như thế. Mong sao Lễ hội Mình Máu Chúa hôm nay đem đến cho ta sức mạnh và niềm xác tín rất thật.
Cầu mong sao, thực-phẩm đích-thực mà ta cung-cấp -lấy từ bàn Tiệc thánh này- chứng-tỏ cho thế giới thấy được rằng: uy-lực của Thánh-Thể đã biến-cải ta thành người tốt, biết hiệp-thông, yêu-thương lẫn nhau. Cầu và mong sao, ta xác-tín thêm rằng: những gì ta đã và đang sẻ-san cho người nghèo, sẽ không là thứ cơm thừa canh cặn, ta có dư dật. Nhưng, đó chính là thực phẩm lẽ đáng là của họ và ta cần trao trả lại cho họ.
Có như thế, mọi cảnh đói nghèo sẽ không còn tồn-tại trên thế-giới đầy những những thèm khát vì đói ăn hoặc thiếu mặc, nữa.
Trong tinh-thần cảm-nghiệm về một quyết-tâm như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:
“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,
Mỗi nụ tình ẩn chứa một loài sâu.
Và, khi em thấm nhuần ê ẩm,
Ta sợ tài ta đã rũ nhầu.”
(Nguyễn Tất Nhiên – Vài đoạn viết ở Đinh Tiên Hoàng)
Viết gì thì viết. Viết ở nơi nào rày cũng thế. Miễn là, người viết chớ có ưu-tư “nụ tình ẩn chứa một loài sâu”, nữa. Nhưng, đã biết liên-tưởng đến tình người sẻ-san nhiều thứ và nhiều sự cho mọi người. Cả những người túng thiếu lẫn người thấp hèn kém, rất thiếu ăn. Chính đó, là xã hội đầy tình người. Là, Nước Trời nay có Chúa chở che để mọi người sống vững mạnh suốt nhiều thời, trong đời.
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch