TS Hà Vũ: ‘TQ chiếm nốt Trường Sa, chính thể VN thay đổi mới có liên minh quân sự Việt-Mỹ’

TS Hà Vũ: ‘TQ chiếm nốt Trường Sa, chính thể VN thay đổi mới có liên minh quân sự Việt-Mỹ’

Trà Mi phỏng vấn Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ (Ảnh: Khải Nguyễn)

Trà Mi phỏng vấn Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ (Ảnh: Khải Nguyễn)

Trà Mi-VOA

15.06.2014

Trong ban lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay không có phe thân Tây hay phe thân Tàu, mà chỉ có một phe quyết giữ cho được độc tài của đảng cộng sản để cướp bóc hơn nữa tài sản của nhân dân và quốc gia.

Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ

Một nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng, xuất thân từ một gia đình ‘công thần’ với đảng cộng sản Việt Nam, cho rằng bao giờ Trung Quốc chiếm nốt Trường Sa, chính thể Việt Nam thay đổi, mới có thể có liên minh quân sự giữa Việt Nam với Hoa Kỳ.

Nhận định của Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ được đưa ra giữa bối cảnh tranh chấp Biển Đông tiếp tục leo thang với giàn khoan 981 Trung Quốc đưa vào khu vực Việt Nam có tuyên bố chủ quyền, làm khơi dậy những tranh luận về khả năng Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ để đối phó với sự xâm lược từ Bắc Kinh.

Việt-Mỹ có thể đồng hành quân sự với nhau hay không và lợi-hại của việc này ra sao? Đó cũng là nội dung cuộc trao đổi giữa Trà Mi VOA Việt ngữ hôm nay với Tiến sĩ luật Hà Vũ, người cách đây 4 năm từng tuyên bố rằng ‘Đồng hành quân sự với Mỹ là mệnh lệnh thời đại để bảo vệ chủ quyền trước sự lấn lướt của Trung Quốc’ vì ‘chỉ có Mỹ với tư cách cường quốc duy nhất trên thế giới sẵn sàng đối mặt với Trung Quốc về quân sự’ mới có thể giúp Việt Nam ‘giải bài toán an ninh lãnh thổ.’

Bấm vào nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn với TS Hà Vũ

Con trai cố thi sĩ Cù Huy Cận cũng là người đã nhiều lần kiến nghị giới lãnh đạo Việt Nam tăng cường quan hệ với Hoa Kỳ để bảo vệ chủ quyền quốc gia trước hiểm họa bành trướng của Trung Quốc.

VOA: Theo ông, với tình hình hiện nay, về phía Mỹ, chuyện ‘đồng hành quân sự’ với Việt Nam có khả thi?

TS Cù Huy Hà Vũ: Hoàn toàn khả thi. Mỹ với tư cách siêu cường thế giới có lợi ích toàn cầu thì mọi xung đột quân sự trên thế giới đều ảnh hưởng tới quyền lợi của Mỹ, ảnh hưởng tới bối cảnh hợp tác của Mỹ với các nước. Cho nên, bắt buộc Mỹ phải quan tâm đặc biệt là hiện nay Trung Quốc đã thể hiện quá rõ ràng hành động xâm chiếm lãnh thổ của các nước ở Đông Á.

VOA: Khả thi, nhưng thiện chí của Mỹ trong chuyện ‘đồng hành quân sự’ với Việt Nam ra sao? Với cách phản ứng của Mỹ trước các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông hiện nay dừng lại ở mức ‘lên tiếng phản đối’ và ‘bày tỏ quan ngại’, người ta nghi ngờ khả năng Mỹ tiến gần hơn với Việt Nam để ‘tái cân bằng lực lượng’ ở Châu Á là chưa mấy tích cực. Ý kiến ông thế nào?

TS Cù Huy Hà Vũ: Mọi người không hiểu đúng chính sách của Mỹ. Mỹ đặc biệt quan tâm đến ổn định ở Đông Á và tình hình Biển Đông nói riêng. Các hành vi gây xung đột của Trung Quốc, đương nhiên Mỹ phải đặc biệt quan tâm vì nó làm gián đoạn đường lưu chuyển của quốc tế. Thế nhưng, việc sẵn sàng can dự từ phía Mỹ để giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền phải có điều kiện, phải có hiệp ước liên minh quân sự.

VOA: Liệu Mỹ có sẵn sàng đánh đổi những quyền lợi về thương mại-quân sự với bạn hàng rất lớn là Trung Quốc để đi bảo vệ những nước nhỏ hơn trong khu vực?

TS Cù Huy Hà Vũ: Không phải lúc nào quan hệ với nước lớn cũng đè bẹp quan hệ với nước nhỏ. Ở đây còn có vấn đề chính nghĩa. Nếu chỉ thấy Trung Quốc là nước rất lớn mua hàng hóa của mình mà mặc kệ Trung Quốc muốn làm gì làm, thì đến lúc nào đó, chính sách chỉ trọng đồng tiền sẽ dẫn đến việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự dẹp tan quyền lợi của Mỹ. Việc Mỹ ủng hộ Việt Nam về mặt quân sự chống lại xâm lược Trung Quốc cũng chính là bảo vệ quyền lợi của Mỹ, không chỉ bảo vệ đường giao thông hàng hải ở Đông Á mà còn để khẳng định với Trung Quốc rằng phải chấm dứt ngay những hành động phiêu lưu quân sự. Tóm lại, Mỹ nhất thiết phải ủng hộ Việt Nam. Nhưng Mỹ chỉ có thể ký hiệp định liên minh quân sự với một nước có chế độ chính trị, nếu không hoàn toàn thân thiện, thì cũng không thù địch. Mỹ luôn có chính sách chống lại chủ nghĩa cộng sản vì đó là chủ nghĩa vô nhân, xâm hại những quyền căn bản của con người. Bây giờ Việt Nam vẫn duy trì chế độ chống lại con người ấy mà Mỹ lại ủng hộ chế độ đó thì không khác gì phản lại lý tưởng vì con người của mình, phản lại các giá trị nhân bản của Mỹ và của thế giới.

VOA: Quan hệ Việt-Mỹ lâu nay vẫn có những rào cản. Với cuộc đối thoại nhân quyền vừa diễn ra tháng rồi và tình hình Biển Đông hiện nay, ông dự kiến sẽ trông thấy những điều gì sắp tới?

Vợ chồng Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tại trụ sở đài VOA.

Vợ chồng Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ tại trụ sở đài VOA.

TS Cù Huy Hà Vũ: Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam tất yếu phải liên minh quân sự với Mỹ. Muốn vậy, Việt Nam phải từ bỏ chế độ độc tài, phải trao lại quyền làm chủ đất nước cho người dân thông qua bầu cử công khai, tự do, có sự giám sát của Liên hiệp quốc. Mỹ trong cuộc đối thoại nhân quyền tháng 5 qua đã đòi hỏi Việt Nam cải thiện nhân quyền, trả tự do cho các nhà bất đồng chính kiến và hủy các căn cứ pháp lý dựa vào đó bỏ tù họ. Việt Nam cũng đã có những cam kết sẽ cải thiện. Đây không phải là vấn đề nhân nhượng mà là cái thế bắt buộc Việt Nam phải cải thiện nhân quyền. Vì nếu không, những thứ khác sẽ ách tắc, từ việc gia nhập Hiệp định tự do thương mại TPP cho đến sự hỗ trợ từ Mỹ chống xâm lược từ Trung Quốc. Tuy nhiên, tôi cảnh báo rằng cộng sản Việt Nam nói không đi đôi mà thậm chí còn ngược lại với hành động. Họ cam kết điều này điều kia với Mỹ và Liên hiệp quốc với tính chất thủ đoạn, chiến thuật câu giờ để chế độ cộng sản tồn tại được lúc nào hay lúc nấy. Cho nên, tôi thật sự hoàn toàn không tin tưởng vì hiện nay đảng cộng sản Việt Nam vẫn đặt lợi ích của họ lên trên lợi ích dân tộc.

VOA: Nhiều người nói trong nội bộ đảng vẫn chưa thống nhất được chính sách thân Tây hay thân Tàu vì giữa lúc Bộ Ngoại giao kêu gọi Mỹ ‘có hành động mạnh mẽ hơn’ để bảo vệ hòa bình Biển Đông thì Bộ Quốc phòng, tại Đối thoại Shangri-la, nói quan hệ Việt-Trung nhìn chung tốt đẹp và rằng ngay trong gia đình còn có xích mích huống chi là các nước láng giềng, va chạm là điều khó tránh khỏi.

TS Cù Huy Hà Vũ: Trong ban lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay không có phe thân Tây hay phe thân Tàu, mà chỉ có một phe quyết giữ cho được độc tài của đảng cộng sản để cướp bóc hơn nữa tài sản của nhân dân và quốc gia. Tuy nhiên, trong cách hành xử họ có sự phân công. Bên đảng tập trung vào chuyện hòa hiếu với Trung Quốc. Bên nhà nước thì tìm cách kéo sự can thiệp của phương Tây giúp giải tỏa phần nào tâm lý người dân trước hành vi xâm lược của Trung Quốc vì hiện giờ người dân vô cùng phẫn nộ trước các chính sách của nhà nước đối với Trung Quốc.

VOA: Theo ông, không có phe thân Tây hay thân Tàu trong nội bộ đảng, chỉ có một phe thân lợi ích của chính họ mà thôi. Vậy những điều kiện như thế nào cần và đủ để giới lãnh đạo Việt Nam bắt buộc phải thay đổi vì quyền lợi đất nước?

TS Cù Huy Hà Vũ: Điều kiện để họ thay đổi là Trung Quốc tiến tới xâm lược nốt quần đảo còn lại là Trường Sa. Trong trường hợp đó, nhân dân và quân đội Việt Nam sẽ phải có hành động chính thức buộc đảng cộng sản từ bỏ quyền lực của mình, lập chính phủ mới hoàn toàn của dân. Chính phủ đó lúc ấy mới có thể đặt vấn đề liên minh quân sự với Mỹ và chỉ trong trường hợp đó Mỹ mới có thể giúp Việt Nam về mặt quân sự để bảo toàn lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông.

VOA: Có người cho rằng nếu Việt Nam nghiêng về Trung Quốc thì mất Biển Đông, mất chủ quyền; nhưng nghiêng về Mỹ thì tự biến mình thành tuyến đầu chống Trung Quốc, đẩy dân tộc vào nguy cơ xung đột chiến tranh và nhiều rủi ro với Trung Quốc. Ý kiến ông ra sao?

TS Cù Huy Hà Vũ: Ý kiến đó hoàn toàn sai lầm. Trong quan hệ quốc tế ngày nay là bảo vệ quyền lợi của nhau chứ không phải liên kết với nhau để chống lại hay xâm hại quyền lợi của nước khác.

VOA: Từ kinh nghiệm của Việt Nam với Mỹ trong quá khứ, cũng có người lo ngại rằng kết thân với Mỹ, trong trường hợp nào đó, khi quyền lợi của Mỹ ngả nghiêng về một hướng khác thì Việt Nam cũng có thể bị bỏ rơi một lần nữa.

TS Cù Huy Hà Vũ: Tôi không nghĩ như vậy. Khi Việt Nam và Mỹ thật sự cần đến nhau thì không có khái niệm Mỹ bỏ rơi Việt Nam hay ngược lại. Nếu chế độ độc tài của đảng cộng sản Việt Nam được giải thể thì Mỹ chắc chắn sẽ coi Việt Nam không những là nước bạn, mà còn là nước có thể hợp tác trong mọi lĩnh vực để cùng nhau phát triển.

VOA: Xin chân thành cảm ơn ông đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này.

Miền Tây: Tài nguyên suy kiệt, môi trường suy thoái

Miền Tây: Tài nguyên suy kiệt, môi trường suy thoái

Nguoi-viet.com

CẦN THƠ (NV) – Sinh hoạt và sinh kế của cư dân đồng bằng sông Cửu Long vốn đã khó khăn sẽ còn khó khăn hơn do sự suy kiệt về tài nguyên và sự suy thoái của môi trường.

Ðó là cảnh báo của nhiều chuyên gia và được các viên chức thừa nhận tại “Diễn đàn Bảo Tồn Thiên Nhiên và Văn Hóa vì sự phát triển bền vững của đồng bằng sông Cửu Long lần thứ 7,” với sự tham dự của Bộ Tài Nguyên-Môi Trường Việt Nam, đại diện chính quyền 13 tỉnh ở miền Tây, giới nghiên cứu khoa học. Ðây là sinh hoạt thường niên, khởi đầu từ năm 2008 với sự hỗ trợ của Quỹ Bảo tồn thiên nhiên Thế giới (WWF).


Sạt lở bờ biển đang diễn ra trên diện rộng ở đồng bằng sông Cửu Long. (Hình: Thời báo Kinh Tế Sài Gòn)

Các tài nguyên như: đất, nước, thủy sản,… ở đồng bằng sông Cửu Long không còn như trước. Sự đa dạng sinh học cũng đã biến mất. Ông Nguyễn Văn Nghĩa, một chuyên viên của Cục Quản lý Tài nguyên nước, thuộc Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, cho biết, vài năm gần đây, nguồn nước của sông Mekong đổ về đồng bằng sông Cửu Long đã giảm đáng kể vì bị điều tiết mạnh mẽ ở phía thượng nguồn và tác động của biến đổi khí hậu.

Nguồn nước mặt giảm nên người ta chuyển qua khai thác nguồn nước ngầm và vì vậy, mỗi năm, mực nước trong tầng nước ngầm đã giảm từ 0.2 mét đến 0.4 mét. Có nơi, mực nước của tầng nước ngầm giảm tới gần 1 mét/năm. Kết quả là nước mặn xâm nhập càng ngày càng sâu. Xói lở ven sông, ven biển càng ngày càng lớn.

Do nguồn nước, do sự hình thành và tồn tại của các công trình chặn lũ, ngăn mặn, thủy điện và cả do lối đánh bắt theo kiểu tận diệt, thủy sản – nguồn lớn tự nhiên ở đồng bằng sông Cửu Long vốn hết sức phong phú, dồi dào nay đã suy giảm đáng kể.

Ông Nguyễn Thanh Nguyên, một phó chủ tịch của tỉnh Long An, thú nhận những sai lầm trong quản lý đã góp phần làm suy kiệt tài nguyên của đồng bằng sông Cửu Long và khiến môi trường của khu vực này bị suy thoái. Hiện nay, mỗi năm, sản lượng lương thực của Long An khoảng 3 triệu tấn, gấp mười lần giai đọa 1970 (chỉ chừng 300,000 tấn). Tuy nhiên để đạt được kết quả đó, toàn bộ hệ sinh thái đa dạng của Ðồng Tháp Mười đã bị hủy diệt vì những kế hoạch khai phá, chuyển thành đất trồng lúa. Hệ sinh thái nước lợ ven biển coi như đã bị xóa sạch vì phong trào nuôi tôm.

Ông Bùi Cách Tuyến, một thứ trưởng của Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, thừa nhận, hậu quả của việc thực hiện các quy hoạch tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long “đã bộc lộ rõ.” Vì vậy, sắp tới, phải cân nhắc các vấn đề môi trường trong quá trình lập quy hoạch.

Viên thứ trưởng này kêu gọi đẩy mạnh truyền thông về ý nghĩa, vai trò, giá trị, phương thức quản lý, khai thác, sử dụng bền vững các dịch vụ hệ sinh thái của vùng đất ngập nước nhằm bảo tồn đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ðồng thời phải lồng ghép việc bảo tồn, phát triển bền vững các vùng đất ngập nước, duy trì các dịch vụ hệ sinh thái để ứng phó với biến đổi khí hậu vào các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển có liên quan, xem đó là một trong những tiêu chí đánh giá các giải pháp phát triển bền vững. (G.Ð)

 

Thư viết cho con

Thư viết cho con

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Thay vì nhận những lời chúc tụng từ con,
ba muốn dành một khoảnh khắc ngắn ngủi
để cám ơn những gì con đã đành cho ba mẹ.

Câu hỏi con vẫn thường đặt ra với ba, là sang đây, con “không được thành đạt như con cái của bạn bè ba, vậy ba có buồn không?”

 

(Hình minh họa: Jamie Squire/Getty Images)

Hình như ba đã trả lời với con rồi, nhưng hôm nay, nhân ngày Nghiêm Phụ, ba muốn nói với, không những riêng con, mà với tất cả các con, sau này là những đứa cháu của ba nữa.

Về chuyện “thành đạt,” Dale Carnegie đã nói, “Thành công là đạt được những gì mình mong muốn. Hạnh phúc là muốn những gì mình đạt được.” Như vậy thì con đã “thành đạt” rồi. Theo cha mẹ sang đây, bù lại tuổi ấu thơ nhọc nhằn, con chỉ muốn có công ăn việc làm, được một mái ấm gia đình. Ðạt được những mong muốn đó, chắc chắn là hạnh phúc đã đến với con.

Nhưng thói đời, người ta quan niệm thành đạt là:

– Có được bằng cấp cao, có địa vị trong xã hội.

– Phải được nhiều người biết đến vì sự giàu có, sang trọng của mình.

– Phải được xã hội trọng vọng kính nể

– Phải có quyền lực qua quan hệ với những người trong cộng đồng hay trong cả nước.

Khi xã hội trầm trồ về một trường hợp thành đạt, phải hiểu rằng người ấy đỗ đạt cao, có những tước vị như bác sĩ, tiến sĩ, kỹ sư… hay là những thương gia thành công có nhiều công ty, nhà máy, được gọi là triệu phú, đại gia. Người thành đạt phải kéo theo những điều căn bản cần phải có theo họ như một hay nhiều ngôi nhà lớn, đẹp; xe hơi đời mới; những bộ cánh sang trọng; những buổi tiệc tùng xa hoa và những chuyến du lịch đắt tiền.

Không có nó, không ai xem họ là những người thành đạt, vì người thành đạt không thể ở trong một căn apartment nhỏ hẹp hay đi một chiếc xe cũ tồi tàn.

Quan niệm đó được tiếp nối, con cái họ cũng phải được như họ, nếu không, sẽ không được gọi là một gia đình thành đạt, nếu cha là giáo sư đại học mà con làm công nhân trong nhà máy hay lái taxi.

Người ta thường nói, “chỉ có người hèn, chứ không có nghề hèn!” Ba biết, nói để an ủi, chứ xã hội xếp hạng tầng lớp theo nghề nghiệp. Con cứ nhìn một công nhân làm đường có được người ta xem trọng như một vị giám đốc công ty, một ông dân biểu hay một ông bác sĩ không? Trong quân đội cũng vậy, làm sao người ta coi trọng một binh sĩ hơn một tướng lãnh.

Có phải con suy nghĩ và có mặc cảm về sự thành đạt theo quan niệm này phải không?

Trước hết dưới cái nhìn và tấm lòng của những bậc cha mẹ công bình và đạo đức, một đứa con mạnh khỏe, thành đạt hay một đứa con bệnh hoạn, kém may mắn đều được xem như nhau, có khi còn ưu ái hơn.

Ba muốn dông dài kể câu chuyện ngụ ngôn về Ðứa Con Trai Hoang Ðàng (The Prodigal Son) là một trong những câu chuyện trong Kinh Thánh được yêu thích nhất.

Một người kia có hai con trai, đứa con thứ hai muốn nhận lãnh gia tài phần nó trước khi người cha qua đời. Sau khi nhận phần gia tài của mình, đứa con này bỏ nhà ra đi, tiêu xài phung phí, ăn chơi đọa lạc, cho đến lúc tiền bạc khánh kiệt, thậm chí có lúc đói, phải kiếm miếng ăn trong cái máng heo của người lái heo nó giúp việc.

Một này kia, đứa con hoang đàng quyết định trở về với mái ấm gia đình và thưa với cha rằng, “Cha ơi, tôi thật có tội với trời và với cha, không đáng gọi là con của cha nữa; xin cha hãy tha thứ cho con.”

Nhưng trước đó, trông thấy đứa con trở về từ đằng xa, người cha đã chạy đến ôm lấy con, hôn con, khoác cái áo choàng tốt nhất cho con, đeo nhẫn vào tay con, mang giày vào chân con, và sai gia nhân giết bò để ăn mừng đứa con trở về.

Người con trưởng lâu nay ở cạnh cha có vẻ bất bình, thì người cha nói, “Lâu nay ta nghĩ đứa con này như đã chết, mà bây giờ lại sống; nghĩ đã mất mà bây giờ lại thấy được. Có còn gì vui sướng hơn.”

Ba mẹ đã có một đứa con mất, ra đi biền biệt, không bao giờ tìm thấy lại được, nhưng vẫn còn những đứa con khác còn sống ở cạnh, đó chẳng phải là điều an ủi, hạnh phúc của ba mẹ hay sao?

Ngày ba phải vào nhà tù tập trung, mẹ và các con bỗng hụt hẫng, như con thuyền ra biển gãy tay lái, thành ngữ đúng nhất trong lúc này là “nhà không nóc,” gia đình như con thuyền trôi giạt trên biển cả mênh mông, không biết phương hướng, rồi sẽ về đâu!

Mới lên 8 tuổi, tuổi cắp sách đến trường, chưa bao giờ biết đến những nghịch cảnh của cuộc đời, con thấy buồn vì những ngày không có cha, thời gian kéo dài tưởng như vô tận. Con mặc những chiếc áo cũ đã bạc màu của chị con để lại, con mang đôi dép dài hơn bàn chân của con, con chịu đói, thèm những bữa ăn no như ngày xưa, nhưng con thương mẹ hơn mỗi chiều, khi con vụng về lau nước mắt cho mẹ, và gia đình ít khi còn nghe được tiếng cười. Con quay mặt đi khi thấy những gia đình khác còn có cảnh cha con thân mật, nô đùa.

Vì lòng thương mẹ, con đã không ngần ngại, không mặc cảm, lớn mạnh, can đảm ra đời để giúp mẹ. Nhà không có tiền mua than củi, con đã theo bạn bè mỗi ngày ra bến xe than, nơi những chiếc xe từ miền Ðông chở than về vựa, quét hốt những mẩu than vụn rơi rớt trên đường để chiều nay mẹ nhúm được bếp lửa cho bữa cơm (?) vắng bóng cha.

Con có thể bưng rổ khoai luộc đi quanh xóm hay mớ rau muống được bà ngoại mua về, đi rao cùng xóm để đem về cho mẹ một hai đồng bạc lời, để chiều nay gia đình có thêm được một miếng mì luộc, dù không đủ no.

Những ngày đầu khi gia đình được may mắn đến đây, con cũng chưa biết gì với những niềm vui tự do và hạnh phúc của nước Mỹ, suốt ngày ngồi bên chiếc máy may, để cuối tuần kiếm mấy chục bạc giúp gia đình đứng vững.

Chỉ ngần ấy việc làm của con, ba còn mong đợi, đòi hỏi gì nơi con vì con thành đạt hay không thành đạt theo sự suy nghĩ thông thường của người đời.

Ba mong sau này, con cũng đừng đòi hỏi gì nhiều ở nơi các con của con, như thảm kịch xảy ra cách đây vài năm của một gia đình, mà một bà mẹ chỉ muốn con mình trở thành bác sĩ. Hẳn bậc cha mẹ nào cũng mong cho con thành đạt, nhưng ba có một người bạn giao du đã hơn 10 năm, mà hoàn toàn không biết người này có đến hai người con, một là luật sư, một là bác sĩ, trong khi đó, phải cuối tháng này, lễ tốt nghiệp mới được tổ chức, mà trên mặt báo đã có những bậc cha mẹ vội vã chúc mừng con.

Trong bệnh viện cũng như ngoài đời, nếu ai cũng làm bác sĩ thì còn ai lo cho những công việc khác. Dù có thành đạt người ta cũng đừng nên ngẩng mặt quá cao, hay gọi là thất bại, cũng không nên cúi đầu quá thấp. Thái độ nào cũng dễ làm cho người ta vấp té.

Trong cuộc sống đơn giản, ít ra con cũng đạt được những gì mình mong muốn, đó là hạnh phúc. Ba còn mong muốn gì hơn nơi con.

Hôm nay ngày Lễ Cha, thay vì nhận những lời chúc tụng từ con, ba muốn dành một khoảnh khắc ngắn ngủi để cám ơn những gì con đã dành cho ba mẹ.

Cha của con.

 

Những ‘thiên tài’ bất hiếu

Những ‘thiên tài’ bất hiếu

Nguoi-viet.com


Tạp ghi Huy Phương

Nói về chuyện “bất hiếu” thì trong một bài báo trước đây chúng tôi đã nói chuyện ông cụ thân sinh của ông Hồ Ngọc Nhuận đã nói rằng: “Ðời cha sợ nhất là mất con! Có ba cách mất: một là con theo gánh hát, hai là theo cộng sản, ba là theo Công Giáo!” (Hồi ký – Chương I – trang 8 – XB 2010.) Ông Hồ Ngọc Nhuận không theo gánh hát, cũng không theo đạo Công Giáo, nhưng ông mang tội bất hiếu, quên lời căn dặn của cha mà đi theo cộng sản!

Có một người còn tệ hơn ông Hồ Ngọc Nhuận rất nhiều, về tội bất hiếu là ông nhạc sĩ Phạm Tuyên, tác giả bài hát lừng danh “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng!”

Nhạc sĩ Phạm Tuyên. (Hình: Wikipedia.org)

Nhạc sĩ Phạm Tuyên sinh năm 1930 là con thứ chín của học giả Phạm Quỳnh, người đã bị Việt Minh Cộng Sản giết và chôn trong một khu rừng thuộc làng Hiền Sĩ, Thừa Thiên, năm 1945. Phạm Tuyên là người đã sáng tác hàng chục bài hát ca ngợi ông Hồ và đảng Cộng Sản: Từ Làng Sen, Việt Bắc Nhớ Bác Hồ, Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng, Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng Lòng, Suối Lê Nin,… trong đó, bài hát “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng” được đông đảo khán, thính giả thuộc lòng, vì bài hát ngắn, dễ thuộc, lại có điệp khúc lặp đi lặp lại mấy tiếng Việt Nam-Hồ Chí Minh.

Bài hát mà trước đây ông Luật Sư Nguyễn Hữu Liêm ghi lại “Cảm nhận được một dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên trên cổ trên đầu như là khoảnh khắc thức dậy và chuyển mình của năng lực Kundalini,” “khi vừa hết bài quốc ca, mấy chục cô và bà đại biểu từ Pháp đang chạy ùa lên sân khấu, vỗ tay đồng ca bài Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng. Tôi nhìn qua các thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những người mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam-Hồ Chí Minh!”

Bài hát này, bọn tù “cải tạo” chúng tôi cũng đã thuộc lòng, trong suốt thời gian bị giam cầm phải vỗ tay đồm độp hát cả nghìn lần, và rống lên cái điệp khúc “chống đói:” Việt Nam-Hồ Chí Minh!

Phạm Tuyên đúng là một thiên tài, bài hát của ông nổi tiếng đến đỗi sau Tháng Tư, 1975, đứa trẻ nào ở Sài Gòn cũng thuộc và đã được chúng đổi lời thành “Như có Bác Hồ trong nhà thương… Chợ Quán! Vừa bước ra bị xe cán bể đầu…” và một lời khác: “Như có Bác Hồ trong cầu tiêu đậy nắp” hay “Như có Bác Hồ đang ngồi binh xập xám, ngồi kế bên là ông Nguyễn Cao Kỳ… Việt Nam… Hồ Chí Minh ăn gian… ăn gian… Việt Nam… Hồ Chí Minh ăn gian, ăn gian!”

Thân sinh ra ông nhạc sĩ “đại bất hiếu” này là cụ Phạm Quỳnh bút hiệu là Thượng Chi, sinh năm 1892 là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu.

Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của triều đình Huế trên cả ba miền, chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với chính thể quân chủ lập hiến. Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.

Ngày 11 Tháng Mười Một, 1932, sau khi Bảo Ðại lên ngôi, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền, thời gian đầu ông làm việc tại Ngự Tiền Văn Phòng, sau năm 1944 là Thượng Thư Bộ Học (Bộ Trưởng Giáo Dục) và cuối cùng giữ chức vụ Thượng Thư Bộ Lại (Bộ Trưởng Nội Vụ).

Tháng Ba, 1945, Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, ông Phạm Quỳnh về sống ẩn dật ở một biệt thự bên bờ sông đào gần Phủ Cam, Huế.

Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông được “gọi đi làm việc” ngày 23 Tháng Tám, 1945 nhưng lại bị đưa vào nhà lao Thừa Phủ, Huế, sau đó bị giết cùng với nguyên Tổng Ðốc Quảng Nam Ngô Ðình Khôi (anh ruột Ngô Ðình Diệm) và Ngô Ðình Huân (con trai của Ngô Ðình Khôi).

Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng ở Hiền Sĩ, Thừa Thiên (phía Bắc thành phố Huế 17km), và được cải táng ngày 9 Tháng Hai, 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.

Cộng sản thường nói quanh co trong việc giết người, thường đổ tội cho cấp dưới, cho rằng có lệnh cấp tốc chuyển Ngô Ðình Khôi, Phạm Quỳnh và Ngô Ðình Huân ra khỏi Huế để đề phòng những chuyện bất trắc xẩy ra. Nhóm du kích áp tải các ông đến một quãng rừng cách xa Huế (Hiền Sĩ) thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu, tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt kích, sợ không hoàn thành trách nhiệm áp tải, nên nhóm du kích này đã tự động thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Cũng không nghe nói cấp trên lúc bấy giờ là ai.

Các ông Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Khôi, Ngô Ðình Huân bị giết như thế nào? “Một người nấp trong bụi cây gần đấy thấy Phạm Quỳnh bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc rồi mới bị bắn ba phát. Ngô Ðình Khôi không bị đánh chỉ bị bắn ba phát. Ngô Ðình Huân hoảng sợ vùng chạy, bị bắt lại, rồi bị bắn ngay vào đầu. Cả ba bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.” Phạm Quỳnh ở dưới cùng, đầu hướng về phía núi, Khôi và Huân nằm đè lên, đầu hướng về phía sông. Khi cải táng, ông Phạm Tuân (con thứ 12 của Phạm Quỳnh, hiện ở Virginia) thấy sọ của thân phụ có một vết nứt ngang như vết cuốc, xẻng đánh mạnh vào, “ba bộ hài cốt nằm chồng chất lên nhau… Hài cốt của thầy tôi rất dễ nhận vì dài và ngay cạnh tôi nhận ra được đôi mắt kính cận.” (phamquynh.wordpress.com/2009/02/18/phụ-lục)

Ông Nguyễn Văn Bồng, một nhân viên cũ của Phạm Quỳnh, cho rằng, “không phải là Việt Minh giết cụ Phạm Quỳnh, mà chính con cháu cụ Nguyễn Hữu Bài đã tìm được cơ hội khử Phạm Quỳnh để trả thù cho cha, về vụ năm ông thượng thư (trong đó có ông Nguyễn Hữu Bài) bị mất chức” khi ông Phạm Quỳnh được trọng dụng.

Nhưng chúng ta cũng biết rằng Nguyễn Hữu Bài có mối thâm giao với gia đình ông Ngô Ðình Khả và đã có lúc muốn gả con gái mình cho ông Ngô Ðình Diệm, không lẽ “người nhà” này lại muốn giết luôn cha con ông Ngô Ðình Khôi? Và nếu con cháu của Nguyễn Hữu Bài (không có tài liệu nào nêu tên) giết Phạm Quỳnh thì vì sao Ủy Ban Khởi Nghĩa tỉnh Thừa Thiên lại làm công tố, kể tội trạng của Phạm Quỳnh như là lời kết của một bản án tử như sau: “Phạm Quỳnh, một tay cộng sự của Pháp ở Ðông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mại quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9 Tháng Ba, 1945, nhiều triệu chứng, chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta.” (văn bản gửi Tòa Án Quân Sự Thuận Hóa (tức Huế), đăng trên báo Quyết Thắng Tháng Mười Hai, 1945).

Quyết Thắng là cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9 Tháng Mười Hai, 1945, cũng đã loan tin: “Cả ba tên Việt Gian đại bợm (Ngô Ðình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23 Tháng Tám và đã bị Ủy Ban Khởi Nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật.”

Hai người con gái của Phạm Quỳnh thì cảm động khi nghe “cụ Hồ” chối tội: “Trong lúc khởi nghĩa, cũng không sao tránh được sự nhầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi còn đang ở trên Việt Bắc.” Ai chứ “cụ Hồ” thì ta cũng không lạ gì, “cụ” đã từng chấm nước mắt khi nói về cuộc đấu tố, cải cách ruộng đất ở Bắc Việt, sau khi đã xử tử 15,000 nông dân vô tội (Con số của tuần báo Time ngày 1 Tháng Bảy, 1957).

Thời Việt Minh, gia đình hai ông Phạm Quỳnh và Ngô Ðình Khôi có làm đơn khiếu nại lên Ủy Ban Cách Mạng Lâm Thời thì được đổ vấy cho rằng những việc trước đây thuộc thẩm quyền của Ủy Ban Khởi Nghĩa!

Ðể hợp thức hóa việc giết Phạm Quỳnh, bản án của Ủy Ban Khởi Nghĩa tỉnh Thừa Thiên hoàn toàn là một sự vu vạ, trái ngược với gì Phạm Quỳnh đã chủ trương, giết trước, kể tội sau để bào chữa.

Chỉ tiếc là ông mất đi, để lại cho đời một đứa con khá bất hiếu. Cha ông bị chết thảm thương, chôn vùi trong một xó rừng, ông lại cam tâm chuyên viết nhạc nịnh hót ông Hồ và đảng. Có công làm thơ ca tụng “bác” và đảng như Tố Hữu còn leo đến chức phó thủ tướng, còn Phạm Tuyên cũng có những bài nhạc “hết lời” nhưng danh vọng chỉ tới chủ tịch Hội Âm Nhạc Hà Nội, làm ủy viên thường vụ Ban Chấp Hành Hội Nhạc Sĩ Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1983, chứ không được là ủy viên Bộ Chính Trị như Tố Hữu (1980). Ðiều đó chắc Phạm Tuyên cũng biết vì gốc gác của ông là con “Việt gian” Phạm Quỳnh chứ không phải ba đời bần cố nông.

Có người biện hộ cho Phạm Tuyên cho rằng “theo thời thì phải thế!” nhưng có phải ai lỡ ở lại miền Bắc với cộng sản cũng “hồ hởi” “phấn khởi” ca tụng Bác và đảng như thế không, nhất là gia tộc ông đang có một mối oan cừu với Việt Minh Cộng Sản.

Người đời thường nói: “Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài,” nay học giả Phạm Quỳnh có tới 13 người con, không may có một đứa con là Phạm Tuyên, thuộc loại “thiên tài… đại bất hiếu!” Người cộng sản hình như chỉ biết đảng mà ít biết đến cha mẹ!

Trong bản nhạc “Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng Lòng!” Phạm Tuyên đã reo vui, ca ngợi: “Ðảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng! Ðảng ta ơi, cám ơn người dạy dỗ.” Chỉ tiếc rằng, thân phụ ông đã chết oan khuất dưới bàn tay của đảng, không biết gia đình này có ngày giỗ cha hay không?

 

Trung Quốc bác tố cáo của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế

Trung Quốc bác tố cáo của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế

Ảnh chụp từ video của tàu Tuần duyên Việt Nam 2016 cho thấy tàu Tuần duyên Trung Quốc 46001 đuổi theo tàu của Việt Nam gần địa điểm giàn khoan 981.

Ảnh chụp từ video của tàu Tuần duyên Việt Nam 2016 cho thấy tàu Tuần duyên Trung Quốc 46001 đuổi theo tàu của Việt Nam gần địa điểm giàn khoan 981.

16.06.2014

Trung Quốc mạnh mẽ bác bỏ trước các diễn đàn quốc tế tất cả các cáo giác về xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông khi Bắc Kinh đưa giàn khoan 981 và lực lượng bảo vệ trên biển, trên không vào vùng biển Hà Nội nói thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

Tại Hội nghị Các nước thành viên Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển hôm 14/6 ở New York, trưởng phái đoàn Bắc Kinh nhấn mạnh những tố cáo của Việt Nam là ‘vô căn cứ’ và rằng Bắc Kinh có ‘chủ quyền hoàn toàn’ tại quần đảo Hoàng Sa.

Truyền thông Trung Quốc dẫn phát biểu của Phó đại diện thường trực Trung Quốc tại Liên hiệp quốc, Vương Dân, nói sự dối trá của Việt Nam không thể che dấu được sự thật và việc thổi phồng sự thật không thể hợp pháp hóa cách hành xử bất hợp pháp.

Ông Vương tố cáo ngựợc lại rằng Việt Nam quấy nhiễu hoạt động bình thường của giàn khoan 981 trong vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa cũng như cho phép các cuộc biểu tình bạo động chống Trung Quốc diễn ra nhắm mục tiêu vào công dân, doanh nghiệp Trung Quốc khiến 4 người Trung Quốc thiệt mạng và 300 người khác bị thương.

Đại diện của Trung Quốc cũng phủ nhận sự tranh chấp vì, theo lời ông Vương, trước 1974 Việt Nam đã công khai thừa nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc.

Ông Vương tuyên bố tại diễn đàn này rằng ‘nếu Việt Nam quay ngược lại với chính những tuyên bố của họ thì làm sao thu phục được lòng tin của cộng đồng quốc tế? Không ai có thể tin vào những lời hứa hẹn của Việt Nam.’

Phó đại diện thường trực của Trung Quốc tại Liên hiệp quốc yêu cầu Việt Nam tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc và ngừng ngay các hành động ‘gây rối’ để xoa dịu căng thẳng.

Mới tối qua, Trung Quốc một lần nữa bác các tố cáo của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế khi đại diện của Bắc Kinh tại thượng đỉnh nhóm G77+Trung Quốc chỉ trích Hà Nội là bên khơi mào căng thẳng Biển Đông.

Trong phiên bế mạc cuộc họp ở Bolivia, đại diện thường trực của Việt Nam ở Liên hiệp quốc, đại sứ Lê Hoài Trung, tố cáo việc Trung Quốc vận hành giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam và gửi tàu chiến tới xua đuổi tàu Việt Nam là xâm phạm chủ quyền Việt Nam.

Ông Trung cũng yêu cầu đưa các cáo giác này vào bản tuyên bố chung cuộc của 2 ngày họp thượng đỉnh. Tuy nhiên, theo Tân Hoa xã, yêu cầu này đã bị các thành viên tham gia cuộc họp khước từ.

Phó Vụ trưởng Vụ các Tổ chức và Hội nghị Quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Lạp Dực Phàm, nói tất cả các chính phủ Việt Nam trước năm 1974 đã chính thức thừa nhận Hoàng Sa là một phần của lãnh thổ Trung Quốc từ ngàn xưa.

Ông Lạp chỉ trích việc đại sứ Việt Nam nêu vấn đề tại thượng đỉnh G77+Trung Quốc là ‘không thích hợp’.

Ông Lạp nói đây là diễn đàn để phát huy hữu nghị-hợp tác giữa các nước đang phát triển, chứ không phải là nơi để khuấy động tranh cãi và yêu cầu các tranh chấp nên được giải quyết song phương với Trung Quốc.

Những tuyên bố của Trung Quốc kịch liệt phản pháo Việt Nam trước công luận quốc tế được đưa ra giữa lúc có tin Việt-Trung chuẩn bị đối thoại cấp cao trong tuần này.

Tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng loan tin Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc phụ trách đối ngoại, ông Dương Khiết Trì, sẽ sang dự phiên họp của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc diễn ra tại Hà Nội.

Đây là giới chức cấp cao nhất của Trung Quốc tới Việt Nam kể từ khi Bắc Kinh đặt giàn khoan 981 gần Hoàng Sa, làm leo thang căng thẳng đôi bên ở Biển Đông. Việt Nam nói đã nhiều lần đề nghị đối thoại với Trung Quốc để xoa dịu căng thẳng liên quan đến giàn khoan 981, nhưng không được Bắc Kinh hồi đáp.

Chưa thấy Bộ Ngoại giao hai nước thông báo về sự kiện này, nhưng tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng dẫn nguồn tin từ Tiến sĩ Trần Trường Thủy thuộc Học Viện Ngoại giaocủa Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết dịp này ông Dương Khiết Trì sẽ hội đàm với Ngoại trưởng Phạm Bình Minh.

Vẫn theo lời ông Thủy, nội dung chính của cuộc gặp lần này dự kiến sẽ tập trung vào vấn đề Biển Đông.

Nguồn: Xinhua, CCTV

 

Giận, hờn, buồn, tủi của những đứa con trong Ngày Lễ Cha

Giận, hờn, buồn, tủi của những đứa con trong Ngày Lễ Cha
June 14, 2014

Nguoi-viet.com

Ngọc Lan/Người Việt

WESTMINSTER (NV) – Như luật bất thành văn, không thể khác hơn, khi nói về cha mẹ, bao giờ người ta cũng được nghe những lời hoa mỹ, đẹp đẽ nhất từ những đứa con. Bởi, “Cha mẹ dù gì cũng là cha mẹ, con không thương cha mẹ là bất hiếu, sẽ bị trời đánh!”

Thế nhưng, cuộc đời không phải lúc nào cũng như sách vở. Có những đứa con phải lặng lẽ quẹt nước mắt khi nhìn thấy sự thương yêu trìu mến của ba người ta. Có những đứa con từng “vái trời cho ba chết đi để mình không phải bị đánh đến nỗi phải vào bệnh viện.” Hay có những đứa con mang cả ước mơ một lần được cha bảo bọc, chở che đi vào giấc ngủ.

Không phải đứa con nào cũng được cha cầm tay dắt qua một chặng đường đời. (Hình minh họa: Getty Images)

Chính vì thế, trong Ngày Lễ Cha, nếu có ai đó náo nức, hướng lòng về người đã góp phần cho mình hình hài, vóc dáng thì cũng có những đứa con không biết phải diễn tả tình cảm đối với người mình vẫn gọi là cha như thế nào, bởi vì “nó trống rỗng và lạt lẽo, vô hồn.”

Như một trong những người được phỏng vấn bộc bạch, “Không ai muốn nói những điều không tốt về cha mẹ mình,” nhưng nói ra được những ẩn ức, những gút mắc cứ nằm bấy lâu trong lòng âu cũng là một cách để người tâm sự có dịp nhìn lại chính mình, và đâu đó, những người cha, có thể nghe được nỗi lòng của con mình, nhất là trong hôm nay, Ngày Từ Phụ.

Hùm dữ không ăn thịt con, nhưng ba tôi từng cầm dao đòi giết tôi’

“Không biết có phải do từ nhỏ đã phải chứng kiến quá nhiều chuyện không vui xảy ra xung quanh mình hay không mà gương mặt tôi không có vui, không có cười. Phải chăng vì điều này mà ba ghét tôi?” Henry Ngô, người đàn ông độc thân gần 40 tuổi, mở đầu câu chuyện.

Theo lời Henry, người hiện sống tại thành phố Santa Ana cùng cha mẹ, khi anh chưa tròn 1 tuổi thì ba anh đã “bị bắt đi học tập cải tạo.” Sau 6 năm tá túc nơi quê ngoại, ngày ba Henry ra tù cũng là ngày gia đình anh dọn lên Sài Gòn ở cùng bên nội.

“Tôi không hiểu vì sao ngày đó ba tôi thường mua quà bánh cho con của cô chú tôi, trong khi anh em tôi thì không có. Ngày đó còn nhỏ nhưng tôi đã hiểu được một điều gì đó đau khổ, hờn tủi trong lòng. Thành ra những khi ba cho mấy đứa kia đồ ăn thì anh em tôi bỏ đi chỗ khác, hay có khi dư ra, ba cho tôi thì tôi cầm rồi mang quăng đi.” Henry tâm sự.

Không chỉ vậy, cuộc sống chung đụng trong một ngôi nhà đông người, sự va chạm giữa những đứa trẻ dẫn đến sự xung đột của những người lớn, những tiếng cãi vả, “chửi lộn, đánh nhau” vô tình khắc sâu thêm trong tâm trí của một đứa trẻ như Henry một nỗi buồn dai dẳng.

Lúc dọn ra thuê nhà ở riêng, cuộc sống của gia đình anh dường như cũng không có tiếng cười. Henry cho rằng, “Tôi thật sự không biết do sự bức bối về kinh tế hay bởi tính gia trưởng, độc đoán, chỉ biết bản thân của ba tôi mà cuộc sống trong nhà tôi ngột ngạt lắm.”

Không biết cha Henry có còn nhớ hay không, nhưng với Henry, sự cau có, vẻ khó chịu của ba anh khi thấy anh quá ốm yếu không thể phụ bưng bê những thùng nước ngọt, những két bia trong công việc mua bán của gia đình, mãi là một nỗi gì đó hằn sâu trong anh.

Không biết cha Henry có còn nhớ hay không, khi anh dùng tiền ăn sáng chắt chiu dành dụm mang đi mua những tấm hình diễn viên Hồng Kong về sưu tầm – một thú vui của nhiều đứa trẻ lúc bấy giờ – lại bị ba anh nghi ngờ, chửi mắng vì “ba nghĩ tôi ăn cắp tiền của ba đi mua”, đã như một vết sẹo tinh thần đến giờ vẫn chưa lành trong Henry.

Nhưng có lẽ không thể nào phai nhạt được trong ký ức của người đàn ông này là lần “Ba tôi cầm dao muốn giết tôi, năm đó tôi 16, 17 tuổi gì đó. Tôi không nhớ mình đã làm gì, chỉ nhớ hình ảnh ba cầm dao và thoáng trong đầu tôi là chữ ‘chạy’. Mẹ tôi giữ ba tôi lại cho tôi chạy trốn.”

“Tôi cũng nhớ ngày đó mẹ tôi làm ăn thua lỗ, bị người ta giựt nợ mà không dám cho ba hay, cứ mượn đầu này đầu kia để trả. Đến khi chị tôi trúng số, được số tiền khá lớn, mẹ tôi đã lấy một phần tiền đó đi trả nợ. Ba tôi biết được, ông điên tiết lên đi tìm mẹ tôi để giết. Mẹ trốn khắp nơi không dám về nhà. Vài ngày sau, vô tình tôi nhìn thấy mẹ nằm trốn ngay dưới giường của tôi.” Henry lắc đầu, cố xua đi những hình ảnh đen tối ngày nào.

Henry cười một cách mỉa mai khi nhớ lại, “Ngày gia đình đi xuất cảnh, tôi mang theo rất nhiều hình diễn viên Hồng Kong và tạp chí điện ảnh, ba tôi nói hành lý nhiều quá, tôi phải đưa cho ba tôi một số tiền thì ông mới đồng ý cho tôi mang chúng theo.”

Henry cho rằng hiện tại anh không ghét ba anh, cũng không giận, không hờn, mà chỉ là một sự trống rỗng, hiếm nói chuyện với nhau, dù vẫn sống chung nhà.

“Nếu hỏi tôi có thương ba tôi không. Tôi không có câu trả lời. Tôi chỉ kể chị nghe chuyện này. Vừa mới đây thôi, khi chở ba vào bệnh viện thăm mẹ, tôi hỏi ba, ‘Lúc chị hai bệnh nặng, nếu không có tiền thì ba làm sao?’ Ba tôi không trả lời. Tôi kể cho ba nghe hồi đó mẹ đã phải chạy mượn tiền để cứu chữa cho chị hai thì ngay lập tức ba tôi nói ‘Mượn tiền vậy rồi lấy đâu mà trả!’ Tôi chưng hửng, rồi nói ‘Ba nghĩ sao nói tụi con cũng làm y như vậy khi ba bệnh nặng?’ Ba tôi làm thinh.” Henry kể trong sự ngao ngán.

Trả lời câu hỏi của người phỏng vấn, “Sau này có con, anh sẽ đối với con anh như thế nào?”, Henry chậm rãi trả lời, “Người ta nói mình bị gì không tốt lúc tuổi thơ thì sẽ hành hạ con mình như vậy. Tôi thì nghĩ khác. Tôi muốn làm cho cuộc sống của con tôi phải tốt hơn những gì tôi đã trải qua.”

Được vui đùa cùng cha là ước mơ đi vào giấc ngủ của nhiều đứa trẻ trên thế giới này. (Hình minh họa: Getty Images)

Hồi nhỏ thì ghét, lớn lên thì giận vì ba cố chấp quá!

“Em nhớ hôm đó là sinh nhật lần thứ 12 của em. Em đã ngồi chờ từ sáng đến tối khuya mà vẫn không thấy ba gọi điện thoại về, trong khi mọi năm trước ba vẫn làm. Sau này thì em biết, thời gian đó ba từ Mỹ về Việt Nam cưới vợ khác.” Hạnh Lưu, hiện sống tại Riverside, nhớ lại thời khắc mà cô bắt đầu cảm thấy ghét ba của mình.

Ba Hạnh khai “độc thân” để đi xuất cảnh cùng ông bà nội khi Hạnh được 3 tuổi. Từ ngày đó, cô sống ở Sài Gòn cùng mẹ, chỉ chuyện trò với ba qua điện thoại, thư từ.

Giữa năm 2008, theo lời khuyên của mẹ “hãy đi để có một tương lai tốt đẹp hơn”, Hạnh một mình sang Mỹ với sự bảo lãnh của ba, trong khi mẹ cô vẫn ở lại Sài Gòn.

Những tưởng nỗi hờn ghét trẻ con ngày nào sẽ tan biến khi được sống bên cạnh cha ruột của mình, nhưng ai ngờ những xung đột trong vấn đề cách nghĩ, lối sống, kiểu hành xử đã đẩy hai cha con Hạnh ngày càng đi xa nhau hơn, đến mức không còn nói chuyện với nhau nữa.

Hạnh kể, “Sang Mỹ sống cùng ba và dì được 4 tháng là em không thể nào chịu đựng thêm được nữa. Ba không cho em giao tiếp với bạn bè ở trường, không cho xài điện thoại, internet thì phải thật hạn chế.”

Theo lời kể Hạnh vì không thể chịu được sự gò bó trong cách sống như vậy, cô xin ba cô cho dọn qua tiểu bang khác ở với gia đình bạn của mẹ cô, người nhận cô làm con đỡ đầu để “tự do, thoải mái hơn.” Ba cô đồng ý.

Thế nhưng ngày Hạnh xách hành lý chuẩn bị ra phi trường thì “ba lấy passport, khóa cửa và chửi mẹ em bằng những lời nặng nề lắm, cho rằng mẹ xúi biểu em. Chưa hết, ba còn đẩy em xuống cầu thang như muốn giết chết em vậy đó. May là em kịp vịn lại. Em không nghĩ là ba em vô tình, vì cho đến bây giờ, ba vẫn chưa bao giờ tỏ ra hối hận về việc đó.”

Chưa hết, cảm xúc “ghét ba” trở nên nhiều hơn là khi cha mẹ nuôi Hạnh chờ nơi phi trường để đón cô nhưng không thấy cô đâu. Điện thoại ba cô không nghe, họ bèn phải gọi cảnh sát giúp đỡ. Cảnh sát đến nhà trong lúc hai cha con hãy còn đang giằng co. Do có thể bị qui vào tội giam giữ người trái phép nên theo yêu cầu của cảnh sát, ba Hạnh phải đồng ý cho cô ra khỏi nhà vì Hạnh đã trên 19 tuổi.

Tuy nhiên, “Trước khi đi, ba em bắt phải mở hết vali ra cho ba xét, nói sợ em lấy đồ của ba. Ngày em mới đến, ba có cho em một số tiền và cái headphone. Hôm đó ba bắt phải trả lại hết, ngay cả mấy đồng tiền xu ba cũng lấy lại cho bằng hết rồi mới để em đi.” Hạnh kể.

Cũng từ đó, Hạnh không nhận được bất cứ lời hỏi thăm nào từ ba của mình. Không chỉ vậy, “Sinh nhật các con sau của ba, em mua quà gửi cho tụi nó nhưng ba gửi trả lại tất cả.”

Hạnh tâm sự, “Dù ba chưa một lần gọi thăm em, nhưng năm 2011 em có trở lại thăm ba, mời ba đi ăn trưa.”

Thế nhưng, theo lời người con gái này thì “Ba em đã nói thẳng với em rằng ba không cần em nữa, coi như không có em trong đời, ngoại trừ khi em phải xin lỗi ba, nhận là em sai. Nhưng mà em có làm gì sai đâu. Trước khi đi em có xin phép ba mà.”

Kể từ ngày đó, Hạnh và ba mình không còn có thêm một cuộc nói chuyện nào nữa. Và để diễn tả cảm xúc hiện tại của mình về ba, Hạnh cho rằng “Em giận.”

“Em giận gì ba cố chấp quá. Ai đúng ai sai đâu phải là điều quan trọng nhất. Tình cảm cha con mới quan trọng chứ. Ba không liên lạc với em mà em vẫn về thăm, vậy mà ba vẫn đối xử với em như vậy.” Hạnh trách.

“Theo em, điều gì có thể hàn gắn tình cảm giữa em và ba em?” Tôi hỏi.

Hạnh đáp, “Chỉ cần ba suy nghĩ thoáng hơn, không cố chấp nữa.”

“Vậy em có nghĩ một lúc nào đó sẽ gọi cho ba em không?” – “Em có gọi hỏi thăm dì, nhưng với ba thì không. Em có lòng tự trọng của mình. Em đã về thăm ba, nhưng ba xua em đi, em mà gọi nữa chắc ba nghĩ em xin tiền hay muốn gì nữa thì mệt.” Hạnh dứt khoát.

“Thế nếu ba gọi cho em thì em làm gì?” Tôi nêu giả thuyết.

“Ba gọi thì em nghe. Nhưng mà ngày đó chắc không đến đâu.” Hạnh lắc đầu.

Thương yêu, thông cảm, biết lắng nghe là điều nhiều người không tìm thấy được ở cha mình. (Hình minh họa: Getty Images)

Giận ba vì ba hay đánh đòn

Không đến nỗi căng thẳng hay lạt lẽo như hai trường hợp trên, nhưng những trận đòn ngày thơ bé đã làm nên lằn ranh khiến Tom Nguyễn không thể nào gần ba của mình được.

Tự nhận xét về tình cảm của cha con mình, Tom chia sẻ, “Nói rằng ghét ba thì không đúng hẳn. Giận thì đúng hơn, tại vì ba hay đánh tôi, dùng vũ lực để răn đe tôi từ nhỏ cho đến tận năm tôi học lớp 11.”

Lý do để bị đòn là gì? “Khi ba đi nhậu về, nghe mẹ méc thì ba đánh, làm bài tập sai cũng bị đánh, viết chữ xấu cũng bị đánh, em tôi làm sai thì tôi cũng bị lôi ra đánh luôn.”

Đánh như thế nào? “Bộp tay, đánh vào đầu. Đánh từ nhà ngoại sang nhà nội, chửi nặng lời trước mặt dòng họ, bạn bè, không cần nể nang gì hết, đó là cách ba tôi hay làm với tôi.”

Tom cười nhớ lại, ‘Khi tôi còn ở Việt Nam, ông nội từ Mỹ viết thư về cho tôi lúc nào cũng bắt đầu câu ‘Ba còn đánh con không?’”

Theo lời Tom, năm anh 3 tuổi, một lần ba anh đánh mặt anh sưng cả lên phải vào bệnh viện.

“Chuyện tưởng nhỏ vậy thôi nhưng ảnh hưởng đến tâm lý rồi có khoảng cách với ba hồi nào không hay. Đến giờ ba hình như cố gắng muốn gần các con nhưng sao tôi cứ cảm thấy ngượng ngượng. Thực sự thì hỏng có biết cảm giác là ghét hay giận hay thương ba nữa.” Tom giải thích.

Vì bị đòn quá nhiều như vậy, nên “có lần tôi nghĩ dại là cầu ba chết quắc cho rồi để không còn ai đánh đập mình nữa.”

Tuy nhiên, những trận đòn của Tom đã dừng lại khi Tom học lớp 11. “Khi đó tôi tỏ thái độ giận ba, mấy ngày liền tôi không ăn cơm với ba, ba la tôi cũng không ăn. Mà hình như lúc đó ba cũng nhận ra là tôi đã lớn, không đánh nữa nhưng chửi nặng thì vẫn còn đến giờ.”

Tom từng mơ ước được ba dẫn đi chơi, như cách nhiều ông bố vẫn làm trong các bộ phim mà Tom được xem vì “từ trước đến giờ chưa một lần nào ba dẫn tôi cũng như cả nhà đi chơi. Có đi là tôi chỉ đi ké bên nhà nội ngoại thôi.” Rồi lại mơ ước được bố thương bằng cách không đánh chửi nữa.

Dù vậy, với Tom, “Ba tôi là người có trách nhiệm với gia đình nhỏ và gia đình nội ngoại, nhưng rất ư là sĩ diện, không bao giờ cho mình là sai. Tôi nghĩ là tôi có thương ba tôi, nhưng không gần được.”

Từ hình ảnh người cha của mình, Tom suy ngẫm, “Tôi nghĩ cha mẹ dạy con thì cũng có thể đánh con nhưng quá đáng lắm mới đánh và phải đánh vào mông. Nhưng đánh là thể hiện sự bất lực của mình đối với con.”

Liên lạc tác giả: Ngoclan@Nguoi-viet.com

 

Taliban chặt ngón tay ai đi bỏ phiếu

Taliban chặt ngón tay ai đi bỏ phiếu

Thứ hai, 16 tháng 6, 2014

Những cử tri Afghanistan bị cắt đứt ngón trỏ

Phiến quân Taliban đã chặt ngón trỏ của 11 người dân Afghanistan đã đi bỏ phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống vòng một hôm thứ Bảy ngày 14/6, các quan chức nước này cho biết.

Vụ việc xảy ra ở tỉnh miền tây Herat, phát ngôn nhân cảnh sát Raoud Ahamdi cho biết.

Trước đó, Taliban đã cảnh báo người dân Afghanistan không được đi bỏ phiếu.

Hai ứng viên tranh cử là cựu Ngoại trưởng Abdullah Abdullah và cựu Bộ trưởng Tài chính Ashraf Ghani Ahmadzai.

Cả hai ông đều cam kết cải thiện quan hệ với phương Tây và sẽ ký một hiệp ước an ninh bị trì hoãn cho phép gần 10.000 quân Mỹ ở lại đất nước này thêm hai năm nữa.

Cuộc bỏ phiếu hôm 14/6 được mô tả là ‘tương đối yên bình’ mặc dù có một loạt vụ tấn công của Taliban mà giới chức cho biết khiến cho hơn 50 người thiệt mạng.

“Bằng lá phiếu của mình, người dân Afghanistan đã đánh bại những kẻ cổ súy khủng bố và bạo lực.”

Jan Kubis, đại diện đặc biệt của Liên Hiệp Quốc ở Afghanistan

Trong số các nạn nhân có năm nhân viên bầu cử thiệt mạng khi xe của họ bị trúng bom đặt bên đường ở tỉnh Samangan.

Phái bộ hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc ở Afghanistan đã lên án vụ chặt ngón tay ở tỉnh Herat.

“Cũng giống như hàng triệu công dân Afghanistan khác, những người dân này đang thực hiện quyền cơ bản của họ là quyết định con đường tương lai của đất nước bằng con đường bầu cử chứ không phải bằng bạo lực và ức hiếp,” ông Jan Kubis, đại diện đặc biệt của Liên Hiệp Quốc ở Afghanistan, nói.

“Bằng lá phiếu của mình, người dân Afghanistan đã đánh bại những kẻ cổ súy khủng bố và bạo lực.”

Ủy ban Bầu cử Độc lập cho biết con số thống kê ban đầu cho thấy hơn bảy triệu người dân Afghanistan đã bỏ phiếu hôm 13/6, chiếm khoảng 60% trong số 12 cử tri đủ điều kiện đi bỏ phiếu ở đất nước này.

Video -Lời Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ WorldCup

Video -Lời Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ WorldCup

Dòng Tên Việt Nam

Trước giờ khai mạc trận đấu World Cup 2014, vì không thể hiện diện trực tiếp nên Đức Thánh Cha Phanxicô đã gởi một video về những lời nhắn nhủ của ngài tới World Cup. Nội dung những lời phát biểu đó như thế nào, xin mời chúng ta cùng xem đoạn video sau để biết rõ:

httpv://www.youtube.com/watch?v=cP5qwfMG2Y4&list=PLosRt-84-9uQpGtGu3wlbuDX2YT8JetLq

Video – Nên xem một lần trong đời

Video – Nên xem một lần trong đời

Dòng tên Việt Nam

Trong cuộc sống, có rất nhiều điều làm cho chúng ta dễ thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Khi rơi vào những tình cảnh như vậy chúng ta nên xem đoạn video này, hy vọng nó sẽ  giúp chúng ta tìm được sức sống mới cho cuộc đời tương lai của mình…

httpv://www.youtube.com/watch?v=lvCOsdWZxqQ&list=PLosRt-84-9uQpGtGu3wlbuDX2YT8JetLq

ĐỪNG BAO GIỜ THẤT VỌNG

Sự bất lực của con người và niềm tin vào Thiên Chúa

Sự bất lực của con người và niềm tin vào Thiên Chúa

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Dongten.net

buồn

Các bạn trẻ thân mến,

Vì một phút nông nỗi, Ađam và Eva đã đánh mất đi niềm hạnh phúc Địa Đàng. Ân huệ nguyên thủy đã không còn nữa. Họ đành phải sống hết kiếp con người trong đau khổ, mỏi mệt, cho đến khi trở về với tro bụi, nơi mà từ đó họ được dựng nên. Họ và con cháu đời sau phải đối diện với biết bao thăng trầm của cuộc sống mà không sao thoát ra được. Gia đình đổ vỡ, tương quan rạn nứt, phải làm nô lệ cho những hoàn cảnh và cảm xúc của mình.

Như một dấu chỉ mang tính định mệnh, ngày từ lúc sinh ra, con người đã chào đời bằng tiếng khóc, chứ không phải bằng tiếng cười hân hoan. Rồi sự sống cứ xoay vần theo nhịp: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già nua, rồi lại chết. Từ hư không, con người xuất hiện, rồi sau một khoảng thời gian ngắn ngủi được hít bầu không khí dưới bầu trời, con người lại trở về với hư không, như thể chưa bao giờ tồn tại. Trong suốt khoảng thời gian ngắn ngủi tại thế ấy, hạnh phúc và niềm vui chỉ như mây bay, còn bao khổ đau và lo lắng cứ chất chồng như núi. Kiếp con người, một kiếp sống âm u, tăm tối. Con người sinh ra rồi chết đi, để lại điều gì trên trần gian, có chẳng cũng chỉ là những dấu vết của một thời nặng gánh mỏi mệt, đau xót. Có lẽ vì cảm nhận như thế nên nhiều người đã ví cái chết như một sự “an nghỉ”, một cuộc giải thoát, một giấc ngủ bình yên sau ngày dài bương chải những truân chuyên.

Có mấy ai trong chúng ta hoàn toàn thoát khỏi những vướng bận của bụi trần? Lúc nào trên vai ta cũng là những gánh trách nhiệm nặng nề. Ta lo có miếng cơm manh áo để tồn tại, rồi đến lo cho cha mẹ, cho gia đình, người thân. Xuân về, hạ qua, thu đi, đông đến, bốn mùa luân phiên thay đổi. Ta chờ hoài đến giây phút được an nhàn thong dong, nhưng chẳng bao giờ thấy. Lúc nào ta cũng có cảm giác như mình đang ở tha hương. Tận cõi lòng, ta khao khát tìm về một chỗ nghỉ ngơi, để tựa đầu, để thanh thản. Ta cứ mãi tìm hoài hết điều này đến điều kia để khỏa lấp tâm hồn mình, nhưng sao ta cứ luôn thấy thiếu. Khoảng trống trong tâm hồn vẫn cứ còn đó, gắn chặt với đời ta như bóng với hình. Ta muốn vươn dậy, muốn bay lên nhưng thân phận nhân sinh cứ kéo ghì ta xuống.

Ta buộc phải đối diện với những người ta không ưa, phải làm những điều ta không thích, trong khi người ta yêu mến cứ luôn mãi xa ta, chuyện ta muốn làm vẫn xa tầm tay với. Những tương quan làm ta hạnh phúc thì chẳng kéo dài được bao lâu, trong khi người làm mệt mỏi thì hằng hà sa số. Ta mang trên mình một thân xác diệu kỳ, nhưng cũng mong manh yếu ớt. Gió trở trời là đã cảm thấy có gì bất ổn. Những mầm mống bệnh tật như kẻ trộm chực chờ ta. Tâm trí ta được kết cấu hết sức tinh vi, nhưng chỉ cần một cú va chạm nhỏ, ta có nguy cơ trở thành một sinh vật vô tri không hơn không kém. Những mong ước của ta, có khi là rất chính đáng, bao lần được cuộc sống này thỏa mãn? Ngày với đêm vần vũ xoay, ánh dương lên rồi vầng nguyệt xuống. Tất cả vẽ lên một bức tranh bất định của lịch sử.

Nhìn ra xã hội, ta cũng thấy bóng dáng sự xấu hoành hành. Chuyện mua bằng mua cấp. Chuyện quay cóp để được điểm cao. Chuyện hối lộ để được trắng án. Chuyện có quyền thì chà đạp công lý. Chuyện có tiền thì đánh đổi cả lương tri. Nhiều khi ta cũng muốn làm cái gì đó để xây dựng cuộc đời, nhưng những nỗ lực của ta cứ như hạt cát nơi sa mạc mênh mông, như giọt sương sánh với đại dương rộng lớn. Chẳng mấy người còn tin vào tình thương, chẳng mấy ai còn tin vào tha thứ. Con người giải quyết những xung đột của nhau bằng súng đạn, bằng bạo tàn, chứ không cùng nắm tay nhau để gắn lại vết thương rạn nứt. Trước sự dữ đang hoành hành giữa thế gian, ta cảm thấy mình bất lực hoàn toàn. Phận ta, ta còn lo chưa xong, huống hồ gì chuyện thay đổi cả thế giới.

h5

Thế nhưng, tuy sức mạnh của sự dữ lớn thật đấy, ta cũng không hoàn toàn bị mất hút. Giữa hàng vạn cây cổ thụ ngã xuống, vẫn có tỷ tỷ hạt giống âm thầm nảy sinh. Nhìn bề ngoài, ta cảm giác có vẻ như sự dữ đang thắng thế, nhưng thực chất, Thiên Chúa vẫn âm thầm hoạt động. Đích thực là tự sức chúng ta, chúng ta không thể làm được gì. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, ta hoàn toàn có quyền hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Dưới vực sâu của kiếp tro bụi, ta hãy ngước mắt nhìn về phía trời cao, kêu nài bằng tiếng than van ai oán nhất của cõi lòng, đánh thức dậy nơi Thiên Chúa lòng trắc ẩn của Ngài. Ta tin rằng Ngài sẽ hạ giới đến cứu chúng ta. Ta hoàn toàn có quyền dám mơ đến chuyện ơn trời sẽ xuống và làm bừng dậy nơi chốn bùn lầy đen tối và hôi tanh của thế gian những cánh sen tươi đẹp và thơm ngát.

Đức Giêsu đã từng ví rằng Nước Trời giống như hạt cải nhỏ xíu, nhưng khi lớn lên, nó trở thành một loại cây lớn đến độ chim trời có thể đến ẩn náu. Hay Nước Trời giống như chút men vùi vào đấu bột và làm cho cả khối bột dậy men. Thiên Chúa đã không thi triển quyền năng của mình một cách ồn ào và khủng khiếp như sự dữ vẫn làm hay như người ta vẫn tưởng. Ngài đã làm đảo lộn tất cả những giá trị và logic của con người. Thiên Chúa đã làm cho những người nghèo trở nên giàu có. Ngài chọn những con người thấp bé để truyền giảng Phúc Âm. Ngài đã chọn những tội nhân để khiến họ trở thành những vị thánh. Ngài đã thực hiện một công trình tạo dựng mới từ chính cây thập giá trên đỉnh đồi cao. Sức mạnh của Thiên Chúa vẫn hoạt động không ngừng, âm thầm và liên lỉ. Nơi đâu tưởng chừng bế tắc, Ngài khai mở lối đi. Nơi đâu chỉ toàn bóng tối, Ngài cho lóe sáng ánh hào quang chỉ đường. Sự dữ tuy ồn ào và tưởng chừng thắng thế, nhưng chưa bao giờ có thể đánh gục được những điều tốt đẹp mà Thiên Chúa đã khởi sự nơi trần thế này.

Chúng ta hãy cứ tin vào Chúa dù có vẻ như chẳng còn gì để tin. Chúng ta hãy cứ bám vào Chúa dù có lúc ta chẳng thấy Chúa ở chỗ nào. Bất cứ khi nào con diều còn dính vào sợi dây, nó tha hồ tung tăng trong gió mà không sợ bị cuốn đi. Bất cứ khi nào con thuyền được neo bến, nó vẫn cứ yên vị dù những luồng chảy của dòng sông có tấn công nó dồn dập ra sao. Chúa là chỗ dựa của đời ta, là nơi duy nhất ta có thể tìm được nơi trú ẩn an toàn. Hướng về Ngài và cố gắng cảm nghiệm được những gì Ngài làm trên cuộc đời ta, dù phong ba của kiếp con người có lớn mấy đi chăng nữa, ta cũng cảm thấy được bình yên và an vui trong cuộc sống. Các bạn có tin điều đó không?

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ