Kính chúc toàn thể quý thân hữu Mùa Giáng Sinh an lành và Năm Mới 2015
nhiều Niềm Vui, tràn đầy Hạnh Phúc , nhận được nhiều Hồng Ân của Thiên Chúa
B.B.T

Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44)
Kính chúc toàn thể quý thân hữu Mùa Giáng Sinh an lành và Năm Mới 2015
nhiều Niềm Vui, tràn đầy Hạnh Phúc , nhận được nhiều Hồng Ân của Thiên Chúa
B.B.T
Chỉ cần thương mà hiểu
Tấm lòng vị tha của viên cảnh sát người Mỹ với 1 người phụ nữ nghèo khổ đang khiến hàng triệu người dân trên toàn thế giới vô cùng xúc động.

Mới đây, một câu chuyện ấm áp tình người và đầy tính nhân văn đã được lan truyền chóng mặt trên khắp các trang báo mạng. Câu chuyện kể về nghĩa cử cao đẹp khi một viên cảnh sát ở thành phố Birmingham, bang Alabama, Mỹ đã quyết định không bắt giam một phụ nữ lớn tuổi ăn trộm trứng, mà thay vào đó anh đã mua 1 hộp trứng tặng cho bà.
Báo chí địa phương đưa tin sau khi vào siêu thị để mua đồ, bà Helen Johnson đã thiếu mất 50 xu mới đủ tiền mua 1 lố trứng, vì thế, bà nghĩ rằng nếu chỉ ăn trộm 5 quả trứng, bà đã có đồ ăn cho mấy đứa cháu đang ở nhà. Nghĩ vậy, bà Johnson bèn lấy 5 quả trứng bỏ vào túi áo khoác. Tuy nhiên, đúng lúc ra cửa, bà đã bị giữ lại.
Cảnh sát sau đó cũng đã được gọi tới để xử lý vụ việc, tuy nhiên, thay vì bỏ tù người phụ nữ đáng thương, viên cảnh sát William Stacey đã mua 1 lố trứng tặng bà. Hành động của anh khiến bà Johnson vô cùng ngạc nhiên và xúc động bởi lúc đó, bà nghĩ chắc chắn bà sẽ bị ngồi tù vì tội trộm cắp.
Chia sẻ trên đài truyền hình địa phương WIAT-TV, bà Johnson cho biết gia đình bà rất khó khăn, vì vậy, họ luôn phải kiếm ăn từng bữa. Lúc bà đặt chân vào siêu thị Dollar General, mấy đứa cháu của bà ở nhà đã phải nhịn đói suốt 2 ngày. Bởi vậy, bà đã đánh liều lấy trộm 5 quả trứng. “Tôi nghĩ nếu không kiếm được gì cho mấy đứa nhỏ ăn, chúng sẽ chết đói,” bà Johnson nói.
Sau khi được tặng trứng, bà Johnson đã vô cùng ngạc nhiên và xúc động. Bà cho biết “Viên cảnh sát này đã giúp tôi nhận ra con đường chân chính, và tôi sẽ không bao giờ quên.”
Trong khi đó, anh Stacey thì cho biết khi tới hiện trường, bà Johnson đã bật khóc nức nở và cố gắng vét sạch túi để đưa toàn bộ số tiền bà ấy có cho anh. “Tôi nói với bà ấy là đừng bao giờ làm chuyện tương tự như vậy nữa. Tôi hy vọng và cầu nguyện và chắc chắn rằng bà ấy sẽ không làm việc đó lần nữa”, anh Stacey nói.
Hành động cao thượng của cảnh sát Stacy đã được 1 người tình cờ nhìn thấy và ghi lại. Sau khi được đăng tải, đoạn clip đã thu hút sự chú ý của hàng triệu người dân trên toàn thế giới.
Thế nhưng, câu chuyện tốt đẹp vẫn chưa dừng lại ở đó, vào ngày thứ Tư vừa qua, cảnh sát Stacy cùng đồng nghiệp đã có mặt tại nhà bà Helen Johnson (47 tuổi) để trao tặng cho gia đình bà 2 xe tải chất đầy đồ ăn. Món quà này được trao tặng với mong muốn bà Johnson cùng con cháu có được 1 Giáng sinh ấm áp và đủ đầy.
Những giọt nước mắt không ngừng tuôn rơi, bà Johnson cho biết “Lần cuối cùng nhà tôi có nhiều thức ăn như này là khi tôi 12 tuổi, lúc ấy, tôi còn sống với bà.”
Câu chuyện sau khi được trang Dailymail chia sẻ cũng đang thu hút gần 120.000 lượt “like” cùng hàng nghìn lượt chia sẻ. Hiện, hành động cao cả của viên cảnh sát William Stacy vẫn đang được ngợi ca trên toàn thế giới.
Đêm Havana & Ngày Hà Nội
S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ đắng cay như ở đây?
Chín người – mười cuộc đời rạn vỡ.
Bị ruồng bỏ và bị lưu đầy…
Có nơi nào trên trái đất này
Mật độ yêu thương như ở đây?
Mỗi tấc đất có một người qùi gối
Dâng trái tim và nước mắt
Cho nỗi đau của cả loài người …
Phùng Quán
Tôi chưa bao giờ đến Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy có chút xíu nào hào hứng khi nghĩ đến chuyện phiêu lưu tới một nơi xa xôi, lôi thôi và tai tiếng (tùm lum) như thế. Đã thế, đường thì xa, vé tầu thì mắc, thủ tục thì lôi thôi rườm rà, và lỡ mà kẹt luôn thì… chết mẹ!
Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nghĩ và nghe sao là nói vậy. Và cứ như vậy mà nói, chắc chắn, sẽ làm mích lòng cả đống người. Tôi biết vậy nhưng không thể nào nói khác vì những điều mà tôi được nghe kể về Hà Nội (thường) không có gì là đàng hoàng hay tử tế – đại loại như:
“Lời ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói gì đến văn vẻ… Một cô gái có thể nói oang oang giữa chợ:
– Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi.
– Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho…”
“Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá (Phạm Xuân Đài. Hà Nội trong mắt tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ 1994, 32-33).
Trời đất, đó là chuyện nhỏ và chuyện cũ (rích) rồi – từ hồi thế kỷ trước lận – bới móc ra làm chi nữa, cha nội ? Thì rành rành là chuyện bây giờ, thế kỷ XXI đây nè, Hà Nội vẫn cứ y chang như hồi đó – chớ có khác (mẹ) gì đâu:
“Những đứa bé trai và gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những đứa bé đã được mô tả trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu cách đây năm sáu thập niên, còm cõi, nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết cúi đầu vâng dạ và sống quen với lo âu, sợ hãi….”
“Những anh chị phu hồ vẫn làm việc bằng những cung cách từ nửa thế kỷ trước. Họ chuyền tay nhau mọi thứ vật liệu. Cát, đá và sạn đựng trong những cái rổ, đà gỗ vác trên vai. Một ngày dầm mưa hay đổ mồ hôi như thế của một người phu hồ trị giá một đô la và một bữa ăn trưa thanh đạm. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện ‘chủ nghĩa xã hội ưu việt’ trong nước, hơn một phần tư thế kỷ kêu gào tự do và nhân quyền của khối người việt lưu vong hải ngoại, chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào những góc đời phiền muộn tối tăm này” (Bùi Bích Hà, “Nhìn lại quê hương,” Thế Kỷ 21, Sep. 2003:63-65).
Phạm Xuân Đài và Bùi Bích Hà, nói nào ngay, không phải là người Hà Nội. Họ là dân bá vơ, tha phương cầu thực, cù bơ cù bất, ở tận California hay đâu đâu đó. Cả hai chỉ tạt ngang, ghé chơi Hà Nội năm ba ngày hay vài ba tuần lễ gì thôi. Biết (khỉ mốc) gì đâu mà nói hành nói tỏi (nghe thấy ghét) dữ vậy chớ?
Nguyễn Huy Thiệp thì khác à nha. Ông ta là niềm hãnh diện của Hà Nội (nói riêng) và của cả nước Việt (nói chung). Ổng có dư thẩm quyền và thừa tư cách để nói về thủ đô “mến yêu của ta.”. Trong tác phẩm Tuổi hai mươi yêu dấu, nhà văn đã mượn lời một nhân vật để tuyên bố như sau:
“Thời của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.”
Ý, trời đất, quỉ thần, thiên địa ơi! Giữa Thời đại Hồ Chí Minh (quang vinh), và trong lòng thủ đô Hà Nội – nơi mà cách đây chưa lâu người ta vẫn còn phải nhai rón rén khi ăn – mà thằng chả nói năng ồn ào, lạng quạng và bạt mạng (quá cỡ) như vậy thì kể như là… hết thuốc!
Và Hà Nội không phải là nơi duy nhất hết thuốc (chữa) như thế trên thế giới này. Tôi nghe kể là ở thủ đô của Cuba – một nước anh em xã hội chủ nghĩa – tình trạng cũng bết bát, và bệ rạc không kém:
“Ở La Havanne vài ngày dần dần bạn hiểu cái khang trang, sầm uất ở những nơi có du khách chỉ là bộ mặt bên ngoài che không nổi một xã hội lở lói, mệt mỏi… Cuba có hai thế giới, thế giới tưng bừng náo nhiệt của du khách, của những người có tiền xanh, bên cạnh thế giới mệt nhoài của dân địa phương. Sau 50 năm cách mạng, cái mơ của đa số dân Cuba là vượt biển qua Miami hay có bà con thỉnh thoảng gởi về một cái ngân phiếu” (Trần Công Sung,” Cuba Sí, Cuba No,” Thế Kỷ 21, Dec. 2003:78).
Đó cũng là cái ước mơ thê thảm, vượt quá tầm tay, của rất nhiều người dân Việt – bây giờ! Trong quá khứ, Cuba và Việt Nam cũng có rất nhiều điểm (bất hạnh) tương tự như nhau. Hai quốc gia này đều có thời gian dài là thuộc địa, và cả hai đều đã tin tưởng rằng sẽ giành lại được độc lập và tự do bằng con đường… cách mạng! Chung cuộc, cả hai đều sống dở (và chết dở) trong lòng cách mạng!
Ví von mà nói thì Havana và Hà Nội như hai cô bé lọ lem, song sinh, trong một gia đình khánh tận. Cả hai cùng có chung ước mơ là lấy được một tấm chồng đàng hoàng, lương thiện nhưng (chả may) đều phải lòng đúng đồ phải gió, và đã trao duyên lầm… tướng cướp! Và quí vị tướng cướp này đang làm cái công việc mà họ mệnh danh giữ hoà bình cho thế giới – nếu trích theo nguyên văn lời của ông Nguyễn Minh Triết, nguyên chủ tịch nước Việt Nam:
“Có người ví von, Việt Nam – Cuba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới! Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ…”
Havana, tuy thế, vẫn còn “có phước” hơn Hà Nội. Bi kịch của La Havanne chỉ xẩy ra vào lúc có mặt trời – theo lời của Trần Công Sung:
“Đêm xuống, dân Cuba quên cái cực nhọc ban ngày, đổ ra đường nhộn nhịp… Quên dollars, quên cách mạng, quên những bài diễn văn dài tám giờ, quên embargo, người ta đàn hát nhẩy múa náo nhiệt. Không phải chỉ ở những khu du khách, ngay cả ở những khu bình dân, đen tối, trong những tiệm cà phê rẻ tiền…, đâu đâu cũng có tiếng nhạc, giọng hát…”
Nói cách khác là ban đêm thì dù Việt Nam có gác hay không, Cuba vẫn nghỉ.
Cho nó khoẻ!
Vẫn theo như nhận xét của Trần Công Sung thì ở Havana “có một cái gọi là cái hồn (“âme”). Cái hồn này đang nâng đỡ cho mọi người sống qua những ngày tháng cơ cực, đắng cay của thời mạt kiếp. Tôi còn tin rằng nó cũng sẽ giúp cho dân tộc Cuba hồi sinh chóng vánh, sau khi họ chôn xong cái Chủ nghĩa Xã hội (đang muốn “chuyển qua từ trần”) ở đất nước này.
Hà Nội (dường như) không có một cái hồn như thế để chuẩn bị hồi sinh, dù CNXH cũng chỉ còn sống thoi thóp ở nơi này. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói đến có một đêm nào đó (dù chỉ một đêm thôi) người dân Hà Nội đã đổ ra đường, đàn hát, nhẩy múa nhộn nhịp, một cách hồn nhiên và vô tư như vậy cả.
Tình trạng của Hà Nội có vẻ tuyệt vọng hơn, theo như nhận xét của nhà văn Bùi Bích Hà – qua bài báo thượng dẫn: “Người ta chỉ cần một hai thập niên để vực dậy một nền kinh tế sa sút nhưng để xây dựng lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể như dân tộc tôi, nay chỉ còn cầu phép lạ gieo xuống thưở đất hoang hoá này những hạt giống mới để bắt đầu lại.”
Cách đây không lâu – trên diễn đàn talawas – khi được hỏi “phải hình dung thế nào về văn hiến Thăng Long,” giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã (rơm rớm nước mắt, tôi đoán thế) kể lại rằng: “Gần đây có một vị viện sĩ định nghĩa văn hiến là văn học để hiến dâng cho Đảng.”
Thiệt, nghe mà… hết hồn luôn! Havana là một thành phố non trẻ, mới có mặt từ đầu thế kỷ thứ XVI mà khí phách và hồn phách vẫn còn lai láng qua từng bước chân nhún nhẩy của người dân – dù nơi đây công an (chắc) không ít hơn Hà Nội. Không lẽ mảnh đất ngàn năm văn vật, lừng lẫy cỡ như Thăng Long, mới đụng chuyện với cường quyền và bạo lực (có vài chục năm) mà đã “mất hồn mất vía” và “chết tiệt” hết thế sao?
Tôi không tin như vậy đâu. Và tôi cũng không chịu như vậy nữa. Đảng CSVN quả thực đã hớp được hồn của một mớ “viện sĩ” ở Bắc Hà nhưng những chú lính gác cửa của Bắc Kinh (hay còn có tên gọi mới, dễ thương hơn, là “những kẻ canh giữ cho hoà bình thế giới”) chưa bao giờ thực sự nhìn ra được cái hồn của đất Thăng Long, chớ đừng nói chi đến chuyện họ “đụng” được tới nó.
Do tình cờ, tôi có lần (may mắn) cảm thấy được cái hồn của Hà Nội trong một căn hộ nhỏ – ở ngõ Ánh Hồng, cạnh một nhà xí công cộng, luôn luôn ngập ngụa cứt đái – của một người đàn bà tên Sợi.
Chị Sợi có một mẹt hàng ở đầu ngõ, bầy bán các thứ linh tinh: ấm nước chè, gói thuốc lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích qui. Chị không có vốn nên hàng hoá lèo tèo, thảm hại.
Chị Sợi bán hàng không đủ thunhập để nuôi mình, và nuôi người mẹ bệnh đang nằm chờ chết nên – đôi lúc – buộc phải bán cả thân. Mẹt hàng, cũng như thân xác “xuống cấp” của người đàn bà đã quá thời xuân sắc này, chỉ hấp dẫn được một loại khách hàng duy nhất: đám ăn mày.
“Trong số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quý một anh ăn mày trẻ, còn ít tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái làng chơi.
Anh đã kể cho chị nghe chuyện chân anh. Còn chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị ngã gẫy xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm nay cụ yên lặng. Mỗi khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ.
Anh thương chị. Chị thương anh. Chính anh đã mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù què một chân cũng đã bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch quanh tường bao cho nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.
Người thứ hai chị Sợi yêu quý là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ Mít. Đó là một bà già thấp bé, lại còng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa. Chính bà Mít cũng không biết mình bao nhiêu tuổi…
Bà ở vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong làng đi ăn trộm lợn. Án xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người con dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy tuổi.
– Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn khôn là tôi không lo gì nữa. Tôi có chết cũng không ân hận.
Một lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:
– Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.
Bà ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện gì. Nhưng rõ ràng là một việc hệ trọng, rất hệ trọng đối với bà.
– Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.
Thì ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai đứa cháu côi cút của bà ở quê. Chúng còn bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà. Chúng cần tiền của bà. Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được, chưa thể tự lo liệu được. Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải mang tiền về quê.
……
Mùa rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm. Khách đến nhà cũng ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu, hỷ, người ta rộng rãi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị để cho chị hòn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít tiền. Chị bảo bà đã gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo chúng nó mong, đã lâu rồi bà chưa về nhưng bà Mít nói:
– Tôi cố thêm ít ngày nữa. Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới ra. Bà cháu xa nhau lâu quá rồi. Lại còn phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới mặc Tết.
Nhưng cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng có chuyện chẳng lành nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ còng còng của bà trong tấm ni-lông vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như vậy. Lo lắng. Hy vọng. Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đã chết ở đâu rồi!
Chị Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị không chờ bà Mít nữa. Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:
– Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. Ở đây trông nom, cơm nước, rửa ráy cho mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.
– Em biết quê bà ở đâu mà tìm?
– Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi tòa án.
Phải đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện ước của bà cụ, kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó…”
Chị Sợi, anh què – cũng như bà Mít – cho đến lúc chết vẫn chưa có đêm nào ôm đàn ngồi hát, hay đổ ra đường nhẩy nhót nhộn nhịp, như những người dân ở Havana. Ngày cũng như đêm họ sống ẩn nhẫn, thầm lặng trong những con hẻm hôi thối luôn ngập ngụa phân người giữa lòng Hà Nội.
Chính ở những nơi tăm tối này, họ đã giấu kín được nguyên vẹn cái hồn của cả một dân tộc qua từng nhịp thở và nhịp đập của tim. Và tôi cũng cảm được cái hồn lai láng (như thế) khi viết những dòng chữ này, dù nơi tôi đang sống cách xa Việt Nam hơn nửa vòng quả đất.
Sau khi đọc xong “Truyện không tên,” tôi đã viết thư cảm ơn tác giả vì đã mở cho tôi thấy cái hồn của dân tộc Việt. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn nói rằng ông không viết truyện mà chỉ kể lại chuyện đời của chị Sợi, theo như lời chính chị tâm sự – thế thôi.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A và đoàn đại biểu Diễn đàn XHDS viếng cố nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Ảnh và chú thích: http://danquyenvn.blogspot.
Bùi Ngọc Tấn đã ra người thiên cổ nhưng chị Sợi, anh Què vẫn còn đang sống tại Hà Nội. Nơi đây, không phải lúc nào ra ngõ cũng gặp anh hùng hay gặp một ông (hoặc một bà) tiến sĩ. Đôi khi, chúng ta vẫn gặp được những mảnh hồn của mảnh đất này nhưng không có cơ duyên để nhận biết thôi.

Trong bài diễn văn trên truyền hình hôm qua, thứ tư ngày 17/12/2014, tổng thống Mỹ Barack Obama đã lên tiếng ca ngợi và cám ơn những nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong việc tìm kiếm giải pháp tiến tới bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Cuba.
Ông Obama cho biết Đức Giáo hoàng đã gửi thư riêng cho hai nhà lãnh đạo Mỹ và Cuba, qua đó hối thúc 2 nhà lãnh đạo tìm kiếm giải pháp trả tự do cho Alan Gross, một công dân Mỹ bị Cuba cầm tù.
“Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một lời kêu gọi cá nhân đến tôi và chủ tịch Cuba Raul Castro để hối thúc chúng tôi giải quyết trường hợp của Alan,” Ông Obama cho biết.
Cuối bài diễn văn, ông Obama đã gửi lời cám ơn Đức Phanxicô vì gương sống của ngài.
“Đặc biệt, tôi muốn cảm ơn Đức Thánh Cha Phanxicô vì đời sống đạo đức của ngài cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải dấn thân cho một thế giới nên là chứ không phải đơn thuần bằng lòng với một thế giới như hiện tại.”
Trong một động thái tương tự, ông Raul Castro, chủ tịch Cuba phát biểu trên truyền hình đã ngỏ lời cám ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô về sự kiện mang tính lịch sử khi Cuba và Mỹ bình thường hóa quan hệ.
Chỉnh Trần, S.J.
Biên dịch
Nhiều nhóm người Thượng Việt Nam bị chính quyền Campuchia từ chối cho tị nạn, theo LHQ.
Một nhóm tám người Thượng chạy trốn chính quyền Việt Nam ra khỏi nơi ẩn trú trong một rừng rậm ở Campuchia để gặp gỡ giới chức của Cơ quan tị nạn Liên hiệp quốc, theo hãng tin AFP.
Hôm thứ bảy nhóm người được cho là người Jarai trốn đi từ vùng Tây Nguyên của Việt Nam đã được các viên chức tị nạn đưa ra khỏi khu rừng ở mạn Đông Bắc tỉnh Rattanakiri của Campuchia vào buổi sáng.
Còn năm người Thượng khác vẫn chưa ra khỏi rừng rậm, theo các nhà hoạt động nhân quyền, trong lúc có tin có tất cả 16 người, thay vì con số mười ba người, trong toàn nhóm tìm kiếm tị nạn trốn qua biên giới Campuchia.
Nhóm tị nạn trong đó có một phụ nữ đã phải lẩn trốn trong suốt bảy tuần ở một khu vực có nguy cơ bị tấn công bởi bệnh sốt rét, nhưng cho hay họ không dám tiếp xúc với chính quyền tỉnh Rattanakiri vì sợ bị chính quyền ‘bắt giữ và trục xuất’ ngược trở lại Việt Nam, vẫn theo hãng tin Pháp.
“Chúng tôi đã chuyên chở họ ra khỏi khu rừng”, một nhân viên của Liên hiệp quốc cho AFP hay.
Trong khi đó, có tin một nhóm năm người Thượng chạy trốn khác vẫn còn đang ẩn trốn trong rừng, theo các nhóm hoạt động nhân quyền.
“Họ đã đưa những người đó tới Phnom Penh, nhưng việc những người đó có được coi là tị nạn hay không sẽ do quốc gia sở tại quyết định
Người phát ngôn Bộ nội vụ Campuchia”
Các nhóm này cáo buộc chính quyền địa phương và trung ương Campuchia có những liên hệ với chính quyền Việt Nam mà theo đó đã có nhiều nhóm tị nạn khi vượt biên giới vào Campuchia bị trả lại cho Việt Nam và bị Phnom Penh từ chối quyền tị nạn.
Tuần trước, ông Khieu Sopheak, một phát ngôn nhân của Bộ Nội vụ Campuchia cáo buộc Liên hiệp quốc đã ‘vi phạm chủ quyền’ của nước này khi giải cứu và giúp đỡ những người tìm kiếm tị nạn mà không có sự đồng ý của chính quyền Campuchia.
“Họ đã đưa những người đó tới Phnom Penh, nhưng việc những người đó có được coi là tị nạn hay không sẽ do quốc gia sở tại quyết định,” quan chức này nói với truyền thông quốc tế trong một cuộc họp báo.
Còn Liên hiệp quốc nói chính quyền Campuchia đã từ chối tạo điều kiện để LHQ tiếp cận, giúp đỡ những nhóm cần cứu trợ ‘là những người thiểu số Jarai’ vốn bị ‘đau ốm, thiếu thốn lương thực, thức ăn’ và bị các căn bệnh như ‘sốt rét’ đe dọa.
Nhiều tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế từng ra phúc trình cáo buộc chính phủ Việt Nam gia tăng đàn áp người Thượng ở Tây Nguyên, cũng như phê phán chính quyền Campuchia đã ‘không tôn trọng và vận dụng các thỏa thuận và nguyên tắc nhân đạo quốc tế’ với người tị nạn
Trong một bản phúc trình gần đây của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch), có từ hàng trăm tới hàng nghìn người Thượng ở Việt Nam đã bị chính quyền Việt Nam ‘phân biệt đối xử, và bị ‘ngăn cản’ được hưởng nhiều quyền con người và quyền công dân cơ bản, trong đó có quyền về tự do tôn giáo, tín ngưỡng.

Liên hiệp quốc tiếp tục bày tỏ quan ngại về tình hình người Thượng tị nạn chạy trốn khỏi VN.
Đã diễn ra nhiều vụ bắt giữ, bỏ tù có ‘đưa ra tòa hay không’ nhắm vào những nhóm ‘sắc tộc thiểu số’ ở Tây Nguyên với các cáo buộc “vi phạm an ninh quốc gia”, tự động “biểu tình và làm lễ” trái phép tại các địa điểm thờ tự không được pháp luật công nhận, theo các nhóm hoạt động nhân quyền.
Một số Tổ chức nhân quyền quốc tế và khu vực cũng cáo buộc chính quyền Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc ‘truy bắt’ người Thượng lẩn trốn, giải tán các buổi lễ tôn giáo và bắt ‘tín đồ bỏ đạo, cải đạo’ và bỏ tù hàng trăm người Thượng mà trong thời gian ‘bị bắt, giam giữ, truy tố, xét xử, lĩnh án, thì các quyền bị can, bị cáo và quyền với tù nhân’ của họ không được tôn trọng.
Về phần mình, Chính quyền Việt Nam luôn khẳng định không có việc đàn áp tôn giáo ở trong nước, và phản biện rằng các tổ chức nhân quyền nói trên là “thiếu thiện chí” và đưa ra các thông tin “không trung thực”, “phiến diện” về tình hình nhân quyền Việt Nam.
Việt Nam hiện đang là thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Liên hiệp quốc.
Được biết, người Thượng là danh từ chỉ các nhóm sắc tộc thiểu số mà trong đó có số đông theo các tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Tin lành, sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên, cao nguyên Trung phần của Việt Nam, nhiều nhóm trong đó sống ở các địa bàn tiếp giáp biên giới giữa Việt Nam và Campuchia.
Lịch sử những ca khúc Giáng Sinh nổi tiếng thế giới












Từ Anh chị Thụ Mai gởi
THẬT KỲ LẠ !
Bản dịch của Gs. Trần Duy Nhiên
1. Thật kỳ lạ: Tờ giấy bạc năm chục nghìn sao có vẻ rất lớn khi dâng tặng cho Nhà Thờ, mà sao lại nhỏ thế khi mình đi mua sắm ?
2. Thật kỳ lạ: Hai giờ trong Nhà Thờ sao có vẻ dài lê thê, mà sao lại ngắn đến thế khi xem một tập phim truyền hình ?
3. Thật kỳ lạ: Mình không thể tìm ra một lời để nói khi cầu nguyện, mà không biết lời đâu lại sẵn thế khi tán gẫu với bạn bè ?
4. Thật kỳ lạ: Đọc một chương Kinh Thánh sao mà quá khó khăn, mà đọc 100 trang tiểu thuyết tình cảm hay kiếm hiệp thì sao lại dễ đến thế ?
5. Thật kỳ lạ: Sao ai ai cũng muốn ngồi hàng đầu khi nghe ca nhạc, mà lại làm đủ mọi cách để ngồi hàng cuối trong Nhà Thờ ?
6. Thật kỳ lạ: Sao chúng ta cần phải biết một việc làm cho Giáo Hội 2, 3 tuần trước đó để rồi còn xếp lịch, mà lại sắp xếp ổn thoả các việc khác vào giờ phút cuối cùng ?
7. Thật kỳ lạ: Học về Chúa để chia sẻ cho anh chị em sao quá khó khăn, mà học hiểu rồi truyền miệng những chuyện tầm phào sao lại dễ dàng đến thế ?
8. Thật kỳ lạ: Sao mình có thể tin mọi thứ mà báo chí nêu ra, mà lại thắc mắc hoài nghi mãi về những lời Kinh Thánh ?
9. Thật kỳ lạ: Sao ai ai cũng muốn có một chỗ trên Thiên Đàng, mà lại không muốn tin, không muốn làm hay nói điều gì để được lên đấy ?
10. Thật kỳ lạ: Sao khi mình gửi chuyện cười bằng E-mail thì tin rằng người ta chuyển ngay, nhưng khi sắp gửi một bức thư nói về Chúa thì mình lại đắn đo suy nghĩ trước khi đem chia sẻ ?
Thật là kỳ lạ phải không nào ? Giờ đây bạn đã đọc lá thư này xong, thì bạn hãy chuyển đến cho một người bạn, một thân nhân hay một người nào đó không ưa bạn. Nếu bạn quên hoặc không muốn làm như vậy, thì chẳng những bạn mất cơ hội được Chúa chúc lành, mà bạn còn làm mất cơ hội của những người có thể đang cần đến Chúa trong đời họ.
KHUYẾT DANH,
Bản dịch của Gs. Trần Duy Nhiên
Đài truyền hình SBTN vận động phục hoạt và điều chỉnh luật HO cho các thương phế binh VNCH
VRNs (10.11.2014) – California, USA – Đài SBTN đã khởi xướng một chiến dịch để vận động cho việc phục hoạt và điều chỉnh lại dự luật HO cũ, nhằm giúp đỡ các sĩ quan thương phế binh VNCH và gia đình họ có thể sang định cư tại Hoa Kỳ.
Ngoài việc gây quỹ cứu trợ cho các thương phế binh VNCH tại Việt Nam hằng năm, đây là một nỗ lực mới nhất của đài SBTN trong việc cứu trợ những mảnh đời khốn khổ này cho tương lai dài hơn.
Phóng viên Ngọc Trinh của STBN cho biết: “Để bắt đầu cuộc vận động này, vào chiều thứ Hai ngày 03.11.2014, phái đoàn có đại diện của SBTN và Hội HO cứu trợ Thương Phế Binh VNCH đã có buổi gặp gỡ với bà Dân biểu liên bang Loretta Sanchez tại văn phòng của bà để trình bày về chiến dịch cũng như mong muốn sự ủng hộ của bà trong việc đề nạp dự luật phục hoạt và điều chỉnh chương trình HO lên với Quốc hội Hoa Kỳ. Tiếp theo đó vào chiều thứ Ba ngày 04.11.2014, đài truyền hình SBTN đã hân hạnh được tiếp đón Dân biểu liên bang Alan Lowenthal trong cùng mục đích vận động này.


Và vào thứ Năm ngày 06.11.2013, đại diện SBTN là nhạc sĩ Trúc Hồ và Ls Đỗ Phủ đã có một buổi gặp gỡ đặc biệt với Thượng nghị sĩ John McCain tại văn phòng của ông ở Arizona để tiếp tục cho việc vận động này. Được biết Thượng nghị sĩ John McCain, một cựu chiến binh Hoa Kỳ và tù nhân trong chiến tranh Việt Nam cũng là một trong những người đã hỗ trợ rất nhiều trong việc vận động cho chương trình HO ngày xưa. Ông rất vui khi nghe các đại diện của SBTN trình bày và hứa sẽ làm hết tất cả để giúp đỡ cho chiến dịch vận động được đạt nhiều thành quả”.

Về lịch sử của việc đoàn tụ ODP và HO, bài viết đăng trên website của STBN cho biết, từ năm 1979 vì lý do nhân đạo, chính phủ Hoa Kỳ đã tiến hành Chương trình Ra đi có Trật tự (Orderly Departure Program – ODP) cho người Việt Nam dưới sự hỗ trợ của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tỵ nạn. Chương trình ODP cho phép người Việt Nam tỵ nạn nhập cảnh vào Hoa Kỳ sau khi cuộc chiến tranh kết thúc.
Trong một chương trình phụ với tên gọi HO (Humanitarian Operation), chính phủ Hoa Kỳ đã bào trợ cho các cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa định cư tại Hoa Kỳ. Chương trình nhắm vào 3 đối tượng chính:
– Các cựu tù nhân bị “tập trung cải tạo” trong vòng ba năm hoặc trờ lên.
– Các cựu tù nhân bị “tập trung cải tạo” trong vòng một năm hoặc trở lên và đã từng được huấn luyện tại Hoa Kỳ hoặc thuộc địa Hoa Kỳ.
– Các cựu tù nhân bị “tập trung cải tạo” trong vòng một năm trở lên và đã từng làm việc cho các ông ty tư nhân hoặc tổ chức của Hoa Kỳ.
Năm 2008, chương trình HO coi như được kết thúc.

Phóng viên Ngọc Trinh nhấn mạnh: “Tuy nhiên, trên thực tế sau năm 1975 trong quân đội có nhiều sĩ quan Quân Lực VNCH bị thương tích nặng trong chiến tranh, vì vậy những người này đã không phải đi cải tạo hoặc cải tạo không đủ 3 năm. Cho đến nay, họ vẫn còn bị kẹt tại Việt Nam và không được bảo trợ sang Hoa Kỳ trong chương trình HO.
Đây là những thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất trong chiến tranh. Nhất là dưới chế độ cộng sản, họ bị phân biệt đối xử, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, con cái không được học hành, đời sống gia đình khó khăn cùng cực. Nhiều người đã sống lây lất qua ngày ở các bến xe, các khu chợ, hay các khu nghĩa trang, và làm đủ thứ ngành nghề cùng cực bằng tấm thân tàn phế của mình”.
Theo SBTN
Việt Nam thừa nhận ‘bó tay’ với việc chống mại dâm
HÀ NỘI (NV) – Sau 10 năm đổ nhiều công sức, tiền của để “thi hành pháp lệnh phòng, chống mại dâm”, mới đây nhà cầm quyền CSVN đã thừa nhận “vẫn chưa làm chuyển biến được tình hình.”
Báo điện tử News Zing đưa tin, tại hội nghị tổng kết 10 năm thi hành pháp lệnh phòng, chống mại dâm sáng 19 tháng 12, 2014 ở Hà Nội, để né tránh trách nhiệm, ông Nguyễn Trọng Ðàm, thứ trưởng Bộ Lao Ðộng đã biện minh: “Mại dâm tại Việt Nam cũng sử dụng công nghệ cao nên khó kiểm soát.”
![]() Dù bị bắt bớ nhưng mại dâm ở Việt Nam vẫn diễn ra hàng ngày. (Hình: News Zing) |
Ông Ðàm cho biết, mới đây 63 tỉnh, thành phố báo cáo hiện có gần 12,000 người bán dâm có hồ sơ quản lý (người bán dâm từng bị xử phạt, bắt giữ).
“Ðây là số người có hồ sơ quản lý của các cơ quan chức năng, còn con số thực tế về số người bán dâm có thể còn cao hơn nhiều do đây là một hoạt động khó kiểm soát bởi tính phức tạp, tinh vi và trá hình của nó,” ông Ðàm nói.
Theo ông Ðàm, tệ nạn mại dâm đã và đang gây nhiều hệ lụy cho xã hội. Nguy cơ lây lan các bệnh xã hội, HIV/AIDS qua đường tình dục do quan hệ tình dục không an toàn cao, tỷ lệ người nhiễm HIV qua đường tình dục ngày càng gia tăng…
Ngoài ra, tệ nạn mại dâm cũng làm gia tăng các băng nhóm, tổ chức tội phạm mua bán ma túy, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mua bán người, tổ chức hoạt động mại dâm ở một số địa phương.
Ðặc biệt, theo ông Ðàm, thời gian gần đây còn xuất hiện các đối tượng và hình thức hoạt động mại dâm mới như gái gọi, du lịch tình dục, người nước ngoài bán dâm, mại dâm nam, mại dâm đồng tính, người chuyển giới bán dâm, môi giới mại dâm thông qua mạng Internet, Facebook.
“Phải thừa nhận việc phòng, chống mại dâm còn nhiều bất cập, hạn chế. Thậm chí còn có biểu hiện làm ngơ của nhà cầm quyền. Nhiều địa phương, chính quyền chưa chỉ đạo quyết liệt dẫn đến tình trạng tồn tại các tụ điểm, ổ nhóm tội phạm tổ chức hoạt động mại dâm thách thức dư luận,” ông Ðàm nhận định.
Ông Hoàng Văn Vĩnh, phó cục trưởng Cục Cảnh Sát Ðiều Tra Tội Phạm về Trật Tự Xã Hội, Bộ Công An cũng khẳng định, tình hình hoạt động mại dâm vẫn là vấn đề nhức nhối và về cơ bản vẫn chưa làm chuyển biến được tình hình.
“Từ năm 2008 đến nay, hoạt động mại dâm phát triển theo phương thức ‘gái gọi’ với việc sử dụng công nghệ cao để hoạt động liên tỉnh. Ðáng lưu ý là những tổ chức, đường dây hoạt động mại dâm có sự tham gia của một số người mẫu, diễn viên, ca sĩ. Thậm chí gần đây trong Sài Gòn có cả mại dâm nam,” ông Vĩnh nói. (Tr.N)
Hai cây cầu tiền tỷ xây chưa xong đã bỏ phế
TIỀN GIANG (NV) – Trong khi nhiều nơi ở miền Trung, Tây Nguyên phải đu dây qua sông vì không có cầu, thì hai cây cầu bạc tỷ ở huyện Châu Thành, Tiền Giang có cũng như không.
Ðó là cầu Kháng Chiến và cầu Bé Ðây, bắc qua kênh Kháng Chiến thuộc ấp 3, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
![]() Cầu Bé Ðây đang bị bỏ phế nửa chừng. (Hình: báo Lao Ðộng) |
Hiện nay, nhà cầm quyền và người dân nơi đây rất bực tức và quan ngại trước tình trạng hai cây cầu bê tông kiên cố xây chưa xong đã bỏ phế, gây khó khăn cho việc giao thông và lãng phí. Cả hai cây cầu này do Sở Nông Nghiệp-Phát Triển Nông Thôn tỉnh làm chủ đầu tư và doanh nghiệp tư nhân Văn Sáu, thành phố Mỹ Tho trúng thầu xây dựng.
Theo kế hoạch, hai cây cầu nói trên sẽ thông xe phục vụ nhu cầu đi lại, vận tải hàng hóa của người dân Tam Hiệp vào cuối năm 2013. Tuy nhiên, cho đến nay cả hai cây cầu chỉ xây xong phần thân, còn phần mố hai bên đầu cầu nối với đường giao thông và thân cầu chưa được làm. Do vậy hơn một năm qua, người dân địa phương phải qua sông bằng cầu tạm cũ kỹ, hư hỏng thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông.
Ông Cao Văn Sạch, một người dân xã Tam Hiệp bày tỏ: “Hai cây cầu này xây mấy năm trời mà vẫn chưa xong, khiến dân chúng rất bực tức, không biết bao giờ chúng tôi có cầu để đi…”
Nguyên nhân là do chủ đầu tư và nhà thầu xây dựng chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm trong việc giải tỏa mặt bằng, tổ chức thi công công trình. Hiện tại, trên công trình chỉ có vài công nhân làm việc cho có.
Ông Nguyễn Văn Nâu, chủ tịch xã Tam Hiệp quan ngại nói: “Không biết bao giờ hai cầy này được đưa vào sử dụng. Trong khi đó, nguồn vốn do trung ương đầu tư xây dựng hai cầu rất lớn, hơn 8 tỷ đồng (khoảng $390,000 USD).” (Tr.N)
Bố mẹ của tử tù biểu tình ngồi kêu oan cho con
HÀ NỘI (NV) .- Ôm cả ngàn lá đơn gõ cửa khắp nơi kêu oan cho con không hề thấy tác dụng, cha mẹ của tử tù Nguyễn Văn Chưởng biểu tình ngồi ngay giữa thủ đô Hà Nội.
![]() |
| Ông bà Nguyễn Trường Chinh biểu tình ngồi tại vườn hoa Lý Thái Tổ ở Hà Nội kêu oan cho con là tử tù Nguyễn Văn Chưởng. (Hình: Dân Làm Báo) |
Theo tin phổ biến trên mạng và facebook, ông Nguyễn Trường Chinh và bà vợ tên Bích, cha mẹ tử tù Nguyễn Văn Chưởng có thể bị hành quyết trong ít ngày nữa, biểu tình ngồi từ ba ngày qua tại vườn hoa Lý Thái Tổ, trung tâm thành phố Hà Nội với các tấm biểu ngữ kêu gọi cứu con ông sắp chết oan.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, ông Nguyễn Trường Chinh, 69 tuổi, cho hay vào cuối tháng 10 vừa qua, viên chức nhà nước tới thông báo cho ông bà biết là Nguyễn Văn chưởng sẽ bị hành hình vào những ngày cuối năm nay, tức chỉ còn hơn một tuần lễ nữa để sống.
Ông Chinh từng cho biết ông cầm cả ngàn lá đơn kêu oan cho con đến các cấp cao nhất của chế độ Hà Nội, xin họ cho điều tra lại bản án giết người mà con ông không hề phạm, nhưng không hề thấy tác dụng.
Nguyễn Văn Chưởng, năm nay 31 tuổi, bị kết án tử hình về một vụ giết một đại úy công an ở khu vực Đình Vũ, Hải Phòng. Khi ra tòa, Chưởng phản bác lại cáo trạng nói anh là thủ phạm chính khi hạt sát bằng dao đại úy công an Nguyễn Văn Sinh buổi tối ngày 14/7/2007 để cướp xe gắn máy. Anh nói rằng lúc xảy ra vụ án thì anh ở cách đó tới 30km và có nhiều người làm chứng.
Anh đã bị đám công an điều tra thành phố Hải Phòng tra tấn ép cung mà dấu tích còn đầy trên thân thể. Anh tự thấy cần phải sống để kêu oan nên đã chấp nhận ký vào tờ giấy nói anh là thủ phạm. Các nhân chứng cũng đều nhìn nhận như vậy nhưng tòa án hải Phòng vẫn kết án Nguyễn Văn Chưởng tử hình dù các bằng chứng, vật chứng do pháp y đưa ra đều không có gì xác định anh là thủ phạm.
“21h tối ngày 14/07/2007 xẩy ra vụ án sát hại thiếu tá công an Nguyễn Văn Sinh ở Đình Vũ, Hải Phòng, cùng thời điểm xẩy ra vụ án con tôi Nguyễn Văn Chưởng đang có mặt ở xã Bình Dân, Kim Thành, Hải Dương có rất nhiều người biết (cách nơi xẩy ra vụ án gần 40km). Nhưng công an, tòa án, viện kiểm sát vẫn kết án tử hình con tôi mà không đưa ra được một bằng chứng xác thực cụ thể nào chính xác Chưởng là hung thủ giết người, mà chỉ dựa vào lời khai của Vũ Toàn Trung và Phương .”
Ông Nguyễn Trường Chinh viết như vậy trong đơn kêu oan gửi cho các lãnh tụ cao nhất của chế độ và sau đó gửi tới kêu cứu với các tòa đại sứ và các tổ chức nhân quyền quốc tế.
Ông kêu rằng “Cơ quan Cảnh sát điều tra và Tòa án cố tình bỏ qua những chứng cứ ngoại phạm của con tôi như: Không cho các nhân chứng mới đối chất tại tòa Phúc thẩm (đã được các luật sư đề nghị nhiều lần). Không nghe lời kêu oan thảm thiết của các nghi phạm.”
Ông cho hay, trong suốt 8 năm qua, vợ chồng ông và con trai “đã làm đơn kêu oan lên các cơ quan Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam rất nhiều lần kể cả đơn viết bằng Máu cho Chủ tịch nước nhưng chưa được tiếp nhận điều tra làm đúng sự thật”.
Chỉ còn vài ngày nữa là hết năm và cái chết oan khiên của con trai gần kề, không hề thấy phản ứng của nhà cầm quyền và cơ quan tư pháp của chế độ, ông bà Nguyễn trường Chinh tới ngồi giữa thủ đô Hà Nội biểu tình ngồi trong tuyệt vọng.
Tra tấn, nhục hình, dọa nạt, ép cung vô cùng phổ biến tại cơ quan điều tra của công an. Chỉ trong năm nay, 20 người dân đã chết trong tay Công an chỉ sau vài giờ hay một hai ngày bị bắt giữ. Một số bị vu cho là “tự tử” dù thân thể họ đầy dấu vết bầm dập nhục hình. (TN)
NHỮNG NGƯỜI ĐẠO SĨ
A – NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ NHẤT
Tôi tên là Gaspar, một trong ba người đạo sĩ đã đến dâng của lễ bên máng cỏ ở Bêlem. Hai người bạn của tôi là Melchior và Balthazar.
Từ lâu rồi, tôi mãi ngắm nền trời sao, và hôm ấy, ngôi sao tôi chờ đợi xuất hiện. Các bạn từng có hình ảnh về sao lạ ở Bêlem, nên các bạn hình dung đó là một ngôi sao khác thường, với một cái đuôi thật dài chỉa thẳng về hang đá. Một ngôi sao mà không ai có thể nhận lầm được.
Xin thưa với các bạn, nếu các bạn nghĩ như thế thì các bạn lầm rồi đấy. Ngôi sao ấy không khác với các ngôi sao bình thường đâu. Tôi đã chờ đợi nó từ bao nhiêu năm trường mà khi xuất hiện, tôi vẫn còn do dự. Tôi đã chỉ cho bao nhiêu người xung quanh, cho bà con họ hàng, cho thân bằng quyến thuộc. Họ chỉ nhìn thoáng rồi thôi. Họ bảo rằng giữa hằng hà sa số tinh tú trên trời thì ngôi sao ấy cũng chẳng có gì đặc biệt. Không ai chịu lên đường với tôi, rốt cuộc tôi phải đi một mình. Không ai muốn đặt niềm tin vào một vì sao, mà xét cho cùng, có thể chỉ là một ngôi sao như trăm ngàn ngôi sao khác. Nhưng riêng tôi thì tôi phải ra đi, bởi vì tôi không thể đặt ngôi sao ấy đồng hàng với những ngôi sao bình thường được.
Khi gặp được Melchior và Balthazar, niềm phấn khởi của chúng tôi có gia tăng. Nhưng dù sao cũng chỉ là ba người thức giấc bước đi trong đêm tối cố theo một ngôi sao, trong khi mọi người khác đang yên hàn trong giấc ngủ. Càng đi chúng tôi càng mệt mỏi. Khi thể chất mệt nhoài, thì tinh thần cũng sa sút, và những gì chúng tôi tin tưởng lúc khởi hành cũng dần dần nhạt phai. Nhất là khi trên nền trời hiện ra nhiều vì sao mới, sáng sủa hơn, đẹp đẽ hơn, gần gũi hơn.
Thế nhưng chúng tôi cũng bám vào ngôi sao ban đầu, bám vào một cách cố chấp, vì chúng tôi đã tự hứa sẽ trung thành với ngôi sao đã thúc dục chúng tôi lên đường.
Rồi chuyện bi đát đã xảy ra: Ngôi sao của chúng tôi đã biến mất. Bây giờ chúng tôi mới thực sự cô đơn. Ba chúng tôi nhìn nhau không dám nói một lời. Chúng tôi không tìm ra lời nào để khích lệ nhau. Đức tin thúc dục chúng tôi đi tới, lý trí bảo rằng chúng tôi phải quay về. Và chúng tôi im lặng đi bên nhau, cô đơn giữa những người cùng chí hướng. Chúng tôi bước đi trong đêm tối, đêm tối trên trời, và đêm tối trong lòng. Với tâm trạng đó, chúng tôi tiến về Giêrusalem.
Đến Giêrusalem, chúng tôi cảm thấy mình như rồ dại. Chúng tôi chờ đợi một Giêrusalem tưng bừng mở hội đón chào đấng Messia, nhưng trái lại chúng tôi bắt gặp một Giêrusalem hờ hững. Giêrusalem là nơi phát xuất Kinh thánh, là nơi của Lời hứa, vậy mà Giêrusalem chẳng hay biết gì cả. Điều này chứng tỏ rằng chúng tôi đã sai lầm, chúng tôi đã bị một ngôi sao vớ vẩn nào đó đánh lừa. Nhưng dù sao, chúng tôi vẫn tiếp tục. Chúng tôi sẽ đi ngược lại với mọi chứng cớ, vì chúng tôi là những người đã bị một vị sao trên trời cuốn hút; chúng tôi không thể lùi lại. Chúng tôi sẽ là những người khôn ngoan nhất hoặc sẽ là những người rồ dai nhất.
Chúng tôi phải bước tới. Đến gặp Hêrôđê. À! thì ra cũng còn một người thức tỉnh. Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi, ông cho gọi các luật sĩ đến chỉ đường cho chúng tôi về Bêlem; ông mời chúng tôi trở lại báo tin cho ông biết để đi thờ lạy …
Mãi sau này chúng tôi mới biết được rằng vì quyền lợi mà ông thức tỉnh chứ không phải vì niềm tin. Thì ra người ta dễ dàng thức tỉnh vì quyền lợi hơn là vì niềm tin. Bởi thế mà Hài Nhi đã bị kết án tử hình trước khi chúng tôi đến thờ lạy.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình về Bêlem như những người say, dân chúng Giêrusalem đang tựa cửa đứng nhìn. Chúng tôi đã bao nhiêu đêm ngày lặn lội đến triều bái vị vua mới sinh. Còn họ, họ không buồn ngưng cuộc sống bình thường lấy một ngày để đến Bêlem kiểm chứng. Phải chăng họ đã chờ đợi quá lâu rồi nên bây giờ không còn tha thiết gì nữa? Phải chăng niềm tin của chúng tôi chỉ là ảo tưởng?
Lúc đến Giêrusalem, chúng tôi đã đi ngược lại quan niệm của những người bàng quan. Giờ này về Bêlem, chúng tôi đi ngược lại với quan niệm của những người được tuyển chọn. Dưới mắt mọi người, chúng tôi là những kẻ bất bình thường, nếu không phải là những người khờ khạo.
Và này, ngôi sao lại xuất hiện, chúng tôi nhìn nhau mỉm cười mà nước mắt tuôn trào. Không! Ngôi sao xuất hiện không phải để chỉ đường, vì chúng tôi đã biết đường về Bêlem. Ngôi sao xuất hiện không phải để củng cố niềm tin, vì chúng tôi vẫn tin tưởng, tin tưởng một cách ngoan cố, tin tưởng ngay trong lúc ngỡ rằng mình nghi ngờ. Ngôi sao xuất hiện như một bằng chứng tình yêu đáp lại tình yêu.
Chúng tôi đã đến Bêlem dâng lên hài Nhi những của lễ vật chất kèm với tấm lòng thành của mình. Chúng tôi đã tìm được kho tàng quí giá nhất. Đối diện với hài Nhi, chúng tôi hiểu rằng, khi ra đi, chúng tôi đã không có một của lễ nào xứng đáng để dâng lên Ngài. Chúng tôi quả đã mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược. Nhưng những của lễ đó hoàn toàn không có giá trị nếu không kèm theo những đau khổ, những cực nhọc, những lo âu, những thử thách, những đêm tối trong lòng.
Nhờ vậy mà chúng tôi đuợc thấy ánh sáng trong đêm Bêlem này. Bây giờ chúng tôi có thể ra về, chúng tôi trở về rón rén, im lặng vì chúng tôi đã tìm được kho tàng mà những vị vua chúa không thèm, một kho tàng mà họ ghét bỏ và muốn tiêu diệt.
Vâng, Hêrôđê đã ra lệnh cho binh sĩ chỉnh tề gươm giáo. Chúng tôi không trở lại với Hêrôđê, chúng tôi đã thất hứa. Các bạn không trách chúng tôi chứ? Chúng tôi đành thất hứa với một ông vua, chứ làm sao chúng tôi có thể phản bội hài Nhi.
Tôi tin rằng các bạn thông cảm với chúng tôi, bởi vì hành trình của chúng tôi cũng chính là hành trình của các bạn ngày hôm nay. Hành trình của những người hướng về một ngôi sao có khi đã tắt, và âm thầm tiến về Bêlem.
B – NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ TƯ
Có lẽ tôi cũng cần phải lên tiếng, bởi vì nếu hôm nay tôi im lặng, tôi sẽ là một tên vô ơn bạc nghĩa nhất trên đời. Tôi là một người đã đến bên hài nhi với hai bàn tay trắng và đã nhận tất cả nơi Giêsu. Tôi là một trong muôn ngàn người đến với Giêsu, nhận lấy thật nhiều rồi ra đi lặng lẽ. Tôi là người đạo sĩ thứ tư, người đạo sĩ đến sau cùng và Phúc âm không đề cập đến. Cố nhiên tôi cũng đã chuẩn bị một lễ vật dâng lên hài Nhi, nhưng vì lơ đễnh tôi đã để rơi rớt.
Ngày tôi phát hiện vì sao lạ, tôi đã mở kho tàng mình và lấy ra ba viên ngọc quí nhất để làm của lễ tiến dâng. Tôi đã chậm trễ dọc đường nên không tới kịp như ba vị trước.
Trên đường đi, tôi đã gặp một cụ già hấp hối, đói rét và bệnh tật nhưng không có ai chăm sóc. Tôi đã yếu lòng nên lấy ra một viên ngọc để nhờ người chăm sóc cụ già ấy. Đó là lý do đầu tiên làm tôi chậm bước. Ngày hôm sau, tôi lên đường một mình. Khi qua một khu rừng thưa, tôi nghe có tiếng thét thất thanh, tôi đã dừng lạc đà rồi tò mò chạy đến. Tôi thấy có mấy tên côn đồ muốn hành hung một phụ nữ. Tôi không đủ sức đánh chúng, nên đành phải rút viên ngọc thứ hai mà mua lấy tự do cho người bất hạnh kia. Thế là tôi chỉ còn một viên ngọc cuối cùng. Tôi quyết sẽ không phung phí vì bất cứ một lý do gì nữa. Nhưng rồi tôi lại không giữ được lời tôi nguyện.
Khi đến gần Bêlem, bỗng thấy lửa rực trời. Những người lính của Hêrôđê đang giết những trẻ em. Gần một ngôi nhà bốc lửa, một tên lính nắm xốc ngược một hài nhi định lấy gươm mà đâm thâu, và dưới chân là người mẹ quì khóc gào không ra tiếng… Tôi bỗng quên lời hứa với chính mình và đem viên ngọc thứ ba trao cho tên lính để nó trả đứa bé lại cho người mẹ khốn cùng. Thế là hết, tôi chẳng còn gì nữa. Tôi đã đi bao nhiêu đêm ngày đến đây mong triều bái vị vua mới sinh, thế mà tôi lại đến với hai bàn tay trắng. Dù sao thì tôi cũng phải đến để xin lỗi Ngài.
Tôi cúi mặt bước vào hang đá. Tôi nghẹn ngào khi thấy vàng ròng, nhũ hương và mộc dược của những người đi trước tôi. Tôi không còn lòng dạ nào nói lên lời xin lỗi. Tôi quì xuống cạnh máng cỏ, úp mặt vào lòng bàn tay, mặc cho dòng nuớc mắt tuôn trào.
Nhưng kìa, sao nước mắt tôi hôm nay ấm thế?… Không, không phải là nước mắt, nhưng là đôi tay ấm áp của Chúa Hài Nhi đang nắm lấy tay tôi. Chúa Hài Nhi không lộ vẻ trách móc, nhưng nhìn tôi âu yếm, trên môi nở một nụ cười. Và tôi cảm thấy tràn đầy bình an. Tôi chợt hiểu rằng, tôi là người duy nhất lãnh nhận tất cả nơi Hài Nhi, bởi vì tôi chẳng có gì để tiến dâng cả. Tôi hiểu rằng nếu tôi đến bên hài nhi với ngọc ngà châu báu thì có thể tôi đã trở về không, bởi vì lòng tôi đầy ắp tự mãn nên không còn chỗ để chứa chất bình an của Ngài. Nhưng tôi đã đến bên hài nhi với đôi bàn tay trắng, và cõi lòng trống không, vì thế tôi đã nhận được bình an tràn đầy.
Vì thế mà hôm nay tôi bắt buộc phải nói lên một lời cảm tạ. Tôi muốn nói với các bạn rằng nếu bạn còn một của cải vật chất hay tinh thần nào đó mà bạn dành cho Hài Nhi, thì hãy phân phát cho người khác; các bạn hãy đến bên Hài Nhi như tôi, đến với sự khó nghèo trong lòng và với hai bày tay trắng, thì rồi các bạn sẽ nhận được tất cả.
Trần Duy Nhiên – Trích Chia Sẻ Giáng Sinh
From: suyniemhangngay1-& Anh chị Thụ Mai gởi