Ta được dựng nên là để hưởng hạnh phúc, có thật vậy không?

Ta được dựng nên là để hưởng hạnh phúc, có thật vậy không?

Dongten.net

generic-happiness

Ai cũng bảo rằng ta được sinh ra là để hưởng hạnh phúc. Ai cũng nói là có một điều tuyệt vời đang đợi ta đưa đến chỗ thành toàn. Nhưng thực tại cuộc sống mà ta đang trải nghiệm đây, dường như khiến ta không thật đồng tình với những ý kiến ấy. Hạnh phúc ư? Ta đang đói, nhìn đứa con thơ đang vật vã chiến đấu với căn bệnh hiểm nghèo, hết người thân này đến người thân nọ lần lượt lìa bỏ ta, tình yêu ta đang hy vọng không được sinh hoa kết trái, người ta tin tưởng phản bội ta… Bấy nhiêu sự ấy đang cùng một lúc đè nặng trên đôi vai như muốn kéo ghì ta xuống. Đấy gọi là hạnh phúc sao? Quá khứ của ta là những chuỗi ngày tối đen. Hiện tại của ta bị bủa vây bởi trăm ngày cay đắng. Tương lai của ta cũng chẳng có một lối ra. Một khối khổng lồ chằng chịt những rắc rối đang hăm hở chực chờ nuốt chửng ta. Ta dường như thấy sợ cuộc đời này hơn là yêu mến nó. Ta thấy thật khó để mong chờ một điều gì đó tốt đẹp sẽ đến bên đời mình. Sống trên đời này là để hưởng hạnh phúc sao? Có thật như thế không?

Câu trả lời sẽ tùy thuộc vào việc ta hiểu thế nào là hạnh phúc. Nếu nghĩ hạnh phúc được kết dệt khi mọi ý muốn của mình được nên trọn, thì chắc là sẽ chẳng bao giờ ta có được nó khi còn sống trên trái đất này. Cuộc sống này phũ phàng lắm! Nó chẳng bao giờ chìu chuộng ai đến cùng. Có đôi khi ước mơ của ta được nó thỏa đáp, nhưng cũng có khi nó chẳng đoái hoài gì đến nguyện vọng của ta, bất chấp nguyện vọng ấy có chính đáng và tốt đẹp thế nào đi nữa. Chuyện trái ý là chuyện xảy ra như cơm bữa, mà dù ta có gào thét hay than trách bằng hết sự căm hờn của ta, nó vẫn cứ đến và bắt ta phải đón nhận. Ai mà chẳng thích mình giàu, ai lại không mong mình khỏe… nhưng cuộc sống cứ thích để mình nghèo xơ xác, cứ muốn mình phải mang bệnh tật liên miên. Ta làm gì được nó? Khi đã yêu, ai lại không muốn cùng người mình yêu dệt nên tơ vàng lấp lánh, cùng nhau xây đắp tổ uyên ương. Nhưng cuộc sống lại không cho phép chúng ta thành đôi, nó khiến chúng ta phải chia lìa ngăn cách. Ta có thể làm được điều gì hơn không?

Thực ra, phần lớn những bất hạnh mà chúng ta có xuất phát từ lỗi của chính chúng ta. Ta buồn vì mình không có kết quả tốt trong những kỳ thi. Đó là vì ta không chịu học hành cho nghiêm túc. Ta lo lắng vì mình dần dần mất đi những tương quan, ấy là vì ta đã không biết trân trọng, nâng niu và gìn giữ những tương quan ấy. Ta thất vọng vì chẳng ai để ý đến ta, chẳng ai dành cho ta những tình cảm ngọt ngào, ấy là vì ta đã có lúc không đối xử tốt với họ, hay trong lòng ta còn mang những cao ngạo, muốn những người khác phải phục tùng mình. Ta sợ khi nghĩ về tương lai, có lẽ bởi vì trong quá khứ, ta đã làm một chuyện sai trái nào đó mà đến bây giờ ta vẫn chưa thể giải quyết xong hậu quả nó gây ra. Nếu lòng ta không nuôi hận thù, thì chẳng có gì làm ta bất an. Nếu lòng ta luôn sáng trong, không cầu, không đòi hỏi, thì sự gì xảy đến cũng chẳng thể làm ta chán chường. Nếu ta biết hành xử sao cho phải phép, biết đưa ra những chọn lựa đúng đắn, biết quyết tâm vượt qua những cám dỗ hấp dẫn gọi mời, biết rèn luyện ý chí và con tim cho vững chãi, thì lòng ta lúc nào hạnh phúc và bình an.

Có nhiều người thích đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nhưng nếu hoàn cảnh có thể chi phối mọi sự thì tại sao lại có người trở nên vĩ đại dù sống trong nghèo khổ và vất vả trăm bề, và những người khác thì luôn gặp phải thất bại ê chề dù sống trong cung vàng điện ngọc? Kỳ thực, hoàn cảnh chẳng có lỗi gì cả. Điều quan trọng không phải là chuyện gì xảy đến với ta, nhưng là, ta sử dụng những gì đang xảy đến với ta như thế nào cho có lợi ích. Hoàn cảnh tốt tạo điều kiện tốt cho ta. Hoàn cảnh xấu giúp tôi luyện và thanh lọc ý chí của ta. Đã sống trên đời, ta cần phải có một lòng tin. Sở dĩ ta phải tin, là vì có nhiều chuyện xảy ra mà ta không thể nào hiểu được. Ta tin vào một điều gì đó tốt đẹp nằm đằng sau lớp mây mù này, nhưng hơn hết, ta tin vào một Ai Đó đủ sức giúp ta vượt qua. Đấng ấy là chỗ dựa của ta, là nền đá vững chắc để ta bám vào, không sợ ngã. Lòng tin cũng mang đến cho ta một niềm hy vọng. Hy vọng là phóng tầm nhìn về phía tương lai, một tương lai tươi sáng như ánh mặt trời bừng dậy sau những cơn mưa dài. Hy vọng là mở ra cho mình những hướng đi tích cực, là tự nói với mình rằng: nếu ta cứ theo chính lộ mà đi, thì chắc chắn sẽ đến được nơi yên bình, hạnh phúc. Tin và hy vọng mở lối cho ta tìm đến tình yêu, căn cội sâu thẳm nhất mà Tạo Hóa đặt để nơi mình. Đây cũng chính là bí quyết của hạnh phúc: con tim mình, khối óc mình, trọn vẹn con người mình mở ra với trời đất, với tự nhiên, với muôn loài bằng một tình yêu rực cháy. Tình yêu này sẽ băng qua những rào cản trên đường đời, hệt như cánh hoa sen vươn mình giữa bùn đen để tỏa hương thơm ngát.

Sống trên trần gian là thực hiện một cuộc hành trình. Một hạnh phúc chung cuộc đang đợi ta tìm đến nằm ở điểm cuối của cuộc hành trình này. Đó là điều chắc chắn! Nhưng chúng ta không cần phải đợi đến cuối hành trình ấy mới nếm được mùi vị hạnh phúc tuyệt hảo mà Tạo Hóa dành cho chúng ta. Đâu đó, trên chuyến hành hương tại thế này, ta vẫn có thể cảm nghiệm được chút hương hoa của nó. Đó là khi ta đừng cố tìm thỏa mãn cho mọi ước vọng của mình. Đừng lấy đó là tiêu chí cho hạnh phúc của ta, nhưng hãy bước đi trên đường ngay nẻo chính và sẵn lòng đón nhận hết mọi điều xảy đến với mình với một lòng tin, niềm hy vọng và tình yêu mạnh mẽ. Hạnh phúc sẽ đâm rễ ngay chính trong lòng mình và một nguồn bình an đích thực sẽ vươn dậy nở hoa. Đây là kiểu hạnh phúc và bình an mà Đấng Phục Sinh đã ban cho các môn đệ của Ngài. Nó sâu sắc và có tính nội tâm, chứ không hời hợt và phô diễn bên ngoài như bao người lầm tưởng. Nếu ta biết gắn kết với Nguồn Hạnh Phúc, thì chắc chắn ta sẽ có hạnh phúc!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Viện Khổng tử TQ khai trương ở Việt Nam

Viện Khổng tử TQ khai trương ở Việt Nam

Khai trương Viện Khổng tử ở Việt Nam

Ông Du Chính Thanh (hai, trái sang) tại lễ khai trương Viện Khổng tử tại Hà Nội hôm 27/12/2014.

Viện Khổng tử của Trung Quốc vừa được khai trương tại Đại học Hà Nội nhân chuyến thăm Việt Nam ba ngày của Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Chính hiệp TQ, ông Du Chính Thanh.

Học viện Khổng tử được thành lập ở nhiều quốc gia trên thế giới và là tổ chức được nhà nước Trung Quốc trực tiếp đầu tư kinh phí hàng năm cho từng viện.

Tờ tin mạng của Tân Hoa Xã, Xinhuanet.com bản tiếng Anh, hôm thứ Bảy cho hay Học viện Khổng tử đã được chính thức khai trương tại Hà Nội với sự tham dự của ông Du, quan chức hàng thứ tư trong Bộ Chính trị Trung Quốc, và ông Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

“Trong thời gian ở Việt Nam, ông Du đã viếng lăng cố Chủ tịch Việt Nam ông Hồ Chí Minh và chứng kiến khai trương Viện Khổng tử ở Đại học Hà Nội,” Tân Hoa Xã nói.

Hôm Chủ nhật, trang tin Vnexpress.net cũng đưa tin hai ông Du Chính Thanh và Nguyễn Thiện Nhân đã ‘dự lễ gắn biển’ và dẫn lời Hiệu trưởng Đại học Hà Nội, ông Nguyễn Đình Luận nói:

“Việc thành lập Học viện Khổng Tử sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu, giảng dạy tiếng Trung Quốc, góp phần củng cố và phát triển quan hệ Việt – Trung,” tờ báo điện tử của Việt Nam cho hay.

’65 năm quan hệ’

Ông Du quyết tâm thực hiện các nỗ lực chung với Việt Nam nhằm đánh dấu 65 năm quan hệ ngoại giao song phương vào năm tới, nhằm đặt một nền tảng vững chắc cho phát triển các mối quan hệ trong tương laiTờ Xinhuanet của Tân Hoa Xã

Hôm thứ Bảy, tờ báo điện tử của Tân Hoa xã dẫn lời ông Du Chính Thanh nói về quan hệ giữa Trung Quốc với Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh ‘quan hệ hợp tác’ vẫn là xu hướng ‘chính’ trong quan hệ của hai nước láng giềng từ 65 năm qua.

“Hợp tác hữu nghị vẫn là chính yếu trong quan hệ Trung – Việt kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao 65 năm qua…

“Các trao đổi cấp cao giữa hai đảng đã đóng vai trò không thể thay thế trong việc phát triển các mối quan hệ song phương.”

Tân Hoa Xã cho hay ông Du Chính Thanh bày tỏ quyết tâm phối hợp với Việt Nam nhân sự kiện sáu thập niên quan hệ.

“Ông Du quyết tâm thực hiện các nỗ lực chung với Việt Nam nhằm đánh dấu 65 năm quan hệ ngoại giao song phương vào năm tới, nhằm đặt một nền tảng vững chắc cho phát triển các mối quan hệ trong tương lai.”

Trong chuyến thăm Việt Nam kéo dài ba ngày, từ 25 tới 27/12/2014, Ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc đã có các cuộc làm việc với các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam gồm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, thường trực Bộ Chính trị Lê Hồng Anh và Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Nguyễn Thiện Nhân.

Lễ Thánh Gia: tôn vinh đời sống gia đình

Lễ Thánh Gia: tôn vinh đời sống gia đình

Chuacuuthe.com

VRNs (28.12.2014) -Sài Gòn-  Tin Mừng trong lễ Thánh Gia hôm nay được trích từ Tin Mừng theo thánh Luca 2, 22-40

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

“Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: “Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!”

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Thánh Gia nhằm tôn vinh đời sống hôn nhân gia đình Ki-tô giáo. Hôn nhân Ki-tô giáo vượt lên trên một tập tục, nghi lễ, văn hóa truyền thống xã hội vì đó là một quà tặng của Thiên Chúa ban cho nhân loại. Chính Thiên Chúa muốn con người sống đời hôn nhân và Chúa chúc phúc cho việc này. Tuy nhiên, ít nhiều vẻ đẹp của đời sống hôn nhân Ki-tô giáo ngày nay đã bị phai mờ do ảnh hưởng từ xã hội tục hóa.

1.Ảnh hưởng của chủ nghĩa thế tục

Gia đình Ki-tô giáo ngày nay đang phải đối đầu với những thách đố của chủ nghĩa tục hóa. Chủ nghĩa này đánh giá nhân vị con người trên những gì họ sở hữu. Đồng thời ảnh hưởng bởi nền kinh tế loại trừ dẫn đến việc đề cao tiền bạc và xem nó là thước đo giá trị sự thành công trong xã hội. Một gia đình nghèo bị xem là thất bại, thiếu hạnh phúc; ngược lại một gia đình giàu có được coi là hạnh phúc, thành công. “Một túp lều tranh hai trái tim vàng” chỉ còn trong hoài niệm của thời quá khư xa xưa, tách rời đời sống thực. Khi chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, người nam và người nữ cũng đánh giá sự thành công của người bạn mình dựa trên tiêu chuẩn kinh tế tài chánh. Thánh lễ Thánh Gia hôm nay nhằm tôn vinh một gia đình thánh lại cho chúng ta nhìn thấy hình ảnh của một gia đình nghèo: Gia đình của Giuse – Maria- Giêsu.

Theo  tập tục của người Do Thái buộc mọi phụ nữ sau khi sinh con 40 ngày phải “đem đến trước cửa Trướng Tao Phùng dâng một con chiên 1 tuổi để cho vị tư tế làm lễ Thượng tiến và một bồ câu non hay chim gáy để làm lễ Tạ tội” (x. Lv 12,6). Nếu gia đình nào nghèo quá  “không mua được 1 con chiên thì sẽ lấy 2 chim gáy hay 2 bồ câu non” (x. Lv 12,8). Trường hợp này rơi vào gia đình nghèo Thánh Gia mà ta nghe thánh sử Luca tường thuật lại trong Tin Mừng (2,24). Gia đình Thánh chỉ có thể thượng tiến một đôi chim bồ câu non mà thôi!

Chúng ta đọc ra được điều gì nơi cái nghèo của gia đình này? Nghèo nhưng không hèn! Thánh Giuse là một anh thợ chăm chỉ làm việc để nuôi sống gia đình mình. Nghề thợ mộc thời bấy giờ là nghề của mọi thứ lao động chân tay. Ai thuê gì, anh Giuse làm đó miễn sao công việc lương thiện và kiếm sống qua ngày. Maria cũng vậy, một phụ nữ nội trợ đảm đang. Mọi thành viên đều chăm chỉ làm việc và luôn hành động theo ý Chúa qua việc tuân giữ lề luật. Nghèo nhưng tràn đầy niềm vui! Gia đình nghèo này luôn tràn đầy niềm vui. Niềm vui của những người có Chúa. Niềm vui này không ai có thể cướp mất được. Dù trong mọi gian lao vất vả, gia đình Thánh luôn có Chúa ở cùng. Vất vả khi phải sinh con nơi hang bò lừa. Vất vả khi nửa đêm mang con trốn sang đất Ai Cập. Vất vả khi lao đao tìm con lạc mất giữa đền thờ. Nhưng không bao giờ gia đình đánh mất niềm vui vì luôn có Chúa.

2.Ảnh hưởng của nền văn hóa loại trừ

Do đề cao giá trị kinh tế và đồng tiền nên kéo theo một tế phũ phàng của nền văn hóa loại trừ trong xã hội. Ngày nay mọi thứ đều theo luật cạnh tranh và sinh tồn, ở đó những kẻ quyền lực chèn ép những người yếu. Hậu quả là vô số những người bị loại trừ và bị gạt ra bên lề: không việc làm, không phương tiện hoặc không có bất kỳ lối thoát nào. Con người bị coi như một món hàng tiêu thụ sử dụng xong thì vứt bỏ. Nền văn hóa loại trừ như thế ảnh hưởng nghiêm trọng đến mối tương quan trong đời sống gia đình. Những người già bị coi như là thành phần “ăn bám”, sẽ bị loại trừ. Áp lực của đời sống kinh tế khiến nhiều gia đình không muốn có thêm con. Thậm chí mạng sống của các thai nhi bị tước đoạt, loại trừ luôn mần sống nếu chúng ảnh hưởng đến đời sống kinh tế và sự nghiệp của cha mẹ.

Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy hai khuôn mặt già nua là ông Simêon và bà Anan. Tin Mừng kể lại rằng: Ông Simêon là người công chính và sùng đạo. Bà Anna không rời bỏ đền thờ, những ăn chay và cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Việc tôn vinh 2 khuôn mặt gia nua có ý nghĩa gì trong ngày lễ Thánh Gia hôm nay?

Có thể nói gia đình Ki-tô giáo đang đứng trước cơn khủng hoảng về đời sống đức tin vì ảnh hưởng của nền văn hóa loại trừ. Chính những người già trong gia đình là những người bảo tồn và truyền thụ đức tin cho con cái. Như đời sống công chính và sùng đạo nơi ông Simêon; đời sống ăn chay, cầu nguyện nơi bà Anna, người già sẽ giúp cho con cháu bước theo nẻo chính đường ngay của Thiên Chúa. Làm sao có thể có đức tin nếu như không có người truyền thụ? Bằng đời sống sùng đào, người già sẽ giữ vững đức tin cho con cháu giữa cơn khủng hoảng này. Một gia đình bị suy yếu đức tin sớm muộn gì cũng đưa đến gãy đổ.

Đứng trước những thách đố ấy, lễ Thánh Gia mời gọi mọi gia đình Ki-tô giáo thể hiện vẻ đẹp của đời sống gia đình trong xã hội ngày nay. Thể hiện vẻ đẹp gia đình qua đời sống chung thủy để chống lại khuynh hướng coi hôn nhân như hình thức thỏa mãn tình cảm đơn thuần và có thể thay đổi tùy ý; thể hiện vẻ đẹp hôn nhân qua việc đón nhận con cái Chúa ban như là những quà tặng cao quý của sự sống; trân trọng và chăm sóc người già như di sản của đức tin và được thụ hưởng đức tin từ những chứng nhân sống động ấy; đón nhận và thăng hoa đời sống nghèo trong gia đình bằng việc tuân giữ và thi hành thánh ý Chúa. Sống được tất cả điều này chính là chúng ta tôn vinh ngày lễ Thánh Gia hôm nay.

Lm. Giuse Trương Hoàng Vũ, DCCT

Điều gì xác định một gia đình?

Điều gì xác định một gia đình?

TRẦM THIÊN THU

VRNs (28.12.2014) – Sài Gòn – Khi nghĩ về gia đình, bạn nghĩ tới ai? Điều tốt đẹp về gia đình là đa dạng, nhiều kích cỡ, nhiều kiểu. Gia đình “pha trộn” nhiều người với tính cách khác nhau nhưng luôn quan tâm lẫn nhau. Điều đó không xác định bằng máu huyết mà là một nhóm người tạo nên sự khác biệt trong cuộc sống và tiếp tục hướng dẫn nhau.

Bộ phim Annie, được khởi chiếu ngày 19-12-2014, có biết tại sao máu huyết không xác định một gia đình. Annie nói: “Chúng ta có gia đình ở một nơi nào đó”. Sống theo cách nói đó sẽ giúp chúng ta đánh giá gia đình mình và những điều tốt lành mà chúng ta có.

KÍCH CỠ

Một số gia đình nhỏ, một số gia đình vừa, và một số gia đình lớn, nhưng dù gia đình có kích cỡ nào thì vẫn luôn đầy ắp tình yêu thương. Một gia đình không thể định lượng vì tình yêu được cá nhân hóa bởi mỗi thành viên. Người ta tạo một gia đình không bởi số người.

MÀU DA

Gia đình pha trộn, chứ màu da không là yếu tố. Nếu có một người quan tâm bạn và người đó là một phần trong cuộc đời bạn, màu da của họ chỉ biểu hiện cá nhân họ dù họ có thể hoặc không thể là một phần trong gia đình bạn. Gia đình tràn đầy tình yêu và tình yêu không phân biệt màu da.

HUYẾT THỐNG

Huyết thống không xác định một gia đình. Trong cuộc sống, bạn thấy rằng những người thân có liên quan huyết thống, nhưng điều đó không nhất thiết và không hoàn hảo, vấn đề quan trọng là cả gia đình sum vầy bên nhau vào cuối ngày. Khi trưởng thành, chúng ta tìm một người bạn đời cùng chia sẻ cuộc sống, và rồi chúng ta còn có những nối kết với con cái, bạn bè, thú cưng,… Chúng ta tạo mối quan hệ “máu” và chu kỳ cứ tiếp diễn khi chúng ta già, con cháu lại tiếp tục hành trình của chúng.

HỆ LỤY

Trong hành trình cuộc sống, bạn sẽ gặp những người mà bạn có quan hệ, và các mối quan hệ đó giúp bạn xác định cuộc sống. Chúng ta gọi họ là bạn bè, nhưng sự thật là những người đó gần gũi chúng ta hơn anh chị em trong gia đình. Những người bạn này là những người mà chúng ta có thể chia sẻ nỗi buồn và có thể khóc trước mặt họ, hoặc có thể chia sẻ niềm vui với họ. Các hệ lụy khó tả này chính là gia đình đấy!

Chúa Giêsu xác định: “Phần anh em, đừng để ai gọi mình là ráp-bi [thầy], vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23:8). Nếu là hung đệ thì chúng ta phải làm gì? Thánh Phaolô cho biết: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2:5).

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo Beliefnet.com)

Kẻ gây thương tích cho Giáo hoàng John Paul trở lại Vatican

Kẻ gây thương tích cho Giáo hoàng John Paul trở lại Vatican

Cố giáo hoàng người Ba Lan qua đời năm 2005.

Cố giáo hoàng người Ba Lan qua đời năm 2005.

28.12.2014

Tay súng Thổ Nhĩ Kỳ từng mưu sát bất thành Giáo hoàng John Paul năm 1981, hôm nay, 27/12, đã quay trở lại Vatican để đặt hoa hồng trắng lên mộ ông. Cố giáo hoàng người Ba Lan qua đời năm 2005.

Một phát ngôn viên của Vatican cho biết chuyến thăm mộ của Mehmet Ali Agca diễn ra ngắn ngủi. Agca đã đứng im lặng trước khi đặt hai bó hoa hồng trắng lên một cố giáo hoàng từng tha thứ cho kẻ tấn công mình.

Giáo hoàng John Paul tới thăm kẻ tấn công mình tại một nhà tù Italia ba năm sau vụ nổ súng, và sau đó đã can thiệp để cho hắn ta được tự do năm 2000.

Agca sau đó đã bị dẫn độ sang Thổ Nhĩ Kỳ, và tại đây, tay súng này đã bị kết án vì sát hại một nhà báo Thổ Nhĩ Kỳ.  Agca hoàn thành việc thụ án 10 năm tù giam năm 2010.

Vụ tấn công vào Giáo hoàng John Paul đã để lại nhiều câu hỏi về những kẻ đồng lõa với Agca.

Thoạt đầu tay súng này nói rằng ông ta hành động một mình, nhưng sau đó lại tìm cách liên kết Bulgaria và Liên bang Xô Viết với âm mưu này.

Hồi năm 2006, một ủy ban nghị viện của Italia kết luận rằng “không còn bất kỳ nghi ngờ gì” là Liên bang Xô Viết chịu trách nhiệm gây ra vụ tấn công. Tuy nhiên, giả thuyết này chưa khi nào được chứng minh.

Ủy ban này cho rằng khối Xô Viết coi Giáo hoàng John Paul là mối nguy hiểm vì ông ủng hộ phong trào lao động Đoàn kết tại nơi ông sinh ra là Ba Lan.

Huế: Bỏ tiền tỷ xây ‘nhà dịch vụ’ rồi đập bỏ

Huế: Bỏ tiền tỷ xây ‘nhà dịch vụ’ rồi đập bỏ

Nguoi-viet.com
HUẾ (NV) –  “Lại quả” từ việc xây cầu chưa đủ, Ban Đầu Tư và Xây Dựng Giao Thông Thừa Thiên-Huế tiếp tục xây nhà dịch vụ để rút tiếp số tiền thừa. Tuy nhiên, nhà dịch vụ này vừa xây xong đã đập bỏ.

Ngôi nhà dịch vụ đã xây dựng sắp xong phải tháo dỡ. (Hình: Tuổi Trẻ)

Tờ Tuổi Trẻ cho biết, Ban Đầu Tư và Xây Dựng Giao Thông Thừa Thiên-Huế vừa tháo dỡ một phần ngôi nhà hai khối tại công viên phía nam cầu Dã Viên, thành phố Huế. Ngôi nhà này ở ngay sát ngã ba sông Hương và sông An Cựu, xây sắp xong phải tháo dỡ vì choán tầm nhìn, làm ảnh hưởng cảnh quan sông Hương.

Sau khi làm xong cầu Dã Viên còn thừa một khoản vốn, tỉnh Thừa Thiên-Huế đã đồng ý giao Sở Giao thông tiếp tục đầu tư hạng mục hoàn trả mặt bằng bờ sông Hương ven đường Bùi Thị Xuân ở phía nam cầu Dã Viên.

Khu đất này nằm ngay ngã ba sông Hương và sông An Cựu rộng 23,548m2, được Sở Giao Thông Vận Tải Giao Ban Đầu Tư và Xây Dựng Giao Thông lập dự án thành một điểm xanh có bố trí một số kiến trúc có thể khai thác dịch vụ.

Đến cuối năm 2013, trong số các hạng mục được xây, kiến trúc chính là ngôi nhà dịch vụ đúc hai khối, mái ngói rộng 165m2 đang trong giai đoạn hoàn thành thì nhận được rất nhiều phản ứng của các sở ngành.

Một số giám đốc sở và lãnh đạo thành phố Huế cho rằng tòa nhà quá xấu, choán tầm nhìn ra sông Hương và phá vỡ cảnh quan khu vực này. Tháng 11, 2013, tỉnh Thừa Thiên-Huế có văn bản đề nghị dừng thi công công trình, đề nghị Sở Giao Thông Vận Tải phối hợp với các ban ngành khác kiểm tra, nghiên cứu lại phương án kiến trúc phù hợp với vị trí vốn rất nhạy cảm về mặt cảnh quan đô thị để trình tỉnh xem xét.

Sau khi đưa ra nhiều phương án đều bị bác, Sở Giao Thông Vận Tải tiếp tục đề xuất theo hướng đập bỏ phần mái khối nhà sau của khu dịch vụ để biến thành mái bằng. Khối nhà trước cũng đập bỏ mái… Phương án này được lãnh đạo tỉnh chấp thuận và đang thực hiện.

Nhiều cán bộ và người dân đặt vấn đề số tiền đầu tư cho hai khối nhà này lên đến vài tỷ đồng, nay phải phá bỏ một phần gây lãng phí như vậy ai sẽ chịu trách nhiệm? (Tr.N)

Thắp lại bình nhang

Thắp lại bình nhang

Ngô Nhân Dụng

Hình minh họa: Giang Du Ðông

Chúng ta đang nhận được nhiều lời chúc bình an, hạnh phúc vào dịp Lễ Giáng Sinh. Dù người bên lương hay bên giáo, ai cũng có thể chia sẻ những giờ phút bình an khi nghe câu hát “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời” đang vang vang chung quanh mình nhắc nhở sự tích Chúa xuống làm người.

Chúng tôi muốn gửi đến quý vị độc giả những lời chúc lành bằng một câu chuyện, hy vọng sẽ chia sẻ một niềm vui trong mùa của hy vọng. Chuyện này lấy từ tiểu thuyết Ác Mộng của Ngô Ngọc Bội, xuất bản trước đây chừng một phần tư thế kỷ.

Một nhân vật của Ngô Ngọc Bội trong tiểu thuyết Ác Mộng là Lê Đôn. Ông thầy giáo yêu nước đã tham gia kháng chiến chống Pháp, đã lập công, nhưng đến thời “cải cách ruộng đất” thì bị truy là địa chủ. Vợ ông phải đấu tố chồng. Học trò ông đứng ra tố cáo thầy. Hai đứa con 11 tuổi và 16 tuổi bỏ trốn lên miền núi, sống nhờ người Mán.

Nhà thầy giáo Lê Đôn đã bị đám cốt cán chiếm, họ chia nhau các món đồ đạc, hành động được các cố vấn Trung Quốc dạy là “chia quả thực.” Họ gỡ cả cánh cửa, cả bàn thờ đem bán. Có cái “bát nhang” cổ là của gia bảo, được tổ tiên truyền lại từ năm sáu trăm năm, các bần cố nông cũng đem đổi lấy gạo chia nhau. Mấy năm sau, Đảng Cộng Sản “sửa sai,” ông Lê Đôn được “đổi nhãn hiệu;” từ “địa chủ cường hào ác bá” đổi thành “địa chủ kháng chiến.” Khi nhà được trả lại, tất cả đã tan hoang. Con rể ông, từng là một cán bộ cải cách ruộng đất, đi lên miền núi tìm em vợ. Hai cậu con trai không nhận gia đình nữa, bỏ hết cả họ hàng, nhất định không về. “Bố mẹ chết rồi. Anh em ly tán. Máu mủ họ hàng chẳng biết thương nhau… Cái đất nước này chỉ cần ba lần làm, ba lần sửa sai như thế thôi, nó sẽ trở thành một vùng hoang mạc.”

Trong chương cuối cuốn Ác Mộng, gia đình thầy giáo Lê Đôn đã xin được phép cải táng mộ. Hai xương cánh tay của ông bị trói bằng dây dù gỡ mãi không ra. Anh con rể ghé răng cắn, dây không đứt. “Khốn nạn quá, chả nhẽ lại không tháo dây trói cho thầy!” Ngô Ngọc Bội kể, “Đã có nơi người ta lấy đoạn dây thép [trói địa chủ trước khi hạ sát] đem về thờ; [chính quyền] địa phương phải cho người lẩn vào nhà ăn cắp để thủ tiêu… Có anh cán bộ đã nhặt ba cái đầu đạn [bắn chết cha mẹ mình] cất đi. Chi bộ phải dỗ mãi anh mới đem ra trả, rồi mang vứt xuống sông.”

Sau lễ cải táng thầy giáo Lê Đôn, buổi chiều gia đình đang ngồi ăn cơm thì có một ông khách lạ lớn tuổi không biết từ đâu tới thản nhiên bước vào nhà. Ông mở cái túi sách, lấy ra một bát nhang, đặt lên bàn thờ.

“Tôi người xã bên, quen thân với ông Lê Đôn từ nhỏ. Có người bên làng ta đem bán cho tôi cái bát hương này. Chẳng đáng bao nhiêu đâu, chỉ hai đấu gạo thôi. Tôi là người Công Giáo, bên chúng tôi không thờ bát hương. Nhưng biết gia đình ông Lê Đôn, [biết cái bát hương này là] của gia bảo, nên tôi đã trả hai đấu gạo [mua] và giữ lại. Hôm nay gia đình làm việc ‘thay nhà’ cho ông Lê Đôn,” ông nghẹn ngào bật khóc. “Tôi trả lại cho gia đình để thờ phụng tổ tiên, ‘uống nước nhớ nguồn!’ Thứ này nếu tôi tham lam đem bán cũng có thể kiếm cho cháu chiếc xe đạp sang. Nhưng tôi là người ‘có đạo’ không bao giờ làm thế… Ở vùng ta những người như ông Lê Đôn rất hiếm hoi… Tôi xin phép cắm một tuần nhang… tưởng niệm ông…”

Nhưng giữa cơn ác mộng mênh mang, oán mờ trời đất, Ngô Ngọc Bội đã kết thúc với một niềm hy vọng. Chúng ta biết người Việt là một dân tộc “có đạo,” dù theo đạo Phật, đạo Chúa hay đạo Khổng, đạo Lão. Đảng Cộng Sản đã tàn phá, hủy hoại những nền móng đạo lý, nhưng không giết được tính thiện trong con người. Không giết được trí nhớ tập thể của dân tộc, trong đó người ta đều biết ăn ở với nhau có nghĩa, có tình. Nền đạo lý cổ truyền như những đóm lửa vẫn cháy leo lét suốt những đêm dài, chỉ chờ ngày cùng bùng lên soi sáng tương lai. Mọi người sẽ thắp lại bình nhang trên bàn thờ, xin nhận lỗi với tổ tiên, xin hứa chính mình sẽ giữ gìn đạo lý cho con cháu bắt chước, theo nền nếp cha ông. Cái đất nước này sẽ không trở thành một vùng hoang mạc. Ngày hồi sinh sắp tới. Trong mùa Lễ Giáng Sinh năm nay chúng ta hãy cùng thắp lại bình nhang trong lòng mình, chia sẻ với nhau niềm tin tưởng ngày phục sinh sắp tới.

Ngô Nhân Dụng

Bỗng đêm nay trước cửa, bóng trăng quì

“Bỗng đêm nay trước cửa, bóng trăng quì”

Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu,
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu,
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ.
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 2: 1-2

Trăng chỉ quì, khi nhà thơ sấp mặt. Sấp mặt, để uốn mình theo dáng liễu dâng lời nguyện. Trăng còn quì, khi Chúa tỏ lộ với người người, ngày Hiển Linh.

Trình thuật Hiển Linh hôm nay, diễn lại tình Chúa khắp đất trời, miền Israel. Hiển Linh, bên tiếng Hy lạp có nghĩa một “bày tỏ”/”biểu hiện”. Và, Hội thánh nay mừng lễ Chúa Tỏ Hiện chính mình Ngài, đã hàm ngụ ý nghĩa một biểu hiện, như tiếng Hy Lạp.

Lần đầu Chúa Hiển hiện là ngày 25 tháng Chạp. Ngày ấy, Chúa hiện hình qua Hài nhi nhỏ bé, chẳng giúp gì. Ngài được mọi người coi như trẻ bé không nhà. Nghèo hèn. Và, kém cỏi. Ngồi quanh bên Ngài, là các trẻ nghèo hèn bị bỏ rơi. Là, mục đồng thấp bé của xã hội nghèo túng. Điều này, rất ăn khớp với chủ đề được nói đến trong Tin Mừng thánh Luca.

Hiển Linh hôm nay, cũng mang dáng dấp một tình huống tương tự. Nhưng ở đây, Hiển Linh là ngày lễ hoàn toàn khác. Khác ở chỗ, lễ hội này lại dành để cho người xa lạ, ở ngoài. Các vị ở ngoài, vẫn đến thần phục một trẻ bé, theo cung cách đối với vị vua quan. Điều này, còn xứng hợp với chủ đề mà thánh Matthêu đưa ra:“Hãy đi, mà tuyển chọn môn đồ mọi dân nước.”

Tỏ mình lần thứ ba, là dịp Đức Chúa chấp nhận để thánh Gio-an thanh tẩy. Khi ấy, Đức Chúa trưởng thành, Ngài cùng đứng bên sông với những người tỏ ra biết sám hối. Và đó là lúc, có tiếng từ trời cao xác định Ngài là Con Thiên Chúa. “Đây! Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài.” (Mt 3: 17)

Tỏ mình lần thứ tư, Đức Chúa tỏ rõ nơi Tin Mừng thánh Gio-an. Tỏ hiện này, là Chúa tỏ mình ở tiệc cưới. Ngài tỏ mình, là để mọi người biết về Vương Quốc của tình yêu. Của, sự công chính và an bình.

Vương Quốc của Ngài, nay tỏ hiện nơi Đức Giê-su Kitô. “Nước” ở đây, một biểu tượng cho Giao Ước cũ, nay biến thành “rượu”. Đấy, chính là Giao Ước Mới đã ký kết, có dấu ấn đóng trên thập tự, ở Calvari. Đức Mẹ, đại diện cho Hội thánh Chúa, nay được công nhận là Đấng Cầu Bàu, đã dùng uy tín của Mẹ Thiên Chúa để khiến Con của Mẹ, làm theo. Đây, “dấu chỉ” đầu trong 7 dấu ấn, qua đó Chúa biểu hiện rõ căn tính của Ngài, nơi Tin Mừng.

Hiển Linh hôm nay, có người hẳn sẽ thắc mắc: về câu truyện các “đạo sĩ” không chắc đã thực sự xảy ra theo đúng sử sách. Hay, chỉ là một truyện như mọi truyện kể, cũng không chừng. Trước nhất, phải công nhận đây chính là một truyện kể. Là trình thuật, gồm các sự kiện thật khó đoán trước. Khó đoán, như việc dự báo thời tiết về đêm, có lúc xuống đến 10 độ. Cũng rất khó, như việc dự đoán mực nước mưa dâng tràn, đến 10 milimét.

Truyện kể ở đây, lại là truyện Kinh Sách. Cốt đặt nặng về ý nghĩa. Như khi nghe đọc Phúc Âm, đôi khi ta cũng thắc mắc, hỏi rằng: “Truyện kể ấy, có nghĩa là gì?” “Truyện kể ấy, đem đến cho ta những gì đây?” Bởi lẽ, sự thật vẫn nằm ở ý nghĩa, chứ không ở sự việc có đích thực xảy ra, hay không.

Thật ra, trong truyện kể như thế, sự kiện tỏ bày hiện hữu cũng chỉ vu vơ, rất lờ mờ. Không đủ dữ kiện cho báo đài/truyền hình, làm bản tin. Bởi, báo đài/truyền thông bình thường chỉ lưu tâm đến những gì, khả dĩ có thể trả lời câu: Ai vậy? Đó là chuyện gì? Tại sao thế? Ở đâu? Khi nào? Ý nghĩa làm sao? Trong truyện kể tương tự, thật khó trả lời các câu hỏi như thế.

Về các đạo sĩ, mà người Hy Lạp có thói quen gọi là “magoi” (tức đạo sĩ/thân hào nhân sĩ) là các bè/nhóm hoặc các học giả kinh điển, chuyên lo giải mã chiêm bao, cùng giấc mộng. Ngày hôm nay, ta vẫn gọi các chiêm tinh gia/nhà ảo thuật thuộc tầm cỡ như phái Zoroastri, thời buổi trước. Truyền thống Giáo Hội gọi là Ba Vua (như: 3 vua ở Phương Đông), cũng là do ảnh hưởng từ Thánh Vịnh 72, câu 10: “Cả các vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đến tiến dâng lễ vật.” hoặc từ sách Isaya đoạn 49, câu 7 có nói: ”Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy”, hoặc câu 10 đoạn 60: “Vua chúa của chúng sẽ góp phần.”

Thật sự, khó mà biết được con số các vị này gồm bao nhiêu người. Nhưng, truyền thống Giáo Hội vẫn định ra, chỉ có 3 vị. Vì tất cả, có những 3 loại quà được dâng tiến. Và, tên các vị này được đặt theo ý nghĩa của từ ngữ, như: Caspar, đại diện cho dân da màu. Tức: thế giới ở bên ngoài Do Thái, nay đến với Chúa.

Như ta vẫn biết, “họ đến “từ cõi trời Đông”. Gia dĩ, có thể từ Ba Tư, miền Đông Xy-ri-a hoặc từ Ả Rập đến. Nghĩa là, những vùng sâu vùng xa. Xa và sâu, nơi chân trời ấy. Thần học gia Aloysius Pieris cho rằng: điều này mang ý nghĩa rất đáng kể với dân Á Châu. Bởi, các “thân hào nhân sĩ” đến từ vùng châu Á, chứ không là chiêm tinh gia địa phương, theo ánh sao lạ, mà tìm đến.

Dõi theo ánh sao, không rõ thời ấy có xảy ra hiện tượng sao chổi nào không? Hoặc, có sự nối kết hành tinh nào, khiến các vị ngạc nhiên, đi tìm kiếm? Dù sao, khó tưởng tượng nổi chuyện “dõi ánh sao” cả trăm dặm, để rồi cuối cùng, thấy sao vẫn lủng lẳng, trên đầu mình. Tìm cho được sự thật, thì cũng là chuyện vô bổ, mất thì giờ. Bởi, sao đây chính là Đức Giê-su. Là, Ánh Sáng soi dẫn muôn dân.

Thành thử, không nên tìm tòi lý lẽ đưa dẫn đến sự kiện. Cho bằng, hãy chú tâm đến bối cảnh và ý nghĩa nói đến trong Tin Mừng. Theo đó thì Thiên Chúa, bằng vào bản thể Đức Giê-su, là Đấng đến với thế giới nhân trần. Không như, các lãnh tụ tôn giáo, những thượng tế với kinh sư, dù biết chắc Đức Mê-sia hạ sinh cách nào, vẫn không hề bỏ công tìm kiếm.

Như Bét-lê-hem, đất miền mộc mạc chỉ cách Giê-ru-sa-lem không bao xa, thế mà Hêrôđê vẫn muốn gặp. Gặp Chúa, cốt để tẩy xoá/trừ khử mối đe doạ thay thế chỗ, của mình. Trong khi đó, khách lạ đường xa, lại cất công ra đi ngàn dặm tìm kiếm “Vua Do Thái”, để triều bái. Dâng phẩm vật.

Ngoài việc triều bái, các vị này còn dâng tiến những là: vàng, nhũ hương, và mộc thảo đầy thuốc quý. Quà tặng các vị dâng cho Chúa, vẫn là điều được gợi hứng từ lời sấm của tiên tri Isaya, ở bài đọc 1:”Họ mang theo vàng với trầm hương” (Is 60: 6). Với truyền thống Giáo hội, sau này thì: vàng tượng trưng cho Vương quyền của Chúa.Nhũ hương, biểu hiện thiên tính của Ngài. Và, mộc dược là sự thống khổ và nỗi chết Ngài gánh chịu, để cứu rỗi.

Nói chung, Lễ Hiển Linh cho ta biết một điều, là: Chúa không coi ai là khách lạ, người ngoài cả. Trái lại, tất cả đều trở thành con cái dấu yêu, của Chúa. Dù ngoại hình của ta có khác nhiều, ta vẫn cùng chung gia đình. Gia đình, có Người Cha Đáng kính, mà ta được phép gọi: “Lạy Cha của chúng con”. Điều này còn có nghĩa: ta là người anh người chị, của nhau. Là gia đình, vẫn không có chỗ cho những kỳ thị về bất cứ thứ gì. Dù, đó có là sắc tộc, chủng loại, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp… Không có chỗ, cho những khác biệt về vị thế, mức độ.

Hiển Linh hôm nay, dù có mang tính mông lung/mơ hồ của một truyện kể, nhưng thông điệp ấy vẫn rõ mồn một. Rõ như ban ngày. Cảm tạ Chúa. Hôm nay, không có ai là “dân riêng được chọn”. Dù, có là người Do Thái. Dù là Kitô-hữu. Công giáo hay dân đứng ở ngoài. Hãy cứ tìm hiểu về đặc tính gần gũi/cận kề, với Đức Chúa. Đó, cũng là lý do để ta tìm cách mà gần gũi/cận kề, bên nhau. Gần gũi/cận kề, là không đứng ở ngoài làm khách lạ người dưng.

Nhưng, tất cả đều được mời. Dù, người được mời có là Mẹ của Đức Chúa. Dù, ta giàu có hay vẫn nghèo hèn. Dù, ta được trọng đãi hoặc vẫn bị bỏ rơi, đơn lẻ. Dù, người được mời có mạnh khoẻ. Hay, vẫn ốm yếu, tật nguyền. Là, thánh nhân hay vẫn chỉ là tội phạm, ta vẫn là con của Đức Chúa.

Chỉ là dân ngoại/khách lạ người dưng, khi đã lầm lỡ. Và làm cho ai đó trở thành người sống ngoài rìa, ngoài cộng đoàn. Ngoài tình thân. Nghĩa là, ta vẫn chối từ tặng ban đặc sủng thương yêu tôn kính. Tặng ban cách đồng đều cho hết mọi người. Cho cả dân ngoại. Nếu ta vẫn cứ làm cho người ngoài cứ thế ở ngoài rià, tức là: ta đã tiếp tay với nhóm Pharisêu ngạo nghễ, với đám thượng tế rất kiêu sa. Mù quáng. Cố chấp.

Về lại với chính mình, ta hãy tự hỏi: mình thuộc về sao nào? Chúa gọi mình ra sao? Cách nào? Ngài muốn ta tìm đến gặp Ngài nơi ai, để có thể phục vụ và theo chân Ngài? Nơi người vẫn có cỗ cao mâm đầy, ư? Hay nơi kẻ nghèo hèn? Có phải ta vẫn cản ngăn người khác tìm kiếm “ánh sao”, cho chính họ?

Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay, dĩ nhiên có những điều ta khó mà đổi thay. Khó mà, quyết định ai sai – ai đúng. Nhưng vẫn không trễ, để ta có thể dõi mắt tìm kiếm “ánh sao”, cho đời mình. Tìm kiếm, để dõi bước chân mềm mà đi theo. Ngay ở đây. Bây giờ.

Khi xưa, đạo sĩ đã cất bước ra đi. Ra đi, các vị đi mãi tận đất miền Bét-lê-hem, mới gặp Chúa. Chẳng vị nào tiếc công hoặc tiếc của. Ra đi, các vị đã làm gương để ta cũng ra đi với lòng quả cảm và tin yêu, mà dõi bước. Dõi bước, nhưng không luyến tiếc, hối hận. Dõi bước ra đi, để sẽ không ân hận là mình đã khởi sự, từ hôm nay.

Trong tinh thần cương quyết ấy, ta cứ hát lên lời ca phấn chấn thúc đẩy:

“Người đi trên dương gian

Thở hơi gió từ ngàn năm

Gió lung lay Hoành Sơn

Gió dâng cao Biển Đông

Người đi trong thanh xuân

Sưởi hương nắng như lửa sống

Máu sôi như sắc trời

Bước nhanh vượt chân đời.”

(Phạm Duy – Lữ Hành)

Đi, trên dương gian. Đi, trong thanh xuân. Đi, để thấy “trước cửa bóng trăng quỳ”. Trăng quỳ, như người quỳ. Quỳ và lạy Đấng Hài Nhi, nay đến cứu độ nhân gian chốn phàm trần. Còn lỗi phạm.

Lm Frank Doyle sj –

Mai Tá Lược dịch

“Một người ngồi bên kia sông”,

“Một người ngồi bên kia sông”,
“im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây
trông hoa trôi theo nước chảy phương nào.”

(Phạm Duy – Hẹn Hò)

(Titô 2: 1-8)

Hát chữ “Hẹn hò” theo kiểu nhạc sĩ Phạm Duy, lại là và vẫn là hát những lời ca và ý nhạc rất nổi cộm. Hát thế rồi, mà lại cộng thêm tiếng “mưa rơi” ướt át, như để kể lể đôi điều ở bên dưới:

“Trời thì mưa rơi,

mưa rơi không ngưng suối tuôn niềm đau.

Người thì hẹn nhau sang song,

mong cho chóng tạnh mùa Ngâu.

Cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau

cách một biển sâu.

Hẹn hò tàn thu sang xuân bên nhau

biết thuở ban đầu.

Dù tình không nguôi,

đôi ta xin cho hứa vui về sau.

Trời còn làm cho mưa rơi mưa rơi

cách biệt dài lâu…(Phạm Duy – bđd)

Hát chữ “cuộc đời làm cho đôi bên yêu nhau” theo kiểu “mưa Ngâu” còn là hát và nói lời yêu đương, giận hờn, như truyện kể khác có ngay bên dưới:

“Giật mình thức giấc. Cảm thấy khát khô ở cổ, tôi lồm cồm ngồi dậy mở tủ lạnh nốc một hơi. Nước lạnh làm tôi tỉnh người. Nhìn đồng hồ đã hơn bốn giờ sáng. Tôi đến bên máy vi-tính bật máy lên. Mở chương-trình Nhật Ký định nhập vào những việc mình đã làm hoặc những suy-nghĩ về một ngày đã qua. Nhưng chương-trình lại bật lên thông-báo nhấp nháy màu đỏ chói: “Tuần sau là đến ngày đầu tiên quen Lan”. Tôi chỉnh chương-trình để xem lại cái ngày đầu-tiên đó và mỉm cười khi thấy lúc đó mình trẻ con hết sức. Tôi quyết-định sẽ lục tung hết Internet để tìm ra một cái thiệp độc-chiêu gửi nàng. Cuối cùng tôi cũng mãn-nguyện với một cái thiệp nhiều ý-nghĩa. Tôi kéo ngăn tủ ra để lấy cái đĩa CD hình mình để ghép vào thiệp, nhưng chợt nhìn thấy trong đó có một gói quà xinh xắn. Biết là của Lan tôi hồi-hộp mở gói quà. Bên trên là một tấm thiệp to, còn bên dưới là một chiếc đồng hồ để bàn rất dễ thương và một cái nút áo. Hơi ngạc nhiên khi nhìn cái nút áo, tôi vội mở thiệp ra xem.

“Anh thân mến !

Thế là chúng mình quen nhau đã ba năm rồi. Trong ba năm qua em rất vui vì đã quen được anh. Em đã học được rất nhiều điều từ anh. Anh là người rất giỏi, làm được rất nhiều việc lại sống rất tốt với mọi người. Anh sống hết sức chan-hoà không câu nệ giàu nghèo, chức vị. Anh hết lòng với mọi người và được rất nhiều anh em bè bạn mến-yêu, kính-nể. Tối nay, cũng như bao ngày em đến nhà anh, đã chín giờ tối mà anh vẫn chưa về. Khi đến nhà anh, em nhìn thấy mẹ đang khâu lại chiếc áo bị bỏng thuốc lá của anh. Nhìn mẹ chợt em nhớ đến anh, rồi nhớ đến những gì em đã thấy ở nhà anh. Em xin phép được tặng cho anh cái đồng hồ với lời nhắn : “Thời gian luôn trôi đi lạnh lùng. Có những thứ ngày mai làm được, nhưng có những thứ ngày mai không thể nào làm được” và một cái nút áo với lời nhắn chân tình: “Đôi khi người ta biết được rất nhiều điều nhưng lại không biết một điều đơn giản, là áo mình đang mặc có bao nhiêu cái nút!. Anh đã sống vì mọi người nhưng trong mọi người lại thiếu một người quan trọng nhất. Anh hãy xem tờ giấy bên dưới. Chúc Anh luôn vui vẻ và thành đạt”.

Tôi cầm đồng hồ và cái nút lên, bên dưới có một tờ giấy xếp làm tư nằm ngay ngắn, tôi mở ra xem và thấy ngẩn ngơ với những dòng chữ dưới đây: Em thấy anh rủ bạn về nhà cùng vui vẻ, làm xả láng mấy thùng bia, anh em bàn tán chuyện đời, chuyện cơ-quan, chuyện nhà xếp, chuyện quan-trường, đủ thứ chuyện nhậu hoài bàn không hết. Em thấy mẹ anh cặm cụi dọn dẹp lại thức ăn dư, lom khom nhặt từng vỏ lon xếp lại, sáng mai ra chợ đổi lấy chục chanh pha nước, cho thằng con tỉnh rượu mỗi khi say. Em thấy anh sáng ra sạp gom gần hết báo, đọc ngấu-nghiến từng bài từng mục. Ngẫm chuyện đời, chuyện quan-liêu, chuyện cửa quyền, chuyện Mỹ, chuyện Iran, chuyện Sadam, chuyện SEA Games… Em thấy mẹ cẩn-thận sắp từng tờ báo, lựa riêng ra những phần quảng cáo rồi ngập-ngừng hỏi cái này cân ký bán được hông con? Em thấy anh chơi hết lòng với bạn, chẳng bỏ về dù là tăng bốn hay tăng ba… Em thấy mẹ cứ trằn-trọc ra vô mãi, đã gần hai giờ rồi mà phòng nó vắng tanh. Không biết có chuyện gì không hay? Em thấy anh sau một ngày làm mệt mỏi, về nhà bật máy lạnh, bật quạt, ngã lưng nằm thẳng chân, chẳng muộn phiền. Em thấy mẹ ra hiên nằm những ngày trời nóng, rồi lẩm bẩm xem điện tháng này có quá định-mức chưa. Em thấy anh ghiền chơi máy điện-toán, đồ điện-tử, cứ hì hục nâng-cấp CPU lên năm lên sáu lần… Em thấy mẹ rất ghiền xem cải lương, cứ chậm nước mắt, cứ cười vui thoải mái khi xem hoài cái tivi cà giật, cái Tivi từ lúc anh còn tắm mưa ngoài đường.  Em thấy anh là chuyên-viên vi-tính, viết phần mềm để quản-lý công-ty, làm network viễn-liên để đấu mạng cho các hãng thầu khét tiếng, xem công nợ, lãi lỗ, bấm một phát là có ngay. Thế mà chẳng thể nào tính đúng được tình-thương của người mẹ. Em thấy mẹ chẳng cần vi-tính, vẫn âm thầm lập-trình cá, cơm, rau, nước. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh! Em thấy anh làm chuyện lớn mà quên đi những chuyện nhỏ xung quanh. Em thấy mẹ suốt đời vụn vặt mà dạy con mình những bài học lớn lao…

Có bao giờ các bạn nghĩ rằng mình đã thật sự quan-tâm đến ai đó chưa?

Có bao giờ các bạn đã quan-tâm đến những chuyện dù chỉ là nhỏ nhặt?

Có bao giờ các bạn tự đặt mình vào hoàn-cảnh của người khác?

Hy-vọng qua câu chuyện này tôi và các bạn có thể tìm lại được những bài học về sự quan-tâm mà các bạn đã lỡ đánh mất. Hãy dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho những người mẹ, người cha, những người luôn ở bên các bạn, luôn hướng sự quan-tâm về phía các bạn mà không cần đòi hỏi điều đó từ các bạn!

Mẹ – là dòng suối ngọt ngào, là nải chuối buồng cau, là tiếng hát đêm thâu…

Một tình-yêu không biên-giới và không đòi-hỏi người trả ơn.

Thọ (Trích truyện do bạn bè gửi vào ngày 28/11/2014)

Có thể là, cuộc đời người gồm những điều được nói và hát suốt nhiều thế-kỷ. Hát và nói, còn để tỏ tình cho nhau, bằng những lời như sau:

“Nước vẫn trôi mau,
mắt vẫn hoen sầu.
Đành để hồn theo nước trôi không màu.
Số kiếp hay sao
không cho bắc cầu
thì xin sông nước sẽ cho gần nhau?
Một người bèn ra ven sông.
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi về đâu
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau”.

(Phạm Duy – bđd)

Hát hò, thì như thế. Chuyện trò, lại không vậy. Không như vậy, cả đến những lời chuyện trò ở nhà Đạo, có đấng bậc ở trên cao tít lại đã từng phán những ý-tứ và ý-từ mạnh bạo, khác thường, như bao giờ. Và, ý-từ cùng ý-tứ của lời phán bảo ở dưới đây cũng nên coi như lời phán bảo vào ngày hôm nay tuy có mạnh và có bạo như thời trước hay không, vẫn là điều để bạn và tôi nhận xét. Nhưng trước hết, ta cứ nghe ý-kiến của ngài xem sao đã. Những ý-tưởng vẫn bào rằng:

“Rõ ràng là, khi đáp-trả những lời bình-phẩm về việc tuyển-dụng và ban giáo-huấn cho một số phong-trào giáo-dân người Công-giáo, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có nói rằng: các phong-trào như thế là để tôn-trọng sự tự-do của các thành-viên trẻ tuổi và để ta không còn khai-thác điểm yếu của họ về kinh-nghiệm trong trưởng-thành.

Đức Giáo-hoàng cũng kêu gọi các phong-trào này hãy tránh rơi vào tình-trạng ganh-đua, đối-đầu và đâm lưng nhau, nhưng ngược lại hãy hợp-tác cho lợi-ích chung cũng như tôn-trọng thẩm-quyền của các giám-mục cai-quản giáo-phận.

Đức Phanixô đã đưa ra lời kêu gọi này vào ngày 22/11/2014 nhân có buổi gặp gỡ giữa các thành viên Quốc hội của các nước thuộc Thế giới Thứ Ba có các Phong trào và Đoàn-thể mới trong Giáo-hội như thế.

Đức Giáo Hoàng nói: “Là người chịu trách-nhiệm về các khó-khăn trong gia-đình cũng như về thể-chế giáo-dục trên thế-giới, ta đều biết: giới trẻ hôm nay đang “trải-nghiệm khó khăn về căn-tính, nên thấy khó lòng khi buộc phải chọn lựa điều gì. Kết cuộc là, họ cứ để cho mọi sự định đoạt đời họ và để mất đi sự tự-chủ khi buộc phải có quyết-định quan-trọng cho đời mình. Vì thế nên, ta cần phải chống lại mọi chước cám-dỗ cứ làm muốn ta tước-đoạt sự tự-do của người khác, và buộc họ theo ý mình mà không cho phép họ có cơ-hội được trưởng-thành, hoặc lớn mạnh. Mọi tiến-triển về luân-lý cũng như linh-đạo vẫn kiểm-soát và khuynh-loát tính thiếu trưởng-thành của người trẻ và mọi thành công nơi họ chỉ có tính bề ngoài dễ đưa đến thất-bại.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nhấn mạnh sự kiện là: các phong-trảo này khác cũng nên hợp-tác với nhau và với các đấng chủ-quản Giáo-hội ở địa-phương mình. Ngài tiếp lời căn dặn: “Giả như thế giới này đầy tràn những rẽ chia, kình chống và đâu nhau sau lưng, không cần biết nguyên do tại đâu, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể rao giảng Tin Mừng cho họ được?”Các phong-trào và ban/ngành cộng-đoàn được kêu mời hợp tác nỗ-lực để lo cho những người tật nguyền tâm thần trên thế-giới chỉ muốn đặt nặng chuyện tiêu-pha hưởng-thụ quên cả Chúa Mẹ cùng các giá-trị thiết-yếu cho cuộc sống.”

Đức Giáo Hoàng còn thêm: “Sự hiệp-thông đích-thật không thể tồn tại trong phong-trào này khác hoặc trong cộng-đoàn được, trừ phi họ biết hội-nhập vào với cộng-đồng rộng lớn là mẹ thánh Giáo hội có hệ-cấp trên dưới, rõ ràng.“ (xem Francis Rocca, trong bài viết có tựa đề là  Francis cautions new movements, trên báo The Catholic Weekly, 30/11/2014 tr. 5)

Xem thế thì, chân-lý mọi thời vẫn là: ta hãy hiệp-thông tương-quan với nhau trong cộng-đồng rộng lớn tức Giáo hội. Có tương-quan hiệp-thông như thế, mới thấy rằng: mình và mọi người vẫn là Thân Mình của Đức Kitô, thôi.

Về hiệp-thông tương-quan, bần đạo đây cũng đã trải-nghiệm một tình-huống khá mới mẻ, là: vừa qua bần đạo có anh bạn mới quen ở Sydney, tên anh là Nguyễn Văn Tạ từng là cựu tu-sinh Dòng thánh Vinh Sơn Đệ Phaolô và là cựu học-viên Giáo-Hoàng Học-viện ở Đà-Lạt trước 75. Anh đọc bài phiếm nọ có trích-dẫn câu nói của Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng tuyên bố: Đức Giêsu không phải là người Công giáo…

Để hỗ-trợ cho lời vàng-ngọc của vị chủ chăn toàn-thể Giáo-hội Công-giáo, anh đẽ chìa cho bần đạo thấy cuống “The Catholic Church của Lm Hans Kũng, trong đó có chương/đoạn bắt đầu bằng câu hỏi: “Đức Giêsu khi xưa có là người Công-giáo?” Và, tác-giả đã từng viết:

“Nhiều người Công-giáo lại vẫn có lập-trường phù-hợp với truyền-thống chuyên giữ “ lề phải”, lại cứ hiểu ngầm Ngài là như thế! Giáo-hội Công-giáo lâu nay vẫn luôn đặt nền tảng trên những gì mà ngay nay, nhiều người vẫn suy như thế; và Giáo-hội Công-giáo lâu này vẫn cứ bảo và có khuynh-hướng cho rằng: trên nguyên-tắc, Đức Giêsu thật ra cũng phải như thế mới được.

Thế nhưng, phải chăng Giáo hội đây lại đã thành-công rực rỡ và vững-mạnh hơn các Giáo-hội khác cũng có lý để dựa dẫm vào Đức Giêsu Kitô, chứ? Hoặc giả, chính Giáo hội đầy phẩm-trật này cũng tự-hào dựa vào ai đó là người có thể quay ngược trở lại sự việc này? Theo kinh nghiệm, ta có thể nào tưởng-tượng ra rằng Đức GIêsu thành Nazarét có mặt ở thánh lễ do Đức Giáo Hoàng chủ-trì tại Quảng Trường thánh Phêrô, ở Rôma chứ? Và, hoặc giả, những người có mặt ở nơi đó dám sử-dụng ngôn-từ của nhà văn người Nga là Dostoevsky khi viết cuốn Quan-toà Dị-giáo, có nói: “Sao ngài lại đến quấy rầy bọn tôi thế?”

Ở trường-hợp nào đi nữa, mọi người cũng đừng quên rằng: mọi nguồn cung-cấp thông-tin và tường-trình đều phải thuần-nhất. Bởi, ngang qua Lời và Hành-xử của Ngài, Đức Giêsu là người Nazarét đã dính-dự vào cuộc xung-đột nguy-hiểm với quyền-bính nắm giữ trật-tự vào thời Ngài. Xung-đột không phải với dân-chúng mà là với giới-chức có thẩm-quyền về Đạo, với hệ-cấp quản-trị đã trao-nộp Ngài cho nhà cầm-quyền thực-dân người La Mã và như thế dẫn đưa Ngài vào chỗ chết…

Chính Đức GIêsu là Đấng từng “toả sáng” tinh-thần và đường-lối sống của Ngài theo nghĩa tốt-đẹp nhất của ngôn-từ. Điều nay ăn khớp với “chúng-dân” (tiếng Hy-Lạp gọi là “demos)” của những người từng được tư-do (chứ không là thể-chế gò bó, chế-ngự, dù ta có gọi đó là Toà Dị-giáo hay gì đi nữa; và trên nguyên-tắc vẫn phải đồng đều về quyền-hành (chứ không là Giáo-hội mang đặc-trưng/đặc-thù của giai-cấp , chủng-tộc hoặc vai-vế) của những người anh và người chị (chứ không phải đoàn-lũ nam-nhân chỉ muốn tôn-sùng có một người. Đây là Kitô-hữu tiên-khởi có tự-do, công bằng/đồng đều và bằng-hữu, chứ không phải là cộng-đoàn tiên-khởi ngay lúc đó đã có cơ cấu phẩm-trật gồm các tông-đồ làm trụ-cột và có thánh Phêrô là đá tảng của ai đó, chứ?” (xem Hans Kũng, The Beginning of the Catholic Church, Phoenix Press London 2002, tr. 15-16)

Có tự-hào để bảo: Đức Giêsu là Công Giáo chứ Ngài không thuộc Do-thái-giáo hoặc Tin Lành/Thệ Phản chăng, cũng chỉ để đưa dẫn Ngài vào với phe/phái của mình ở đâu đó, mà thôi. Nào có gì chắc chắn để chứng-minh rằng: khi xưa Ngài cũng thực-thi các điều-luật của Đạo mình.

Nói thế, là để hỏi rằng: Chúa và tôi có cùng một lối sống, cùng một đường-hướng tư-duy, sinh-hoạt phụng-vụ hoặc lễ-lạy giống như người nhà Đạo, rất hôm nay?

Nói như thế, là để bảo: người thời nay có chăng lập-trường sống những bon chen, nổ dòn lộp độp nhiều diễn-xuất?

Nói đến thế, là cốt để tôi và bạn ta cùng nhau kiểm-điểm xem lâu nay mình quan-niệm thế nào về niềm tin, thương yêu và hy vọng, là cốt cán của mọi ràng buộc trong Đạo, mà thôi.

Nói những thế, còn muốn nói nhiều về tư-thế cũng như quyết-tâm của mỗi người và mọi người trong tin-yêu.

Nói thế nào đi nữa, cũng cứ thử nghe người đời không nói nhiều, nhưng lại cứ hát, nhưng ca-từ cũng đầy ý-tứ và ý-từ như sau: 

“Một người bèn ra ven sông.
buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu
trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau
êm êm trôi theo nước xuôi về đâu
Hẹn hò gặp nhau thiên thu cho phong phú đời người sau”.

(Phạm Duy – bđd)

Hát như thế, là người đời những muốn kể về tâm-trạng của chính mình, khi đã có những “hẹn hò” có tâm-tư và tâm-tình của người ở đời rất chóng chán. Chán rất nhiều, khi đã hẹn hò là thế, mà sao người cùng hẹn lại cứ thờ ơ, ơ hờ nhiều năm tháng!

Hát đến như vậy, còn để bảo cho nhau và với nhau rằng: đời người vẫn có những tháng ngày khiến con người quên cả lời hẹn hò, nhiều khúc mắc. Khúc mắc như nhiều chuyện từng xảy đến với muôn người, ở đới.

Nói cho cùng, có là Công Giáo, Chính Thống hoặc Tin Lành/Thệ Phản đi nữa, cũng nên nghe đấng thánh hiền lành từng nhắc nhở rằng:

“Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh.2

Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực,

vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại.3

Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh,

không nói xấu,

không rượu chè say sưa,

nhưng biết dạy bảo điều lành.

Như vậy, họ sẽ dạy cho người vợ trẻ biết yêu chồng, thương con,5

biết sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng,

để lời Thiên Chúa khỏi bị người ta xúc phạm.

(Titô 2: 1-8)

Nói cho cùng, dù bạn/dù tôi, ta có theo giáo-phái nào đi nữa, thì cuối cùng cũng đều qui về một mối, một lònglà: niềm tin vào Đức Kitô là Đấng Cứu-Chuộc mọi người, không chỉ mỗi Công-giáo mà thôi.

Nói cho cùng, có tự-hào là người Đạo nào đi nữa, cũng hãy tự-hào rằng: lâu nay mình vẫn hằng phổ-biến triết-thuyết của Tin Mừng luôn bảo rằng: Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu. Và, một khi ta đã trở nên một với Ngài rồi, thì không có lý gì để ta hay ai đó lại cứ tự cho chỉ một mình mới có chính-nghĩa khi tin tưởng vào Thiên-Chúc và thánh hội của Ngài.

Nói cho cùng, là nói và hỏi rằng: thánh Hội của Chúa có chủ-trương và có quyết-tâm thực-hiện chủ trương ấy trong yêu thương giùm giúp hết mọi người hay không? Hoặc, vẫn cứ như người khi xưa được Ngài gọi là nhóm hội vẫn tự cao, tự đại cho rằng: nhóm của mình/đạo mình mới nắm vững, thực-hiện luật lệ, rất chính-qui?

Nói cho cùng, còn là nói ít, nhưng làm nhiều. Làm như Tin Mừng dạy, nhưng lặng-thinh, im ắng, rất ẩn-dật.

Nói cho cùng, còn nói bằng truyện kể rất nhè nhẹ để minh-hoạ cho những gì mình từng có kinh-nghiệm để đời về cuộc sống ở đời.

“Truyện rằng:

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa của thành phố New York để trở về nhà.

Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ, theo truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đang đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để truyện trò với nhau.

Wendy hiểu được “tiếng nói” ra dấu bằng tay, vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật, nên cô đã học được cách ra dấu tay, để trò truyện với những người câm điếc.

Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã khá thông thạo “tiếng nói” này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm xe, Wendy đã “nghe lóm” được câu chuyện của hai người.  Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì “trả lời” là anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực này, nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái.  Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay, để “nói” trong câu chuyện của họ.

Khi xe lửa đến trạm, thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ e-mail cho nhau.  Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò truyện dùng tin nhắn của điện thoại cầm tay, rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau.

Chàng trai tên là Jack và cô gái tên là Debbie.  Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập cảng, và ở cách nhà Wendy không xa. Từ những tin nhắn điện thoại, e-mail thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chỗ trở thành bạn thân lúc nào không hay.  Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong công viên, nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ ngơi.

Tuy phải ra dấu để trò truyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện, mà cô lại có dịp trau dồi “tiếng nói bằng tay”, để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn. Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu “I Love You”, thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.

Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào “phòng trò truyện” (chatroom) đấu láo với bạn bè. Mỗi khi Wendy đặt câu hỏi, “Bạn có thể có tình yêu với một người câm điếc hay không?”, thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát.  Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.

Vào dịp lễ Tạ Ơn năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu, “Wendy có chịu làm bạn gái của mình không?” Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc, nhưng tiếp theo đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân.

Quả nhiên, cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái “lầm đường lạc lối” trở về.  Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ cô vận động tới để thuyết phục cô. Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack. Cô cho mọi người biết là thái độ lạc quan cùng đầu óc thực tế và tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi anh hơn là với những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.

Gia đình sau khi nghe cô giải bày đã không còn quá khắt khe phê bình nữa.  Mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người. Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12, sau khi mọi người đã hưởng được một đêm Giáng sinh bình yên cho tâm tư lắng đọng.   Wendy đã có quyết định trong đầu là nếu như cha mẹ và anh chị của cô có những cử chỉ cùng hành động khinh miệt Jack, thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để xin ơn và sự chúc lành của Thiên Chúa.

Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack.  Chàng mỉm cười ra dấu cho nàng:

– Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.

Đó là lần đầu tiên trong đời, cô sinh viên Trường Dược rơi những giọt lệ cảm động.  Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ.  Nàng nói:

– Thưa ba mẹ, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc đến.

Câu nói của nàng vừa thốt ra, thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất.  Chàng nhào tới ôm nàng trong vòng tay khỏe mạnh của chàng.Một điều mà Wendy không thể ngờ được, là nàng bỗng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ miệng của Jack:

-Trời đất, em biết nói à?

Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.

Mọi người ngoài cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên, trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm, thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến, mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt, vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.

Và người kể truyện, lại cũng tóm kết ý-nghĩa của truyện kể bằng những lời như sau: “Thượng Đế của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm qua…Dành cho những ai yêu, nhưng chưa dám thổ lộ cùng người mình yêu.”

Có trích-dẫn và/hoặc giải-thích lời trích và dẫn của mình thế nào đi nữa, cuối cùng cũng chỉ để tóm gọn mỗi điều này: Hãy cứ chứng-tỏ tình-thương mình có với người khác đi đã, từ đó người kia/người nọ sẽ biết mình là ai, và Thày mình là Đấng nào.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những nhận-định

Cùng cương-quyết hiếm có

Suốt đời mình,

giống ở trên.

ƠN CHỮA LÀNH DO MẸ MARIA CHUYỂN CẦU

ƠN CHỮA LÀNH DO MẸ MARIA CHUYỂN CẦU

Trích EPHATA 634

Con là Anna Kiều Thị Phước Hậu, chồng con là Giuse Nguyễn Văn Tiến, xin được kể về ân phúc Mẹ Maria đã cứu sống con gái của chúng con là bé Maria Goretti Nguyễn Kiều Tú Anh.

Bé Tú Anh sinh ngày 6.7.2007. Khi bé vừa tròn 13 tháng, qua siêu âm tại nhiều bệnh viện lớn của Sàigòn, các bác sĩ cho vợ chồng chúng con biết bé bị ung thư thận. Tháng 8 năm 2008, bé phải vào Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Ban đầu bác sĩ chẩn đoán sẽ mổ bóc khối u nằm trên thận, nhưng đến khi mổ thì, vì không thể bóc được, bác sĩ phẫu thuật đành phải cắt bỏ luôn quả thận bên trái. Vợ chồng con rất xót xa đau khổ thay cho con mình, chỉ còn biết đến với Chúa cầu nguyện trong phó thác.

Thế rồi thật bất ngờ, chúng con biết được trong khuôn viên Bệnh Viện Nhi Đồng 2, trước đây là Bệnh Viện Grall của quân đội Pháp, sau được đổi tên là Bệnh Viện Đồn Đất, vẫn còn giữ được một tượng đài kính Đức Mẹ ngay bên cạnh ngôi Nhà Nguyện mấy chục năm nay sau biến cố 1975, đã bị chính quyền bắt đóng cửa, không còn có Linh Mục đến dâng Thánh Lễ cho các bệnh nhân và người chăm sóc như trước đây. Vậy là vợ chồng chúng con đã tìm đến với Mẹ Maria để cầu khẩn van nài cho cháu bé Tú Anh được ơn Thiên Chúa cứu chữa nguy tử.

Sau hai tuần nằm hồi sức hậu phẫu, bé Tú Anh được chuyển sang Bệnh Viện Ung Bướu để được hóa trị vì khối u của bé được xác định là u ác. Các bác sĩ ung bướu hội chẩn và báo cho biết bưới thận đang phát triển ở giai đoạn I, sẽ phải điều trị trong khoảng 6 tháng. Hết thời hạn hóa trị, các bác sĩ tái khám và khẳng định trên 90% là Tú Anh đã dứt bỏ được căn bệnh ung thư quái ác. Chúng con vui mừng và tạ ơn Chúa và Mẹ đã thương chữa lành cho bé.

Tuy nhiên, đến giữa tháng 3 năm 2009, khi chưa được tròn 2 tuổi, bé Tú Anh được làm các xét nghiệm sau thời gian hóa trị để chuẩn bị khép hồ sơ, cho bé xuất viện, thì không ngờ, các bác sĩ lại phát hiện có một khối u mới mọc ở quả thận bên phải, ngay chỗ vừa mổ, khối u lớn và dạng nước. Thế là bé lại phải chuyển về Bệnh Viện Nhi Đồng 2 để làm phẫu thuật một lần nữa.

Các bác sĩ Nhi Đồng cho biết ca mổ lần này, khối u cần được bóc tách hết sức thận trọng, nếu sơ ý để vỡ thì nguy hiểm vô cùng. Đến lúc này cả đôi bên nội ngoại đều suy sụp tinh thần, không ai nghĩ bé có thể qua khỏi. Riêng vợ chồng chúng con thì khủng hoảng, xót xa thẫn thờ, chẳng còn biết làm gì ngoài việc ngồi khóc lóc bên tượng Mẹ.

Có lúc nhìn thấy bé Tú Anh đau đớn quá, con là mẹ của bé đã xin khấn với Mẹ Maria, nếu được hãy đổi mạng sống của chính con cho bé, cứu thoát bé khỏi nỗi khốn khổ đang phải chịu từng giờ từng phút. Còn cha của bé, hằng ngày anh đi làm, đến chiều lại vào ngay bệnh viện, cứ hai ba ngày lại mua hoa mang đến tượng đài Mẹ rồi đọc kinh cầu nguyện miên man.

Khoảng thời gian bé Tú Anh lên bàn mổ, chúng con lại càng kêu khấn tha thiết. Đến khi bé được chuyển sang phòng Hồi Sức, chúng con được bác sĩ cho biết khi mổ, khối u bị vỡ, bé lại bị thiếu máu trầm trọng, may sao bé đã vượt qua được cơn nguy tử một cách lạ lùng.

Đến ngày 1.6.2009, do khối u lại tái phát, bé Tú Anh được chuyển qua Bệnh Viện Ung Bướu một lần nữa để xạ trị và hóa trị liên tục. Vợ chồng chúng con lại hết lòng phó thác khẩn nguyện xin Mẹ Maria phù hộ, cầu bầu cùng Chúa ơn chữa lành cho đứa con bé bỏng tội nghiệp, chưa tròn hai tuổi mà đã phải trải qua các cuộc đại phẫu và những cơn đau đớn vượt cả sức chịu đựng của người lớn.

Thời gian thử thách cho bé, và cho cả gia đình chúng con kéo dài thêm gần 2 năm nữa cho đến khi hoàn tất phác đồ điều trị 18 tháng. Bé Tú Anh luôn bị thiếu tiểu cầu nghiêm trọng, rụng hết tóc trên đầu, thường xuyên phải chuyển từ bên điều trị sang khoa Cấp Cứu của Bệnh Viện Ung Bướu.

Cuối cùng, ngày 26.4.2011, bé Tú Anh được xuất viện trong thể trạng và tinh thần hoàn toàn bình phục, gây ngỡ ngàng cho bên bệnh viện về sức chịu đựng và khả năng hồi sinh của bé, chỉ riêng gia đình chúng con hiểu được vậy là chính Mẹ Maria, ngang qua sự tận tâm tận lực của các y bác sĩ, đã cứu được đứa con yêu dấu của chúng con khỏi căn bệnh nan y và tử thần quái ác.

Đến hôm nay, khi con viết kể lại những dòng chữ này, bé Maria Goretti Nguyễn Kiều Tú Anh đã được 7 tuổi, đang học lớp Một, khỏe mạnh, thông minh, ngoan ngoãn, ở Nhà Thờ đặc biệt giỏi Giáo Lý, và ở nhà đã biết cách cầu nguyện đơn sơ với Chúa và Đức Mẹ.

Gia đình chúng con xin cúi đầu hết lòng tạ ơn Thiên Chúa, biết ơn Mẹ Maria đã thương chuyển cầu ơn chữa lành cho con của chúng con, cũng là thay đổi hẳn cuộc đời tin và sống đạo của mỗi người trong gia đình chúng con. Amen.

Anna KIỀU THỊ PHƯỚC HẬU, ghi lại, Bình Dương 4.2014
Lm. Giuse LÊ QUANG UY, DCCT, biên tập, Sàigòn 11.2014

HỒNG ÂN SỰ SỐNG

HỒNG ÂN SỰ SỐNG

Trích EPHATA số 634

Vợ chồng con học khóa Giáo Lý Hôn Nhân Agape 25 với cha Quang Uy tại DCCT Sàigòn từ giữa tháng 10 năm 2011. Hôm nay con xin kể lại câu chuyện về ơn lành của Thánh Giêrađô và Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp đã ban cho bé Phương Vy, con gái đầu lòng của chúng con. Trước đó, mấy năm liền hiếm muộn, vợ chồng con đã từng đến DCCT Sàigòn, cầu xin Mẹ Maria và Thánh Giêrađô cho con sớm có em bé, và không lâu sau đó, con được nhậm lời và đã có thai bé Cecilia Cao Nguyễn Phương Vy…

Đến ngày 7.8.2014, tính ra bé đã sinh được 1 tháng 2 ngày. Sáng hôm đó bé sốt cao 38 độ, con ẵm bé đi bác sĩ tư cho uống thuốc nhưng không bớt mà sốt càng cao hơn. Bé rên rỉ mệt mỏi, nên đến khuya, vợ chồng con nóng ruột quá vội đưa bé đi Bệnh Viện Nhi Đồng 2, nhập viện 1g30 khuya. Y tá đo nhiệt 39 độ, đưa viên thuốc nhét hậu môn cho hạ sốt, rồi kêu vợ chồng con ẵm ra ngoài lau nước ấm toàn thân bé. Sau một hồi lâu, bé vẫn không bớt sốt mà lại càng sốt cao thêm, lên đến 39 – 40 độ. Bác sĩ cứ bảo lau nước ấm mà không cho thêm thuốc hạ sốt gì hết.

Đến lúc bé sốt 40 độ thì khắp người nổi bông tím hết, vợ chồng con hoảng quá, chồng con không kềm được nữa, mới la toáng lên với bác sĩ: “Nếu con tôi sốt vậy mà ở nhà lau nước ấm cho hạ sốt thì tôi để ở nhà lau cũng được, chứ ẵm vô đây làm chi cho khổ ?” Lúc đó bác sĩ mới chịu khám bé lại và cho thêm viên thuốc nhét hậu môn. Thế nhưng bé chỉ hạ sốt được nửa tiếng rồi sốt lại ngay. Bác sĩ bảo phải đi xét nghiệm máu, và bé cứ sốt cao như vậy cho đến sáng mà bác sĩ vẫn không can thiệp gì, cũng chẳng đưa ra giải pháp nào hết.

Sáng lại thì có hai bác sĩ khác vào khám cho bé và nói tình trạng của bé nguy hiểm, nên đưa bé vào cấp cứu, đo điện tim và cách ly không cho cha mẹ vào. Nằm cách ly đến trưa thì y tá nói mẹ vào mặc đồ lại cho bé và chuyển qua khoa khác, nhưng vẫn phải nằm cấp cứu, dù lúc này bé giảm sốt còn 38 độ mấy thôi. Bác sĩ kêu con ra nói chuyện: bé sốt cao lắm nên nghi ngờ bé bị viêm màng não và nhiễm trùng máu, cần phải cho bé đi lấy tủy và bắt đầu chích kháng sinh… Đến hết ngày hôm đó bé vẫn chưa hạ sốt.

Sáng hôm sau, bác sĩ khám lại, nói bé không phải bị viêm màng não mà là bị viêm phổi và nghi ngờ bé bị sốt gì đó, con không nhớ rõ tên mà ở Việt Nam chưa có ai bị, chỉ có ở nước ngoài mới bị thôi. Nghe xong, tay chân con bủn rủn, con hoảng quá vội điện thoại cho em gái của con tới ngay Nhà Thờ DCCT Kỳ Đồng đọc kinh cầu nguyện với Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp và Thánh Giêrađô.

Và thật không ngờ, đến trưa thì bé đỡ sốt, sáng hôm sau thì hết hẳn. Bác sĩ đọc kết quả xét nghiệm cũng thông báo bé không bị sốt giống như bệnh sốt bên nước ngoài. Ở bệnh viện một tuần, ngày nào bé cũng phải chích kháng sinh 3 lần, bé lại bị lây thêm bệnh ho hen khò khè của một bệnh nhi khác trong phòng cấp cứu. Tổng cộng bé đã phải nằm tới mười mấy ngày sau đó, bác sĩ mới cho xuất viện. Chính các bác sĩ và y tá cũng không hiểu do đâu mà bé hết sốt và phục hồi, chỉ có vợ chồng chúng con là xác tín tất cả nhờ ơn Chúa, Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, Thánh Giêrađô đã cứu cháu khỏi cái chết cận kề.

Mẹ của bé PHƯƠNG VY, 9.2014