Người đàn ông di tật

Người đàn ông di tật

(Anh Claudio Vieira de Oliveira)

Một người đàn ông sinh ra với dị tật khiến đầu bị lộn ngược đã vượt lên tất cả để trở thành một diễn giả truyền nhiều cảm hứng cho độc giả.

Anh Claudio Vieira de Oliveira, 37 tuổi, sinh ra đã bị dị tật khiến cổ gập ngược, đôi chân biến dạng, tay và cánh tay hầu như không thực hiện được chức năng gì. Khi đó, các bác sỹ tin rằng anh hầu như không có cơ hội sống sót.

Thế nhưng, người đàn ông tới từ Monte Santo, Brazil này đã vượt qua mọi khó khăn cùng cực để tốt nghiệp kế toán và trở thành một diễn giả.
dị tật
Claudio chia sẻ: ‘Từ khi còn nhỏ, tôi đã luôn muốn bản thân mình phải bận rộn làm việc. Tôi không muốn dựa dẫm hoàn toàn vào người khác. Tôi đã học cách bật ti vi, cầm điện thoại, bật đài, dùng máy tính và Internet. Tôi làm kế toán và nghiên cứu cũng như tư vấn cho khách hàng.’

Claudio gõ bàn phím bằng một cây bút ngậm trong miệng, sử dụng điện thoại và chuột máy tính bằng môi, thậm chí còn làm ra một đôi giày đặc biệt giúp mình đi lại quanh thị trấn. Sự tự lập đầy quyết tâm đã giúp anh hoàn thành việc học với tấm bằng kế toán của trường Đại học bang Feira de Santana.

Bà Marie Jose, mẹ anh Claudio chia sẻ: ‘Mọi người nói rằng thằng bé sẽ chết vì đến việc hít thở với nó còn khó khăn. Một vài người còn nói đừng cho nó bú nữa, nó sắp chết rồi. Nhưng giờ thì thật là hạnh phúc, Claudio đã giống như những người bình thường khác, đó là cách mà nó đã được chúng tôi nuôi dạy.

Chúng tôi luôn khuyến khích nó làm những điều bình thường mà những người khác làm. Thế nên giờ thằng bé rất tự tin. Nó không còn xấu hổ khi đi ra ngoài nữa, nó hát và nhảy múa.’

Năm 8 tuổi, anh Claudio đã bắt đầu tự mình đi lại sau thời gian dài luôn được người khác đưa đi. Bố mẹ anh đã sửa lại sàn nhà để anh có thể đi mà không tự làm mình bị thương.

Giường, ổ điện và đèn ở phòng Claudio cũng được chuyển xuống thấp hơn để anh có thể tự làm mọi việc mà không cần nhờ người giúp. Mặc dù không thể dùng xe lăn do cơ thể khuyết tật của mình, nhưng Claudio vẫn xin mẹ cho đến trường đi học cùng những đứa trẻ khác.

Các bác sỹ gần đây đã chẩn đoán Claudio mắc một chứng bệnh hiếm gặp là co cứng khớp bẩm sinh. Cơ tay và chân của anh có nhiều chỗ co lại nối với nhau khiến chúng không thể duỗi ra đúng cách.


Anh Claudio Vieira de Oliveira trở thành diễn giả
Claudio cho biết: ‘Cơ thể tôi đã thích nghi được với thế giới xung quanh. Hiện giờ tôi không còn cảm thấy mình khác biệt so với mọi người nữa, tôi đã là một người bình thường. Tôi cũng không nhìn mọi thứ lộn ngược – đây là một trong những điều tôi hay nói khi tham gia diễn thuyết.

facebook Lâm Kim Trọng

httpv://www.youtube.com/watch?v=duQFRyFlgsQ&feature=youtu.be

Claudio Vieira – Monte Santo

Video do chị Helen  Hương Nguyễn gởi

Nhìn lại chặng đường 69 năm ngày Quốc Khánh

Nhìn lại chặng đường 69 năm ngày Quốc Khánh

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ
2014-09-01

RFA

09012014-quockhanh-gm.mp3

000_Hkg10092627.jpg
Panô, bảng hiệu tuyên truyền kỷ niệm 69 năm ngày quốc khánh tại Hà Nội chụp hôm 28/8/2014.
AFP photo

Hà Nội đang kỷ niệm 69 năm ngày quốc khánh khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, nay là Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Câu hỏi thường được nêu ra nhân dịp ngày 2 tháng 9 như thế là sau mấy mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đa số người dân Việt Nam được thụ hưởng những quyền và cuộc sống như các dân tộc khác, ít nhất là những nước trong khu vực hay chưa?

Tuyên ngôn độc lập

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông Hồ Chí Minh, chủ tịch nước đọc Tuyên Ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Bản Tuyên ngôn Độc lập có những đoạn trích trong Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ 1776 với nội dung “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Bản Tuyên Ngôn Độc lập do ông Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình cách đây 69 năm cũng trích dẫn Bàn Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791 với điểm ‘Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi’.

Trước kia đúng là một lòng một dạ, cùng đảng viên với nhau là như một phục vụ dân đến hơi thở cuối cùng. Bây giờ họ không nghĩ đến dân, họ coi thường dân, coi người dân như ‘cái rơm, cái rác’.
– Bà Ngô Thị Đức

Những điểm trên được nêu ra trong Tuyên Ngôn Độc Lập nhằm tố cáo thực dân Pháp suốt 80 năm đô hộ Việt Nam đã tước mất mọi quyền căn bản của người dân Việt Nam, bóc lột họ đến tận xương tủy, thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị…

Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn lên án thực dân, đế quốc theo chủ nghĩa tư bản chỉ vì lợi nhuận mà bất kể đến tình đồng loại. Đảng cộng sản giương lên ngọn cờ giải phóng giai cấp công nhân và nông dân khỏi ách thống trị của những thế lực như thế.

Thực tế đời sống

Đã 69 năm trôi qua, khoảng thời gian cũng gần bằng 80 năm thực dân Pháp đô hộ Việt Nam trước đây mà theo ông Hồ Chí Minh là một giai đoạn tăm tối, kìm hãm sức phát triển của dân tộc Việt Nam.

Nhiều người từng vì lý tưởng yêu nước, mong muốn giành được quyền sống và ấm no hạnh phúc cho mọi người, đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, đóng góp hết sức mình cho công cuộc cách mạng, nhưng về cuối đời họ lại bị chính những đảng viên cộng sản hiện đang nắm chính quyền trù dập họ vì dám phản đối lại những việc làm bị cho là không đúng pháp luật, đi ngược lại quyền lợi của người dân.

Mới hôm cuối tháng 8 vừa qua, một cựu đảng viên với thâm niên 49 tuổi đảng, bà Ngô Thị Đức tại khu phố Trịnh Nguyễn, thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, phải chặt một ngón tay trỏ để phản đối việc bức ép của công an buộc bà nhận tội gây rối trật tự khi cùng nhiều người khác lên tiếng phản đối một dự án xử lý nước thải nhưng sẽ gây hại cho cuộc sống người dân. Bà đưa ra nhận định về những đảng viên hiện nay như sau:

Trước kia đúng là một lòng một dạ, cùng đảng viên với nhau là như một phục vụ dân đến hơi thở cuối cùng. Bây giờ họ không nghĩ đến dân, họ coi thường dân, coi người dân như ‘cái rơm, cái rác’. Họ cho sống thì sống, có nghĩa bắt chết phải chịu! Chẳng hạn như ngày 18 tháng 6 năm ngoái, công an đánh dân, đánh người già, đánh trẻ con mà họ có ‘ấy’ đâu! Nhưng mà họ đánh dân lại không có tội. Công an được ăn, được học, được cơm gạo nông dân sản xuất ra nuôi, ‘manh cơm, tấm áo’ do dân đóng góp vào để làm thế nào phục vụ dân; nhưng bây giờ lại coi dân không ra gì.

Cứ nói thì hay nhưng thực hiện thì không đúng. Đơn giản như chuyện ‘uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây’ nhưng chỉ nói vài hôm vào ngày 27 tháng 7 thôi; chứ còn thực tế chả tạo điều kiện cho gia đình liệt sỹ gì cả. Như gia đình tôi khổ quá, năm ngoái cũng vì ‘nước thải’ này thôi mà giữ xe công nông mất 8 tháng. Bây giờ kinh tế không còn, chính trị mất hết, không có công ăn việc làm gì cả.

Một người dân Hà Nội suốt nhiều năm kêu oan vì bị lấy đất một cách phi pháp nhưng không được giải quyết, trái lại còn bị hành hung đánh đập đến ngã bệnh, bà Nguyễn thị Thanh Hương, nói về tình hình đất nước sau gần 7 thập niên được gọi là độc lập:

Chúng tôi sống và làm việc theo pháp luật nhưng không được pháp luật bảo vệ. Người dân sống không trông vào đâu được. Tài sản bị cướp, nhiều người bị đốt nhà, đánh đập như thế tại phường Hoàng Văn Thụ xảy ra bao nhiêu năm rồi, không ai giải quyết. Nhiều người đi khiếu kiện ức quá, bị nhồi máu cơ tim qua đời!

Tôi không hiểu sao phường Hoàng Văn Thụ, do ông chủ tịch Nguyễn Viết Cương, không có bằng cấp, không có học hành gì, cướp đất công xây nhà ba tầng, rồi dùng đất để đi biếu các lãnh đạo; cuối cùng hại dân. Sự việc rành rành các văn bản, bằng chứng rõ ràng mười mươi như vậy mà không có cấp nào của thành phố ( mà họ còn đồng lõa vào)… nên tôi không hiểu luật pháp của Việt Nam bây giờ như thế nào rồi!

Thực tế một người thương binh như tôi đã cống hiến một phần xương và máu thịt mà bị đối xử như vậy thì mọi người dân bình thường của Việt Nam bị đối xử như thế nào thì anh hiểu.
– Bà Lê thị Ngọc Đa

Bà Lê thị Ngọc Đa, một thương binh, nay là một dân oan và từng bị bỏ tù do khiếu kiện, bảy tỏ hối tiếc vì đã nghe theo cách mạng để tham gia hoạt động từ năm lên 9 tuổi:

Giờ nói tự do tôi không biết tự do theo kiểu gì, đi đâu cũng ‘tai mắt’ nhìn vào, điện tới điện lui, yêu cầu phải đăng ký thế này, thế nọ, thế kia.

Thực tế một người thương binh như tôi đã cống hiến một phần xương và máu thịt mà bị đối xử như vậy thì mọi người dân bình thường của Việt Nam bị đối xử như thế nào thì anh hiểu. Trừ trường hợp dòng họ của họ, ‘đảng dòng, đảng họ’ mà, đảng làm sao cho đông để giành.

So sánh với nước khác

Một số thống kê gần đây cho thấy Việt Nam tụt hậu cả nửa thế kỷ so với Thái Lan trong các công bố về khoa học. Trong lĩnh vực kinh tế, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam hiện cũng tụt hậu so với các nước khác trong khối ASEAN. Cách đây 5 năm, báo cáo của Ngân Hàng Thế giới đưa ra số năm tụt hậu đó là 158 năm so với Singapore, 95 năm so với Thái Lan và 51 năm so với Indonesia…

Hồi tháng 2 vừa qua, thông tin cho biết Kampuchia sản xuất được ô tô, trong khi đó công nghiệp lắp ráp ô tô tại Việt Nam đến nay vẫn còn ì ạch.

Trong hội thảo nhìn lại nửa chặng đường phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 được tổ chức vào tháng 9 năm ngoái, các diễn giả tham dự đều đưa ra nhận định là Việt Nam ‘suy yếu, tụt hậu và khoảng cách kém cỏi như thế ngày càng xa so với thế giới’.

Cựu phó thủ tướng Vũ Khoan phát biểu tại hội thảo chính sai lầm chủ quan dẫn đến những bất ổn vĩ mô.

Trong những năm qua, nhiều vị trí thức trong và ngoài nước, ngay cả những đảng viên lão thành cách mạng cũng đã có những kiến nghị tập thể thúc giục đảng và nhà nước phải cải cách, từ bỏ con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lỗi thời để theo xu thế chung của thời đại… Nhưng rồi những tiếng nói tâm huyết như thế vẫn không được lắng nghe. Đất nước vẫn mỗi lúc một kém cỏi thêm so với những nước mà trước đây họ đã từng ngưỡng mộ Việt Nam dưới thời Cộng hòa được mệnh danh ‘Hòn Ngọc Viễn Đông’.

ĐƯỜNG THÁNH GIÁ

ĐƯỜNG THÁNH GIÁ

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn.

Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt 16,21-27

Trong Sổ Tử của thành phố Paris –  thủ đô nước Pháp, người ta đọc thấy: Ông Gustave Busset, qua đời ngày 18 tháng 4 năm 1834. Người quá cố không có con cái nhưng để lại một số gia sản đáng giá. Đám tang ông, chỉ có vài bà con xa đến tham dự. Ngay tại nghĩa trang, họ bắt đầu tranh dành gia tài. Sau cùng, họ quyết định đem bán đấu giá tất cả đồ đạc, lấy tiền chia đều nhau. Ngày bán đấu giá, nhiều người cùng khu phố với ông Gustave Busset kéo nhau đến mua đồ, trong đó có chàng họa sĩ trẻ tên Pierre Piront. Anh rất nghèo, chỉ có tấm nệm rơm để ngủ. Từ lâu anh mơ ước chiếc giường êm nên để dành được 100 quan. Hôm nay dịp may đến. Anh mua cái giường của ông Gustave với giá 75 quan. Anh vẫn còn 25 quan. Khi anh lên nhận chiếc giường thì cùng lúc ấy, ủy viên bán đấu giá cúi xuống đất, nhặt lên Cây Thánh Giá nặng, bám đầy bùn đất dơ bẩn. Với giọng khàn khàn ông cất tiếng la to: “Ai trả bao nhiêu để mua vật này?”

Trong phòng im lặng như tờ. Bỗng vang lên tiếng nói chế nhạo: “Không trả xu nào hết!”. Mọi người cười rộ, như ngầm đồng ý. Chàng họa sĩ trẻ cảm thấy kinh ngạc trước thái độ vô thần hỗn xược của người đồng hương. Bằng một giọng run run vì cảm động, anh nói: Tôi xin trả 25 quan. Rất tiếc tôi chỉ có thế. Nếu có nhiều tiền, hẳn tôi sẽ trả với giá cao hơn!”… Đám đông lại ào ào chế nhạo. Một người đàn bà cao tuổi, chỉ ngón tay vào anh Pierre và nói: “Nó là tên ngu đần nhất trong tất cả các tên ngu đần!”.Tức khắc, mọi người trong phòng cùng nói lớn: Hoan hô bà già nói đúng!

Cuối cùng, cây Thánh Giá thuộc về anh Pierre Piront với giá 25 quan. Anh cảm động tiến lên nhận Cây Thánh Giá với trọn lòng kính cẩn yêu mến. Xong, anh ôm Thánh Giá rời phòng, trước các cặp mắt và lời nói chế diễu của mọi người hiện diện.

Về đến nhà, việc làm đầu tiên là vội vàng chùi rửa Cây Thánh Giá. Vừa lau, anh vừa âu yếm nói chuyện với Đức Chúa Giêsu Kitô – Đấng bị xúc phạm. Nhưng anh Pierre ngạc nhiên biết bao, khi vừa lau chùi xong, anh khám phá tên khắc bên dưới chân Thánh Giá. Với kính lúp, anh đọc: Benvenuto Cellini. Đây là tên của một thợ kim hoàn nổi tiếng người Ý. Lòng tràn đầy niềm vui, anh tiếp tục lau chùi thật kỹ lưỡng. Càng lau, càng chùi, anh càng khám phá ra Cây Thánh Giá và tượng Đức Chúa Giêsu Kitô bằng vàng ròng.

Anh Pierre Piront không còn bình tĩnh nữa. Anh lấy khăn bọc kỹ Cây Thánh Giá rồi chạy như bay tới tiệm kim hoàn gần đó. Anh nhờ chủ tiệm đánh giá cho phẩm vật của anh. Sau khi xem xét cẩn thận, chủ tiệm đánh giá toàn Cây Thánh Giá là 60.000 đồng vàng…

Câu chuyện đến tai vua Louis-Philippe I (1830-1848). Nhà vua cho gọi anh Pierre Piront đến và ca ngợi lòng dũng cảm, dám tuyên xưng Đức Tin Công Giáo của anh. Nhà vua cũng cho mở cuộc điều tra, để biết tại sao Cây Thánh Giá quý báu lại lọt vào tay cụ già Gustave Busset. Qua cuộc điều tra, người ta biết: “Vào năm 1531, vua Francois I nhờ nhà kim hoàn Benvenuto Cellini làm Cây Thánh Giá bằng vàng ròng. Sau đó, tác phẩm nghệ thuật tôn giáo được trưng bày tại điện Versailles. Khi cuộc cách mạng Pháp 1789 xảy ra, dân chúng tràn vào đập phá và ăn cắp của cải vật dụng trong điện Versailles. Có lẽ Cây Thánh Giá bị ăn cắp và bị bán đi với giá thật rẻ…”  Vua Louis-Philippe I đã mua lại Cây Thánh Giá với giá 60.000 đồng vàng và truyền gọi anh Pierre Piront vào làm việc trong hoàng cung. Nhờ cơ may, anh trau dồi, phát triển và tận dụng khả năng nghệ thuật của mình.

Để ghi nhớ biến cố ấy, anh Pierre Piront vẽ bức họa “Cây Thánh Giá bán đấu giá”. Bức họa trở nên một tuyệt tác, tháp tùng anh suốt cuộc đời và an ủi anh ở giây phút cuối đời.

Chọn lựa Thập giá, Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn, Ngài tiên báo về sự đau khổ mà Ngài phải đi, Ngài mời gọi các môn đệ của Ngài cùng đối diện với khổ đau qua lời mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”.

Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn và lời mời gọi vác thập giá, trong bối cảnh: Ngài và các môn đệ cùng dân Do Thái tiến về Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Lên Giêrusalem là lên Đền thánh Thiên Chúa, luôn mang trong lòng sự hớn hở vui tươi được biểu lộ bằng những Ca khúc Lên đền gồm 15 Thánh vịnh ngắn từ 120 đến 134 (nhưng có lẽ Tv 132 không thuộc nhóm này), mang tâm tình tươi vui, được hát khi người Do Thái tiến lên đền thờ Giêrusalem vào 3 dịp lễ hành hương: Lễ Vượt Qua (Lễ bánh không men nhắc lại biến cố Xuất hành), Lễ Ngũ tuần (Lễ Mùa gặt để dâng của đầu mùa cho Giavê)  và Lễ Lều (Lễ Thu hoạch cuối năm để tạ ơn Giavê) (x. Xh 23,14-17; 34,22-23; Dnl 16,16)

“Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:

“Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!”  (Tv 121,1)

Tân ước kể lại cuộc hành hương hàng năm của Ðức Maria, thánh Giuse và trẻ Giêsu lên Giêrusalem (Lc 2,41). Tân ước cũng cho thấy Giêrusalem đã thu hút khách hành hương vào các dịp đại lễ (x. Lc 2,41-45; Ga 12,20; Cv 2,1-10). Các Tin Mừng đều tường thuật những lần hành hương của Ðức Giêsu lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13), lễ Ngũ tuần (Ga 5,1), lễ Lều (Ga 7,2-10). Tuy nhiên Phúc âm Nhất lãm tường thuật chuyến hành hương duy nhất của Ðức Giêsu lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua và trong dịp này, Ngài đã bị kết án vác và chết trên thập giá. Chuẩn bị bước hành trình về thành Thánh theo thánh ý của Chúa Cha, Đức Giêsu loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Hình ảnh đó đã được nói tiên tri trước bằng hình ảnh Người Tôi Tớ đau khổ mà Ngôn sứ Isaia đã phác họa: “Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ …. Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (Is 53,10-11). Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về bước đường đau khổ này qua cuộc tử nạn, Ngài nói về đường thập giá và mời gọi các môn đệ tiến bước theo.

Đứng trước lời tuyên báo về cuộc tử nạn, thái độ Phêrô: liền kéo riêng… bắt đầu trách … (Mt 16,22): Phản ứng của Phêrô là phản ứng khôn ngoan của con người khi đối diện đau khổ, đứng trước thập giá: sự lẩn tránh. Phêrô muốn thoả hiệp, thích nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của sợ hãi, hoặc khuất phục trước quyền lực. Mới đây ông là gương mẫu của người tin (x. Mt 16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như tên Cám Dỗ đã đề nghị thỏa hiệp khi Chúa bị cám dỗ ở trong hoang địa (x. Mt 4,1-11).

Chúa Giêsu trả lời Phêrô: Anh cản lối Thầy (Mt 16,23), nếu dịch sát nghĩa:  “Anh đang trở thành tảng đá  làm cho Thầy vấp”. Mới vừa tuyên xưng đức tin, Phêrô trở nên “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô, mang ý nghĩ suy luận của con người nên thành tảng đá “cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Tảng đá xây Hội Thánh là niềm tin của Phêrô đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin, tảng đá  này trở nên cản trở công trình của Thiên Chúa.

Kinh nghiệm của Phêrô mang hình ảnh thân phận con người của chúng ta. Thật thế, chúng ta rất mong manh, dễ thay đổi, dễ chủ quan ảo tưởng là mình “trước sau như một”. Cho nên, chủ quan trong một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa. Điều đó không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa.

Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ của Ngài không có con đường nào khác con  đường thập giá:  “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình”. “Từ bỏ chính mình (Mt 16,24), nghĩa là bỏ cả khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của người khác, ở đây chính là đòi hỏi của Thiên Chúa. Cho nên, không chỉ chiến thắng trên cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình. Để “đi (bước) theo” Đức Kitô (Mt 16,24): đồng nghĩa với “học với; làm môn đệ” (x. Mt 11,29), là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ…

Khi nghiền ngẫm lời tiên báo đau khổ, tử nạn và lời mời gọi vác thập giá vượt qua đau khổ và sự chết, chúng ta cảm thấy được an ủi và thêm sức mạnh giữa những lúc đương đầu với thử thách, gian nan, khủng hoảng và đau khổ. Vì vậy, chúng ta vẫn tiến bước trong cuộc sống và đối diện với đau thương mà mỗi người chúng ta luôn đối diện trong những nỗi đau của thể xác, hay nỗi đau về tâm hồn, có khi cả hai  nỗi đau về thể xác và tâm hồn…

Chúa Giêsu không chỉ loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Thật thế,  Đức Giêsu đến Giêrusalem chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng Ngài sống lại ngày thứ ba như lời tiên báo, Ngài đã vượt qua bằng chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, sự chiến thắng huy hoàng cũng dành cho người môn đệ trung kiên vác thập giá Chúa, Thánh Phaolô khẳng định: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người (Rm 6,8). Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết và cho phép chúng ta cùng Ngài vượt qua đau khổ, vượt qua sự chết như Ngài: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.

Cho nên, chúng ta vác thập giá theo Chúa Kitô, không phải giữ mãi đau khổ, đi vào con đường chết, nhưng với Ngài xuyên qua đau khổ, vượt qua sự chết mà đến vinh quang, vì thế thánh Phaolô xác tín:  “Vinh dự của tôi là thập giá Chúa  Kitô”  (Gl 6,14).

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn.

Hãy theo tôi!

Hãy theo tôi!

Chuacuuthe.com

VRNs (31.08.2014) – Follow me! Hãy theo tôi!

Sự đời thì: Hãy theo tôi, tôi sẽ cho bạn được danh vọng! Hãy theo tôi, tôi sẽ cho bạn được giàu sang! V.v…và v.v…

Không ai lại ngược đời như Đức Giêsu Kitô: “Ai muốn theo Tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo!”

Thế thì sung sướng gì mà theo cơ chứ? Theo mà phải đón lấy khổ giá, bỏ đi chính bản thân, có mà điên chăng?

Sự đời nó thế! Nhưng vì là Kitô hữu – người mang Chúa Kitô, bạn và tôi phải là những người lội ngược dòng đời, phải là những người điên theo cách hiểu của thế gian. Bởi vì bạn và tôi là những người được gọi – qua Bí tích Rửa tội, như chính Chúa đã gọi các môn đệ ngày xưa: “Hãy theo Tôi!”

Đã là con người, ai cũng muốn có được một cuộc sống sung sướng hạnh phúc, một cuộc sống dễ dãi tiện nghi. Nhưng nếu thế thì ai là người phải chịu thiệt thòi đau khổ, ai là người phải thiếu thốn đói khát thay cho chúng ta? Bởi vì định luật tự nhiên của một kiếp người: “đời là bể khổ” mà!

Không ai trong cuộc sống mà không thiếu những khổ đau, thập giá. Nhưng với người ngoài Kitô giáo, đa phần họ thường than vãn cuộc đời, oán trời trách đất, đổ cho người này kẻ kia là nguyên nhân, mang đến khổ đau cho họ.

Còn chúng ta – những môn đệ theo Chúa Kitô, chúng ta phải xác tín rằng những đau khổ, thập giá trong cuộc đời là những phương tiện hữu ích Chúa gởi đến để giúp chúng ta nên thánh, cho chúng ta được góp phần vào với Thánh giá Chúa, hầu mang ơn cứu độ đến cho bản thân và cho các Linh hồn. Xác tín được như thế để chúng ta không trốn chạy thập giá, nhưng vui vẻ đón nhận, vác lấy trong sự trợ giúp của Đức Giêsu Kitô Tử nạn. Đừng như Thánh Phêrô: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”, để rồi Chúa phải khiển trách nặng nề, vì “tư tưởng đó là của loài người chứ không phải của Thiên Chúa”.

Bạn và tôi, chúng ta có muốn thuộc về Chúa không, có muốn mang tư tưởng của Chúa không? Nếu muốn, chúng ta phải biết lội ngược dòng đời. Vì nếu không lội ngược dòng đời, cứ mãi tìm kiếm những gì sung sướng hạnh phúc ở đời mà thôi, thì hãy coi chừng! Chúa đã nói rất rõ: “Được cả thế gian mà thiệt mất sự sống, nào được ích gì?” Giữa được và mất, bạn và tôi hãy sáng suốt lựa chọn!

Hãy đừng như những người duy vật, chỉ biết vật chất mà bất kể linh hồn, chỉ biết hôm nay mà bất kể tương lai. Ai trong chúng ta rồi cũng có ngày phải ra đi, chưa biết lúc nào Chúa sẽ “thương gọi về”. Hành trang chuẩn bị cho chuyến ra đi đó, nếu có nhiều thập giá trong đó, chắc chắn Chúa sẽ thưởng công xứng đáng, như Ngài đã kết thúc bài Tin mừng hôm nay (Chúa nhật 22 QN): “Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm”.

Gieo trong đau thương, sẽ gặt giữa vui mừng!

Thánh Gioan Maria Vianney, Thánh Maximilianô Maria Kolbê, và gần đây nhất, ruột thịt với chúng ta nhất: Đức Hồng y FX. Nguyễn Văn Thuận đều là những người con điên, những vị đã lội ngược dòng đời. Để rồi hôm nay, các Ngài đều là những vị Thánh.

Xin các Ngài cầu thay nguyện giúp cho mọi người chúng ta!

Micae Hữu Liên

Con ong tài ba hơn các nhà khoa học?

Con ong tài ba hơn các nhà khoa học?

Chuacuuthe.com

VRNs (01.09.2014) – Sài Gòn – Học đạo là một trong ba chân kiềng quan trọng của việc sống đạo đối với tất cả mọi Kitô hữu ở khắp nơi trên thế giới nói chung, và với mỗi Cursillista (người đã học khóa ba ngày) của Phong trào Cursillo nói riêng. Kiềng ba chân đó là: Sùng đạo, Học đạo và Hành đạo. Bởi lẽ, nếu ta không học hỏi liên tục hầu hiểu biết về quyền năng tuyệt đối, và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa đối với chúng ta để chúng ta  có lòng tin tưởng sắt son, mạnh mẽ nơi Ngài thì làm sao ta có lòng Cậy trông, và đặc biệt là lòng Yêu mến Thiên Chúa được.

Ông bà ta đã nói: “Vô tri bất mộ” là như thế. Và hơn nữa, sự học không có trang cuối cùng. Càng học trí tuệ càng được mở mang, và ta lại càng nhận rõ hơn mình quá nhỏ bé trước vũ trụ bao la này. Sự học giúp ta biết mình hơn, biết người hơn, và biết khiêm tốn hơn.

Thánh Vịnh chương 19 (18) câu 2 đã dạy chúng ta: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay người làm”.

Câu Thánh Vịnh trong Kinh Thánh thật ngắn gọn, nhưng hàm chứa ý nghĩa bao la, sâu thẳm đã mời gọi chúng ta cùng ra sức tìm hiểu để thấy được phần nào quyền năng vô biên, và vinh quang cao cả của Thiên Chúa ở ngay trong các tạo vật, do Ngài yêu thương con người mà tạo dựng.

Trong ý hướng đó, trang viết này dành để tìm hiểu một số điều kỳ thú nơi loài ong. Chúng ta biết được bao điều kỳ diệu lạ lùng, thú vị của loài ong là nhờ vào những theo dõi, nghiên cứu, khám pha với bao khổ cực, hy sinh nhiều năm tháng, có khi mất cả đời người của bao người, và các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới từ bao đời nay.

Tổ chức đời sống trật tự và “Qui trình dân chủ tối ưu” của loài ong

Tổ chức đời sống trật tự của loài ong

140832009

Ong, loại côn trùng được coi là có tổ chức xã hội cao nhất, hơn cả kiến, mối, mọt. Chúng sống theo đàn, mỗi đàn khoảng từ 25.000 đến 50.000 con. Mỗi đàn chỉ có một con ong chúa, mấy chục ngàn ong thợ, ong đực chiếm khoảng 1% đàn ong, ong non..

Ong chúa cánh ngắn, thân to hơn các loại ong khác, và chỉ có nhiệm vụ đẻ trứng. Trung bình ong chúa đẻ 1500 trứng ong thợ một ngày. Ong chúa chọn ngày thích hợp đẻ ong đực non, và ong chúa non, chuẩn bị tạo vương quốc mới. Ong chúa sống từ 3 đến 5 năm.

Ong thợ thân nhỏ, cánh dài, đông nhất trong đàn, có nhiều nhiệm vụ khác nhau: làm tổ, bảo vệ và giữ điều hòa nhiệt độ tổ từ 33 đến 35 độ C, nuôi ong con, thám thính, tìm vùng có hoa lấy mật, tạo ra mật…

Ong đực không phải làm gì cả, chỉ ra khỏi tổ một lần đuổi theo ong chúa để gieo tinh. Con nào khỏe nhất bay theo kịp ong chúa được giao phối với ong chúa rồi sau đó cả đàn ong đực đều chết hết vì bị bỏ đói.

Hành trình tạo vương quốc mới “chia bầy”,và “qui  trình dân chủ tối ưu”.

Một công trình nghiên cứu thú vị của Thomas Seeley thuộc trường Đại học Cornell (Hoa Kỳ) về tiến trình chia bầy của loài ong khi đàn ong quá đông đã cho ta biết:

Đầu tiên, vài trăm con ong trinh sát tỏa ra các hướng để tìm địa điểm xây tổ thích hợp.

Tiêu chuẩn chọn lựa, ong thường chọn hốc cây rỗng hướng nam, to khoảng hơn 20 lít, ở trên cao cách mặt đất trên 3 met, miệng hốc không quá 30 cm vuông.

Vũ điệu báo tin của ong. Giải thưởng Nobel về Sinh lý và Y khoa năm 1973 đã trao cho 3 nhà khoa học là Karl Ritter Von Frisch (1886-1982), Nikolaas Tinbergen và Konrad Loenz đã cho ta biết loài ong có thể báo các  thông tin  qua các vũ điệu.

Với những vũ điệu khác nhau của ong thám thính vũ trước tổ, đàn ong sẽ nhận ra  khoảng cách từ tổ đến nơi có hoa; các đặc điểm của nơi có thể làm tổ mới …. Bầy ong lại cử từng đoàn đi kiểm tra lại. Những đoàn thám thính tự rút lui khi nhận thấy nơi nhóm mình giới thiệu thua kém các nhóm khác.

Cuối cùng chỉ còn một địa điểm duy nhất được đàn ong thống nhất chọn lựa, không có sự tranh chấp dành dật. Tất cả diễn ra không quá 16 giờ. Sau đó một nửa đàn ong do một ong chúa dẫn đi, một nửa ở lại với một ong chúa đã trưởng thành.

Ong tài ba hơn các nhà toán học, nhà vật lý học, nhà hóa học và nhà kiến trúc

Quan sát tổ ong

Nhìn vào miệng các tổ ong ta thấy, đó là vô số hình lục giác đều (sáu góc, sáu cạnh) được con ong xây dựng liền nhau, mỗi cạnh đo được khoảng  2,7 mm, cạnh chiều sâu mỗi khối lục lăng đo được 11,3 mm. Miệng tổ ăn thông với một khối hình lục lăng. Con ong đã được bẩm sinh làm như thế. Đây quả là một điều kỳ diệu. Nhưng điều kỳ diệu đó còn lạ lùng hơn khi quan sát và đo lường các đáy chung của các khối lục lăng tổ. Các đáy của các khối lục lăng đó không phẳng như miệng tổ; đáy tổ là sự kết hợp của ba hình thoi bằng nhau.

Năm 1712 nhà khảo cứu Maraldi người Ý đã đo được như sau: góc tù hình thoi ở đáy tổ ong là 109 độ 28 phút; góc nhọn là 70 độ 32 phút (Phỏng theo tài liệu Giáo sư Hoàng Xuân Hãn 1908- 1996; HXH tập I trang 1044, và Bachkhoatrithức. VN).

Giải bài toán: thể tích lớn nhất mà diện tích xung quanh nhỏ nhất.

Bài toán có thể tóm tắt như sau: “hãy làm một cái bình theo hình thù như thế nào để chứa được nhiều nước nhất, mà lại tốn diện tích xung quanh ít nhất. Nhiều bình ghép lại chiếm không gian ít nhất?” (hai nhà Vật lý học Réaumur và Leomiule người Pháp đưa ra).

Bài toán trên đã như một thách đố lớn với các nhà toán học trên thế giới. Nhiều nhà toán học đã sử dụng các phép tính cao cấp để tìm kết quả.  Sau nhiều thập niên nghiên cứu, họ đã thống nhất với nhà toán học Kenige người Thụy Sỹ là phải làm cái bình  đúng như tổ ong đã mô tả trên thì chứa được nhiều nước nhất, và tốn diện tích xung quanh nhỏ nhất; chứ không phải khối vuông, khối ống, khối cầu hay khối tam giác…Bởi vì, nếu muốn có một miệng tổ rộng 20 mm vuông như tổ ong, mà làm theo hình tam giác đều thì chu vi mất 20,4mm; làm theo hình vuông thì chu vi mất là 17,9m; làm theo hình lục lăng đều của ong thì chu vi chỉ mất 16,6mm. Các khối ống và khối cầu khi ghép với nhau có nhiều khe hở tốn diên tích, nên không được tính đến.

Kenige cho biết chỉ có một chút khác biệt là góc tù và góc nhọn của ba hình thoi ở đáy tổ ong là 109 độ 28 phút và 70 độ 32 phút thì các nhà toán học tính là 109 độ 26 phút và 70 độ 34 phút. Nhà toán học Kenige kết luận con ong sai 2 phút ở góc tù và nhọn ở 3 hình thoi đáy bình chung.

Năm 1743 nhà toán học người Anh Colin Maclaurin đã tính lại, kết quả cuối cùng hoàn toàn đúng với số đo hai góc của tổ ong như nhà khảo cứu người Ý Maraldi đã đo năm 1712. Lý do Kenige tính sai 2 phút là vì ông dùng bảng Logarithme có số lẻ sai (nguồn: Phỏng theo sách 10 vạn câu hỏi vì sao, nhà xuất bản Mỹ Thuật).

Từ kết quả đo lường trên, các nhà khoa học kết luân phải làm bình đúng như tổ ong sẽ tốn ít diện tích và không gian nhất, mà chứa được thể tích lớn nhất.

Ngoài ra, các nhà khoa học còn cho biết, xây dựng theo khối lục lăng của tổ ong sẽ bền vững nhất, khi có các tác động lực bên ngoài vào tổ. Trong lúc, lực tác dụng vào các hình khối khác thường bị biến dạng và có khuynh hướng biến thành khối lục lăng như loài ong đã làm.

Còn sáp ong được chế tạo ra sao lại là một chuyện lạ nữa! Con ong hút mật vào bụng, sau một ngày một đêm, những hạch sáp ở bụng ong biến hóa mật ong thành sáp rồi tiết ra 4 đôi hạch sáp ở dưới bụng. Sáp được miệng ong nhào nặn, khi ra không khí sáp này trở nên dẻo quánh để đắp tổ ong. Cứ 3kg mật và ít phấn hoa tạo ra 1 kg sáp. Sáp ong là môi trường tinh khiết nhất, kháng khuẩn mạnh nhất. Việc mật ong hóa sáp khiến ta liên tưởng tới con tằm chỉ ăn lá dâu vào trong bụng, mà tạo ra sợi tơ vàng óng ánh cho ta những nén tơ đẹp đẽ giá trị (Nguồn: USAPHA chuyên gia về ong mật).

Mật ong có công dụng ra sao lại là một chuyện dân gian không bao giở kể hết, nào là giúp trẻ còi mau lớn, chữa ho, đau bao tử, chữa lành vết thương… Chính Tiến sỹ Phùng Hữu Chính, Giám đốc Cty ong miền núi cho biết: mật ong có trên 180 chất gồm đường đơn, protein, axit amin….Mật ong và sáp ong có khả năng kháng khuấn kỳ diệu. Người ta đang tìm hiểu hơn 1143 loài thực vật và hoa mà loai ong ưa thích thường lui tới để hút nhụy hầu tìm ra loài cây, loài hoa  nào kháng khuẩn cao nhất.

Loài ong được thiên phú làm như thế theo bản năng chứ ong đâu có trí khôn học hành gì như các nhà khoa học. Như thế, ong quả thực đã hơn cả các Thần Đồng Toán học, Thần Đồng Vật lý, Thần đồng Hóa học , Thần Đồng Kiến trúc và các khoa học khác!

Con người ngày nay đã vận dụng những ưu điểm của tổ ong vào việc xây dựng hiện đại trong thiết kế cánh máy bay, vách vệ tinh, tầu con thoi hay vô số cấu trúc trong nhà, đồ nội thất, gia dụng, thiết bị văn phòng, điện tử và các sản phẩm khác (Nguồn: Báo Nông Nghiệp VN 13-11-2013).

Dẫu nhân loại ngày nay đã tiến bộ nhiều, nhưng hiểu biết của loài người trước vũ trụ muôn loài do Thiên Chúa tạo dựng mới chỉ như một giọt nước giữa đại dương; một hạt cát trong sa mạc; một chiếc lá giữa rừng cây.,.

Inhaxio Đặng Phúc Minh

Chuyện Anh Bốn Thôi & Chị Phạm Thị Lành

Chuyện Anh Bốn Thôi & Chị Phạm Thị Lành

RFA

S.T.T.D  Tưởng Năng Tiến

Việt Nam dứt khoát không để vỡ nợ.

T.T. Nguyễn Tấn Dũng

Tôi đọc đi, đọc lại tập tuỳ bút mỏng (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của nhà văn Nguyễn Khải vài ba lần. Lý do, một phần, có lẽ vì ông viết hơi cô đọng và (phần khác) vì ông có quan tâm ít nhiều đến tình cảnh của đám thường dân vô danh và bé nhỏ – cỡ tôi:

“Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống…”

Những dòng chữ thượng dẫn, thốt nhiên, lại khiến tôi nhớ đến anh Bốn Thôi trong một tập tuỳ bút khác (Lại Thư Nhà) của nhà văn Võ Phiến:

Anh Bốn Thôi mồ côi cha mẹ, từ nhỏ sống với chú thím. Chú thím anh ta không có con, nên thương mến cháu. Anh chịu chăm chỉ tập làm công việc, nhưng tính thực thà ít lời…

Anh chỉ có niềm tin ở cái quây quần ấm áp của một nhóm vợ con. Trong đời anh đã trầy lên trật xuống, nhục nhã nhiều phen vì vợ con, rốt cuộc là để gầy ra cái tập thể nhỏ bé, trong đó anh cảm thấy yên tâm, không cần biết đến cuộc sống mênh mông. Trong đó anh cũng cảm thấy đầy đủ; dù sống dù chết, anh không muốn rời xa nó…

Thế mà rồi mãi anh ta vẫn không được yên. Lớn lên, gần như hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ… Và anh cũng lại đánh trả nữa. Và nét mặt anh thì lúc nào tuồng như cũng rầu rầu, nguội lạnh như của một người ngoại cuộc.

Vậy mà những hoạt động của anh đã làm ra tình hình của xứ sở. Ở Hoa-thịnh-đốn, ở Mạc-tư-khoa, ở Bắc Kinh, Tân Đề-li, Vọng-các, Ba-lê v.v… ở khắp các nơi trên thế giới người ta theo dõi anh, bàn tán về anh. Người ta đem anh ra so sánh với người dân Đức ở Bá-linh, người dân Lào ở Vạn Tượng…, người ta dòm ngó, dò xét cử chỉ của anh, cân nhắc, đánh giá sự can đảm của anh, tài nghệ của anh. Xung quanh hành động anh chắc chắn có những cuộc mặc cả, những trù hoạch bố trí, những mưu mô âm thầm giữa nước này nước nọ. Và cũng có cả những lời hô hào, cổ võ, những tuyên bố lớn tiếng về nhiều vấn đề quan trọng, lý tưởng cao đẹp.

Là công dân của một đất nước đã từng anh dũng đánh thắng mấy đế quốc to,và trở thành lương tâm của thời đại nên anh Bốn Thôi tất bật và vất vả không ngừng (“hồi nào anh cũng phải cầm vũ khí trong tay: anh né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ…”) thì cũng phải (giá) thôi!

Nhân loại có biết bao kẻ đã ước ao, khao khát được trở thành dân Việt cơ mà? Chỉ hiềm rằng trong số những người này không ai biết được rằng cuộc sống của Bốn Thôi hoàn toàn và tuyệt đối không có gì vui – theo như nhận xét của nhà văn Nguyễn Mộng Giác:

“Đấy, cuộc đời của Bốn Thôi, nhân vật tiêu biểu nhất của Võ Phiến. Người nông dân cục mịch có nét mặt buồn hiu lạnh lẽo, thiếu hẳn sự vồ vập mãnh liệt nhưng trong lòng, chất chứa không biết bao nhiêu khát vọng tội nghiệp. Người nông dân ấy không có cái bề ngoài coi được. Anh xấu trai, nghèo nàn, chậm chạp, vụng về. Thú vui độc nhất cho cả một kiếp đời dài là trưa trưa, tìm một chỗ dừng chân thật tịch mịch, nghếch mũi lên không mơ màng mằn mò nhổ từng sợi lông mũi … ‘Tiểu thế giới’ của Bốn Thôi, sao mà buồn quá đỗi!”

Nguyễn Khải, Nguyễn Mộng Giác đều đã đi vào cõi vĩnh hằng. Võ Phiến thì chả cần bận tâm gì đến những chuyện phù thế nữa. Còn lớp người Việt kế tiếp nông dân Bốn Thôi thì sống cũng không khác xưa là mấy. Tuy không còn phải “né viên đạn của bên này, tránh viên đạn của bên kia, đỡ ngọn roi của bên nọ” như trong thời chiến nhưng cuộc sống của họ (xem ra) cũng không được an lành hay yên ổn gì cho cho lắm – nếu chưa muốn nói là vất vả, bầm dập, te tua, và tơi tả.

Chị Phạm Thị Lành có thể được coi như lớp con cháu của Bộn Thôi thời hậu chiến – theo như tường thuật của báo Dân Việt, số ra ngày 29 tháng 12 năm 2011:

Vợ chồng chị Lành trước đây sống cùng mẹ ruột là bà Phạm Thị Thèm trong một căn nhà cũ nát rộng chỉ 27m2, dựng nhờ trên đất của một người thân ở xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp.

Hai người anh trai của chị Lành, một người bị tâm thần, một chết sớm trong khi các chị dâu lại bỏ đi, để lại đến 6 đứa bé côi cút cho bà Thèm và chị Lành nuôi dưỡng. Do bà Thèm đau ốm liên miên lại không có đất sản xuất nên vợ chồng chị Lành đang tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số…

Không có đất sản xuất, đã đành. Vợ chồng chị Lành – tất nhiên – cũng không có học vấn, nghề nghiệp hay vốn liếng gì ráo trọi. Họ cũng trơ trụi y như Bốn Thôi ngày trước, dù đất nước không còn có nhu cầu phải đánh thắng một đế quốc to nào nữa. Bởi vậy, hai người  mới phải “tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số” thay vì cầm cố chạy chọt để có được những cách mưu sinh “qúi phái” hơn: lao động xuất khẩu hoặc làm ô sin ở Đài Loan hay đâu đó.

Chị Phạm Thị Lành. Ảnh: Dân Việt

Tuy nhiên, trong cái rủi của chị Phạm Thị Lành lại có cái may – vẫn theo tường thuật của phóng viên Hữu Danh, báo Dân Việt:

Dư luận Long An đang xôn xao với thông tin một người bán vé số nghèo đưa cho khách 10 tờ vé số trúng thưởng 6,6 tỷ đồng để nhận lại 200 ngàn đồng tiền xổ số, dù khách chỉ “mua thiếu qua điện thoại. Khoảng 16 giờ ngày 15.11, còn hơn 20 vé bị ế nên chị gọi điện thoại cho mối quen là anh Đỗ Ngọc Tuấn, 41 tuổi, ngụ khu phố 2, đường Bà Chánh Thâu, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức – hành nghề chạy xe ba gác – nài nỉ mua dùm. Anh Tuấn đồng ý mua 20 tờ, gồm ba số khác nhau. Gọi là “mua” nhưng chỉ là nói qua điện thoại, anh Tuấn cũng chưa trả tiền.

Chiều cùng ngày, lốc vé 10 tờ của công ty XSKT tỉnh Bến Tre mang dãy số đuôi X91207 trúng đặc biệt 4 tờ, trúng an ủi 6 tờ. Nhiều đồng nghiệp bán vé số bảo người mua chưa trả tiền, coi như chưa mua và nói chị Lành toàn quyền định đoạt “số phận” 10 tờ vé số với trúng thưởng với giá trị lên đến gần 7 tỷ đồng này.

Tuy nhiên, chị Lành gạt phăng và cho rằng anh Tuấn là một trong những khách hàng thường xuyên mua vé số ủng hộ chị. Rất nhiều lần anh mua qua điện thoại và dù không trúng lần nào nhưng anh vẫn trả tiền sòng phẳng. Do đó, không thể vì tiền mà chị đánh mất chữ tín.

Ngay lập tức, chị bấm điện thoại gọi anh Tuấn đến quán cà phê để bàn giao số trúng. Cảm kích trước lòng tốt của người bán vé số, anh Tuấn đã tặng 1 tờ trúng giải đặc biệt cho người bán vé số nghèo.

Hôm đó tôi để dành cho mình một tờ, lại được tặng thêm một tờ nên đổi thưởng được gần 3 tỷ đồng. Số tiền này, vợ chồng tôi đem về quê cất nhà mới cho mẹ, số còn lại gửi ngân hàng lấy lãi nuôi các cháu…

Định mệnh, rõ ràng, đã mỉm cười với gia đình Phạm Thị Lành. Cũng như bao nhiêu người khác, tôi đã âm thầm chia vui cùng chị và niềm vui này âm ỉ mãi cho đến sáng nay – trước khi đọc qua  nghiên khảo của Hurun Consulting Group tại Thượng Hải, do tiến sĩ Alan Phan sưu tập và phổ biến trên trang nhà của ông –  vào hôm 21 tháng 8 vừa qua:

“Có 64% nhà giàu tại Trung Quốc đã và đang lên kế hoạch để xin di cư ra nước ngoài. Nhà giàu được định nghĩa là có tài sản hơn 12 triệu RMB (hay khoảng 1.8 triệu USD). Điểm đến mong ước? Mỹ (52%), Canada (21%), Úc (9%) và châu Âu (7%). Hai phần ba số người trên sẵn sàng bỏ quốc tịch Trung Quốc.

Trong 5 năm vừa qua, nhà đầu tư Trung Quốc đã đổ 18 tỷ USD vào địa ốc Mỹ và 8 tỷ chỉ trong 2013. Theo Wealth Insight qua tin của CNBC, người Trung Quốc hiện đang nắm giữ 685 tỷ USD trị giá tài sản tại nước ngoài (không tính đến những đầu tư chính thức của công ty quốc doanh hay tư doanh của Trung Quốc có giấy phép).

Ảnh lấy từ: gocnhinalan.com

Alan Phan cũng ghi lại đôi lời tâm tình của một người bạn đang ở “đỉnh cao” của giới thượng lưu ở Trung Hoa, khi Shangai đang vào lúc hôn hoàng:

“Tôi không biết là kinh tế Trung Quốc đến lúc nào thì vỡ trận? Nhanh hay chậm, nhưng chắc nó sẽ đến. Có quá nhiều bất cập và scandals đang được dấu kín bởi nhiều phe quyền lực mà sẽ được phơi bày trong các cuộc tranh chấp. Dù mang tiếng là tỷ phú, nhưng tôi biết mình chỉ là con tốt thí, cá nằm trên thớt, và tai họa luôn đe dọa.”

…..

“Tôi đã cho gia đình qua Mỹ định cư rồi. Chỉ còn một thân một mình và chỉ cần 30 phút thông báo là tôi biến khỏi Shanghai. Chúng tôi bỏ đi nhưng vẫn yêu xứ sở này vô cùng. Không khí, thực phẩm nhiễm độc, người dân ngu xuẩn và vô văn hóa, quan chức tham lam và ăn cướp…nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ. Chuyện quan trọng là với những người giàu có, quyền thế như chúng tôi mà còn cảm thấy bất an thường trực…thì người dân nghèo túng ngoài kia sẽ thấy thế nào. Một ngày gần đây, sức ép sẽ làm vỡ tung nắp đậy…và như anh hay nói…God help.”

Thượng Hải và Bến Lức cách nhau xa lắm. Tài sản và địa vị của ông tỉ phú Shangai so với chị Phạm Thị Lành cũng vậy. Dù vậy, họ có cùng chung một môi trường sống bất minh và bất an cùng “với tai hoạ luôn luôn đe doạ” như nhau – theo như ghi nhận của tác giả Nguyễn Thiện Nhân, trên diễn đàn Việt Nam Thời Báo:

“Báo cáo Kiểm toán Nhà nước vừa “bêu’ tên những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lỗ khủng tới mức báo động đỏ, và danh sách các công ty kinh doanh tới mức âm vốn chủ sở hữu. 5/50 công ty do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư thua lỗ 3.702 tỷ đồng, 11/31 công ty do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đầu tư thua lỗ 6.342 tỷ đồng, 7/24 công ty do Tổng công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) đầu tư lỗ lũy kế 339,6 tỷ đồng; 6/57 công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) lỗ 118,3 tỷ đồng…

Dự án boxite Tây Nguyên (Nhân Cơ và Tân Rai) vẫn tiếp tục lỗ lã, dự kiến năm 2014 sẽ lỗ trên 500 tỷ đồng và còn tiếp tục lỗ tương đương trong 2015.

Kinh tế ảm đạm, thất nghiệp gia tăng, vật giá leo thang, thâm hụt ngân sách, nguy cơ vỡ nợ ngân sách…là bức tranh kinh tế từ đây đến hết 2015 và có khả năng làm đổ vỡ nền kinh tế trước thềm Đại hội XII của Đảng.”

Khi “kinh tế Trung Quốc đến lúc nào thì vỡ trận” thì “chỉ cần 30 phút thông báo” là ông bạn của tiến sĩ Alan Phan sẽ biến khỏi Shangai, sau khi đã chuyển hết tiền ra nhà băng ở nước ngoài còn chị Phạm Thị Lành thì không thể làm như vậy. Chị không thể rời Bến Lức, và e rồi cũng sẽ mất trắng số tiền nhỏ nhoi đã mang “gửi ngân hàng lấy lãi nuôi các cháu!”

Tôi chỉ còn biết cầu mong sao thời gian qua “các cháu” đã tạm đủ lớn để cũng có thể bán vé số tự nuôi thân thôi. Chứ ở Việt Nam, hiện nay, đám thường dân như chúng tôi còn biết mưu sinh bằng cách nào khác nữa?

TT Ngô Đình Diệm đã từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?

TT Ngô Đình Diệm đã từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?

ngo dinh diem 1

Vài tháng trước trên internet xuất hiện bài viết “Câu chuyện thật cảm động của đức ĐẠT LẠI LẠT MA nói về ĐỆ NHẤT VNCH” với nội dung chính: “Ngày 20.09.2013 khi người Việt tại Đức được vinh dự đón Đức Dalai Lama tại chùa Viên Giác, Ngài đã kể lại 1 câu chuyện thật cảm động. Những thập niên 50, Mao Trạch Đông xua quân vào Tây Tạng giết sư, đốt chùa và gây ra hằng hà xa số tội ác với dân tộc Tây Tạng hiền lành chịu đựng. Năm 1959 Đức Dalai Lama phải cùng dân tộc của Ngài từ bỏ quê hương lên đường tỵ nạn. TQ lúc bấy giờ như con hổ đói, họ dùng đủ mọi cách để truy lùng Ngài. Khoảng thời gian đó trên thế giới ít người biết và để ý đến tình hình xảy ra ở Tây Tạng, và cũng chẳng ai biết gì về 1 thanh niên với nụ cười thật nhân hậu đang dìu dắt dân tộc mình lánh nạn trước mũi súng bạo tàn của Mao Trạch Đông. Ấn Độ luôn có đụng độ với TQ về vấn đề biên giới, vi vậy họ không muốn làm tình hình căng thẳng thêm, nên cũng chẳng tha thiết giúp đỡ đoàn người tỵ nạn đến từ Tây Tạng. Tin tức về tình hình bi đát từ Tây Tạng chẳng được loan truyền, lại bị TQ cô lập thông tin toàn diện, nên thế giới chẳng ai biết đến mà quan tâm. Đoàn người tỵ nạn vì vậy thiếu thốn cơ cực đủ điều, tình hình lúc bấy giờ thật nghiệt ngã.

May thay ở vùng Đông Nam Á có 1 vị Tổng Thống cũng nhân đạo không kém. Ông từng biết thế nào là tỵ nạn CS, vì chính ông cũng đã mở rộng vòng tay đón tiếp và giúp đỡ hằng triệu đồng bào của ông chạy nạn CS từ Bắc vào Nam… Đó là cố TT Ngô Đình Diệm, một vị Tổng Thống Công Giáo, đã âm thầm gửi hàng tấn gạo để cứu khổ những người Phật Giáo Tây Tạng. Một miếng khi đói bằng một gói khi no, Đức Dalai Lama bồi hồi khi kể lại sự giúp đỡ của cụ Diệm đối với dân tộc của ông vào những ngày tháng khó khăn nhất”.

Vài hôm sau tôi nhận bài viết phản bác bài viết trên với cái tựa khá dài “ĐỨC DALAI LAMA, ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ MẶC CẢM TỘI LỖI CỦA NHÓM “HOÀI NGÔ”” của tác giả Nguyễn Kha. Tác giả dành khá nhiều công sức để tìm kiếm gần như tất cả các phương tiện truyền thông thông dụng, từ google cho đến các trang web Tây Tạng và nhất là nghe kỹ youtube thu lại buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở chùa Viên Giác.

Theo tác giả Nguyễn Kha, ngoài ba lần nhắc đến Việt Nam trong chiến tranh, trong toàn bộ buổi thuyết pháp “Đức Dalai Lama đã không còn đả động gì đến Việt Nam nữa. Nhất là Ngài HOÀN TOÀN KHÔNG NÓI MỘT TIẾNG “PRESIDENT DIEM” HAY MỘT TIẾNG “RICE DONATION” NÀO CẢ. Do đó, dĩ nhiên là không có câu chuyện hoang đường “Đức Dalai Lama bồi hồi khi kể lại sự giúp đỡ của cụ Diệm” đã “âm thầm gửi hàng tấn gạo để cứu khổ những người Phật Giáo Tây Tạng.” như “Chị Hoa Lan” đã gian trá phịa ra”.

Một lần, bạn tôi, Luật sư Nguyễn Xuân Phước ở Dallas gọi để thảo luận về chuyện “TT Ngô Đình Diệm tặng gạo cho dân Tây Tạng” này. Tôi nói với anh, trên quan điểm chính trị và nhân đạo, tôi tin là có nhưng thú thật tôi không chứng minh được bằng tài liệu nào. Biết tôi sắp đi Đức, anh Phước dặn tôi để đích thân nhờ Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương trượng chùa Viên Giác, Hannover xác nhận dùm chuyện “hàng tấn gạo” này. Tôi hứa sẽ bạch với thầy.

Tôi đến Hannover chiều thứ Năm tuần trước. Lần đầu đến viếng chùa Viên Giác, nhưng về tình cảm, với tôi đây là chuyến trở về. Viên Giác Hannover không có bóng đa già và những mùa thu ngập lá như Viên Giác Hội An. Viên Giác Hannover không có thằng bé ngồi nhìn bóng trăng soi trên sân gạch mà nhớ đến mẹ mình trong những đêm rằm Vu Lan tháng Bảy như Viên Giác Hội An. Cây đa già đã chết, thằng bé đã đi xa nhưng ký ức của một phần đời cô đơn nhất vẫn còn nguyên vẹn trong tâm hồn nó.

Sau những chuyện riêng tư, thăm hỏi sức khỏe, tôi bạch với Hòa thượng Thích Như Điển trong thời gian Đức Đạt Lai Lạt Ma viếng thăm chùa Viên Giác hôm 20 tháng 9, 2013, khi ngài thuyết pháp, khi ngài trò chuyện, khi ngài nói trong chương trình, khi ngài thăm hỏi ngoài chương trình, có bao giờ Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc đến việc “TT Ngô Đình Diệm, một vị Tổng Thống Công Giáo, đã âm thầm gửi hàng tấn gạo để cứu khổ những người Phật Giáo Tây Tạng” không?
Hòa thượng Như Điển xác định “Không”.

Nhưng rồi hòa thượng nói tiếp, sau khi đọc bài viết chính hòa thượng cũng thắc mắc về chuyện “hàng tấn gạo” và bảo các đệ tử, trong đó có nhiều người tu học tại Ấn Độ truy cứu tài liệu để tìm xem nếu Việt Nam Cộng Hòa đã từng viện trợ gạo cho nhân dân Tây Tạng. Ngày 7 tháng 8 vừa qua, hòa thượng nhận được kết quả truy cứu.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã hai lần tặng gạo cho dân tỵ nạn Tây Tạng

Hoà Thượng Như Điển trước chùa Viên Giác, Đức

Hoà Thượng Như Điển trước chùa Viên Giác, Đức

Tài liệu xác nhận Việt Nam Cộng Hòa đã có cứu trợ gạo cho dân tỵ nạn Tây Tạng tại Ấn, và không chỉ cứu trợ “hàng tấn gạo”, vài chục ngàn tấn mà đã gởi hai lần tổng cộng một ngàn năm trăm tấn gạo qua trung gian chính phủ Ấn. Hòa thượng chuyển cho tôi nguyên văn tài liệu và cả đường link dẫn đến tài liệu. Ngài cũng khuyến khích tôi dịch các đoạn liên hệ đến Việt Nam để phổ biến cho công chúng. “Sự thật cần phải làm sáng tỏ”, thầy dặn tôi như thế.

Tôi thật có duyên với câu chuyện “hàng tấn gạo” này vì người đón gia đình tôi ở phi trường và cả nhà ga Berlin lại là chị Hoa Lan. Chúng tôi không biết nhau trước. Chị ở Berlin nên Hòa thượng Phương Trượng chùa Viên Giác nhờ chị đón chúng tôi ở phi trường, đưa sang nhà ga đi Hannover và đón chúng tôi khi về lại Berlin. Khi chị đón tôi ở nhà ga Berlin, trên đường về khách sạn, tôi hỏi có phải chính chị đã nghe đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng “TT Ngô Đình Diệm, một vị Tổng Thống Công Giáo, đã âm thầm gửi hàng tấn gạo để cứu khổ những người Phật Giáo Tây Tạng” hay không? Chị Hoa Lan trả lời “Không”. Chị Hoa Lan cũng không biết ai đã dùng tên chị để đưa vào bài viết. Vì tôi đã được hòa thượng xác nhận bằng tài liệu chính thức của chính phủ Ấn nên việc chị Hoa Lan có nói hay không, không còn là chuyện quan trọng.

Giá trị của tài liệu

Tài liệu do Hòa thượng Như Điển chuyển dày 116 trang do Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách và Quốc Hội Tây Tạng (Tibetan Parliamentary and Policy Research Centre) công bố năm 2006. Trung tâm đặt văn phòng tại H-10, 2nd Floor, Lajpat Nagar – III, New Delhi – 110024, INDIA. Đây là tổng kết các biên bản ghi lại các buổi phỏng vấn các lãnh đạo trong chính phủ Ấn Độ. Những người được phỏng vấn có Thủ tướng Shri Jawaharlal Nehru, Bộ Trưởng Ngoại Giao Shrimati Lakshmi Menon, Bộ trưởng Thương mại Shri D.P. Karmarkar, Thứ trưởng Ngoại Giao Shri A.K. Chanda, Bộ trưởng Thương Mại và Kỹ Nghệ Shri T.T. Krishnamachari và nhiều viên chức cao cấp khác có liên hệ đến tiến trình định cư người tỵ nạn Tây Tạng tại Ấn từ năm 1952 đến năm 2005.

Phỏng vấn Thủ tướng Nehru

Ngày 19 tháng 12 năm 1960, người phỏng vấn tên Shri Harihar Patel hỏi Thủ Tướng Shri Jawaharlal Nehru: “Thủ tướng vui lòng cho biết tên các quốc gia, cơ quan cứu trợ tư có liên hệ đến công việc cứu giúp và định cư người tỵ nạn Tây Tạng tại Ấn và số lượng cũng như tên các trại do các cơ quan đó điều hành tại Ấn, Sikkim và Bhutan?”

Thủ tướng Shri Jawaharlal Nehru: “Các chính phủ Úc, Mỹ và Tân Tây Lan đã viện trợ 10 lakhs Rupees, 4,75,000 Rupees, 2,63,920 Rupees theo thứ tự để chính phủ Ấn chi dùng cho các chương trình tỵ nạn Tây Tạng. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tặng 1300 tấn gạo”.

Các cơ quan thiện nguyện tư cung cấp thức ăn, áo quần, thuốc men v.v. gồm có (1) Co-operative for American Relief Everywhere; (2) American Emergency Committee for Tibetan Refugees; (3) Catholic Relief Services in India; (4) National Christian Council of India; (5) World Veterans’ Federation; (6) Indian Red Cross Society; (7) Junior Chamber International; (8) The Buddhist Society of Thailand. Không có một trại tỵ nạn nào được đặt dưới sự điều hành bởi các cơ quan từ thiện ngoại quốc.”

Phỏng vấn Bộ Trưởng Ngoại Giao Shrimati Lakshmi Menon

Ngày 30 tháng Tư, 1962, người phỏng vấn tên Shri N. Sri Rama Reddy phỏng vấn Bộ Trưởng Ngoại Giao Ấn Shrimati Lakshmi Menon: “Thủ tưởng có vui lòng cho biết đúng hay không rằng Chính phủ Nam Việt Nam đã đề nghị tặng 200 tấn gạo để cứu giúp người tỵ nạn Tây Tạng tại Ấn Độ”. Bộ trưởng Ngoại Giao Ấn Shrimati Lakshmi Menon đáp “Đúng vậy, thưa ông”.
Như vậy, việc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không chỉ một lần mà hai lần và cũng không chỉ vài ngàn mà hàng trăm ngàn tấn gạo là chuyện thật.

Người xác nhận nghĩa cử cao quý của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không phải là một viên chức cấp thấp chăm lo công việc cứu trợ hay một phóng viên báo chí góp nhặt tin tức đó đây mà chính từ lời phát ngôn trang trọng của cố Thủ Tướng Shri Jawaharlal Nehru, người có thẩm quyền cao nhất của chính phủ Ấn và cũng là nhà kiến trúc nên quốc gia dân chủ Ấn Độ hiện đại ngày nay.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tặng gạo cả hai lần đều qua trung gian của chính phủ Ấn và các trại tỵ nạn Tây Tạng ngày đó như Thủ Tướng Shri Jawaharlal Nehru xác nhận, đều đặt dưới quyền điều hành của các cơ quan xã hội Ấn nên đức Đạt Lai Lạt Ma có thể không biết.

Lý do không “hoang đường” mà rất đơn giản và dễ hiểu

Về mặt nhân đạo, việc cố Tổng thống Ngô Đình Diệm tặng gạo cho nhân dân Tây Tạng phát xuất từ tình người. TT Ngô Đình Diệm đâu cần phải vượt qua hàng rào tôn giáo như người viết bài gán ghép cho cố tổng thống. TT Ngô Đình Diệm cũng không phải “âm thầm” giúp đở chỉ vì ngài là “Tổng Thống Công Giáo” mà lại giúp đở “những người Phật Giáo Tây Tạng”. Đạo Công Giáo chẳng những không cấm cản mà còn khuyến khích con cái Chúa giúp đỡ những người khó khăn, đói khát, chịu đựng không cùng tôn giáo. Hình ảnh Mẹ Teresa sẽ mãi mãi như ánh trăng thương yêu soi sáng sông Hằng Hindu Ấn Độ. Hàng triệu người Việt tỵ nạn Cộng Sản sau 1975 đã vượt qua được chặng đường đầu đầy khó khăn phần lớn cũng nhờ vào bàn tay cứu giúp của những người không cùng tôn giáo.

Về mặt chính trị, cố Tổng thống Ngô Đình Diệm chắc chắn biết rằng Việt Nam Cộng Hòa và Tây Tạng có nhiều điểm giống nhau về hoàn cảnh lịch sử và địa lý chính trị. Hai dân tộc từng chịu đựng dưới ách thống trị của phong kiến Trung Hoa, hai quốc gia nhỏ chịu số phận vùng trái độn sát biên giới Trung Cộng, hai cuộc di dân tìm tự do trong đói khát, chịu đựng, viện trợ gạo, do đó, là một cách để thế giới thấy rằng Việt Nam Cộng Hòa luôn đứng về phía những người cùng chiến tuyến tự do. Tổng thống Ngô Đình Diệm không làm việc đó trong “âm thầm” mà đã chính thức thông báo cho Thủ tướng Ấn Độ Shri Jawaharlal Nehru biết và được thủ tướng vui mừng đón nhận. Ngày nay rất nhiều quốc gia có cảm tình với Tây Tạng nhưng trong thời điểm 1960 chỉ vỏn vẹn bốn quốc gia, trong đó có Việt Nam Cộng Hòa đã đóng góp trực tiếp vào việc cứu trợ dân tỵ nạn Tây Tạng. Và trong số bốn quốc gia, Việt Nam Cộng Hòa có thể là nước nghèo nhất về của cải nhưng giàu hơn nhiều cường quốc về lòng nhân đạo.

Hai lý do đó chẳng “hoang đường” nhưng rất đơn giản và dễ hiểu mà vị lãnh đạo một quốc gia cùng số phận với Tây Tạng hẳn phải biết.

Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm có đức tính sống cao cả hơn và có một tâm hồn trong sáng hơn nhiều người đang “ca tụng” hay “vinh danh” ngài. Nếu biết kính trọng, hãy để ngài là cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, đừng cô lập ngài thành một vị “Tổng Thống Công Giáo”. Lịch sử để lại nhiều vết thương đau nhưng không có vết thương đau nào là của riêng Công Giáo hay Phật Giáo mà là vết thương đau của dân tộc.

Phản bác bài viết “Câu chuyện thật cảm động của đức ĐẠT LẠI LẠT MA nói về ĐỆ NHẤT VNCH”, tác giả của bài “ĐỨC DALAI LAMA, ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ MẶC CẢM TỘI LỖI CỦA NHÓM “HOÀI NGÔ” cũng chẳng xây dựng hay tích cực gì hơn. Thái độ hiềm khích, hằn học thể hiện ngay trong cách dùng từ, đặt tựa.

Không thể đánh giá một con người đã sống, một biến cố đã xảy ra hơn nửa thế kỷ bằng tiêu chuẩn ngày nay. Phương pháp đó thiếu đặc tính khách quan và lịch sử. Dân chủ là một tiến trình từ thấp đến cao, từ non trẻ đến trưởng thành chứ không phải là một sản phẩm được chế tạo theo một công thức, mẫu mực nhất định hay được nhập từ một quốc gia nào. Nền dân chủ Mỹ trả giá bằng sinh mạng của sáu trăm ngàn người lính hai miền trong năm năm nội chiến. Nền dân chủ Nam Hàn cũng phải chịu đựng ám sát, đảo chính, độc tài, tham nhũng trước khi trở thành một trong G20 của thế giới ngày nay.
Việt Nam Cộng Hòa, sau hiệp định Geneva, từ một thường dân cho đến nguyên thủ quốc gia đều bắt đầu hành trình dân chủ đầy gai góc bằng hai bàn tay trắng, vừa học vừa hành trong máu và nước mắt. Không ai muốn nhưng đã để lại những hố sâu, những vết nứt trên đường đi của các thế hệ hôm nay. Một người Việt Nam có trách nhiệm, nếu không giúp lấp lại những cách ngăn, không giúp xoa dịu nỗi đau, không giúp bắt một nhịp cầu cảm thông thì cũng không nên đào sâu thêm hố hận thù, chia rẽ trong lòng một dân tộc đang quá khao khát thương yêu và đoàn kết.

Prague, chiều 26-8-2014

© Trần Trung Đạo

Chia tay Thương xá Tax

Chia tay Thương xá Tax

“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng khẩu súng lục,

tương lai sẽ bắn lại anh bằng một khẩu đại bác”

Bất cứ cuộc chia tay nào cũng mang theo nhiều luyến tiếc. Chia tay giữa người và người thường mang những kỷ niệm riêng tư, những giây phút bên nhau bỗng chốc trở thành kỷ niệm. Nếu như có cơ hội gặp lại nhau thì người xưa đã trở thành “cố nhân” trong muôn vàn khuôn mặt.

Không phải chuyện chia tay chỉ xảy ra giữa người và người. Có những cuộc chia tay ngoài ý muốn và mang tính cách rộng lớn hơn của nhiều người với nơi mình đã sinh sống, thậm chí còn chia tay với cả một đất nước khi phải bỏ xứ ra đi.

Trong bài viết này, tác giả không nói đến những cuộc chia tay như vậy mà chỉ bàn đến sự chia tay Thương xá Tax của những người Sài Gòn đã từng, không ít thì nhiều, gắn bó với một địa điểm thường lui tới tại trung tâm thành phố có tên gọi “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Tôi biết đến Thương xá Tax từ năm 1953 khi gia đình từ miền Bắc di cư vào Nam thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tax đã hiện diện tại Sài Gòn từ năm 1880 trong thời Pháp thuộc với cái tên “Cửa hàng Charner” (Grands Magasins Charner – GMC) tại góc của hai con đường Charner (Nguyễn Huệ ngày nay) và đường Bonard (Lê Lợi).

Những cái tên đường “rặt Tây” như Charner, Bonard được chính phủ Bảo hộ đặt từ năm 1865 để vinh danh Đô đốc Hải quân Pháp, Léonard Victor Joseph Charner (1797-1869) và Louis Adolphe Bonard (1805 – 1867), là những người có liên quan đến việc chinh phục Đông Dương của quân đội Pháp.

Trước đó, đường Bonard mang một cái tên rất bình dân: “Đường 13”. Đó chỉ là một con đường trong một xóm nhỏ mà cư dân địa phương thời đó gọi bằng một cái tên cũng dân dã không kém: “Xóm Thơm”.

Mãi đến năm 1955, Ban Quản lý Định cư dưới thời Tổng thống Diệm mới đổi tên đường Charner thành Nguyễn Huệ, đường Bonard trở thành Lê Lợi. Hai tên đường từ đó mang tên các danh nhân Việt thay thế những ông tướng Pháp và rất may, Nguyễn Huệ – Lê Lợi vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Vị trí của “Cửa hàng Charner” (Grands Magasins Charner – GMC) thời Pháp thuộc

“Cửa hàng Charner” do “Công ty Thuộc địa các Nhà hàng lớn” (Société Coloniale des Grands Magasins – SCGM) xây dựng với số vốn ban đầu 12 triệu franc sau lên đến 30 triệu vào năm 1925.

Ban đầu, mặt tiền của tòa nhà Grands Magasins Charner, thường được gọi tắt là GMC, có gắn tháp đồng hồ theo kiến trúc của Pháp nhưng pha trộn những đường nét Á Đông với mái cong trên tháp.

Mặt tiền của GMC với tháp đồng hồ

GMC tọa lạc tại vị trí đẹp nhất của trung tâm Sài Gòn, kinh doanh các mặt hàng mà thời Pháp thuộc gọi là “bazar”, những sản phẩm đắt tiền, sang trọng được nhập cảng từ Pháp và Anh nhằm phục vụ cho người Pháp tại thuộc địa, giới thượng lưu Sài Thành và các đại điền chủ Nam kỳ Lục tỉnh.

GMC thời đó cũng đăng quảng cáo trên báo, tự hào là “Cửa hàng rộng nhất; Nhiều mặt hàng nhất và là Thương xá tốt nhất” (Magasins les plus vastes; Magasins les mieux assortis; Magasins vendant le meilleur marché).

Bên cạnh các cửa hàng buôn bán, GMC còn có “phòng trà” (salon de thé) và “quán bar kiểu Mỹ” (bar Americain) với lời quảng cáo “Vào cửa tự do” (Entrée Libre) như để khuyến khích khách vãng lai đến mua sắm [*].

Quảng cáo của Cửa hàng Charner

Năm 1942, việc kinh doanh lúc này rất thịnh vượng nên “Công ty Thuộc địa các Nhà hàng lớn” xây thêm một tầng lầu và đập bỏ phần tháp đồng hồ ngoài mặt tiền. Thay vào đó là hàng chữ GMC.

Đối với những người Sài Gòn xưa, bộ mặt mới của GMC với 3 tầng lầu trong thập niên 1940 so với 2 tầng lầu nguyên thủy có phần “đồ sộ” hơn nhưng hình như tòa nhà đã đánh mất vẻ “cổ kính” với tháp đồng hồ mang những đường nét kiến trúc Á Đông.

Phải chăng đó cũng là “cái giá” phải trả khi người ta mải chạy theo cái được gọi là “đồ sộ” mà quên đi những nét kiến trúc đặc thù của một công trình cổ. Xin nhắc lại, đó mới chỉ là thay đổi đầu tiên trong thập niên 1940 vì tòa nhà CMG sẽ còn phải đương đầu với nhiều thử thách những năm sau đó.

GMC với 3 tầng lầu vào năm 1942

Tại đây người ta có thể mua các mặt hàng từ bình dân như đồ chơi trẻ con cho con cháu… đến những thứ đắt tiền như đồng hồ, máy ảnh hoặc nữ trang bằng vàng hay kim cương cho vợ hoặc người tình. Nói chung, Tax có thể coi là “thiên đàng mua sắm” của người Sài Gòn vào những thập niên 60 và 70.

Ngày xưa, trong “lộ trình” của người Sài Gòn khi “bát phố Bonard” không thể nào thiếu mục “ghé Tax”, đó có thể vào lúc khởi đầu hay kết thúc của cuộc hành trình dọc theo đường Lê Lợi. Quả thật, bên trong Tax người mua hàng bao giờ cũng ít hơn người “bát phố” với mục đích chỉ muốn được hòa mình vào đám đông. Dân “bát phố” thậm chí trong túi chỉ đủ tiền để uống ly nước mía Viễn Đông nằm ở góc Lê Lợi và Pasteur!

Vào những ngày cuối tuần còn có sự xuất hiện của những bộ kaki vàng, màu áo của sinh viên sĩ quan Thủ Đức được về phép. Họ vào đấy để tìm lại cảm giác được sống giữa Sài Gòn đô hội sau một tuần đổ mồ hôi trên thao trường nắng cháy. Mai đây khi tốt nghiệp, ra trường họ sẽ tỏa đi các đơn vị khắp 4 vùng chiến thuật và sẽ ít có cơ hội nhìn lại hậu phương Sài Gòn!

CMG trở thành Tax từ thập niên 1960

Vào thập niên 60, người Sài Gòn rất hãnh diện với Tax. Hãnh diện từ thiết kế bên ngoài lẫn bên trong thương xá. Đường dẫn lên lầu là hai cầu thang bằng đồng hình vòng cung trông sang trọng như trong một dinh thự quyền quý.

Khách vào đây có thể đứng tựa lan can nhìn xuống cảnh mua bán tấp nập phía dưới hoặc ghé cửa hàng giải khát, gọi ly cà phê đá hay nước ngọt uống để làm dịu cơn nóng nực lúc ban trưa.

Buổi sáng tại Pôle Nord ngay tầng trệt cũng có phục vụ điểm tâm, vừa ăn vừa nhìn thiên hạ qua lại trước mặt. Buổi tối ngồi nhấm nháp chai bia Con Cọp, bia 33… một cái thú tương đối rẻ tiền mà Tax đem lại cho bất cứ ai ghé chơi vào bất cứ lúc nào.

Đó chính là sợi dây vô hình “buộc” người Sài Gòn với Tax cũng như La Pagode, Givral, Brodard, Thanh Thế hay kem Mai Hương đã một thời gắn bó với cuộc sống Sài Gòn. Những cái tên quen thuộc giờ đây đã trở thành hoài niệm đối với những người nay tóc đã điểm sương.

Thương xá Tax năm 1965

Thương xá Tax cũng đã đi vào văn chương, thơ phú và âm nhạc của người Sài Gòn. Trong ký ức một thời của mình, Ngô Thụy Miên ngồi tại hải ngoại viết về những quán hàng quen thuộc của Sài Gòn xưa:

“Em nhớ không, La Pagode, Givral của những sáng hẹn hò, Hoàng Gia, Pôle Nord của những chiều đưa đón, dạo phố tết Nguyễn Huệ, Lê Lợi tấp nập người qua, và những tối ghé quán Bà Cả Đọi, rồi Đêm Mầu Hồng. Cái không khí ấm áp tràn đầy tình thương của quê hương đó, làm sao có thể ngờ được chỉ trong vài tháng đã chỉ còn để lại một mùa Xuân, một mùa Xuân cuối cùng của những đổi thay…”

Bài hát “Chiều trên Phá Tam Giang” của Trần Thiện Thanh lại diễn tả một buổi tối Sài Gòn sắp vào giờ giới nghiêm và Thương xá Tax đang chuẩn bị đóng cửa:

“… Giờ này thương xá sắp đóng cửa, người lao công quét dọn hành lang, giờ này thành phố chợt bừng lên để rồi ta nghỉ sớm. Ôi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ơi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ôi em ơi Sài gòn không buổi tối…”.

“Thương xá Tax” của Sài Gòn xưa

Sau ngày Sài Gòn “đổi chủ”, Thương xá Tax cũng được “đổi đời”! Nhu cầu mua sắm của người Sài Gòn được thay thế bằng “hệ thống bao cấp nhu yếu phẩm” của nhà nước cho nên sự nhộn nhịp của một trung tâm mua sắm ngày nào nay không còn lý do để tồn tại. Tax biến thành nơi trưng bày mặt hàng sản xuất của các công ty quốc doanh.

Đến năm 1978, Tax được “cởi trói” và “hóa kiếp” thành “Cửa hàng Phục vụ Thiếu nhi Thành phố”. Người bán hàng, khi đó được gọi là “Mậu dịch viên”, lại “thắt khăn quàng đỏ” như thiếu nhi để bán mặt hàng chính là đồ chơi cho trẻ con được sản xuất bởi các công ty quốc doanh.

Dĩ nhiên là “phục vụ thiếu nhi” như tên gọi của cửa hàng nhưng chắc chắn việc trả tiền là của các bậc phụ huynh. Họ chắt chiu từng đồng trong thời khó khăn bao cấp để “mua” nguồn vui cho trẻ thơ qua những con búp bê bằng nhựa tái sinh hay chiếc xe hơi làm bằng gỗ.

Đến năm 1981 Tax một lần nữa đổi tên thành “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố” trực thuộc Sở Thương Nghiệp và trở thành một trong những cửa hàng lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Tax khi đó mang cái tên thật lạ lẫm, vừa dài vừa khó nhớ đối với người Sài Gòn nên trong suốt thời gian từ 1981 đến 1990 người ta vẫn dùng cái tên cũ: “… đi lên Tax”“mua cái này ở Tax…”.

Thương xá Tax trở thành “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố”

Đáng chú ý là “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố” đã thu hút một số du khách đến từ các nước Đông Âu nên người Sài Gòn lại có một cái tên “bán chính thức” là “Chợ Liên Xô” hay ngắn gọn hơn, “Chợ Nga”! Khách hàng nhiều khi đóng thành từng thùng để chuyển về nước những mặt hàng… tư bản.

Vào thời điểm “thịnh vượng”, tòa nhà trở thành một trung tâm giao dịch với các mặt hàng phong phú, từ quần áo, may mặc, mỹ nghệ đến những mặt hàng xa xỉ đều xuất hiện.

Hình như nhà nước cũng ý thức được “Thương hiệu Tax” đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân nên ngày 19/1/1998 dòng chữ “Thương xá Tax” chính thức được đặt trên nóc tòa nhà! Thế là sau bao nhiêu năm “lận đận”, tòa nhà được “phục hồi danh hiệu” đã có từ xưa.

Thương hiệu “Thương xá Tax” xuất hiện trở lại năm 1998

Bước vào thời kỳ “đổi mới” trước sự cạnh tranh từ các trung tâm thương mại do người nước ngoài đầu tư và quản lý, một lần nữa áp lực cạnh tranh đã buộc Thương xá Tax phải tự làm mới mình.

Thương xá từ đó thuộc quyền quản lý của “Công ty Bán lẻ Tổng hợp Sài Gòn”, trực thuộc “Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn” với tên thương mại là SATRA (Saigon Trading Group), được thành lập từ năm 1995.

SATRA bên cạnh thương hiệu “Thương xá Tax”

Đọc đến đây chắc hẳn có bạn đọc thắc mắc tại sao bài viết này lại mang tựa đề “Chia tay Thương xá Tax”?

Nếu chú ý theo dõi báo chí trong nước ta sẽ hiểu ngay vì sao sẽ phải chia tay. Báo Tuổi trẻ, ngày 20/8/2014, đưa tin trong một bài viết có tựa đề “Tiểu thương Thương xá Tax “chết đứng”:

“Việc thương xá Tax thông báo kết thúc hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh tại đây trước ngày 1/10 đã khiến các tiểu thương than “chết đứng”. Trong khi đó khu vực kinh doanh trên đường Nguyễn Huệ (Q. 1, TPHCM) bị ảnh hưởng bởi việc xây nhà ga metro cũng kêu trời khi việc kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng”.

Trên Thanh niên Online, tác giả Trần Thùy Linh sau khi nhắc lại việc “xóa sổ” khu vực Passage Eden đã viết:

“… Và mấy hôm nay, có một nỗi đau tưởng đã lên da non, bỗng bùng lên, dữ dội, khi nghe tin thương xá Tax sẽ vĩnh viễn bị xóa sổ. Tôi tin rằng những “vô tri, vô giác” ấy, những “vật cần phải hy sinh cho sự phát triển” trên khu đất vàng ấy, đã đau lắm. Một cao ốc 40 tầng hiện đại, sáng choang sẽ mọc lên, thay thế cho Tax già nua cũ kỹ đã 134 tuổi. Khu trung tâm Sài Gòn sẽ còn gì?” .

Mô hình dự án toà tháp Tax Plaza cao 40 tầng

Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng trong bài viết “Sài Gòn đang trở nên xa lạ” đưa ra nhận xét mang tính cách chuyên môn:

“Với một diện tích khiêm tốn vài trăm ha, trung tâm Sài Gòn vốn được quy hoạch thành khu trung tâm hành chính và công cộng nay lại đang được nén chặt đến mức ngộp thở. Sài Gòn xưa giờ đang trở thành đô thị của một nước xa lạ nào đó, những bản sắc vốn có và hồn đô thị của thành phố 300 năm tuổi đang bị xóa nhòa.

Liệu bạn có còn tìm được nét Sài Gòn xưa ở những cao ốc mang tên nước ngoài như Royal Garden, Eva Royal Plaza, Avalon, Sailing Tower, Centec Tower hay Kenton Residence, Gemadept Tower, The Manor? Cái tên Sài Gòn cũng được nhắc tới nhưng lại rặt một nét lai căng, ví như Saigon Sky Garden, Saigon Plaza…”

Người Sài Gòn ngồi nhìn Thương xá Tax trước ngày chia tay

Tôi bỗng rùng mình khi nhớ lại một câu nói của ai đó. Câu này đã được dẫn trước bài viết nhưng cũng xin ghi lại một lần nữa để chúng ta đừng quên:

“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng khẩu súng lục,

tương lai sẽ bắn lại anh bằng một khẩu đại bác”

***

Chú thích:

[*] Đọc thêm bài viết “Quảng cáo Sài Gòn xưa: Thời Pháp thuộc” tại:

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/05/quang-cao-sai-gon-xua-thoi-phap-thuoc.html