Cựu Đệ nhất tình nhân tung hồi ký: Đòn đau cho Tổng thống Pháp

Cựu Đệ nhất tình nhân tung hồi ký: Đòn đau cho Tổng thống Pháp

Bà Valérie Trierweiler cùng với Tổng thống François Hollande tại điện Elysée ngày 07/05/2013.

Bà Valérie Trierweiler cùng với Tổng thống François Hollande tại điện Elysée ngày 07/05/2013.

REUTERS/Charles Platiau/Files

Thụy My

Trong cuốn sách mới ra đời mang tên « Merci pour ce moment » (tạm dịch: « Cảm ơn thủa bên nhau »), sẽ phát hành ngày mai 04/09/2014, bà Valérie Trierweiler, người từng được mệnh danh là Đệ nhất tình nhân đã vẽ ra một chân dung không lấy gì làm đẹp đẽ của Tổng thống Pháp. Theo người tình bị phản bội, ông François Hollande ngày càng thiếu đi tính nhân bản, theo với quá trình vươn lên đỉnh cao quyền lực của ông.

Chính thức chia tay với ông François Hollande từ ngày 25/1, cựu « Đệ nhất tình nhân » trả đũa bằng cuốn hồi ký này, và các tiết lộ trong sách được xem là rất tai hại cho ông. Hôm nay tuần báo Paris Match nơi bà Valérie Trierweiler làm việc và nhật báo Le Monde cho đăng các trích đoạn đầu tiên của cuốn sách được chuẩn bị trong bí mật, có số lượng in lên đến 200.000 bản.

Tác phẩm dày 320 trang được in tại Đức để giữ kín đến phút chót, hứa hẹn sẽ bán rất chạy. Hôm nay tuy chưa chính thức có mặt trên kệ sách, nhưng « Merci pour le moment » đã đứng hàng đầu trong số tựa sách được bán trên trang Amazon tại Pháp. Trong đó bà Trierweiller mô tả : « Ông ta lạnh lùng, không cười. Tôi là vật làm tăng giá trị cho ông ta, nhưng đối với ông tôi chẳng có giá trị gì cả ». « Tôi say đắm một con người mà tôi cảm thấy khi thành công càng trở nên xa cách. Tất cả đều đảo lộn ».

Theo hồi ký, Tổng thống cánh tả Pháp khi có quyền lực trong tay đã mất đi tính nhân văn, và buông thả trong cuộc sống riêng tư. Cựu « Đệ nhất tình nhân » viết : « Tổng thống tự giới thiệu là một người không ưa các nhà giàu nhưng trong thực tế, ông ta không thích người nghèo ».

Ông François Hollande hiện có tỉ lệ ủng hộ ở mức thấp nhất trong các cuộc thăm dò dư luận. Cuốn sách được tung ra lúc này có thể càng làm cho công chúng mất thêm cảm tình với ông. Trước đó cựu Bộ trưởng Gia cư Cécile Duflot cũng đã viết sách mô tả ông Hollande : « Cố gắng làm Tổng thống của mọi người, nhưng ông ta chẳng biết cách trở thành Tổng thống của một ai cả ».

Một người thân cận của ông François Holllande cho rằng : « Về mặt chính trị đương nhiên chẳng tốt lành gì cả, chính trị bị biến thành những chuyện phù phiếm ». Nhân vật này lo ngại hình ảnh của Tổng thống Pháp – một người « không gây ác cảm và cũng không phải là người độc địa » – sẽ bị ảnh hưởng dưới mắt công chúng.

Bà Valérie Trierweiler, người phụ nữ 49 tuổi xinh đẹp, theo phong cách cổ điển, vốn bị người Pháp không mấy ưa vì tính cách của bà. Ngay từ tháng 5/2012, bà vẫn đề cao tự do cá nhân, cho rằng vẫn có thể duy trì công việc viết báo ở tờ Paris Match song song với tư cách đệ nhất phu nhân tại điện Elysée.

Một tháng sau, bà gây tranh cãi dữ dội khi gởi đi tin Twitter ủng hộ đối thủ tranh cử với bà Ségolène Royal, người đã sống chung với ông Hollande gần 30 năm và có với ông bốn mặt con, ngáng đường vào Quốc hội của tình địch.

Ngày 10/01/2014, tuần báo Closer tiết lộ quan hệ lén lút giữa Tổng thống Pháp với nữ diễn viên Julie Gayet, dẫn đến sự chia tay giữa bà Valérie Trierweiler và ông François Hollande 15 ngày sau đó bằng một thông báo ngắn gọn của Tổng thống với AFP. Trong cuốn sách, bà cho biết ông Hollande ban đầu cam đoan là mối quan hệ với diễn viên trên chỉ mới bắt đầu có một tháng, sau nói ba rồi sáu, chín tháng, và rốt cuộc là một năm.

Điện Elysée khẳng định cho đến tối qua vẫn chưa hay biết gì về sự xuất hiện của cuốn hồi ký này, và từ chối mọi bình luận.

 

Ai còn có niềm tin đối với Đảng?

Ai còn có niềm tin đối với Đảng?

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-09-04

  • RFA

Hình minh họa chụp năm 2011 tại Hà Nội.

AFP

000_Hkg4466727-305.jpg

Trong những ngày kỷ niệm mùa thu năm 1945 và 69 năm ngày Quốc khánh, mùng 2/9, một lần nữa, vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN được truyền thông tập trung ca ngợi. Thế nhưng niềm tin của dân chúng cũng như của chính các đảng viên có thay đổi hay không sau gần 7 thập niên?

“Lỗi là ở gốc rễ”

Truyền thông trong nước những ngày qua đồng loạt đăng tải thông tin nhắc nhớ về cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng CSVN lãnh đạo đã làm nên một trang sử vẻ vang, giải phóng nhân dân VN khỏi chế độ thực dân, phong kiến. Nước VNDCCH được ông Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập vào ngày 2/9/1945 với một Nhà nước của dân và vì dân. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh trong một bài viết nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc Khánh sau 69 năm rằng chỉ sợ nhân dân mất niềm tin vào Đảng chứ không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Ông Trương Tấn Sang còn nhắc lại câu nói của Nguyễn Trãi “làm lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước” cũng như ông Hồ Chí Minh từng nói “dân là gốc” cho nên mối quan hệ máu thịt, sinh tử giữa Đảng với nhân dân phải được chăm lo ở tầm cao mới, chất lượng mới để đất nước phồn vinh và trường tồn.

Một đảng viên Đảng CSVN không muốn nêu tên chia sẻ suy nghĩ của mình sau khi đọc bài viết tâm huyết của vị Chủ tịch nước đương quyền trên Tạp chí Cộng Sản:

” Nói chung niềm tin cũng không còn nhiều vào Đảng nữa nhưng mà bắt buộc người ta vẫn phải ở trong Đảng. Còn nhân dân thì mất niềm tin nhiều hơn đảng viên.
-Một đảng viên”

“Có đến 80% không tin rằng Đảng còn vững mạnh nữa. Nói chung đã trải qua nhiều thứ rồi. Bây giờ bọn mình cứ đọc báo, kệ các ông nói gì nói. Ví dụ đơn giản cái nghị quyết Trung ương 4 mà vẫn cứ phải học nhưng bây giờ một đảng bộ chỉ đi học một nửa, còn lại một nửa chỉ đọc báo. Nói chung niềm tin cũng không còn nhiều vào Đảng nữa nhưng mà bắt buộc người ta vẫn phải ở trong Đảng. Còn nhân dân thì mất niềm tin nhiều hơn đảng viên.”

Nghị quyết Trung ương 4 có tiêu đề “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay” đang được triển khai với kỳ vọng Đảng sẽ có sức mạnh mới xứng đáng với niềm tin của nhân dân.

Trong khi các bộ ngành, địa phương được cho là đang thực hiện nghiêm túc nghị quyết Trung ương 4 thì dân chúng ngày càng đón nhận tin tức có nhiều đảng viên lần lượt tuyên bố ra khỏi Đảng CSVN. Những người tuyên bố ra khỏi Đảng đều giống nhau ở điểm họ không còn lòng tin vì Đảng CSVN mà họ từng thề tuyệt đối trung thành đã không đi theo đúng tôn chỉ, mục đích như lúc ban đầu là đem lại độc lập, tự chủ, hạnh phúc, dân chủ khi Đảng CSVN hình thành cách nay xấp xỉ một thế kỷ. Tiến sĩ – Bác sĩ trung tá quân đội Đinh Đức Long là người vừa công khai ra khỏi Đảng hồi cuối tháng 8 nói với đài RFA “lỗi là ở gốc rễ”.

Nhồi nhét không thực tế

024_138495-250.jpg

Một bức tranh cổ động trên đường phố Sài Gòn, ảnh minh họa chụp trước đây. AFP PHOTO.

Một thầy giáo ở Hà Nội, yêu cầu đài RFA không tiết lộ danh tánh, vừa được trường học nơi mình giảng dạy đề cử đi học lớp “đối tượng Đảng” cho đài ACTD biết trong suốt 1 tuần tham gia, Ban Tuyên giáo và giảng viên trường Đảng nhồi nhét những điều không thực tế. Trong khi công nghệ thông tin phát triển một cách mạnh mẽ mà những “cảm tình viên” phải bị nhồi sọ rằng “yêu Đảng mới đồng nghĩa với yêu Tổ quốc” và “vào Đảng vì mục đích xây dựng tổ chức Đảng, xây dựng đất nước chứ không phải vì mục đích tư lợi cá nhân, vì thăng quan tiến chức” càng khiến cho bản thân mất “cảm tình” với Đảng. Thầy giáo này lên tiếng:

“Thật ra, trước khi đi học, Hiệu trưởng đã dặn 1 câu là ‘người ta có dạy như thế nào cũng cấm cháu không được giơ tay phát biểu. Để cho người ta dạy’. Bởi vì người ta rất hiểu bây giờ thông tin đa chiều nên có nhiều điều người ta nói sai lệch. Có thể cán bộ xã ở vùng sâu vùng xa người ta thích nghe nhưng đối với mình việc nhồi nhét những điều không thực tế, không chính xác vào đầu thì cảm thấy rất là lố bịch. Vào lớp học người ta dạy đúng như một con vẹt. Mình cũng là một giáo viên, dạy thế nào thì phải rất khéo léo. Thời buổi này đâu có thể thích nói hưu nói vượn là được. Mình đi học thì mới biết được trong lớp học là như thế. Chắc chắn là học để biết thôi. Không vào Đảng.”

” Có thể cán bộ xã ở vùng sâu vùng xa người ta thích nghe nhưng đối với mình việc nhồi nhét những điều không thực tế, không chính xác vào đầu thì cảm thấy rất là lố bịch.
-Một thầy giáo”

Khi đề cập đến Đảng CSVN, hơn bao giờ hết, đại đa số người dân trong nước đều cho rằng đó là tập hợp của một nhóm người “ăn trên ngồi trước”. Những người tham gia vào Đảng ngày nay thường vì mục tiêu tư lợi cho bản thân, dễ dàng trong con đường quan lộ hơn là thực tâm cống hiến và phục vụ cho xã hội, cho nhân dân như lý thuyết vốn dĩ ban đầu được đề ra của Đảng CSVN. Trong thời gian gần đây, Đảng CSVN được dư luận đánh đồng với “lợi ích nhóm”.

Câu hỏi đặt ra có phải nhiều đảng viên của Đảng CSVN vào Đảng đúng theo như nhận xét của công luận? Người đảng viên không muốn nêu tên cho đài RFA biết thêm:

“Cái này nói chung không phải mình mà rất nhiều. Người ta tham gia thì có rất nhiều yếu tố, như cho tương lai. Như bọn mình có thẻ Đảng thì nhiều cái có lợi hơn trong công việc hay có một lý lịch sạch, chẳng hạn. Đơn giản vậy thôi.”

Lời bộc bạch này không đại diện cho tất cả đảng viên Đảng CSVN. Tuy nhiên, nỗi lo sợ niềm tin của người dân đối với Đảng bị đánh mất mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đề cập đến không phải là không có cơ sở. Trong bài viết “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” của ông Trương Tấn Sang nhấn mạnh Nhà nước của dân, do dân và vì dân được toàn dân ủng hộ nhưng Chủ tịch nước đã không bàn đến phương hướng chuyển đổi mà lòng dân đang trông đợi thì con thuyền chở 90 triệu dân VN do Đảng CSVN lèo lái chắc chắn sẽ chìm vì thời đại nào sức dân cũng mạnh như nước.

Số người tự vẫn cao hơn con số chết vì chiến tranh, thiên tai gộp lại

Số người tự vẫn cao hơn con số chết vì chiến tranh, thiên tai gộp lại

Bức tượng một người đang an ủi một người khác đặt trên Cầu Mapo, trên sông Hàn ở Seoul, Nam Triều Tiên nhằm quảng bá một thông điệp về cuộc sống và niềm hy vọng tại chiếc cầu nổi tiếng với lý do không ai muốn - đó là những người muốn tự tử thích tìm đến đó

Bức tượng một người đang an ủi một người khác đặt trên Cầu Mapo, trên sông Hàn ở Seoul, Nam Triều Tiên nhằm quảng bá một thông điệp về cuộc sống và niềm hy vọng tại chiếc cầu nổi tiếng với lý do không ai muốn – đó là những người muốn tự tử thích tìm đến đó

Lisa Schlein

04.09.2014

GENEVE—

Tổ chức Y tế Thế giới WHO báo cáo mỗi năm có hơn 800 ngàn người tự vẫn chết. Công bố bản phúc trình cầu đầu tiên về phòng chống tự vẫn, WHO nói số người chết vì tự vẫn cao hơn số người chết vì các cuộc xung đột, chiến tranh và thiên tai gộp lại. Từ nơi công bố bản phúc trình ở Geneve, thông tín viên Lisa Schlein gửi về bài tường thuật cho đài VOA.

Tổ chức Y tế Thế giới báo cáo cứ mỗi 40 giây lại có một người ở nơi nào đó trên thế giới tự vẫn. Bất kể con số thống kê cao một cách đáng kinh ngạc này, WHO nói chỉ có một số ít các quốc gia có các chính sách nhằm phòng chống tự tử.

Giám đốc WHO về Sức khoẻ Tâm thần và Lạm dụng Ma tuý Shekhar Saxena nói còn có nhiều thứ mà các cộng đồng có thể làm để cung cấp sự hỗ trợ cho những người dễ bị thương tổn. Ông nói tự tử là hậu quả cuối cùng cho những người cảm thấy bị cô lập, trầm cảm và vô vọng. Ông nói xã hội có thể làm nhiều hơn để cung cấp sự hỗ trợ dành cho họ vào một thời khắc hết sức đau khổ:

“Những người cuối cùng đi đến chỗ tự vẫn, gần như trong mọi trường hợp, đã đi tìm sự giúp đỡ của ai đó. Có thể là một người bạn, có thể là một người thân, có thể là một hệ thống chăm sóc xã hội. Có thể là một tổ chức tôn giáo và rất nhiều khi yêu cầu xin giúp đỡ này đã không được đáp lại một cách tích cực. Vì thế các cộng đồng, các gia đình có trách nhiệm phải sẵn sàng cung cấp hình thức hỗ trợ mà người ta cần đến.”

Tổ chức Y tế Thế giới gọi tự tử là một vấn đề sức khoẻ toàn cầu. Tổ chức này nói một quan niệm sai lầm chung là tự tử là một hiện tượng Tây phương và của một nước đã phát triển. Trên thực tế, tổ chức này nói khoảng 75 phần trăm các vụ tự tử xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.

WHO viện dẫn các phương pháp tự tử thông thường nhất trên toàn cầu là dùng thuốc độc trừ sâu bọ, treo cổ và súng ống. Các dữ liệu của một số quốc gia Âu châu, Hoa Kỳ và những nước phát triển cho thấy việc hạn chế các phương tiện vừa kể có thể giúp ngăn chặn mọi người chết vì tự vẫn.

Cơ quan y tế Liên Hiệp Quốc nhận thấy tỷ lệ tự vẫn trên toàn cầu cao nhất nơi những người từ 70 tuổi  trở lên. Tuy nhiên, bác sĩ Saxena nói người trẻ cũng có nguy cơ rất cao. Ông nêu ra điểm tự vẫn là nguyên do hàng thứ nhì gây ra cái chết trong những người từ 15 đến 29 tuổi:

“Nói chung trên toàn thế giới, nam giới tự vẫn nhiều hơn nữ giới. Mặc dầu ở các nước giàu hơn, ở các nước phát triển hơn, tỷ lệ nam giới tự vẫn nhiều hơn so với nữ giới. Ở các nước đang phát triển thì bớt chênh lệch hơn. Điều đó, đương nhiên có nghĩa là số nam giới vẫn cao hơn, nhưng dứt khoát không nhiều bằng so với các nước đã phát triển.”

WHO nói các tỷ lệ cao nhất về tự vẫn là ở Trung và Đông Âu và một số nước Á châu. Tổ chức này nói tỷ lệ tự vẫn ở châu Phi dường như nghiêng về phần thấp. Nhưng tổ chức cảnh báo rằng các số liệu từ khu vực đó rất hiếm hoi và không đáng tin cậy lắm.

Các giới chức y tế đồng ý rằng số người nổi tiếng tự vẫn có thể gây ra một thái độ bắt chước. Nhà khoa học thuộc Phân bộ Sức khoẻ Tâm thần và Lạm dụng Dược chất của WHO, bà Alexandra Fleischmann nói với đài VOA rằng có một sự liên hệ giữa cách thức tường thuật các vụ tự vẫn nơi các cơ quan truyền thông và các hành động thực hiện sau đó. Bà nói:

“Vì thế, sự kiện này làm nổi bật và nhấn mạnh đến vai trò của truyền thông trong các vụ tự vẫn. Không nên thi vị hoá hay thổi phồng các vụ tự vận trên các phương tiện truyền thông bởi vì tiếp theo có thể là những vụ bắt chước.”

Trong các đề nghị, Tổ chức Y tế Thế giới kêu gọi chấm dứt việc tội phạm hoá âm mưu tự sát. Tổ chức này nói hiện có 25 quốc gia trên thế giới – ở châu Phi, Nam Mỹ và châu Á – nơi cả tự tử lẫn âm mưu tự tử bị coi là các hành vi tội phạm. Tổ chức này nói ngay cả những người vô tình dùng thuốc quá liều có thể bị bỏ tù thay vì được đưa vào một cơ sở y tế có thể giúp họ chữa lành.

 

Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn đúc tượng cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn đúc tượng cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận
Wednesday, September 03, 2014

Nguoi-viet.com
Dân Huỳnh/Người Việt

LOS ANGELES, California (NV) – Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn vừa trình làng dự án đúc tượng cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận tại một xưởng đúc đồng ở Los Angeles hôm Thứ Tư.

Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn chính là tác giả bức tượng tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, Westminster, nổi tiếng trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại.

Về công trình mới này, điêu khắc gia Tuấn Nguyễn chia sẻ: “Hôm nay, tôi trình làng hai mô hình này để sắp tới bán đấu giá để gây quỹ cho lễ phong thánh cố hồng y. Sau đó, có thể thực hiện một tượng đài có tượng hồng y cao từ 25 đến 30 feet để vinh danh ngài, người được rất nhiều người Việt Nam mến mộ và được đề nghị Tòa Thánh Vatican phong thánh.”



Điêu khắc gia Tuấn Nguyễn và hai mô hình tượng cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

“Nghệ thuật là rất quan trọng đối với tôi. Nó gần như là một tôn giáo. Nó có nghĩa là tin vào con người, trong cuộc sống, trong tình yêu. Ðó là một phản ứng với những gì là đẹp và đơn giản. Là một nghệ sĩ tôi làm không có mục đích nào khác ngoài việc bày tỏ cảm xúc của mình,” điêu khắc gia nói thêm.

Theo ông Tuấn Nguyễn, trong ngày đấu giá, sẽ có một Thánh Lễ cầu nguyện được tổ chức vào lúc 11 giờ sáng Chủ Nhật, 13 Tháng Chín, tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, Giáo Phận Orange, 1538 N. Century Blvd., Santa Ana, CA 92703.

Sau đó, vào lúc 12 giờ 30, sẽ có buổi đấu giá hai mô hình này, làm bằng đồng, để gây quỹ xây tượng đài.

Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận từng bị CSVN bắt giam sau khi miền Nam Việt Nam sụp đổ năm 1975. Trước đó, ông được Tòa Thánh Vatican cử làm phó tổng giám mục, Tổng Giáo Phận Sài Gòn, với quyền thừa kế từ ngày 23 Tháng Tư, 1975.

Năm 1989 ông được giải phẫu điều trị ung thư tuyến tiền liệt ở Hà Nội rồi năm sau được cho phép sang Roma điều trị tiếp. Tuy nhiên, khi đang ở thủ đô của Ý, chính quyền Việt Nam loan báo không cho phép ông về nước.

Tại Vatican, ông được Ðức Giáo Hoàng John Paul II bổ nhiệm làm phó chủ tịch Hội Ðồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình năm 1994. Ðến năm 1998, ông được cử làm chủ tịch hội đồng thay thế Hồng Y Y.R. Etchagaray nghỉ hưu. Ngày 21 Tháng Giêng, 2001, ông được phong hồng y.

 

Sinh viên Hong Kong kêu gọi bãi khóa

Sinh viên Hong Kong kêu gọi bãi khóa

Thứ sáu, 5 tháng 9, 2014

Nhóm lãnh đạo sinh viên đã họp bên bản sao tượng Nữ thần Dân chủ đặt trong khuôn viên trường Đại học Hong Kong

Hội sinh viên Đại học Hong Kong vừa ra lời kêu gọi, theo đó thúc giục sinh viên ở vùng lãnh thổ này xuống đường biểu tình phản đối các kế hoạch cải tổ chính trị hạn chế của Trung Quốc đối với Hong Kong.

Bắc Kinh gần đây đã ra quyết định khước từ việc trao cho Hong Kong quyền thực hiện bầu cử phổ thông đầu phiếu thực sự.

Lời kêu gọi nêu ra ba điểm. Thứ nhất, các công dân phải được quyền đề cử ứng viên cho kỳ bầu cử người đứng đầu đặc khu hành chính này vào năm 2017.

Thứ nhì, Hội sinh viên nói Hội đồng Lập pháp cần phải bác bỏ kế hoạch bầu cử không đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ ba, cần phải áp dụng các bầu cử phổ thông đầu phiếu bắt đầu từ kỳ bầu chọn Hội đồng Lập pháp trong năm 2016.

Lời kêu gọi của Hội sinh viên thúc giục các giáo viên hãy ủng hộ sinh viên trong hoạt động bãi khóa bằng các hình thức không trừng phạt sinh viên, kết hợp hoạt động với các giáo viên công và thậm chí hãy cùng tham dự vào hoạt động của sinh viên.

Hơn 200 sinh viên từ Đại học Hong Kong đã đồng ý sẽ bắt đầu tẩy chay lớp học trong vòng một tuần, bắt đầu từ 22/9.

“Chúng tôi bãi khóa như một hình thức đưa ra tối hậu thư cho chính quyền, để họ lắng nghe ý kiến của chúng tôi”

Chủ tịch Hội sinh viên Đại học Hong Kong, Yvonne Leung

Quyết định của Hội sinh viên được đưa ra trong lúc một nhà tài trợ tài chính lớn cho phong trào dân chủ muốn chiếm lĩnh các đường phố tại Hong Kong nói việc cắt bỏ cột báo lâu đời của ông là vì động cơ chính trị.

Các nhà hoạt động tại vùng cựu thuộc địa của Anh nói hy vọng của họ về một nền dân chủ thực sự đã bị nghiền nát sau tuyên bố của Trung Quốc hôm Chủ Nhật, theo đó nói vị lãnh đạo tiếp theo của thành phố sẽ được chọn lựa từ danh sách do một ủy ban thân Bắc Kinh đưa ra.

Liên minh các nhóm dân chủ nói họ quyết thực hiện một “kỷ nguyên bất tuân dân sự” để chống lại quyết định trên, và kêu gọi người dân Hong Kong hãy phong tỏa các đường phố chính ở khu quận tài chính trong thành phố.

Lời kêu gọi bãi khóa của Hội sinh viên tuy nhiên sẽ vẫn cần phải được sự thông qua của các nhóm sinh viên và các hội sinh viên vào hôm thứ Bảy này, các lãnh đạo nhóm nói.

“Chúng tôi bãi khóa như một hình thức đưa ra tối hậu thư cho chính quyền, để họ lắng nghe ý kiến của chúng tôi,” chủ tịch Hội sinh viên Đại học Hong Kong Yvonne Leung nói với hãng tin AFP.

Sinh viên từ Đại học Hong Kong đã họp tại nơi đặt bức tượng sao chép “Nữ thần Dân chủ” đặt tại khu học xá của trường, biểu tượng nhắc nhở mọi người nhớ tới phong trào do sinh viên dẫn đầu tại Bắc Kinh đã bị đàn áp tàn nhẫn hồi 25 năm trước.

Bức tượng gốc vốn được chọn làm nơi tụ tập của những người đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn đã bị phá hủy trong cuộc đàn áp.

Bước đường cùng

Bước đường cùng
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Bạn ơi, nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này!”
(Vú Em-Tố Hữu)

Ngày 15 Tháng Tám, Bộ Thông Tin và Truyền Thông Việt Nam ra quyết định đình bản 3 tháng báo điện tử Trí Thức Trẻ và phạt 207 triệu đồng vì ngày 12 Tháng Tám báo này đã đăng một bài có tựa đề là “Gái miền Tây và 3 chữ ‘N’ nổi danh thiên hạ” của tác giả Trai Toàn Cầu.


Một cô gái quảng cáo bia Anchor của Singapore tại Hà Nội. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Ba chữ N đó là Ngoan, Ngon và Ngu. Bài này xem như đã vi phạm luật báo chí và chính ban biên tập đã ngỏ lời xin lỗi độc giả vì đã “gây nên sự tổn thương sâu sắc cũng như tạo cảm giác xúc phạm tới nhiều phụ nữ Việt Nam.”

Thật ra chuyện Ngoan, Ngon và Ngu không lạ gì với lời nói ngày xưa dùng để khuyên những người đi chọn vợ.

Ngoan nói về tính tình, ai lại không thích có một người vợ ngoan.

Ngon nói về thể chất và hình dáng bên ngoài, trắng da dài tóc, có nhan sắc, vì không ai muốn chọn vợ xấu.

Ngu nói về kiến thức. Phải ngu hơn chồng mới phục chồng, và không lấn lướt muốn dạy chồng. Không gì chán bằng cảnh ông chồng mới mở miệng phát biểu một câu thì vợ đã nói, “Chuyện này em biết rồi!” Vậy thì nên chọn một người vợ “ngu” hơn mình.

Nhưng ở đây bài báo lại dùng chữ “ngu” để vơ đũa cả nắm, cho con gái miền Tây ngây ngô và ngu muội, “não ngắn,” thiếu văn hóa. Tác giả cho rằng, “Về độ ‘ngon,’ độ ‘ngoan’ thì tôi dám quả quyết không gái miền nào địch được gái miền Tây. Nhưng còn về độ ‘ngu’ thì phần lớn gái miền Tây cũng là những cô gái ‘ngu dốt’ vô đỗi!”

Không phải bây giờ, mà trước đây báo chí Việt Nam đã có những bài báo chỉ trích cay nghiệt con gái “Bắc Kỳ,” và rồi nay, những người “phụ nữ miền Tây” bị tổn thương vì sỉ nhục là ngu đần!

Cộng sản coi là đã thống nhất được đất nước nhưng lòng người thì ly tán, nhất là sau cuộc đổi đời 30 Tháng Tư, 1975, dân miền Bắc ồ ạt vào Nam lập nghiệp, được ưu tiên nâng đỡ trong việc lập nghiệp, chiếm đất, phá rừng, bây giờ ở Việt Nam đi đâu mà không nghe tiếng nói Bắc Kỳ 75. Người miền Nam chẳng ưa gì dân Bắc vào Nam trong tư thế kẻ thắng trận chiếm đóng, người miền Bắc tuy coi miền Nam là vùng tạm chiếm, bị bóc lột, nhưng gần như ganh tỵ vì choáng ngợp trước cảnh đời sống an nhàn, sung túc của dân Nam.

Người miền Trung và miền Bắc thường có quan điểm cho rằng người miền Nam là hời hợt, nông nổi, thiếu sâu sắc, không có căn bản văn hóa, mối giềng ràng buộc với họ hàng, làng nước. Ðiều này dư luận thường dùng để làm câu giải đáp cho việc “lấy chồng Ðài Loan” của con gái Việt Nam mà các thiếu nữ miền Tây đã dẫn đầu trong vài chục năm qua.

Những nhận xét về “gái miền Tây” lâu nay khá nặng tay. Một cán bộ của Ðại Học Tôn Ðức Thắng nhận định… “nhiều người dân ở vùng này chây lười nên không nhận thấy tầm quan trọng của tri thức!” Một bài khác trong Vnexpress cho rằng, “… đàn bà con gái chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage!” Và chỉ nội cái nhan đề trong Vitalk.vn, “Gái miền Tây lười, ít học và muốn một bước lên bà chủ!” cũng đủ là một điều xúc phạm chung cho cả một tập thể.

Vì đâu nên nỗi?

Người đổ lỗi tại văn hóa, hoàn cảnh thiên nhiên ưu đãi mà không hề ai dám nói đến cơ chế xã hội và những gì là trách nhiệm của kẻ cầm quyền trong bao nhiêu năm nay. Một ông trưởng khoa trưởng một đại học lớn như Ðại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn đã xác định … “nền giáo dục ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long còn quá yếu, đặc biệt với phụ nữ, đã đưa đến những hệ lụy trên!” Vậy thì thưa ông, chủ trương này từ đâu đến và sao không nghe ông than trách việc khách sạn, sân golf, nhà hàng đặc sản hay cho ngoại nhân cho thuê đất để đẩy dân vào chỗ khốn cùng để con gái họ phải thoát ra cảnh nghèo, vươn qua biên giới để mong mỏi có một đời sống tươm tất hơn.

Cũng không nghe ai nói, trước Tháng Tư, 1975, con gái miền Tây toàn là dân đi bán bar, làm sở Mỹ hay làm điếm hay đi lấy chồng Ðài Loan. Ðiều gì đã biến đổi đất nước nói chung và con gái miền Tây lâm thảm cảnh này.

Có quý vị trí thức nào bỏ ra chút thời giờ để nghiên cứu xem xứ nào đàn ông Việt Nam đầu quân đi bán sức lao động xứ người, và vì sao Nghệ Tĩnh và Quảng Bình lại lắm người bỏ ruộng bỏ vườn “đăng ký” đi làm thuê để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không lẽ quý vị lại đổ tội cho chây lười, ít học hay chối bỏ quê hương nghèo khổ, truyền thống của mảnh đất này là thích đi làm “bồi,” hay sợ phạm đến mảnh đất “thiêng” mà không dám nói.

Một sự thật đau lòng là nhạc sĩ Tuấn Khanh, ở trong nước, trong blog của ông đã nói lên một điều, đáng lý phải làm cho chính quyền trong nước đỏ mặt. Các hội gọi là phụ nữ, các tổ chức nhân quyền vẫn thường có thói quen báo cáo tốt, đề cao thành tích, vẽ vời hình tượng người phụ nữ Việt Nam, nhưng có đất nước nào đã ở trong thời kỳ hòa bình, độc lập mà thân phận phụ nữ bọt bèo, trôi giạt khổ đau như người con gái Việt Nam?

Sự thật là trong xã hội này, người phụ nữ bị đánh giá thấp, không hề được bảo vệ, che chở bởi công lý.

Những vụ án có liên quan về phụ nữ từ trước đến nay, phần đông phụ nữ đều bị thiệt thòi vì các loại đàn ông bên nguyên hay bên bị đều là loại nô bộc trung thành với đảng và nhà nước, và phụ nữ Việt Nam được xem không hơn một món đồ chơi.

Khi nói chuyện về đời sống của các cô gái miền Tây đi lấy chồng xứ người, blogger Tuấn Khanh được biết một sự thật rất là chua chát, nếu còn chút lương tri, hẳn các hội phụ nữ ở Việt Nam và cả cái cơ chế công an, cảnh sát xã ấp phải hổ thẹn. Khi hỏi về chuyện chồng Ðài Loan đánh đập, một cô gái đã cười hồn nhiên nói, “Không phải ai cũng bị như vậy, báo chí nói quá. Nhưng nếu như có bị đánh ở Ðài Loan, tụi em còn được báo chí xứ đó lên tiếng giùm, chứ ở Việt Nam, lấy một ông chồng say xỉn rồi bị đánh chết cũng không ai lo cho mình.”

Ở đây chúng tôi không nhắc đến một loại kỷ luật chỉ có trong xã hội Việt Nam là cấp lãnh đạo thông tin, một loại “Ông Kẹ” mang hơi hướng “đảng,” có thể làm tình, làm tội bất cứ cơ quan truyền thông nào khi họ cảm thấy bất như ý. Bài báo “ba N” có thể gây phẫn nộ cho quần chúng, thậm chí có thể ký giả bị bao vây hay tòa soạn bị đốt nhưng không thể vì lý do gì mà chính quyền phạt tiền hay đình bản. Phải chăng đây chỉ là một thái độ khúm núm, sợ mất lòng, vì trong Bộ Chính Trị hiện nay có bao nhiêu vị có mẹ, có em, có con là “gái miền Tây!”

Lên án ai đó là một công việc dễ dàng, nhưng đi tìm nguyên nhân mà và sự thật là một việc khó! Không dễ dàng như một vị tiến sĩ xã hội học, đảng viên CSVN, đã nhận định rằng do ít ý thức về đức hạnh mà phụ nữ Nam Bộ thường hay lấy chồng ngoại (TK). Vậy thì ở Hà Nội, hoa hậu, sinh viên đại học có tên trong đường dây “gái gọi,” tan trường là lên giường, chắc không phải lý do là đức hạnh!

Ba chữ Ngoan, Ngon và Ngu chưa đủ yếu tố để đưa người con gái miền Tây vào hoàn cảnh mà các “đạo đức gia” hay “đạo đức…giả” tha hồ bới móc, nói xấu. Quý vị cũng không nên quên một chữ N nữa, là chữ Nghèo khiến cho phụ nữ miền Tây phải lâm vào cảnh đi lấy chồng xa, hay chỉ biết đi làm gái tiếp thị bia, massage. Dân nghèo mạt, nhặt rác mỗi ngày không kiếm nổi tới $2, trong khi cán bộ công quyền giàu bạc triệu đô la, ăn xài huy hoắc bạc tỉ là ưu điểm của một chế độ XHCN chăng?

Miền Tây “gạo trắng nước trong” ngày nay như thế nào? Báo Hậu Giang đưa tin: “Dân khổ vì ‘ba không.’ Người dân tại các tuyến dân cư trên những con kênh mới hình thành ở xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, đang sống trong tình trạng 3 không: không nước sạch, không điện, không đường bộ. Trẻ em đến trường rất khó khăn, vậy thì sao cho là dân kém học vấn. Dân Hậu Giang còn nghèo, chỉ mỗi ấp 8 xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, đã có 87 hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có 28 hộ nghèo không có đất sản xuất.” Vậy thì động lực nào đã xô đẩy hàng vạn cô gái miền Tây đi lấy chồng ngoại, nên câu nói “không có tiền thì ‘cạp đất’ mà ăn,” đâu có gì là quá đáng?

Ở đâu có câu chuyện bà Phạm Thị Lài, 52 tuổi, cùng con gái là Hồ Nguyên Thủy, 33 tuổi, với thân thể trần truồng không một mảnh vải che thân, phản đối chính quyền đã cướp đất để bán cho một công ty ngoại quốc trong dự án “Khu dân cư Hưng Phú,” sau khi chồng và cha của họ đã vì quá phẫn uất uống thuốc rầy tự tử! Hai mẹ con bà Lài “đã bị đám vệ sĩ lôi trên cát, bãi cỏ và các đống vật liệu trong tình trạng khỏa thân dưới cái nắng gay gắt.” Ðó chính là câu chuyện “hổ thẹn” nhất của đất nước trong năm 2012 xảy ra tại miền Tây, nơi mà một tờ báo “vô đạo” ngày nay đã lên án là cái xứ lười, ngu và con gái chỉ muốn đi bán bia, hay hành nghề massage.

Hổ thẹn không phải nơi hai mẹ con đã phơi bày cái chỗ đáng giấu của đàn bà, vũ khí yếu đuối cuối cùng phải đem ra để tấn công vào khuôn mặt quá dày, trâng tráo của chế độ, mà xấu hổ rơi về phía cường quyền, đã toa rập với xã hội đen, các thế lực đồng tiền, với sự trợ thủ của ngành công an đẩy người dân vào bước đường cùng.

Xin các nhà nghiên cứu văn hóa, các khoa bảng, trí thức hiện đang giữ các vai trò quan trọng trong các trường đại học hay trung tâm nghiên cứu, thích chuyên bố, rao giảng thứ kiến thức cổ lỗ, xin đừng ôm mãi cái não trạng mà danh từ hiện nay, người Việt trong nước đang dùng là “não ngắn,” đi tìm và đổ lỗi cho văn hóa, địa dư và những nguyên nhân xa cho cái “nghèo,” cái “ngu” của gái miền Tây, hầu hết là để biện minh cho tình trạng hư đốn của chế độ.

Thân “vú em” năm xưa làm sao nhục nhã, khốn khổ bằng chuyện con gái Việt Nam đi làm gái mại dâm mười phương bây giờ, nên chưa lúc nào tôi thấy hai câu thơ của Tố Hữu thấm thía như hôm nay:

“Bạn ơi nguồn thảm sầu kia bởi
Số phận hay do chế độ này!”

‘Lãnh đạo VN cần biết rõ bạn và thù’

‘Lãnh đạo VN cần biết rõ bạn và thù’

Thứ năm, 4 tháng 9, 2014

Kiến nghị nói Việt Nam nên kết bạn với các nước phương Tây từng là cựu thù

Chính quyền Việt Nam phải giải trình cho người dân rõ về những gì mà họ đã ký kết với Trung Quốc tại Hội nghị Thành Đô cách nay hơn 20 năm, một số vị tướng tá về hưu trong quân đội và công an Việt Nam vừa lên tiếng.

Đây là một trong bốn điểm mà 20 vị tướng tá ký tên vào bản kiến nghị đề ngày 2/9 gửi đến Chủ nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu.

Trao đổi với BBC, Đại tá Bùi Văn Bồng, người từng là cán bộ cao cấp trong báo Quân đội nhân dân, đã xác nhận tính xác thực của bản kiến nghị này.

Ông Bồng cũng bình luận về những đồn đoán liên quan tới nội dung thỏa thuận giữa hai bên từ Hội nghị Thành Đô.

“Chủ quyền đất nước là của toàn dân chứ không phải của các nhà lãnh đạo Đảng,” ông nói, “Cho nên với cương vị lãnh đạo Đảng mà quyết định vận mệnh, lãnh thổ quốc gia là sai hoàn toàn.”

“Hội nghị Thành Đô vẫn đang là một tấm màn bí mật,” ông nhận định.

“Từ khi hội nghị Thành Đô xong, hầu như đường lối đổi mới của Đảng xoay chuyển hẳn. Trong 24 năm vai trò của Đảng ngày càng yếu, uy tín kém đi.”

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Kiến nghị được đưa ra vào lúc này, theo ông Bồng, là nhân lúc Đảng đang chuẩn bị văn kiện cho Đại hội 12 để đóng góp ý kiến cho Đảng.

Ngoài điểm về Hội nghị Thành Đô, các vị cựu tướng tá còn thúc giục giới lãnh đạo cam kết cho điều họ gọi là “không được dùng quân đội và công an đàn áp nhân dân, ghi nhận thỏa đáng sự hy sinh của các thương binhh liệt sỹ trong cuộc chiến năm 1979 với Trung Quốc, và xác định chính xác bạn và thù.”

“Chúng tôi (những người ký kiến nghị) muốn có sự đổi mới trong các lãnh đạo sao cho có dân chủ, có lợi cho dân và đúng với bản chất truyền thống của quân đội và công an,” ông Bồng nói.

‘Ủng hộ đông lắm’

Quân đội Việt Nam phải trung thành với Đảng theo quy định Hiến pháp

Ông giải thích là những vấn đề nêu lên trong các kiến nghị là ‘bức xúc từ lâu lắm rồi’, nhất là việc công an và quân đội được trưng dụng để ‘đàn áp dân’ trong các vụ cưỡng chế thu hồi đất.

Về kiến nghị xác định rõ ràng bạn thù, ông Bồng nói ông không rõ quân đội Việt Nam hiện nay xác định bạn thù như thế nào nhưng bản thân ông cho rằng ‘Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam vì họ luôn lăm le xâm lược Việt Nam’.

“Pháp với Mỹ là kẻ thù của thời loạn, của hoàn cảnh thế giới nằm trong kế hoạch của các nước tư bản đế quốc một thời,” ông nói thêm.

Bản kiến nghị thu hút được 20 chữ ký của các tướng tá về hưu, đứng đầu là Trung tướng Lê Hữu Đức, cựu cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.

Ngoài ra còn có năm vị thiếu tướng quân đội khác cũng tham gia ký tên, bao gồm các ông Trần Minh Đức, cựu phó tư lệnh Hậu cần ở Thừa Thiên-Huế, Huỳnh Đắc Hương, cựu tư lệnh kiêm chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, Lê Duy Mật, cựu tư lệnh kiêm phó tham mưu trưởng Quân khu 2, Bùi Văn Quỳ, cựu phó tư lệnh chính trị Bộ đội Tăng-thiết giáp và Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu chính ủy Quân khu 4, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc.

Đại tá Bồng nói rằng 20 chữ ký này ‘chỉ là sự tập hợp điển hình’ bởi vì các ông ‘không có thời gian kêu gọi vận động mọi người’.

“Trong tâm tư của các cựu chiến binh thì họ ủng hộ đông lắm nhưng khi lên tiếng ủng hộ thì họ sợ sệt thế này thế kia. Có khi bị cho là suy thoái tư tưởng,” ông Bồng nói.

Chúng tôi muốn biết

Chúng tôi muốn biết

clip_image001

Tự do ngôn luận liên quan chặt chẽ tự do tiếp cận thông tin. Mỗi người dân đều có quyền tiếp cận những thông tin từ nhà nước như chính sách quốc gia, hoạt động của chính khách nhà nước và/hoặc đảng cầm quyền trên mọi lĩnh vực: giáo dục, môi trường, y tế, an sinh xã hội… đến chủ quyền quốc gia. Đó là một trong những quyền hết sức cơ bản của người dân.

Cung cấp thông tin chính xác, minh bạch và có trách nhiệm là bổn phận của nhà nước.

Ngược lại, quyền tiếp cận thông tin từ nhà nước giúp người dân có thể tiếp thu, đánh giá, lên tiếng phê bình hay ủng hộ. Đây là yếu tố nền tảng của dân chủ. Động thái phớt lờ quyền cơ bản đó chỉ có ở những thể chế phản dân chủ, độc tài.

Đã bao giờ bạn đặt câu hỏi: người dân có quyền được biết những thỏa thuận, những ký kết có liên quan đến chủ quyền quốc gia hay không?

Tháng 5/2014 vừa qua, khi Trung Cộng đem giàn khoan HD-981 xâm lấn vùng biển Việt Nam, lần đầu tiên Công hàm 1958 liên quan đến chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký đã được đề cập công khai trên truyền thông nhà nước. Và rất nhiều người Việt Nam sửng sốt, kinh ngạc về cái công hàm vô cùng tai hại này.

Dù biện bạch thế nào, Công hàm 1958 được ký với nội dung tán thành Công bố của chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về chủ quyền và lãnh hải (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) khiến người dân quan tâm, lo lắng đến vận mệnh đất nước phải đặt câu hỏi: Tại sao những thỏa thuận ký kết liên quan đến chủ quyền Tổ quốc Việt Nam lại bị ém nhẹm suốt hơn nửa thế kỷ? Và những thông tin này nhà nước Việt Nam chỉ bất đắc dĩ công bố khi Trung Cộng trưng ra như bằng chứng về cái gọi là quyền “sở hữu” của Trung Quốc đối với Hoàng Sa & Trường Sa.

Quyền được thông tin là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước. Trong trường hợp này, mỗi chủ nhân của nước Việt Nam phải nắm bắt thông tin, mới có thể chung sức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi chính đáng của chính họ, cũng là của cả dân tộc Việt Nam.

Trên thực tế, mối quan hệ giữa chóp bu lợi ích nhóm trong hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc luôn che lấp những thông tin liên quan đến chủ quyền, nhân quyền, các vấn đề kinh tế – xã hội – văn hóa ở Việt Nam.

Hậu quả của “vùng tối” này là gì?

Nhân dân Việt Nam thường bị động trước các động thái gây hấn, lúng túng trước các thông tin do Trung Cộng đưa ra. Trong khi đó, nhà nước Việt Nam lại chủ trương đàn áp những ai muốn bạch hóa cái “hố đen” đó, khi người dân lên tiếng đòi hỏi hoặc tìm mọi cách để biết sự thật những gì đã và đang diễn ra.

Một trong những ký kết có liên quan đến vận mệnh quốc gia Việt Nam là “mật” ước Thành Đô 9-1990. Cho đến nay, gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua, không có bất kỳ thông tin nào liên quan đến hội nghị này được nhà nước Việt Nam chính thức công bố.

Mọi người lo ngại trước viễn cảnh Việt Nam sắp biến thành xứ sở phiên thuộc của Trung Quốc qua những thông tin rò rỉ.

Đã có những cá nhân, tập thể yêu cầu nhà nước Việt Nam công bố thông tin này. Đáp lại, đang là động thái “mũ ni che tai”, phớt lờ trịch thượng, vô trách nhiệm.

Vận nước đang nguy nan, đòi hỏi người dân phải được biết và có quyền được biết những thỏa thuận ký kết trên lưng người dân, 24 năm trước, giữa các yếu nhân hai đảng và nhà nước, gây phương hại nền độc lập của Việt Nam từ đó đến nay và tương lai.

Chúng tôi có quyền được biết, và chúng tôi muốn biết những gì đã và đang diễn ra.

Các bạn – những người dân Việt Nam nặng lòng yêu nước, với trách nhiệm trước cha ông và hậu thế, hãy cùng chúng tôi cương quyết tranh đấu và kiên trì đòi hỏi trên cơ sở quyền được biết này.

Hãy bắt đầu từ nội dung Hiệp ước Thành Đô 9-1990.

Chúng Tôi Muốn Biết

Nguồn: mangluoiblogger.blogspot.com

Tại sao người Công giáo xưng tội

Tại sao người Công giáo xưng tội

Chuacuuthe.com

TRẦM THIÊN THU

0409142

VRNs (04.09.2014)- Sài Gòn- Nhiều người không hiểu tại sao người Công giáo lại xưng thú tội mình với linh mục. Thực ra đó là làm theo tiền lệ trong Kinh Thánh.

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra và nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:21-23). Người Công giáo tin rằng Chúa Giêsu đã trao quyền tha tội cho các Tông đồ (các linh mục đầu tiên) và những người kế vị, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

XƯNG TỘI LÀ BÍ TÍCH TRAO BAN ÂN SỦNG

Giáo hội Công giáo dạy rằng bí tích là dấu chỉ bề ngoài, do Chúa Giêsu thiết lập, để ban ân sủng. Xưng tội, gọi là Bí tích Hòa giải hoặc Cáo giải, ban cho chúng ta ân sủng để chống lại bản chất tội lỗi. Đó là bí tích chữa lành.

Giáo lý của Giáo hội Công giáo (GLCG) cho biết: “Những ai tới gần bí tích Sám hối, sẽ nhận được từ lòng từ bi Thiên Chúa ơn tha thứ về sự mình đã lỗi phạm đến Ngài, đồng thời họ được hoà giải với Giáo Hội mà tội lỗi của họ đã gây thương tích: chính Giáo Hội đã lo cho họ trở lại nhờ đức bác ái, nhờ gương sáng và những lời cầu nguyện” (GLCG, số 1422).

XƯNG TỘI LÀ CHÚNG TA ĐỐI DIỆN VỚI TỘI LỖI

Rất khó đến với một người mà chúng ta đã làm tổn thương và xin họ tha thứ. Cần can đảm và khiêm nhường nhìn nhận mình sai trái, nhất là cần biết rằng người đó vẫn có thể buồn giận. Cũng vậy, người Công giáo phải can đảm và khiêm nhường bằng cách nói cho linh mục biết tội lỗi của mình. Chúng ta phải đối mặt với tội lỗi và nhận mình sai trái. Dĩ nhiên, linh mục bị buộc bởi “ấn tòa giải tội” và không được tiết lộ hoặc nói với bất cứ ai về tội của người khác.

XƯNG TỘI LÀ ĐƯỢC SẠCH TỘI

Sau khi xưng tội, người Công giáo tin rằng linh hồn họ được sạch tội, không tì vết như thuở ban đầu, và được trang bị bằng sự bảo vệ để không tái phạm. Thường xuyên xưng tội thì chúng ta sẽ được thêm nhiều ân sủng và được nhắc nhở về việc chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình.

TỘI LỖI KHÔNG RIÊNG TƯ

Tội của chúng ta có ảnh hưởng người khác, dù chúng ta cho đó là “tội riêng”. Đó là sự liên lụy hoặc liên đới tội lỗi. Các tội như vậy có thể có vẻ nhỏ nhật, nhưng chúng vẫn làm chúng ta thay đổi. Có thể chúng ta ích kỷ vì các tội này, nhưng rồi sự ích kỷ của chúng ta sẽ ảnh hưởng người khác. GLCG nói: “Nhiều tội đã gây thiệt hại cho tha nhân. Vậy phải làm hết sức mình để đền bù (như trả lại những gì mình đã ăn trộm, phục hồi thanh danh cho người mình đã vu khống, bồi thường những thương tích mình đã gây cho tha nhân). Nguyên đức công bằng cũng đòi buộc như thế. Nhưng ngoài ra, tội lỗi còn làm bị thương và làm mất sức chính tội nhân, cũng như đã gây tổn thương cho những liên hệ giữa tội nhân với Thiên Chúa và với tha nhân. Ơn tha tội xoá tội lỗi, nhưng không sửa lại được tất cả những xáo trộn mà tội lỗi đã gây nên (x. CĐ Trentô, DS 1712). Được tha thứ tội lỗi, được chữa lành, tội nhân còn phải lấy lại đầy đủ sức khoẻ tinh thần. Vậy người đó phải làm một cái gì để đền bù tội lỗi mình: người đó phải “đền tội” cách thích hợp, tức phạt tạ các tội lỗi mình. Đó là việc đền tội” (GLCG, số 1459).

TƯ VẤN TÂM LINH

Dù điều này không luôn xảy ra khi chúng ta đi xưng tội, nhưng  đôi khi hối nhân có thể nhận được lời tư vấn từ linh mục. Hãy nhớ rằng linh mục là “kênh” chuyển sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua Bí tích Hòa giải, và linh mục có thể hướng dẫn tâm linh cho hối nhân. Việc tư vấn này có thể rất có lợi đối vối việc phát triển tâm linh và đổi mới, đồng thời có thể giúp phát triển mối quan hệ với Chúa Ba Ngôi.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Lễ Thánh GH Gregory, Tiến sĩ Giáo hội, 3-9-2014

 

Trung Quốc mở tuyến du lịch mới tới Hoàng Sa

Trung Quốc mở tuyến du lịch mới tới Hoàng Sa

03-09-2014

Tàu du lịch Coconut Princess

Tàu du lịch Coconut Princess của Trung Quốc

Source sanya.hinews.cn

Trung Quốc vừa bắt đầu khai thác một tuyến đường du lịch mới tới quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hôm 2/9, Reuters dẫn tin từ Tân Hoa Xã cho hay.

Con tàu du lịch Coconut Princess bắt đầu chuyến hành trình 4 ngày từ thành phố Tam Á, thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Quốc, tới Hoàng Sa hôm qua. Các du khách sẽ thăm ba hòn đảo ở đây, chơi bóng chuyện, bơi lặn, câu cá và chụp ảnh cưới.

Tháng 4 năm ngoái, Trung Quốc mở tuyến đường du lịch từ Hải Khẩu, cũng ở Hải Nam, tới Hoàng Sa. Tuyến Tam Á – Hoàng Sa được cho là ngắn hơn và sẽ thay thế.

Tháng trước, Trung Quốc cho biết sẽ xây hải đăng ở 5 đảo nhỏ trên Biển Đông, bao gồm bán đảo Hoàng Sa.

Việt Nam và Trung Quốc vốn căng thẳng về những tranh chấp trên Biển Đông, nơi Trung Quốc khẳng định chủ quyền tới 90% bao gồm quần đảo Hoàng Sa.

Hậu vụ Vinalines: Những con tàu giá triệu đô thành ‘tàu ma’

Hậu vụ Vinalines: Những con tàu giá triệu đô thành ‘tàu ma’

September 03, 2014

Nguoi-viet.com

QUẢNG NINH (NV)Hàng chục con tàu trị giá cả trăm tỉ đồng của Vinalines nay mục nát, hoen rỉ, như “cái xác hoang tàn” nằm trôi nổi trên Vịnh Hạ Long do bị chủ nhân bỏ hoang.

Có giá trị sổ sách hơn 1,000 tỉ đồng (tương đương $50 triệu), đầu tư gốc 1,600 tỉ đồng nhưng hiện nhiều con tàu có xác “hoành tráng” của tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines) đang chờ bán với giá sắt vụn.

 

Những con “tàu ma” của tập đoàn tham nhũng Vinalines giờ như đóng sắt vụn. (Hình: VNExpress)

Theo báo Người Lao Ðộng, hơn 3 năm kể từ khi chuyển từ tập đoàn Vinashin về Vinalines, đội tàu Vinashinlines với hơn 10 chiếc, có tải trọng lên đến trên 200,000 tấn đến nay chỉ còn 4 chiếc đang hoạt động.

Số còn lại đã phải tạm dừng khai thác do xuống cấp nghiêm trọng phải neo đậu vạ vật tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Sài Gòn, thậm chí sang tận Cambodia trong suốt hai năm qua.

Vinashinlines thừa nhận hệ thống tàu Lash (chuyên dùng để chở sà lan, có thể nhận và trả hàng sâu trong nội thủy) hiện đang xuống cấp nghiêm trọng, đã dừng khai thác.

Các con tàu có nguy cơ thành sắt vụn của Vinashinlines gồm:

Tàu Sông Gianh: một trong những tàu thuộc đội tàu Lash từng được miêu tả là “tàu ma.” Theo giá trị sổ sách đến cuối tháng 4 năm 2014, có giá trên 365 tỉ đồng. Nhưng dư nợ gốc mua tàu tại ngân hàng đã vượt con số 300 tỉ đồng; số nợ gốc phải trả công ty công nghiệp tàu thủy (VFC) là hơn 4.4 triệu Mỹ kim.

Tàu Green Sea: Ðây là tàu già nhất của Vinashinlines nhưng cũng là tàu có tải trọng lớn nhất. Tàu đóng năm 1983, sức chở 76,000 tấn.

Tàu này vẫn neo đậu dù nhiều lần bị cảng vụ Quảng Ninh trong tình trạng mất an toàn nghiêm trọng. Giá trị còn lại vào khoảng 235 tỉ đồng, trong khi nợ gốc chưa trả xấp xỉ $19.5 triệu.

Tàu Vinashin Liner 2: Có tuổi đời hơn 20 năm. Tàu hết hợp đồng cho thuê hồi tháng 8. Nợ gốc của tàu này còn 8.7 triệu Mỹ kim trong khi giá trị đến thời điểm tháng 4 năm 2014 là 93.8 tỉ đồng.

Tàu Cái Lân 4: Tàu Cái Lân 4 vừa kết thúc hợp đồng với một đói tác nước ngoài. Là tàu nhỏ nhất có trọng tải 6,500 tấn, nhưng là tàu mới nhất của Vinashinlines đóng năm 2006.

Tàu New Sun: Giá trị còn lại trên sổ sách của tàu là 62.3 tỉ đồng. Hai năm qua tàu đã neo đậu tại biển Hải Phòng trong tình trạng không có nhiêu liệu để vận hành các thiết bị tối thiểu như chiếu sáng, cảnh báo an toàn.

Ngoài các con tàu kể trên, số tàu nhỏ thuộc “tập đoàn tham nhũng” Vinalines đang bỏ hoang không thể nhớ hết. Vinashinlines từng rao bán các tàu này hơn một năm trước nhưng hiện chưa có người mua.

Ngoài ra, riêng tiền trông coi bảo quản tối thiểu cho mỗi con tàu cũng đã ngốn thêm trên dưới 400 triệu đồng mỗi tháng.

Do không còn nguồn thu để duy trì tình trạng an toàn tối thiểu nên các giấy chứng nhận an toàn cho các con tàu trên sẽ hết hiệu lực. Khi đó chỉ có thể bán dưới dạng thanh lý, giải bản với giá sắt vụn chứ không thể bán với giá tàu còn hoạt động.

Từ khi vụ án điển hình “Ụ nổi 83M,” với bị cáo Dương Chí Dũng, nguyên cục trưởng Cục Hàng Hải CSVN nâng giá mua ụ nổi khoảng hơn $14 triệu lên $19.5 triệu, nhằm tham nhũng ăn chia với “nhóm lợi ích” dưới sự chỉ đạo của “đồng chí X” (ám chỉ Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng), Vinalines đã trở nên nổi tiếng.

Cũng từ đây, những khoản nợ ngàn tỉ của “nhóm lợi ích” này gây ra đổ hết lên đầu người dân Việt. (N.T)

Đưa Người Ta Không Đưa Sang Sông

Đưa Người Ta Không Đưa Sang Sông

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.

Hạ Đình Nguyên

Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu, tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:

“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thành phố Hồ Chí Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ chức trọng thể.”

Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL Hoàng Tuấn Anh đọc điếu văn. Ảnh:VOV

“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Trưởng ban lễ tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.

Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm cũng biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.

Theo vnexpress:

Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi 17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên – sinh viên – học sinh…

Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII và Khóa IX; Đại biểu hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân trao Huân chương Độc lập hạng nhì cho bà Võ Thị Thắng. Ảnh: Đời Sống Pháp Luật

Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, cũng cho biết thêm đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng:

“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài.

Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ. Thấy động, tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba nhưng không trúng. Cảnh sát ập đến bắt chị. Suốt đêm đó và mấy ngày sau chúng tra tấn chị một cách dã man bằng nhiều cách: tra điện, đóng đinh vào ngón tay nhưng chị quyết không khai báo.

Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”

Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều người khác thì không.

Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận:

Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng:

Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch.

GS Nguyễn Văn Bông năm 1967. Ảnh AP. Nguồn Flickr

Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S.  Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.

Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị ám sát năm 1969. Ảnh: Minh Đức

Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966:

“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”

Vẫn theo bản tin thượng dẫn:

Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.

Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chướng, văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân.

Những bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một số trí thức gọi đùa là “mục kinh tế chợ” đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn “Bí Danh” (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường.

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.

Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay – rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.

Ảnh:VOV

Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, hôm 23 tháng 8 năm 2014, ông Hạ Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”

Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!

Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị VTT là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Thiệt là qúi hoá hết sức!

Dù vậy, tôi chỉ có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?