Không phải 6 mà có tới 13 ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ

Không phải 6 mà có tới 13 ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ
July 13, 2014

Nguoi-viet.com


HÀ NỘI 13-7 (NV) –
Bộ Ngoại Giao Việt Nam chỉ đề cập đến sáu ngư dân Quảng Ngãi bị Trung Quốc bắt hôm 3 Tháng Bảy, không đả động gì tới bảy ngư dân Quảng Bình bị bắt giữ trước đó hai tuần.

Mẹ thuyền trưởng Thành (trái) và vợ các ngư dân trên tàu QB 93256 không biết lúc nào thì con và chồng của họ được trả tự do. (Hình: Sài Gòn Giải Phóng)

Cuối tuần trước, Bộ Ngoại Giao loan báo Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, đã cử đại diện tới thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam, để tiếp xúc với sáu ngư dân Quảng Ngãi, bị Trung Quốc bắt giữ trong vịnh Bắc Bộ.

Sáu ngư dân vừa kể làm việc trên tàu đánh cá mang số hiệu QNg 94912, bị Trung Quốc cáo buộc “xâm phạm hải phận Trung Quốc,” trong khi các nhân chứng là đồng nghiệp của họ trên những tàu đánh cá khác, cùng có mặt tại vịnh Bắc Bộ vào thời điểm họ bị cảnh sát biển Trung Quốc bắt giữ, khẳng định, Trung Quốc đã bắt giữ tàu QNg 94912 và sáu ngư dân khi họ đang hành nghề  trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Vụ Trung Quốc bắt giữ tàu QNg 94912 và sáu ngư dân Quảng Ngãi được báo chí Việt Nam đồng loạt loan tải, khi các nhân chứng báo tin cho gia đình của các nạn nhân và thân nhân của các nạn nhân kể với báo giới. Ngay sau đó, công chúng Việt Nam đòi chính quyền Việt Nam phải hành động.

Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam đã giữ im lặng suốt từ ngày 20 Tháng 6 đến nay, không hề đả động hay thực hiện bất kỳ hành động nào để “tìm hiểu vụ việc” bảy ngư dân ở Quảng Bình cũng bị Trung Quốc bắt giữ từ hạ tuần Tháng Sáu.

Trên số mới nhất, tờ Sài Gòn Giải Phóng loan báo, hôm 20 Tháng sáu, tàu đánh cá mang số hiệu QB 93256, do ông Nguyễn Văn Thành, chủ tàu kiêm thuyền trưởng cùng với sáu ngư dân ngụ ở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, đã bị cảnh sát biển Trung Quốc bắt giữ khi đang hành nghề tại vịnh Bắc Bộ.

Bà Nguyễn Thị Nghĩa, mẹ ông Nguyễn Văn Thành, kể với phóng viên tờ Sài Gòn Giải Phóng rằng, gia đình bà vay mượn khắp nơi để có 800 triệu mua tàu QB 93256 và con tàu này bị Trung Quốc bắt giữ ngay trong chuyến đi biển đầu tiên. Mười ngày sau khi tàu QB 93256 bị Trung Quốc bắt giữ bà mới biết tin. Ba tuần qua, con tàu và bảy ngư dân Việt Nam, trong đó có con trai bà đang bị giữ ở cảng Nam Hải.

Hôm 12 Tháng Bảy, Chi Cục Khai Thác và Bảo Vệ Nguồn Lợi Thủy Sản của tỉnh Quảng Bình xác nhận với tờ Sài Gòn Giải Phóng về việc bảy ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ từ ba tuần trước. Đại diện cơ quan này nói thêm, theo một số nhân chứng, hôm 20 Tháng Sáu, phi cơ và một số tàu có vũ trang của Trung Quốc đã vờn đuổi một nhóm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam và không may là tàu QB 93256 bị bắt giữ.

Theo chủ tịch xã Quảng Phú, ông chính là người báo tin tàu QB 93256 bị Trung Quốc bắt giữ cho gia đình ông Thành và gia đình sáu ngư dân khác. Lý do ông biết tin là vì “phía Trung Quốc báo tin qua kênh ngoại giao, tỉnh nhận tin, xác minh qua Đồn Biên Phòng Roòn, rồi báo lại cho xã để xã động viên gia đình các ngư dân.”

Chủ tịch huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, nói thêm là họ đang nhờ Cục Lãnh Sự của Bộ Ngoại Giao Việt Nam “hoạt động tích cực để đưa các ngư dân về sớm.” Tất cả những ý kiến vừa kể chỉ ra cho thấy, chính quyền Việt Nam đã biết tin bảy ngư dân Quảng Bình bị bắt từ lâu nhưng cho tới nay vẫn chưa phản ứng gì.

Giống như khu vực đang tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa, trong thời gian vừa qua, tình hình vịnh Bắc bộ không êm ả.

Hồi thượng tuần Tháng Sáu, tàu đánh cá mang số hiệu HP 90258 của ông Nguyễn Đức Quang, ngụ tại Hải Phòng đã bị tàu của Trung Quốc tấn công tại vịnh Bắc Bộ. Theo ông Quang, sáng 6 Tháng Sáu, khi đang thả neo để câu mực cách đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh, khoảng 30 hải lý, thì tàu của ông bị một con tàu treo cờ Trung Quốc, mang số hiệu 45024, tấn công. Khoảng 20 người mặc quân phục trên tàu của Trung Quốc đã liệng vỏ chai vào tàu của ông Quang, dùng sào đập bể các bóng đèn cao áp, xịt vòi rồng vào tàu.

Khi ông Quang lái tàu chạy trốn, tàu của Trung Quốc đã rượt đuổi suốt hai tiếng, đâm vào tàu của ông Quang nhiều lần, khiến con tàu bị vỡ đuôi, bể mạn trái, vỡ toàn bộ kính và giàn đèn cao áp dùng để câu mực.

Đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn chưa lên tiếng phản đối và đòi Trung Quốc điều tra về vụ tấn công tàu HP 90258. (G.Đ.)

 

Cha ơi ! con đã quên,

Cha ơi ! con đã quên,

Vợ sinh. Tôi đón cha lên thành phố. Nếu nói là đón mẹ lên thì thích hợp với hoàn cảnh hơn.. Nhưng mẹ tôi đã xa cõi đời từ lúc tôi lọt lòng. Sự ra đi của mẹ, trong thâm tâm tôi vẫn luôn là một sự đánh đổi quá nghiệt cùng của tạo hóa, mà nỗi đau đớn còn dành lại một vị đắng ở đầu môi. Và người ở lại phải sống tốt cho cả hai phần đời.

Tôi đã có thật nhiều cố gắng. Cha tôi, người đàn ông lam lũ. Cha gầy, gầy lắm, mà không phải chỉ gầy do sức khỏe, mà thời gian đã ngấm dần trong từng thớ thịt cha, già cỗi và yếu ớt.

Người đàn ông cô độc ngần ấy tháng năm của tôi. Bao nhiêu lần ôm cha ngủ.

Từ bé, lúc lớn lên đi xa trở về, hay khi tôi đi làm có tiền thường gọi điện cho ông: “cha, lên thành phố với con, con lo được mà”.

Ông hỏi dò “có thiệt không đó, cu con, không để tiền cua gái hả?” Rồi ông cười khà khà.

Hôm sau ông đã có mặt ở nhà tôi. Mang nào gà, nào vịt, nào trái cây. Và không quên mang theo một cúc rượu để cha con nhâm nhi.

****

Nhưng sao lần này, nằm cạnh ông, nhìn ông ngủ, tôi …tôi không diễn tả nỗi cảm xúc của mình. Nước mắt ở đâu cứ như nước sôi đang đun trào, cứ thế đẩy vung mà ra !

Chắc vì tôi mới được làm cha, chắc lẽ thế. Tôi lấy vợ rất muộn. Vợ là người thành phố, con nhà danh giá.

Nhưng với nỗ lực và cố gắng của mình, tôi độc lập về kinh tế, không phải dựa bóng nhà vợ.

Khi mọi người quây quần quanh thằng Mỏ (con trai yêu quý của tôi), nhìn nó kháu khỉnh đáng yêu quá. Nhà vợ rất đông người tới. Ai cũng đòi được bế thằng Mỏ nụng nịu. Bà ngoại thằng Mỏ (là người rất khó tính) nói : “ông Nội bế cháu đích tôn một chút này”, cha đưa tay ra định bế thì bà ngoại khựng lại. “Trời ơi, tay ông nội sao thế, thế thì hỏng da của cháu mất….”. Bà ngoại giữ thằng Mỏ lại trong lòng, vừa nói vừa nhìn bàn tay cha tôi dò xét…

–   “Ờ….vâng, tôi lỡ…để tôi…đi rửa..”. Cha tôi ấp úng rồi đi ra nhà sau để rửa tay.

–   “À, chắc ông mới làm than đó má”.

Tôi nói đỡ, rồi theo cha ra sau. Mọi người lại xúm lại đòi bế thằng Mỏ. Cha tôi rửa tay, và đúng là ông làm than thật. Tức là ông phơi mớ than củi mang từ quê lên để cho vợ tôi nằm hong, khỏi nhức mỏi đau lưng sau này.

Nhưng ông làm xong từ sáng sớm rồi kia mà, lẽ nào cha tôi đã già nên lẫm cẫm rồi, chẳng còn nhớ mà rửa tay nữa.

–    Cha ơi… Thấy ông đứng cặm cụi rửa tay, khó nhọc. Tôi tiến lại “cha, để con rửa cho cha”.

–    “Thôi đi cu con, hồi bé cha rửa tay rửa chân cho mày, giờ học đòi à, nhưng chưa đến lúc đâu….”.

–      “Đưa con coi nào”, tôi giằng lấy tay ông. Trời ơi, hai bàn tay ông chai sần, những lớp da bị tróc mẻ, nham nhỡ đỏ lừ. “Cha bị sao thế, cha đừng rửa bằng xà bông nữa”…Tôi nói.

–      “Ờ, hồi trước, hồi trẻ ấy, cha mày đi xây, bị xi ăn, bị dị ứng.. Hôm qua tao thấy trước sân nhà mày có chỗ bị hỏng, tao hòa ít xi gắn lại. Ai ngờ lâu thế mà nó cũng bị lại…”

Ông nói rồi lững thững đi vào. Vừa đi vừa chùi chùi hai bàn tay vào áo, cái dáng còng còng như oặn trĩu bởi yêu thương. Cha bước đi không còn vững nữa rồi, năm tháng ơi.…..

*****

Là trưởng phòng kinh doanh một công ty, tôi đi tối ngày, tranh thủ chạy về lúc trưa, lúc tối muộn. Nên cha làm gì, mọi người làm gì tôi cũng không rõ hết. Nhà tôi ở ngoại ô. Có một khoảng sân nhỏ, trồng một ít cây cối. Trong những tháng ngày này, được làm cha, được sống trong cảnh gia đình sum vầy thế này. Tôi ngỡ cuộc đời như một giấc mơ. Hay đúng hơn là cuộc đời ai rồi cũng đến lúc sống đúng như một giấc mơ, khi đã cố gắng thật nhiều. Từ chuyện bàn tay, mà cha chưa bế cháu Mỏ một lần nào. Không chỉ vì ánh mắt e dè của bà ngoại thằng Mỏ. Mà có lẽ ông tự ái (bệnh người già mà), ông muốn mọi người được vui. Và hơn hết ông thương thằng Mỏ, như bà ngoại nói “da cháu còn nhạy cảm, như thế là không tốt”.

Tôi cũng chỉ im lặng. Vì nghĩ mọi thứ đều hợp lý. Hay tại vì cha là đàn ông (yêu thương để trong lòng), ít ra cha cũng không như bà ngoại, khi một ngày không ẵm thằng Mõ vài lần nũng nịu là ăn cơm không nổi.

Thế là cha tôi, ngày ngày lầm lũi ngoài khoảng sân nhỏ. Ông nấu nước Vằng (một loại lá cho người đẻ uống rất tốt), ông quét sân, thỉnh thoảng qua chỗ mấy ông già cùng khu phố ngồi chơi. Rồi lại thỉnh thoảng về ngắm thằng Mỏ. Vợ tôi còn bảo “ở nhà ông còn giặt cả tả, quần áo cho Mỏ”. Mặc dù có bà ngoại, hay mấy cô em vợ tôi, mà họ toàn giặt máy. Nhưng khi chưa kịp bỏ vào máy là ông lại bê đi giặt tay. Bà ngoại cũng không muốn ông phiền lòng, nên cũng đành im lặng. Nhưng tôi biết sau đó bà ngoại lại lén bỏ vào máy giặt lại, may mà bà không để cha biết….

Thời gian cứ thế trôi đi, cuộc sống bình lặng êm đềm. Nhưng tình cảm trong tôi đang dậy sóng, vì cái từ “Cha” thiêng liêng, mỗi lúc vợ hay bà ngoại bế thằng Mỏ đều chỉ vào tôi bảo “gọi ba đi, ba ba, ba ba”. Thằng bé chỉ nhìn rồi cười, đáng yêu vô vàn vô tận…

Cho đến một ngày, khi tôi đang đi công tác tỉnh, vợ gọi điện “chồng, về nhà đi, ông nội vào viện rồi”. Tôi về ngay, về liền. Cha tôi đứng lên chiếc ghế đẩu để phơi tả cho thằng Mỏ, bị trượt ngã. Khi tôi về đến nơi ông đã tỉnh, bác sĩ bảo chỉ bị chấn thương nhẹ, cần điều trị vài ngày là hết. Tôi thở phào. Bà ngoại và vợ nhìn tôi ái ngại. Tôi về nhà lấy đồ cho cha.. Tôi lục túi của ông. Một ít quần áo, một tút thuốc quê đã hút phần nữa (cha tôi nghiện thuốc lá). Và…một cuốn sổ, nhỏ bằng lòng bàn tay, màu nâu cũ kỹ, một chiếc bút được kẹp ở giữa. Tôi tò mò, tôi mở nó ra, mở ngay trang đang kẹp bút. Tôi đọc: “Vậy là cháu nội tôi đã chào đời được một tuần. Nhìn con trai vui, mới biết mình đã già, đã sống hết phần đời mình mất rồi. Buồn vui lẫn lộn. Khi về bên kia gặp vợ, có thể an lòng.. Nhưng mà sao già này buồn quá.. Muốn được ôm thằng Mỏ vào lòng quá. Mà….

Già này nhớ những tháng ngày xưa, khi vợ bỏ lại hai cha con ra đi, một mình nuôi con trai. Một mình bế nó trên tay, một mình cho nó uống sữa, một mình ru nó ngủ, trong đêm thâu…. Ôi! mới như hôm qua đây thôi, mà sờ lên mái tóc đã bạc trắng mất rồi. Con trai à, cháu Mỏ à, già này yêu hai cu lắm….Bàn tay chết tiệt này,sao mày lại giở chứng đúng lúc thế….”Tôi lật tiếp những trang viết đầu, những ngày tháng đầu đời: “Vợ anh nhớ em, nhớ nhiều…anh không có gì để ví được”…. “Em yên lòng, anh sẽ nuôi con, anh sẽ sống cho cả hai cuộc đời, anh sẽ làm được…” “Vợ, anh không chịu được nỗi đau này…..” “Vợ ơi…” Dài lắm, tôi đọc mãi, đọc mãi, đến lúc những dòng chữ ngoệch ngoạc của cha nhòa đi bởi nước mắt tôi nhỏ xuống. Tôi mới dừng lại.

Cha viết nhật ký. Ông giấu tôi kỹ quá, giấu tài quá. Đàn ông như cây Lim cây Táu, mà tâm hồn ông như Liễu như Mai, rũ xuống vì yêu thương, rũ xuống vì tình cảm, rũ xuống vì cô độc. Ôi, cha già của con ! “Anh ơi làm gì lâu thế, làm nhanh lên đưa đồ vào cho nội thay đi, anh còn ngủ ư”. Vợ tôi kêu vọng lên lầu. “Ờ…anh biết rồi….”. Tôi quẹt nước mắt. Gấp nhật ký của cha, bỏ lại cẩn thận. Tôi phải lén đi ra, bởi không muốn ai nhìn thấy mình đang khóc, rồi phi ngay xe tới bệnh viện.

Cứ tưởng được làm cha, cảm thấu được nổi thương xót khi cha mình đã ở tuổi xế chiều. Nhưng mà, thực sự giờ tôi mới nghiệm ra một điều, là với cha mẹ, dù mình có đi mòn cả lối đời cũng không thể nào thấu hết những tình thương yêu mà họ dành cho con cái. Không thể hết được đâu. Cho nên, dù ở vị trí nào, cũng chỉ biết sống cho tốt, cho thật tốt, thế mà vẫn cảm tưởng như tình cảm mình đáp lại cho mẹ cha cũng chỉ là gáo nước giữa đồng khô nắng cháy mà thôi. Những hình ảnh về cha hiện lên trong đầu, mắt tôi đỏ ngầu hoen lệ, chứa chan. “Cha…”,

Tôi mở cửa phòng bệnh viện. “ Gì đấy cu con, cha đây mà, cha có trốn đi đâu chớ, cái thằng này”. Cha vẫn gọi tôi như thế. Cả phòng bệnh đông lắm. Cha tôi ngồi dựa vào tường, tay đưa gói bánh cho đứa trẻ con ai ở giường bên, cha bụm bụm vào má nhóc con đó. Tôi chạy lại, mặc kệ ai nhìn, mặc kệ là gì đi nữa, tôi ôm lấy cha. Tôi quay mặt vào tường, cho những giọt nước mắt lăn chảy không ai thấy, tôi nói trong tiếng nấc:

–         “Cha, xin lỗi cha, con đã quên……”.

Bệnh viện âm thanh ồn ả vốn dĩ, mà sao tôi nghe yêu thương đập đầy trong tim……

(Không biết tác giả)

httpv://www.youtube.com/watch?v=y4dK_d6IWLY

Voi bật khóc vì được giải phóng sau 50 năm bị cầm tù

Voi bật khóc vì được giải phóng sau 50 năm bị cầm tù

TTO – Một chú voi ở Ấn Độ đã rơi lệ khi được một nhóm chuyên gia bảo vệ động vật hoang dã giải phóng sau 50 năm bị người chủ xiềng xích và hành hạ.

Nước mắt chảy trên gương mặt của Raju – Ảnh: Daily Mail

Theo báo Daily Mail, chú voi Raju bị người chủ ở bang Uttar Pradesh xiềng xích 24/24 trong suốt 50 năm qua và có nhiệm vụ là giúp ông ta xin tiền lẻ của người qua đường. Raju thường xuyên bị bỏ đói, nhiều khi phải ăn giấy để cầm cự qua ngày.

Tổ chức bảo vệ động vật hoang dã Anh Wildlife SOS phát hiện trường hợp của Raju và báo động tới Cơ quan Rừng Uttar Pradesh. Một cuộc điều tra cho thấy người chủ không hề có giấy tờ hợp pháp về việc sở hữu Raju.

Raju bị xiềng xích suốt 50 năm qua – Ảnh: Daily Mail

Hôm 4-7, một nhóm 10 chuyên gia của Wildlife SOS cùng cảnh sát bang Uttar Pradesh đã mở chiến dịch giải cứu Raju. “Cả nhóm đã sửng sốt khi chứng kiến nước mắt rơi trên mặt Raju trong suốt cuộc giải cứu. Chúng tôi cũng vô cùng xúc động. Chúng tôi biết rằng Raju hiểu nó đã được tự do” – người phát ngôn Pooja Binepal của Wildlife SOS cho biết.

“Voi không chỉ to lớn mà còn là loài động vật hết sức thông minh. Chúng có cảm xúc, biết đau buồn. Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng những đòn tra tấn mà Raju phải chịu đựng trong suốt 50 năm qua” – ông Binepal khẳng định.

Các chuyên gia bảo tồn động vật cố gắng tháo xiềng cho Raju – Ảnh: Daily Mail

Bước đi đầu tiên của tự do – Ảnh: Daily Mail

Ông Binepal cho biết nhiều khả năng Raju đã bị bắt từ khi còn nhỏ. “Raju đã bị trao qua bán lại bởi 27 người chủ khác nhau. Khi chúng tôi tìm thấy Raju nó đang ở trong tình trạng vô cùng tồi tệ. Nó bị bỏ đói đến mức nhiều khi phải ăn nhựa và giấy. Nó có rất nhiều vết thương nghiêm trọng trên người”.

Khi nhóm Wildlife SOS đến giải cứu, gã chủ đã tìm cách kích động để Raju nổi giận và gây nguy hiểm cho người khác. Hắn cũng đã xích Raju rất chặt. Tuy nhiên nhóm Wildlife SOS vẫn quyết hành động và dường như Raju cảm nhận được điều đó.

“Chúng tôi quyết định đưa Raju tới chiếc xe tải cách đó vài trăm m. Mỗi bước đi của Raju đều vô cùng đau đớn nhưng nó cố gắng chịu đựng. Dường như nó biết chúng tôi muốn giúp đỡ nó” – ông Binepal kể. Sau đó nhóm đã đưa Raju tới một trại bảo tồn động vật hoang dã. Tại đây chú voi đã được cho ăn uống và chăm sóc các vết thương.

Quá trình tháo bỏ xiềng xích ở chân Raju kéo dài tới 45 phút. “Chúng tôi đều bật khóc khi những mắt xích cuối cùng được tháo bỏ” – ông Binepal kể.

NGUYỆT PHƯƠNG

 

Phép Lạ của ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Phép Lạ của ĐHY Nguyễn Văn Thuận

(báo Công Giáo CNA đã đăng chi tiết 12-11-2010)

Được khỏi bệnh nhờ cầu nguyện xin ơn với ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Ngày 12 tháng 11 năm 2010, đài EWTN và báo điện tử Công Giáo CNA đã đăng chi tiết về phép lạ của ĐHY Nguyễn Văn Thuận tại Denver, Colorado như sau:

Các bác sĩ đã tuyên bố anh Joseph Nguyễn đã chết sau khi tim của anh ngừng đập và chấn đồ não hòan tòan ngưng chạy. Nhưng trong khi họ đang viết giấy chứng tử thì gia đình của anh đã cất lời kinh kêu cầu lên ĐHY Nguyễn Văn Thuận. Được biết cố ĐHY Nguyễn Văn Thuận là một tôi tớ Chúa đang được cứu xét trong lịch trình phong thánh tại Roma.

Ngày hôm nay thì anh Joseph Nguyễn đã trở lại chủng viện để tiếp tục chương trình học làm linh mục. Khi nhìn tờ giấy chứng tử của chính mình bây giờ đã đóng dấu “VOID” (Vô Hiệu), sau 32 ngày hôn mê, anh chỉ có thể kể lại hai biến cố trong khỏang thời gian dài mà anh mô tả như là một “Giấc ngủ tuyệt vời.”

Thoi thóp trên giừơng bệnh giữa cái sống và cái chết kéo dài nhiều tuần lễ trong năm 2009, anh Joseph chỉ nhớ lại đã được gặp Đức Hồng Y François Xavier Nguyễn Văn Thuận hai lần.

Vị Hồng Y đáng tôn kính người Việt Nam này đã qua đời năm 2002. Năm 2007 Ngài được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI nhắc nhở tới trong thông điệp “Spe Salvi” (Niềm Hy Vọng Cứu Rỗi), trong đó gương chứng nhân của 13 năm tù đày của ngài đã được đề cao. Tháng 10 vừa qua, Vatican đã bắt đầu thủ tục điều tra phong Thánh cho Ngài.

Mặc dù anh Joseph Nguyễn chưa bao giờ gặp mặt ĐHY, nhưng gia đình anh đã biết ngài từ khi ngài còn là một linh mục thuờng. Cha của anh là người khá thân thiết với ĐHY, coi ngài như là một ‘người nhà’.

Khi ĐHY trở thành Tổng Giám Mục Saigon thì mối liên hệ với gia đình anh càng trở nên thắm thiết hơn và sau khi ngài trở thành một tù nhân của chế độ Cộng Sản thì ông nội của anh cũng đã từng bị giam chung với đức Tổng một thời gian.

Năm 1975, gia đình anh Joseph Nguyễn di cư tới Hoa Kỳ, và anh Joseph đã được sinh ra ở đây.

Anh Joseph được kể nhiều về cuộc sống anh hùng của cố ĐHY Nguyễn Văn Thuận và trân quí thông điệp hòa bình và hy vọng của Ngài. Nhưng anh không bao giờ tưởng tượng là anh sẽ phải mô tả chi tiết về cuộc sống riêng của mình, và cái kinh nghiệm của sự chết gần kề, cho các nhà điều tra của ủy ban phong thánh.

Sự thể khởi đầu vào tháng Tám năm 2009, lúc đó Joseph đang học năm thứ 3 tại chủng viện. Anh được giao việc thăm viếng và đưa Mình Thánh cho các bệnh nhân tại các bệnh viện. Vào đầu mùa Thu thì anh bắt đầu có vài triệu chứng bị cúm. Nhưng cơn bệnh trở nên trầm trọng,và anh xin nghỉ để về nhà dưỡng bệnh.

Trong cuộc phỏng vấn với CNA, anh kể lại: “Tôi nhớ đó là ngày 01 tháng mười, tôi không hiễu tại sao mà mình không thở được.” Cha anh chở anh đến bệnh viện, anh còn tỉnh táo để làm thủ tục nhập viện, nhưng sau đó thì không còn nhớ gì nữa.

Anh chỉ được nghe kể lại về những gì đã xảy ra trong ngày anh chết, biết rằng cha mẹ của anh vẫn không mất hy vọng và cầu nguyện nhiệt thành với ĐHY Nguyễn Văn Thuận. Anh cũng nghe kể rằng trong ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, trong lúc hôn mê, anh bắt đầu dứt bỏ các ống truyền nước khỏi mình một cách hung bạo cho tới khi cha của anh đặt một chuổi mân Côi vào tay thì anh mới nguôi.

Một lần thứ hai cơ thể của anh cũng đã ngừng sống, nhưng lần này thì người ta đợi chứ không tuyên bố khai tử anh. Tuy nhiên mọi người cũng nghĩ rằng cơ hội phục hồi thì dường như là vô vọng.

Khi Joseph tỉnh lại 32 ngày sau, anh không còn nhớ chi tiết gì về những cơn đau đớn cả. Một bác sĩ giải thích là anh đã bị ‘cúm heo’ H1N1 kèm với bệnh viêm phổi nặng.

Khi bắt đầu nói chuyện được, Joseph cho biết anh đã gặp ĐHY Thuận 2 lần.

“Trong thời gian hôn mê của tôi, tôi chỉ nhớ có hai điều, ” anh nói.”Hai điều duy nhất tôi nhớ là hai lần thấy Đức Hồng Y Thuận hiện ra… ĐHY đã hiện ra với tôi hai lần.”

Joseph nói rằng anh không chỉ nhìn thấy Ngài mà thôi, nhưng với những tình tiết sống động mà anh mô tả về “lúc linh hồn rời khỏi xác”, anh đã thực sự gặp gỡ và nói chuyện với Đức Hồng Y. Mặc dù anh không thể tiết lộ chi tiết của câu chuyện, anh nghĩ hai lần ấy đã xảy ra trong lúc mà các bác sĩ quan sát thấy các hoạt động của não và cơ thể của anh ngưng họat động.

“Sau lần gặp gỡ thứ hai với ĐHY”, anh nói, “Thì tôi tỉnh dậy.” Anh hòan tòan “không có ý tưởng về những gì đã xảy ra,” hay tại sao anh đã “có những ống dây cuốn chằng chịt khắp người”, đặc biệt là các ống ở cổ làm anh không nói được.

Các bác sĩ đã nghĩ rằng anh cần phải mất nhiều tháng hoặc có thể là nhiều năm trước khi anh có thể nói, đi, hoặc học lại. Nhưng chỉ trong vài ngày là anh đã nói chuyện và thở bình thường, và các y tá phải lo đi tìm anh khắp nơi quanh cơ sở phục hồi.

Anh cũng bất ngờ được người em gái của ĐHY Nguyễn Văn Thuận đang sống ở bên Canada gọi điện thoại sang, bà đã gửi tặng cho anh ta một chuỗi tràng hạt của ĐHY.

Joseph đã trở lại chủng viện vào đầu học kỳ sau đó, một sự kiện khác xa với việc các bác sĩ chuẩn đóan là anh phải mất hai năm để phục hồi sức khỏe.

Sau đó thì tiếng đồn về phép lạ lan truyền ra, anh Joseph đã cung cấp thông tin cho các nhân viên làm việc cho vụ án phong chân phước của ĐHY tại Roma. Nhưng ngòai việc đóng góp đó, anh chủng sinh trẻ tuổi này bây giờ chỉ nhắm vào một mục tiêu duy nhất trước mặt là chức linh mục. Khi anh trở lại chủng viện, Joseph một lần nữa đã được giao nhiệm vụ phục vụ tại bệnh viện.

Trong khi anh giữ kín đáo về khía cạnh phép lạ của mình, Joseph đã rất nhiệt tình nói chuyện về các công việc hiện tại bệnh viện. Anh cho biết tình trạng hôn mê và kinh nghiệm phục hồi của anh đã giúp anh đem hy vọng và niềm an ủi đến cho bệnh nhân.

Những bệnh nhân này dù không biết về cuộc hội ngộ bí ẩn của anh với một vị thánh, hoặc biết về cuộc sống lại ngoạn mục từ cõi chết của anh. Nhưng điều quan trọng hơn là khi họ nhìn thấy vết sẹo trên cổ họng của anh, họ biết rằng anh hiểu được họ. “Thực là mãn nguyện khi có thể bước vào một căn phòng và nói… Quí ông bà không phải chịu đựng những đau khổ như thế này một mình đâu, bởi vì chính tôi cũng đã trải qua đó… nằm ngay tại giường bệnh như thế này”

Joseph coi những kinh nghiệm của anh đã đem đến một “đức hy vọng” trong lòng của anh và cung cấp cho anh một thông điệp mà anh hy vọng sẽ có thể chia sẻ với những người trong hoàn cảnh tuyệt vọng. “Đó là có một ĐHY Thuận trong cuộc sống”.

Trần Mạnh Trác ……………………………….

http://www.catholicnewsagency.com/news/seminarian-may-owe-his-life-to-cardinal-van-thuans-intercession/

Seminarian may owe his life to Cardinal Van Thuan’s intercession

By Benjamin Mann, Staff Writer CATHOLIC NEWS AGENCY

Seminarian Joseph Nguyen

Denver, Colo., Nov 12, 2010 / 06:30 am (CNA/EWTN News).- Doctors said Joseph Nguyen was dead. His heart rate was dropping beyond recovery, and all brain activity was gone. But while they wrote his death certificate, Joseph’s parents were asking an old family friend for help: a Vietnamese cardinal who is being considered for beatification.

Joseph Nguyen has since re-enrolled in seminary. He’s seen his own death certificate, now stamped “VOID.” He has only two memories of the 32-day coma, which he says felt otherwise like a “great night’s sleep.”

During the weeks that he hovered between life and death in 2009, Joseph says he had two encounters with Cardinal Francois-Xavier Nguyen Van Thuan.

The revered Vietnamese Cardinal died in 2002. In 2007 he received a prominent mention in Pope Benedict XVI’s encyclical “Spe Salvi,” where the Holy Father cited his exemplary Christian witness during his 13 years as a political prisoner. His cause for beatification began in 2007 as well. In October 2010, the Vatican began its own inquiry into his possible sainthood.

Long before anyone thought to declare him a saint, the future cardinal was simply a priest– often celebrating private Masses in the homes of some Vietnamese faithful. Although Joseph Nguyen never met Cardinal Van Thuan during his earthly life, his father’s family knew “Father Van Thuan” quite well. They thought of the priest “almost like a family member.”

That family bond deepened when Cardinal Van Thuan became Archbishop of Saigon, and subsequently a prisoner of the Communist regime.

In 1975, Joseph Nguyen’s parents immigrated from Southeast Asia to the United States, where their son was later born. Joseph knew about Cardinal Van Thuan’s heroic life, and appreciated his message of peace and hope. But the young seminarian never imagined he would be describing details of his own life, and near-death, to investigators for the cardinal’s canonization.

It began in August 2009, during Joseph’s third year in the seminary. He was assigned to hospital work, visiting and counseling the sick, as well as bringing the Eucharist to Catholic patients. Early in the fall, he caught what he thought was only a common seasonal flu. When the illness worsened, he asked for leave from the seminary to recover at home.

“I remember October 1st,” he recounted to CNA. “I had no idea why I was gasping for air.” His father drove him to the hospital, where he checked himself in. But Joseph has no memory of that event, or the emergency tracheotomy he received after losing the ability to breathe.

Later, he would hear about the day he was pronounced dead, while his parents kept hope alive and prayed fervently for Cardinal Van Thuan’s intercession. He would also hear about how, on the feast of Our Lady of the Rosary, while still comatose, he began violently pulling the tubes from his body, stopping only when his father placed a rosary in his hand.

He’d also learn about the second time his body seemed to be shutting down. That time, no one declared his death. They’d already seen one seemingly impossible recovery.

When Joseph awoke, after 32 days, he knew nothing about any of this. A doctor explained he had fallen ill not only with a seasonal flu, but also the H1N1 “Swine Flu,” and severe pneumonia. Friends and family later told him the details of his month in the coma.

But when he could speak again, Joseph had his own story to tell.

“During my coma, there are only two things I remember,” he said. “The only two things I remember are two visions of Cardinal Van Thuan … He appeared to me twice.”

Joseph said he not only saw, but actually met and spoke with Cardinal Van Thuan, during two vivid incidents he described as a “separation of soul and body.” Although he said he couldn’t reveal the details of the ecounters, he did say that he suspected that they occurred while his doctors were observing his loss of brain activity and decline in vital signs.

“Soon after the second visit” with the cardinal, he said, “I woke up from the coma.” He had “no idea what had happened,” or why he had “all these tubes and wires” coming out of his body, particularly the tube in his neck that kept him from speaking.

Doctors thought it would be months or years before he could speak, walk, or study. But within days he was talking and breathing normally, racing his nurses around the rehabilitation room.
He also received an entirely unexpected phone call from Cardinal Van Thuan’s sister in Canada, who ended up giving him one of her brother’s rosaries.

Joseph returned to the seminary at the beginning of the following semester– a far cry from the two years his doctors had advised him to wait.

As others learned about Cardinal Van Thuan’s possible involvement in Joseph’s healing, he ended up providing information to officials working on the cardinal’s cause for beatification in Rome. Apart from that contribution, though, the young seminarian just wants to move forward toward the goal of ordination. When he returned to the seminary, Joseph was assigned once again to hospital duties.

While he was reticent about some potentially miraculous aspects of his healing, Joseph spoke enthusiastically about his current hospital work. He said his coma and recovery experience have allowed him to give hope and comfort to patients.

Those patients don’t need to know about his mysterious meetings with a possible saint, or his breathtaking return from death. What matters more is to see the scar on his throat, and know he understands. “It’s very fulfilling to be able to walk into a room and say … ‘You don’t have to feel this alone, because I’ve been there’ – physically, there, in that hospital bed.”

Joseph recalled that his experiences in the coma instilled “the virtue of hope” in his heart, giving him a message he hopes to share with those in desperate circumstances. “That’s Cardinal Van Thuan in my life,” the future priest reflected.

 

Malala đến Nigeria vận động cho các nữ sinh bị bắt cóc

Malala đến Nigeria vận động cho các nữ sinh bị bắt cóc

Cô Malala Yousafzai đến Abuja, Nigeria, ngày 13/7/2014.

Cô Malala Yousafzai đến Abuja, Nigeria, ngày 13/7/2014.

13.07.2014

Nhà hoạt động tuổi thiếu niên người Pakistan, cô Malala Yousafzai đang ở Nigeria để tranh đấu cho hơn 200 nữ sinh Nigeria bị nhóm chủ chiến Boko Haram bắt cóc ở bang Borno thuộc miền đông bắc nước này.

Cô Yousafzai theo dự định sẽ gặp gỡ với thân nhân của các nữ sinh bị bắt cóc, và đang tìm cách gặp Tổng thống Goodluck Jonathan của Nigeria.

Nhà tranh đấu 17 tuổi này nói cô hy vọng sự có mặt của cô sẽ tăng thêm sức ép đòi chính phủ nhanh chóng giải cứu các nữ sinh bị bắt cóc.

Năm 2012 cô Yousafzai bị các phần tử Taliban ở Pakistan bắn vào đầu, suýt chết, vì cô đã nỗ lực vận động giáo dục cho phụ nữ và bé gái. Vụ này chỉ làm tăng thêm tiếng nói của cô.

Cô Yousafzai có mặt tại Nigeria nhân Ngày Malala. Liên hiệp quốc nói Ngày Malala là ngày để tất cả trẻ em “đứng lên đòi giáo dục” và nói với thế giới rằng các em “mạnh hơn kẻ thù của giáo dục.”

Hồi tháng 4, nhóm chủ chiến Boko Haram đã bắt cóc các nữ sinh từ một trường trung học ở thị trấn Chibok của Nigeria. Tên của nhóm chủ chiến này bằng tiếng Hausa có nghĩa là “giáo dục của Tây phương là tội lỗi.”

Giới hữu trách Nigeria chưa giải cứu được các nữ sinh, mặc dù có sự hỗ trợ về tình báo và theo dõi của Hoa Kỳ và các nước khác.

Các giới chức đã bày tỏ lo ngại là bất cứ một cuộc hành quân nào để giải cứu các nữ sinh này sẽ gây nguy hiểm cho mạng sống của các em.

Hoa Kỳ, Tàu Cộng và Việt Nam

Hoa Kỳ, Tàu Cộng và Việt Nam

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Chuacuuthe.com

VRNs (13.07.2014) – Hà Nội – Hoa Kỳ tưởng rằng nâng Tàu Cộng lên sẽ làm suy yếu cộng sản. Điều đó chỉ đúng ở nhất thời. Nhưng về lâu về dài thì khác. Trên thế giới không có đồng minh hay kẻ thù vĩnh viễn. Tạo cho kẻ thù hay bất cứ một quốc gia nào thành hùng mạnh tức là tạo cho mình một kẻ thù đáng ngại. Nó là con giao hai lưỡi. Đông Tây suy nghĩ  khác nhau. Oriental thinking!

Hoa Kỳ bỏ rơi VNCH để đi với Tàu Cộng là một sai lầm. Họ nghĩ rằng xé đôi khối cộng thì họ sẽ thắng và nghiễm nhiên là cường quốc số 1 trên thế giới mãi mãi. Hoa Kỳ chỉ thành công chừng một thời gian không lâu khi mà con hổ Tầu Cộng còn đang dưỡng sức ăn cho béo, tập thể dục cho khỏe. Nay thì ông Tầu đói ăn đã no đủ và cường tráng. Hắn bắt đầu vươn vai muốn đọ sức với ông bạn Hoa Kỳ. Tàu công xâm nhập láng giềng làm suy yếu những người bạn đồng minh của Hoa Kỳ. Tầu cộng cũng muốn trở thành một hiệp chủng quốc Tàu. Mộng Hán hóa lại quay trở về với cái đầu của những kẻ chỉ thích xâm lăng.

Ít năm gần đây tình hình biển Đông nổi sóng với đường lưỡi bò do Tàu Cộng tự định đoạt bất chấp quốc tế. Họ đụng độ với Phi Luật Tân và cả Nhật Bản. Việt Nam thì chẳng kể chi, hắn đã nắm trong lòng bàn tay từ ngày tên Hồ chí Minh chạy sang Tàu cầu cứu xin giúp đỡ. Gần đây nhất việc di chuyển dàn khoan HD 981 vào hải phận kinh tế Việt Nam là một khiêu khích rõ ràng. Vậy Bắc Kinh muốn gì đây trên bình diện quốc tế?

140712001

HOA KỲ PHẢI CHIA SẺ QUYỀN LỰC VỚI TÀU CỘNG

Bằng cách khiêu khích các đồng minh của Hoa Kỳ, Bắc Kinh như muốn buộc Hoa Thịnh Đốn phải chọn lựa giữa những người bạn của mình và gây chiến với Tàu Cộng. Cả hai bên đều tin rằng phe kia sẽ lùi bước. Nhưng hy vọng là họ đều lầm cả. Điều hay nhất cho Hoa Kỳ là thay đổi trò chơi ở Á Châu bằng cách chia sẻ quyền lực với Tàu Cộng nếu Bắc Kinh biết điều.

Nhiều người không hiểu tại sao Bắc Kinh lại tỏ ra hung hãn như vậy ở Biển Đông ngay trên phần biển đất của người ta. Các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh hy vọng lượm được gì khi khuấy động những nước láng giềng và làm bất ổn  trong vùng ?

Đơn giản là họ muốn dương oai chứng tỏ sức mạnh và ảnh hưởng của họ ở Á Châu hơn thời xa xưa ở mấy thế kỷ trước. Đối với họ, nếu họ mạnh hơn tất nhiên Hoa Kỳ phải yếu đi.

Họ nghĩ rằng vị thế của Hoa Kỳ ở Á Châu được xây dựng trện mạng lưới các nước đồng minh và hợp đồng thương mại, quân sự với các nước láng giềng của họ, gồm cả Nhật Bản, Phi Luật Tân và Việt Nam. Họ tin rằng  làm cho sợi dây liên lạc tình nghĩa đó yếu đi sẽ là cách dễ nhất để làm cho quyền lực của Hoa Kỳ trong vùng bi suy giam, mất đi.

NHỮNG KHÓ KHĂN CHO TÌNH LIÊN HỆ GIỮA MỸ VÀ TÀU

Bắc Kinh cũng biết rằng đằng sau những câu nói văn hoa bóng bảy có tính ngoại giao, còn có sự tin tưởng của những người bạn Á Châu của Hoa Kỳ cũng như các nước đồng minh cùng chung hợp đồng với Mỹ, là Hoa Kỳ có thể và sẽ bảo vệ họ chống lại ảnh hưởng và xâm lấn của Tàu cộng không. Vậy thì cách tốt nhất -đối với Bắc Kinh- là làm cho ảnh hưởng của Hoa Thịnh Đốn ở Á Châu yếu đi đồng thời làm cho các chính quyền ở Á Châu mất tin tưởng nơi chính phủ Mỹ.

Khi trực tiếp dùng áp lực quân sự , Tầu cộng có ý làm cho những nước láng giềng của họ khao khát được Hoa Kỳ yểm trợ về quân sự, đồng thời làm cho Hoa Kỳ không muốn dúng tay vào vì mạo hiểm phải đụng độ với Tàu. Nói một cách khác, khi đối đầu quân sự với các nước bạn của Hoa Kỳ là Tầu cộng đối đầu với chính Hoa Kỳ, buộc Hoa Kỳ phải chọn lựa giửa bỏ rơi bạn mình và đánh lộn với Tàu cộng.

Bắc Kinh chắc rằng, trước những chọn lựa đó, Hoa Kỳ sẽ thoái lui, bỏ rơi đồng minh và bạn mình không yểm trợ. Điều này sẽ làm cho đồng minh và những nước hợp đồng với Hoa Kỳ yếu đi. Ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở Á Châu sẽ mất, đương nhiên ảnh hưởng của Tầu Cộng vượt lên.

TẦU CỘNG SẼ TIẾP TỤC GỌI OBAMA LÀ TÊN LỪA GẠT

Khi Obama vừa tuyên bố “trục” Á Châu, Tầu liền trắc nghiệm xem Hoa Kỳ  yểm trợ đồng minh của mình thế nào về vụ tranh chấp các đảo Scarborough Shoal và Senkaku/Diaoyu. Cho đến khi du hành Á Châu vào tháng 4, Obama vẫn tỏ ra lững lờ với những cam kết của Hoa Kỳ. Nhưng tại Tokyo và Manilla ông đã nói chắc nịch để chứng tỏ lời cam kết.

Sau đó người ta đoán rằng Bắc Kinh sẽ trắc nghiệm lại lời nói mới này của Obama bằng gây áp lực mạnh hơn nữa. Bắc Kinh chơi trò đem giàn khoan HD 981 vào hải phận kinh tế của Việt Nam. Thế rồi họ gọi Obama là tên nói láo, lừa gạt.

Dĩ nhiên, đây là mối nguy hiểm cho Tầu. Tầu không muốn đánh lộn với Hoa Kỳ. Vậy thì Bắc Kinh phải tin rằng Hoa Kỳ sẽ lùi bước, bỏ bạn mình hơn là gây lộn với Tầu. Sự tin tưởng này nói lên hai điều mà những nhà lãnh đạo Tầu đang suy luận.

TẠI SAO TÀU CỘNG NGHĨ RẰNG MÌNH TRÊN CƠ

Trước tiên, họ tin rằng khả năng tân trang quân sự của Tầu về hải quân có thể vượt thắng được Hoa Kỳ ở biển Đông. Họ cũng biết rằng Hoa Kỳ không thể thắng trên biển mà không tung một cuộc chiến trên lục địa Tầu. Như vậy hiển nhiên sẽ gây leo thang chiến tranh lớn có thể không ngừng nếu không dùng nguyên tử. Vậy Bắc Kinh nghĩ rằng Mỹ lâm chiến với Tầu là tạo một cuộc chiến mà Hoa Kỳ không tin tưởng là có thể thắng hay có thể giới hạn.

Thứ đến, Bắc Kinh tin rằng nếu so sánh lực lượng hai bên thì cán cân sẽ nghiêng về phía Tầu. Hoa Thịnh Đốn rõ ràng muốn bảo vệ vai trò của mình ở Á Châu, nhưng Bắc Kinh xác quyết hơn là sẽ thắng quân sự và làm cho Hoa Kỳ phải tốn kém. Điều này lại càng làm cho Tầu tin tưởng rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ không thể đoán chừng là Tầu sẽ lùi bước trước cơn khủng khoảng ở Á Châu.

MỘT TÍNH TOÁN NGUY HIỂM?

Thật nguy hiểm, Hoa Thịnh Đốn lại nhất trí rằng Bắc Kinh không thực sự muốn thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ tại Á Châu, bởi lẽ Bắc Kinh không muốn mạo hiểm đối đầu với Mỹ khi biết chắc mình sẽ thua. Nếu ý nghĩ đó là đúng thì cung cách củaTầu bấy lâu nay quả là điên rồ. Thiết nghĩ nó không như vậy?

Cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Bắc Kinh đều leo thang đánh phé, tố nhau khi Tầu Cộng khiêu khích những người bạn và đồng minh của Hoa Kỳ ngày càng trở nên rõ ràng và những cam kết của Hoa Kỳ hứa yểm trợ đồng minh ngày càng chắc chắn. Cả hai phía đều tin là họ có thể thực hiện điều mình muốn vô điều kiện, bởi lẽ họ tin rằng phía kia sẽ thoái lui để tránh đụng độ. Đây  quả là tình trạng hy vọng rối mù, thiết nghĩ cả hai đều có thể sai lầm.

CHIA SẺ QUYỀN LỰC ĐỂ TRÁNH THẢM HỌA

May thay, có thể có một lựa chọn khác khả dĩ thích hợp để tránh tai họa. Hoa Kỳ và Tàu Cộng có thể chia trác quyền hành với nhau ở Á Châu. Ý định này phải chăng đã là ước muốn của Hoa Kỳ khi bỏ rơi VNCH và xé đôi khối cộng quốc tế. Việc này xem chừng quả là khá khó khăn cho cả hai phía, nhưng là khả dĩ nếu cả hai phía đều nhận ra rằng họ không thể thống trị Á Châu mà không đối nghịch với phía bên kia.

Dĩ nhiên Hoa Kỳ sẽ không bao giờ đi bước trước.  Hoa Kỳ đã không bao giờ mặc cả trước với một quốc gia nào giầu và mạnh như Tầu cộng hiện nay. Vậy thì làm sao Hoa Kỳ có thể chia sẻ quyền lực của mình với Tầu cộng nếu vẫn muốn hiện diện ở Á Châu và tránh chiến tranh với một nước Tầu khá mạnh thế này?

Đến đây thì cách tốt nhất là Hoa Kỳ phải thay đổi trò chơi ở Á Châu bằng cách chia bớt quyền lực cho Tầu nếu các nhà lãnh đạo Tầu biết điều đáp ứng thích hợp. Khởi đầu và để thắt chặt mối tương quan chia sẻ quyền lực thế này, điều kiện là các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ phải tuyên bố xác định lập trường  thực sư. Về phía Tầu cộng cũng sẽ phải chấp nhận cho Hoa Kỳ tiếp tục hiện diện ở Á Châu và phải tuân hành những điều kiện căn bản như không được dùng sức mạnh quân sự chống lại hoặc xâm chiếm những nước láng giềng. Đồng thời,Hoa Kỳ phải coi Tầu là đối thủ ngang hàng, cho Tầu đầy đủ quyền lợi như họ muốn, và không còn tự coi mình là thủ lãnh trong vùng nữa.

Như vậy, chúng ta không thể biết chắc chắn được quyền hành mà họ chia sẻ với nhau là những gì, mối tương quan giữa hai bên sẽ thế nào, cho rằng nó có thể khả thi. Nhưng bên cạnh những giải pháp đó, chúng ta vẫn có thể nghĩ đến một giải pháp thay thế khác có thể đưa tới thảm họa trong vùng và có thể cho cả thế giới.

Việt Nam như con cá bơi trong chậu nước lúc đó sẽ thế nào? Coi bộ tương lai quả là mù tối nếu không có một chính quyền thực sự vì dân vì đất nước, quyết tâm để cho người dân có đầy đủ tự do dân chủ và nhân quyền và một dân tộc quả cảm đồng lòng quyết tâm đứng lên bảo vệ quê hương.

Xin Thiên Chúa và Mẹ Maria phù hộ cho Việt Nam bớt khổ đau và thoát nạn Hán Hóa.

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

 

Việt Nam cần thay đổi thể chế để bảo vệ đất nước

Việt Nam cần thay đổi thể chế để bảo vệ đất nước

Chuacuuthe.com

VRNs (13.07.2014) – Quảng Nam – Ngày 01.07.2014 vừa qua chính phủ Nhật bản đã có một quyết định quan trọng là thay đổi học thuyết quốc phòng từ chổ chỉ được quyền phòng vệ cá thể như quy định của Hiến pháp Nhật từ sau đệ nhị Thế chiến đến nay sang quyền được Phòng vệ tập thể mở đường cho Nhật bản tham chiến cùng các nước đồng minh trong tình huống chiến tranh, mục đích tối hậu là để đối phó với một  Trung cộng đang trở nên tự tin quá mức.

Sự phát triển như vũ bão của Trung cộng về kinh tế và quân sự cộng với tham vọng bá quyền cố hữu của đất nước khổng lồ này đặt Mỹ, Nhật, Úc và các nước trong khu vực đông Á vào tình thế bị đe dọa trước mắt và lâu dài buộc các nhà hoạch định chính sách của những quốc gia này phải có một tầm nhìn thực tế hơn về tính mong manh của hòa bình và ổn định trên thế giới và chiến lược chuyển trục của Hoa kỳ đang thực hiện là một đáp ứng theo chiều hướng đó.

Sự đồng hành của Mỹ và Nhật như báo trước một sự thay đổi về cấu trúc an ninh khu vực sẽ xãy ra trong thời gian sắp tới và Việt nam của chúng ta sẽ có vị trí nào trong cấu trúc đó là một câu hỏi lớn đối với nhân dân VN và những người quan tâm đến thời cuộc trong đó có những nhà đấu tranh cho dân chủ đang rất lo lắng cho vận mệnh quốc gia.

Trong thời chiến tranh lạnh hai khối Tự do và Cộng sản đối đầu, Việt nam Cộng hòa (bất đắc dĩ) trở thành tiền đồn của khối Tự do ngăn chận sự bành trướng về hướng nam của khối Cộng sản.

Thời điểm này Mỹ lo ngại Trung cộng sẽ xua 500 triệu nông dân Trung quốc tràn ngập Đông nam Á như lời đe dọa của Mao Trạch Đông với Học thuyết chiến tranh “cài răng lược” để vô hiệu hóa ưu thế về hỏa lực của Mỹ như ý đồ của đảng CS Trung hoa. Vậy là Mỹ đã lập phòng tuyến để “be bờ”, VN trở thành chiến trường cho tranh chấp của hai khối.

Ngày hôm nay lịch sử đang lập lại, TC đang trên đà phát triển vũ bão với nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, với dự trữ ngoại tệ trên 3ooo tỷ Mỹ kim, với công nghệ quốc phòng tiên tiến đang thu hẹp rất nhanh khoảng cách với các nước Phương Tây tạo ra một hiểm họa chưa từng có đối với Nhật bản, Việt nam và các nước khác trong khu vực và trong tương lai không xa là hiểm họa của chính Úc và Mỹ…

Thời chiến tranh lạnh VNCH là một quốc gia Dân chủ nên việc hội nhập vào một liên minh phòng thủ chung không có trở ngại gì, và việc gia nhập Liên minh phòng thủ với các nước trong khối Tự do cũng giúp VNCH bảo vệ được đất nước, bảo vệ được nền tự do trong một giai đoạn chiến tranh máu lửa.

Thời thế hiện nay đã khác xưa rất nhiều về cả hình thái chiến tranh lẫn vũ khí và  quy mô  cuộc chiến cùng  ảnh hưởng của nó lên tương lai khu vực và cả nhân loại.

Nếu như trước đây VNCH có thể tự vệ được trong điều kiện đồng minh Hoa Kỳ viện trợ đầy đủ như Nga- Tàu đã viện trợ cho CS Bắc Việt , nhưng ngày hôm nay với sức mạnh khủng khiếp của quân đội và vũ khí TC khiến cho Nhật bản là một quốc gia công nghiệp giàu có hàng đầu thế giới cũng phải dựa vào chiếc ô an ninh của Mỹ và phương thức phòng vệ tập thể thì VN chúng ta không có lý do gì để đứng ngoài một liên minh quân sự của khối Dân chủ do Mỹ lãnh đạo.

Việc tham gia liên minh phòng thủ trước mắt đáp ứng nhu cầu bức thiết của chúng ta là bảo vệ  quốc gia và sau đó là góp phần vào việc phòng thủ chung để ngăn ngừa chiến tranh nhưng trong mối tương quan này chúng ta cần Mỹ và các nước dân chủ hơn Mỹ và các nước dân chủ cần chúng ta..

Người Mỹ đang thiết lập một vành đai an ninh bao quanh TC từ bắc xuống nam, bắt đầu từ Hàn quốc qua Nhật bản đến Philippines , xuống Mã lai, Nam Dương và Singapore, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy dấu hiệu rõ ràng rằng người Mỹ muốn cộng sản VN đóng một vai trò gì và như thế nào trong cái vành đai an ninh đó và CSVN cũng không hề có chỉ dấu nào là muốn tham gia vào một liên minh phòng thủ chung để được bảo vệ . Việc này sẽ đẩy đất nước vào thế đơn độc đối đầu với TC, nếu TC đơn phương hành động trong lúc này khi VN chưa được ai bảo vệ như Ukraina đã tạo điều kiện cho Nga xâm chiếm Crimea.

Nhận thức được nguy cơ từ Trung cộng Philippines đã nhanh chóng có những hành động cụ thể như cho phép quân đội Mỹ có mặt gần như thường trực tại Phi với một loạt căn cứ quân sự hùng hậu , trong khi đó VN bị TC đe dọa nặng nề hơn mà vẫn tiếp tục chủ trương “không liên kết” thì quả là khó hiểu…!

Để giải thích cho việc VN vẫn đang còn đứng ngoài một liên minh phòng thủ khu vực có hai khả năng:

-Thứ nhất VN vẫn là một chế độ CS độc tài không chia xẻ cùng một giá trị với Hoa kỳ và đồng minh dẫn đến sự nghi ngờ , hơn nữa trong tương quan với TC và Hoa kỳ thì CSVN gần gủi hơn với TC về ý thức hệ và mục tiêu chiến lược, mối quan hệ Trung –Việt vẫn còn ẩn chứa nhiều nghi vấn vì những thỏa thuận ở Thành Đô mà cho đến nay chưa được giải mật.. Ngày nào VN chưa thay đổi thể chế , thay đổi học thuyết quốc phòng, đoạn tuyệt với quá khứ CS thì việc gia nhập liên minh với Mỹ là không thể thực hiện được vì có thể chính phủ Mỹ vì lợi ích thực dụng họ đồng ý vô điều kiện để CSVN tham gia liên minh, nhưng với Quốc hội Mỹ điều này khó chấp nhận được.

-Thứ hai có thể Hoa kỳ không cần thiết có thêm VN trong vành đai an ninh đã được thiết lập vì vị trí trọng yếu của Philippines đã thay thế một cách hoàn hảo cho VN trong sự bố phòng chiến lược ?..

Nếu đúng như vậy thì rất nguy hiểm cho dân tộc VN vì có thể Mỹ và đồng minh không cần VN trong vành đai an ninh của mình nhưng TC thì rất cần vị trí chiến lược của VN trong chiến tranh “chống tiếp cận”, vì hệ thống cảng biển VN từ Đà nẵng, Dung Quất đến Cam Ranh , Vân Phong và Vũng Tàu sẽ tạo ưu thế quân sự cho Tc nếu họ kiểm soát được những vùng đất hiểm yếu này để triển khai khí tài quân sự  mở rộng không gian chiến tranh làm phân tán hỏa lực của Mỹ và đồng minh. Như vậy VN vừa mất chủ quyền vừa mất an ninh…

Xét theo lập luận này thì việc Mỹ và đồng minh mở cửa cho VN tham gia khối quân sự sẽ vô hiệu hóa hình thái “chiến tranh chống tiếp cận” của TC và ưu thế chiến lược sẽ nghiên về phía Mỹ. Riêng với Nhật bản việc VN tham gia liên minh sẽ rất có lợi cho họ vì sẽ phân tán hỏa lực của TC một khi chiến tranh nổ ra, “chia lửa” cho Nhật bản và làm cho TC bị bao vây  ở nhiều mặt giúp cho  việc phòng thủ và tấn công của liên minh  thuận lợi hơn rất nhiều.

Nhìn nhận trong góc độ này thì vị trí chiến lược của VN là cực kỳ quan trọng mà cả Mỹ – Nhật và Trung cộng không thể bỏ qua.

Hiện tại chúng ta chưa thể xác quyết được điều gì, chúng ta chỉ hy vọng rằng người Mỹ sẽ hành động có trách nhiệm với nhân dân VN. Hy vọng người Mỹ và Nhật hiểu cho rằng chỉ có một chính phủ dân chủ do nhân dân chọn lựa qua cuộc bầu cử tự do mới đủ tính chính danh để đàm phán với họ về việc VN gia nhập khối phòng thủ chung, mọi thỏa hiệp của CSVN với các nước kể cả Hoa kỳ sẽ không có giá trị và nó sẽ bị hủy bỏ một khi CS sụp đổ, mà CS sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Mỹ và Nhật nên đồng hành với nhân dân VN chứ không nên đồng hành cùng CSVN, vì CSVN chỉ là một giai đoạn trong lịch sử dân tộc VN…

Về phía VN, chúng ta không có lý do hay lợi ích gì khi can dự vào tranh chấp quyền lực của các siêu cường, chỉ vì ngày hôm nay chủ quyền quốc gia và sinh mệnh dân tộc Việt bị đe dọa cho nên chúng ta mới chấp nhận rủi ro tham gia vào một liên minh phòng thủ . Trên đời này mọi sự cao quý đều có giá của nó, việc bảo vệ tổ quốc đương nhiên phải trả bằng máu của chính dân tộc mình.. để tồn tại chúng ta phải chiến đấu và hy sinh không có sự chọn lựa nào khác.

Nhưng sự chiến đấu và hy sinh này của dân tộc Việt phải được bảo đảm bằng cái giá của tự do cho cả dân tộc, chúng ta không chiến đấu để duy trì chế độ độc tài, một chế độ đã làm ung thối đất nước, đặt đất nước vào tình thế hiểm nghèo vì một “mối tình hữu nghị viễn vông” như chính ông Thủ tướng CS Nguyễn tấn Dũng đã nhìn nhận.

Thêm một lần nữa khẳng định: để bảo vệ sự trường tồn của dân tộc và quốc gia, mở ra lộ trình canh tân đất nước, VN phải thay đổi thể chế từ độc tài sang dân chủ , chỉ có như vậy mới đoạn tuyệt được ý thức hệ CS nguyên nhân của mọi sai lầm và bi kịch, mới thay đổi được học thuyết quốc phòng tự cô lập, chủ động tham gia liên minh phòng thủ khu vực do Mỹ lãnh đạo .

Đây cũng chính là cơ may cuối cùng để gìn giữ hòa bình, nhưng phải là một nền hòa bình trong sự tôn trọng tự do và phẩm giá dân tộc, hòa bình trong thế mạnh.

Huỳnh Ngọc Tuấn

 

Bán anh em xa mua láng giềng gần?

Bán anh em xa mua láng giềng gần?

RFA

Lê Diễn Đức

Định mệnh đã đặt Việt Nam nằm sát Trung Quốc. Suốt mấy ngàn năm, người láng giềng phương Bắc lúc nào cũng xem Việt Nam như là một tỉnh của mình và lăm le xâm chiếm.

Ba lần Bắc thuộc, từ năm 189 trước công nguyên đến năm 514, gần một ngàn năm, là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam với chính sách đô hộ và đồng hoá. Thời nhà Minh, chúng còn thực thi bành trướng nền văn minh Hoa Hạ, xóa bỏ nền văn minh sông Hồng, như đốt, phá và chở về Trung Quốc các loại sách, văn bia có nói về dân Việt, thiến hoạn đàn ông Việt. Các triều đình Trung Quốc đã không thể đồng hóa được người Việt. Dù bị ảnh hưởng sâu sắc tập quán và văn hoá Trung Quốc, người Việt vẫn giữ được bản sắc riêng của mình, nhờ tính dân tộc và tinh thần tự chủ. Đây là thất bại lớn nhất của quân bành trướng phương Bắc.

Trong buổi tiếp xúc cử tri tại quận Tây Hồ, Hà Nội, sáng ngày 1/7, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói “trong lịch sử, va chạm với người láng giềng này xảy ra nhiều lần lắm rồi...”.

Ông ta dùng từ “va chạm” là cố ý nói cho nhẹ đi. Thực tế, không phải là những va chạm bình thường. Mỗi lần “va chạm” là mỗi lần quân Trung Quốc xua đại quân tiến xuống phía nam: Nhà Tống (năm 1075), nhà Minh (1407), nhà Thanh (1789), xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 và chiếm đóng một phần quần đảo Trường Sa năm 1988. Phía gây hấn và tiến hành xâm lược luôn luôn là Trung Quốc.

Tâm thức văn hoá nô dịch dường như đã thấm vào máu thịt của những người lãnh đạo Việt Nam hôm nay. Vẫn là não trạng e sợ nước lớn và tự xem mình bị lệ thuộc.

Vua Lý Công Uẩn đã từng sai sai sứ sang cầu phong, hoàng đế nhà Tống cho làm “Giao chỉ quận vương”, sau lại gia phong làm “Nam Bình vương” vào năm 1017 (thời Tống Chân Tông).

Vua Lê Lợi cũng sai sứ sang Trung Quốc cầu phong nhà Minh mặc dù chính ông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, đánh tan tác 20 vạn quân Minh xâm lược.

Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ, cũng không khác, đánh đuổi 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi, ông cũng nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với phương Bắc và cầu vua Càn Long của Trung Quốc phong vương.

Thế nhưng đó là thời kỳ phong kiến, các quốc gia mạnh có thể mang quân đi xâm lược thôn tính nước khác. Giờ đây là thế kỷ 21. Đã có những định chế và tổ chức quổc tế bảo vệ trật tự thế giới. Một trong những nguyên tắc ứng xử trong bang giao của các thành viên Liên Hiệp Quốc là tôn trọng quyền tự quyết dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.

Chúng ta hãy xem ba nước cộng hoà vùng Baltic: Estonia, Lithuania và Latvia. Cả ba nước nhỏ bé này đều bị Liên Xô xâm lược và chiếm đóng. Năm 1990-1991 Liên Xô sụp đổ và tan rã, cả ba nước tuyên bố độc lập và trở thành những quốc gia có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Họ nhanh chóng gia nhập khối Liên minh Quân sự Bắc Đại Tây Dương NATO (2001- 2004), Liên minh châu Âu (2004) và trở thành những nước phát triển nhanh, mặc dù trước đó phụ thuộc rất nặng nề vào Liên Xô.

Tham gia khối quân sự NATO, ba nước cộng hoà Baltic không nhằm chống lại nước Nga. Nhưng trong trường hợp con gấu láng giềng Nga khổng lồ duơng nanh vuốt ra, họ sẽ được bảo vệ và đáp trả bằng điều 5 của Hiệp ước Washington “tấn công một nước thành viên là tấn công cả khối NATO”.

Gần hơn, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), một hòn đảo nằm sát nách Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã có lúc đe doạ tấn công bằng vũ lực, nhưng cũng huyênh hoang một lúc rồi thôi, bởi vì Mao ý thức được rằng, xung đột với Đài Loan là đụng tới Đạo luật quan hệ với Đài Loan năm 1979 của Hoa Kỳ.

Hàn Quốc cũng là một quốc gia châu Á đáng được chú ý. Kể từ năm 1953 sau khi kết thúc cuộc chiến tranh Nam-Bắc, tại Hàn Quốc vẫn duy trì gần 30 ngàn lính Mỹ để đề phòng nguy cơ tấn công của phía Bắc và Trung Quốc. Được bảo đảm an ninh, Hàn Quốc đã làm nên những diệu kỳ diệu trên sông Hàn, trở thành một nền kinh tế đứng thứ 14 thế giới (2013).

Trong thực tế, các nước láng giềng lớn ỷ thế mạnh luôn muốn có sự ảnh hưởng của mình lên các nước nhỏ. Vẫn có những nước coi thường luật pháp quốc tế. Nước Nga của Putin đã sát nhập Cremea và hỗ trợ phiến quân gây rối ở vùng Đông Ukraina, chính là vì Ukraina chưa có chỗ dựa của một đồng minh (cả về kinh tế lẫn quân sự). Cũng tương tự như với Gruzia (Georgia).

Như vậy, với một nước nhỏ, con đường duy nhất có thể ngăn ngừa được ý đồ xâm lược của nước lớn láng giềng là liên minh quân sự với các quốc gia khác. Liên minh không phải để chống bất kỳ quốc gia nào, mà để bảo vệ an ninh cho chính mình.

Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tuyên bố không liên minh với ai để chống lại nước thứ ba, thực sự ám chỉ nước thứ ba là Trung Quôc, vì họ đang thực thi chính sách phò Tàu. Một nuớc nhỏ hơn, không ngu dại gì gây chiến tranh với nước lớn láng giềng lớn.

Việt Nam bị bó tay và túng quẫn vì lời tuyên bố nêu trên của nhà cầm quyền Hà Nội, trước sự xâm phạm chủ quyền ngày càng trắng trợn của Trung Quốc.

Chính sách phò Trung Quốc để bám giữ và duy trì hệ thống độc tài toàn trị là nguyên nhân cốt lõi của những bế tắc hiện nay. Nhà cầm quyền cũng chẳng hế giấu giếm. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh đã từng nói (trên tờ Tuổi Trẻ Online 1/01/2013):

“Một trong những đặc trưng của ý thức hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nếu có được một người bạn xã hội chủ nghĩa rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

Khăng khăng giữ “sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” mà đến hết thể kỷ 21 cũng chưa biết tới chưa (lời của Nguyễn Phú Trọng), thì làm sao có thể liên minh quân sự với các nước dân chủ phương Tây, cho dù có muốn.

Trong hơn hai thập niên qua, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam dường như mở toang cửa đón Trung Quốc vào mặc sức tung hoành, ngậm dấm dần lãnh thổ bằng các biện pháp kinh tế. Các cuộc trúng tổng thầu EPC của Trung Quốc chắc chắn mang lại những lợi ích riêng không nhỏ. Nhà cầm quyền bị kẹt cứng trong vũng lầy ý thức hệ và những lợi lộc từ các dự án.

Cố đấm ăn xôi như vậy nên bị hiếp đáp, trở mặt, Hà Nội vẫn phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Và rõ ràng chẳng có cách nào trong bối cảnh ấy có thể “sinh sống hoà bình, hữu nghị với nhau, dĩ nhiên, hoà bình, hữu nghị vẫn phải giữ được độc lập chủ quyền”.

Những cuộc chiến võ mồm của các nhà lãnh đạo vẫn tiếp tục, từ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội đến Thủ tướng, đều tuyên bố chắc nịch “không lùi bước trước sự đe dọa độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”. Thấm chí Thủ tướng còn tuyên bố “chính phủ đã chuẩn bị tình huống xấu nhất”. Tình huống xấu nhất là gì? Trung Quốc sẽ phong toả, cấm vận kinh tế? Không bao giờ! Trung Quốc đang được nhà cầm quyền cộng sản “cho” quá nhiều. Hầu hết các dự án xây dựng nhá máy điện, khai thác khoáng sản, đường cao tốc, hoá chất, dầu khí, xi măng…. Dự án Formosa ở khu Vũng Áng được thuê 70 năm đang đòi trở thành đặc khu trực thuộc Văn phòng chính phủ. Chiến tranh ư? Càng không! Để mất cả chì lẫn chài sao!

ông Trần Kinh Nghị, cựu Đại sứ Việt Nam tại Đan Mạch, viết:

“Xem ra những gì vị lãnh đạo tối cao của đất nước vừa nói đều đã được nói trước nay, không có gì mới, trong khi tình hình Trung Quốc (TQ) lấn chiếm biển đảo thì hoàn toàn mới và đang ngày càng diễn biến rất khẩn trương và phức tạp. Đã có quá đủ bằng chứng để cho thấy TQ đã dứt khoát vứt bỏ quan hệ hữu nghị láng giềng, anh em và ý thức hệ… nhằm đạt mục tiêu độc chiếm biển Đông mà trong đó VN là đối tượng chính và trước tiên. Vậy mà người đứng đầu Việt Nam (VN) vẫn gọi TQ “bạn láng giềng lớn”… “muốn hay không cũng phải ăn đời ở kiếp với nhau, không thể lựa chọn, thay đổi được, có ai chọn được láng giềng đâu”.

“Nếu là nhà ở thì có thể bán nhà dời đến chỗ khác sống, nhưng với đất nước thì chỉ có cách giữ nước hoặc bán nước ,và do đó nói là không thể chọn láng giềng là đúng. Nhưng chọn bạn thì ai cấm? Vậy mà VN tự cấm mình khi các vị lãnh đạo thay nhau nhau tuyên bố với thế giới “VN không liên minh với ai…”. Làm sao phải “chưa khảo mà xưng” như vậy nhỉ, nếu không phải là do sợ bóng sợ gió? Đó là bài bản gì nếu không phải là kế sách của kẻ bạc nhược?”.

“Bán anh em xa mua láng giềng gần” đúng trong bối cảnh xã hội con người với nhau, nhưng đưa lên tầm quốc gia với quốc gia đã không còn chính xác. Trong trường hợp Việt Nam và Trung Quốc thì người láng giềng phương Bắc đã mua đứt tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam chứ không phải là ngược lại!

© Lê Diễn Đức

 

VIỆT NAM LỌT VÀO TOP 5 NƯỚC CÓ TỶ LỆ PHÁ THAI CAO NHẤT THẾ GIỚI

VIỆT NAM LỌT VÀO TOP 5 NƯỚC
CÓ TỶ LỆ PHÁ THAI CAO NHẤT THẾ GIỚI

Trích EPHATA 618

Thống kê của Quỹ Dân Số Liên Hiệp Quốc công bố hôm 8.7.2014 tại Sàigòn xác nhận, Việt Nam là một trong 5 quốc gia có số vụ phá thai cao nhất thế giới.

Theo VNExpress, những con số được công bố tại cuộc mít tinh kỷ niệm Ngày Dân Số Thế Giới diễn ra ở Sàigòn ngày nói trên đã gây chấn động dư luận xã hội Việt Nam. Tài liệu này nói rằng tỉ lệ sinh con của người phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi, chiếm tỉ lệ 4.6% trong tổng số các sản phụ tại Việt Nam. Không chỉ vậy, Sàigòn còn đứng đầu số vụ nạo thai ở Việt Nam và dẫn đầu các quốc gia Ðông Nam Á.

So với tỉ lệ phá thai ở tuổi vị thành niên của nữ giới Việt Nam cách nay 4 năm, con số này đã tăng từ 2% đến 4.6% số vụ phá thai, cao gấp hai lần, tính đến năm 2014. Quỹ Dân Số Liên Hiệp Quốc cho rằng, việc mang thai và phá thai ở phụ nữ vị thành niên sẽ để lại nhiều hậu quả nặng nề cho người trẻ về thể chất lẫn tinh thần.

Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, các chuyên gia ngành dân số thống kê đổ lỗi cho “một bộ phận không nhỏ vị thành niên còn hạn chế kiến thức và kỹ năng săn sóc sức khỏe sinh sản.” Ngành Dân Số Sàigòn cho rằng, cần phải “nâng cao kiến thức để thay đổi hành vi của giới trẻ, để hạ thấp tỉ lệ phá thai và sinh con của người Việt Nam trong độ tuổi vị thành niên”. ( Chú thích riêng của báo Ephata: Trong thực tế người ta nói phải thay đổi hành vi tính dục của giới trẻ cũng đơn thuần chỉ là bằng mọi cách tuyên truyền vận động để giới trẻ sử dụng… bao cao su ).

Trong khi đó, báo mạng VietNamNet dẫn lời bà Tô Thị Kim Hoa, phó giám đốc Sở Y Tế Sàigòn nói rằng, tỉ lệ nạo thai ở người vị thành niên tại Việt Nam chiếm đến 20% trong tổng cộng khoảng 300.000 trường hợp phá thai mỗi năm. Thống kê của Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Kế Hoạch Hóa Gia đình Việt Nam nói rằng, cứ một trẻ ra đời thì có một trẻ bị phá bỏ. Tính tổng cộng mỗi năm có khoảng 1.6 triệu bào thai bị giết chết khi còn trong bụng mẹ ( Chú thích riêng của báo Ephata: Con số 1,6 triệu ca phá thai một năm nêu trong bài báo này đã được chính Nhà Nước công bố từ năm 2006. Ngay từ khi ấy, người ta đã tỏ ra dè dặt cho biết đó chỉ là con số thống kê từ các cơ sở y tế công chứ không tính được cả số nạo phá thai tại các phòng khám tư, các điểm phá thai chui lủi, nhan nhản trong các thành phố lớn. Các bác sĩ BVSS cho biết con số ước tính phải lên đến 3 triệu ca mỗi năm ).

Cũng theo VietNamNet, nạo thai ở Việt Nam hiện nay đã trở thành hiện tượng công khai, với số cơ sở nhận làm “dịch vụ” này mọc như nấm tại nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Sàigòn… Tại một số con đường, các cơ sở nạo thai hình thành san sát nhau, biến thành khu phố, khu “chợ nạo thai.”

Hậu quả trầm trọng đối với sức khỏe của người nạo thai, nhất là ở những người còn trong tuổi vị thành niên là không thể chối cãi được. Một trong các nạn nhân, bà TTL, cư dân quận 5, Sàigòn cho biết, sau ba lần nạo thai, bà lên cơn lạnh run cầm cập khi ngoài trời đổ mưa. Nạo thai nhiều lần, theo các chuyên viên y tế, người phụ nữ còn bị mắc nhiều di chứng nặng suốt đời, ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe thể chất trong quãng đời còn lại.

Theo báo NGƯỜI VIỆT, 9.7.2014

 

Tâm tình người đi gieo

Tâm tình người đi gieo

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Bài dụ ngôn thật đẹp. Đẹp về hình ảnh phong phú. Đẹp về ý nghĩa sâu xa. Nhưng đẹp nhất vẫn là thái độ của người đi gieo. Người đi gieo đã có thái độ vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương.

Người đi gieo đã gieo một cách hào phóng. Hãy nhìn kìa: ông vốc từng vốc lớn hạt giống và rộng tay vung vãi. Ông gieo không tiếc xót. Ông gieo không tính toán. Ông gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn.

Người đi gieo đã gieo một cách kiên trì, ông gieo bất kể ngày đêm. Ông gieo bất kể mưa nắng. Ông gieo bất kể những thất bại. Đợt gieo giống đầu tiên đã thất bại vì chim chóc tha đi, ông liền gieo tiếp đợt hai. Bị sỏi đá nắng hạn, cây lúa mất mùa, ông lại đi gieo tiếp đợt thứ ba. Bị gai góc bóp nghẹt, cây lúa bị lụi tàn, ông vẫn không nản, cứ gieo đợt thứ tư. Ông đúng là người đi gieo hạt không biết mỏi mệt.

Người đi gieo đã gieo trong niềm hy vọng. Niềm hy vọng của ông thật lớn lao. Chính với niềm hy vọng ấy, ông đã dám đầu tư tất cả tiền bạc, sức khỏe, thời giờ vào việc gieo hạt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn, đứng vững trước những thất bại. Vì hy vọng, ông gieo cả trên lối đi, trên đá sỏi, trong cỏ gai. Ông tin rằng có gieo thì có gặt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông kiên trì và sau cùng đi đến thành công.

Người đi gieo đã gieo trong tình thương yêu. Tình thương yêu của ông dạt dào lắm. Nên ông đã không ngại hao tốn tiền của, tâm trí, sức lực. Tình thương ấy bao la lắm. Nên ông động lòng thương đến cả những mảnh đất chai cứng, đá sỏi, gai góc. Tình yêu thương ấy mãnh liệt lắm. Nên ông mong sẽ cảm hoá được cả gai góc, sỏi đá, biến chúng thành đất màu mỡ phì nhiêu. Ông đã có thể chỉ chọn đất tốt mà gieo. Nhưng tình thương yêu mãnh liệt không cho phép ông làm thế. Vì ông không muốn loại trừ những miền đất chai cứng chứa đầy sỏi đá, cỏ gai.

Người đi gieo chính là Thiên Chúa hiện thân trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã gieo trong yêu thương. Yêu thương đến độ chính Người lại trở nên một hạt giống,chịu vùi chôn, chịu mục nát để biến cải những mảnh ruộng gai góc, sỏi đá thành màu mỡ phì nhiêu, mong một mùa gặt đầy những bông lúa chín vàng trĩu nặng.

Thiên Chúa là người đi gieo không biết mệt mỏi. Chúa Giêsu là người đi gieo say mê đến quên chính cả bản thân mình. Người muốn cho các môn đệ của Người tiếp tục công việc gieo Tin Mừng đi khắp mọi nơi.

Hôm nay Người muốn ta gieo một cách hào phóng. Hãy gieo không xẻn xo. Hãy gieo không tính toán. Hãy gieo không loại trừ. Hãy biết dùng mọi phương tiện hiện đại nhất để chuyên chở Tin Mừng. H ãy đem Tin Mừng tới mọi lãnh vực của đời sống. Hãy đem Tin Mừng tới tất cả mọi hạng người không loại trừ một ai.

Người cũng muốn ta kiên trì gieo hạt Tin Mừng. Hãy kiên trì như thánh Phaolô, cứ gieo dù gặp “thời thuận lợi hay không thuận lợi”. Hãy cứ gieo dù đá sỏi, chông gai. Hãy cứ gieo dù những thất bại, nhọc nhằn.

Nhưng điều Người mong chờ nhất là các môn đệ của Người hãy đi gieo yêu thương. Yêu thương không chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng yêu thương cả những mảnh đất sỏi đá, gai góc. Yêu thương không chỉ những người mình thương và những người thương mình mà còn yêu thương cả những người không ưa mình và mình không ưa: vì một tình yêu thương đích thực thì không loại trừ ai. Chỉ có tình yêu thương mãnh liệt như thế mới cảm hoá được cỏ gai, làm mềm được đá sỏi, biến tất cả thành màu mỡ phì nhiêu.

Đáp lời Chúa mời gọi, biết bao lớp người đã hăng hái ra đi gieo Tin Mừng tại vùng đất Lạng Sơn này.

Trong số đó phải kể đến Đức cố Giám mục Vinh Sơn Phaolô của chúng ta. Người đã là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Qua bao ngày tháng, Ngài vẫn kiên trì không bao giờ chồn chân mỏi gối. Hôm nay Ngài đã trở thành một hạt giống vùi sâu trong lòng đất. Hạt giống ấy, tình thương ấy, sẽ làm mềm sỏi đá, hứa hẹn cho ta một mùa gặt bội thu.

Ta cũng không thể nào quên được công ơn của Đức Hồng Y Phaolô Giuse, cũng là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu với gánh nặng của Giáo phận Hà Nội và của Giáo hội Việt Nam, Ngài vẫn sẵn sàng ghé vai gánh đỡ Lạng Sơn trong những lúc cần thiết. Ngài đã gieo mồ hôi nước mắt làm phì nhiêu cánh đồng này. Công khó ấy chắc chắn sẽ góp phần rất lớn cho một mùa gặt mai sau.

Hôm nay, Chúa gởi tôi đến cánh đồng Lạng Sơn này. Lạng Sơn là quê hương tôi. Anh chị em đã đón nhận tôi như đón một người thân. Chúng ta thuộc về một gia đình. Hôm nay Chúa mời gọi tất cả chúng ta vào làm việc trong cánh đồng của Chúa. Chúng ta hãy hăng hái bắt tay vào việc đi gieo Lời Chúa. Hãy noi gương Chúa Giêsu, hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là hãy gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Nếu ta gieo bác ái chắc chắn ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập trên núi đồi Lạng sơn- Cao bằng này.

Tác giả: ĐGM Ngô Quang Kiệt

GỢI Ý CHIA SẺ

1-   Thiên Chúa không ngừng gieo Lời Chúa vào tâm hồn bạn. Bạn đã đón nhận Lời Chúa thế nào?

2-   Thái độ của người đi gieo cho bạn cảm nghiệm gì về Thiên Chúa?

3-   Chúa mời gọi bạn đi gieo Tin Mừng. Bạn phải có thái độ nào?