Vụ thảm sát người Việt: Cha nạn nhân ‘tha thứ’ cho thủ phạm

Vụ thảm sát người Việt: Cha nạn nhân ‘tha thứ’ cho thủ phạm

Hoa và thú nhồi bông trước căn nhà ở Edmonton, Alberta, nơi xảy ra vụ xả súng giết chết 8 người Việt,ngày 31/12/2014.

Hoa và thú nhồi bông trước căn nhà ở Edmonton, Alberta, nơi xảy ra vụ xả súng giết chết 8 người Việt,ngày 31/12/2014.

VOA Tiếng Việt

06.01.2015

Ông Tâm Nguyễn, người đàn ông có vợ và con gái thiệt mạng trong vụ xả súng làm 8 người Việt thiệt mạng tại thành phố Edmonton, Canada, cho các nhà sư chủ trì buổi lễ cầu siêu mới đây biết rằng ông tha thứ cho tay súng.

Một tuần trước đó, Phú Lâm, 53 tuổi, đã sát hại vợ, con cùng sáu người khác trong đó có bố mẹ vợ. Sau đó, thủ phạm đã tự sát khi bị cảnh sát bao vây.

Phu nhân của ông Tâm là em gái của vợ hung thủ, và hai người chị em này đã thiệt mạng cùng với hai người con của họ, một trai và một gái.

Nhiều người Việt hôm 4/1 đã tề tựu về Thiền viện Trúc Lâm để cầu nguyện cho các nạn nhân.

Thầy Thích Thiện Tâm, Viện trưởng Viện Phật học Edmonton ở Canada, nơi đặt thiền viện trên, cho VOA Việt Ngữ biết thêm:

“Gia đình người còn sống sót là anh Tâm, một phật tử, về chùa xin làm lễ cầu siêu cho tất cả những người trong cuộc thảm sát, trong đó 6 người bên vợ của anh với một đứa con của anh. Đây là một việc làm cho cộng đồng cũng rất là đau xót. 9 mạng người. Bây giờ cảnh sát cũng chưa xác nhận lý do như thế nào. Đó là một việc hết sức đau lòng của cộng đồng ở đây, và cũng làm xôn xao cộng đồng ở đây.”

Theo báo chí Canada, ông Lâm và người vợ 35 tuổi gặp nhau ở Việt Nam năm 2000 và cưới nhau vài tháng sau đó. Người đàn ông giết vợ, con từng bảo lãnh cho cha mẹ và chị em nhà vợ tới Canada vài năm trước.

Năm 2012, vợ ông Lâm từng nói trước tòa rằng chồng mình “từng đe dọa sẽ giết cả nhà bà”, sau khi hai người trở nên xung khắc. Tin cho hay, ông Lâm từng dính vào nợ nần do bài bạc.

Tại buổi lễ, Thầy Thích Thiện Tâm nói rằng “những người đã chết có thể là vợ, chồng, con trai, hay con gái của chúng ta nên, thay vì hận thù, hãy hướng đến tình thương, và cầu nguyện cho những người đã khuất tái sinh ở miền cực lạc”.

Viện trưởng Viện Phật học Edmonton nói thêm rằng ông Tâm đã cho ông biết rằng muốn tha thứ cho hung thủ, người cũng chính là anh em cọc chèo.

“Trong buổi lễ cầu nguyện đó, chính anh Tâm, người mà còn sống sót, anh cũng nói, thôi, anh cũng tha thứ. Anh cũng nói chuyện đã rồi, bây giờ có uất hận thì cũng không tốt lành gì. Anh cũng biết rằng hai bên có những sự đối đãi với nhau không được đẹp cũng nhiều năm rồi. Theo Phật giáo, linh hồn của những người mất vẫn còn phảng phất đâu đó, và vì sự uất hận đó, có thể họ chưa tái sinh. Trong giai đoạn đó, đôi khi họ cũng nhận diện được, biết được những lỗi lầm, sai trái của mình.  Việc tha thứ, đó là cá nhân của anh ấy, gia đình anh ấy, chứ còn người khác có thể họ không tha thứ, họ sẽ còn uất hận lắm.”

Thầy Thích Thiện Tâm cho biết tất cả các hội đoàn và các nhóm tôn giáo ở Edmonton đã nhóm họp lại để tìm cách quyên góp, giúp đỡ cho cô bé một tuổi, con gái ông Lâm, cùng người cháu trai 8 tháng tuổi mà ông ta đã tha mạng.

Người Việt ở Edmonton có trên dưới 10.000 người, và được coi là một trong những nơi nhiều người gốc Việt sinh sống nhất ở Canada.

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Trần Ngọc Mười Hai

Chuacuuthe.com

VRNs (07.01.2015) – Sydney, Úc Đại Lợi

“Rồi mai đây tôi sẽ chết

“Trên đường về nơi cõi hết.

Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?”

(Phạm Duy – Những gì sẽ đem theo về cõi chết)


(2Cr 4: 10-12)

Viết và hát về nỗi chết, hỏi rằng có ai viết nhạc hay hơn Phạm Duy, không? Nói về sự chết và chuẩn bị cho cái chết của mình, có vị nào trong Đạo làm và nói hay bằng thiền-sư Tây Tạng Songya Rinpoche? Tuy nói thế, bần đạo đây vẫn thấy có mẫu số chung nào đó giữa hai vị trên, đặc biệt hơn cả là ở câu hát bên dưới:

“Rồi mai đây tôi hoá kiếp.
Trong lòng còn bao luyến tiếc,
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được tiền tài, hay danh vọng.
Tôi không đem theo với tôi được gái đẹp, hay rượu nồng.
Tôi không đem theo với tôi được lầu vang, hay gác tía.
Tôi không đem theo với tôi được mộng giầu sang, phú quý.
Tôi xin đem theo với tôi một nụ cười, không nghi ngại.
Tôi xin đem theo với tôi đôi mắt trẻ thơ đẹp ngời.
Em giương to đôi mắt, soi vào cuộc đời đang bước tới.
Tương lai vui hay tối thui cũng là nhờ anh lớn thôi…

Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi hết
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
(Phạm Duy – bđd)

Nghe hát thế, chắc có lẽ người nghe cũng thấy được điểm nổi bật, rất như thế. Còn, giả như bạn và tôi, ta được nghe chính miệng Thiền-sư Tây Tạng là ngài Songya Ripoche đến Sydney ngày 30/11/2014, đã bảo rằng:

“Phần đông người trên thế-giới ngày nay hoặc sống trong phủ-nhận cái chết, hoặc sợ hãi nó. Ngay cả việc nói về cái chết cũng được xem là điềm gở. Nhiều người tin rằng: nhắc đến cái chết thì cũng gần như là mong nó xảy đến cho mình.

Nhiều người khác nhìn cái chết với một sự vui vẻ ngây ngô một cách thiếu suy-nghĩ, tưởng chừng như vì một lý-do bí-ẩn nào đó, cái chết sẽ đến với họ một cách êm-thắm mà không có gì phải lo ngại. Khi nghĩ đến những người này, tôi nhớ lời một bậc thày của Tây Tạng: Người ta thường khinh-suất về sự chết và cứ nghĩ “Ôi! Hơi đâu mà lo cho mệt, ai rồi cũng phải chết, chuyện đó tự-nhiên quá mà. Tôi thì khỏi lo.” Nhưng đấy chỉ là lý-thuyết, đến khi sắp chết mới biết không phải là chuyện đơn-giản….

Khi nhìn kỹ cách-thức chúng tôi săn sóc người sắp chết, Elizabeth Kũbler Ross đã chứng-minh: với một tình-yêu vô-điều-kiện và một thái-độ có nhận-thức thì cơn hấp-hối có thể trở thành một kinh-nghiệm an lành, chuyển-hoá…

Nếu bây giờ không chịu chấp-nhận cái chết trong lúc đang sống, thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết và sau khi chết. Hậu-quả sẽ là, ta tàn-phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới…” (xem Sogyal Rinpoche, Tạng Thư Sinh Tử, nxb Văn hoá Thông tin 2008, tr. 25, 29, 34)

Nghe Thiền-sư Rinpoche nói về việc chuẩn bị cho cái chết ngay khi còn sống, người Đạo Chúa cũng nghĩ nhiều về sự thể giống như thế. Sự thể, được Tin Mừng nhắc nhở nhiều lần, như:

“Thầy bảo thật anh em:

trong số người có mặt ở đây,

có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết

trước khi thấy Con Người đến hiển trị.”

(Mt 16: 28)

Hoặc ở một đoạn khác:

“Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất;

còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy,

thì sẽ tìm thấy được.”

(Mc 10: 33)

Với thánh Phaolô, cái chết không quan trọng bằng sự sống lại, trở nên công chính:

“Chúng ta sẽ được kể là công chính,

vì tin vào Đấng đã làm cho Đức Giêsu,

Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết;

Đức Giê-su chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta

và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại,

để chúng ta được nên công chính.”

(Rm 4: 24)

Cuối cùng thì, chết vẫn không đáng sợ bằng sự thể được thánh-nhân quyết như sau:

“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?

Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?

Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết,

bị coi như bầy cừu để sát sinh.”
Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.

(Rm 8: 35-37)

Và nhất là đoạn viết cho cộng-đoàn Corinthô có đoạn đã nhấn mạnh:

“Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu,

để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.

Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu,

để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi.

Như thế,

sự chết hoạt-động nơi chúng tôi,

còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.”

(2 Cor 4: 10-12)

Giống như các vị theo tôn-giáo khác, người Đạo Chúa vẫn luôn giữ thái-độ coi thường sự chết vì nhiều lẽ. Trước nhất, vì biết rằng mình luôn kết-hợp với Chúa trong mọi việc. Và thứ đến, là vì mình luôn ở trong tư-thế chuẩn bị chết, tức: về với Chúa trong vinh-quang chói ngời ở cạnh Ngài.

Nhiều Dòng tu khắc kỷ ở Đạo Chúa, lại cũng luôn chuẩn-bị cho cái chết đang trờ đến, nên vẫn tâm-nguyện bằng những tâm tình trước khi đi ngủ, vẫn cứ nhủ:

“Lạy Chúa tôi,

Tôi biết thật tôi sẽ chết.

Có khi đêm nay tôi vào giường nằm nghỉ

mà chẳng còn trỗi-dậy nữa.

Cho nên Chúa đã bảo tôi vào giường nằm nghỉ như là vào mồ chết vậy.…”

Chính vì thế, nhiều người Đạo Chúa vẫn hiên-ngang hát lên lời ca đầy phấn-chấn, rằng:

“Khi Chúa thương gọi tôi về,

lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ!

Miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát…”

Ngàn dân tung hô: tôi thật vinh phúc!

(Lm Kim Long – Ngày Về)

Ở ngoài đời, những người chịu ảnh-hưởng từ nền văn minh Đạo Chúa, cũng có những lập-trường coi nhẹ cái chết, như nhà văn Montaigne của Pháp đã từng viết:

“Để chiến thắng Thần Chết, chúng ta hãy áp-dụng một phương-cách ngược lối thông-thường, hãy xem cái chết chẳng có gì kỳ lạ. Ta vẫn tiếp xúc với nó, quen thuộc  với nó; hãy để tâm-trí thường-xuyên đến cái chết hơn bất kỳ điều gì khác… Ta không biết khi nào thì cái chết sẽ đến với ta, vì vậy, hãy chờ sẵn để đón cái chết ở khắp nơi. Tụ tập cái chết chính là tụ tập sự tự-do. Một người biết cách để chết thì sẽ không bao giờ trở-thành nô lệ.” (sđd tr. 36)

Ngoài các triết-gia ra, triết-học Đông Phương cũng có vị như Trang Tử, lại cũng nói:

“Con người sinh ra vốn mang theo sự đau khổ. Càng già, con người càng ngơ ngẩn, vì nỗi lo sợ cái chết không thể tránh khỏi càng thêm mãnh-liệt. Thật vô-cùng cay đắng. Con người sống để theo đuổi những gì luôn ở ngoài tầm tay. Lòng khao-khát sống còn trong tương-lai làm cho ta không thể sống trong hiện tại…” (bđd tr. 39)

Vậy, có người đưa ra vấn-nạn vẫn cứ hỏi: Nếu vậy, ta phải làm sao? Làm sao nghĩa là làm thế nào để đi vào hiện-thực? Đây là điều thật khó nói. Bởi, trên thực tế, có ai dám tập-tành việc chết đi ngay bây giờ? Thôi thì, ai hỏi thì cứ hỏi, ở đây bạn và tôi, ta cứ nghe xem thiên hạ nói với nhau như thế nào, về việc ấy. Trước nhất, là thiền-sư Songya Rinpoche có thể tóm tắt như sau:

“Điều duy nhất, ta thực sự có được là hiện tại.

Hãy tự hỏi: Tôi có nhớ vào mọi lúc rằng tôi đang chết hay không, bởi thế nên hãy đối xử với mọi chúng sinh với lòng từ bi trong mọi lúc…” (sđd tr. 540

Và, giải-pháp do ngài Songya Rinpoche đề ra để giải quyết sự-việc ở đây, có thể tóm gọn như sau:

“-chấp-nhận cái chết (sđd tr. 56-57);

-Quan-tâm đến việc giúp đỡ người khác, coi đó như tầm quan-trọng của yêu thương;

­-Ít quan-tâm đến những đeo đuổi vật-chất;

-Tin-tưởng vào chiều-hướng tâm-linh và ý-nghĩa của cuộc đời;

-Thay-đổi trong tính sâu-xa của con tim (sđd tr. 59);

-Làm việc với đổi thay (sđd tr. 65);

-Thông-điệp của sự Vô Thường: trong cái chết có niềm hy vọng (68), gặp-gỡ Kitô-giáo và Phật-giáo… (sđd 68)

Và, các điều khác cần chú-trọng như: bản-chất của Tâm (tr.75-87), luyện tâm (tr.99), Thiền-định để nhận rõ chân tâm (tr.101), luyện-tập chánh-niệm (tr. 104), sự thanh-bình tự-nhiên. Có 3 phương-pháp thiền: 1-dùng một đối tượng, 2-nhẩm đọc câu thần chú, 3-canh chừng hơi thở. Đồng thời thực-hiện 3 phương trong 1 là: Tâm trong thiền-định, tĩnh-lặng vĩnh-cửu và sự cân bằng tinh-tế (xem tiếp sách đã dẫn từ trang 128 trở đi)

Theo-dõi câu chuyện “thực-tập cái chết khi còn sống” của thiền-sư Songya Rinpoche, bần đạo lại nhớ đến đoạn viết của đấng bậc thày dạy là Lm Kevin O’Shea CSsR, khi cha giáo nói về “Cứu-Chuộc thế-gian qua các đạo trên trần-thế”, có đoạn nói rất rõ về “cái chết dần mòn”, như sau:

Về “cái chết dần mòn”, nhiều người cố tìm cho ra những gì liên-quan đến kinh-nghiệm thường thấy ở các đạo, nơi trần-thế. Với chúng ta, là những người sống ở trời Tây, thường hay bắt đầu bằng các phương-án liên-quan giữa Đạo Hồi và Đạo Chúa: ta đang sống, tức là: ta đối-đầu/trực-diện với những gì tuyệt-đối, theo cách này cách khác. Rồi từ đó, ta làm nhẹ bớt tuyệt-đối ấy thành một thứ tử-tế, tựa hồ như người nhà Phật vẫn đang làm, mãi đến hôm nay. Và rồi, ta lại đi từ ngạc-nhiên này đến ngỡ ngàng khác bằng với xuất-hiện của sự việc “ngất-trí” vượt thoát mọi sự mà đi vào thể-loại vô ngã/vô thường kiểu Ấn-giáo. Chính nơi này, ta được gặp Đấng đã trỗi dậy khỏi mọi kinh-nghiệm giống như thế và khi ấy, ta thấy mình “trở-nên-một” với Ngài, và trong Ngài.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, On Cứu Chuộc: Kinh nghiệm như thế giống thứ gì? www.giadinhanphong.blogspot.com ngày 30/10/2014)

Và, cha giáo O’Shea CSsR, đã kết-luận bài viết về “cái chết dần mòn” bằng câu sau đây:

“Ta đang đối-đầu/trực-diện với thứ gì đó cũng khá mới. Trông nó có hình-thù như một đường biến-thiên còn giấu kín. Nó đòi hỏi toàn-bộ định-nghĩa mới về thiên nhiên. Nó cũng đòi ta nhìn vào thiên-nhiên như điệu múa nhảy và là bản giao-hưởng khúc nữa, cũng nên.

Ở đây, xin nói thêm rằng: rất nhiều ví-dụ cụ-thể về lập-luận về cái chết theo đường-lối khác hẳn. Và, nó mở rộng cửa cho giòng chảy tự-do về hành-xử nhẹ nhàng, tử-tế. Trên thực tế, ta có thể nhìn vào quan-hệ đại-kết hoặc tương-quan chủng-tộc, giới-tính và/hoặc các tương-quan chủ/nô, thày-thợ cùng quan-hệ lãnh-đạo/bằng-hữu, cũng như siêu-nhiên/tự-nhiên, và về cái chết nữa.

Thế nên, có thể nói tắt một lời, rằng: một khi đã chết đi, ta lại sẽ khám phá ra thực-tại mới, giống như thế…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd)

Xem thế thì, ta đã khám-phá ra sự sống mới-mẻ, rất hợp lẽ. Tư-tưởng ta có được ở đây vốn dĩ rút từ tư-tưởng của học-giả Xavier Sallantin. Thuận lẽ phải, theo tôi hiểu là phương-cách thức-thời do kinh-nghiệm tự diễn-bày như sự việc đầy ý-nghĩa, đối với ta.

Đi vào cuộc đời trần-thế, chắc bạn và tôi cũng khám-phá ra những điều thực-tiễn để hiện thực “cái chết dần mòn” này rồi thì phải?

Để minh-hoạ cho câu chuyện ta bàn hôm nay, vừa qua, bần đạo có người bạn thân học cùng lớp, nghe bần đạo nói sẽ viết về việc dọn mình chết lành, anh liền gửi cho bần đạo câu truyện kể để minh-hoạ như sau:

“Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.

Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:

– Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.

– Không được. – Thần Chết lắc đầu.

– Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.

– Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.

Anh ta vội nói:

– Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?

– Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.

Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:

– Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.

Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:

Xin hãy ghi nhớ:

“Bao nhiều tiền bạc cũng không

mua nổi một ngày”.

(trích câu truyện do anh bạn họ Phạm kể và gửi qua mạng nối kết, rất thông tin)

Nghe kể thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta kết thúc câu chuyện chết-sống/sống-chết bằng lời ca do nhạc sĩ Phạm Duy viết ở trên, rằng:

“Tôi không đem theo với tôi được quyền hành trong giai đoạn,
Tôi không đem theo với tôi được giới hạn tiếng anh hùng,
Tôi không đem theo với tôi được tượng đồng, bia đá trắng,
Tôi không đem theo với tôi được tuổi vàng trong cõi sống,
Tôi xin đem theo với tôi một cuộc tình không quen thuộc,
Ðôi uyên ương xin mến thương không khó nhọc hay ngượng ngùng.
Trong đêm thâu ôm ấp nhau bên cột đèn hay khóm trúc,
Không ai ngăn hay lấy cũng vì phạm thuần phong mỹ tục…

Rồi mai đây tôi sẽ chết.
Trên đường về nơi cõi hết.
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
Rồi mai đây tôi hoá kiếp,
Trong lòng còn bao luyến tiếc.
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được nhiều điều tôi mong đợi,
Tôi không đem theo với tôi danh với lợi ra ngoài đời.
Tôi không đem theo với tôi được cả buồn vui mấy nỗi,
Tôi không đem theo với tôi, và để lại cho thế giới.
Tôi xin dâng cho thế gian một vài điều tôi công nhận.
Tôi xin dâng cho thế gian ôi số phận sinh làm người.
Thương cho em chưa thoát thai trong cuộc đời chưa hết chuyến,
Tôi xin dâng cho cái quên của một người sẽ tái duyên.

(Phạm Duy – bđd)

Và cứ thế, tôi và bạn, ta lại hát nốt câu kết để làm nền như sau:

“Rồi may đây tôi sẽ chết, trên đường về nơi cõi Niết
Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu !
Rồi mai đây tôi hoá kiếp, trong lòng mừng không hối tiếc
Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu
(Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên ngang sống đến ngày cuối chót của đời mình, mà không còn lo lắng hoặc luyến tiếc điều gì, dù có chết. Chết mai sau, hay chết bây giờ cũng vẫn được. Và cũng chấp nhận cho người và cho mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Đang đi dần vào cõi chết

Đã thấy mau hơn bao giờ.

Thực chất của Hội nghị Trung ương 10?

Thực chất của Hội nghị Trung ương 10?

Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã khai mạc hôm 5/1 với chủ đề nhân sự đang đặt ra nhiều câu hỏi trong dư luận.

Dự kiến kéo dài cả tuần, khoảng 200 nhân vật cao cấp nhất của Đảng gặp nhau để bàn các chủ đề quan trọng về nhân sự, tổng kết đường lối, phương hướng cho Đại hội Đảng lần thứ 12.

BBC có cuộc trao đổi với Giáo sư Carl Thayer, một nhà nghiên cứu sống ở Úc chuyên quan sát tình hình chính trị Việt Nam.

Carl Thayer: Trước hết có thể nhận xét Hội nghị Trung ương 10 đã bị trì hoãn quá lâu. Trong suốt cả năm 2014 chỉ có mỗi một hội nghị trung ương 9 diễn ra vào tháng Năm. Hội nghị này lẽ ra có thể đã được nhóm vào tháng Tám khẩn trương để đối phó với khủng hoảng Giàn khoan HD-981. Sau đó nó được định lại ngày vào tháng Mười, tháng Mười Hai và nay thì vào tháng Giêng.

Ngay từ kỳ hội nghị lần thứ 9 hồi tháng Năm đã có các tiểu ban làm việc về vấn đề nhân sự. Nhưng hội nghị này cũng là cơ hội cuối để đảng tiếp tục hoạch định kế hoạch kinh tế – xã hội chiến lược tổng thể, cân nhắc việc điều chỉnh vị trí của Đảng, điều lệ Đảng và bầu cử, xác định xem cơ cấu quyền lực tới đây sẽ lớn nhỏ như thế nào, kể cả với cơ cấu, số ghế Bộ Chính trị…Do đó đây là là một hội nghị trung ương rất quan trọng.

BBC: Ông nghĩ là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ trụ lại? Đã có những nguồn gợi ý rằng ông ấy cũng quan tâm tới chiếc ghế Tổng Bí thư của Đảng.

Tất cả những gì tôi có thể nói được là trong quá khứ, với tiêu chí hạn chế tuổi lãnh đạo ở ngưỡng 65 tuổi, thì người ta luôn mở ra đặc lệ với ghế Tổng Bí thư Đảng. Có nguồn nói thậm chí người ta sẽ mở ngoại lệ ra cho hai cá nhân đợt này.

Nhưng rõ ràng tính số lượng với những ủy viên sắp nghỉ hưu, chỉ tính những người đã ngồi trọn nhiệm kỳ, mà không tính tới hai ủy viên mới trong Bộ Chính trị, thì đây là một vấn đề với Việt Nam. Cứ năm năm một lần Việt Nam lại lặp lại vấn đề là Đảng không có đủ nhân sự tài năng, cả nam lẫn nữ, để điền vào cho các ghế mới. Do đó hiện có những đồn đoán và phải nói là vẫn còn sớm để nói lên điều gì.

Họ có kế hoạch lấy phiếu tín nhiệm, sẽ được sử dụng để đề bạt những người làm việc tốt hoặc để loại bỏ nhân sự. Và trong quá khứ đã có hành động trong nội bộ được cho là để hạ bệ Thủ tướng, nhưng ông ấy đã tỏ ra rất mạnh mẽ trong vấn đề Biển Đông và do đó sự ủng hộ trong Trung ương Đảng cho ông ấy khá cao. Trước đây, đã có những tấn công mạnh mẽ, nhưng ông Dũng đã thoát ra được khá là ngoạn mục.

Có hai khả năng, thứ nhất là có sự đồng thuận để ai đó như ông Nguyễn Tấn Dũng có thể trụ lại và làm việc tiếp, hoặc nếu không thì tất cả sẽ đều phải về hưu. Và đó cũng từng là cách xảy ra trong quá khứ.

Tôi nghĩ bây giờ vẫn còn quá sớm và chúng ta phải chờ các cuộc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng để mà đo đếm.

BBC: Ông nghĩ là ông Nguyễn Phú Trọng đã có được một ứng cử viên nào đó ở trong ống tay áo của ông ấy để có thể kế vị? Tương tự, các ông Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng có tự chọn ra ai chưa để thay thế vị trí của họ?

Có hai khả năng, thứ nhất là có sự đồng thuận để ai đó như ông Nguyễn Tấn Dũng có thể trụ lại và làm việc tiếp, hoặc nếu không thì tất cả sẽ đều phải về hưu. Và đó cũng từng là cách xảy ra trong quá khứ.

Hết đồn đoán này đến đồn đoán khác. Có nguồn nói ông Nguyễn Phú Trọng đã chọn ông Phạm Quang Nghị (Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội) là ứng viên được ưa thích của ông ấy. Do đó ông Nghị đã được cử sang Washington trong vụ Khủng hoảng Giàn khoan 981, trước khi Phó Thủ tướng, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh được cử đi. Phải xem điều này có đúng không.

Tôi thì phải nói ngay là tôi không thấy ông Nguyễn Phú Trọng có thể tiếp tục chức Tổng Bí thư. Điều ông ấy có thể làm bây giờ chỉ là cố gắng tác động, ảnh hưởng. Nhưng thành tích trong quá khứ của ông ấy không được tốt. Ông ấy đã từng đề cử hai nhân vật quan trọng vào Bộ Chính trị năm ngoái, nhưng không ai trong đó được thăng tiến vào đó. Trung ương Đảng đã không quyết việc đó. Thành tích bổ nhiệm nhân sự của ông ấy đã không được hiệu quả.

Với cặp được cho là cạnh tranh giữa các ông Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng, hai người ở miền Nam, nếu họ tiếp tục cạnh tranh và thù địch để một người trụ lại trong khi người kia bị hạ bệ, thì có thể cả hai sẽ phải cùng rời ghế quyền lực. Bởi vì ở Việt Nam, quyền lực luôn có khuynh hướng tập trung, mà không có sự quá khích, và Đảng luôn muốn điều tiết quyền lực ấy, nhất là để chọn ra giới lãnh đạo.

Do đó, một lần nữa, gác những đồn đoán lại, đối với tôi điều quan trọng là liệu Đảng có cho biết công khai bỏ phiếu tín nhiệm sẽ xảy ra như thế nào, được tiến hành ra sao, liệu có được công bằng cho tất cả không, đối với các vị tri lãnh đạo chóp bu thế nào? Ở trong những kỳ lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, ông Trương Tấn Sang có kết quả khá cao, nhưng năm 2014, ông Thủ tướng đã phục hồi được sau lần có kết quả khá thấp của đợt phiếu tín nhiệm diễn ra năm trước đó.

BBC: Về phần mình, ông Nguyễn Tấn Dũng có chuẩn bị cho mình một ứng cử viên nào để thay thế ông ấy hay là không?

Tôi sẽ không đưa ra lời trả lời có hay không như thế, vì như thế mọi việc coi như đã xong rồi còn gì. Riêng với ghế Thủ tướng thì có vẻ như là ông ấy sẽ không tiếp tục ngồi lại đó. Nhiều nhà phân tích, trong đó có cả tôi, cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc phân tích xem ai sẽ là vị Thủ tướng kế tiếp.

Cũng có một số gợi ý rằng trong số các cấp Phó của ông Dũng, sẽ có thể có ứng cử viên ngồi vào ghế đó. Một lần nữa, ta nhớ rằng hội nghị trung ương 10 lẽ ra phải diễn ra sớm hơn thay vì liên tục bị trì hoãn lâu như vậy. Lẽ ra nó phải được nhóm vào cuối năm ngoái, nhưng rồi lại không. Mặc dù hai hội nghị trung ương một năm phải là tối thiểu, trong 10-15 năm qua, người ta thấy cũng khá thường xuyên diễn ra tới ba hội nghị một năm. Nhưng năm ngoái, Đảng chỉ tổ chức được mỗi một hội nghị và điều đó thực là bất thường. Và điều đấy cho thấy ở trong Đảng đang có một số vấn đề gì đó và việc chậm trễ lịch trình cũng gợi ý rằng, hiện nay còn quá sớm để đưa ra một đánh giá, dự đoán.

BBC: Có vẻ Trung Quốc có quy hoạch cụ thể rõ rệt về việc chuyển giao lãnh đạo từ mấy năm trước Đại hội Đảng, còn ở Việt Nam không làm được như vậy?

Thông tin về cuộc họp của Đảng ít được công bố ra ngoài

Đúng thế, chỉ nói riêng quy mô của Bộ Chính trị, số lượng ủy viên phải nghỉ hưu đã tới con số 50%, đây là một tỷ lệ phần trăm rất cao về những người phải về nghỉ. Trong quá khứ, những người được phép ngồi vào năm vị trí lãnh đạo cao cấp như Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư đều phải là những ủy viên đã ngồi ít nhất 5 năm toàn thời gian trong Bộ Chính trị. Và ngay cả nếu Bộ Chính trị có mở rộng nhiều hơn, thì Việt Nam vẫn gặp rủi ro mà tôi so sánh như khi người ta ngồi vào ghế trong một trò chơi tìm ghế trước khi ‘tắt nhạc’. Đó là ở phương Tây, người ta luôn có nhiều người hơn số ghế, và khi bản nhạc tắt đi, những người không tìm được ghế thì phải ra ngoài. Còn ở Việt Nam thì trò chơi lại là người ta đặt 5 người sẵn cho 5 cái ghế. Và khi nhạc dừng, tất cả đều phải ngồi xuống.

Cho nên trong kỳ Đại hội lần trước, ông Trương Tấn Sang được người ta bảo là: “Chào ông, ông phải ngồi xuống ghế Chủ tịch Nước, vì tất cả các ghế kia đều đã có người ngồi.” Hội nghị này, hay bất cứ sự kiện nào diễn ra sau cùng, nếu không thay đổi lối chơi thì vẫn thế, trừ phi có ai đó “vắng mặt” thôi. Nhưng mọi thứ vẫn còn quá sớm để nhận định.

BBC: Gần đây có một trang mạng “Chân dung Quyền lực” đưa ra nhiều thông tin chưa thể kiểm chứng, chủ yếu xoay quanh hai ông Nguyễn Bá Thanh và Nguyễn Xuân Phúc. Trang này cáo buộc Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có mâu thuẫn lớn với ông Thanh. Theo ông ai đứng sau trang web này, mục đích của nó là gì?

Tôi không biết ai đứng sau trang này. Ông Nguyễn Bá Thanh được điều ra khỏi Đà Nẵng và đứng đầu Ban Nội chính Trung ương Đảng để chống tham nhũng và ông báo cáo trực tiếp với Tổng Bí thư của Đảng. Động thái của ông Tổng Bí thư để tiến hành điều tra, thanh tra khoảng hai chục vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, làm sai lớn, và đặt ông Thanh vào hướng đối diện với ông Thủ tướng Chính phủ, ông hỗ trợ cho ông Trọng và mạng lưới của ông ấy… Tuy nhiên, kế hoạch này đã không được hiệu quả.

Ông Thanh là một nhân vật rất được biết tới ở Đà Nẵng, ông ấy đã có những thử nghiệm về dân chủ ở Đà Nẵng, ông trực tiếp chỉ đạo việc bầu cử các quan chức địa phương v.v…

Tôi nghĩ trang “Chân dung Quyền lực” có thể ít nhiều bộc lộ nội tình và tình trạng sức khỏe của nền chính trị Việt Nam. Với ông, Nguyễn Bá Thanh, người ta đã thiết kế nhiều cách thức để lần trước ông không thể vào được Bộ Chính trị, còn ông Nguyễn Xuân Phúc đương nhiên là một người gần hơn với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

KIẾN NGHỊ của CÁC TỔ CHỨC XHDS ĐỘC LẬP VN gửi HỘI NGHỊ XHDS ASEAN 2015 Kuala Lumpur

KIẾN NGHỊ của CÁC TỔ CHỨC XHDS ĐỘC LẬP VN gửi HỘI NGHỊ XHDS ASEAN 2015 Kuala Lumpur

kien nghi CSO VN-1

Kính gửi: Ban Tổ Chức Quốc gia Malaysia , Ban Thường trực khu vực ASEAN và Ban Soạn Thảo Tuyên Bố Chung của Hội nghị XHDS ASEAN 2015

Chúng tôi, các tổ chức XHDS độc lập của Việt Nam, xin được trân trọng tự giới thiệu: Các tổ chức chúng tôi được thành lập từ nhiều năm qua trên cơ sở phi lợi nhuận, phi đảng phái và phi chính phủ. Chúng tôi tự thành lập căn cứ vào điều 25 của Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và Công ước quốc tế về quyền chính trị và dân sự và nhằm hoạt động vì lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa được Nhà nước Việt Nam công nhận.

Các tổ chức mà chính phủ Việt Nam giao nhiệm vụ tham gia Cộng đồng các tổ chức XHDS ASEAN như VUFO, GREENID, VPDF và CRSCH…, tất cả đều được chính phủ thành lập và tài trợ. Nhân sự lãnh đạo của các tổ chức ấy là cán bộ công chức của đảng CS được cử sang. Mục tiêu và hoạt động của họ phải theo sự chỉ đạo của chính phủ hoặc cơ quan đảng CS. Về bản chất, họ không phải là các tổ chức XHDS độc lập mà chỉ là các cơ quan ngoại vi hay là cánh tay nối dài của đảng CS nhằm kiểm soát người dân, kiểm soát sinh hoạt xã hội và thực hiện nhiệm vụ đối ngoại cho đảng CS.

Các tổ chức XHDS độc lập của Việt Nam khẳng định rằng chúng tôi đã không nhận được bất kỳ bản thảo nào về Tuyên bố chung của các tổ chức XHDS ASEAN 2015 từ phái đoàn được gọi là đại diện cho các tổ chức XHDS Việt Nam. Do đó, đề nghị Quý Ban tạo kiều kiện để chúng tôi có thể tham gia hoặc trực tiếp hoặc qua Skype vào kỳ họp mặt sắp tới.

Nhân cơ hội này, các tổ chức XHDS độc lập của Việt Nam nhận định về hiện trạng đất nước chúng tôi như sau:

A- Đàn áp về dân quyền

1. Hàng ngàn người bảo vệ nhân quyền bị cản trở quyền tự do đi lại trong nước, quyền xuất cảnh ra nước ngoài, bị tịch thu hộ chiếu và có khi không thể tự do cư trú.

2. Nhà cầm quyền tìm mọi cách áp lực nơi làm việc của người bảo vệ nhân quyền để họ bị sa thải. Các cựu tù nhân lương tâm còn bị cấm làm việc cho các NGO và một số ngành nghề.

B- Bất công về nhân quyền

3. Vì Hiến pháp VN quy định đất đai thuộc quyền sở hữu của nhà nước, nên việc giải tỏa đất đai cho các dự án đầu tư nước ngoài đã tạo ra tình trạng chính quyền cướp đất của nông dân và thị dân, hoặc đền bù khiến họ không thể sống nổi. Khắp đất nước VN có hàng trăm ngàn dân oan kêu cứu, hàng ngàn dân oan bị đánh đập và hàng trăm dân oan bị cầm tù do khiếu kiện.

4. Các công nhân tại VN vừa phải chịu một mức lương tối thiểu thuộc hàng thấp nhất thế giới, vừa phải lao động trong những điều kiện tệ hại, lại không thể thành lập công đoàn riêng của họ. Nhiều cuộc đình công đã bị đàn áp và nhiều thủ lĩnh các cuộc biểu tình của họ hiện bị cầm tù.

5. Trong bối cảnh đó, các công ty xuyên quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc góp phần vào quá trình tịch thu đất đai của nông dân VN.

Do đó, các tổ chức XHDS độc lập của Việt Nam kiến nghị về các quyền dân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội như sau:

1. Quyền tự do hội họp ôn hòa của công dân phải được tôn trọng. Nhà cầm quyền VN phải chấm dứt sách nhiễu thành viên các tổ chức XHDS độc lập và ngăn cản các cuộc họp mặt ôn hòa của họ.

2. Người dân phải có quyền lập hội một cách tự do. Nhà cầm quyền VN phải chấm dứt dùng bạo lực tấn công giới bảo vệ nhân quyền. Năm 2014 khoảng 150 người trong giới đó đã bị tấn công bằng bạo lực.

3. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tại VN phải thực thi đầy đủ. Có 30 blogger, nhà báo đang bị nhà cầm quyền VN giam cầm.

4. Người dân phải có quyền tư hữu đất đai, và mọi ai bị trưng dụng ruộng đất vì công ích phải được đền bù đầy đủ để sống được lâu dài.

5. Các công nhân phải được trả một mức lương đủ nuôi sống bản thân họ, phải được làm việc trong những điều kiện xứng hợp nhân phẩm, phải có quyền thành lập công đoàn riêng của họ.

6. Các tôn giáo phải được độc lập trong tổ chức và tự do trong hoạt động, phải được trả lại mọi đất đai và cơ sở đã bị nhà cầm quyền tịch thu.

7. Chính quyền Việt Nam phải xóa bỏ các điều luật mơ hồ và vi hiến trong Bộ luật Hình sự như Điều 258 “lợi dụng quyền tự do dân chủ”, Điều 88 “tuyên truyền chống nhà nước”, Điều 79 “âm mưu lật đổ chính quyền”. Phải cụ thể hóa Điều 245 “gây rối trật tự công cộng”, Điều 257 “Chống người thi hành công vụ” theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế.

Các tù nhân lương tâm (vì đấu tranh cho tôn giáo, nhân quyền và dân chủ) phải được trả tự do vô điều kiện. Hiện có 106 TNLT đang bị cầm tù.

Chúng tôi trân trọng cảm ơn.

Các tổ chức XHDS độc lập Việt Nam đồng kính chuyển:

1. Bach Dang Giang Foundation: Ths.Phạm Bá Hải

2. Ban vận động Văn Đoàn Độc lập: Nhà văn Nguyên Ngọc

3. Bauxite Việt Nam: GS.Phạm Xuân Yêm, GS. Nguyễn Huệ Chi

4. Cao Đài, Khối Nhơn Sanh: CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân, CTS Nguyễn Bạch Phụng

5. Diễn Đàn XHDS: Ts.Nguyễn Quang A

6. Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam – Hoa Kỳ: MS.Nguyễn Hoàng Hoa

7. Giáo hội Mennonite thuần túy: MS.Nguyễn Mạnh Hùng, MS Phạm Ngọc Thạch

8. Giáo hội PGHH Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm

9. Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo: Ls. Nguyễn Bắc Truyển

10. Hội Anh Em Dân Chủ: Ls.Nguyễn văn Đài

11. Hội Bảo vệ Quyền Tự do Tôn giáo: Cô Hà Thị Vân

12. Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs.Nguyễn Đan Quế, Lm.Phan Văn Lợi

13. Hội Nhà báo Độc lập: Ts.Phạm Chí Dũng

14. Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, Cô Trần Thị Nga, Bà Trần Thị Hài

15. Hội Thánh Tin Lành Chuồng Bò: MS. Lê Quang Du

16. Khối Tự do Dân chủ 8406: Lm Phan Văn Lợi

17. Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh

18. Phong Trào Liên đới Dân oan Tranh đấu: Bà Trần Ngọc Anh

19. Tăng Đoàn Giáo hội PGVNTN: HT.Thích Không Tánh

Người nhận:

Mr. Jerald Joseph, Pusat Komas, (jjerald@pd.jaring.my)

Mr. Yap Swee Seng, SUARAM (detention@suaram.net)

Ms Reileen Dulay, Asia Pacific Forum on Women Law and Development (APWLD) (reileen@apwld.org)

Ms Nalini Singh, Asia Pacific Resource and Research Centre for Women (ARROW) (nalini@arrow.org.my)

Mr Gus Miclat, Initiatives for International Dialogue (IID) (gus@iidnet.org)

Mr. Mark Barredo, ASEAN Youth Forum (joelmarkbarredo@yahoo.com)

Ms Marjorie Pamintuan, Asia Pacific Research Network (APRN) (mpamintuan@aprnet.org)

Gia Hartman, Coalition to Abolish Modern-day Slavery in Asia (CAMSA) (gia.hartman@bpsos.org)

Ms Atnike Sigiro, Asian Forum for Human Rights and Development (FORUM-ASIA) (atnike@forum-asia.org)

Thilaga Sulathireh, ASEAN Sexual Orientation and Gender Identity/Expression Caucus (thilaga.sulathireh@gmail.com)

Mr Richard Gadit, Asia Indigenous Peoples’ Pact (AIPP) (richard@aippnet.org)

 

Ảo tưởng dân chủ

Ảo tưởng dân chủ

Nguyễn Hưng Quốc

01.01.2015

Trong bài “Những ngày cuối cùng của đảng Cộng sản?” (The last days of the Communist Party?) đăng trên tạp chí World Affairs ngày 23 tháng 12 năm 2014, Michael J. Totten mở đầu bằng một nhận định: “Việt Nam là một quốc gia độc đảng độc tài trông có vẻ như một xứ tự do”.

Rất nhiều người chỉ thấy mệnh đề sau “trông có vẻ như một xứ tự do” mà quên bẵng đi mệnh đề đầu “độc đảng độc tài” (authoritarian one-party state).

Cách đây hơn một tháng, tôi được mời giảng dạy một khoá ngắn về ngôn ngữ, văn hoá và chính trị Việt Nam cho một nhóm sinh viên Úc chuẩn bị sang Việt Nam nghiên cứu trong mấy tuần. Trong số ấy, có nhiều sinh viên đã từng du lịch sang Việt Nam. Họ có vẻ thích Việt Nam. Khi tôi hỏi cảm tưởng của họ về không khí chính trị tại Việt Nam, tất cả đều cho Việt Nam không có vấn đề gì về dân chủ và nhân quyền. Nó hoàn toàn khác với các quốc gia Hồi giáo hoặc Bắc Hàn hay ngay cả Trung Quốc mà họ từng biết. Ở Việt Nam, họ có thể đi khắp nơi, nói về mọi đề tài và làm bất cứ thứ gì họ muốn. Rất hiếm thấy công an hoặc nếu thấy, công an cũng không gợi lên bất cứ một ấn tượng đe doạ nào. Vào internet, họ cũng không gặp dấu hiệu nào của sự kiểm duyệt. Theo họ, Việt Nam khá dân chủ. Khi tôi kể kinh nghiệm của bản thân tôi, một nhà giáo và một người cầm bút tuyệt đối không tham gia chính trị, bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam hai lần mà không có lý do gì cả, họ rất ngạc nhiên. Và thú nhận: đó là điều họ không hề biết.

Thật ra, việc không biết như vậy cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tất cả những người ngoại quốc cho Việt Nam dân chủ đều là những kẻ cưỡi ngựa xem hoa. Họ chỉ đến Việt Nam vài tuần hoặc nhiều hơn, vài ba tháng. Họ không thấy được bản chất của chế độ cũng là điều dễ hiểu. Đáng ngạc nhiên hơn là chính người Việt Nam, chắc không phải ít, cũng cho là Việt Nam dân chủ hoặc khá dân chủ. Tôi gặp khá nhiều người, hầu hết thuộc thành phần trí thức, từ Việt Nam sang Úc với tư cách du lịch hoặc thường trú nhân (do thân nhân bảo lãnh). Phần lớn đều cho Việt Nam không còn độc tài nữa. Họ nêu lên ba lý do chính: Một, so với trước đây, Việt Nam càng ngày càng đi xa trên tiến trình dân chủ hoá; hai, ở Việt Nam, ngay trong lãnh vực chính trị, chính phủ cũng hành xử một cách dân chủ: dân chúng có thể thoải mái phê phán chính quyền một cách công khai trong các tiệm cà phê hay quán nhậu, thậm chí, trên các blog hay facebook; và ba, giới hạn trong phạm vi chính trị, nếu chính phủ thiếu dân chủ thì, tính chất thiếu dân chủ ấy vừa rất ít vừa có thể “thông cảm” được vì Việt Nam hiện đang đối diện với nguy cơ xâm lấn từ Trung Quốc.

Tôi cho nhận định của những người Việt Nam kể trên cũng như những người ngoại quốc đến Việt Nam một thời gian ngắn ngủi đều xuất phát từ sự mê hoặc trước ảo tưởng dân chủ mà nhà cầm quyền Việt Nam cố tình tạo nên để đánh lừa mọi người.

Để thoát khỏi sự lừa dối ấy, cần, nói theo ngôn ngữ cộng sản vẫn thường dùng trước đây, phân biệt bản chất và hiện tượng. Hiện tượng: ở Việt Nam, hầu như người ta có thể phát biểu về đủ thứ chuyện. Bản chất: đàng sau hiện tượng ấy, có một khu cấm: chính trị. Trong chính trị, về hiện tượng, người ta có thể phê phán chính quyền một cách gay gắt, tuy nhiên, về bản chất, có hai điều đáng chú ý: Một, chỉ phê phán bằng miệng; hai, nếu viết, người ta phải biết dừng lại ở một điều cấm kỵ: phê phán giới lãnh đạo. Trước, có ba điều cấm kỵ: Hồ Chí Minh, đảng cộng sản và giới lãnh đạo đương tại chức. Sau này, những khu vực cấm kỵ ấy dường như được thu hẹp lại. Phê phán Hồ Chí Minh? Người ta có thể khó chịu nhưng ít khi có phản ứng quyết liệt. Phê phán đảng Cộng sản? Dường như có tâm lý: cha chung không ai khóc. Nhưng đừng phê phán cá nhân những người đang cầm quyền. Đụng đến họ, nếu không phải chính họ thì cũng có đàn em của họ xúm vào trả thù ngay tức khắc.

Để đánh giá một chế độ cần nhìn vào cơ chế. Cơ chế ấy, ở Việt Nam, vẫn độc đảng, không hề có cạnh tranh và đối lập, hai yếu tố quan trọng nhất của dân chủ. Còn một yếu tố thứ ba nữa: sự minh bạch, Việt Nam hoàn toàn không có. Mọi chính sách của nhà nước, từ lớn đến nhỏ, đều… bí mật. Ngay cả đối với một vấn đề ai cũng quan tâm: quan hệ với Trung Quốc, người dân vẫn không hề biết giới cầm quyền Việt Nam đã cam kết gì với Trung Quốc trong hội nghị Thành Đô năm 1990 cũng như những kế sách, nếu có, họ đang theo đuổi để bảo vệ biển đảo của Việt Nam trước các âm mưu lấn chiếm của Trung Quốc.

Không phải ngẫu nhiên mà, theo các bảng xếp hạng của các tổ chức quốc tế, Việt Nam bao giờ cũng nằm ở cuối hoặc gần cuối về mức độ dân chủ, đặc biệt dân chủ trong lãnh vực truyền thông. Căn cứ vào các vụ bắt bớ dân chúng cũng như các biện pháp trừng phạt những người dân dám lên tiếng phản đối chính phủ được tường thuật trên báo chí, người ta cũng dễ dàng nhận thấy Việt Nam hoàn toàn không có dân chủ.

Trong bài báo dẫn ở đầu bài viết này, Michael J. Totten cho rằng mặc dù nhà cầm quyền Việt Nam vẫn độc tài nhưng sự độc tài của họ không quá khắc nghiệt như Bắc Triều Tiên, Cuba hay Trung Quốc. Nó giống hơn với thời kỳ tiền-dân chủ (pre-democratic) ở Đài Loan hay Nam Triều Tiên trước đây. Với cái nhìn như thế, ông hy vọng những năm tháng chúng ta đang sống hiện nay là những ngày cuối cùng của chế độ cộng sản.

Trong lúc chúng ta mong sự lạc quan của Totten không phải là một ảo tưởng, chúng ta cũng nên biết một sự thật: Không có chế độ độc tài nào tự động chuyển sang dân chủ cả. Nói theo cách nói của Tây phương, tự do không bao giờ miễn phí (freedom ain’t free). Tự do bao giờ cũng là kết quả của các cuộc đấu tranh. Điều đó cũng có nghĩa là tự do không đến từ chính phủ, từ trên xuống, như một kiểu phân phát hay ban bố. Tự do bao giờ cũng từ dưới lên, bắt đầu từ dân chúng, những người biết tự do là cái quyền căn bản của mình và sẵn sàng trả giá để có được cái quyền ấy.

Khi dân chúng không chấp nhận trả giá, cái gọi là những ngày cuối cùng (last days) có thể kéo dài, có khi, kéo dài mãi, cả mấy thập niên .

Người thầy học trò

Người thầy học trò

Chuacuuthe.com

VRNs (06.01.2015) – Sài Gòn –

Không hiểu tại sao con Ngọc có số điện thoại của Lão. Nó gọi cho Lão:

– Con xin lỗi, con là Ngọc, học trò cũ, xin gặp thầy được không ạ?

Lạ thật, ngày ấy đám học trò chỉ xưng em, có đứa nào xưng con với Lão đâu? Lão xót xa: “Mình về hưu non, nghỉ dạy tháng trước, tháng sau đã có đứa gọi mình bằng chú, tháng sau nữa bằng anh. Cũng may, chưa đứa nào gọi mình bằng mày, xưng tao. Thế là phúc đức nhà mình lắm rồi.  Nay có đứa gọi mình là thầy, xưng con. Quái lạ, Ngọc nào nhỉ?” Lão nhỏ nhẹ:

– Tôi xin lỗi…

– Con là Ngọc Ngố Tàu đây, thầy quên rồi sao?

Lão có nhiều học trò tên Ngọc, nhưng Ngọc biệt danh Ngố Tàu thì Lão nhớ ra ngay.

– Trời ạ! – Lão mau mắn – Em không quên ông giáo già trường làng, quê mùa này ư? Cửa nhà thầy lúc nào cũng mở, mời em, mời các em…

– Không! – Nó ngắt lời Lão – Chỉ một mình con thôi.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Lão không cần phải lục lọi ký ức, hình ảnh của Ngọc Ngố Tàu ngày xưa lồ lộ trong tâm trí Lão: Đôi mắt to, tròn, hơi lồi, tóc vàng hoe lưa thưa không che được vầng trán nhô ra, trông ngô nghê, ngờ nghệch, ngốc nghếch, ngu ngơ, ngớ ngẩn, tóm lại là ngố không chịu nổi, gọi là “Ngố Tàu” quả thật, chẳng quá đáng chút nào; không một mảy may giống với người thiếu phụ ngồi trước mặt Lão đây. Nàng đẹp quá, đẹp đến não nùng, dáng người quý phái, mái tóc đen mượt mà, dài, buông thả. Nhưng khi nhìn vào đôi mắt u ám, vương vất nỗi buồn sâu thăm thẳm kia, Lão bỗng rùng mình lạnh suốt xương da, gai ốc nổi ngược lên, ái ngại… Hẳn là người học trò cũ của Lão đây đã phải trải qua những biến cố kinh hoàng lắm. Lão buột miệng:

– Em sao vậy?

Nàng nhìn giò bạch ngọc treo ngoài cửa sổ, như tránh cái nhìn của Lão:

– Nhành lan đẹp quá!… Thưa, thầy đáng tuổi cha con, xin coi con là con được không ạ? Thầy mạnh giỏi ạ? Đang làm gì ạ? Cuộc sống thế nào ạ?

Tuổi già được người hỏi thăm, lại là học trò cũ từ lâu lắm, Lão bỗng dưng vui, đùa cho bầu khí chùng xuống:

– Giỏi thì không, mạnh thì có, nhưng mạnh của tuổi già thôi. Thầy lớn tuổi rồi, không thua bất kỳ ai cùng trang lứa về những thói hư tật xấu của tuổi già: Ốm đau, bệnh tật, mất ngủ, cáu gắt, khó tính khó nết… Em, à, ừ, con… Con hỏi thầy làm gì à? Thì làm ngơ, làm tàng, làm biếng… Còn về cuộc sống ư? Tệ hơn xưa, bao giờ cũng “lình xình như lục bình trôi sông”.

Nàng im lặng thật lâu, rồi cắn môi, có vẻ đăm chiêu lắm:

– Không phải thầy, Con mới bọt bèo, mới lình xình như lục bình trôi sông… Thầy có tin không, có thể nghe con kể không? Chuyện dài lắm, nhưng con xin kể vắn tắt thôi. Xong lớp 12, con ôn thi một năm, thi vào đại học y dược, trượt, nhưng đủ điểm xét tuyển nguyện vọng hai hệ cao đẳng. Nếu thời gian học phổ thông là nụ hồng, mầm xanh, là ríu rít tiếng chim thì những năm học cao đẳng là hoa thơm cỏ lạ, là bướm bay dập dờn. Cuộc đời sao mà đẹp, sao mà đáng yêu đến thế. Thầy còn nhớ Trung Gà Tồ không? Cái anh chàng nghĩ sao nói vậy, không được một nết đẹp nào ngoài tính thật thà và tận tâm. Chúng con yêu nhau, thầy ạ! Ra trường, chúng con làm đám cưới. Rất hạnh phúc. Anh ấy là giáo viên một trường phổ thông trung học, còn con là y sĩ, xin việc ở một trạm y tế xã, được phân công làm việc ở phòng bảo vệ bà mẹ trẻ em. Con bị khủng hoảng tinh thần ngay ngày làm việc đầu tiên. Trời ơi! Những mảnh thai nhi người ta lấy ra vẫn còn co giật, thầy ạ. Con sợ quá, xin làm viêc khác, ba lần không được, thế là con bị đuổi việc… Mất việc cũng chẳng sao. Thầy biết đấy, con là con một, cha mẹ để lại cho một lô đất trong kênh, trị giá cả gần trăm cây vàng, cho thuê một năm cũng được sáu, bảy chục triệu chứ ít ỏi gì…

Con có thai con so. Được ba tháng, đi khám, siêu âm, làm xét nghiệm, vợ chồng con rụng rời chân tay, thầy ạ! Đứa bé bị hội chứng down. Người ta khuyên con phá bỏ, bởi vì nếu được sinh ra, đứa trẻ sẽ là gánh nặng cho gia đình, cho xã hội và nhất là cho chính nó. Con xin lễ, cầu nguyện xin ơn sáng soi, hỏi ý kiến cha xứ, đọc Giáo luật, đọc sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, và mường tượng ra đứa con của con sẽ là những mảnh thai nhi người ta lấy ra vẫn còn co giật, con quyết tâm giữ đứa bé lại. Sinh ra, nó bị down thật, đầu và chân tay ngắn choằn, tai chuột, đầy một mồm lưỡi, lè cả ra ngoài. Con bán nhà cửa, bán luôn lô ruộng được tám chục cây vàng, lo chạy chữa cho nó. Không ích lợi gì thầy ạ. Ba tuổi, nó mới biết cười thì bị ung thư máu. Đau đớn lắm, thầy ơi! Bốn tuổi, nó chết.

Con có thai đứa thứ hai. Con sợ, không đi bác sĩ. Con phó thác mọi sự cho Chúa, xin Chúa thương ban cho con một đứa con bình thường thôi. Với con, một đứa trẻ bình thường đã là một phép lạ cả thể rồi. Nhưng Chúa làm ngơ. Sinh ra, nó lại bị down như anh nó. Con tự hỏi: “Ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để nó phải sinh ra như vậy?” (Ga 9, 2). Con dốc đến đồng xu cuối cùng chữa trị cho nó. Chưa được ba tuổi, nó biết cười, rồi chết.

Con bị u nang buồng trứng, phải cắt bỏ, thế là tuyệt đường sinh sản. Thầy có biết nhà đạo-đức-vô-đạo-đức nào đã nói cái câu vô đạo đức này không, “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”? Con không thể sinh con được nữa, gia đình và cả dòng họ bên chồng nguyền rủa, hắt hủi, xua đuổi con. Chồng con bị ức chế nặng, tới tận cùng giới hạn của sự chịu đựng. Anh lao đầu vào những cơn say bất tận, rơi vào vòng tay của một cô ca-ve. Cô này cũng gốc gác đạo Công Giáo, thầy ạ. Họ có với nhau hai đứa con trai, đều lành lặn, xinh xắn, dễ thương lắm… Cả nhà chồng con xúi dục anh ấy viết đơn ly dị, con nhất quyết không ký. Thế nhưng người ta thu xếp được. Ra tòa, con bị xử thua kiện vì những tội lỗi con không phạm…

Kể xong, nàng nhìn Lão bằng ánh mắt van lơn, cầu cứu:

– Con mới từ tòa án về đây. Con không còn mái nhà để về, không còn ai để hỏi một câu. Con đã mất hết nhà cửa, ruộng vườn, công ăn việc làm, mất con, mất chồng, mất hết mọi thứ. Con chỉ còn biết cầu nguyện và cầu nguyện, nhưng Chúa chẳng nhận lời. Con phải làm gì đây? Thầy ơi!

Lão im lặng hồi lâu, rồi nói với nàng chân thành như nói với chính bản thân Lão:

– Thầy không là một nhà đạo đức dù thật hay giả, nên không thể khuyên bảo con được điều gì… Chỉ xin chúng ta đọc với nhau một kinh Lạy Cha thôi, được không?

Họ quỳ trước cây Thánh giá mộc treo trên tường. Đọc được đúng một câu: “Lạy cha chúng con ở trên trời” thì nàng lặng tiếng, nghiêng đầu qua một bên, nhắm mắt lại. Nước mắt nàng giàn giụa, đầm đìa trên khuôn mặt diễm lệ. Người ta cầu nguyện bằng Lời Chúa, bằng chiêm niệm, bằng kinh sách, bằng thơ, bằng nhạc…, còn nàng thì cầu nguyện bằng nước mắt. Lão thưa với Chúa, nhỏ tiếng thôi, nhưng đủ cho Chúa và nàng nghe thấy: “Chúa Giêsu ơi! Trong cơn hấp hối, Chúa đã cô đơn và tuyệt vọng đến độ phải kêu lên: “Ôi, Thiên Chúa! Sao Chúa nỡ lại bỏ con!” (Mc 15, 34); nhưng Chúa vẫn một lòng cậy trông, vẫn “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46), thì xin Chúa cho người chị em con đây, đang cô đơn và tuyệt vọng, giữ được một lòng cậy trông. Và xin ban cho nàng ơn bình an”.

Lão ghé trung tâm bảo trợ xã hội, thăm bà giáo già dạy Lão thuở Lão học tiểu học. Tới nơi thì vừa trưa. Đang bữa ăn trưa, mấy mươi con người trên những chiếc xe lăn, trên những chiếc ghế đá ngoài hành lang nhà ăn đổ dồn con mắt về phía Lão. Rõ ràng là ai cũng mòn mỏi chờ mong người thân một lần đến thăm. Sơ Bề trên nói với Lão:

– Ông tìm bà cụ Tuyết Nhung phải không? Ông có quan hệ với cụ thế nào? Cụ là cô giáo cũ của ông à? Quý hóa quá! Tội nghiệp lắm! Cụ vốn đông con nhiều cháu, nhưng thực sự bị bỏ rơi. Con cái cụ đều thành danh, có chức vị trong xã hội, nhưng họ bị cơn lốc duy tiền cuốn hút đi. Họ không phải lo gì miếng ăn, cái mặc… Nhưng những nhà cửa, những đất đai, những cổ phiếu, những tài khoản ở nước ngoài… chiếm hết trái tim, khối óc của họ. Họ là tỷ phú về tiền bạc nhưng lại là những kẻ túng quẫn cùng cực về đức yêu thương và về thời gian. Cả năm, không ai bỏ ra được một buổi đi thăm mẹ.

Sơ dẫn Lão đến bên chiếc xe lăn. Bà cụ Tuyết Nhung gầy guộc lọt thỏm trong xe, mắt nhìn xa vắng, không nhận ra Lão, trong lúc cô nhân viên đang cho cụ ăn thảng thốt:

– Thầy hả? Thầy hả? Con, Ngọc Ngố Tàu đây, thầy ơi!

Lão cũng thảng thốt:

– Con để tóc ngắn, nên thầy không nhận ra. Mái tóc dài của con đẹp thế, sao lại cắt đi?

– Con tiếc lắm. – Nàng nhìn xa vắng, như lạc hồn về dĩ vãng – Ngày xưa, anh ấy yêu mái tóc ấy lắm, cấm, không cho con cắt… Con muốn giữ lại, nhưng ở đây vì công việc, cần phải gọn gàng, năng động, con đành phải cắt bỏ.

Nhìn nàng xúc từng thìa thức ăn cho bà cụ ăn một cách gọn gàng, cẩn trọng, Lão nhớ tới lời Mẹ Thánh Têrêsa dạy bảo đệ tử của Mẹ: “Chị thấy trong Thánh lễ, linh mục cầm tấm bánh đã trở nên Mình Chúa Kitô, kính cẩn như thế nào, chị hãy làm như vậy trong nhà hấp hối”, Lão thấy mắt mình cay cay.

Một sơ còn trẻ chạy đến:

– Chị Ngọc ơi! Cụ Lan đòi chị cho ăn mới chịu.

Sơ khác:

– Chị Ngọc ơi! Cụ Tím không chịu uống thuốc.

Một sơ khác:

– Chị Ngọc ơi! Cụ Hồng chắc không qua khỏi.

Lão nhìn thẳng vào đôi mắt nàng. Đôi mắt nàng trong veo, sáng long lanh, đã mất đi vẻ u ám hôm nào. Khuôn mặt nàng có già nua đi, nhưng phảng phất niềm vui thơ trẻ. Lão tin rằng nàng đã tìm thấy Bình An, “sự bình an không phải do thế gian ban tặng” (Ga 14, 27). Nàng thì thầm:

– Nhiều người đã chết trên tay con. Có người chết đau đớn vì cô đơn, vì thương con nhớ cháu, nhưng cũng có những người chết thanh thản thấy thèm, thầy ạ!

– Thèm, lại là thèm chết, sao lại thèm? Sự sống chết của chúng ta nằm trong tay Chúa mà.

– Con biết. Con biết sự sống là một huyền nhiệm, sự góp mặt trần gian của một con người là một Ơn Ban trọng đại. Trên đời, có gì cao quý, đáng giá hơn chính cuộc sống đâu phải không, thầy? Bây giờ, con yêu cuộc đời này lắm, yêu thiết tha nữa cơ. Ít ra con không vô dụng. Tuy trắng tay, con cũng còn cần cho ai đó, có ích cho ai đó, dù nhỏ nhoi… Nhưng con thèm chết thật mà. Chỉ có chết đi, con mới được gặp lại hai đứa con tật nguyền của con. Hơn nữa con có chết đi thì gia đình anh ấy, mới hợp thức hóa được, mới hiệp thông trọn vẹn với Thân Mình Mầu Nhiệm được, phải không thầy?

Lão còn nói gì được nữa?! Môi miệng Lão im bặt. Lão nghĩ: Nghịch lý thay, môt nghịch lý tuyệt diệu! Chúa đã dùng bàn tay của một con người bất hạnh để xoa dịu vết thương của những con ngưởi bất hạnh, dùng một trái tim tan nát để vá víu những trái tim tan nát, dùng một cõi lòng vô vọng để đem hy vọng đến cho những cõi lòng vô vọng. Cũng là một nghịch lý tuyệt diệu nữa: Người học trò của Lão học được gì nơi Lão? Có chăng, mấy con tính cộng trừ nhân chia lũy thừa căn số vớ vẩn. Còn nàng, nàng đâu có dạy Lão được một chữ nào, nhưng đã dùng chính đời sống của mình làm chứng nhân, dạy bảo Lão những điều to tát hơn nhiều. Đó là biết tin tưởng, biết hy vọng và nhất là biết yêu thương quên mình.

Nàng mới thật sự là người thầy của Lão, dù chỉ là người-thầy-học-trò.

lãongu

Campuchia diệt trừ nạn gian lận, chỉnh đốn lãnh vực giáo dục

Campuchia diệt trừ nạn gian lận, chỉnh đốn lãnh vực giáo dục

Chính sách không gian lận có nghĩa là sinh viên phải học chăm chỉ hơn và không đi chơi nhiều như trước đây.

Chính sách không gian lận có nghĩa là sinh viên phải học chăm chỉ hơn và không đi chơi nhiều như trước đây.

Robert Carmichael

06.01.2015

PHNOM PENH—

Kết quả kỳ thi cuối năm tại Campuchia trong năm 2014 thật là tệ hại với hơn phân nửa trong số 90.000 học sinh bị rớt. Lý do? Giới hữu trách diệt trừ nạn gian lận – biện pháp đầu tiên trong một loạt các cải cách nhằm chỉnh đốn lại lãnh vực giáo dục bị hư hỏng của quốc gia nghèo khó này. Thông tín viên Robert Carmichael tường trình cho Đài VOA từ Phnom Penh.

Quyết định dẹp trừ gian lận đã có một ảnh hưởng to lớn. 60% học sinh năm 2014 thi rớt trong kỳ thi cuối năm học, dù có được dịp may thứ hai thi lại vào tháng 10.

Học sinh niên khoá 2015 đã ghi nhận việc này.

Học sinh năm cuối Rattana nói các bạn học nhận biết được qui định “không gian lận trong các kỳ thi” có nghĩa là họ cần phải vượt qua được kỳ thi và lên đại học.

Học sinh này nói chính sách mới có nghĩa là sinh viên phải học chăm chỉ hơn và không đi chơi nhiều như trước đây. Cũng có nghĩa là học sinh không phải chi tiền trong suốt kỳ thi.

Chính sách mới là sản phẩm của Bộ trưởng Giáo dục Hang Chuon Naron.

Được bổ nhiệm cách đây một năm, sau một thập niên là Thứ trưởng Tài chánh, Bộ trưởng Giáo dục Hang Chuon Naron nói cải cách giáo dục thiết yếu cho việc phát triển Campuchia.

Ông Naron cho biết: “Do đó yếu tố quan trọng nhất là có sự lệch lạc về kỹ năng tại Campuchia. Và việc này đã trở thành một trở ngại cho phát triển kinh tế, cho việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Do đó chúng ta có những nhà đầu tư đến, nhìn vào lực lượng lao động có kỹ năng-chúng ta không có đủ. Tuy nhiên về khía cạnh cung ứng, chúng ta có nhiều sinh viên tốt nghiệp không thể tìm được việc làm. Và đây là một vấn đề nhiều nước đang đối mặt-ấy là sự lệch lạc về kỹ năng.”

Chính sách mới nhằm cải thiện việc đào tạo giáo viên, quản trị tốt hơn các trường học, và quảng bá kỹ năng phán đóan và giải quyết vấn đề cho 2,9 triệu học sinh Campuchia.

Giáo viên bị trả lương thấp sẽ có thêm thu nhập và trường học sẽ được sự tài trợ thêm của ngân sách giáo dục lên đến 440 triệu đô la.

Chắc chắn Campuchia sẽ còn một con đường dài phải đi: chẳng hạn tỉ lệ 1 giáo viên cho 46 học sinh tiểu học là con số tệ nhất trên thế giới bên ngoài châu Phi.

Ngân hàng Phát triển Á châu đang cấp 90 triệu đô la trong vòng 5 năm để cải thiện chất lượng giáo dục và cắt giảm tỉ lệ bỏ học. Ông Sophea Mar thuộc Ngân hàng Phát triển châu Á ca ngợi quyết định của chính phủ gia tăng chi tiêu giáo dục, nhưng ông nói với tỉ lệ 17% chi tiêu vẫn còn thấp.

Ông Sophea nói: “Việc phân bổ ngân sách rất quan trọng, nhưng việc chi tiêu còn quan trọng hơn. Và đây là một thách thức to lớn vì bạn biết khả năng ở mức trường học, ở mức địa phương, vẫn còn là một vấn đề. Do đó cải cách không chỉ được thực hiện trong phạm vi bộ. Cải cách phải bắt đầu từ lớp học, phải bắt đầu từ cấp thấp nhất.”

Ông nói để bảo đảm thành quả của các cải cách này cần có sự ủng hộ không những của của chính phủ, mà còn cả của học sinh, cha mẹ và khu vực tư nhân nữa.

800 di dân Phi Châu leo rào tràn vào lãnh thổ Tây Ban Nha

800 di dân Phi Châu leo rào tràn vào lãnh thổ Tây Ban Nha

Nguoi-viet.com

MADRID, Tây Ban Nha (AP)Chính phủ Tây Ban Nha cho hay khoảng 800 người di dân gốc Phi Châu đã tìm cách leo rào tràn vào khu vực do quốc gia này kiểm soát tại Mellilla, trong vùng Bắc Phi, nằm sát lãnh thổ Morocco. Ðây là nỗ lực thứ nhì trong hai ngày của người dân Phi Châu nơi đây.



Người di dân gốc Phi Châu tìm cách leo rào tìm cách leo vào lãnh thổ Tây Ban Nha. (Hình: Blasco De Avellaneda/AFP/Getty Images)

Bộ Nội Vụ Tây Ban Nha cho hay cảnh sát đẩy lui được phần lớn số người leo rào nhưng có khoảng 54 người vào được hôm Thứ Tư. Ðài truyền hình nhà nước Tây Ban Nha chiếu cảnh những người này ăn mừng thành quả của họ.

Bộ Nội Vụ cũng cho hay có hai cảnh sát viên phải điều trị cho các vết thương của họ.

Hàng ngàn người dân Phi Châu sống bất hợp pháp ở Morocco vẫn thường xuyên tìm cách vào lãnh thổ Melilla của Tây Ban Nha cũng như Ceuta, hy vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn tại Âu Châu.

Hôm Thứ Ba, có 200 người leo rào vào nơi đây, với khoảng 102 người lọt vào bên trong. (V.Giang)

Tại sao hàng loạt nữ tù nhân lương tâm tuyệt thực?

Tại sao hàng loạt nữ tù nhân lương tâm tuyệt thực?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-01-06

01062015-y-wmn-pris-on-hunger-strik-b.mp3

Nữ tù nhân lương tâm đang bị giam giữ

Nữ tù nhân lương tâm đang bị giam giữ

RFA files

Your browser does not support the audio element.

Các vụ tuyệt thực trong tù của những nữ tù nhân lương tâm lúc gần đây đã đến lúc báo động. Với các phụ nữ bất khuất này tuyệt thực là cách cuối cùng để họ tiếp tục chống đối trong vô vọng và tiếng nói của thân nhân họ là âm thanh duy nhất để dư luận biết tới và đánh động với bên ngoài. Mặc Lâm có thêm chi tiết.

Nữ tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần

Danh sách các nữ tù nhân lương tâm hiện đang thi hành án trong các trại tù có lẽ dẫn đầu là Tạ Phong Tần, người phụ nữ được mệnh danh là bất khuất dám từ bỏ áo công an để gia nhập vào đội quân bảo vệ dân oan, viết bài chống đối chính sách sai trái của chính quyền và công khai góp phần thành lập Câu lạc bộ nhà báo tự do để cuối cùng bị bắt vào tháng 9 năm 2011 bị kết án 10 năm tù giam với cáo buộc tuyên truyền chống nhà nước vi phạm điều 88 bộ luật hình sự.

Người nữ tù nhân lương tâm ấy còn đau khổ hơn khi vì bị cướp đất và tranh đấu cho mình mà mẹ ruột đã phẫn uất tự thiêu đến chết. Bà Đặng Thị Kim Liêng đã tự thiêu vào ngày 30 tháng 7 năm 2012 trước trụ sở chính quyền thành phố Bạc Liêu. Cái chết của bà tuy gây rúng động cho dư luận nhưng có vẻ như không ảnh hưởng gì tới các trại giam và chính sách đất đai của nhà nước.

” Chị Tần rất yếu, gầy ốm, xanh xao đi ra chỉ nói chuyện được có 10 phút thôi anh ơi họ không cho nói chuyện. Hỏi lý do vì sao tuyệt thực thì do là bọn họ nhốt chỉ cách biệt ở một căn phòng sau 4 cánh cửa sắt, khi ra khỏi phòng giam để gặp em là cửa thứ 5

cô Tạ Minh Tú”

Mới đây nhất, cô Tạ Minh Tú em ruột của Tạ Phong Tần cho biết chị mình đã tuyệt thực trong trại giam sau chuyến thăm chị vào ngày 5 tháng 1 vừa qua. Cô Tạ Minh Tú cho biết:

-Chị Tần rất yếu, gầy ốm, xanh xao đi ra chỉ nói chuyện được có 10 phút thôi anh ơi họ không cho nói chuyện. Hỏi lý do vì sao tuyệt thực thì do là bọn họ nhốt chỉ cách biệt ở một căn phòng sau 4 cánh cửa sắt, khi ra khỏi phòng giam để gặp em là cửa thứ 5.

Chỉ có bệnh khớp với viêm họng mà mùa này do lạnh nên chị trở bệnh nhưng mà đã 14 ngày rồi chỉ tuyệt thực không có ăn gì chỉ uống nước và thuốc cũng không uống nữa. Chỉ nói mỗi ngày giam cách biệt như vậy mà đáng lẽ mỗi tuần thứ Bảy Chúa Nhật phải được đi ra ngoài giao lưu với phải mở cửa phòng để cho thoáng khí nhưng bọn họ không cho mở cửa và cũng không được ra ngoài, chỉ giam trong phòng trong được đi đâu hết mà trong phòng thì không có ánh sáng. Ở trong đó chị Tần tuyệt thực chống đối và bà Nguyễn Thị Hương còn đe dọa bả nói là sẽ nhốt chị Tần vô xà lim.

” Đến ngày 1 là ngày Thứ Bảy bà con và gia đình em rất là lo lắng bởi vì sức khỏe mẹ em rất suy kiệt, kèm theo những triệu chứng bị choáng váng mà em nói rõ luôn là do những trận đánh, trận đòn của lực lượng cưỡng chế ngày 25 tháng Tư vừa qua

Anh Trịnh Bá Phương”

Khi được hỏi tại sao trại giam chỉ cho phép có 10 phút trong khi những phạm nhân khác có gần 1 giờ để thăm gặp, Cô Tạ Minh Tú cho biết:

-Bọn họ nói là làm sai quy định nên đuổi em ra mà rõ ràng em hỏi thăm sức khỏe chị Tần mà họ không cho nói, không cho hỏi. Trong khi đó ông Nguyễn Văn Tí đang thi hành nhiệm vụ mà mùi rượu nồng nặc. Ổng thách em cứ việc làm đơn thưa ổng, ổng không có làm sai quy định trong khi quy định trại giam là Tết dương lịch vừa rồi phạm nhân được ra ngoài để giao lưu nhưng chị Tần bị biệt giam không được ra vào gì hết. Trong lúc chỉ đang bệnh và đang tuyệt thực mà bọn họ bắt ra lao động. Bà Nguyễn Thị Hương đó bả bắt ra lao động.

Bà Cấn Thị Thêu

Một người tranh đấu cho dân oan khác là bà Cấn Thị Thêu cũng áp dụng biện pháp tuyệt thực trong nhà giam số 5 Thanh Hóa, nơi bà bị giam cùng trại với Tạ Phong Tần để phản đối sự bất công trong nhà giam và ngay trong bản án mà tòa án Hà Nội dành cho bà.

Người ta còn nhớ vào ngày 25 tháng 4 năm 2014 chính quyền đã mang hàng ngàn công an, côn đồ về Dương Nội để cưỡng chế khu vực mà bà Cấn Thị Thêu và hàng trăm nông dân Dương Nội đang cố thủ giữ đất tại đây. Lực lượng do chính quyền cử đến đã mạnh tay đàn áp, đánh đập đến bất tỉnh bà Cấn Thị Thêu và chồng của bà sau đó bắt cả hai về giam giữ trong nhiều tháng trời. Hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm xử hai vợ chồng bà đã được nhân dân Dương Nội theo dõi và dốc sức ủng hộ cho người đã cùng sát cánh với họ trong những ngày đấu tranh giữ đất.

Anh Trịnh Bá Phương người có bổn phận thăm nuôi cha mẹ. Nói về chuyện tuyệt thực của mẹ anh Phương kể:

-Ngày 11 tháng 1 vừa qua gia đình em đã thực hiện quyền thăm gặp và khi vào trại giam thì được biết rằng mẹ em đang tuyệt thực. Đến ngày 1 là ngày Thứ Bảy bà con và gia đình em rất là lo lắng bởi vì sức khỏe mẹ em rất suy kiệt, kèm theo những triệu chứng bị choáng váng mà em nói rõ luôn là do những trận đánh, trận đòn của lực lượng cưỡng chế ngày 25 tháng Tư vừa qua.

Đến ngày hôm nay thì sau khi gia đình và bà con rất lo lắng cũng đã tuyên bố sẽ tuyệt thực ủng hộ mẹ em nếu trại giam số 5 không cho gia đình và bà con vào để kiểm tra sức khỏe của mẹ em. Sau đó gia đình em với sự hỗ trợ của bà con cùng đấu tranh thì phía trại giam số 5 đã xem xét cho em vào gặp trực tiếp mẹ em. Qua cuộc gặp mẹ em cũng thông báo là đã dừng tuyệt thực và mẹ nói rõ nguyên nhân tuyệt thực là để phản đối nền tư pháp cũng như những sai trái của chính quyền đã chà đạp công lý để giam giữ trái phép mẹ em.

” Thời gian đầu tiên vào trại thì mẹ con tuyệt thực đợt đầu tiên dài nhất là 53 ngày, lý do lần đó là mẹ con phản đối sự dàn dựng vu khống của công an huyện Lấp Vò, mẹ con không muốn hợp tác trong quá trình điều tra và mẹ con thể hiện chống lại sự bất công đấy bằng cách tuyệt thực

con gái bà Bùi Thị Minh Hằng”

Trong khi cả hai vợ chồng bà Cấn Thị Thêu bị bắt và xét xử cùng một tội danh, một tòa án nhưng lại bị tách ra giam tại hai trại giam khác nhau. Anh Trịnh Bá Phương cho biết:

Bố em thì họ lại giam ở trại giam số 6 ở Nghệ An. Hiện nay do việc giam giữ bố mẹ em ở hai tỉnh đã gây rất nhiều khó khăn cho gia đình khi thăm gặp vì quảng đường rất xa.

Chị Nguyễn Đặng Minh

Cùng bị giam chung với Tạ Phong Tần và bà Cấn Thị Thêu tại trại giam số 5 Thanh Hóa là chị Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị bắt vào ngày 21 tháng 7 năm 2011 với bản án 8 năm tù giam và 5 năm quản chế theo điều 79 Bộ luật hình sự hoạt động nhằm lật đổ chính quyền. Chị Hồ Thị Bích Khương và bà Nguyễn Thị Lộc cũng bị giam tại tại đây.

Bà Bùi Thị Minh Hằng

Một nữ tù nhân lương tâm khác cũng rất nổi tiếng là bà Bùi Thị Minh Hằng. Tuy bản án nhẹ hơn Tạ Phong Tần và Nguyễn Đặng Minh Mẫn nhưng bà Bùi Hằng lại quyết liệt chống đối bằng biện pháp tuyệt thực dài ngày hơn và nhiều lần hơn để chống lại sự bất công mà Tòa án, Công an, Viện kiểm sát đối xử với bà. Con gái bà Bùi Hằng là Quỳnh Anh cho biết:

-Thời gian đầu tiên vào trại thì mẹ con tuyệt thực đợt đầu tiên dài nhất là 53 ngày, lý do lần đó là mẹ con phản đối sự dàn dựng vu khống của công an huyện Lấp Vò, mẹ con không muốn hợp tác trong quá trình điều tra và mẹ con thể hiện chống lại sự bất công đấy bằng cách tuyệt thực. Thời gian đầu tiên bà tuyệt thực dài 53 ngày.

Sau đó trong quá trình hỏi cung và thẩm vấn của công an tỉnh Đồng Tháp nó gây cho bà những bức xúc và bà cũng sử dụng biện pháp tuyệt thực sau mỗi lần như thế. Có tổng cộng 4 lần tuyệt thực. Lần cuối cùng trước khi ra tòa mẹ con tuyệt thực 13 ngày không ăn và không uống. Sau khi sơ thẩm về thì mẹ con ăn uống đều đặn nhưng cuối cùng khi phiên tòa phúc thẩm và mức án vẫn giữ nguyên thì mẹ con có tuyên bố là mẹ sẽ tuyệt thực cho đến chết để đòi lại công bằng cho mẹ con và hai người bạn.

Câu chuyện của những phụ nữ này vẫn làm bồi hồi rất nhiều người dân, đặc biệt là dân oan Dương Nội nơi mà những cái tên như Tạ Phong Tần, Bùi Minh Hằng luôn sát cánh với họ và nhất là bà Cấn Thị Thêu người phụ nữ gan góc dám đứng ra chống lại chính quyền để bảo vệ quyền lợi của người dân Dương Nội.

Tuyệt thực tuy chỉ là cách cuối cùng nhưng có lẽ nhờ thế mà bên ngoài sẽ không quên họ cho dù bị cách ly tới đâu chăng nữa.

Khoa học dẫn đến Thiên Chúa

Khoa học dẫn đến Thiên Chúa

http://baomai.blogspot.com/

Tiến sĩ Phan Như Ngọc, bị nhồi nhét tà thuyết vô thần từ lúc nhỏ và lớn lên trong lòng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhân một chuyến công tác ở nước ngoài, ông đã xin tị nạn và gia nhập Đạo Chúa. Ông viết: “Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại mà tôi từng ngưỡng mộ, tin Kinh thánh?”

“Tính muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, tính di truyền kỳ diệu: hạt giống nào sinh cây trái đó, vẻ đẹp tuyệt vời của những nàng hoa, sự hài hòa và hoàn thiện của cơ thể con người, sự hùng vĩ của bầu trời sao; tất cả những cái đó, cộng với những ý kiến các vĩ nhân mà tôi hằng kính phục, chính là sự chứng minh tuyệt vời và làm cho tôi tin rằng phải có Đấng Sáng Tạo. Đó chính là Thượng Đế toàn năng, toàn tri, toàn trí và toàn tại.”

image

Bác học Pasteur: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế.” ;   “Mỉa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết hoặc chết là trở về với hư vô.”

image

Bác học Becquerel: “Nhờ nghiên cứu khoa học đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đức tin.”

image

Bác học Isaac Newton, vì nhìn thấy sự kỳ diệu và trật tự của bầu trời tôi đã thốt lên:  “Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính” ;   “Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”

image

Bác học Bourgeois:  “Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng tỏ hơn.”

image

Bác học Duclaux: “Nếu sự sống đầu tiên xuất hiện trên mặt đất do tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuất hiện kia nó kỳ dị như hòn đá tự bò lên sườn núi.”

image

Bác học Albert Einstein: “Khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là qùe quặt.”;   “Tôi chưa hề gặp điều gì trong Khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo.” . “Sự ác là do vắng  bóng Thượng Đế trong tâm hồn.”

http://baomai.blogspot.com/

Giáo sư Edwin Carlson, nhà Sinh vật học Trường Đại Học Princeton, Hoa Kỳ:  “Sự sống phát xuất từ sự tình cờ, thì cũng giống như một quyển từ điển, xuất hiện do kết quả của một vụ nổ xẩy ra ở một nhà máy in.”

image

Giáo sư James Simpson, người phát minh ra phương pháp gây mê trong phẩu thuật, khi được hỏi về những phát minh của ông, đã trả lời: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu.”

image

Bác học Edison, đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng thap Eiffel:  “Edison hết sức khâm phục và ca ngợi tất cả kỹ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa.”

image

Giáo sĩ Moreux, giám đốc đài thiên văn Bourges:  “Tôi liên lạc với các vị giám đốc thuộc hết mọi đài thiên văn trên thế giới, tất cả đều tin có Thiên Chúa.”

image

Charles Nicolle, người đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: “May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của Thiên Chúa.”

image

Alexis Carrel, tiến sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon, đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng kiến phép lạ nhãn tiền tại Lộ Đưc (Lourdes , France), Marie Ferrand, từ một cô gái sắp chết, trở nên lành mạnh tức khắc, ông nói:  “Thật là một chuyện không thể có nhưng có thực. Qủa là bất ngờ, một phép lạ mới xẩy ra.”  Không dám tin ở mình. Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến và cả hai đều xác nhận cô đã hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo, trước khi về Nhà Cha trên trời.

image

Bác học Chevreul (1786-1889):  “Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy công trình tạo dựng của Ngài”

image

Bác học Diderot:  “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần.”

image

Bác học John Eccles, người đoạt giải Nobel:  “Tôi chấp nhận tất cả những lý thuyết khoa học, nhưng những lý thuyết này không giải thích một chút nào về sự kiện, làm thế nào, tôi, một sinh vật biết suy nghĩ, đang hiện hữu và có thể làm nhiều điều… Sự sáng tạo linh hồn là một hành động thiêng liêng là điều khoa học không thể phủ nhận được, nó hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của khoa học”

Ông nói thêm: “Niềm tin của những người chủ trương duy vật chất đang hao mòn; họ không dẫn chúng ta đến đâu cả. Thuyết ‘khoa học duy vật’ đưa con người đến tuyệt vọng, trống rỗng, vô giá trị. Giá trị thật là vấn đề tâm linh, tình yêu thương, can đảm, bác ái”.

image

D’Alembert:  “Cái tính hão huyền không muốn nghĩ tường như mọi người, là lý do tạo nên kẻ vô thần hơn là chứng lý sáng tỏ.”

http://baomai.blogspot.com/

Bác sĩ riêng của Lenine, lúc 83 tuổi, ông xuất bản hai cuốn sách: “Sự bí mật và sự khôn ngoan của thân xác (1958); và  “Mầu nhiệm của sự sống” (1960). Ông nói: “Môn sinh vật học và môn phân tích tâm lý, đã làm cho tôi trở nên một kẻ hữu thần.”

image

Wernher Von Braun (1917-1977) thám hiểm Mặt Trăng thành công năm 1967. Ông cùng 3 phi hành gia bạn cắm cờ Hoa kỳ và đặt ca vịnh trên cung trăng ngợi khen Đấng Tạo Hóa. Năm 1976 khi diễn thuyết tại Philadelphia , Bang Pennsylvania , Ông nói: “Sự bao la huy hoàng của vũ trụ đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi tăng thêm. Khoa học và đạo không mâu thuẫn nhưng là chị em ruột. Khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật, trong khi đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa đã dựng nên vạn vật tốt đẹp lạ lùng. Đạo không phải là di sản mà người đời sau hưởng thụ và bảo vệ. Nhưng đạo cũng như khoa học phải thăng tiến. Người tín hữu phải tìm hiểu đạo và nhà khoa học phải khổ công nghiên cứu mới thành bác học.”

image

Bác học T. Termier: “Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyết điểm, có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, hơn những người dốt nát, nhà khoa học dễ có ý hướng về một Đấng bất di bất dịch, tự hữu, cần thiêt, hoàn toàn và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo: khoa học dẫn đến Thiên Chúa; và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa.”

image

A. Eynieu đã công bố bản thống kê: trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19;  34 vị không biết lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% các nhà bác học tin có Thiên Chúa.

Bác sĩ Dennert, người Đức cũng tuyên bố kết qủa tìm tòi của ông để biết quan niệm tôn giáo của 300 nhà bác học, tìm hiểu trong những số lỗi lạc nhất thuộc 4 thế kỷ qua. “38 vị tôi không rõ các ông quan niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng dưng, 242 ông tin. Tức cũng 92% tin có Thiên Chúa.”

http://baomai.blogspot.com/

Nhà bác học người Mỹ, có ý mỉa mai và đánh giá những kẻ chủ trương vô thần như sau:

– Trong con người có một số nước đủ giặt một cái khăn bàn.

– Chứa chất săt, đủ làm 7 cái đinh đóng móng ngựa.

– Có một số chất vôi đủ quẹt một bức tường nhỏ.

– Đốt ra than, có thể làm được 65 cây viết chì.

– Chất phốt phát đủ làm được hộp diêm.

– Và chất muối độ hai muỗng nhỏ.

image

Bán những thứ đó được 95 xu, đó là giá trị của kẻ vô thần.

Nguyễn Hy Vọng

NHỮNG NGƯỜI ĐẠO SĨ

NHỮNG NGƯỜI ĐẠO SĨ

Trần Duy Nhiên –

A – NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ NHẤT

Tôi tên là Gaspar, một trong ba người đạo sĩ đã đến dâng của lễ bên máng cỏ ở Bêlem.  Hai người bạn của tôi là Melchior và Balthazar.

Từ lâu rồi, tôi mãi ngắm nền trời sao, và hôm ấy, ngôi sao tôi chờ đợi xuất hiện.  Các bạn từng có hình ảnh về sao lạ ở Bêlem, nên các bạn hình dung đó là một ngôi sao khác thường, với một cái đuôi thật dài chỉa thẳng về hang đá.  Một ngôi sao mà không ai có thể nhận lầm được.

Three_kingsXin thưa với các bạn, nếu các bạn nghĩ như thế thì các bạn lầm rồi đấy.  Ngôi sao ấy không khác với các ngôi sao bình thường đâu.  Tôi đã chờ đợi nó từ bao nhiêu năm trường mà khi xuất hiện, tôi vẫn còn do dự.  Tôi đã chỉ cho bao nhiêu người xung quanh, cho bà con họ hàng, cho thân bằng quyến thuộc.  Họ chỉ nhìn thoáng rồi thôi.  Họ bảo rằng giữa hằng hà sa số tinh tú trên trời thì ngôi sao ấy cũng chẳng có gì đặc biệt.  Không ai chịu lên đường với tôi, rốt cuộc tôi phải đi một mình.  Không ai muốn đặt niềm tin vào một vì sao, mà xét cho cùng, có thể chỉ là một ngôi sao như trăm ngàn ngôi sao khác.  Nhưng riêng tôi thì tôi phải ra đi, bởi vì tôi không thể đặt ngôi sao ấy đồng hàng với những ngôi sao bình thường được.

Khi gặp được Melchior và Balthazar, niềm phấn khởi của chúng tôi có gia tăng.  Nhưng dù sao cũng chỉ là ba người thức giấc bước đi trong đêm tối cố theo một ngôi sao, trong khi mọi người khác đang yên hàn trong giấc ngủ.  Càng đi chúng tôi càng mệt mỏi.  Khi thể chất mệt nhoài, thì tinh thần cũng sa sút, và những gì chúng tôi tin tưởng lúc khởi hành cũng dần dần nhạt phai.  Nhất là khi trên nền trời hiện ra nhiều vì sao mới, sáng sủa hơn, đẹp đẽ hơn, gần gũi hơn.

Thế nhưng chúng tôi cũng bám vào ngôi sao ban đầu, bám vào một cách cố chấp, vì chúng tôi đã tự hứa sẽ trung thành với ngôi sao đã thúc dục chúng tôi lên đường.

Rồi chuyện bi đát đã xảy ra: Ngôi sao của chúng tôi đã biến mất.  Bây giờ chúng tôi mới thực sự cô đơn.  Ba chúng tôi nhìn nhau không dám nói một lời.  Chúng tôi không tìm ra lời nào để khích lệ nhau.  Đức tin thúc dục chúng tôi đi tới, lý trí bảo rằng chúng tôi phải quay về.  Và chúng tôi im lặng đi bên nhau, cô đơn giữa những người cùng chí hướng.  Chúng tôi bước đi trong đêm tối, đêm tối trên trời, và đêm tối trong lòng.  Với tâm trạng đó, chúng tôi tiến về Giêrusalem.

Đến Giêrusalem, chúng tôi cảm thấy mình như rồ dại.  Chúng tôi chờ đợi một Giêrusalem tưng bừng mở hội đón chào đấng Messia, nhưng trái lại chúng tôi bắt gặp một Giêrusalem hờ hững.  Giêrusalem là nơi phát xuất Kinh thánh, là nơi của Lời hứa, vậy mà Giêrusalem chẳng hay biết gì cả.  Điều này chứng tỏ rằng chúng tôi đã sai lầm, chúng tôi đã bị một ngôi sao vớ vẩn nào đó đánh lừa. Nhưng dù sao, chúng tôi vẫn tiếp tục.  Chúng tôi sẽ đi ngược lại với mọi chứng cớ, vì chúng tôi là những người đã bị một vị sao trên trời cuốn hút; chúng tôi không thể lùi lại.  Chúng tôi sẽ là những người khôn ngoan nhất hoặc sẽ là những người rồ dại nhất.

Chúng tôi phải bước tới.  Đến gặp Hêrôđê.  À!  T hì ra cũng còn một người thức tỉnh.  Ông niềm nở đón tiếp chúng tôi, ông cho gọi các luật sĩ đến chỉ đường cho chúng tôi về Bêlem; ông mời chúng tôi trở lại báo tin cho ông biết để đi thờ lạy …

Mãi sau này chúng tôi mới biết được rằng vì quyền lợi mà ông thức tỉnh chứ không phải vì niềm tin.  Thì ra người ta dễ dàng thức tỉnh vì quyền lợi hơn là vì niềm tin.  Bởi thế mà Hài Nhi đã bị kết án tử hình trước khi chúng tôi đến thờ lạy.

Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình về Bêlem như những người say, dân chúng Giêrusalem đang tựa cửa đứng nhìn.  Chúng tôi đã bao nhiêu đêm ngày lặn lội đến triều bái vị vua mới sinh.  Còn họ, họ không buồn ngưng cuộc sống bình thường lấy một ngày để đến Bêlem kiểm chứng.  Phải chăng họ đã chờ đợi quá lâu rồi nên bây giờ không còn tha thiết gì nữa?  Phải chăng niềm tin của chúng tôi chỉ là ảo tưởng?

Lúc đến Giêrusalem, chúng tôi đã đi ngược lại quan niệm của những người bàng quan.  Giờ này về Bêlem, chúng tôi đi ngược lại với quan niệm của những người được tuyển chọn.  Dưới mắt mọi người, chúng tôi là những kẻ bất bình thường, nếu không phải là những người khờ khạo.

Và này, ngôi sao lại xuất hiện, chúng tôi nhìn nhau mỉm cười mà nước mắt tuôn trào.  Không! Ngôi sao xuất hiện không phải để chỉ đường, vì chúng tôi đã biết đường về Bêlem.  Ngôi sao xuất hiện không phải để củng cố niềm tin, vì chúng tôi vẫn tin tưởng, tin tưởng một cách ngoan cố, tin tưởng ngay trong lúc ngỡ rằng mình nghi ngờ.  Ngôi sao xuất hiện như một bằng chứng tình yêu đáp lại tình yêu.

Chúng tôi đã đến Bêlem dâng lên Hài Nhi những của lễ vật chất kèm với tấm lòng thành của mình.  Chúng tôi đã tìm được kho tàng quí giá nhất.  Đối diện với  H ài Nhi, chúng tôi hiểu rằng, khi ra đi, chúng tôi đã không có một của lễ nào xứng đáng để dâng lên Ngài.  Chúng tôi quả đã mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược.  Nhưng những của lễ đó hoàn toàn không có giá trị nếu không kèm theo những đau khổ, những cực nhọc, những lo âu, những thử thách, những đêm tối trong lòng.

Nhờ vậy mà chúng tôi đuợc thấy ánh sáng trong đêm Bêlem này.  Bây giờ chúng tôi có thể ra về, chúng tôi trở về rón rén, im lặng vì chúng tôi đã tìm được kho tàng mà những vị vua chúa không thèm, một kho tàng mà họ ghét bỏ và muốn tiêu diệt.

Vâng, Hêrôđê đã ra lệnh cho binh sĩ chỉnh tề gươm giáo.  Chúng tôi không trở lại với Hêrôđê, chúng tôi đã thất hứa.  Các bạn không trách chúng tôi chứ?  Chúng tôi đành thất hứa với một ông vua, chứ làm sao chúng tôi có thể phản bội  H ài Nhi.

Tôi tin rằng các bạn thông cảm với chúng tôi, bởi vì hành trình của chúng tôi cũng chính là hành trình của các bạn ngày hôm nay.  Hành trình của những người hướng về một ngôi sao có khi đã tắt, và âm thầm tiến về Bêlem.

B – NGƯỜI ĐẠO SĨ THỨ TƯ

Có lẽ tôi cũng cần phải lên tiếng, bởi vì nếu hôm nay tôi im lặng, tôi sẽ là một tên vô ơn bạc nghĩa nhất trên đời. Tôi là một người đã đến bên hài nhi với hai bàn tay trắng và đã nhận tất cả nơi Giêsu.  Tôi là một trong muôn ngàn người đến với Giêsu, nhận lấy thật nhiều rồi ra đi lặng lẽ.  Tôi là người đạo sĩ thứ tư, người đạo sĩ đến sau cùng và Phúc âm không đề cập đến.  Cố nhiên tôi cũng đã chuẩn bị một lễ vật dâng lên  Hài Nhi, nhưng vì lơ đễnh tôi đã để rơi rớt.

Ngày tôi phát hiện vì sao lạ, tôi đã mở kho tàng mình và lấy ra ba viên ngọc quí nhất để làm của lễ tiến dâng.  Tôi đã chậm trễ dọc đường nên không tới kịp như ba vị trước.

Trên đường đi, tôi đã gặp một cụ già hấp hối, đói rét và bệnh tật nhưng không có ai chăm sóc. Tôi đã yếu lòng nên lấy ra một viên ngọc để nhờ người chăm sóc cụ già ấy.  Đó là lý do đầu tiên làm tôi chậm bước.  Ngày hôm sau, tôi lên đường một mình.  Khi qua một khu rừng thưa, tôi nghe có tiếng thét thất thanh, tôi đã dừng lạc đà rồi tò mò chạy đến.  Tôi thấy có mấy tên côn đồ muốn hành hung một phụ nữ.  Tôi không đủ sức đánh chúng, nên đành phải rút viên ngọc thứ hai mà mua lấy tự do cho người bất hạnh kia.  Thế là tôi chỉ còn một viên ngọc cuối cùng.  Tôi quyết sẽ không phung phí vì bất cứ một lý do gì nữa. Nhưng rồi tôi lại không giữ được lời tôi nguyện.

Khi đến gần Bêlem, bỗng thấy lửa rực trời.  Những người lính của Hêrôđê đang giết những trẻ em.  Gần một ngôi nhà bốc lửa, một tên lính nắm xốc ngược một hài nhi định lấy gươm mà đâm thâu, và dưới chân là người mẹ quì khóc gào không ra tiếng…  Tôi bỗng quên lời hứa với chính mình và đem viên ngọc thứ ba trao cho tên lính để nó trả đứa bé lại cho người mẹ khốn cùng.  Thế là hết, tôi chẳng còn gì nữa.  Tôi đã đi bao nhiêu đêm ngày đến đây mong triều bái vị vua mới sinh, thế mà tôi lại đến với hai bàn tay trắng.  Dù sao thì tôi cũng phải đến để xin lỗi Ngài.

Tôi cúi mặt bước vào hang đá.  Tôi nghẹn ngào khi thấy vàng ròng, nhũ hương và mộc dược của những người đi trước tôi.  Tôi không còn lòng dạ nào nói lên lời xin lỗi.  Tôi quì xuống cạnh máng cỏ, úp mặt vào lòng bàn tay, mặc cho dòng nuớc mắt tuôn trào.

Nhưng kìa, sao nước mắt tôi hôm nay ấm thế?…  Không, không phải là nước mắt, nhưng là đôi tay ấm áp của Chúa Hài Nhi đang nắm lấy tay tôi.  Chúa Hài Nhi không lộ vẻ trách móc, nhưng nhìn tôi âu yếm, trên môi nở một nụ cười.  Và tôi cảm thấy tràn đầy bình an.  Tôi chợt hiểu rằng, tôi là người duy nhất lãnh nhận tất cả nơi Hài Nhi, bởi vì tôi chẳng có gì để tiến dâng cả.  Tôi hiểu rằng nếu tôi đến bên  H ài nhi với ngọc ngà châu báu thì có thể tôi đã trở về không, bởi vì lòng tôi đầy ắp tự mãn nên không còn chỗ để chứa chất bình an của Ngài.  Nhưng tôi đã đến bên  H ài nhi với đôi bàn tay trắng, và cõi lòng trống không, vì thế tôi đã nhận được bình an tràn đầy.

Vì thế mà hôm nay tôi bắt buộc phải nói lên một lời cảm tạ. Tôi muốn nói với các bạn rằng nếu bạn còn một của cải vật chất hay tinh thần nào đó mà bạn dành cho Hài Nhi, thì hãy phân phát cho người khác; các bạn hãy đến bên Hài Nhi như tôi, đến với sự khó nghèo trong lòng và với hai bày tay trắng, thì rồi các bạn sẽ nhận được tất cả.

Trần Duy Nhiên –

Trích Chia Sẻ Giáng Sinh

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi