VƯỢT QUA HẬN THÙ: TRƯỜNG HỢP CỦA NƯỚC PHÁP VÀ ĐỨC (SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI)

VƯỢT QUA HẬN THÙ: TRƯỜNG HỢP CỦA NƯỚC PHÁP VÀ ĐỨC (SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI)

Image result for Irène Laure (1898 – 1987)

Irène Laure (1898 – 1987).

Bài viết của  :   Đoàn Thanh Liêm

Trich Bán Nguyệt San Giáo Sĩ Việt Nam số 237

Giữa hai dân tộc nước Pháp và nước Đức đã từng có một sự hận thù nặng nề ghê gớm kéo dài trong nhiều thế hệ, phát sinh từ ba cuộc chiến tranh liên tục, bắt đầu từ năm 1870 với cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (franco-prussian war), rồi đến đệ nhất thế chiến 1914 – 1918, và sau cùng là đệ nhị thế chiến 1939 – 1945. Nhưng kể từ giữa thập niên 1950, hai nước này đã vượt qua được sự thù hận ân oán lâu đời đó, để mà cùng hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm góp phần cực kỳ quan trọng vào việc xây dựng được một khối thị trường chung Âu châu (European Common Market). Và rồi tiến tới thêm một bước kỳ diệu nữa, đó là thiết lập được một thực thể chính trị kinh tế quan trọng bậc nhất trong thế giới hiện đại, tức là tổ chức Liên Hiệp Âu châu (European Union EU), mà hiện gồm có 27 quốc gia thành viên, với dân số tổng cộng là 500 triệu người, với đơn vị tiền tệ chung gọi là đồng euro, và tổng sản lượng quốc gia GDP lên đến 20 ngàn tỷ dollar (20 trillion).

Sự hòa giải và hợp tác giữa hai quốc gia cựu thù này có thể được coi là một sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử của Âu châu nói riêng, cũng như của cả thế giới nói chung, trong thời cận đại kể từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt vào năm 1945, cho đến đầu thế kỷ XXI của chúng ta ngày nay. Cái thành tựu vĩ đại và ngoạn mục như thế là do sự đóng góp về cả trí tuệ và về cả tâm hồn của biết bao nhiêu nhân vật xuất chúng từ phía cả hai dân tộc Pháp và Đức. Và bài viết này xin được ghi lại cái quá trình phục hồi và xây dựng hết sức tích cực của một số nhân vật kiệt xuất đó.

Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày sơ lược về bối cảnh lịch sử tại khu vực Tây Âu, trước khi mô tả chi tiết về tiến trình hòa giải và hợp tác của hai nước Pháp và Đức trong nửa sau của thế kỷ XX.

I – Bối cảnh lịch sử cận đại tại Tây Âu.

Như ta đã biết vào năm 1870, nước Pháp do Napoleon III lãnh đạo đã bị thất trận nhục nhã trước đội quân tinh nhuệ của nước Phổ (Prussia) dưới thời cầm đầu của thủ tướng Bismarck. Việc thất trận này đưa đến sự thóai vị của Hòang Đế Napoleon III và sự giải thể của nền Đệ nhị Đế chế ( the Second Empire) và sự ra đời cùa nền Đệ Tam Cộng Hòa ( the Third Republic) của nước Pháp. Nhưng nước Pháp lại còn mất cả vùng đất Alsace-Lorraine ở phía đông bị chuyển vào tay người Đức – (do nước Phổ sáp nhập hợp thành nước Đức thống nhất vào đầu thập niên 1870)-. Đây là cả một nỗi cay đắng hận thù sâu đậm của dân Pháp đối với người Đức. Chỉ cần đọc bài viết “ Buổi học cuối cùng” (La derniere classe) của nhà văn Alphonse Daudet, ta cũng đủ thấm thía cái nỗi niềm tủi nhục uất hận của người dân Pháp trong vùng đất bị tước đọat này.

Tiếp theo vào năm 1914 – 18, lại xảy ra cuộc thế chiến thứ nhất giữa phe Đức – Áo và phe Đồng Minh do Pháp – Anh đứng đầu. Cuộc chiến tranh này gây thiệt hại rất nặng cho cả hai nước Đức và Pháp. Vì Đức cuối cùng bị thua trận, nên vùng đất Alsace-Lorraine lại trở về với Pháp. Nhưng vì nước Đức bại trận bị đối xử quá khắc nghiệt, nên người Đức thật bất mãn, hận thù phe Đồng Minh, đặc biệt đối với dân tộc láng giềng là Pháp.

Cho nên, đến năm 1939 lại xảy ra thế chiến thứ hai rất tàn bạo khủng khiếp, mà bắt đầu vào năm 1940 nước Pháp thua trận và bị quân đội Đức quốc xã của Hitler chiếm đóng với sự đàn áp hết sức tàn bạo khốc liệt. Vì thế mà mối hận thù giữa hai dân tộc Pháp-Đức lại càng thêm nặng nề bi đát. Rốt cuộc, năm 1945 nước Đức lại thua trận nữa, và cả Âu châu bị tàn phá kiệt quệ với hàng chục triệu nhân mạng bị tiêu vong.

Như vậy là chỉ trong vòng 70 năm từ năm 1870 đến năm 1940, giữa hai dân tộc Pháp và Đức đã xảy ra 3 cuộc chiến tranh đẫm máu với bao nhiêu triệu người bị giết và tàn phế, bao nhiêu tài sản bị hủy họai, và nhất là sự căm thù giận ghét mỗi ngày lại càng thêm chồng chất tích lũy giữa hai bên.

II – Quá trình Hòa giải và Hợp tác Pháp – Đức sau năm 1945.

Sau khi cuộc chiến tàn bạo dã man kết thúc, người dân hai nước bàng hòang trước sự đổ nát hoang tàn và kiệt quệ về mọi mặt. Rồi tiếp liền theo là cuộc chiến tranh lạnh gay go căng thẳng giữa hai phe cộng sản do Liên Xô lãnh đạo và phe tư bản do Mỹ dẫn đầu. Nhằm lôi kéo khu vực Tây Âu về phía mình, kể từ năm 1948 nước Mỹ đã hào phóng viện trợ đến trên 13 tỉ dollar cho các quốc gia đồng minh tại đây thông qua một chương trình tái thiết Âu châu, mà thường được gọi là kế hoạch Marshall.

Nhưng vai trò chủ yếu trong công cuộc phục hồi, tái thiết và hòa giải ở Tây Âu là do các nhà lãnh đạo chính trị có tầm vóc đặc biệt lớn lao, điển hình như thủ tướng Konrad Adenauer của Tây Đức, ngọai trưởng Robert Schuman của Pháp, và đặc biệt là kế hoạch gia đại tài với viễn kiến sâu sắc Jean Monnet người Pháp. Đã có quá nhiều sách báo viết về sự đóng góp đồ sộ làm nền móng vững chắc cho sự tiến bộ của Âu châu từ trên 65 năm nay của những nhân vật chính trị kiệt xuất này, cho nên tôi thấy không cần phải trình bày dài dòng chi tiết thêm nữa về họ.

Mà đúng theo với nhan đề của bài này, tôi muốn viết về một nhân vật tiêu biểu của Xã hội Dân sự ở Âu châu, mà có sự đóng góp thật vĩ đại vào tiến trình hòa giải của hai dân tộc Pháp và Đức trong mấy thập niên gần đây. Nhân vật lỗi lạc đó chính là bà Irène Laure người Pháp, mà tôi xin dành được đề cập đến với nhiều chi tiết hơn trong phần tiếp theo liền sau đây.

III – Câu chuyện của Irène Laure ( 1898 – 1987).

Irene Laure xuất thân là một cán sự điều dưỡng và đã từng giữ nhiệm vụ quản lý bệnh viện.  Victor người chồng của bà là một thủy thủ và là môn đệ của nhà lãnh đạo cộng sản Pháp Marcel Cachin. Trong thế chiến thứ hai, Irène tranh đấu trong hàng ngũ kháng chiến tại vùng hải cảng Marseille chống lại quân Đức quốc xã. Bà có người con trai bị mật vụ Gestapo tra tấn tàn bạo, nên đã có sự căm thù tột cùng đến độ mong cho mọi người dân Đức phải chết hết, và “ quốc gia này phải bị xóa bỏ khỏi bản đồ của Âu châu”. Sau khi chiến tranh kết thúc, Irène được bầu vào Quốc hội Lập hiến và làm Tổng thư ký của tổ chức “Phụ nữ Xã hội Pháp” với số đòan viên lên tới 3 triệu người.

Tháng chín năm 1947, Irène đến tham dự một hội nghị quốc tế tại thành phố Caux Thụy sĩ, cùng với nhiều đại biểu từ các nước Âu châu. Hội nghị này là do tổ chức Moral Re-Armament MRA (Tái Võ trang Tinh thần) đảm trách, nhằm quy tụ nhiều nhân vật văn hóa xã hội, tôn giáo để cùng nhau trao đổi về vấn đề tái thiết Âu châu. Sẵn có sự căm thù đối với người Đức, Irène đã chuẩn bị rời bỏ Hội nghị khi được biết là có một số người dân Đức cũng tham dự cuôc gặp mặt này. Nhưng bà đã ngưng chuyện bỏ về, khi được một người trong Ban Tổ chức nói với Irène rằng : “ Bà là một người theo khuynh hướng quốc tế xã hội, làm sao mà bà lại có thể tái thiết được Âu châu, nếu bà loại trừ cả một dân tộc Đức?”

Dẫu vậy, khi được mời ăn bữa trưa với một phụ nữ Đức, thì Irène đã bị “xốc rất nặng”, đến nỗi phải nằm lì trong phòng suốt hai ngày đêm liền, không ăn không ngủ. Bà bị dằn vặt trăn trở với lửa hận thù còn ngùn ngụt nóng chảy trong tâm can, và cầu xin ơn trên hướng dẫn soi sáng cho mình. Sau cuộc tranh đấu nội tâm gay go căng thẳng này, Irène đã lấy lại được sự bình tĩnh và chấp nhận đến gặp người phụ nữ Đức như đã được giới thiệu cách đó mấy bữa.

Trong bữa ăn này, Irene không hề động đến món nào, mà lại xổ ra tất cả những gì đã chất chứa trong mình sau khi đã trải qua bao nhiêu sự tàn bạo của quân đội Đức quốc xã. Rồi bà nói với người đối diện : “ Tôi phải nói ra tất cả chuyện này, vì tôi muốn được giải thoát khỏi nỗi giận ghét này “ (I want to be free of this hate).

Một sự im lặng kéo dài. Thế rôi người phụ nữ Đức mới lên tiếng, chia sẻ với Irène về những gì bản thân mình đã trải qua trong thời chiến tranh. Bà này tên là Clarita von Trott có chồng tên là Adam vốn là một người chủ chốt trong vụ âm mưu ám sát Hitler vào ngày 20 tháng Bảy năm 1944. Âm mưu thất bại và Adam bị tử hình, để cho một mình Clarita phải nuôi nấng hai đứa con. Clarita tâm sự với Irène : “Người Đức chúng tôi đã không chống đối đủ, đã không chống lại chế độ quốc xã sớm hơn và với quy mô đủ lớn, và chúng tôi đã đem lại cho chị và cho chính mình và cho cả thế giới những đau khổ đầy đọa dằn vặt không sao kể cho xiết được. Tôi muốn nói lời xin lỗi với chị “ (I want to say I am sorry).

Sau bữa ăn này, hai bà phụ nữ cùng các thông dịch viên đã yên lặng ngồi trên gác thượng nhìn xuống hồ Geneva. Rồi Irène lên tiếng nói vời người bạn mới người Đức rằng bà tin tưởng là nếu cả hai người cùng cầu nguyện, thì Thiên chúa sẽ giúp họ. Irène cầu kinh trước, xin cho mình được giải thoát khỏi lòng hận thù để có thể còn xây dựng được tương lai. Và rồi đến lượt Clarita cầu nguyện bằng tiếng Pháp. Irène bất giác đặt tay trên đầu gối của kẻ thù địch trước đây của mình. Sau này, Irène tâm sự : “Từ lúc đó, cây cầu bác ngang qua sông Rhin đã được xây dựng, và cây cầu đó đã đứng vững mãi, không bao giờ gẫy đổ được.” (And that bridge always held, never broke)- (Ghi chú : Sông Rhin là biên giới giữa hai nước Pháp và Đức).

Cuối cùng Irène đã phát biểu trong một phiên họp khoáng đại của Hội nghị trước sự hiện diện của 600 tham dự viên. Bà nói : “ Tôi đã ghét nước Đức đến độ muốn thấy nước này bị xóa bỏ khỏi bản đồ châu Âu. Nhưng tại đây, tôi thấy sự hận thù của mình là điều sai lầm. Tôi xin lỗi và tôi mong được xin tất cả các bạn người Đức có mặt nơi đây tha thứ cho tôi…” Liền sau đó, một phụ nữ Đức bước lên và nắm tay bà Irène. Sau này Irène thuật lại : “ Lúc đó, tôi biết rằng tôi sẽ dành hết cuộc đời còn lại của mình để đem cái thông điệp của sự tha thứ và hòa giải này đến khắp thế giới.”

Và quả thật vào năm sau 1948, Irène cùng chồng là Victor đã qua bên nước Đức suốt 3 tháng , đi khắp nơi để tham dự 200 phiên họp và phát biểu tại Quốc hội của 10 tỉnh bang của xứ này. Ở đâu, bà cũng nói lời xin lỗi của mình. Và đổi lại, thì cũng có rất nhiều vị tướng lãnh và sĩ quan, cùng các chính khách người Đức cũng đều lên tiếng xin lỗi với bà.

Và đó là bước khởi đầu cho cả một quá trình lâu dài của sự hòa giải và hàn gắn giữa hai dân tộc Pháp và Đức, ngay từ hạ tầng cơ sở của quảng đại quần chúng nhân dân tại hai nước. Có thể nói là cái “phong trào quần chúng tự phát này” đã có tác động mãnh liệt thúc đảy cho tầng lớp lãnh đạo chính trị tại hai quốc gia này thực hiện mau chóng sự Hòa giải và Hợp tác Hội nhập giữa hai dân tộc và góp phần chủ yếu vào công cuộc xây dựng thành công cho Liên Hiệp Âu châu như ta thấy ngày nay ở thế kỷ XXI vậy./

California, Tháng Hai 2011

Đoàn Thanh Liêm

Vatican chấp thuận việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Trương Bửu Diệp

Vatican chấp thuận việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Trương Bửu Diệp 12/6/2014

VUI MỪNG VÀ HY VỌNG.

Văn phòng Cáo Thỉnh Viên vụ án phong thánh cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp chính thức lên tiếng

Kinh xin ơn với tôi tớ Chúa – Cha Fx. Trương Bửu Diệp

Lời chứng của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt về Cha Px.Trương Bửu Diệp

Kinh xin ơn với Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Kính thưa quí bà con lương giáo, quí ân nhân đang yểm trợ việc tuyên thánh cho Cha Phanxicô Xaviê Trương bửu Diệp.

Hồ sơ tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương bửu Diệp đã được Đức Giám Mục có thẩm quyền, tức Đức Cha, Stêphanô Tri bửu Thiên, Giám Mục Cần Thơ chính thức cho xúc tiến từ ngày 25.8.2011. Và tôi, linh mục Phêrô Trần thế Tuyên, cáo thỉnh viên được chính thức bổ nhiệm đã cố gắng hết sức lo sao cho tiến trình tuyên thánh được phù hợp với Giáo Luật và được mọi người lương giáo ủng hộ. Một trong những cố gắng nầy là tôi đang sang học chương trình tiến sĩ Giáo Luật ở Roma trong ý hướng chuẩn bị chu đáo cho nhiệm vụ của mình.

Một trong những kết quả lớn lao và rất đáng vui mừng và hy vọng là ngày 31 tháng 10, năm 2014 vừa qua, Thánh bộ Tuyên Thánh ở Rôma đã gửi văn thư chính thức bằng tiếng La Tinh cho Đức Cha Stêphanô Tri bửu Thiên, Giám mục Cần Thơ tuyên bố: NIHIL OBSTAT – KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ trong việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho Cha Diệp.

Qua văn thư Nihil Obstat của Thánh Bộ tuyên thánh, chúng ta, những người yêu thương và thọ ơn Cha Diệp vừa vui mừng, vừa mạnh dạn hơn và vừa tích cực hơn trong việc thực hiện tiến trình tuyên thánh cho Cha và cầu xin tiến trình được sớm thành công.

Hôm nay ngày 5.12.2014 tôi đã đóng nộp lệ phí 150 EUR cho Thánh Bộ theo qui định cho việc ra văn thư Nihil obstat nầy. Xin kèm theo đây văn thư Nihil obstat bằng tiếng la tinh cũng như bản dịch sang tiếng Anh và tiếng Việt.

Vui mừng, hy vọng và cầu nguyện.

Lm. Phêrô Trần thế Tuyên

Cáo thỉnh viên

chafanxicotruongbuudiep.jpg
nihilobstat.jpg

(VCN 05.12.2014)

Bão Hagupit ập vào Philippines

Bão Hagupit ập vào Philippines

Tuy chưa mạnh tới mức siêu bão, nhưng bão Hagupit là cơn bão dữ dội nhất thổi vào Philippines trong năm nay.

Tuy chưa mạnh tới mức siêu bão, nhưng bão Hagupit là cơn bão dữ dội nhất thổi vào Philippines trong năm nay.

07.12.2014

Bão Hagupit đã ập vào Philippines, mang theo những trận mưa lớn và những cơn gió giật có cường độ 210 kilomét giờ.

Tin tức cho biết bão đã ập vào thị trấn Dolres ở tỉnh Đông Samar hồi tối thứ bảy.

Văn phòng Phòng vệ Dân sự Philippines nói rằng hơn nửa triệu người hôm thứ sáu đã di tản khỏi vùng duyên hải và những nơi dễ bị nạn đất chuồi.

Các nhà dự báo thời tiết nói rằng bão Hagupit sẽ ảnh hưởng tới những khu vực ở miền trung, là nơi đã bị tàn phá bởi Siêu bão Haiyan hồi năm ngoái.

Các giới chức cho biết phân nửa các tỉnh ở Philippines được xem là có rủi ro bị bão Hagupit hoành hành.

Các chuyên gia thời tiết cảnh báo rằng tuy chưa mạnh tới mức siêu bão, nhưng đây là cơn bão dữ dội nhất thổi vào Philippines trong năm nay.

Cán bộ ở miền Tây liên tục treo cổ tự tử

Cán bộ ở miền Tây liên tục treo cổ tự tử

Nguoi-viet.com

TỔNG HỢP (NV)Chỉ trong 2 ngày, hai cán bộ đương chức ở hai tỉnh miền Tây đã treo cổ tự tử, gây xôn xao dư luận.

Theo Người Lao Ðộng, sáng 5 tháng 12, gia đình ông Dương Lê Dũng (58 tuổi), nguyên giám đốc công ty lương thực Vĩnh Long, đã phát tang, đón khách đến viếng tại nhà riêng ở phường 1, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Tang lễ diễn ra khá trầm lắng dù có nhiều khách là lãnh đạo các ban, ngành của tỉnh đến viếng.



Ðám tang ông Dũng lặng lẽ và ảm đạm. (Hình: Người Lao Ðộng)

Theo thông tin từ phía công an cho biết, ông Dũng mất ngày 4 tháng 12 do đã dùng quần treo cổ tự tử trong phòng tắm của phòng tạm giam.

Trước đó, ngày 12 tháng 11, ông Dũng đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công An ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam để điều tra về hành vi “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.”

Theo phúc trình điều tra, năm 2012, công ty lương thực Vĩnh Long (là chi nhánh Tổng Công Ty Lương Thực Miền Nam, có 100% vốn nhà nước) đã ký 25 hợp đồng hợp tác kinh doanh với công ty Thịnh Phát Kon Tum với nội dung: Công ty lương thực Vĩnh Long cấp vốn cho công ty Thịnh Phát Kon Tum để mua sắn lát xuất khẩu nhưng thực chất là cho vay vốn với lãi suất từ 6-8%/năm. Trong quá trình làm ăn, công ty Thịnh Phát thua lỗ, dẫn đến nợ công ty lương thực Vĩnh Long trên 120 tỷ đồng.

Cũng trong ngày 5 tháng 12, ông Trần Thanh Lọng, phó trưởng công an huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, cho biết đang tiến hành làm rõ nguyên nhân cái chết của ông Trần Khắc Tân (52 tuổi), giám đốc ngân hàng NN-PTNT, chi nhánh huyện Phú Tân.

Vào khoảng 1 giờ sáng cùng ngày, người nhà phát hiện ông Tân chết trong tư thế treo cổ tại khu nhà tập thể của đơn vị ở khóm 2, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước.

Nhận được tin báo, công an huyện Cái Nước đã phong tỏa hiện trường đồng thời trình khám nghiệm hiện trường, lực lượng chức năng phát hiện trong túi áo ông Tân có chìa khóa và dãy số mật mã của kho quỹ ngân hàng Agribank, chi nhánh huyện Phú Tân.

Ông Lý Nam Hải, giám đốc ngân hàng Agribank tỉnh Cà Mau nhận xét: “Cái chết của ông Tân khiến đồng nghiệp hết sức bất ngờ vì trước đó, không ai phát hiện ông có biểu hiện gì bất thường. Có thể nguyên nhân khiến ông ấy tìm đến cái chết là do bị trầm cảm.” (Tr.N)

Ân nghĩa hay nợ nần?

Ân nghĩa hay nợ nần?

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Ngày Lễ Tạ Ơn rồi cũng đã qua đi trong bình lặng, nhưng những chùm đèn trang trí vẫn lấp lánh qua mùa Giáng Sinh và còn sáng trong đêm qua năm mới. Tôi không biết trong những ngày qua, nhân mùa Thanksgiving ở Hoa Kỳ, bình tâm mà nói, không biết chúng ta đã nhớ đến ai, nghĩ đến ai hay đã đền được ơn ai chưa?
Image result for picture of thank you

Những người Anh đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) những ngày đầu tiên, trên một con thuyền tên là Mayflower, sau này thường được gọi là “Người Hành Hương” (Pilgrims). đến Thuộc Địa Plymouth thuộc vùng Tân Anh (New England) khi mùa Đông đang đến, vì đói và lạnh, một nửa trong số họ đã qua đời vì không chịu nổi mùa Đông khắc nghiệt. Vào đầu mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng giúp đỡ lương thực, dạy họ cách sinh tồn bằng cách trồng hoa màu, săn bắt để có lương thực. Về sau khi cuộc sống đã ổn định, người Pilgrims đã tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời cũng như những người thổ dân vì đã giúp cho họ có thể sống còn đến ngày hôm nay, bằng những bữa tiệc, mà sau này đã trở thành những buổi Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) rất có ý nghĩa.

Nói chuyện mang ơn thì dễ nhưng trả ơn thì khó. Cuối cùng những thế kỷ sau, những kẻ ra ơn là những người Da Đỏ bị tập trung vào những khu dành riêng cho họ gọi là khu tập trung, và dùng nhiều phương cách để đồng hóa họ như buộc phải bỏ y phục dân tộc, cắt tóc ngắn, tập ăn muỗng nĩa, đặt tên lại theo cách của người da trắng, “văn minh hóa” bằng cách cưỡng ép trẻ Da Đỏ vào các trường nội trú, học tiếng Anh và Kinh Thánh, để cuối cùng hôm nay chúng ta thấy người Da Đỏ gần như bị diệt chủng.

Cách cư xử của 950 tù nhân nam nữ Anh quốc đi trên 11 chiếc thuyền buồm, đặt chân lên nước Úc, đã đối xử với thổ dân Úc là những người chủ nhà, cũng không khác gì hơn. Một chính sách đồng hóa và tiêu diệt thổ dân khốc liệt đã được thi hành. Từ năm 1930 đến 1970, 100,000 nghìn trẻ em thổ dân đã bị tách khỏi gia đình khi còn rất nhỏ từ tay cha mẹ, có người chỉ mới mười tháng tuổi, và đem nuôi tại khoảng 500 cô nhi viện, nhà thờ hay các gia đình trên khắp nước Úc để xóa bỏ tên tuổi, văn hóa, cội nguồn của chúng. Đó là sự kiện cố gắng diệt chủng thổ dân Úc hay là câu chuyện “những thế hệ bị đánh cắp” như lời xin lỗi được Thủ Tướng Kevin Rudd năm 2008.
thank you photo: thank-you thank-you.jpg

Khi người ta không muốn cho mình là kẻ chịu ơn, hay không muốn trả ơn thì cho chuyện người ta đã giúp đỡ mình là vì họ nợ mình, từ những kiếp trước hay ngay nhãn tiền. Bởi vậy, thay vì ta nói, “Anh mang ơn Em!” thì chúng ta lại nói, “Anh còn nợ Em!” Trả hết nợ là xong, chẳng có ơn mà cũng không còn nghĩa!

Khi nước Mỹ mở rộng vòng tay đón người vượt biên tị  nạn hay bỏ công của để điều đình với những kẻ thắng trận, cho những người tù chính trị được sang định cư tại Hoa Kỳ, thì đã có nhiều người cho rằng vì người Mỹ trước đây đã can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, nên ngày nay phải có trách nhiệm đón người tị  nạn Việt Nam vào đất Mỹ. Nói chung là Mỹ nợ người Việt Nam nên phải trả, thế thôi!

Nghĩa là sòng phẳng, chẳng ai phải mang ơn ai.

Đọc lịch sử Hoa Kỳ, mới thấy quả là người Mỹ nợ nần quá nhiều, những món nợ không trả bằng tiền bạc mà trả bằng xương máu của thanh niên nước Mỹ. Chỉ nói đến các cuộc chiến tranh lớn, trong Thế Chiến Thứ I (1914-1918) người Mỹ đã nợ gì phe Anh, Pháp, Nga, Ý để phải hy sinh 35,516 người, không kể đến số mất tích và bị thương; Đệ II Thế Chiến (1941-1945) có 405,399 binh sĩ tử trận vì chung lưng với Đồng Minh (Nga- Anh- Pháp) để chống phe Trục (Đức- Nhật- Ý); Chiến Tranh Triều Tiên (1950-1953) Mỹ hy sinh 116,516 người, đã tiến đến sông Áp Lục để ngăn chặn làn sóng đỏ Trung Cộng; trong Chiến Tranh Việt Nam 58,209 thanh niên Mỹ hy sinh cho miền Nam trước hiểm họa Cộng Sản Bắc Việt với sự tiếp tay của Liên Xô-Trung Cộng.

Trong chúng ta, những người Việt trên đất Mỹ, đã mang ơn nước Mỹ, nhưng gần như hầu hết chúng ta đã quên hay không còn nghĩ đến.

Nếu nước Mỹ không văn minh, đạo đức, tự do và nhân đạo thì gia đình chúng ta đã không đến đây. Không nghe gia đình nào vượt biên giới phía Bắc để qua Vân Nam, Quảng Đông, cũng không nghe con tàu vượt biển nào được tàu Liên Xô vớt để đem về Mạc Tư Khoa.

Nhưng có những người mang ơn không muốn nói ra một lời cám ơn, đừng nói chi tổ chức được một ngày để tạ ơn nước Mỹ đã cho chúng ta đến đây, cơm no áo ấm, sống một cuộc đời có tự do, nhân phẩm và là nơi cho thế hệ con em chúng ta có cơ hội thăng tiến, trở thành con người hữu dụng.

Tôi không dám ngỏ một lời với tất cả người Việt hôm nay trên đất Mỹ, tôi chỉ dám hỏi số nhỏ bạn bè của tôi, những người bạn tù ngày trước, và cả cho tôi, đã có cơ hội nghìn vàng đến đây. Chúng ta còn nhớ ai đã lái chiếc xe đón gia đình trong ngày chúng ta đến phi trường John Wayne, hay một phi trường nào đó trên đất Mỹ? Ai đã đi thuê cho gia đình chúng ta cái apartment, là nơi chúng ta về trú ngụ trong những tháng năm đầu tiên ở đây? Ai là người mang chúng ta đến ngôi chợ, mua giúp cho chúng ta những món ăn để sửa soạn cho bữa ăn tự túc đầu tiên? Ai là người dẫn chúng ta đi lo những thủ tục nhập cư mà tất cả đối với chúng ta là những điều hoàn toàn lạ lẫm?

Ai là người ngồi bên cạnh chúng ta trong những ngày tập lái xe, với những bảng hiệu giao thông hãy còn lạ mắt?

Có bao nhiêu câu hỏi, nhưng chỉ có hai câu trả lời đơn giản: Có hay không!

Chúng ta đã đi qua bao nhiêu thành phố, đã trú ngụ trong bao nhiêu căn nhà, làm bao nhiêu nghề sinh sống, thay đổi bao nhiêu chiếc xe đi, gặp gỡ bao nhiêu bạn bè quen biết, nhưng tựu trung, chúng ta còn nhớ được những gì và những gì nay đã mờ nhạt trong trí nhớ.

Ngày Lễ Tạ Ơn qua đã lâu rồi, như nó đã từng đến và qua đi trong hơn hai mươi năm nay, từ ngày chúng ta đặt chân đến đây, và cùng với gia đình ăn bữa tối sum họp vào buổi chiều ngày Thứ Năm tuần thứ tư trên đất Mỹ.

Chúng ta đã từng nợ nần ai và đã từng đưa bàn tay ra cho ai vịn, giúp đỡ cho ai được một vài chuyện cần thiết? Câu chuyện không có gì là lớn lao, nhưng đôi khi chúng ta không muốn làm hay chưa làm được, vì vẫn thường nghĩ rằng nó là quá nhỏ!

Công an bắt giữ Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập

Công an bắt giữ Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập

06.12.2014

nguyen-quang-lap-622.jpg

Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập.

File photo

Nhà văn cũng là Blogger Nguyễn Quang Lập người điều hành Blog Quê Choa nổi tiếng đã bị Công An TP.HCM bắt giữ chiều nay 6/12/2014.  Hãng tin AFP đưa tin này nhấn mạnh đây là Blogger thứ nhì bị bắt giữ trong vòng hai tuần qua.

Đông đảo công an đã khám xét nhà riêng của ông Nguyễn Quang Lập trong vài giờ và sau đó áp giải ông đi. AFP trích lời bà Hồ Thị Hồng vợ ông Nguyễn Quang Lập cho biết Công an cáo buộc chồng bà đưa các bài viết chống Đảng và Nhà nước lên mạng.

Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập, 58 tuổi  là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông là nhân vật nổi tiếng ở Việt Nam, blog Quê Choa có số lượng hàng triệu người truy cập, còn trang facebook cá nhân của ông có 15.000 người chia sẻ. Một ngày trước khi nhà văn Nguyễn Quang Lập bị bắt, bạn đọc đã không thể truy cập blog Quê Choa.

Trên Blog Quê Choa, Nhà văn Nguyễn Quang Lập có những bài viết của ông và những bài của các blogger khác. Đề tài các bài viết vạch trần các vấn nạn trong đời sống chính trị xã hội của Việt Nam. Nhiều bài trên blog Quê Choa cũng phản ánh quan điểm chống lệ thuộc Trung Quốc của đại đa số nhân sĩ trí thức Việt Nam.

Hồi thứ bảy tuần trước, Công an TP.HCM cũng đã bắt giữ Blogger Hồng Lê Thọ 65 tuổi một Việt kiều hồi hương cũng với cáo buộc phát tán bài viết chống Đảng và nhà nước. Theo Tổ chức Phong viên không biên giới, Chính quyền Việt Nam đang giam giữ ít nhất 34 blogger.

Tình yêu đó cho em,

“Tình yêu đó cho em,
tháng năm trên từng phím Xuân lay,
đóa môi xinh giòng tóc mây bay”.

(Ngô Thụy Miên – Tình Khúc Mùa Xuân)

(Mc 1: 1-3)

Trần Ngọc Mười Hai

Gọi đó “Mùa Xuân” ư, ngay cả lúc: “Tình” anh cho em chỉ như “Xuân lay” trên từng phím, mà thôi sao? Gọi đó “Tình khúc” ư, đúng vào khi: đoá môi xinh trên giòng tóc… có mây trắng bao bọc, cả đấy chứ? Thôi thì, anh có gọi đó là “Tình Khúc Mùa Xuân” hay “Tình tự mùa…” gì đi nữa, cũng vẫn được. Miễn sao, anh để nghệ sĩ mình hát tiếp những câu sau, rồi sẽ tính:

“Mùa Thu lá heo may gọi về.

Mùa Ðông nắng hanh trên tuổi thề.

Mình đan nắng ru mây ước mơ xa vời.

Một hôm gió Xuân sang,

Mây lang-thang cài tóc em mang.

đến thăm em chiều nắng miên-man.

Rồi Thu đến sao em giận-hờn.

Rồi Ðông đến sao em lạnh-lùng.

Ðường phố vắng thênh-thang ru buồn gót chân”.

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Vâng. Nghệ sĩ nhà mình, hễ nói về mùa Thu là y như rằng: anh hay chị sẽ nói những là: “lá heo may”, “em giận hờn”.

Vâng. Rồi Đông đến, cũng lại có anh hay chị rày sẽ bảo: “Nắng hanh trên tuổi thề”, “Sao em lạnh lùng” rồi lại hát: đường phố thênh thang ru buồn gót chân, thôi.

Là thơ văn nghệ sĩ hay người viết nhạc, thì anh hoặc chị mới viết thế; chứ nếu là nhà Đạo như tôi/như bạn, hẳn ta lại sẽ như mọi người, nói nhiều về … tín-lý, giáo-điều luật-lệ phụng vụ, nghe u sầu, man mác, chốn thiên thu lu bù nhiều buổi.

Vâng. Giả như bạn và tôi có bảo thế, cũng chẳng có gì là quá đáng đâu! Bởi, với nhà Đạo mình, hễ ai nói triết-lý hoặc thần-học, lại sẽ dùng những cụm-từ khá “nho nhã”, cứng cỏi, nhiều biện-chứng, mà thôi. Chứ đâu như đấng bậc Dòng Chúa Cứu Thế ở Úc, từng là Giám-tỉnh một thời, nay lại thích kiểu tự-thuật giòng chảy Tin Mừng rất Mác Cô như sau:

“Tôi nay cũng đã già. Nên, xin bạn bỏ lỗi cho tôi, nếu tôi nói điều gì hơi lan man, mơ hồ, nhiều quên sót! Tôi đây lại cũng ngu dại, nên nếu có ai hỏi tôi điều gì về địa-dư, sử-ký hoặc nhân-văn, cũng đành chịu. Có vị khác lại những cho rằng: tôi hơi bị “đần”! Viết lách, thì chẳng hay ho/khéo léo gì cho lắm. Giảng-giải cũng chẳng được mấy ai nghe. Nhưng, thật tình mà nói, tôi có cố gắng nặn óc/vắt trán cho nhiều, cũng chỉ có thể ghi lại đây đôi ba giòng ký-sự vào những ngày trí nhớ với trí khôn của tôi, chưa cùn lụt.

Nhưng, với Ngài và về Ngài, thì tôi đây chẳng quên sót điều gì hết. Quên sao được, khi Ngài chinh-phục toàn-thể nhân-loại, mãi đến hôm nay! Ngài là niềm đam-mê tôi mến-mộ suốt một đời. Và tiểu sử Ngài, với tôi, vẫn là dấu-ấn thánh-thiêng từng đánh động tôi rất nhiều thời, và có lẽ cả những thời/những buổi sau này nữa.

Ấy chết! Dường như tôi vừa quên bẵng đi mất một điều là đã không tự giới thiệu chính mình với bà con người đọc về con người kém cỏi của tôi đây! Rỏ thật đoảng! Thôi thì, giờ đây, tôi xin làm cái việc ấy ngay tức thời, bây giờ nhé.

Vâng. Tên tôi vỏn-vẹn chỉ mỗi hai chữ: Mác-cô, thôi. Các đấng bậc đạo-hạnh/lành thánh lại cứ gọi tôi là “Máccô Thánh-sử”, nghe thế mới tội làm sao! Là độc-giả, hẳn bạn cũng nhớ ra, là: tôi đây, vốn dĩ được nhiều người biết đến, là do tôi đã cả gan viết lên nhiều trang giấy những Tin rất Mừng về bản chất “Người” của Ngài. Mọi người lại cứ đua nhau gọi đó là Tin-Mừng-theo-thánh-Mác-cô, mới đáng sợ. Vâng, nhìn từ góc cạnh nào đó, tôi cứ bị các vị cho rằng: tôi là tác-giả của Tin Mừng ấy. Nhưng thôi, hãy để tôi kể cho các bạn nghe: tôi đây, từng “đổ mồ hôi sôi nước mắt” mỗi khi nặn từng chữ và từng chữ cho cuốn ấy đó!

Quả là, quí bạn có lòng khoan-dung/độ-lượng lắm mới cho phép tôi khoe-khoang một chút về bản thân mình. Thế nên, nay tôi cũng học cách khoan-dung/lành sạch như thế. Nói cho cùng, tôi là kẻ đi tiên-phong sáng-chế ra lối viết gọi là Phúc âm, tựa như thế. Thế rồi, nhiều vị còn chịu khó tiếp nối công việc viết lách giống như tôi. Các vị ấy, làm cũng được việc lắm. Nhưng riêng tôi, vẫn là người tiên-phong khởi-xướng, công việc này, ngay từ đầu. Sao lại thế, ư?

Vâng. Người thời nay, thường hay chĩa mũi vào đời tư người khác. Nếu bạn đây, muốn biết thêm đôi chút lai-lịch đời tư của riêng tôi, thật cũng khó lòng. Bởi, trí nhớ của tôi nay tàn-tạ cũng nhiều sau bao năm tháng chộn-rộn đến thế, còn gì? Có thể, tôi cũng là người Do thái, La Mã hoặc gia dĩ thuộc giống giòng hào-kiệt xứ Syria, cũng không chừng. Thật tình mà nói, tôi cũng chẳng nhớ gì về mấy chuyện ấy, hết. Tín-hữu thời đầu như tôi, vẫn cứ pha-trộn giống nòi/giòng-tộc như thế. Cộng-đoàn nơi tôi sống, đã bị ảnh-hưởng cũng khá nhiều do truyền-thống của ông Phêrô và Phaolô, từng để lại. Hai vị ấy đều là vĩ-nhân. Và, riêng tôi lại có được cảm-hứng rất nhiều cũng là do từ các tư-tưởng của các ông Phaolô mà các bạn gọi là thánh tông-đồ là thế đấy!

Cộng-đoàn tôi khi ấy, vẫn không là thánh hội như các bạn từng gọi đâu. Có lẽ, bạn nên gọi chúng tôi là “cộng đoàn nhà-thờ” cũng đúng thôi. Bởi, nhóm/hội cộng-đoàn tôi chung sống, phần đông là những người Do-thái ở giai-cấp thấp; và mấy người khác lại cũng là người ngoài đạo như: đám “kinh-doanh”/mậu-dịch, hoặc dân-con chỉ sử-dụng cuốc xẻng, và đám người chuyên hầu hạ kẻ khác, mà thôi. Rất ít người trong chúng tôi là nghệ-nhân hoặc dân có học, hoặc đám người tuyển-chọn trong xã-hội đâu. Thành thử… thành thử… ừ nhỉ!” (xem thêm Lm Michael Gilbert CSsR, Mark my words, The Majellan Family số tháng 10-12 năm 2014, tr. 3-4)

Thế đấy là tự-thuật, lời lẽ của đấng bậc thánh-nhân, có tên tục là Mác-cô. Thế nhưng, xin bạn hãy dừng chân đứng lại đôi ba phút để nghe nghệ-sĩ đời cũng tự-thuật bằng đôi câu hát, vẫn cứ hỏi và hát một đoản-khúc như sau:

“Chiều còn mưa bay,

ướt bước chân mòn lãng du,

ướt áo cho tình thấm sâu.

Ướt đóa môi hồng hững hờ,

Rũ ướt cung đàn,

buồn dâng mây tím giăng ngang,

buồn vương ân ái phai tàn”.

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Vâng. Nghệ-sĩ đời thường hay hát thế. Hát rồi, người lại hỏi:

“Mùa Xuân đến chưa em?
Bước chân ai dìu tiếng mưa đêm,
vắng xa chưa giòng tóc mây bay?
Mùa Thu vẫn chưa nguôi giận hờn,
Mùa Ðông vẫn chưa thôi lạnh lùng,
Giòng lá cuốn em mang – trôi dài mãi trôi”.

(Ngô Thụ Miên – bđd)

Vâng. Lời vàng thánh-nhân khi xưa viết, vẫn như “Giòng lá cuốn em mang, trôi dài mãi trôi”. Lá cuốn trôi nghe còn được. Lời thánh-nhân, mà lại cũng trôi/cũng cuốn khiến “em mang”, e rằng hát thế rất không ổn cho cả người đọc lẫn người nghe. Thế nên, nghệ-sĩ hôm ấy lại đã hát thêm nhiều câu khác, hỏi rằng: “Mùa Xuân đến chưa em?” như sau:

“Mùa Xuân đến chưa em?
Bước chân ai dìu tiếng mưa đêm
Vắng xa chưa giòng tóc mây bay?
Mùa Thu vẫn chưa nguôi giận hờn
Mùa Ðông vẫn chưa thôi lạnh lùng
Giòng lá cuốn em mang – trôi dài mãi trôi.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Tự thuật về Ngài theo kiểu gọi-là-của thánh-sử Mác-cô, là nói cũng khá nhiều về đời và Lời của Thày mình, như hậu-duệ thời nay thêm đôi điều như sau đây:

“Những gì tôi viết ngắn gọn ở trong đó, chỉ là đôi giòng kể để người đọc lẫn người nghe có dịp thưởng-thức chuyện đời hoạt-động của Đức Giêsu, mà thôi. Tôi đây, vẫn muốn cổ-vũ mọi người hãy xác-tín và khai-triển niềm tin mình đạt được, từ nơi Ngài. Thời tôi sống, làm gì có lớp Giáo-lý, để kể những câu chuyện thần-thiêng thánh-hoá ra như thế! Câu truyện về Đức Giêsu-thần-tượng của tôi, hầu hết được các vị thừa-tác mang theo đây đó mà phổ-biến dần cho người chưa từng biết đến. Có những điều, được viết thành câu thành cú, có ý-tứ đầy đủ cả. Lại có những đoạn, những câu trong đó văn-vẻ không mấy gẫy gọn. Thế nên, tôi cố nhặt nhạnh/sắp-xếp thành cú-pháp, kẻo nó lạc mất lúc nào cũng không hay. Sắp xếp sao cho dễ hiểu, để bạn bè của tôi nơi cộng-đoàn kẻ tin dựa vào đó mà truyền sang cho người khác, nữa.

Công việc của tôi, không vì thế mà mọi người cứ tưởng là khá dễ. Nhiều lúc, vẫn thấy căng-thẳng, lại cũng khó hiểu vì chính tính-chất rất “người” của Ngài; vì cả lối sống lẫn ý/lời do Ngài mặc-khải ra ngoài. Một số nguồn-mạch tôi thu-thập, cũng chỉ để định ra rằng: Ngài là Đấng Mêsia đã chiến-thắng thu-hồi lại nguồn tài-nguyên nhân-vật-lực. Có chỗ, chỉ để nói lên sự việc Ngài từng làm như “sự lạ ít thấy” cốt mô tả Ngài là Công-nhân vĩ-đại giống như nhân-vật nọ kể ở phim truyện Harry Potter đa năng/đa dạng, thời hôm nay. Tôi nhất-quyết kể hết sự thật về Ngài. Dĩ nhiên, làm được thế, cũng cần có Chúa Thánh Thần gợi hứng/dẫn dắt, và hỗ trợ nhiều. Dù sao đi nữa, tôi vẫn là người chịu trách-nhiệm về lời kể trong các  trình-thuật mà tôi nghe/biết ngõ hầu đúc-kết, bấy lâu nay…” (xem thêm Lm Michael Gilbert, bđd)

Quả là, lời tự-thuật của sử-gia đầu đời về Lời Chúa cũng từa-tựa như thế. Như thế, tức: tác-giả Mác-cô là người “góp nhặt” và “sắp xếp” chuyên ghi chép các động-thái cũng như Lời vàng của Đức Giêsu, mà cộng-đoàn tiên-khởi hằng tin-tưởng bằng niềm tin không lay chuyển.

Công việc do Mác-cô thánh-sử thực-hiện, không đơn-giản như một số các thần-học-gia Kinh-thánh từng chú-giải. Trong số các vị này, cũng nên kể ở đây một số ý-kiến nổi-bật như sau:

“Vào Đại-hội Giới-trẻ Thế-giới năm 2000, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã tặng cho mỗi người trong số hai triệu người có mặt những hai bản Tin Mừng theo thánh Mác-cô: một để giữ lấy cho mình, cuốn kia để tặng người khác. Trên trang mạng nối-kết toàn-cầu, có đến cả triệu địa-chỉ mạng dành cho thánh Mác-cô. Trong khi đó, thánh Mát-thêu chỉ được có 250 ngàn địa chỉ, và thánh Luca được 150 ngàn địa-chỉ thôi. Riêng Tin Mừng theo thánh Mác-cô là sách được dịch ra số lượng nhiều nhất và dịch ra nhiều ngôn-ngữ nhất thế-giới. Các trình-thuật do thánh Mác-cô ghi, lại cũng được diễn-xuất qua nhiều bản kịch nói nhất; và ngày nay, lại cũng được cho diễn rất nhiều lần, vào những năm tháng gần đây. Cùng một lúc, tác-giả Mác-cô lại chính là người ít được cảm-kích, biết đến. Đồng thời, sứ-điệp mạnh-mẽ và cấp-bách của thánh-nhân lại cũng bị nhiều tín-hữu bỏ qua, chẳng ngó ngàng gì cả.

Mới đây, lại có nhà phê-bình từng bảo: “Về Phúc Âm do thánh Mác-cô viết, có nhiều điều khác với tác-giả Tin Mừng khác. Thánh Mát-thêu thì dẫn-dụ chỉ bảo. Thánh Luca làm hài lòng người đọc lẫn người nghe. Thánh Gioan lại cứ đều đều một giọng điệu khá trầm trầm. Còn thánh Mác-cô ư? Thánh Mác-cô lại khiến mọi người để ý ghi vào tâm-khảm, mà suy nghĩ và thực hiện lời dạy trong đó. Thánh Mác-cô là tác-giả Tin Mừng từng kích-hoạt người đọc đầy kịch-tính nhất trong 4 Tín Mừng cả thảy…” (Loren Rosson)

Có nhà phê-bình Kinh-thánh nọ từng gọi thánh Mác-cô là nhà thần-học của sự mỏng dòn/dễ vỡ, nữa đấy!” (Yves Bourquin) (Xem thêm Lm Kevin O’Shea, Some Recent Insights Into the Gospel, Ausralian Catholic University workshop 02/9/2006, tr.6)

Ở một đoạn khác, diễn-giả trên lại cũng viết tiếp:

“Đọc Tin Mừng theo thánh Mác-cô, người đọc và nghe không hề thấy có chương/đoạn nào viết về thời thơ-ấu của Đức Giêsu hết. Nơi Tin Mừng này, ta gặp gỡ Ngài như bậc Niên-Trưởng tham-gia vào các vấn-đề quan-yếu của cuộc sống. Tác-giả Mác-cô giữ kín lai-lịch của Đức Giêsu. Ngài không thực-hiện các “sự lạ ít thấy” để minh-xác Ngài là Đấng Cao-cả. Ngài chấp-nhận mọi hiểm-nguy và luôn tạo nguy-hiểm cho uy-quyền trần-thế và cả sự sống để mang lại sự giải-thoát rất có tính hiền-lành/tử-tế của sự sống, tức: Vương Quốc Nước Trời cho người khác, dù việc ấy có mang đến cho Ngài nhiều bách-hại và cả đến nỗi chết nữa. Đức Giêsu ở Tin Mừng theo thánh Mác-cô, là Đấng không có uy-quyền nào trên chúng-dân thời đó hết. Ngài có uy-quyền trên hết mọi sức lực bất-nhân vốn dĩ chỉ muốn kiểm-soát con người mà thôi…” (xem thêm Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd tr. 14)

Tựu-trung thì, có kể ra hay trích-thuật, cũng chỉ như thánh-nhân là người đầu-tiên từng làm công việc như thế ấy bằng vào lời khẳng-định ở đầu bài, như sau:

“Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô,

Con Thiên Chúa:

Trong sách ngôn sứ Isaya có chép rằng:

Này Ta sai sứ-giả của Ta đi trước mặt Con,

người sẽ dọn đường cho Con.

Có tiếng người hô trong hoang địa:

Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,

sửa lối cho thẳng để Người đi.”

(Mc 1: 1-3)

Có tự-thuật hoặc ghi chép, kể lể nhiều điều cho chúng-nhân nghe, vào thời buổi này có lẽ cũng như người kể về sự-kiện tràn lan thời khoa-học vi-tính, như lời người mẹ dặn đứa con nào đó, những lời dặn sau đây:

“Con yêu,

Hiện tại, hẳn con rất tự-hào và phấn-kích khi đã trở-thành chủ cái iPhone. Điều này thật tuyệt, phải không con?! Con là cậu bé 13 tuổi tốt bụng và có trách-nhiệm, vì vậy, nhận món quà này là hoàn-toàn xứng-đáng. Nhưng, để sử-dụng nó, con phải tuân theo quy-tắc nhất-định. Hãy đọc kỹ những “luật” sau đây:

Con yêu,

Tất cả mong ước của mẹ là con sẽ trở-thành chàng trai khoẻ mạnh, có thể làm chủ công-nghệ chứ không phải là nô-lệ của nó. Nếu con thấy khó khăn trong việc tuân theo luật-lệ mẹ đưa ra, đồng-nghĩa với việc con mất quyền sở-hữu cái iPhone này!

Mẹ rất yêu con và mong chờ nhiều thật nhiều tin nhắn sắp tới của con từ chiếc iPhone này. Con đừng nặng-nề với những điều-khoản dưới đây! Nó chỉ là những bài học làm “kim chỉ nam” cho con trong cuộc sống.

1. Cái điện-thoại này là của mẹ. Mẹ đã bỏ tiền mua nó. Mẹ chỉ đang cho con mượn thôi. Như vậy là Mẹ quá tốt rồi, phải không?

2. Mẹ luôn biết mật-khẩu (password).

3. Nếu có người gọi đến, con hãy nghe. Hãy nói “Hello!” và luôn có thái-độ đúng mực. Không bao giờ được phớt lờ cuộc gọi đến từ bố mẹ.

4. Trả lại điện-thoại cho bố/mẹvào 7h30 tối hàng ngày và 9h tối vào cuối tuần. Điện-thoại của con sẽ tắt vào ban đêm và chỉ được mở lại vào 7h30 sáng. Hẳn con không thích ai gọi điện cho bạn vào ban đêm lại nghe thấy tiếng bố/mẹ bạn ấy trả lời?! Hãy học cách tôn-trọng khoảng thời-gian riêng của người khác để con cũng được tôn-trọng.

5. Không được mang điện-thoại đến trường. Hãy trò chuyện trực-tiếp với người con định nhắn tin nếu có cơ hội. Giao-tiếp là một kỹ-năng quan-trọng trong cuộc sống. Tin nhắn có thể giúp con kết bạn để duy trì nó, cần nhất sự chân-thành.

6. Nếu điện-thoại rơi vào WC, rơi xuống đất và hư hỏng hay bị mất… con phải chịu trách-nhiệm hoàn-toàn cho việc sử-chữa, đền bù. Vì đó là lỗi của con nên bất kỳ ý-định xin xỏ nào, mẹ cũng tuyệt-đối không chấp-nhận. Con có thể kiếm tiền bằng các vật như: cắt cỏ, trông em, dọn nhà…

7. Không được dùng phone để nói dối hay lừa lọc người khác. Không được nhắn tin hay gửi email có tính khích-bác hay sỉ-nhục ai đó. Gây tổn-thương cho người khác thì một ngày không xa con sẽ phải trả giá đắt.

8. Điện-thoại là để con giữ-gìn và củng-cố mối quan-hệ. Không phải để xem phim “đen” hay vào những trang web “bẩn” học điều xấu. Tất cả nội-dung tìm-kiếm trên web cần phải chia sẻ với bố/mẹ. Bố/mẹ quản-lý con quá chặt? Đừng nghĩ thế, con yêu! Là bố mẹ đang “bảo vệ” con và muốn dành điều tốt nhất cho con.

9. Tắt máy hoặc để mode “im lặng” khi con đang trong nhà hàng, rạp chiếu phim. Đừng để iPhone biến con thành người thô-lỗ!

10. Không được gửi hay nhận hình ảnh “khoe thân” nhạy cảm của con hoặc người khác. Nếu con không nghe lời thì dù thông-minh đến đâu cũng có ngày con bị cám dỗ và làm những việc phải hối-hận cả đời.

11. Không cần thiết phải chụp/quay quá nhiều video, Sự trải-nghiệm, cảm-nhận mọi thứ và bài học/kiến-thức rút ra mới là quan-trọng nhất.

12. Thỉnh thoảng hãy quăng điện-thoại đi mà vui sống. Đừng để điện-thoại ràng buộc, chi phối thời-gian của con. Hãy học cách sống thiếu nó!

13. Đừng chỉ chăm chăm cúi đầu vào điện-thoại khi ngồi cùng bạn bè/người thân. Có những khoảnh-khắc quí-báu mà con sẽ đánh mất đấy! Hãy nhìn ngó xung quanh, con sẽ nhận thấy cuộc sống thật nhiều điều thú vị và tươi đẹp.

14. Nếu không tuân-thủ những “luật lệ” trên, mẹ sẽ đòi lại điện-thoại . Chúng ta sẽ ngồi nói chuyện và bắt đầu lại từ đầu. Mẹ luôn bên con”. (Người trích dịch: Sưu-tầm)

Phải chi có những vị, những người cha/nguời mẹ nói cho con cái hoặc nói cho nhau nghe về cung-cách sống thực Tin Vui An Bình, thời mình. Phải chi, có đấng bậc vị vọng ở nhà Đạo mình từng trích-dẫn Lời thư của vị thánh hiền lành từng dẫn-dụ bà con trong Đạo những lời lẽ như sau:

“Anh chị em biết đấy! khi ở với anh chị em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu-ích cho anh chị em. Còn anh chị em, anh chị em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa” (1 Th 1: 5)

Đó mới là, cốt lõi của việc sống Đạo trong đời sống. Sống, bằng cách “bắt chước chúng tôi và noi gương Đức Giêsu…”

Sống bắt-chước Chúa, bằng việc “rao báo Tin Vui An Bình nơi Lời Chúa. Chứ không bằng việc khuyến-dụ người ngoài Đạo trở-thành Công-giáo. Mà là: dẫn-dắt họ tìm đến Chúa, qua yêu thương/giùm-giúp những người sống chung quanh mình…” (xem thêm Lm Frank Doyle, Suy Niệm Lời Ngài năm A, Chúa Nhật thứ 30 thường niên năm A, nxb Tôn Giáo 2012 tr. 206)

Đó mới là truyền giáo theo đúng nghĩa. Truyền giáo, không là dụ dỗ người ở ngoài phải hồi-hướng-trở-về mà đi theo Đạo mình. Truyền-giáo, vẫn là và còn là rao báo cho nhau những Tin Vui An Bình mình sống. Mình chỉ sống Tin Vui ấy, nếu vẫn theo lời dạy của Bậc Trên, như một trải-nghiệm về cuộc sống rất An Vui, đầy tin tốt.

Thế đó, là chuyện phiếm đường dài ngày hôm nay, xin được gửi đến bạn và đến tôi, như một cảm-nghiệm trong đời, có cuộc đời đầy vui thú. Vui thú rất nhiều, để rồi bạn và tôi, ta sẽ hiên ngang mà hát lên những lời mà nghệ-sĩ đời từng vẫn hát:  

“Một hôm gió Xuân sang,

Mây lang-thang cài tóc em mang.

đến thăm em chiều nắng miên-man.

Rồi Thu đến sao em giận-hờn.

Rồi Ðông đến sao em lạnh-lùng.

Ðường phố vắng thênh-thang ru buồn gót chân”.

(Ngô Thụy Miên – bđd)

Đường phố hôm nay có “vắng thênh-thang ru buồn gót chân”, lần thần như thế, cũng chỉ vì em nhỏ của tôi/của bạn đã quên đi nhiều lời căn dặn để đời, rất quí giá.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ mong

Cho chính mình sẽ không quên

những lời dặn

có Tin Vui An Bình

vào mọi thời.

Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ,

“Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ,”

Bài thơ xanh, ánh mắt hẹn tình cờ,

Có những chữ HOA yểu điệu

Không phải đại danh từ.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 1: 6-8, 19-28

Mai Tá lược dịch

Thơ xanh anh viết, có chữ Hoa yểu điệu. Thờ Yêu Ngài biên, là nguồn tư-liệu Ngài gửi mãi đến cho ta hầu ta dàn trải đến với mọi người. Đây, cũng là ý thơ và ý-từ được thánh-sử ghi chép ở trình-thuật đầy chữ “Yêu”, vào Chúa Nhật hôm nay.

Chúa nhật hôm nay vẫn được gọi là “Chủ nhật Hồng” là vì ý nghĩa của sự vui mừng, trong phụng vụ.

Vào thời kỳ đầu của kỷ nguyên trong Đạo, mùa Vọng được coi như “Mùa Chay đến chậm”. Vào thời ấy, hai mùa Chay và Vọng thường kéo dài đến 5 tuần lễ. Cả hai đều được đánh dấu bằng nhưng phút giây kiêng khem, sám hối. Vào hai mùa sám hối và ăn năn như thế, tín hữu được phép có một Chủ nhật nhẹ nhàng, thư giãn, bớt chay kiêng nhiệm nhặt. Vào mùa Chay, Chúa nhật “Mừng vui lên anh em!” rơi vào tuần thứ ba, của chiều dài 5 tuần lễ.

Riêng Mùa Vọng, đến thế kỷ thứ X, được rút xuống còn 4 tuần, rất vừa đủ. Và vào thế kỷ thứ XII, thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả, lại cho phép giảm nhẹ tính nhiệm nhặt rất căng của Mùa này bằng một vài đổi thay trong việc chay tịnh, hành xác. Tuy nhiên, Chủ nhật Hồng gọi là Chủ Nhật “Mừng vui lên anh em!’ , rất phù hợp với điều mà Hội thánh muốn nhắn nhủ ta hãy nhìn trực diện vào ngày Chúa quang lâm, tái thế.

Để có thể nhìn trực diện vào một ngày như thế, ta thử quan sát nhân vật điển hình được ghi trong Phúc Âm: anh mõ làng. Anh “Mõ” hôm nay quyết hô to nơi hoang địa. Hô to, sứ vụ của Đức Chúa, để toàn thế giới nhận ra Ngài. Anh tên là Gio-an, một người chuyên trách chuyện tẩy rửa.

Qua Phúc Âm, ta nhận ra là: anh thuộc mẫu người đại diện cho lòng khiêm tốn, nhún nhường. Trách vụ của anh, là lo khai quang dọn dẹp mọi ngả đưòng đời để con người được tới với Vương Quốc của Chúa, ở thế trần. Ngày nay, có lẽ ta chẳng còn đánh giá thấp tài nghệ của cái-gọi-là “tài năng trẻ”, được phát hiện.

Phúc Âm hôm nay minh chứng: các chuyên gia này vẫn chọn Gioan Tiền Hô hay còn gọi “Tẩy giả”, để làm quan thày cầu bàu cho mình. Có giai thoại đời thường tương tự như trình thuật được kể hôm nay, đó là truyện: Fleming, nông gia nghèo sống ở Tô cách Lan, hồi thế kỷ thứ 19.

Một hôm, đang làm việc trên đồng ruộng, anh phát giác ra có tiếng khóc ré của em bé sơ sinh nào đó, từ đồng lầy, nước mặn. Fleming bỏ mặc đồ nghề, ù té chạy về phía có tiếng khóc , bèn thấy chú bé con đang nằm dẫy trong nôi, mình mẩy đầy bùn nhơ, đang ngoi ngóp giành lại sự sống quý báu, với tử thần. Chú bé mặt đỏ tiá tai, khóc gào không ngớt, Fleming bèn vực bé em ra khỏi nỗi chết đang rình rập.

Ngày hôm sau, Fleming đi lao động, lại thấy cỗ xe tứ mã tự dưng dừng lại, để hỏi thăm. Một người đàn ông dáng vẻ lịch lãm bước khỏi xe, đến gần chỗ Fleming đừng và tự giới thiệu ông là cha ruột của đứa trẻ mà Fleming đã cứu sống.Hôm nay, ông thân hành tìm đến Fleming để tỏ lòng cảm ơn anh, và muốn hậu tạ người ân nhân đáng quý, là anh.

Vốn nhà nghèo, nhưng Fleming nhất định từ chối. Quyết chẳng nhận tiền bạc của bất cứ một ai, bao giờ. Ngay lúc ấy, cậu con của Fleming xuất hiện ở thềm cửa, giương mắt nhìn và dõi theo câu chuyện đối đáp giữa cha mình và người khách lạ.

Đoán biết cậu này chắc là quý tử của ân nhân gia đình mình, nhà quý tộc đề nghị Fleming cho phép ông được đón cậu con trai anh lên tỉnh ăn học. Mọi chi phí ông sẽ nhận bảo trợ. Hai bên đồng thuận. Thiếu niên lên đường.

Bẵng đi nhiều năm, quý tử của nông gia Fleming đã tốt nghiệp tại trường y khoa nổi tiếng nhất của Anh Quốc, là đại học St Mary ở London. Anh chính là ngài Alexander Fleming, người đầu tiên phát hiện ra kháng sinh Pênixilin.

Ít năm sau đó, con trai của nhà quý tộc gặp hôm trước bị lên cơn viêm phổi, may nhờ có thần dược Pênixilin do Alexander Fleming khám phá ra, nên một lần nữa đã thoát chết. Nay, thế giới nay đã rõ danh tánh của nhà quý tộc nọ chính là ngài Randolph Churchil của Anh. Và người con thoát chết hai lần, lại là cố thủ tướng nước Anh, Winston Churchill.

Thánh Gi-an Thanh Tẩy, hiện thân cho Giáo Ước cũ, cũng đã nhận ra được là Đức Kitô đến với nhân trần, là vì con người. Cho con người. Bởi thế, thánh nhân mới khuyến khích bạn bè và thù địch hãy nhận biết Đức Giêsu chính là Giao Ước Mới. Giao Uớc Vĩnh Cửu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại.

Tựa nông gia Fleming và ngài Randolph Churchill, thánh Gioan thanh tẩy có lẽ đã không nhận thức được điều mình làm, vào lúc ấy. Giống nhiều người chất phác, quê mùa nào khác, Gioan Tẩy Giả đã nhận chân Đức Kitô đích thực là Tình yêu mặc lấy hình hài rất khiếm khuyết của con người phàm trần.

Qua biệt tài khám-phá ra tài năng và qua hành động tiến cử Đức Giê-su, thánh Gio-an đã giúp cho tín hữu thời của Chúa, biết nhận thức và tin tưởng rằng những gì Đức Chúa hứa với tiền nhân thời Cựu Ước, nay thành hiện thực nơi Đức Kitô. Ngài chính là Giao Ước Mới, rất đích thực.

Thành thử, ta cũng chớ nên ngạc nhiên khi thấy Hội thánh chọn Gio-an Tẩy Giả là nhân vật chủ chốt rất thánh trong Tin Mừng hôm nay, là cốt để ta chiêm ngưỡng, và bắt chước. Đúng như ý nghĩa của Chủ Nhật Hồng “Mừng vui anh em!”, hôm nay.

Ta vui mừng, thật ra chẳng phải vì ơn cứu thoát đã nằm trong tầm tay của Đức Chúa. Mà vì, ta còn được kêu mời khám-phá ra tình yêu thương của Ngài, qua động tác nhân từ, hiền lành ta phải có.

Hôm nay, Hội thánh mời gọi và khuyến khích mỗi người chúng ta hãy ra công thực hiện và tiến cử hành vi nhân hiền mà chắc chắn ta phải và sẽ thực hiện. Thực hiện cho bằng được. Thực hiện, để lấy thiên nhiên vạn vật và ân sủng làm nòng cốt cho mọi công việc còn lại, cho ta.

Đó là ý nghĩa của mầu Hồng. Là, chủ đích của Chủ Nhật Hồng giữa mầu tím ngắt, nơi mùa Vọng. Một mùa, có sám hối, chờ mong. Hồng và tím, đó là niềm vui và hy vọng. Vui, vì Chúa đến. Hy vọng, vì Ngài sẽ lại đến lần nữa. Ngài đến nữa và đến lại, trong vinh quang Phục Sinh. Với mọi người.

Trong tâm-tình cảm-nghiệm điều Chúa nói ở trình-thuật, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ trên, những vang vọng mà rằng:

“Chúng ta đi vào là hoa Tình Sử,

Hơi thở em hoà sương khói Đường thi.

Anh đọc cho em những giòng cổ tự

Ai-cập và cổ La-Hy.

Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ,

Bài thơ xanh, ánh mắt hẹn tình cờ.

Có những chữ Hoa yểu điệu,

Không phải đại-danh từ.”

(Đinh Hùng – Đường Vào Tình Sử)

Quả rất đúng, đường vào Tình Sử, nhất thứ là thứ Tình của Đức Chúa là con đường đầy chữ Yêu. Chữ Yêu ấy, để ta còn sống thực suốt mọi thời, nơi trần thế, trong đợi chờ ngày Chúa đến với dân gian.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

TÔI ĐÃ ĐỨNG BÊN NGƯỠNG CỬA CỦA CÁI CHẾT

TÔI ĐÃ ĐỨNG BÊN NGƯỠNG CỬA CỦA CÁI CHẾT

Cà Cuống

Số là cách nay trên 10 năm, tôi đã đứng trên ngưỡng cửa của cái Chết.

Dr. Monsour rất có uy tín ở Houston, Texas, đã đích thân điều trị cho tôi, cuối cùng cũng phải tuyên bố bó tay (give up) trước căn bệnh viêm gan C mãn tính của tôi, ông còn lưu ý tôi là đừng mất công chạy chữa nữa, vì ông mà phải đầu hàng và cũng không còn thuốc nào trị nổi, thì không còn bác sỹ nào có thể giúp cứu mạng tôi được, dĩ nhiên tôi tin lời ông, vì tôi biết rõ khả năng và kinh nghiệm chuyên môn của ông, nhưng có lẽ vì cái máu tếu trong người tôi quá nhiều, nên tôi vẫn tủm tỉm cười.

Ông rất ngạc nhiên và hỏi tôi là không sợ chết sao mà còn cười được. Tôi bật cười thành tiếng, và trả lời ông rằng, nếu bác sỹ bảo tôi sợ mà thoát chết, thì tôi xin sợ ngay, còn nếu đàng nào cũng chết thì tại sao lại sợ.

Thực tế cho thấy là có những vua chúa giầu sang, quyền uy tột bực, với cả đàn ngự y tài giỏi, mà cũng vẫn chết, thì tôi là cái thá gì mà không chết, và khi đã biết là sớm muộn gì cũng phải chết, thì sợ cũng chết, vậy ngu gì mà sợ, cứ “enjoy to the fullest” những ngày còn lại, và “ready” để đáp chuyến tàu định mệnh đi đoàn tụ với vợ con tôi đã ra đi trước tôi.

Cũng xin nói thêm là trước khi phát giác ra bị lây nhiễm Viêm Gan C, vì vô máu quá nhiều trong một ca đại phẫu thuật trước đó khoảng mười năm, chết lên chết xuống, phải nằm bệnh viện tới cả hai tháng rưỡi.

Vào thời điểm đó y khoa chưa tiến bộ tới mức có thể “scan” để khám phá ra trong máu người hiến có virus gì hay không, nên tôi mới bị lãnh đủ.

Ông bác sĩ cũng cười theo, đồng ý với tôi, nhưng còn vớt vát rằng, đúng vậy, nhưng lần đầu tiên ông nghe một bệnh nhân chết đến nơi, mà vẫn dám lý luận ngang tàng như thế.

Ông hỏi tôi là tuy không bác sỹ nào có thể cứu mạng tôi được nữa, nhưng chính bản thân tôi có thể tự cứu mình được,  có muốn ông chỉ cho không.

Tôi đáp là tuy không sợ chết, nhưng nếu có cách gì kéo dài mạng sống để “enjoy” cuộc đời, thì dĩ nhiên là muốn chứ.

Ông tâm tình với tôi rằng, ông cũng đã chỉ cho nhiều người, nhưng chưa thấy ai có đủ ý chí mạnh mẽ và kiên nhẫn mà áp dụng được, vì nói ra thì tưởng dễ, nhưng làm được không dễ, nhưng ông cho là tôi có đủ ý chí qua sự đối đáp với ông, nên ông nghĩ là chắc tôi làm được, và nếu làm được, thì có thể sống khỏe mạnh thêm hai ba chục năm nữa, còn không thì chỉ trong thời gian ngắn, bệnh sẽ phát triển sang ung thư và hậu quả ra sao thì ai cũng biết rồi khỏi cần nói nữa.

Ông còn lưu ý tôi là nếu làm được và thấy có hiệu quả tốt thì nên phổ biến rộng rãi tới mọi người, coi như làm chuyện phúc đức vậy.

Bí quyết của ông là:

1/ Phải empty hoàn toàn cái đầu, không được để cái gì lảng vảng trong đầu. Khi có chuyện cần giải quyết, thì ngồi xuống lấy giấy bút ra mà “brainstorm”, rồi ghi ngay xuống giấy, sau đó phải “clear” liền cái “mind”, chỉ khi nào tới lúc phải giải quyết thì lấy cái “note” đó ra mà áp dụng như cái máy thôi. Nói thì tưởng là dễ, nhưng ai mà không có “bill” nọ  “bill” kia, lại còn bị những người chung quanh làm phiền tới mình, nhưng cần quyết tâm mà làm cho bằng được, vì đó là sự lựa chọn giữa lằn ranh sống và chết.

2/ Phải ráng cười thật nhiều, cười từ khi mở mắt buổi sáng tới khi lên giường ngủ buổi tối. Nếu tự mình không cười được, thì phải nghĩ cách chọc sao cho thiên hạ cười để có thể cười theo.

3/ Nếu có hoàn cảnh, có điều kiện thì nên đi du lịch thật nhiều, ngoại cảnh sẽ giúp cho hào hứng, quên đi căn bệnh chết người của mình.

Cà Cuống tui đã cân nhắc giữa tiền bạc và mạng sống, cuối cùng chọn lựa “retire” non vào tuổi 62, để có thể hoàn toàn nghỉ ngơi, và đi du lịch, đi “cruise” khắp nơi khắp chốn, đồng thời kiên trì luyện tập, vậy mà cũng phải mất trên 6 tháng mới có thể giữ cho cái đầu rỗng bông được.

Bây giờ thì không còn tham, sân, si, không còn thù hận, ghen ghét, đố kỵ ai, cho nên khi nhìn ngược vào cái đầu mình, thì chỉ còn thấy trống rỗng mà thôi.

Trong quá trình luyện tập, một hình thức như thiền vậy, đôi khi bị phân tâm, là thấy phía dưới xương sườn bên tay mặt như bị kiến cắn, hiểu ngay là “virus C” thừa cơ ra ăn lá gan, lại phải lập tức “clear” liền mọi sự cho cái đầu trống rỗng ra ngay.

Ai ghét bỏ, hay kiếm chuyện mắng chửi, cũng chỉ đáp lại bằng nụ cười tha thứ, và còn cầu xin ơn trên ban phước lành xuống cho họ nữa, không còn như hồi xưa, ăn miếng trả miếng theo kiểu “oeil pour oeil, dent pour dent” ngay.

Để có thể chọc cười mọi người, Cà Cuống tôi sưu tầm đầy một bụng tiếu lâm, để hoạt náo trên xe cho bà con vui cười trong những chặng đường dài, hầu quên đi mệt mỏi.

Và kể như đã thành công, cả hai căn bệnh chết người là viêm gan C mãn tính, gan đã bị xơ cứng tới 3/4, và tiểu đường nữa, nhưng nhờ bí quyết của ông bác sỹ tài ba chỉ dạy, mà cả hai căn bệnh hiểm nghèo đều vẫn còn “under control”.

“Empty” cái “mind” là chính yếu, còn cười và du lịch là hai cái phụ, nhằm hỗ trợ cho cái đầu mà thôi.

Kinh nghiệm bản thân là trên mười năm trước, ai biết tôi, kể cả bà vợ, cũng không tin là tôi có thể sống sót được, vì qua hai thời kỳ hóa trị (chemotherapy), mỗi kỳ sáu tháng, cộng chung là đúng một năm, tôi chỉ còn như cái xác chết biết đi.

Trước đó, tôi cân nặng 170 lbs, nhưng sau thời gian điều trị, bệnh đã không thuyên giảm, mà còn sụt xuống chỉ còn 110 lbs, không thể tự ngồi lên được, mà bà nhà tôi phải vực dậy, tóc rụng đầy gối, ăn không được, ngủ không được. Nhất là bộ mặt của tôi mới thực thảm thê, nó bị choắt lại nhăn dúm như trái ô mai khô, nhưng mầu sắc thì xám xịt lại như da người chết. Ai quen biết, và ngay cả bà nhà tôi, cũng tin chắc là tôi không thể nào qua khỏi.

Tôi rất biết ơn Dr. Monsour đã động viên tinh thần tôi, ổng nói là tin tưởng tôi có ý chí mạnh, nhất định sẽ làm được.

Và quả thiệt tôi đã làm được, trước sự ngạc nhiên của mọi người quen biết, trọng lượng đã leo dần từ 110 lên 142 lbs, ăn ngon ngủ khỏe, năm ngoái khi trở lại Sapa, vẫn còn có thể leo lên tận cổng trời với sự trợ giúp của cây gậy kỷ niệm, vật bất ly thân.

Tôi vẫn tiếp tục đi du lịch đều đều trên khắp 5 châu 4 biển. Riêng tại quê hương tôi, thì không còn xó xỉnh nào là không có dấu chân tôi, có nơi đi đi lại lại cả năm sáu lần, mà vẫn cảm thấy thích thú như thường.

Theo Dr Monsour, thì nếu áp dụng được bí quyết của ông, thì ngay cả ung thư cũng có cơ may thoát hiểm.

Tôi kể lại kinh nghiệm sống thực tế của tôi, theo lời dặn dò của ông bác sỹ tài ba và giầu tình người, để nếu ai chẳng may rơi vào hoàn cảnh như tôi, thì có thể vững niềm tin mà tự cứu lấy minh.

Đặc biệt là đừng bận tâm tới chuyện chết chóc, vì đó là quy luật tự nhiên của Trời Đất, có sinh là phải có tử, không ai có thể tránh né được, thì cứ hoan hỉ mà chấp nhận thôi. Do đó, tôi rất tin vào thuyết định mệnh, và luật Nhân Quả.

Mến chúc tất cả mọi người thật nhiều may mắn và luôn vui cười, như bản thân tôi đã từ cõi chết trở về, chỉ nhờ vào bí quyết trong đó có cười, đó cũng là lý do thúc đẩy Cà Cuống tôi khai sinh ra Câu Lạc Bộ Cười, hầu mang lại cho bà con bằng hữu những tiếng cười thật sảng khoái, cho cuộc đời lên hương, và trẻ mãi không già.

Cha Mẹ & Con Cái

Cha Mẹ & Con Cái

Lạc quan hay bi quan ? Hay cần phải có cái nhìn triết lý ?.

Bài nên đọc để hiểu rằng mình chỉ nên lo cho con cái xong bổn phận rồi thì đừng bao giờ trông cậy ở chúng điều gì.  Mình hãy sẵn sàng khi già không còn làm việc nổi thì vào nursing home như vậy thì mình sẽ bớt khổ.  Đời sống này ai cũng giống như vậy mà thôi! Mình cũng còn có phúc hơn rất nhiều người là bên này mình được hưởng trợ cấp dù có làm việc hay không cũng được và có cả housing nữa vậy thì chả nên bi quan mà nên chấp nhận những gì cuộc đời đã dành sẵn cho mình rồi!..  Không chừng tới khi già lại cùng các bạn đồng tuổi vào ở chung một nursing home thì lại còn vui nữa đấy!

Mời quí vị đọc và nhớ để đời  hai thân già bớt khổ…..!!!!!

Quí vị thấy những cặp vợ chồng có 9,10 người con, dù là kỹ sư,bác sĩ, họ vẫn khổ vì con cái bạc bẽo!!!Nói chi quí vị chỉ có 4 hay 5 con!

Chính bản thân tôi đã gặp  nhiều cha mẹ khổ vì sự bạc bẽo của con cái ở xứ Mỹ này ! con họ là những người có học, giầu có, nhưng họ vẫn phải đi “share” phòng hay “get line” sau lưng tôi để xin nhà “low income”…    Bài đọc sau rất chính xác và thiết thực. Xin quí vị đọc và nhớ dùm tôi cho đời mình bớt khổ vì chính những đứa con mà mình đã suốt đời hy sinh cho chúng nên nguời.    Tôi đã đọc được 1 bài rất hay : Nếu lỡ sanh con thì : vui với con khi chúng còn nhỏ. Lo cho chúng hoc hành nên người, và khi chúng trưởng thành, có gia đình rồi thì quên chúng đi để sống. Và đây là điều quan trong : Đừng trông mong chúng báo hiếu, kẻo thất vọng nặng nề…!!!!???(sách nói nhé)    Chính vì biết rõ điều này nên bản thân tôi, đã 73 xuân xanh, ngày ngày đi phòng “gym” 3 tiếng để  tập thể dục, bơi lội…vì bà xã đã bịnh rồi, tôi bịnh nữa là chỉ còn nước dắt nhau vào “nursing home” thôi???    Thân chào và chúc quí vị nhiều sức khỏe .

Một bài rất hay, hãy ráng đọc cho hết, đừng đọc nửa chừng rồi cho qua !!!

Trong truyện cổ, người ta có kể chuyện một ông phú hộ và bốn người con trai. Khi bốn người con này lớn lên lập gia đình, ông phú hộ này đem một phần gia tài chia cho bốn người con, phần còn lại vợ chồng ông giữ để dưỡng già. Mấy năm sau khi vợ ông qua đời, mấy người con sợ rằng ông sẽ tìm vợ mới, lúc có con, gia tài này phải chia cho những đứa con khác. Chúng bàn với nhau thuyết phục cha, về ở với mình, săn sóc cha thật chu đáo, sung sướng để ông không cảm thấy cô đơn, khỏi cần phải tục huyền. Ðược ít lâu, chúng thuyết phục ông phú hộ chia hết tài sản cho chúng. Bùi tai và thấy không cần giữ riêng cho mình một tài khoản nào, ông đồng ý đem gia tài chia hết cho bốn đứa con.

Sau đó ông đến ở với đứa con thứ nhất, nhưng đứa con này nghe vợ, chỉ được ít hôm, bảo ông đến ở nhà đứa em kế. Cứ như thế, không ở được với đứa con nào. Không một đồng xu dính túi, người cha bị bỏ rơi, phải đi khất thực từng nhà. Bấy giờ cây gậy cũng còn có ích hơn là những đứa con. Cây gậy đó có thể giúp ông già xua đuổi những con chó, dò dẫm trên đường, tránh những vũng nước và giúp ông những lúc yếu chân sắp ngã.

Câu chuyện này sao giống câu chuyện của một bà mẹ ở Quận Cam. Sau Tháng Tư 1975, hai vợ chồng đem một đàn con vượt biển sang Mỹ. Trong nhiều năm, ông bà vừa nuôi con khôn lớn, ăn học thành tài, dựng vợ gả chồng cho con, vừa tậu được một căn nhà khang trang trong vùng Bolsa. Sau khi người chồng qua đời ít lâu, bà vợ được con cái thuyết phục nên bán ngôi nhà đi, chia đều cho các con rồi về ở với con cháu cho đỡ cô đơn. Bà nghe theo, và cũng lần lượt ở với nhiều đứa con, chịu cảnh bạc đãi và cuối cùng bà quyết định phải rời khỏi nhà những đứa con ấy. May thay, trên đất Mỹ, bà già cô đơn này còn có chỗ nương tựa, đó là một món trợ cấp nhỏ và ngôi nhà “housing” mà chính phủ đã đành cho bà. Nếu ở một xứ sở khác, chắc bà cũng cần đến một cây gậy.

Những đứa con mua nhà mới có thể đã không tính đến một chỗ cho cha mẹ già khi xế bóng, nhưng tôi biết nhiều bậc cha mẹ khi luống tuổi, con cái lập gia đình đi xa cả rồi, mà vẫn giữ cái nhà cũ nhiều phòng, với ý nghĩ dành cho con lúc trở về thăm viếng. Tôi có một người bạn được con trai bảo lãnh sang Mỹ, nhưng chỉ ít lâu sau cô con dâu muốn chồng bán căn nhà đang ở và đi mua lại một cái nhà nhỏ hơn, lấy lý do để tiết kiệm cũng là lý do để cha mẹ chồng phải dọn ra.

Cha mẹ đối với con lúc nào cũng hết lòng. Mẹ có thể lăn vào lửa để cứu con, cha có thể đổ mồ hôi nhọc nhằn để đứa con có được một nụ cười hạnh phúc, nhưng những đứa con, khi đã có gia đình riêng của mình, không giữ được sự chăm sóc, lo lắng cho đời sống của cha mẹ. Người mẹ nào cũng mỗi đêm kéo chăn đắp cho con, sờ trán con, hạnh phúc theo từng nụ cười của con, nhưng bây giờ con ở xa, thời giờ dùng để gọi về thăm mẹ đôi khi cũng hiếm hoi.

Ông Chu Dung Cơ nói về mối liên hệ giữa cha mẹ già và con cái:

“Cha mẹ thương con là vô hạn, con thương cha mẹ là có hạn.

Con bệnh cha mẹ buồn lo. Cha mẹ bệnh con đến nhòm một cái, hỏi vài câu thấy là đủ.

Con tiêu tiền của cha mẹ thoải mái, cha mẹ tiêu tiền của con chẳng dễ chút nào.

Nhà của cha mẹ là của con. Nhà của con không phải là nhà cha mẹ.

Ốm đau trông cậy vào ai? Nếu ốm đau dai dẳng có đứa con hiếu nào ở bên giường đâu (cứu bệnh sàng tiền vô hiếu tử)”.

Và lời khuyên đối với các bậc cha mẹ là: “Khác nhau là như vậy! Người hiểu đời coi việc lo cho con là nghĩa vụ, là niềm vui không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.”

Cũng có nhiều con cái nuôi cha mẹ. Luận Ngữ chép, Tử Du hỏi về đạo hiếu. Khổng Tử đáp: “Ngày nay người ta cho nuôi cha mẹ là hiếu, nhưng đến chó ngựa kia, người ta cũng nuôi, nếu nuôi mà không kính hiếu cha mẹ thì có khác chi!”  Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn, con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.

Người thợ hớt tóc cho tôi biết về con cái của ông, cả hai đứa con đều có nhà riêng, cùng ở trong quận Cam, nhưng không mấy khi chúng điện thoại hỏi thăm ông. Tháng trước, ông bệnh, nằm nhà một tuần lễ mà cũng chẳng đứa con nào ghé qua thăm. Ông nói thêm: “Chỉ trừ lúc nào chúng cần nhờ đến ông việc gì đó”, và buồn bã kết luận: “Ở Mỹ này, có chín đứa con, cha mẹ già bệnh cũng phải vào nursing home thôi!”

Tuy vậy, nursing home ở Âu Mỹ, mang tiếng là văn minh, hiện đại nhưng liệu rằng đây có phải là nơi yên ổn cho những ngày cuối cùng của tuổi già không? Tại các viện dưỡng lão trên đất Mỹ mỗi năm có hàng chục nghìn trường hợp khiếu nại vì cách đối xử của nhân viên như bỏ bê, đánh đập, đại tiểu tiện, ói mửa mà không dọn dẹp, không cho uống nước, hiếp dâm, sờ mó, tệ hại nhất là đối với những bệnh nhân Alzheimer. Năm ngoái, phúc trình của Bộ Y Tế Minnesota cho ta thấy chỉ trong vòng 5 tháng đã có 15 trường hợp bệnh nhân mất trí nhớ bị hành hạ, trong đó có những vụ như bị chọc ghẹo liên tục, bị nhổ nước bọt vào miệng, bị bóp ngực hay hạ bộ. Phải chăng nhà dưỡng lão, chặng cuối đời của người già là chốn địa ngục có thật trên trần gian như thế!

Vậy thì con cái có hiếu tâm, xin cầu nguyện cho các đấng sinh thành sớm ra đi trước khi họ trở thành những người mất trí lú lẫn, nằm suốt ngày một chỗ, tiêu tiểu không kiểm soát được. Thấy cha mẹ lớn tuổi mà còn minh mẫn, mạnh khỏe nên mừng, mà thấy cha mẹ ra đi nhẹ nhàng, trước khi phải chịu những cảnh đau lòng của tuổi già lại càng mừng hơn.

Tuy vậy, rất nhiều gia đình người Việt trên xứ người có được niềm an ủi là họ có những đứa con Việt Nam, nhất là những đứa con của một gia đình nghèo khó, lớn lên trong chiến tranh và thông cảm được nỗi thiệt thòi bất hạnh của cha mẹ.