Vài ghi nhận sau chuyến Hành Hương : Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi và Rôma

Vài ghi nhận sau chuyến Hành Hương : Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi và Rôma

Gioan Phùng Văn Phụng ghi nhận

Phái đoàn gồm có 89 người do Linh mục Nguyễn Ngọc Thụ, Giáo Xứ Chánh Toà Thánh Tâm, hướng dẫn, rời Houston ngày 22 tháng 9 và trở về Mỹ ngày 2 tháng 10 năm 2014.

Hai ngày đầu tiên chúng tôi ghé Tiệp Khắc tham quan lâu đài lớn nhất thế giới (570 m x 130 m) có từ thế kỷ thứ 9, kính viếng nhà thờ  chánh tòa Thánh Vitus

Kính viếng nhà thờ Đức Mẹ khải hoàn xây dựng năm 1611-1613 có tượng Chúa Hài Nhi (chữa lành) rất linh thiêng. Thăm công trường cổ kính nơi có chiếc đồng hồ thiên văn nổi tiếng tản bộ qua chiếc cầu lịch sử Charles xây năm 1357 bắt ngang qua sông Vltava.

Ngày 25 tháng 9, chúng tôi đi xe bus sang quốc gia Ba Lan (Poland) thăm thành phố Wadowice nơi chào đời và thời thơ ấu của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Tu viện Thánh Bênêdícto. Đến thăm ngôi nhà của gia đình ông bà cố, hiện nay là bảo tàng viện di tích gia đình Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Ngôi nhà rất đơn sơ. Phái đoàn xem chỗ nghĩ ngơi, chỗ làm việc, nhà bếp, phòng cầu nguyện của ông bà cố.

Phái đoàn tiếp tục đến Krakow (Kinh thành Rôma của Ba Lan) tham dự thánh lễ tại nhà thờ Thánh Florian (Quan Thầy của những người lính chữa lửa) nơi đây Đức Gioan Phaolô đã thi hành việc mục vụ trong thời kỳ Ngài làm tuyên úy cho sinh viên.

Phái đoàn tham quan quảng trường của Lâu Đài Hoàng gia có từ thế kỷ 16 và viếng thăm nhà thờ chánh tòaWawel là nơi an táng nhiều vị vua Ba Lan qua nhiều thế kỷ.

Phái đoàn cũng đến thăm Hang Mỏ Muối (thành phốWieliczka) đã sản xuất muối từ hơn 700 năm qua. Chiêm ngắm ngôi thánh đường trong Hang, có bàn thờ và những pho tượng rất mỹ thuật do các công nhân đạo đức người Công Giáo Ba Lan của hầm mỏ muối này thực hiện bằng tay rất công phu.

Tượng Thánh Gioan Phaolô II trong hang Mỏ Muối

Phái đoàn kính viếng Đại Vương Cung Thánh Đường Lòng Thương Xót Chúa mới xây dựng cùng với Thánh tích của Thánh nữ Maria Faustina Kowalska người đã được nhìn thấy Chúa với những luồng sáng tình thương chiếu từ Thánh Tâm Chúa.Thánh nữ Maria Faustina Kowalska sinh ngàỵ 25 tháng 8 năm 1905 và qua đời ngày 5 tháng 10 năm 1938 tại Krakow, hưởng dương 33 tuổi.  Thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Giaon Phaolô 2 phong hiển thánh ngày 30 tháng 4 năm 2000. Chúng tôi tham dự thánh lễ tại một trong những nguyện đường của Đại Vương Cung Thánh Đường này sau đó từng người đi lên hôn kính thánh tích của Thánh Nữ Faustina. Nơi đây tôi đã xin khấn và cầu nguyện cho những nhu cầu của người bạn và đứa cháu đã nhờ tôi cầu nguyện trong cuộc hành hương này

Ngày 27 tháng 9, phái đoàn đến Trại Tập Trung Auschwitz  nổi tiếng của Đức Quốc Xã viếng thăm phòng giam của Thánh Maximilian Kolbe (1), người đã hy sinh chịu chết cho bạn tù. Trong chuyến tông du lần đầu tiên vào tháng 6 năm 1979, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm phòng giam này. Chúng tôi đi xem các phòng giam nay là di tích còn sót lại của các tù nhân như giày, kiếng đeo mắt, tóc chứa nguyên một phòng rộng chừng 4 mét x 8 mét, dụng cụ muổng nĩa, chén ăn cơm còn sót lại của tù nhân đa số là người Do Thái.

Chúng tôi cũng được đi vào phòng hơi ngạt, nơi đây có thể  giết chết 700 tù nhân cùng một lúc.

Cảm giác rùng rợn về cách giết người của Đức Quốc Xã, nơi đây đã không biết bao nhiêu người già có, trẻ con 6, 7 tuổi có, đã kêu gào, la hét thất thanh, khóc lóc thảm thiết  trước khi chết ở trong phòng hơi ngạt này.

Phái đoàn tiếp tục đến Czestochowa, thăm tu viện Jasna Gora nơi có Đền Thánh kính bức tranh nổi tiếng Đức Bà đen (Black Madonna)- Nữ Hoàng của Ba Lan ( bức tranh này được coi là di tích linh thiêng nhất của quốc gia Ba Lan và rất nhiều phép lạ từ bức tranh này)

Ngày 28 tháng 9 xe bus rời Krakow đi ngang qua biên giới nước Slovakia để đến thành phố nổi tiếng Budapest của quốc gia Hungary (Hung Gia Lợi). Du thuyền trên sông Danube về ban đêm ngắm nhìn các lâu đài với ánh sáng muôn màu, rực rở vào ban đêm dọc hai bên bờ sông Danube này cũng như đèn điện sáng choang màu sắc rất đẹp trên các cây cầu bắc qua sông Danube.( Đến đây tôi chợt nhớ tới Thái Thanh hát bản Dòng sông xanh (Danube Blue) mà tôi rất ưa thích)

Ngày 29 tháng 9 thăm lâu đài Buda, viếng ngôi thánh  đường cổ kính Gothic kính Thánh  Matthêu xây dựng từ thế kỷ 13-15.

Kính viếng và dự thánh lễ  tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Stephen có ngọn tháp cao nhất Budapest (96 mét) được xây dựng để vinh danh vua Stephen (975-1038) Vị Hoàng Đế đầu tiên của Hung Gia Lợi.

Ngày 30 tháng 9 phái đoàn đáp máy bay từ phi trường Budapest đến Rôma (Ý Đại Lợi)

Phái đoàn kính viếng và dâng thánh lễ trong Đại Thánh Đường Thánh Phaolô ngoại thành nơi có chân dung của 265 vị Giáo hoàng của Giáo Hội Công Giáo (từ Thánh Phêrô đến vị đương nhiệm)

Ngày 01 tháng 10, tham dự buổi triều kiến Đức Thánh Cha Phanxicô tại quảng trường Thánh Phêrô . Chúng tôi đến thật sớm để tìm chỗ ngồi. Theo chương trình Đức Thánh Cha sẽ làm lễ lúc 10 giờ. Nhưng Ngài đến sớm hơn vào khoảng 9 giờ sáng. Chúng tôi được nhìn thấy Đức Giáo Hoàng qua hai màn ảnh rất lớn ở hai bên. Có khoảng gần 100,000 giáo dân đến tham dự  buổi lễ ngày thứ tư này. Nơi đây tôi tiếp tục cầu nguyện cho ý chỉ của bạn bè nhờ tôi cầu nguyện, cũng như tôi câu nguyện cho gia đình, những người thân yêu và cho đất nước Việt Nam cũng như cho hoà bình thế giới.

Sau đó kính viếng Nhà Thờ Thánh Tâm tại Rôma nơi còn cất giữ nhiều dấu tích các linh hồn ở luyện tội đã hiện về xin cầu nguyện


Dấu tích từ các linh hồn ở Luyện tội hiện về.

Khi nhìn thấy những dấu tích này chúng ta càng cũng cố niềm tin vào Thiên Chúa, tin rằng con người có linh hồn sau khi mất.

Tôi không bao giờ dám nghĩ và ước mơ tới, trong đời tôi, được đến Rôma hai lần, trong vòng 4 năm, may mắn gặp được hai Đức Giáo Hoàng. Năm 2010 tôi đứng gần đường đi của Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô, nên khi Ngài đi qua tôi chụp được hình Đức Giáo Hoàng  rất rõ. Lần này ( năm 2014) đứng sau lưng một người nên khi chụp hình chỉ chụp được tay người vẫy chào hoan hô Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà thôi.

Tạ ơn Chúa. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Gioan Phùng Văn Phụng ghi nhận

(1) Cha được Đức Thánh Cha Paul VI tôn phong Chân Phước ngày 17 tháng 10 năm 1971 và Đức Giáo Hoàng John Paul II đã chính thức ghi tên cha vào sổ các thánh tử vì đạo của lòng nhân ái của Giáo Hội ngày 10 tháng 10 năm 1982.

Xin xem thêm :Tiểu sử Thánh Maximilian Kolbe

Xin xem thêm: Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô :

Thiên Chúa ban cho chúng ta các đặc sủng khác nhau để mưu ích cho tất cả mọi người.

Hình 1:Lâu đài bên bờ sông Danube về đêm

Hình 2: Quang cảnh Trại Tập Trung Auschwitz

Hình 3:Giày của người Do Thái còn lưu lại

Hình 4 : Bà xã tôi đứng dưới Hình của Đức Bà Đen

Hình 5, 6: Quang cảnh công trường Thánh Phêrô

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhiều người Công Giáo bất mãn với ý kiến của một cặp vợ chồng người Úc được mời tham dự THĐGM –

Nhiều người Công Giáo bất mãn với ý kiến của một cặp vợ chồng người Úc được mời tham dự THĐGM –

Ý kiến của Đức Hồng Y Raymond Burke

Đặng Tự Do

10/11/2014

Trong phiên khoáng đại thứ hai diễn ra vào lúc 5h chiều ngày thứ Hai 6 tháng 10, Thượng Hội Đồng Giám Mục với sự hiện diện của Đức Thánh Cha và 180 nghị phụ đã bàn về chủ đề: “Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình” và “Việc hiểu biết và đón nhận Kinh Thánh và các văn kiện của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình”.

Mở đầu mọi người đã nghe chứng từ của ông bà Ron và Mavis Pirola người Úc, dự thính viên tại Thượng HĐGM này. Ông bà là đồng giám đốc Hội đồng Công Giáo Australia về hôn nhân và gia đình. Họ kể lại kinh nghiệm trong gia đình về việc sống căng thẳng giữa một bên là khẳng định chân lý, và bên kia là sự cảm thông và từ bi. Cụ thể là người con trai của Ông bà Pirola là một người đồng tính luyến ái. Một hôm, nggười con ấy nói là muốn đưa người bạn trai của anh ta về nhà. Ông bà là người hoàn toàn tin tưởng và chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội, nhưng phải làm sao trước yêu cầu của người con? Ông bà bị giằng co giữa một bên là tôn trọng và chấp nhận chân lý và giáo huấn của Hội Thánh, và bên kia là từ bi yêu thương người con. Ông bà biết rằng các cháu muốn ông bà đón nhận đứa con và bạn trai của anh ta trong gia đình. Vì thế ông bà đã “chấp nhận” thỉnh cầu của người con vì “đó là con chúng tôi!”.

Theo ông bà Ron và Mavis Pirola, điều này có thể là “kiểu mẫu loan báo Tin Mừng cho các giáo xứ khi gặp những hoàn cảnh tương tự”.

Cách đặt vấn đề và cách giải quyết của ông bà Ron và Mavis Pirola đã gây ra xao xuyến và bất mãn cho nhiều người Công Giáo tại Hoa Kỳ, nhất là khi ông bà tự đề cao cách thức giải quyết ấy như “một kiểu mẫu loan báo Tin Mừng”. Do đó, chương trình truyền hình LifeSite News đã có một buổi phỏng vấn với Đức Hồng Y Raymond Burke, nguyên chánh tòa Ân Giải Tối Cao.

Đức Hồng Y Burke đã đồng ý rằng các bậc cha mẹ nên cố gắng hết sức để thể hiện tình yêu của họ đối với người con trai đồng tính của họ. Tuy nhiên, ngài lập luận chống lại việc chấp nhận thỉnh cầu của người con trai muốn gia đình đón nhận người bạn trai của anh ta. Đức Hồng Y giải thích:

“Nếu những mối quan hệ đồng tính luyến ái là những mối quan hệ rối loạn về bản chất, mà thực sự chúng là như vậy – thì việc chào đón một thành viên gia đình cùng với một người khác đang trong quan hệ rối loạn ấy trong một cuộc gặp gỡ gia đình có ý nghĩa gì với con cháu chúng ta?”

Đức Hồng Y nói rằng cha mẹ trong trường hợp này có thể gây ngộ nhận cho con cháu của họ, và gây hại cho họ “bởi thái độ dường như tán đồng một hành vi phạm tội nghiêm trọng của một thành viên trong gia đình.”

Cảnh đời của những người nghèo ở Tây Nam Bộ

Cảnh đời của những người nghèo ở Tây Nam Bộ

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-10-10

xe-loi-622.jpg

Một người kéo xe lôi ở vùng ngoại ô thành phố Long Xuyên.

RFA

Nghề phu xe, có lẽ đó là cái nghề khá cũ kĩ và buồn trong thời đại người ta chạy đua tốc độ bằng những phương tiện vận chuyển hiện đại, phân khối lớn và đầy đủ tiện nghi. Về miền Tây, chỉ cần đi bộ vài chục bước chân ra các đường phố hoặc các thị trấn, dường như bất kì nơi đâu cũng có thể bắt gặp những phu xe tưởng chừng như cổ tích. Hình ảnh người phu xe phải cong oằn lưng đạp chiếc xe lôi hoặc khom người lấy đà kéo cho được chiếc xe bò chở đầy dừa, trái cây băng qua đường luôn khiến cho người chứng kiến cảm thấy bùi ngùi trước thân phận con người, trước nỗi buồn mang tên chén cơm manh áo.

Những cuộc đời gà trống nuôi con

Những phu xe tuy làm lụng cật lực suốt ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, không quản nắng mưa, sức người héo mòn dần theo thời gian nhưng khổ vẫn hoàn khổ, có người tạm đủ ăn, có người thiếu trước hụt sau và cũng có người nợ nần ngập đầu.

Xe ôm không ổn định bằng xe kéo, thu nhập mỗi ngày khoảng vài chục, nhiều khi trăm ngàn cũng có. Vợ em thì đã năm, sáu năm nay rồi, điện thoại cũng không gọi chứ đừng nói nó quay về.
-Anh Hiếu

Một phu xe tên Hiếu ở Long Xuyên, An Giang, chia sẻ:

“Xe ôm không ổn định bằng xe kéo, thu nhập mỗi ngày khoảng vài chục, nhiều khi trăm ngàn cũng có. Vợ em thì đã năm, sáu năm nay rồi, điện thoại cũng không gọi chứ đừng nói nó quay về. Dạo này hình như nó cơm ngon, canh ngọt với người ta rồi. Trước thì lên Bình Dương làm thuê cả vợ chồng, thấy cảnh khổ quá nên nó bỏ chồng đua theo người khác liền, ở đây như thế nhiều lắm!!”

Kể thêm về câu chuyện đời mình, Hiếu nói rằng anh chỉ vừa thoát kiếp phu xe được hai tháng nay, những tưởng thoát được luôn ai dè đứa con đầu lòng của anh bị bệnh, anh lại phải cầm chiếc xe gắn máy để chữa bệnh cho con và thuê lại chiếc xe lôi mà trước đây anh đã bán cho người khác để chạy xe lôi vừa kiếm tiền trả thuốc men, ăn uống cho con lại vừa trả tiền lãi cho tiệm cầm đồ. Cuộc đời anh chưa bao giờ hết lẩn quẩn trong cái nghèo.

Và cũng bởi cái nghèo, người vợ mà Hiếu hết mực thương yêu, chiều chuộng đã lạnh lùng bỏ Hiếu cùng hai đứa con nhỏ thui thủi chốn quê, đi theo một tiếng gọi khác đầy đủ và sung túc. Suốt bảy năm nay sống với cảnh gà trống nuôi con, Hiếu chỉ biết lăn lóc, chật vật khắp mọi nơi để làm thuê kiếm tiền mua gạo. Cuộc đời đã cho Hiếu rút ra một kết luận cay đắng rằng các cô gái miền Tây đi làm gái điếm khắp mọi miền đất nước chỉ vì họ quá nghèo, thiếu học và thiếu suy nghĩ. Vợ của Hiếu trước đây cũng không nằm ngoài trường hợp này.

xe-loi-400.jpg

Một người kéo xe lôi chở hàng thuê ở miền Tây Nam Bộ. RFA PHOTO.

Một người đàn ông khác tên Cán, ở Long Xuyên, Ang Giang, chia sẻ thêm rằng đa phần các cô gái đã có chồng ở Tây Nam Bộ đều không hạnh phúc bởi vùng đất này ai giàu thì nứt đố đổ vách, ai nghèo thì nghèo đến mức mò tro móc trấu mà kiếm cái ăn. Chính vì thế mà khi đã ý thức được cái nghèo của gia đình, đa phần các cô gái ở đây chấp nhận đi thật xa làm gái điếm để có tiền giúp gia đình.

Nhưng nghiệt nỗi chưa có cô gái nào nuôi được gia đình một cách tử tế nhờ tiền làm gái. Và nghiệt ngã hơn là những năm trước 1975, hầu như ít tai dám nghĩ rằng những cô gái miền Tây có thể là gái điếm.

Phu xe kiếm sống

Một người kéo xe lôi ở vùng ngoại ô thành phố Long Xuyên, tên Củng, chia sẻ:

“Thu nhập một ngày cao nhất khoảng một trăm rưỡi ngàn, trừ chi phí thuốc, nước thì khoảng một trăm ngàn một ngày, không đủ tiền lo cho vợ con. Nếu mà hên thì gặp ngày người ta mướn kéo đồ khi họ di dời nhà đó, thì được hai – ba trăm ngàn, trung bình chật vật hằng ngày thì khoảng một trăm ngàn.”

Thu nhập một ngày cao nhất khoảng một trăm rưỡi ngàn, trừ chi phí thuốc, nước thì khoảng một trăm ngàn một ngày, không đủ tiền lo cho vợ con.
-Anh Củng

Khác với Hiếu, ông Củng cho rằng người Tây Nam Bộ, đặc biệt là các cô gái Tây Nam Bộ vẫn tốt bụng và hiền hòa như ngày nào, chỉ có lựa chọn của họ là khác xưa mà thôi. Điều này sở dĩ diễn ra như vậy bởi vì càng ngày, lằn ranh cách biệt giữa giàu và nghèo nới càng rộng ra, người nghèo thì nghèo rớt mùng tơi, kẻ giàu thì không biết bỏ tiền đâu cho hết, hễ kẻ nào có thế lực, có quyền bính thì ắt hẳn có tiền tài, sống xa hoa. Chính vì không thể chịu nổi cái nghèo và cuộc sống cay đắng của một người mang số phận nghèo, các cô gái miền Tây buộc phải ra đi tìm đường cứu gia đình. Và với thân phận không có chữ nghĩa, lại không có vốn liếng gì ngoài nhan sắc, các cô chỉ còn biết bán nhan sắc.

Đương nhiên không phải ai cũng là nạn nhân của việc buôn hương bán sắc, đa phần các cô gái miền Tây đều có số phận buồn, đáng thương, nhưng có cũng không ít các cô gái do đua đòi cộng với tính cách hời hợt đã đẩy các cô đến chỗ ham phú phụ bần, sẵn sàng bỏ chồng, bỏ con chạy theo tiếng gọi đồng tiền. Và, dường như số đông trong các phu xe miền Tây Nam Bộ đều là nạn nhân của vấn đề này.

Ông Củng cho biết thêm là nghề phu xe miền Tây, hiện tại, vẫn là một trong những nghề nổi cộm. Nói đây là nghề nổi cộm bởi bất kì người đàn ông miền Tây nào khó khăn cũng nghĩ đến nghề này mặc dù thu nhập của nó rất thấp, hơn nữa, mặc dù số lượng người làm nghề phu xe kéo, xe lôi, xe bò không phải là ít nhưng công việc vẫn luôn có cho mọi người làm.

Sở dĩ có những chuyện nghe ra rất mâu thuẫn như vậy bởi vì cước phí của các phương tiện xe lôi, xe ôm, xe bò ở miền Tây rất thấp so với những miền khác và giới phu xe tự chia phiên với nhau để làm, không có ai quá nhiều phiên cũng không có ai không có phiên nào. Với thu nhập mỗi ngày từ 100 ngàn đồng đến 150 ngàn đồng và làm việc quần quật từ tờ mờ sáng cho đến 11 giờ đêm, có thể nói rằng số tiền kiếm được đủ để mua gạo, muối, dầu, thức ăn và tích lũy phòng khi đau ốm cho một gia đình nghèo nhưng chẳng bao giờ bù đắp được sự lao lực của giới phu xe.

Trong giai đoạn hiện tại, nền kinh tế Việt Nam có nhiều bất ổn, người làm phu xe càng đông ra thêm, khách đi lại giảm xuống, cuộc sống của người phu xe trở nên co cụm hơn bao giờ hết. Mọi chuyện vẫn còn đang ở phía trước, không biết đến bao giờ người phu xe Việt Nam nói chung và phu xe xứ Tây Nam Bộ nói riêng bớt được nỗi khổ. Nhất là nỗi khổ tinh thần khi gia đình tan vở vì đồng tiền bát gạo!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Tràn bùn đỏ bauxite Lâm Đồng gây lo ngại

Tràn bùn đỏ bauxite Lâm Đồng gây lo ngại

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-10-09

RFA

 

Vụ bun-do-622.jpgtràn bùn đỏ xảy ra rạng sáng ngày 8/10/2014 ở nhà máy bauxite Tân Rai, Lâm Đồng.

Courtesy PL

Vụ tràn bùn đỏ xảy ra rạng sáng ngày 8/10/2014 ở nhà máy bauxite Tân Rai Lâm Đồng gây nhiều lo ngại trong bối cảnh nhiều hồ chứa bùn thải quặng sắt và quặng titan đã liên tiếp bị vỡ.

Hồi chuông báo động

Câu chuyện mới nhất xảy ra ở nhà máy bauxite Tân Rai Lâm Đồng như gióng lên hồi chuông báo động trong dư luận. Theo TS Nguyễn Thanh Giang chuyên gia địa chất hiện sống và làm việc ở Hà Nội, kỹ thuật khai thác khoáng sản có nguy cơ gây độc hại cho môi trường chung quanh đang hiện diện ở nhiều địa phương củaViệt Nam. TS Nguyễn Thanh Giang cho rằng, việc tổ chức khai thác khá hỗn loạn, không chỉ là đối với bauxite với sắt, ngay cả khai thác titan hay khai thác vàng cũng đang gây ô nhiễm môi trường tàn phá sinh thái rất nặng nề. Ông nhấn mạnh:

Điều đó chứng tỏ trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng có những vấn đề chưa được xem xét đến một cách chu đáo.
-TS Nguyễn Thanh Giang

“Điều đó chứng tỏ trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng có những vấn đề chưa được xem xét đến một cách chu đáo. Cách đây ít ngày, đã xảy ra vụ vỡ đập hồ chứa bùn thải của mỏ sắt ở Việt Bắc, hôm qua (8/10) lại xảy ra tràn bùn đỏ. Hiện bây giờ họ đã cố tình giải thích rằng đấy chỉ là bùn rửa quặng không phải là bùn thải. Nhưng nói thật, những thông tin như vậy và cách giải thích như vậy thì cũng chưa làm cho người ta yên tâm được, xác suất tin vào lời giải thích ấy nó thấp.”

Bộ Công thương Việt Nam ngày 10/8/2014 vội vã trấn dư luận, khẳng định không phải vỡ hồ chứa bùn đỏ ở nhà máy bô xít Tân Rai Lâm Đồng. Ông Nguyễn Mạnh Quân, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng được báo mạng Một Thế Giới trích dẫn cho biết, đoạn đê quai bị vỡ là đê quai ngăn bãi thải chứa quặng và là bùn của quặng đất đỏ chứ không phải là bùn đỏ nên không hề độc hại. Theo Thanh Niên Online, rạng sáng 8/10 xảy ra vỡ đê ở hồ rửa quặng  bauxite của nhà máy tuyển quặng thuộc Dự án Tổ hợp Bauxit nhôm Lâm Đồng, nước và bùn thải chảy hết xuống hồ Cai Bảng. Nước của hồ này cung cấp cho nhà máy bauxite cũng như được nông dân sử dụng phục vụ canh tác nông nghiệp.

bun-do-400.jpg

Khắc phục sự cố vụ tràn bùn đỏ xảy ra rạng sáng ngày 8/10/2014 ở nhà máy bauxite Tân Rai, Lâm Đồng. Photo courtesy of NLĐ.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, thuộc ban sáng lập trang mạng bauxite Việt Nam nhân câu chuyện mới xảy ra ở nhà máy Tân Rai Lâm Đồng đã lật lại hồ sơ hồ chứa bùn đỏ bauxite. Theo đó tính toán chu kỳ mưa lập lại ở các hồ chứa của dự án là quá thiếu sót, Chủ dự án chỉ tính chu kỳ lập lại 50 năm mà đáng lẽ ít nhất cũng phải tính 100 năm hoặc nhiều hơn. Từ Đà Nẵng GSTS Nguyễn Thế Hùng phản biện:

“Những hồ chứa bùn đỏ trên Tây nguyên, nói về chuyện mưa ở các lưu vực ở trên chảy xuống hồ mà tính chu kỳ 50 năm như vậy là không an toàn, làm y như giỡn vậy. Đó là chưa nói tới tính ổn định các đập xung quanh…đối chiếu với hồ bùn đỏ, người ta khai thác quặng bauxite, ngươi ta rửa quặng gồm có các hóa chất trên đó, đặc biệt là sút rất nguy hiểm, cũng như kim loại khi thải ra bùn đỏ thì rất là nguy hiểm. Tính cái kiểu như vậy tôi thấy giống như giỡn vậy, như ông nhà quê đắp bờ đào cái ao nuôi cá. Làm chuyện nguy hiểm thì phải công bố rộng rãi để các nhà khoa học phản biện, làm úp úp mở mở làm các nhà khoa học không tiếp cận được.”

Khuyết tật của chế độ toàn trị

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang mô tả việc chính quyền bỏ ngoài tai những sự phản biện liên quan đến vấn đề khai thác bauxite Tây nguyên như là một khuyết tật của chế độ toàn trị. Ông nói:

“Thực tế cho thấy sự vụng về của các cơ sở quản lý khai thác làm cho người ta không thực sự yên tâm đối với các công trình, từ thủy điện cho tới công trình khai thác đập chắn làm cho người dân nơm nớp lo sợ. Đó là kết quả của việc không trọng dụng người tài, không thu thập được những ý kiến xác đáng mà chỉ muốn những người ăn theo nói leo, những người vâng vâng dạ dạ xu nịnh cấp trên chứ không thu thập được tất cả những ý kiến thẳng thắn trung thực… nó đã dẫn tới việc đó. Những việc này dính dáng tới khoa học kỹ thuật nhưng thực ra nó là hậu quả của sự mất dân chủ và không tôn trọng nhân quyền.”

Rất nhiều nhà khoa học đã chứng minh, dừng ngay thời điểm này thì mình chịu lỗ đó còn hơn là mình tiếp tục nữa.
-GS Nguyễn Thế Hùng

Khai thác Bauxite Tây Nguyên được nói tới như một chủ trương lớn của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là một chủ trương khó hiểu vì chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp, những năm cuối đời cũng đã khuyến nghị không nên làm vì Tây Nguyên là nóc nhà Đông Dương, có vị thế chiến lược quan trọng. Tướng Giáp từng e ngại về việc hàng ngàn công nhân Trung Quốc sẽ có mặt lâu dài để thực hiện dự án. Bên cạnh đó giới phản biện, kể cả các đại biểu Quốc hội cũng cảnh báo hiểm họa môi trường khôn lường từ chất thải độc hại bùn đỏ mà nhiều nơi trên thế giới đã gặp phải. Ngoài ra sự không hiệu quả kinh tế mà vẫn quyết thực hiện dự án lại càng khó hiểu hơn.

GSTS Nguyễn Thế Hùng cho rằng, hãy tỉnh ngộ dừng việc khai thác bauxite Tây Nguyên lại thà chịu thiệt hại nhỏ còn hơn là để thế hệ con cháu phải gánh chịu hậu quả lâu dài. Ông nói:

“Rất nhiều nhà khoa học đã chứng minh, dừng ngay thời điểm này thì mình chịu lỗ đó còn hơn là mình tiếp tục nữa. Nhưng nếu một chính quyền gọi là của dân, do dân và vì dân, ví dụ anh có cái nhà của anh thì anh muốn sửa muốn bán là quyền của anh, bây giờ anh nói nhà nước của dân nhưng mà ý kiến phản biện của các nhà khoa học thì không tôn trọng. Lẽ ra phải có những đoàn phản biện độc lập để xem xét những vấn đề đó.”

Dư luận chưa quên vụ vỡ hồ chứa trên núi ngày 18/11/2013  làm lũ bùn đỏ titan tràn xuống như dòng thác ở Bình Thuận làm gián đoạn giao thông tuyến đường nối thành phố Phan Thiết và mũi Kê Gà. Gần đây nhất ngày 30/9/2014 đâp ngăn hồ chứa bùn thải của nhà máy tuyển quặng sắt ở Yên Bái bị vỡ làm một lượng bùn đỏ, xỉ quặng và chất thải  khổng lồ tràn xuống hạ du, chôn vùi đồng ruộng, đường giao thông và tràn vào nhà dân ở thôn Lương Thiện xã Lương Thịnh quận Trấn Yên, Yên Bái.

Câu chuyện vỡ hồ thải hồ rửa quặng bauxite nhà máy tân Rai Lâm Đồng rạng sáng ngày 8/10/2014 nằm trong chuỗi sự kiện kéo dài ở Việt Nam. Đó là hồi chuông cảnh báo cho Đảng và Nhà nước Việt Nam về việc cải cách điều chỉnh chính sách của mình.

Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,”
Cho em bài hát êm đềm, trôi theo từng tiếng tơ mềm
Nhờ mây gửi đến riêng cho em
Cho em ngàn lời yêu thương, trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – Bài Cho Em)

(1Cor 15: 1-2)

Trần Ngọc Mười Hai

Viết riêng cho em hay cho anh/cho chị lẫn mọi người, về một kinh-nghiệm để đời, thì ai ai cũng muốn viết. Bần đạo đây nhiều lúc cũng thế, nghĩa là rất muốn viết những điều như sau:

Hôm ấy, một ngày đẹp trời ở Úc, bần đạo “đến hẹn lại lên”, cứ lên và lên mãi đến tận Đại Học Công giáo ở Strathfield, Sydney để nghe cha giáo Kevin O’shea dạy tiếp về đề-tài “Đức Kitô lịch-sử ở Phúc Âm”. Trong lúc đợi giờ, bần đạo bèn đánh bạo đến hỏi thày thêm về chủ-đề “Tái Phúc-Âm-hoá Đời Sống” mà Đức Phanxicô đưa ra là có ý gì, thì được thày chỉ dạy bằng trao-đổi ngắn như sau:

Tái Phúc-Âm-hoá đời sống ư? Thì, cũng giống công việc lâu nay anh đang làm, đây thôi.

-Dạ, lâu nay con có làm được việc gì cho nên chuyện đâu, thưa cha!

-Đúng! Việc anh đang làm tuy chưa nên chuyện và thành chuyện thực sự, nhưng cũng là những cố-gắng dịch và viết về Phúc Âm/Tin Mừng theo ý-định của người viết, đó cũng là “Tái Phúc-Âm-hoá” một số người, đấy chứ!…

-Dạ, cho đến hôm nay con chỉ mới dịch một số đề-tài do cha đưa ra, mà thôi…

-À ra thế. Tôi có nghe anh em đây nói là: anh làm được khối việc cho nhiều người. Hãy tiếp tục làm những điều mình thấy là cần thiết, bởi lẽ công việc anh đang làm tuy chưa nhiều nhưng rồi ra, cũng sẽ giúp anh hiểu được ý-nghĩa và mục-đích do Đức Giáo-Hoàng Phanxicô chủ-xướng”.

Thú thật với bầu bạn và với tôi, đôi điều là: nghe bậc thày dạy giảng-giải, bần đạo đây thấy đầu óc mình càng mù tối thêm. Thành thử, suy đi nghĩ lại, cũng thấy ngại. Ngại, như ý/lời người nghệ sĩ khi xưa hàm-ẩn một tình-huống cũng tương-tự:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Lại cũng thú thật thêm nữa, là: mỗi lần đưa ra vấn-đề thần-học nào về Kinh thánh, bần đạo đây vẫn có thói quen hơi bị kém là cứ tìm đến với thi-ca/âm nhạc để thêm hứng-thú. Nhưng âm-nhạc và thơ văn vẫn cứ chuyển-tải những ý-tứ cũng rất buồn như chuồn-chuồn-gẫy-cánh mùa thu lá rụng, nên mới cảm-thông câu ca tiếng hát của nghệ-sĩ:

“Mùa Thu chợt đến trong cô đơn,

Buồn bay lên mờ lấp khung trời chiều lạnh lùng.

Trời còn gọi tiếng mưa đêm nay,

Mưa ơi! Đừng làm buồn mắt em thơ ngây.

(Từ Công Phụng – bđd)

Buồn như “mưa đêm nay”, “buồn bay lên mờ lấp khung trời chiều lạnh lùng”, nên hôm nay lại xin trần-tình rất chân-tình cùng bạn đọc và bạn đạo, rằng: đôi lúc ngồi cắn bút nghĩ chuyện mình làm bấy lâu nay, lại cứ tưởng đó là chuyện “ruồi bu”, vô bổ, chẳng bõ biền gì, nên cũng ngại. Nhiều đêm nằm suy nghĩ, thấy dự-án này/khác cứ trào tuôn, muốn thực-hiện ngay tức thời, nhưng nghĩ lại thấy khá ngại, đành thôi.

Nay, ngoài chất kích-tác từ bậc thày ban phát, bần đạo đây lại thấy có người khác cũng cảm-kích cho đó là chuyện nên làm, và cần làm. Chẳng hạn như, vừa qua, bần đạo lại đã nhận được điện-thư của một bạn đồng-môn lớp dưới viết những giòng thân thương ngắn gọn, nhưng nhiều ủi an, như sau:

“Anh Tá ơi,

Cám ơn những bài viết của anh.

Em đọc mãi mà không hết.

Em thích nhất đoạn tóm tắt câu chuyện “Mười điều Chúa không hỏi, khi gặp ta…”

là đã thấm rồi.

Chắc có lẽ, em sẽ đọc đi đọc lại ít nhất thêm 2 lần nữa,

mới hiểu kỹ những gì anh viết.

Chúc anh cứ thế mà cứu thế bằng ngòi viết nhé.

-eLam”

(trích thư điện nhiều phấn-kích của cựu đệ-tử Cứu Thế Nguyễn Duy Lâm gửi hôm 07/9/14)

Đọc thư người em đồng-môn gửi, thấy mình như đang ngâm nga lời ca, lại những hát:

“Ô hay! Mùa Thu đến bao giờ?

Mưa bay buồn giăng mắc khung trời.

Người về từ trên đó để nhìn làn môi thắm.

Cớ sao em còn buồn, để mùa Thu đến rồi đi.”

(Từ Công Phụng ­- bđd)

Vâng. Vấn-đề đặt ra hôm nay, không phải để ngâm nga thấm thía các lời thơ hoặc lời thư, từ đâu đó hay nhạc-bản hoặc điện-thư mà là ý-từ của đấng bậc trên cao tít đã chủ-xướng đề-tài  để ta học-hỏi, nghiên cứu. Nghiên cứu Lời Chúa, có những ý chủ chứ không chỉ những lời lẽ trong trình-thuật truyện kể đầy nghĩa đen tuyền, vật vờ, khúc-mắc.

Nghĩ thế rồi, bần đạo bèn mạnh-dạn tiến vào nguồn thơ cũng là nguồn của những thư và thơ từ một bậc thày khác đã đề-nghị học trò và độc-giả của ông nghiên cứu Phúc-Âm cách bài-bản như sau:

“Buổi hội thảo mùa Xuân USCC hôm ấy ở New Orleans chừng độ tháng 6/2014 Tổng Giám Mục Joseph Tobin, CSsR chủ-quản bang Indianapolis Hoa Kỳ, có nói về đường-lối mà Đức Phanxicô đang theo đuổi, cho thấy một cung-cách cũng rất khác về tác-vụ thừa-sai rao-giảng Tin Mừng. Và từ đó, thách thức ta đừng làm nản lòng mọi người về hình-ảnh riêng-biệt của các vị lãnh-đạo mục-vụ thiết-lập ở Hoa Kỳ…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, Giáo án giảng-dạy thần-học “A Colloqyu on Collegiality”, tổ-chức ở Sydney hôm 23/8/2014 tr. 46)

Được kích-thích bằng một cảm-hứng cũng khá lạ, bần đạo lại tìm đến một bậc thày khác cũng có nhiều kinh-nghiệm từng-trải ở bục giảng tại một số đại-học Công giáo ở Hoa Kỳ, lại có nhiều nhận-định rất nền-tảng, mà ông dùng làm lời tựa cho cuốn sách nổi tiếng của ông, có liên-quan đến công-trình nghiên-cứu về diện-mạo đa-dạng của Đức Giêsu.

Nhưng, để làm nhẹ bầu khí khô-khan, rất căng-dãn cũng nên chạy về với truyện kể để thư giãn, như sau:

“Truyện rằng:

Trong một vụ cướp ngân-hàng ở xứ miền đặc sệt tính-chất toàn-trị, tên cướp nọ hét lên:

-Tất cả hãy đứng im. Nên nhớ rằng, tiền bạc đây thuộc về Nhà Nước, còn mạng sống thuộc bọn người.

Mọi người nghe xong bèn lẳng lặng nằm ụp xuống nghĩ ngợi: Điều này được gọi là “Cách thức Khai-tâm để thay đổi lề-lối suy nghĩ cũng đã mòn”. Lúc ấy, có cô nhân-viên nằm trên bàn theo tư-thế gợi cảm để làm lạc hướng ý-đồ của các tay cướp. Tên cướp khác, thấy thế bèn hét lên:

-Cô kia làm ơn cư xử cho văn-minh một chút, bọn tôi là các tay cướp chứ không phải là những kẻ hiếp dâm, đâu!

Điều này, được các vị điều-nghiên đặt thành văn-vẻ, gọi là: Hành xử chuyên nghiệp – Tập-trung vào công việc mà mọi người được huấn-nghiệp!

Khi tên cướp quay lại, có tên cướp trẻ khác từng tốt-nghiệp với bằng chuyên-nghiệp Cao-học Quản-trị Kinh-doanh nói với tay cướp trọng tuổi hơn mới chỉ tốt-nghiệp trường phổ-thông, rằng:

-Đại ca à. Có cần đếm xem ta cướp được bao nhiêu không? Tên cướp già kia gằn giọng:

-Mày ngu lắm. Tiền nhiều thế, đếm thế chó nào được! Đợi đấy, tối nay báo/đài sẽ cho biết ta cướp được bao nhiêu, rồi sẽ rõ!

Điều này, cũng lại được gọi là: “Thực-chất của Kinh-nghiệm – Ngày nay kinh-nghiệm quan-trọng hơn giấy tờ, sách vở.

Khi băng cướp rời khỏi hiệntrường xảy ra, viên giám-đốc chi-nhánh ngân-hàng định gọi điện-thoại báo cho cảnh-sát biết, thì viên Kế-toán-trưởng đã vội vã chạy đến thì thầm vào tai ông  mà bảo rằng:

-Đợi đã sếp. Hãy bỏ 5 triệu hôm trước ta rút ra làm chuyện khác, coi như tổng-số bị băng đảng cướp mất.

Điều này được gọi là: Phương-sách Bơi theo Giòng nước – Chuyển đổi Tình-huống Bất-lợi Trở-thành Thuận-lợi.

Viên Giám-đốc tự nhủ:

-Tuyệt! Nếu mỗi tháng ta lại có một vụ cướp thì hay biết mấy!

Điều này gọi là: Loại bỏ những điều khó chịu – Hạnh-phúc là chuyện quan-trọng nhất!

Hôm sau, báo/đài truyền hình loan tin: bọn cướp đã lấy đi 100 triệu đô khỏi ngân-hàng. Các tay cướp nghe tin bèn thực-tế đếm chỉ thấy mỗi 20 triệu, bèn giận dữ nói:

-Chúng ta mạo-hiểm mạng sống mình chỉ để lấy 20 triệu, bọn lãnh-đạo kia chúng ngồi chơi xơi nước thế mà cũng cướp được của công đến 80 triệu. Đúng là học-hành có bằng-cấp, chúng mới được ngồi ghế ấy, chúng cướp tiền một cách siêu-đẳng hơn ta.

Điều này, theo sách vở được gọi là: Kiến-thức có giá-trị như vàng ròng…”

(truyện kể trích từ mạng toàn-cầu tuy mang tính hư-cấu, nhưng nhiều ý-nghĩa để ta suy)

Vâng. Theo người kể, thì: mỗi sự việc con người làm đều có ý-nghĩa sao đó. Ý-nghĩa tùy vào nghiên-cứu lẫn nhận-định của mỗi nhóm, mỗi người, cũng khác nhau.

Vâng. Đúng thế. Áp-dụng vào việc nghiên-cứu/học hỏi đứng-đắn có chất-lượng, lại cũng thấy nhiều đấng bậc, nhiều vị từng nghiên-cứu/học-hỏi có bài-bản, rất vững chắc. Trong công-cuộc điều-nghiên/học hỏi về sự việc gọi là “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống gia-đình”, lại cũng thấy có vị, từng đề-nghị một phương-án cũng bài-bản.

Nhưng, do bởi tính-cách bài-bản của việc nghiên-cứu, đề nghị bạn và tôi ta lại hát:

“Giòng sông nào vắng xa chưa em

Ru lên hồn tuổi thơ này, thêm một lần chuốc u buồn

Hồn lên ngàn phím tơ vương êm

Ru em bằng lời ca đêm, ru lên tuổi buồn em mang.

Giòng sông rồi vắng xa thôi em

Đời trôi theo ngày tháng, mang nhiều kỷ niệm buồn

Tuổi thơ còn có mơ không em

Hay trôi miệt mài ngày tháng trong cô liêu.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Những mong rằng, bạn và tôi, ta có nghiên-cứu/học-hỏi nhiều về “Tái Phúc-âm-hoá đời sống” cũng đừng “miệt mài ngày tháng trong cô-liêu”. Đừng “ru em bằng lời ca đêm”, “ru lên tuổi buồn em mang”. Có như thế, ta mới hăng-say nghiên-cứu, học-hỏi những điều khá khó, như sau:

“Học hỏi/nghiên cứu về Đức Giêsu qua Phúc-Âm, tôi đề-nghị ta nên xem xét Tân-Ước không chỉ như văn-bản riêng-biệt/độc-lập xuất-hiện ở bên ngoài thế-giới Do-thái, nhưng nên nhìn đó bằng lăng-kính của văn-minh Do-thái cùng thời, tức: cội-nguồn của Giáo-Hội thời nguyên-thủy.

Dĩ nhiên, ý-nghĩ sử-dụng các văn-bản của Do-thái vốn có đi từ Kinh thánh (tức niên biểu khoảng từ 1000 đến 200 năm trước Công Nguyên) ngang qua văn-chương liên-ước (vốn có niên-biểu từ 200 đến 100 năm trước Công nguyên) tức là: từ thời Mishna cho đến thời-kỳ ra sách luật Talmud của các rabbi (tức: niên-đại 200 sau Công-nguyên). Khi ấy, việc diễn-giảng Phúc Âm cũng không là công-tác mới mẻ gì, nhưng vào thời ấy cũng đã thấy nhiều vị thức-giả đã sử-dụng Tân-Ước như công-cụ học-hỏi tính uyên-bác, độc-đáo của Kinh thánh suốt 3 thế-kỷ đầu, và đặc biệt hơn nữa, là các thế kỷ mới về sau.

Tuy nhiên, phần lớn các học-giả đều đã tiếp-cận chủ-đề xảy ra với hầu hết các đấng bậc của Giáo-Hội, thì: một cách minh-nhiên hay mặc-nhiên đi nữa, các vị ấy đã đưa dẫn vào việc phân-biệt phẩm-chất có khác biệt giữa Tân-Ước và các văn-bản ngoài Kinh-thánh ở người Do thái. Đối với các vị ấy, văn-chương Do-thái đã tạo được nền-tảng, qua đó các học-giả uyên-bác ở thời trước đã lập ra Tân-Ước lại vượt lên trên nhiều văn-bản khác nhờ tính cao-siêu của Bản-văn Kinh-thánh này. Nói cách khác, các học-giả thời ấy vẫn coi Phúc Âm như bậc cha ông, còn các sách hoặc văn bản “ngoài luồng” khác của người Do thái không phải là Tân-Ước, chỉ được coi như bậc tôi đòi, phụ-lệ nếu có nhắc đến, thì cũng chỉ là khi được Truyền-thống cho phép, thôi.

Ngày nay, có nghiên-cứu học-hỏi, ta cũng nên sử-dụng phương-án nào dân-chủ hơn, tức: hãy để mỗi bên có quyền ăn nói đồng-đều. Tôi đây vốn là sử-gia, nên vẫn coi Đức Giêsu, coi Giáo-Hội tiên-khởi và Tân-Ước như thành-phần và một phần của Do-thái-giáo ở thế-kỷ đầu đời, hầu tìm cách đọc văn-bản ấy theo tư-thế “tự-thân”, hơn là qua cặp mắt của một thần-học-gia vẫn luôn đặt-để trong điều-kiện nào đó; rồi từ đó, lại sẽ bị ảnh-hưởng nhiều suốt hai thiên-niên kỷ vừa rồi, với niềm tin Kitô-giáo có sự chỉ-đạo của Giáo-hội.

Nói khác đi, khi ta đạt được cung-cách khám-phá ra ý-nghĩa của ý và lời trong ngôn-ngữ gốc mà người thời đó vẫn nói, tức là: để xem người nghe vào thời đó hiểu/biết sự việc như thế nào, thôi. Ngôn-ngữ do Đức Giêsu và đồ-đệ Ngài vốn là người Galilê sử-dụng thời ấy, lại là tiếng Aram, một ngôn-ngữ của người Do-thái na ná giống như tiếng Hip-ri, vốn được phần đông người Do-thái gốc Palestin vẫn sử-dụng cách rộng-rãi. Trên thực-tế, Đức Giêsu huấn-dụ mọi người và biện-bạch với bạn bè hoặc những người kình-chống Ngài, lại chỉ là tiếng Aram thôi. Và, hình-thức đích-thực về nguyên-ngữ nơi giáo-huấn của Đức Giêsu, ngoại trừ độ hơn chục lời Ngài nói bằng tiếng Aram, là được giữ lại trong Phúc-Âm thôi, còn lại đều đã nhanh chóng biến mất.

Giả như ai đó có được bản-văn Phúc Âm viết bằng tiếng Aram, thì việc ấy cũng không tồn-tại lâu dài, và chắc chắn ngày nay ta không còn giữ được thế. Cùng vào thời ấy, Giáo hội tiên-khởi đã thành-công trong việc giao-dịch với thế-giới ngoài đạo (tức: không phải là người Do-thái) bằng tiếng Hy-Lạp, thế nên toàn-bộ thông-điệp do các tông-đồ chuyển tải, như Phúc-Âm hoặc các thư luân-lưu và tài-liệu nào khác được ghi bằng tiếng Hy-Lạp, tức là hình-thức sớm-sủa nhất của Tân-Ước ta vốn có.

Nhưng, Tân Uớc viết bằng tiếng Hy-Lạp lại chỉ là “bản dịch” tư-tưởng chân-phương cũng như ý-kiến của Đức Giêsu và đồ-đệ Ngài suy-nghĩ hoặc nói ra bằng tiếng Aram, tức: bản dịch không là toàn-bộ ngôn-ngữ cũng rất khác, mà là bản tháp-ghép hệ tư-tưởng của Phúc Âm được đưa vào môi-trường văn-hoá và đạo-giáo rất xa lạ với thế-giới La-Hy bên ngoài Đạo. Thành thử ra, công việc của nhà nghiên-cứu, diễn-giải trước nhất, là: phải kiếm-tìm cung-cách trở về với Đức Giêsu-Do thái đã từng nói cho những người Do-thái dõi theo chân Ngài qua tương-quan/trao-đổi bằng tiếng nói quen-thuộc với người Do-thái. Từ đó, người học-hỏi nghiên cứu còn phải biết xem xét lời lẽ nào được gán cho là do Đức Giêsu nói ra, và giáo-huấn về Đức Giêsu trong Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp ngõ hầu xem có gì đổi-thay hoặc triển-khai ý-nghĩa hoặc ngay cả hiện-tượng ngầm bóp méo từng nổi lên từ động-thái đề ra tư-tưởng bằng mạch văn mang tính văn-hoá Hy-Lạp…” (xem Geza Vermes, The Changing Faces of Jesus, Penguin Compass 2002, tr. 2-3)

Chỉ bấy nhiêu lập-trường đề ra cho người nghiên-cứu việc Phúc-Âm-hoá đời sống thôi, thì bần đạo đây thấy cũng khá ngại. Ngại, không vì thấy đó là chuyện rắc-rối đòi nhiều thời-gian và công-sức hơn nữa. Nhưng, ngại ở chỗ: ý-thức về sự cần-thiết của động-thái “Phúc-Âm-hoá đời sống” theo cách nào đó, cho nhẹ nhàng/dễ chịu, thôi.

Như thường lệ, mỗi khi làm thế, bần-đạo vẫn có thói quen không được tốt cho lắm, là: hay chạy về với thơ văn/âm-nhạc hoặc truyện kể để lấy hứng, rồi học tiếp. Thi-ca và âm-nhạc hôm nay vốn được trích-dẫn, chỉ quanh-quẩn những ý/tình cũng hơi bị “chênh” hoặc “trệch” khỏi chủ-đề mình bàn. Thôi thì, để gợi hứng, nên ta cũng nên hài lòng với những gì mình có thể hoặc không thể làm được, mà thôi.

Có thể và không thể, là chuyện hôm nay bần-đạo tìm ra được nguồn hứng có những câu ca, đã vừa hát lại vừa để coi xem có ai phản-đối, hay không. Không thấy gì, nên lại đề nghị bà con ta trở về với ca-từ nhè nhẹ, sau đây:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Cũng có thể, là: bạn bè/người thân của bần đạo không mấy hài lòng về giải-pháp bất chợt và tạm thời cho qua ngày. Thế nên, bần đạo lại nhớ đến lời thánh-nhân hiền lành, từng nói nhiều lời khích-lệ cũng dễ nể, để bạn và tôi, ta theo đó mà sống và hành-động cho đúng phép. Như thế, phải chăng gọi đó là: “tái Phúc Âm-hoá cuộc sống” của riêng ta? Phúc-Âm-hoá đời sống của chính mình, là: về mà nghe lại những lời-lẽ mình từng nghe/từng biết vào thời trước, rất như sau:

“Thưa anh em,

tôi xin nhắc lại cho anh em

Tin Mừng tôi đã loan báo

và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững.

Nhờ Tin Mừng đó,

anh em được cứu độ,

nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo,

bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.”

(1Cor 15: 1-2)

Nhắc nhớ và nhắc nhở thế rồi, lại sẽ hy-vọng rằng: bậc thày dạy sẽ không đòi-hỏi nhiều hơn nữa, để ta sống. Bởi, nhắc nhớ và nhắc nhở, là: nhắc mãi rằng: “Nhờ Tin Mừng” ta được cứu-độ, ta mới “giữ đúng (lời thánh hiền) loan báo”; bằng không thì, ta “có tin cũng vô ích”, thôi.

Vâng. Rất đúng. Nhắc nhớ và nhắc nhở bằng lời nói hay truyện kể vẫn là cung-cách của dân con trong Đạo sống ở đời có quá nhiều việc và chuyện làm ta sao lãng hoặc quên đi việc “Phúc-Âm-hoá đời sống” của riêng ta. Nhắc nhớ và nhắc nhở, còn nhắc bằng lời khuyên-răn của bậc thày khác, từng có nhận-định về tình-hình nghiên-cứu về Đức Giêsu lịch-sử như sau:

“Rất có thể, là: các vấn-nạn khúc-mắc được đề cập rất nhiều, lại đã tìm ra cơ-ngơi nơi thế-giới của đại-học-đường, bỏ rời thế-giới chính-thức của Giáo-hội bằng thứ ngôn-ngữ tư-riêng và khác-biệt như một sưu-tập đầy những vấn-nạn. Cái khó của sứ-vụ thừa sai nay cho thấy là: càng ngày càng có nhiều người học-thức hơn xưa và cũng có rất nhiều người nay suy-tư theo ngôn-ngữ và/hoặc cung-cách “đại-học” cả khi họ phân-tách câu nói hoặc tạo tiết-tấu một cách khác mọi người.” (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Focus on Historical Jesus Studies with Special Reference to ‘Jesus of Nazareth’ by Joseph Ratzinger/Pope Benedict XVI, August 2007, tr. 65)

Trên thực tế, rất có thể là như thế. Càng có thể hơn, lại cũng nhắc nhở và nhắc nhớ chính mình và mọi người về công-tác “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống”, nghĩa là sống địch-thực cuộc sống luôn thực-thi lời dạy từ Tin Mừng trong nguyện cầu.

Vào với ví-dụ cụ-thể thì: khi lần chuỗi Mân Côi, cũng nên suy về lời nguyện/chúc như: “Nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể-hiện dưới đất, cũng như trên trời”. Và, ở kinh Kính Mừng, ta lại có lời nguyện/chúc khác, như câu: “Đức Chúa Trời ở cùng Bà”, tức: ở cùng chúng ta, để rồi lại cũng kết thúc bằng một lời tụng/chúc, như sau: Sáng Danh Đức Chúa Cha, và Đừc Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần…” và lời xưng cuối là tiếng “Amen” tức: những ước và mong cho mọi sự xảy ra, sẽ tốt đẹp như vậy.

Cụ thể của mong ước, là ước mong sao tinh thần và quyết tâm “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” của mình và của người, sẽ thành hiện-thực. Thêm nữa, nhắc nhở và nhắc nhớ chính ta và mọi người về chủ trương “Tái Phúc-Âm-hoá đời sống” chính mình và mọi người, vào mọi lúc. Chứ không chỉ trong vòng một năm thánh, mà thôi.

Nhắc nhớ và nhắc nhở, như thể vào lần tấn-phong linh-mục cho các phó-tế, Giám mục chủ-quản hoặc chủ-trì buổi lễ vẫn nhắc nhớ và nhắc nhở các tân-chức cách riêng, và mọi người nói chung, là: “Hãy nhớ mà sống điều mình giảng rao, chứ đừng rao giảng những điều mình từng sống!” Nếu dân con nhà Chúa, ở đây và bây giờ đều làm thế, thì công cuộc “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” Kitô-hữu, cũng sẽ đạt.

Để minh hoạ cho quyết-tâm “tái Phúc-Âm-hoá đời sống” của mình, theo đề-nghị của thánh-hội năm 2014 này, dưới đây là truyện-kể có thể coi đó như lời khuyên khi ai đó quyết-tâm “tái Phúc-Âm-hoá cuộc sống”. Truyện kể, cũng nhè nhẹ như vẫn diễn ra ở nhiều nơi/nhiều chốn, nhất là ở khung trời nào đó bên phương Đông, phương Đoài như sau:

Trước nhất là lời khuyên-răn:

“Nếu bạn muốn buông xuôi một vài thứ, không còn quyết-tâm đeo đuổi như lúc đầu còn hăng-say, thì bạn nên đọc 2 câu chuyện dưới đây. Hy vọng, nó sẽ giúp ích được cho bạn điều gì đó.

Sau đến là truyện kể, nối tiếp những hai lần, rằng:

“Có cô gái nọ tìm đến một nhà sư, để rồi hỏi:

– Thưa thầy, con muốn buông một vài thứ mà không thể, con mệt mỏi quá.

Nhà sư đưa cho cô gái 1 cốc nước và bảo cô cầm lấy, đoạn ông liên tục rót nước sôi nóng vào cốc, nước chảy tràn ra cả tay, làm cô bị phỏng, cô buông tay làm vỡ cốc.

Lúc này nhà sư từ-tốn nói:

– Đau rồi tự khắc sẽ buông!

Và tiếp theo đó, là lời bàn của người kể, rất như sau:  “Vấn đề là, tại sao phải đợi cho tổn thương thật sâu, rồi mới buông?” Câu truyện tiếp theo cũng kể về việc nắm và buông, như sau:

“Có một chàng trai đến tìm nhà sư, và anh hỏi:

-Thưa thầy con muốn buông xuôi vài thứ nhưng con do-dự quá, con mệt-mỏi vô cùng.
Nhà sư đưa anh ta 1 cái tách và bảo anh cầm, đoạn ông rót đầy tách trà nóng vừa mới pha xong.
Chàng trai cảm thấy nóng quá nhưng vẫn không buông tay, mà chuyển từ tay này sang tay kia, cho đến khi nó nguội đi rồi uống và nhận thấy rất ngon. Lúc này nhà sư mới từ-tốn nói:

– Nếu cứ đau là buông, thì con đã bỏ lỡ những thứ tốt đẹp sau đó rồi!

Và, người kể lại cũng có lời sau đây: “Vấn đề là tại sao cứ đau là phải buông trong khi còn có thể làm cho nó tốt đẹp lên.

Và rồi, người nghe cũng có thêm lời bàn khác theo kiểu “Mao Tôn Cương” như sau: “Bài học rút ra là thế này: Trong cuộc đời vốn dĩ phức tạp này, chỉ ta mới biết lúc nào nên cầm lên và lúc nào thì bỏ xuống các sự việc của chính mình.” (Truyện kể sưu tầm trên mạng, mới đây thôi).

Sưu tầm truyện kể, cũng chỉ để minh-hoạ những gì mà bạn và tôi, ta muốn nói và muốn nghe, khi quyết-tâm. Như, quyết-định để tâm thực-hiện chủ-trương do Đức Giáo Hoàng đề xướng và coi đó như tôn-chỉ để dân con trong Đạo thực-hiện vào năm 2014 này.

Kể thế rồi, nay ta lại cứ hiên ngang đầu cao mắt sáng hát lên lời ca tuy hơi buồn, nhưng trong đó vẫn có chút gì vui vui, nếu người người vẫn cứ quyết tâm “viết riêng cho em” những điều sau đây:

“Chiều nay ngồi viết riêng cho em,

Cho em bài hát êm đềm,

trôi theo từng tiếng tơ mềm.

Nhờ mây gửi đến riêng cho em,

Cho em ngàn lời yêu thương,

trôi trên nụ cười phong kín.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Viết riêng cho em hay cho ai đó, cũng cứ nên viết “ngàn lời yêu thương”. Để rồi lời ấy sẽ cứ gọi là “trôi trên nụ cười phong kín”, rất thực-thà.

Thế đó là ý-nghĩa của lời ca và cũng là đôi điều tâm niệm xin mạn phép gửi đến bạn và đến tôi, trong ngày này. Và, những ngày sắp tới, suốt cõi đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn gửi đến tất cả

Những lời viết riêng

Rất yêu thương

Trong cõi đời này.

Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức

“Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức,”

Trát bùn tanh lên mặt đã bao năm”.

(dần từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 22: 15-21

Mai Tá diễn dịch

Ném sao được nhân-cách của mọi người, như nhà thơ từng cảnh-báo. Nhân-cách và nhân-vị của con người chỉ có thể trao-trả cho con người, dù người ấy ở nơi cao tít chốn cầm-quyền cai trị muôn dân. Nhân-cách và nhân-vị của con người vẫn là ý-tưởng chỉ-đạo mà khi xưa bậc thánh-hiền đã ghi lại nơi trình thuật, để cảnh-giác người nghe biết Tin-Mừngh CHúa bảo ban.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh-nhân hiền-từ lại cũng ghi chép lời bảo-ban mà các nhà hiền-triết khi xưa tóm gọn bằng một triết-thuyết rất “con người” qua nhận định: “Sống trước đã, triết lý sau”. Triết lý sống và sống triết lý, hoặc chính trị-tà trị vẫn là cách thế, để sống. Sống đúng đường lối, hợp với đạo làm người.

Chính vì thế, nên: dân thường ở huyện, nay dù vẫn còn ở trong hay đã ra khỏi cộng-đoàn kẻ tin vào Đức Chúa, lại vẫn nghĩ: Ngài chẳng khi nào uỷ thác cho Giáo hội trọng trách kinh-bang tế-thế, hoặc chính-trị nào hết, để hỗ-trợ cho lập-trường của mình, dù nhiều người cứ viện-dẫn đoạn trình-thuật Tin Mừng hôm nay, để làm bằng.

Nhận thức ý-nghĩa cũng như bối-cảnh của đoạn Tin mừng nay viết lên, chắc hẳn chẳng ai muốn cho Giáo hội cứ “ru rú” ngồi trong “góc khuất” xa khỏi cửa để suy-tư, dẫn dụ nhau về những thực-tại của chân-lý vĩnh-cửu. Và, cũng chẳng thấy ai reo hát lời thánh vịnh cũng rất xưa, nhưng chỉ lưu tâm để ý đến thánh ca hợp thời đại, thôi.

Thời Chúa sống, ta hẳn cũng rõ biết nhiều lãnh đạo hội đoàn vẫn tự hào cho rằng mình thuộc giống giòng đạo hạnh, siêng chăm như nhóm Biệt Phái, rất nhiệt thành. Biệt Phái hay Nhiệt thành, là đám người mộ đạo quá mức bình thường, được tổ chức rất qui củ, lớp lang vào cuối thời kỳ người La Mã còn đô hộ Do thái.

Một trong những cố gắng mà nhóm Nhiệt thành cổ vũ đến cùng là duy trì việc nộp thuế cho đám dân quân đô hộ. Lúc ấy, chắc cũng có một số người dám nghi ngờ Đức Kitô thuộc nhóm này nên mới tìm đến gạn hỏi, đặt bẫy. Nhưng, Ngài luôn chứng tỏ là Ngài đứng về phía những người nghèo hèn, ốm đau bệnh tật,  những nữ phụ tai tiếng và cả đám người sống bên lề xã hội nữa.

Tin Mừng cho thấy Đức Kitô luôn công kích các tay đầu nậu tôn giáo đương thời. Ngài cũng đã nhiều lần khuấy động, thức tỉnh bọn người còn ngủ vùi tại những nơi Ngài đặt chân đến. Ngài chống đối mọi hình thức bạo động, khủng bố; luôn khuyên dạy các đồ đệ dõi theo bước chân dài truyền giáo, biết quên mình đi mà yêu thương và nguyện cầu cho những kẻ hãm hại chính mình. Các tay ma đầu, tác oai tác quái luôn rình rập sơ hở để báo cáo lấy điểm với phe nắm quyền.

Đức Kitô còn muốn mọi người phải tỏ ra công minh chính trực như Đức Chúa vẫn trông chờ nơi thế giới phàm trần. Đã nhiều lần, Ngài hằng minh định rằng không nên dựa vào vũ khí hoặc sự khiếp sợ, trả thù, mà chỉ có tình thương mới có thể biến đổi được tâm can những người làm chính trị, nắm giữ quyền hành.

Chính trị của Đức Chúa chính là tình yêu ngự trị chứ không phải thứ tà trị hay tà ma, ác thần đang còn ngự trị nơi lòng dạ của kẻ xấu. Dứt khoát không thể nghi ngờ được là Ngài thuộc nhóm “Nhiệt thành” bợ đỡ đám quỷ ma thống trị.

Tin Mừng hôm nay diễn tả, Đức Kitô, thay vì xoáy mòn, đảo lộn uy quyền của người trần thế, ngược lại, Ngài vẫn nâng đỡ và yểm trợ họ. Ngài không chỉ làm có thế, mà còn làm hơn thế nữa. Ngài không chỉ nói “Những gì của Xêda, hãy trả lại cho Xê-da” mà còn thêm: “và đem về với Đức Chúa những gì thuộc về Đức Chúa”. Chân lý thực tiễn này gồm tóm mọi vua quan, tiến chức nơi trần thế.

Mọi quyền năng, đất nước, mọi giới chức nắm giữ quyền hành, xuất tự Đức Chúa, phải được đưa về với Đức Chúa. Điều này có nghĩa: với tư cách là con dân của Đức Chúa, chúng ta chẳng thể nào đem nghĩa vụ ta có đối với trần thế để rồi thu về một mối, trao tất cả cho mình Đức Chúa mà thôi. Làm như thế là sai lầm và còn nguy hiểm nữa.

Cứ liên tưởng đến những chương sử đen tối của thế kỷ vừa qua, sẽ thấy nhiều chuyện trái khoáy đã xảy ra với cả những người công chính chuyên đi lễ hằng tuần mà vẫn chẳng biết kết hợp hài hòa giữa thói quen giữ đạo ngày của Chúa với trách nhiệm ngoài đời vào ngày trong tuần.

Trách nhiệm ở ngoài đời tức là thứ chính trị rất chính đáng để ta có thể mãi mãi ngự trị trong tình yêu của Đức Chúa. Có lẽ vì thiếu kết hợp hài hòa mà sự dữ, quái ác vẫn cứ ngang nhiên tồn tại.

Các bậc trưởng thượng trong Giáo hội lâu nay phụ trách việc công bố Tin Mừng cho người trần thế vẫn có bổn phận dùng mọi cơ cấu chính trị, hoặc diễn đàn thế giới để làm công tác mà Bề Trên giao phó. Đó là công tác phối hợp hài hoà sao cho Tình yêu của Đức Chúa với con người được thể hiện với toàn thể tạo vật và người đời. Đời cũng như Đạo. Bên trong cũng như bên ngoài dân được chọn.

Bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Ysaya đã sử dụng cùng một thông điệp tương tự để nhắc nhở chúng ta về Tình yêu của Đức Chúa khi Ngài gọi chúng ta bằng tên riêng của mình. Đôi lúc, có thể có người trong chúng ta sẽ không đồng ý với các bậc trưởng thượng trong Giáo hội và e ngại rằng các đấng không nắm được thông tin chính xác, nên đôi lúc có thể đã dẫm chân lên nhau, vượt phạm vi, giới hạn của quyền bính.

Nếu quả có thế, chúng ta cũng nên nói cho các vị ấy biết. Đồng thời cũng phải nâng đỡ, hỗ trợ để các đấng có được một lập trường thông thoáng, biết uyển-chuyển khả năng suy xét, phán đoán của mình.

Tuy nhiên, cũng đừng bao giờ nhẹ dạ nghe theo lời dụ dỗ của những kẻ phóng đãng chỉ muốn Hội thánh xa rời truyền thống chân chính của Đạo. Những người này chỉ cù cưa biện luận, muốn đưa ra một định hướng phóng túng khiến ta dễ nghe theo, bằng những bánh vẽ đủ mầu sắc đa dạng hoặc còn tô điểm thêm bằng những ưu tiên hấp dẫn, vẫn ban phát cho cộng đồng nhân loại.

Nếu Hội thánh tỏ dấu không muốn tham dự tích cực vào những chuyện chuyển đổi xu hướng xấu xa, thì việc Đức Kitô đã sống, chết đi và sống lại từ cõi chết cho con người sẽ trở nên hư luống, vô bổ. Điều chắc chắn là: chúng ta vẫn phải đem đến cho đời (tức Xê-da) những gì người đời có quyền được hưởng nhân danh mọi tốt lành, của chung.

Nói cách khác, mọi người vẫn phải tỏ ra trung thành với Đức Chúa, là Đấng đã kêu mời tất cả các Xê-da trên trần thế, hãy cứ trông chờ vào những gì mình đã thực hiện hoặc chưa kịp đưa vào hiện thực.

Bởi vì, lúc ấy có thể chúng ta sẽ được yêu cầu giải thích lý do tại sao vẫn để cho một số người rời bỏ cộng đoàn. Vẫn còn có những người bỏ cuộc, thiếu kiên nhẫn trông chờ quà tặng của Đức Chúa, ngay từ đầu.

Cuối cùng, dù ta có tự hào mình thuộc thành phần đứng đắn hoặc chính quy, thì việc ra đi hoặc phân tán cộng đoàn đều là dấu hiệu không tốt; đều là thứ chính trị trái với kỳ vọng của mọi người. Chí ít, đối nghịch với lời truyền của Đức Chúa.

Vì thế, chính trị chẳng bao giờ chống đối ý định của Đức Chúa. Chí ít, là của Đạo. Đó chỉ là tà trị.

Trong cảm-nghiệm những gì Chúa tỏ-bày, tưởng cũng nên ngâm lại lời thơ ở trên, rằng:

“Ném nhân-cách vào ngàn sâu ký-ức,

Trát bùn tanh lên mặt đã bao năm.

Mới ngoài hai mươi mà trầm-trọng chứng đau lưng,

Bởi luồn cúi mỗi ngày dăm bẩy bận”.

(Nguyễn Tất Nhiên – Lần Cuối)

Nhà thơ, luôn ghi nhớ sự việc thiếu nhân-cách nơi đám người “nhiệt-thành”/“báng bổ” chỉ biết luồn cúi, nịnh-bợ giới cầm quyền, mất nhân-cách. Thứ nhân-cách đầy tính-chất đạo-hạnh của bậc hiền-nhân quân-tử đà biến dạng cả chốn thiền-môn, rất Đạo.

Trình-thuật, nay còn là lời cảnh-tỉnh gửi mọi giới, ở khắp nơi, để người người lo chỉnh-đốn sống đích-thực thứ triết-lý nhân-hiền nhà Đạo, rất chính-mạch còn tồn-tại. Và, đó còn là lời nhắn-nhủ “cứ trả về cho Thiên-Chúa, những gì là nhân-lành/hạnh-đạo của Thiên-Chúa, để người người nhờ đó sống yên vui, suốt đời mình.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá diễn dịch

Hầu hết người Việt, người Hoa đều muốn theo tư bản

Hầu hết người Việt, người Hoa đều muốn theo tư bản
October 09, 2014

Nguoi-viet.com


WASHINGTON DC (NV) .-
Lòng ham muốn của người dân có thị trường tự do ở những nước cộng sản như Việt Nam và Trung Quốc cao hơn những nước tư bản truyền thống như Mỹ, Anh quốc, theo tổ chức Pew nghiên cứu.

Một phụ nữ và một ông bước vào một khu thương xá ở Bắc Kinh. Lòng ham muốn thị trường tự do rất cao ở Việt Nam và Trung Quốc so với các nước khác. (Hình: AP Photo/Ng Han Guan)

Có đến 95% các người dân ở Việt Nam được phỏng vấn nói rằng hầu hết mọi người sẽ khá hơn nếu sống trong nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, có 76% người Trung Quốc cũng nghĩ như thế, theo cuộc khảo cứu dư luận toàn cầu của tổ chức Pew thực hiện với các cuộc phỏng vấn gần 49,000 người trên khắp thế giới.

Kết quả như thế chắc chắn làm giới lãnh đạo các chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc khó chịu dù họ thừa biết nhân dân chẳng ưa gì guồng máy thống trị.

Tại Việt Nam, nhà cầm quyền cố gắn cái đuôi “Xã hội chủ nghĩa” vào chủ trương theo đuổi kinh tế thị trường khi chen chân vào chuỗi sản xuất và tiêu thụ toàn cầu.

Chỉ vì cái chủ trương đầu ngô mình sổ ấy mà nền kinh tế Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước khu vực, khoảng cách giầu nghèo giữa tầng lớp cai trị và tham nhũng bắt tay với đám “tư bản thân hữu” so với đại đa số quần chúng thì càng ngày càng cách biệt lớn lao.

Pew là một tổ chức nghiên cứu xã hội trụ sở ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn do tổ chức Pew Charitable Trusts tài trợ thực hiện các dự án nghiên cứu khác nhau, trong đó có dự án nghiên cứu thái độ sống của người ta trên thế giới (Global attitudes project).

Sự mở rộng giao thương giữa các nước đã kích thích sản xuất và tiêu thụ toàn cầu, giúp tăng trưởng kinh tế nhanh ở một số nước trong đó có Việt Nam và Trung Quốc vốn là những nước nông nghiệp và thiếu ăn. Nhờ vậy, nhiều người dân đã thoát cảnh thiếu đói thường xuyên. Một số người trở thành tầng lớp trung lưu trong xã hội, thậm chí giầu có nổi bật trong xã hội.

Trong khi đó, nền kinh tế tại những nước tư bản cố cựu như Hoa Kỳ và Anh quốc thì tăng trưởng rất thấp hoặc có những giai đoạn đối phó với suy thoái kinh tế rất khó khăn. Nạn thấp nghiệp cao và lương bổng thì cũng không tăng.

Những kinh nghiệm sống ở những nước đang phát triển, muốn thoát ra khỏi tình trạng chậm tiến và tại những nước vốn có nền kỹ nghệ tiên tiến và mức sống khá cao, có thái độ khác nhau về thị trường tự do hiện nay cũng như tương lai.

Đến 65% những người ở các nước kỹ nghệ tiên tiến nói rằng con cháu của họ sẽ nghèo khổ hơn cha mẹ của chúng. Nhưng trái lại, tại những quốc gia lương bổng thấp hay trung bình, ít nhất là phân nửa những người được phỏng vấn cho rằng con cái của họ sẽ khá hơn cha mẹ.

Sự lạc quan về tương lai cao nhất là tại Việt nam khi có đến 94% người ta cho rằng đời con họ tốt đẹp hơn, trong khi tỉ lệ lạc quan 85% tại Trung Quốc. Trong khi đó, chỉ có 30% người ở Hoa Kỳ, 23% người Anh Quốc, 15% người ở nước Ý, 14% người Nhật, và 13% người Pháp tiên đoán tương lai sẽ tốt đẹp hơn cho đám trẻ con của họ hiện giờ.

Trên toàn thế giới, đến 60% người được phỏng vấn nói rằng khoảng cách giữa giàu và nghèo là “vấn đề rất lớn” ở nước của họ. Thiếu công ăn việc làm được coi là vấn đề nghiêm trọng hơn. Nói chung, có đến 66% người trên thế giới cho là người ta sẽ khá hơn dưới chế độ tư sản cho dù có khoảng cách giữa giàu và nghèo với một số người.

“Người ta sẵn sàng chấp nhận một mức độ bất cân bằng nào đó để có thị trường tự do”. Bà Katie Simmons, một chuyên viên nghiên cứu cấp cao của tổ chức Pew phát biểu.

Quan ngại về sự bất cân bằng (khoảng cách giàu nghèo) lên cao nhất ở Hi Lạp và Lebanon. Đến 84% người được phỏng vấn ở hai nước này coi đó là vấn đề lớn trong khi tại Nhật Bản chỉ có 28%.

Dù xếp hạng sau Việt Nam và Trung Quốc về ưa chuộng thị trường tự do, người Mỹ vẫn tin tưởng vững chắc rằng mọi cá nhân chịu trách nhiệm cho chính số phận của mình. Tại Hoa Kỳ, 57% người ta (chỉ đứng sau Venezuela với 62%) từ chối ý tưởng cho là “sự thành công trong đời sống được quyết định bởi các lực lượng bên ngoài sự kiểm soát của chúng ta”.

Người Mỹ cũng nhiều phần (73%) tin tưởng hơn các người ở những quốc gia khác nói rằng nỗ lực làm việc rất quan trọng để khá hơn trong đời sống.

Được biết, Pew phỏng vấn khảo sát với 48,643 người lớn tại 44 nước trên thế giới bằng cả hai phương pháp là qua điện thoại và phỏng vấn trực tiếp từ Tháng Ba đến Tháng Sáu.(TN)

Sinh viên Hong Kong kêu gọi biểu tình trở lại

Sinh viên Hong Kong kêu gọi biểu tình trở lại

 

Tối thứ Năm, chính quyền đã hủy kế hoạch đối thoại

Lãnh đạo sinh viên Hong Kong kêu gọi biểu tình lớn vào tối thứ Sáu 10/10 sau khi chính quyền hủy đàm phán về cải cách dân chủ.

Cuộc gặp đầu tiên kể từ khi bắt đầu làn sóng biểu tình đáng sẽ diễn ra vào lúc 16:00 chiều thứ Sáu nhưng đã bị hủy một hôm trước đó.

Chính quyền Hong Kong nói “không thể có đối thoại xây dựng” với người biểu tình.

Con số người biểu tình trong những ngày qua đã giảm đáng kể.

Tuần trước, hàng nghìn người thuộc các nhóm sinh viên và phong trào vì dân chủ Occupy Central đã làm tê liệt nhiều khu vực trong thành phố.

Thế nhưng tuần này, chỉ còn vài trăm người, chủ yếu là sinh viên, trụ lại trên các phố ở trung tâm Hong Kong và ở Mong Kok trên bán đảo Cửu Long. Các rào chắn vẫn được duy trì ở nhiều nơi khiến giao thông gián đoạn.

Người biểu tình yêu cầu thực hiện cải cách dân chủ, quyền bầu cử tự do tại Hong Kong trong năm 2017.

Trung Quốc vẫn kiên quyết nói rằng vị trí hành chính trưởng quan của đặc khu phải được chọn qua một danh sách đã được hội đồng bầu cử lọc trước.

Chưa rõ liệu kêu gọi biểu tình tối thứ Sáu có thu hút được đông đảo người tham gia để thổi lửa lại phong trào hay không.

Không nhượng bộ

Chưa rõ ủng hộ cho cuộc biểu tình mới sẽ thế nào

Tối thứ Năm, lãnh đạo sinh viên đã ra lời kêu gọi tăng biểu tình và chiếm đóng một số nơi nếu như chính quyền Hong Kong không nhượng bộ.

Một vài giờ sau đó, Tổng thư ký Carrie Lam, người đại diện cho chính quyền Hong Kong tại cuộc gặp được lên kế hoạch, cáo buộc phe biểu tình là “gây bất tín”.

Bà Lam tuyên bố:” Cuộc đối thoại không thể được sử dụng để làm động cơ xúi giục thêm người biểu tình. Các nhà hoạt động bất hợp pháp phải dừng ngay”.

Lãnh đạo sinh viên thì cáo buộc chính quyền không chân thành trong đối thoại và kêu gọi họ ngồi xuống bàn đàm phán.

Alex Chow, Chủ tịch Liên đoàn Sinh viên Hong Kong (HKFS), được hãng AFP dẫn lời nói: “Tình hình hỗn loạn chính là do chính quyền gây ra. Họ phải chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả”.

Trên mạng Twitter, HKFS ra thông điệp tối thứ Năm nói: “Chính quyền không chịu đàm phán. Hãy cho họ thấy chúng ta có gì trong tay”.

Nữ sinh Pakistan được Nobel hòa bình

Nữ sinh Pakistan được Nobel hòa bình

Malala Yousafzai, 17 tuổi, được cả thế giới quan tâm sau khi sống sót từ vụ ám sát của Taliban

Nữ sinh Malala Yousafzai, người được thế giới biết đến sau khi cô bị Taliban bắn, đã được trao giải Nobel hòa bình năm nay.

Giải cũng được trao cho ông Kailash Satyarthi, sinh năm 1954, một nhà hoạt động cho quyền trẻ em ở Ấn Độ.

Cô Malala Yousafzai, 17 tuổi, được cả thế giới quan tâm sau khi sống sót từ vụ ám sát của Taliban tháng Mười 2012.

Lời kêu gọi quyền bình đẳng của cô tại quê nhà Pakistan đã khiến dân quân nổi giận.

Bị bắn vào đầu, cô bị hôn mê và được đưa sang bệnh viện tại Birmingham, Anh để điều trị.

Vụ ám sát khiến các lãnh đạo thế giới lên án và tôn vinh Malala như anh hùng.

Thông cáo của ủy ban Nobel nói: “Dù tuổi trẻ, Malala Yousafzai đã chiến đấu nhiều năm cho quyền đi học của phụ nữ, và đã chứng tỏ trẻ em, thiếu niên cũng có thể đóng góp để cải thiện hoàn cảnh của mình.”

“Cô đã cố gắng làm được trong điều kiện hiểm nguy nhất.”

Trong khi đó, ông Kailash Satyarthi, 60 tuổi, nổi bật với pohng trào đòi chấm dứt nô lệ và bóc lột trẻ em từ năm 1980, khi ông bỏ nghề kỹ sư điện.

Ông giúp giải cứu hàng chục ngàn trẻ em bị bắt làm nô lệ, và giúp các em được học hành.

Thorbjørn Jagland, chủ tịch ủy ban Nobel Na Uy, nói ông Kailash Satyarthi đã “đứng đầu nhiều hình thức phản đối và xuống đường, tất cả đều hòa bình, tập trung vào sự bóc lột trẻ em”.

Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ

Bàn Thờ Cho Người Nô Lệ

Du khách đến viếng thăm nước Tanzania bên Phi-Châu không thể không dừng chân trước Nhà Thờ chính tòa Anh-Giáo tại Zanzibar.

Bước vào nhà thờ, người ta có thể đọc ngay lời chào đón được viết trên tường như sau: “Bạn đang ở trong nhà thờ chính tòa của Ðức Kitô.  Nơi đây đã từng là chợ buôn người nô lệ”.

Ngôi thánh đường này đã được xây ngay trên chính khu đất mà ngày xưa người da trắng đã tập trung không biết bao nhiêu người Phi-Châu để buôn bán đổi chác như những con thú.

Ðặc biệt nhất là bàn thờ của ngôi thánh đường:  đây là nơi mà trước khi được bán, người nô lệ phải chịu đánh đòn.  Sở dĩ người ta phải dùng roi để quất vào người nô lệ là để xem người ấy còn khỏe mạnh không.

Cột trụ ở ngay lối vào nhà thờ là một cây thánh giá gỗ có mang tên của nhà giải phóng Livingstone, một nhà thám hiểm người Anh, đã hô hào chống lại cuộc buôn bán vô nhân đạo này.  Cây thánh giá mang tên ông đã được chạm trổ từ gốc cây nơi ông thường đứng để hô hào cuộc chiến bãi bỏ việc buôn bán người nô lệ.

Mãi đến ngày 06 tháng 6 năm 1873, việc buôn bán người nô lệ mới chính thức bị cấm chỉ bằng một đạo luật.  Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.

Cũng như một Đan-viện dòng kín đã được dựng lên ngay bên cạnh trại tập trung Auschwitz bên Ba Lan để âm thầm nhắc nhở về những độc ác dã man mà con người đã có thể làm cho người khác, thì nhà thờ chính tòa Anh-Giáo tại Zanzibar cũng là một nhắc nhở về một quá khứ vô cùng đau thương và đen tối của cả nhân loại, khi con người chỉ xem những giống người khác như thú vật để đổi chác.

Nhưng một tưởng niệm không chỉ dừng lại ở khía cạnh kết án, nó còn là một mời gọi để cam kết sống đích thực hơn.

Ðối lại với chà đạp dã man phải là sự tôn trọng yêu thương mà con người phải có đối với tha nhân.

Cuộc sống của người Kitô chúng ta được xây dựng trên một tưởng niệm vô cùng cao cả: đó là cái chết của Ðức Kitô được thực hiện trong Thánh Lễ.

Thánh lễ vừa là một nhắc nhở về cái chết vô cùng dã man mà Ðức Kitô đã trải qua, vừa là một tưởng niệm về Tình Yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, vừa là một mời gọi sống yêu thương, yêu thương đến nỗi có thể chết thay cho người khác…

Chúng ta không thể tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu mà vẫn tiếp tục cưu mang hận thù, mà vẫn nuôi dưỡng sự khinh rẻ đối với tha nhân.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Hồng Y Trần Nhật Quân : “Bắc Kinh không giữ lời hứa về Hồng Kông”

Hồng Y Trần Nhật Quân : “Bắc Kinh không giữ lời hứa về Hồng Kông”

RFI

Mai Vân

media

Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân (Joseph Zen), 82 tuổi, nguyên Giám mục Hồng Kông, phát biểu với người biểu tình trước tòa nhà chính quyền Hồng Kông hôm 24/9/2014.REUTERS/Liau Chung-ren

Tham gia biểu tình cùng với các sinh viên từ cuối tháng Chín năm 2014, Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân (Joseph Zen), nguyên Giám mục Hồng Kông, lo ngại nguy cơ chia rẽ trong phong trào biểu tình đòi dân chủ tại vùng đặc khu kinh tế này của Trung Quốc.

Trả lời phỏng vấn của nhật báo Công giáo Pháp La Croix, số ra ngày 08/10/2014, người được xem là hiện thân của “lương tâm đạo đức” của Hồng Kông, năm nay đã 82 tuổi, đã cho rằng một cuộc đàn áp đẫm máu vẫn có thể xẩy ra. Ngài đồng thời tố cáo chính quyền Trung Quốc là đã không giữ lời cam kết về Hồng Kông.

RFI giới thiệu nguyên văn bài phỏng vấn:

La Croix : Tình hình Hồng Kông đã lắng dịu, một cuộc đối thoại đã mở ra với chính quyền. Ngài có cảm thấy an tâm vì đã tránh được một cuộc đàn áp đẫm máu hay không ?

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân : Tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm vì không thấy các học sinh, sinh viên nào bị thương nặng hoặc bị thiệt mạng trong những cuộc biểu tình lần này. Nhưng tôi vẫn còn rất lo lắng trước diễn biến của tình hình và những mối bất đồng phát sinh ngay bên trong phong trào sinh viên.

Đây là lý do tại sao tôi bảo vệ quan điểm cho rằng học sinh giờ đây phải nhường quyền điều hành phong trào cho những người có kinh nghiệm hơn họ, bởi vì đối phó với chính quyền để đàm phán đòi hỏi một nhận thức chính trị và những kinh nghiệm đấu tranh rất sắc nét.

Hiện nay, thời gian có lợi cho nhà cầm quyền và chúng tôi cần phải nhanh chóng thống nhất phong trào thành một tổng thể. Tôi đề nghị đoàn đàm phán với chính phủ mang tính chất đại diện nhiều hơn cho xã hội Hồng Kông. Phái đoàn này phải bao gồm sinh viên và phong trào Occupy Central – đó là lẽ đương nhiên – nhưng cũng phải có thêm các thành viên của Đảng Dân chủ, các đại diện của người lao động vốn được tổ chức tốt, và cũng phải có các học giả, các chủ tịch các trường đại học, các giáo sư.

Bước đầu tiên vừa được thực hiện để bảo vệ nền dân chủ và các quyền tự do, nhưng bây giờ cần phải có dự án lâu dài trong tương lai, với một chiến lược vững chắc và được xây dựng tốt. Chúng tôi hành động một cách công khai, trong khi chính quyền lại có thể hoạt động trong bóng tối. Chúng tôi đã nhìn thấy điều này qua các hành vi can thiệp của các hội Tam hoàng (tức là thành phần mafia đã đánh đập người biểu tình) vào tuần trước, mặc dù chúng tôi không biết là ai đã ra lệnh cho họ. Chúng tôi phải đoàn kết lại.

La Croix : Cuộc đối thoại với chính quyền có thể đi đến đâu ?

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân : Cần phải lặp lại toàn bộ quá trình ngay từ đầu để tìm ra một công thức tốt cho cuộc bầu cử lãnh đạo Hồng Kông vào năm 2017. Chính quyền Hồng Kông đã phạm tội cung cấp thông tin sai lạc cho Bắc Kinh. Ủy ban tham vấn của họ đã làm một bản báo cáo bị cắt xén về những suy nghĩ của người Hồng Kông liên quan đển dân chủ và bầu cử.

Bắc Kinh đã dựa vào các thông tin đó để ban hành các cải cách chính trị trong đó chúng tôi không có bất kỳ một không gian tự do nào. Chúng tôi không thể chấp nhận kế hoạch cải cách chính trị đó của Bắc Kinh.

La Croix : Phải chăng Trung Quốc đã phản bội lời hứa của ho về nền dân chủ cho Hồng Kông ?

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân : Đúng vây. Bắc Kinh đã không giữ lời hứa của mình họ liên quan đến Hồng Kông trong khi mà nền dân chủ được ghi trong bộ Luật cơ bản, bản Hiến pháp cỡ nhỏ làm nền tảng cho Hồng Kông, theo nguyên tắc “một quốc gia, hai chế độ.”

Theo nội dung các điều khoản ghi trong văn kiện đó, lẽ ra chúng tôi phải được hưởng dân chủ đầy đủ ngay từ năm 2007. Thế mà chúng tôi đã phải chờ đợi cho đến ngày hôm nay để được biết rằng trong thực tế, bầu cử tự do sẽ chỉ được tổ chức vào năm 2017, nhưng lại không thể tự do lựa chọn các ứng cử viên của chúng tôi.

Đó là một sự phản bội lời hứa của Bắc Kinh và là một giai đoạn rất xấu cho nền dân chủ ở Hồng Kông.

La Croix : Một nền dân chủ không hề tồn tại ở Trung Quốc …

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân : Dân chủ là điều thiết yếu đối với Hồng Kông nói chung, chứ không chỉ riêng cho xã hội dân sự. Nó cũng rất quan trọng đối với hệ thống kinh tế. Cần phải làm cho văn hóa dân chủ được bám rễ một cách sâu sắc tại Hồng Kông để chúng tôi không trở nên giống như các thành phố khác của Trung Hoa Đại lục.

Vấn đề không chỉ liên quan đến dân chủ, hệ thống thiết yếu, mà còn liên quan đến toàn bộ hệ thống kinh tế và xã hội ở Hồng Kông. Tại Trung Quốc đang ngự trị một nền văn hóa quỷ quyệt, không có sự thật, công bằng, lòng trung thực, nơi mà chỉ có quyền lực và sự giàu có là có giá trị.

Hồng Kông bảo vệ các giá trị đạo đức khác. Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian và công sức cho hệ thống giáo dục của chúng tôi tại Hồng Kông (nơi trường Công Giáo rất nhiều) và chúng tôi đã chứng kiến cảnh học sinh và người dân biểu tình trên đường phố một cách ôn hòa, không có bạo lực.

La Croix :Ngài có từng lo ngại, vào một lúc nào đó khi các cuộc biểu tình diễn ra, là sẽ có một cuộc đàn áp đẫm máu như tại Bắc Kinh vào tháng Sáu năm 1989 hay không ?

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân : Một kịch bản như vậy là điều hoàn toàn có thể xẩy ra và ngay cả hiện nay; vẫn có nguy cơ xẩy ra một cuộc đàn áp đẫm máu.

Các sinh viên cần phải có đầy đủ trí khôn. Hiện nay họ cảm thấy họ như là những anh hùng. Họ không hiểu rằng nếu lực lượng an ninh bắt đầu bắn đạn thật, thì lúc đó đã quá muộn để “triệt thoái” như họ nói. Họ không ý thức được điều đó.

Chỉ cần một lời ra lệnh đến từ Bắc Kinh là đủ để gây ra một cuộc đàn áp đẫm máu. Kịch bản này vẫn hoàn toàn có thể diễn ra ngày hôm nay.