Vụ giàn khoan: Mỹ ủng hộ Việt Nam kiện Trung Quốc

Vụ giàn khoan: Mỹ ủng hộ Việt Nam kiện Trung Quốc

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới - Đông Á, ở Manila, Philippines. Ảnh chụp ngày 22/05/2014.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới – Đông Á, ở Manila, Philippines. Ảnh chụp ngày 22/05/2014.

Reuters

Trọng Nghĩa

Sau vụ Bắc Kinh cắm giàn khoan dầu trong vùng biển Việt Nam, trong một bài phỏng vấn dành cho hãng tin Anh Reuters hôm 21/05/2014, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã không loại trừ khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế. Phủ Tổng thống Mỹ vào hôm qua, 22/05/2014, đã lên tiếng hậu thuẫn cho mọi giải pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, kể cả việc dùng đến các thủ tục pháp lý quốc tế.

Theo hãng tin Anh Reuters, trả lời câu hỏi của báo chí về các tuyên bố mới nhất của Thủ tướng Việt Nam, ông Patrick Ventrell, một phát ngôn viên của Nhà Trắng, cho biết là Washington sẽ ủng hộ việc Việt Nam kiện Trung Quốc ra trước các định chế quốc tế để giải quyết vụ Trung Quốc triển khai giàn khoan tại vùng Biển Đông mà họ đang tranh chấp với Việt Nam.

Đối với ông Ventrell : « Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia trong việc duy trì hòa bình và ổn định ; tôn trọng luật pháp quốc tế ; thương mại hợp pháp không bị cản trở ; và tự do hàng hải và hàng không trong khu vực Biển Đông ».

Trên cơ sở đó, phát ngôn viên Nhà Trắng xác nhận : « Hoa Kỳ ủng hộ việc sử dụng các biện pháp hòa bình và ngoại giao khác nhau để quản lý và giải quyết các bất đồng, bao gồm cả việc sử dụng trọng tài hoặc các cơ chế pháp lý quốc tế khác. »

Trong bài trả lời phỏng vấn hãng tin Anh bằng văn bản, khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc ra trước quốc tế đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gợi lên khi ông xác định rằng : « Việt Nam đang xem xét nhiều biện pháp phòng vệ khác nhau, bao gồm cả các hành động pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế ».

Lời dọa kiện trên đây của Việt Nam, kèm theo tuyên bố ủng hộ của Mỹ sẽ làm Trung Quốc tức giận thêm. Ngay từ hôm qua, sau tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Trung Quốc đã tỏ thái độ phẫn nộ và tiếp tục cho rằng giàn khoan HD-981 nằm trong vùng biển thuộc chủ quyền của Bắc Kinh.

Trong thời gian qua, bất chấp các sức ép của Trung Quốc, Philippines vẫn tiếp tục xúc tiến vụ kiện Bắc Kinh ra tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc về những đòi hỏi quá đáng của Trung Quốc tại Biển Đông. Vụ kiện này của Manila cũng đã được Washington ủng hộ.

 

Mỹ yêu cầu Đài Bắc làm rõ ý nghĩa ‘đường lưỡi bò’

Mỹ yêu cầu Đài Bắc làm rõ ý nghĩa ‘đường lưỡi bò’

Biểu tình phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào hoạt động trong vùng biển ngoài khơi Việt Nam.

Biểu tình phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào hoạt động trong vùng biển ngoài khơi Việt Nam.

Duy Ái

22.05.2014

Các học giả Đài Loan mới đây cho biết Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ ở Đài Bắc làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn mà Đài Loan vẽ ra năm 1947 và được Trung Quốc dùng để làm cơ sở cho đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông. Các học giả này nói rằng yêu cầu mà Washington đưa ra 2 lần trong 3 tháng vừa qua vẫn chưa được thỏa mãn vì chính phủ của Tổng thống Mã Anh Cửu e rằng việc đó sẽ làm bùng ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nước.

Giữa lúc cuộc đối đầu kịch liệt giữa Việt Nam và Trung Quốc vì vụ giàn khoan đang tiếp diễn ở Biển Đông, các học giả Đài Loan cho biết Hoa Kỳ hồi gần đây đã yêu cầu chính phủ của đảo quốc tự trị này làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn, thường được gọi là đường lưỡi bò, mà họ vẽ ra năm 1947 và đang được Trung Quốc sử dụng để khẳng định yêu sách chủ quyền ở Biển Đông.

Theo tường thuật của thông tín viên Hải Nhan của ban Hoa Ngữ đài VOA tại Hồng Kông, việc này được giáo sư Trần Nhất Tân của Đại học Đạm Giang tiết lộ tại một cuộc hội thảo ở Hồng Kông về vấn đề Biển Đông hôm 19 tháng 5 vừa qua.

Ông Trần Nhất Tân cho rằng yêu cầu của Washington đối với Đài Bắc có mục đích làm suy yếu lập trường của Bắc Kinh đối với đường 9 đoạn mà họ dùng từ năm 1949 để cho rằng hầu như toàn bộ Biển Đông là lãnh hải của mình.

Chính phủ Tổng thống Mã Anh Cửu e rằng việc 'làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn' sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nước.

Chính phủ Tổng thống Mã Anh Cửu e rằng việc ‘làm rõ ý nghĩa của đường 11 đoạn’ sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nước.

Giáo sư Trần Nhất Tân nói rằng Đài Loan không thể thỏa mãn yêu cầu của Mỹ vì họ e rằng làm như thế sẽ gây phương hại cho mối quan hệ hài hòa giữa hai bờ eo biển Đài Loan và tạo ra rất nhiều vấn đề chính trị vì Đài Loan sẽ phải tu chính hiến pháp.

Ông Tôn Dương Minh, Phó Chủ tịch Quỹ Viễn cảnh Giao Lưu Đài Loan-Trung Quốc, cũng tán đồng nhận định đó. Ông nói rằng việc thỏa mãn đòi hỏi mà Hoa Kỳ đã 2 lần đưa ra trong 3 tháng vừa qua là rất nguy hiểm, vì Đài Loan sẽ phải tu chính hiến pháp, xác định lại đường biên giới của Trung hoa Dân quốc; và như thế có thể bị diễn giải là một hành động tuyên bố Đài Loan độc lập trên pháp lý, làm phát sinh rất nhiều vấn đề chính trị phức tạp.

Vào cuối năm năm 1947, Trung Quốc, với quốc hiệu lúc đó là Trung Hoa Dân Quốc và do chính phủ Quốc Dân Đảng lãnh đạo, đã vẽ đường 11 đoạn trên biển Đông, gọi đó là quốc giới. Tháng 2 năm 1948, bản đồ lưỡi bò xuất hiện công khai lần đầu tiên với bốn nhóm đảo mà Trung Quốc gọi là Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa. Trong 4 quần đảo này, quần đảo vốn có tên Nam Sa được đổi thành Trung Sa và quần đảo Đoàn Sa được đổi thành Nam Sa.

Việt Nam gọi Tây Sa là Hoàng Sa và Nam Sa là Trường Sa và cũng dựa trên các yếu tố lịch sử và pháp lý để tuyên bố là thuộc chủ quyền của mình.

Việt Nam gọi Tây Sa là Hoàng Sa và Nam Sa là Trường Sa và cũng dựa trên các yếu tố lịch sử và pháp lý để tuyên bố thuộc chủ quyền của mình.

Việt Nam gọi Tây Sa là Hoàng Sa và Nam Sa là Trường Sa và cũng dựa trên các yếu tố lịch sử và pháp lý để tuyên bố thuộc chủ quyền của mình.

Trong khi đó, các nước khác ở Đông Nam Á, trong đó có Philippines, Malaysia, Brunei và mới đây là Indonesia, cũng có yêu sách chủ quyền đối với các quần đảo mà Trung Quốc gọi là Đông Sa và Nam Sa.

Từ khi công bố đường lưỡi bò tới nay, Đài Loan và Trung Quốc chưa bao giờ nói rõ ý nghĩa của ranh giới đó là gì, dù hai chính phủ ở Đài Bắc và Bắc Kinh đã có nhiều hành động trên thực tế trong ranh giới này. Theo Bách Khoa Mở Trung Quốc, có 4 cách giải thích về ý nghĩa pháp lý của đường 9 đoạn: (1) đó là đường ranh giới quốc gia hay quốc giới: có nghĩa là các đảo và vùng biển bên trong lằn ranh là lãnh thổ của Trung Quốc và khu vực bên ngoài lằn ranh là thuộc về các nước khác hoặc là hải phận quốc tế; (2) đó là vùng biển lịch sử: Trung Quốc có quyền lợi lịch sử đối với tất cả các đảo và vùng biển bên trong lằn ranh; (3) đó lằn ranh trên biển, với các đảo trong lằn ranh thuộc chủ quyền Trung Quốc và Trung Quốc có quyền chủ quyền đối với vùng biển và tài nguyên dưới đáy biển không thuộc vùng nội thủy bên trong lằn ranh; và (4) đó là đường ranh phạm vi các đảo, với các đảo bên trong lằn ranh và vùng biển lân cận là một phần lãnh thổ Trung Quốc, do Trung Quốc quản hạt và kiểm soát.

Chẳng những các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc và Đài Loan phản đối và bác bỏ đường 9 đoạn, nhiều nước khác trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, cũng không ngớt Trung Quốc yêu cầu làm rõ ý nghĩa của đường ranh mà chính các chuyên gia công pháp quốc tế của Bắc Kinh và Đài Bắc cũng không thống nhất ý kiến với nhau.

Tại một cuộc họp hôm 17 tháng 5 ở Đài Bắc, cựu dân biểu Lâm Trọc Thủy của Đảng Dân Tiến cho biết ngay cả các học giả về công pháp quốc tế của Quốc Dân Đảng cũng cho rằng các qui định của luật pháp quốc tế và luật biển hiện nay đều vô cùng bất lợi cho yêu sách về “vùng biển lịch sử”. Một học giả khác của Trung Quốc, ông Lý Lệnh Hoa, cũng cho rằng đường chín đoạn không có kinh độ, vĩ độ cụ thể, cũng chẳng có căn cứ pháp lý.

Bắc Kinh cho rằng hầu như toàn bộ Biển Đông là lãnh hải của mình.
Ông Lâm Trọc Thủy, lý thuyết gia nòng cốt của phong trào đòi Đài Loan tách khỏi Trung Quốc để độc lập, nói rằng đường lưỡi bò không hề có trong lịch sử Trung Quốc trước đây mà thật ra là bắt nguồn từ Quần đảo Tân Nam mà Nhật Bản tuyên bố đòi chủ quyền từ năm 1939 và đặt dưới sự quản hạt của huyện Cao Hùng ở Đài Loan, khi đó là một phần lãnh thổ của Đế quốc Nhật. Ông Lâm nói rằng sau khi Nhật Bản bị đánh bại trong thế chiến thứ hai, chính phủ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch mới thừa hưởng quần đảo mà Nhật Bản gọi là Shinnangunto và xem đó là vùng biển của Trung Quốc.

Ông Lâm Trọc Thủy cũng cho rằng Trung Quốc có thể tranh giành chủ quyền quần đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa), nhưng không thể đòi chủ quyền đối với quần đảo “Nam Sa” (Trường Sa); và đó chính là lý do tại sao Bắc Kinh cực lực phản đối việc Philippines đưa vụ tranh chấp biển đảo này ra trước tòa án trọng tài quốc tế.

Cũng tại cuộc họp báo ở Đài Bắc, một học giả Đài Loan cho rằng chính quyền Tưởng Giới Thạch đã làm bừa khi đưa quân đến chiếm đảo Thái Bình (Việt Nam gọi là Ba Bình) ở “Nam Sa”. Tiến sĩ Hứa Văn Đường, thuộc Ban Nghiên cứu Lịch sử Cận đại của Viện Nghiên cứu Trung ương (Academia Sinica) của Đài Loan, cho biết tại Hòa hội Cựu Kim Sơn năm 1951, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ Shinnangunto nhưng không nói là từ bỏ cho nước nào. Thế mà Đài Loan vào năm 1956 đã đưa quân đến chiếm hòn đảo “Thái Bình”, nơi mà ông nói không phải là ngư trường truyền thống của ngư dân Đài Loan.

Ông Hứa Văn Đường cũng tiết lộ là sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, quân đội của Tưởng Giới Thạch đã “tiện thể” tiếp thu Quần đảo Tân Nam từ tay Nhật Bản, nhưng lại không biết quần đảo này ở đâu, nên phải chạy tới Bộ Tư lệnh Mỹ ở Philippines để mượn bản đồ. Nhà sử học Đài Loan này nói rằng nhóm đảo mà Trung Quốc gọi là Nam Sa thật ra là nằm trong khu vực của nhóm đảo mà hiện nay có tên là Trung Sa.

Có người tự thiêu trước Dinh Thống nhất

Có người tự thiêu trước Dinh Thống nhất

Thứ sáu, 23 tháng 5, 2014

Hình từ video clip của một nhân chứng.

Một người đã ‘tự thiêu’ trước Dinh Thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh sáng sớm ngày 23/5, theo báo trong nước nhưng cũng có tin nói hành động tự thiêu này là của một Phật tử vì ‘bức xúc với Trung Quốc’.

BBC đã liên lạc với Công an quận 1 ở TP Hồ Chí Minh và được biết “các chuyên viên đã vào cuộc để điều tra vụ việc”, nhưng không được cung cấp thêm chi tiết.

Nhân viên tại Dinh Thống nhất nói với BBC qua điện thoại rằng hiện di tích vẫn đang “hoạt động bình thường”, nhưng từ chối bình luận về sự kiện này.

Video quay lại hiện trường đã được một nhân chứng quay lại và đăng tải trên mạng xã hội.

Chủ nhân của video này viết trên tài khoản Facebook cá nhân rằng cô “không nhìn thấy rõ do trời lất phất mưa”, nhưng được tài xế taxi nói nạn nhân là một người phụ nữ.

Một video khác trên Youtube thì diễn tả: “Xác chết cháy khô, trong tư thế ngồi co chân dựa lưng vào cổng rào của Dinh.”

Báo Bấm Tuổi Trẻ vào chiều tối cùng ngày chạy bài với tựa Một phụ nữ tự thiêu phản đối Trung Quốc.

“Khoảng 5g58 phút, hai bảo vệ của Hội trường Thống Nhất phát hiện có ngọn lửa cháy tại khu vực cổng chính nên đã chạy lại xem thì thấy có người dùng xăng tự thiêu. Các bảo vệ trên đã dùng bình chữa cháy để dập lửa cứu người trong khoảng 3 phút thì ngọn lửa được dập tắt” theo Tuổi Trẻ.

Báo điện tử Soha của Công ty cổ phần truyền thông Việt Nam – VC Corp trước đó chạy tin và cho biết “người dân đã gọi điện cho công an địa phương để báo cáo về vụ việc, tuy nhiên đến 7h sáng, lực lượng này mới có mặt tại hiện trường nhưng bài báo này sau đó không truy cập được nữa.

‘Phật tử phản đối Trung Quốc’

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Phòng Thông tin Phật giáo tại Paris vừa ra thông cáo nói người tự thiêu hôm 23/5 là bà Lê Thị Tuyết Mai, Huynh trưởng Cấp Tấn, Phó Trưởng ban Hướng dẫn Gia Đình Phật tử Miền Quảng Đức, đơn vị trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Ông Võ Văn Ái, Phòng Thông tin Phật giáo tại Paris nói với BBC tại London cuối giờ sáng ngày 23/5 qua điện thoại rằng Viện Hóa Đạo của Hòa thượng Thích Quảng Độ từ TP. HCM thông báo rằng về danh tính của người tự thiêu.

Ông cho biết thời gian qua, “rất đông” thành viên của Gia Đình Phật tử Việt Nam, một tổ chức trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, xin tự thiêu.

“Người ta rất bức xúc vì nhà cầm quyền Việt Nam đàn áp Giáo hội, và đặc biệt gần đây, Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam,” ông Ái giải thích.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, với người đứng đầu hiện nay là Hòa thượng Thích Quảng Độ, không được chính phủ Việt Nam công nhận.

Nội dung 6 trong số 7 biểu ngữ

  1. Yêu cầu đoàn kết đập tan mưu đồ xâm lược của Trung Quốc
  2. Ủng hộ Cảnh sát biển và ngư dân Việt Nam
  3. Yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển Việt Nam
  4. Trả lại biển đảo cho Việt Nam
  5. Đốt ánh sáng soi đường cho những người yêu nước
  6. Xưa kia cho bà Trưng và Triệu đứng lên đánh giặc

Nguồn: Báo Thanh Niên dẫn lời Lê Trương Hải Hiếu, Phó Chủ tịch UBND Q1 Tp HCM.

Ông Võ Văn Ái nhấn mạnh Viện Hóa Đạo của Hòa thượng Thích Quảng Độ không đồng tình chủ trương tự thiêu.

“Bất cứ ai cũng phải sống để đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền,” ông Ái nói.

Ông Ái nói việc tự thiêu của bà Tuyết Mai là do “xúc cảm, phẫn uất”.

“Họ không xin phép, cũng không được phép của Giáo hội,” theo ông Ái.

Báo Bấm Thanh Niên tại Việt Nam cũng dẫn lời chính quyền xác nhận tên người phụ nữ là bà Lê Thị Tuyết Mai, 67 tuổi.

Ông Lê Trương Hải Hiếu, Phó chủ tịch UBND Q.1, TP.HCM, được báo Thanh Niên dẫn lời nói “theo điều tra ban đầu, nguyên nhân khiến người phụ nữ này tự thiêu là do bế tắc về cuộc sống và bức xúc việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trái phép, xâm phạm chủ quyền Việt Nam”.

Theo tờ báo, sau khi người phụ nữ tử vong, công an “thu giữ 1 cái can loại 5 lít, 1 quẹt ga và một bịch đồ chứa 7 biểu biểu ngữ viết tay phản đối Trung Quốc”.

Bài của báo An ninh Thủ đô không còn truy cập được nữa.

Ông Hiếu được báo Thanh Niên dẫn lời nói về 6 biểu ngữ như sau: “Yêu cầu đoàn kết đập tan mưu đồ xâm lược của Trung Quốc”; “Ủng hộ Cảnh sát biển và ngư dân Việt Nam”; “Yêu cầu Trung Quốc rút khỏi biển Việt Nam”; “Trả lại biển đảo cho Việt Nam”; “Đốt ánh sáng soi đường cho những người yêu nước”; “Xưa kia cho bà Trưng và Triệu đứng lên đánh giặc”.

Hiện chưa rõ số biểu ngữ là 7 (theo Thanh Niên) hay 6 (theo Tuổi Trẻ).

Báo An ninh Thủ đô (ANTĐ) trong tin sáng 23/5 dẫn lời các nhân chứng có mặt tại hiện trường cho biết vào lúc 5h30 sáng, một phụ nữ trẻ đã “đi bộ đến trước cổng Dinh Thống Nhất sau đó lấy xăng rưới lên người rồi châm lửa đốt.”

“Ngọn lửa nhanh chóng bùng lên, nhiều người đi đường không kịp dập lửa, ít phút sau thì nạn nhân đã bị ngọn lửa thiêu cháy đen, co quắp”.

Bài báo của An Ninh Thủ đô sau đó không còn truy cập được nữa.

MỐI TÌNH CHÂU LONG

MỐI TÌNH CHÂU LONG

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Chuyện cổ tích Việt Nam kể rằng: Có đôi bạn chí thân là Lưu Bình và Dương Lễ.  Lưu Bình cùng họ với Lưu Linh.  Ham chơi hơn ham học.  Dòng dõi giầu sang phú quý nhưng lêu lổng ăn chơi trác táng.  Dương Lễ nhà nghèo nhưng ham học. Lấy đèn sách làm thú vui.  Nhờ chí thú học hành mà Dương Lễ đã đỗ trạng nguyên làm quan lớn triều đình.  Ngược lại, Lưu Bình vì ham chơi nên công không thành và danh thì bại.  Thân xác tiều tuỵ và đói khổ bần hàn.  Dương Lễ nhìn cảnh bạn sa cơ thất thế nên động lòng trắc ẩn, dầu vậy, bên ngoài ông vẫn làm như không nhìn nhận tình bạn.  Ông đã ngầm cho vợ là Châu Long giả dạng là người con gái đến giúp Lưu Bình làm lại cuộc đời.  Châu Long đã theo lời chồng đến ở với Lưu Bình để động viên, giúp đỡ Lưu Bình.  Nhờ đó mà Lưu Bình đã cố gắng ăn học và sau này cũng thành tài.  Về phần Châu Long tuy sống với Lưu Bình nhưng lại không thuộc về Lưu Bình. Nàng vẫn thuộc về Dương Lễ.  Nàng vẫn phải trung thành tuyệt đối với Dương Lễ.  Cho dù Lưu Bình đã nhiều lần đề nghị nàng kết mối duyên tình, nhưng nàng đã khéo léo từ chối.  Nàng khuyên nhủ Lưu Bình hãy chuyên chăm học hành để công thành danh toại mới tính đến chuyện trăm năm.  Cho đến khi Lưu Bình thi đỗ mới vỡ lẽ ra: Châu Long chính là vợ của bạn được gởi đến để giúp đỡ mình.

Cuộc đời Kitô hữu chúng ta cũng giống như nàng Châu Long.  Sống giữa thế gian để canh tân đổi mới thế gian nhưng không thuộc về thế gian.  Sống giữa thế gian nhưng phải trung thành với thầy Chí Thánh Giêsu.  Không để lòng mình buông theo những cám dỗ tội lỗi, những thói đời điêu ngoa, những đam mê thấp hèn.  Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta: Hãy xin cùng Chúa Cha gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ.  Chúa không bảo chúng ta xin cùng Chúa Cha cất nhắc chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng vẫn ở giữa thế gian, đồng thời vẫn phải trung tín với Chúa.  Như Châu Long sống với Lưu Bình để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Dương Lễ đã trao.

Có thể nói, Châu Long phải có một tình yêu thật cao cả, thật thủy chung lắm mới có thể sống với Lưu Bình mà vẫn giữ trọn giao ước với Dương Lễ.  Người Kitô hữu cũng phải có một tình yêu thật thâm sâu với Thiên Chúa mới có thể tuân giữ giới răn Chúa khi sống giữa thế gian đầy mời mọc hấp dẫn luôn lôi kéo con người bất trung, phản bội với Chúa.  Vâng, chúng ta đang ở giữa một thế gian đầy gian tà, một thế gian sa đọa, tội lỗi, người Kitô hữu phải có một tình yêu sắt son trung kiên mới có thể giữ lòng thanh khiết như đóa sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy.”  Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa.  Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian.  Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa.  Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta.”  Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta.  Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.  Người Kitô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.

Nhìn vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ, khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ của cải, tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác.  Giữa một thế giới có quá nhiều cám dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa?  Có lẽ vì nguyên nhân đó, mà Chúa Giêsu đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí đến cho chúng ta.  Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn.  Ngài sẽ soi sáng khi lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng.  Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng ta gặp gian nan.  Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời.  Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa hằng: “Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”.

Nguyện xin Chúa Kitô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa.  Amen!

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

From: suyniemhangngay & Anh chị Thụ Mai gởi

 

Kịch bản chiến tranh Việt-Trung

Kịch bản chiến tranh Việt-Trung

Thứ năm, 22 tháng 5, 2014

Ông Carl Thayer cho rằng các cuộc đối đầu liên tiếp trên biển có thể gây ra thiệt hại về nhân mạng

Giáo sư Carl Thayer, từ Học viện Quốc phòng Úc, cho rằng một cuộc xung đột vũ trang giữa Việt Nam và Trung Quốc, nếu xảy ra, sẽ khác với cuộc chiến biên giới năm 1979.

Trả lời phỏng vấn BBC ngày 22/5, ông cho rằng cuộc chiến sẽ ‘kết thúc rất nhanh’, với nhiều bất lợi nghiêng về phía Việt Nam.

BBC: Theo ông thì căng thẳng hiện nay có leo thang thành một cuộc xung đột vũ trang hay không, và nếu điều đó xảy ra, hai bên sẽ triển khai những lực lượng gì cho cuộc chiến?

Giáo sư Carl Thayer: Hiện nay chúng ta đang chứng kiến một cuộc đối đầu trên biển được cả hai phía tính toán rất kỹ.

Trung Quốc sẽ tiếp tục ngăn chặn tàu của Việt Nam tiếp cận giàn khoan, trong lúc Việt Nam tiếp tục duy trì sự hiện diện và tuyên truyền bằng nhiều ngôn ngữ để yêu cầu Trung Quốc rút lui.

Các chuyên gia mà tôi gặp gần đây cho rằng những cuộc đối đầu liên trên biển hiện nay có thể dẫn đến thiệt hại về nhân mạng hoặc khiến tàu của một bên nào đó bị chìm.

Một cuộc giao tranh theo tôi là khó xảy ra, nhưng nếu có, thì cuộc chiến đó sẽ không chỉ diễn ra trên một mặt trận như 1979.

Năm 1979, Trung Quốc đã chủ trương không sử dụng không quân vì e ngại trước hệ thống phòng không rất mạnh của Việt Nam. Tuy nhiên, một cuộc giao tranh trong năm 2014 sẽ diễn ra trên nhiều mặt trận, với sự tham gia của không quân, hải quân, bộ binh cho đến tàu ngầm và sẽ kết thúc rất nhanh.

Hải quân Việt Nam chủ yếu tập trung ở Nha Trang và Đà Nẵng.

Trung Quốc có thể tấn công các cứ điểm này rất nhanh chóng bằng thủy lôi, bằng không quân hoặc tên lửa hành trình từ chiến hạm và tiêu diệt hoàn toàn các hạm đội cũng như các cơ sở hậu cần của Việt Nam.

Đây là một yếu tố rất quan trọng. Vì nếu bị hư hại, tàu của Việt Nam có thể lui về cảng, thế nhưng nếu mất cảng, các chiến hạm sẽ không thể được tiếp nhiên liệu và sẽ trở thành vô giá trị.

Bên cạnh đó, một cuộc chiến kéo dài cũng khiến Việt Nam phải đứng trước câu hỏi là lấy nguồn tiếp tế vũ khí ở đâu? Việt Nam hiện có bao nhiêu nước sẵn sàng cung cấp những khí tài hiện đại cho họ?

Khó có khả năng Nga sẽ đứng ra để tiếp tế vũ khí và phụ tùng cho Việt Nam vì không muốn gây hấn với Trung Quốc. Thậm chí nếu Nga muốn giúp thì cũng đã quá trễ.

Việc Trung Quốc tăng ngân sách quân sự khiến nhiều nước trong khu vực lo ngại

BBC: Hoa Kỳ và Nhật Bản sẽ phản ứng thế nào nếu một cuộc chiến xảy ra, thưa ông?

Giáo sư Carl Thayer: Việt Nam đang sở hữu hệ thống tên lửa hành trình rất mạnh, có thể bắn đến tận đảo Hải Nam hoặc đảo Phú Lâm.

Nếu một cuộc giao tranh xảy ra, trên lý thuyết, các nước có thể lập một phòng tuyến nhằm cô lập đường hàng hải của Trung Quốc với mục tiêu ngăn Trung Quốc tiếp tục tấn công.

Trừ khi Trung Quốc muốn phải đối đầu với cả hải quân của Nhật và Hoa Kỳ, các đường cung cấp dầu khí trên biển của họ sẽ bị chặn. Và đây là điểm yếu mà các học giả Trung Quốc gọi là “thế tiến thoái lưỡng nan ở Malacca”. Không chỉ riêng eo biển Malacca mà cả eo biển Hormuz cũng là một điểm yếu của Trung Quốc.

Tuy nhiên để duy trì một vùng cách ly như vậy sẽ rất khó khăn và cần đến sự tham gia của hải quân từ nhiều nước.

Nhật Bản cũng có thể sử dụng hải quân để khống chế không cho các hạm đội của Trung Quốc tiếp tục tấn công Việt Nam.

Tất nhiên, đây chỉ hoàn toàn là giả thiết vì đến nay hải quân Nhật Bản vẫn chỉ được sử dụng cho mục đích tự vệ. Tôi vẫn cho rằng Nhật Bản sẽ rất thận trọng trước các động thái gây hấn của Trung Quốc.

Giáo sư Carl Thayer cho rằng giàn khoan của Trung Quốc không phải để thăm dò dầu khí

BBC: Hiện Trung Quốc đang phải chi rất nhiều tiền để giữ cho giàn khoan hoạt động ở vị trí hiện nay, một số tin nói là hàng trăm nghìn đôla một ngày, có tin nói là cả triệu đôla một ngày. Nhưng Việt Nam nói những hoạt động thăm dò trước đây của họ cho thấy không có dầu ở đó. Bên cạnh đó, Trung Quốc và Nga vừa ký với nhau một thỏa thuận khí đốt. Theo ông vì sao Trung Quốc lại chọn đặt giàn khoan ở vị trí hiện nay?

Giáo sư Carl Thayer: Trước hết thỏa thuận khí đốt Nga-Trung là vấn đề dài hạn. Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng thiếu nhiên liệu ngày một nghiêm trọng.

Khi có mặt ở Hà Nội vào thời điểm tranh chấp xung quanh giàn khoan mới bắt đầu, tôi đã nói chuyện với một số nhà ngoại giao nước ngoài và họ nói rằng các đồng nghiệp của họ ở Bắc Kinh cho biết Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) ban đầu được yêu cầu tiến vào khu vực lô 142 – 143 và CNOOC đã từ chối với lý do quá tốn kém.

Tuy nhiên cuối cùng họ vẫn nhận được lệnh phải tiến vào đó và được cho biết nhiệm vụ thăm dò dầu khí không phải là vấn đề ưu tiên.

Trung Quốc đã dự phòng phương án tháo gỡ căng thẳng bằng cách tuyên bố sẽ chỉ đặt giàn khoan ở vị trí này từ ngày 2/5 đến ngày 15/8.

Tuy nhiên điều mà chúng ta chưa nghĩ đến là khi giàn khoan này thôi hoạt động và rời đi, Trung Quốc có thể đưa một giàn khác nhỏ hơn để thế chỗ dưới sự canh gác chặt chẽ.

Bên cạnh đó, thời điểm mà Trung Quốc tuyên bố sẽ rút lui giàn khoan vào tháng Tám có thể chỉ đơn thuần là do để tránh mùa bão thường xảy ra từ tháng Chín – Mười trong khu vực.

Trung Quốc rõ ràng là đang phải chi rất nhiều, không chỉ cho giàn khoan đắt tiền của họ, mà còn cho cả hơn một trăm tàu đang hoạt động quanh đó – quy mô chưa từng thấy từ sau Đệ nhị Thế chiến.

Điều này cho thấy đây không chỉ đơn thuần là hoạt động thăm dò dầu khí.

Một nhà phân tích nói với tôi rằng dầu khí tập trung chủ yếu ở phía nam của Biển Đông. Tuy nhiên với nhu cầu hiện nay của Trung Quốc, những mỏ này sẽ cạn rất nhanh.

Trung Quốc đã phải trải qua bao nhiêu phiền phức như hiện nay, chỉ để khai thác những nguồn nhiên liệu rất có hạn như thế, rõ ràng không phải là một cách huy động vốn hiệu quả. Từ đó có thể thấy điều này là nhằm một mục đích khác.

Tôi nghĩ là chúng ta đã không thấy hết được tính nghiêm trọng của việc thành lập Thành phố Tam Sa và đồn trú quân ở đó, cũng như ban hành luật đánh bắt trên các vùng biển quanh đảo Hoàng Sa và Phú Lâm.

Trung Quốc đang muốn có một điểm tựa vững chắc ở phía bắc Biển Đông để từ đó tiếp tục tiến về phía nam. Trong thời gian tới, chúng ta có thể sẽ thấy Bắc Kinh thiết lập một vùng nhận dạng phòng không xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Hải Nam.

Có thể nói rằng hành động đưa giàn khoan vào Biển Đông là để đánh dấu chủ quyền.

Căng thẳng sẽ hạ nhiệt sau khi Việt Nam bồi thường cho Trung Quốc và gửi phái đoàn ngoại giao sang Bắc Kinh?

BBC:Trung Quốc nói sẽ chấm dứt hoạt động thăm dò dầu khí vào tháng Tám. Tuy nhiên ông có cho rằng Bắc Kinh sẽ thay đổi kế hoạch vì ngại Việt Nam sẽ nhân đó để tuyên bố chiến thắng trong tranh chấp lần này không?

Giáo sư Carl Thayer: Hiện chúng ta đang chứng kiến một sự đối đầu được tính toán rất kỹ lưỡng. Trung Quốc vẫn khẳng định chủ quyền của mình và Việt Nam vẫn kiên quyết phản đối.

Từ khi tranh chấp xung quanh vấn đề giàn khoan xảy ra, Việt Nam đã đề nghị thiết lập một đường dây nóng với Trung Quốc và bị Bắc Kinh từ chối.

Phía Việt Nam cũng đã hai lần đề nghị Bắc Kinh cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc, nhưng cũng bị từ chối.

Các cuộc bạo động nhằm vào Trung Quốc lại càng làm cho vấn đề thêm rắc rối.

Tuy nhiên tôi nghĩ rằng sau khi Việt Nam đã giải quyết xong hậu quả của các cuộc bạo động, bồi thường cho Trung Quốc và giúp các doanh nghiệp Trung Quốc quay trở lại sản xuất, Bắc Kinh sẽ sớm đón tiếp các phái đoàn cấp cao của Việt Nam.

Trong 4 năm qua, đã có hai phái đoàn đặc biệt như vậy được cử sang Trung Quốc để giải quyết xung đột trên Biển Đông và mỗi lần như vậy, căng thẳng đều được tháo ngòi.

Có thể là ngày 15/8 tới đây, Trung Quốc sẽ rút giàn khoan, tuyên bố là đã hoàn tất mục tiêu, trong khi Việt Nam tuyên bố đã giữ vững lập trường chống đối của mình.

Tuy nhiên câu hỏi ở đây là Trung Quốc có mang một giàn khoan nhỏ hơn tới để thay thế cho giàn khoan hiện nay hay không? Nếu điều đó xảy ra, Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì sự hiện diện của mình, và Việt Nam sẽ khó thay đổi điều đó vì mỗi lần họ tìm cách tiếp cận, tàu của Trung Quốc sẽ quay trở lại.

Thế nhưng quan hệ giữa hai nước đã rất tốt và việc tìm một lối ra cho căng thẳng hiện nay sẽ phục vụ cho lợi ích của cả hai bên.

Trung Quốc đang muốn xây dựng đường nối miền nam nước này với các nước ASEAN, và tuyến đường đó sé đi xuyên qua Việt Nam. Đó là chưa kể những quan hệ hợp tác của hai nước trong nhiều lĩnh vực khác.

Trung Quốc cũng sẽ không muốn đẩy Việt Nam về phía Hoa Kỳ hoặc tăng cường sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Philippines và ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc ở đó.

Liệu Việt Nam có thể lấy Philippines làm trung gian để thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ?

BBC: Ông nghĩ như thế nào về chuyến đi của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Philippines vừa qua? Ông có nghĩ là Việt Nam đang muốn sử dụng các đồng minh của Hoa Kỳ làm trung gian để thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ hay không?

Giáo sư Carl Thayer: Đó là một câu hỏi thú vị. Trước chuyến thăm của ông Dũng thì quan hệ Việt Nam – Philippines vẫn đang tiến triển khá tốt. Tuy nhiên cả hai nước, đặc biệt là Philippines, đều là những nước yếu trong khu vực.

Cả hai đã lên kế hoạch cho hải quân diễn tập chung, nhưng kế hoạch này đã bị hủy bỏ trước sự phản đối của Trung Quốc.

Tuy nhiên bây giờ cả hai đang đối mặt với cuộc chơi hoàn toàn khác. Hành động của Trung Quốc hiện nay là chưa có tiền lệ và rất đáng lo ngại.

Việt Nam đã làm việc với ASEAN và việc tăng cường quan hệ với Philippines giữa lúc nước này đang thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ có thể sẽ giúp cả hai nước củng cố về an ninh.

Việt Nam có thể khuyến khích Hoa Kỳ tăng cường hiện diện và sử dụng Philippines làm trung gian với Hoa Kỳ nếu cảm thấy một mối quan hệ trực tiếp là quá khó.

Chính sách của Việt Nam có ba không, đó là không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không tham gia liên minh quân sự và không cùng với một nước chống lại nước thứ ba. Chính sách đó vẫn không thay đổi.

Vấn đề ở đây là không có tàu nào của Hoa Kỳ, dù mạnh đến đâu, có thể đẩy lùi giàn khoan của Trung Quốc và vì vậy, để bảo vệ lợi ích của mình, Việt Nam cần cùng với Philippines mở ra một mặt trận mới để Philippines có thể cùng Hoa Kỳ có hành động chống lại Trung Quốc.

Hiện cũng có tin nói rằng Việt Nam có thể áp dụng hành động pháp lý với Trung Quốc, theo như thông tin mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra, dù không rõ chi tiết. Điều này có thể sẽ củng cố cho lập trường pháp lý của Philippines hiện nay trong đơn kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế.

Nếu Trung Quốc thua kiện thì đường chín đoạn của họ sẽ bị tuyên là bất hợp pháp. Luật pháp quốc tế quy định phán quyết của tòa phải được thi hành ngay lập tức, không được kháng lại.

Trung Quốc có thể sẽ phản đối nhưng điều đó đồng nghĩa với việc họ bị cô lập vì đó là một quyết định của quốc tế.

Một quyết định như vậy cũng sẽ giúp các bên có yêu sách khẳng định chủ quyền của mình trên biển, ở những nơi mà Trung Quốc tuyên bố thuộc chủ quyền của họ, nhưng luật pháp quốc tế lại không xem như vậy.

Washington đã thỏa hiệp với Hà Nội về nhân quyền?

BBC: Lập trường của Washington là Hà Nội cần có một quan điểm chính trị cởi mở hơn và tôn trọng nhân quyền. Thế nhưng đối với Hoa Kỳ, căng thẳng hiện nay cũng là mối đe dọa đến ổn định trong khu vực và tự do hàng hải. Liệu Washington có chủ động thỏa hiệp hay không? Hay họ sẽ đợi sự thỏa hiệp từ Hà Nội?

Giáo sư Carl Thayer: Hoa Kỳ không chỉ là một, mà chúng ta có chính quyền Obama và Quốc hội. Và theo ý kiến của tôi, chính quyền Obama đã thỏa hiệp với Hà Nội rồi.

Chúng ta còn nhớ trước khi Chủ tịch Trương Tấn Sang sang thăm Hoa Kỳ, các chính trị gia cao cấp của Hoa Kỳ đã đề nghị Hà Nội phải có tiến triển về nhân quyền.

Bất chấp những lời kêu gọi này, Việt Nam lại thực hiện thêm nhiều vụ bắt giữ khác.

Ông Sang sau đó vẫn sang Hoa Kỳ và mang về hiệp định đối tác toàn diện.

Các báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về nhân quyền, mặc dù nhận định rằng nhân quyền tại Việt Nam vẫn đang tiến triển một cách không đồng đều, nhưng cũng ghi nhận ngày càng có nhiều nhà thờ được phép hoạt động hơn.

Các nhà ngoại giao tôi gặp ở Hà Nội cũng cho rằng nhân quyền tại Việt Nam vẫn tiến triển và Hà Nội đang từng bước đáp ứng các chỉ tiêu do Hoa Kỳ đề ra.

Như vậy, chúng ta thấy là chính quyền Obama thì cho rằng Việt Nam đang đáp ứng yêu cầu của Hoa Kỳ, trong khi Quốc hội lại dựa trên hàng loạt vụ bắt bớ các blogger và nhà bất đồng chính kiến gần đây để bác bỏ điều đó.

Tuy nhiên tôi cho rằng cuối cùng thì những lợi ích mang tính chiến lược vẫn sẽ được đặt lên trên nhân quyền.

Hành động của Trung Quốc, mặc dù ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam, nhưng cũng đe dọa đến sự ổn định trong khu vực.

Điều này buộc Hoa Kỳ phải lựa chọn và tôi nghĩ rằng nhân quyền sẽ bị xem là phụ.

 

VN ‘xem xét hành động pháp lý’ với TQ

VN ‘xem xét hành động pháp lý’ với TQ

Thứ năm, 22 tháng 5, 2014

Ông Dũng tìm kiếm sự đoàn kết từ Philippines trên vấn đề Biển Đông

Việt Nam ‘đang xem xét’ hành động pháp lý với Trung Quốc, các hãng tin Reuters và AP đưa tin.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng viết trong email trả lời câu hỏi của hãng Anh Reuters hôm thứ Tư ngày 21/5 khi ông đang ở thăm Manila rằng chính phủ của ông đang xem xét “các phương án tự vệ khác nhau, trong đó bao gồm các hành động pháp lý phù hợp với luật pháp quốc tế.”

“Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng Việt Nam sẽ kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền biển đảo, là thiêng liêng,” ông nói.

Đây là lần đầu tiên Thủ tướng Dũng đánh tiếng cho biết phía Việt Nam sẽ có hành động pháp lý với Trung Quốc, động thái có thể sẽ khiến Bắc Kinh nổi giận, Reuters nhận định.

Hãng tin Mỹ AP cũng nhận được câu trả lời của ông Dũng. Theo tường thuật của hãng tin này thì ông Dũng nói ‘Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền nhưng sẽ không bao giờ dùng đến hành động quân sự trừ khi chúng ta buộc phải có hành động tự vệ’.

Tuy nhiên ông Dũng không nói rõ Việt Nam sẽ có hành động pháp lý gì.

Khi được hỏi liệu Việt Nam có mạo hiểm chiến tranh với Trung Quốc để giải quyết tranh chấp hay không, ông Dũng viết trong email gửi AP: “Giải pháp quân sự? Câu trả lời là Không.”

“Việt Nam đã chịu rất nhiều đau thương mất mát trong những cuộc chiến tranh xâm lược trong quá khứ. Chúng tôi sẽ không bao giờ dùng biện pháp quân sự trước tiên và sẽ không bao giờ đơn phương khởi đầu một cuộc xung động quân sự trừ phi chúng tôi bị buộc phải tự vệ,” email viết.

“Việt Nam đã chịu rất nhiều đau thương mất mát trong những cuộc chiến tranh xâm lược trong quá khứ. Chúng tôi sẽ không bao giờ dùng biện pháp quân sự trước tiên và sẽ không bao giờ đơn phương khởi đầu một cuộc xung động quân sự trừ phi chúng tôi bị buộc phải tự vệ.”

Email của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi AP

Cũng theo AP thì ít nhất hai nhà ngoại giao của Việt Nam đã nói với họ rằng Việt Nam sẽ đệ đơn kiện riêng rẽ hoặc tham gia vào vụ kiện của Philippines.

Một quan chức cấp cao trong Chính phủ Philippines nói với AP rằng ông Dũng và các quan chức Việt Nam khác đã nêu vấn đề này với người đồng cấp Philippines của họ trong các cuộc họp kín hôm 21/5.

Vụ kiện của Manila

Trước đó, Philippines cũng trình lên tòa án trọng tài ở The Hague yêu cầu xem xét đòi hỏi chủ quyền của Philippines ở Biển Đông cũng như xác nhận quyền của họ được quyền khai thác vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế theo Công ước Quốc tế về Luật Biển (Unlos).

Bắc Kinh đã từ chối tham gia vào vụ kiện và cảnh báo Philippines rằng việc này sẽ ‘làm tổn thương nghiêm trọng’ quan hệ giữa hai nước.

Nếu tòa ra phán quyết bất lợi cho Bắc Kinh thì điều này có thể thúc đẩy các quốc gia có tranh chấp khác trên Biển Đông kiện Bắc Kinh, các chuyên gia nhận định.

Tuy nhiên bất kỳ phán quyết nào cũng khó mà thực thi trên thực tế bởi vì không có cơ quan nào trong khuôn khổ Unclos giám sát các phán quyết này, theo các chuyên gia pháp lý.

Hôm 21/5, trong một động thái thể hiện tình đoàn kết trước Bắc Kinh, Thủ tướng Dũng nói Việt Nam và Philippines quyết tâm chống lại việc Bắc Kinh ‘xâm phạm vùng biển’ của họ và kêu gọi thế giới lên án hành động của Bắc Kinh.

Dưới Lớp Tro Tàn

Dưới Lớp Tro Tàn

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

“Cùng với các tổ chức Xã Hội Dân Sự khác, Lao Động Việt cần phải được công khai hoạt động tại VN để hướng dẫn cho công nhân, từng bước thành lập các nghiệp đoàn của mình.”

Trần Ngọc Thành (Chủ Tịch Liên Đoàn Lao Động Việt Tự Do)

Báo Người Việt, số phát hành vào ngày 14 tháng 5 năm 2014, có phóng sự (“Đến Bình Dương Sau Ngày Công Nhân Biểu Tình Bạo Động”) của ký giả Phùng Thức – gửi từ Việt Nam – với bức ảnh đính kèm, cùng với ghi chú: Những biểu ngữ đơn sơ và đống tro tàn bạo động đêm 13 tháng 5 của công nhân Bình Dương.

Hai hôm sau (xem chừng “đống tro tàn” đã nguội) nên cũng trên diễn đàn này, lại có bản tin ngắn, với sự “khẳng định” (nghe) chắc như bắp của một quan chức cao cấp của Việt Nam:

Ông Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng Kế hoạch – Đầu tư đã ký một văn bản gửi các sứ quán, các hiệp hội doanh nghiệp ngoại quốc, khẳng định: Bạo động trong thời gian vừa qua là tự phát và có yếu tố kích động. Nhà cầm quyền Hà Nội “rất lấy làm tiếc” và đã triển khai các biện pháp để ngăn chặn ngay lập tức các hành động bạo động, bảo đảm điều đó sẽ không tái diễn.

Dân Việt vốn can đảm, và tôi cũng đã có hân hạnh quen biết rất nhiều người rất gan dạ nhưng chưa thấy ai “liều lĩnh” cỡ như nhân vật Bùi Quang Vinh này:

“Nhà cầm quyền Hà Nội ‘rất lấy làm tiếc’ và đã triển khai các biện pháp để ngăn chặn ngay lập tức các hành động bạo động, bảo đảm điều đó sẽ không tái diễn.

Ông Bộ Trưởng – rõ ràng – đánh giá hơi quá cao về khả năng đàn áp của “nhà cầm quyền Hà Nội,” và dường như không biết gì ráo trọi về đời sống của giới công nhân Việt Nam hiện nay. Để rộng đương dư luận, xin xem qua đôi lời tâm sự của một độc giả (có bút danh là Rùa Vàng) đăng trên blog Hiệu Minh – vào hôm 13 tháng 5 vừa qua:

“Rùa làm việc tại công ty D.A gia công đồ gỗ xuất khẩu cho Plantation Grown Timbers của Úc, ông chủ lâu lâu xuống xưởng một lần, lần nào ông xuống lại nổi cơn lôi đình, quát mắng, chửi bới lung tung vì những lý do hết sức lãng xẹt. Một hôm ông ta chửi một công nhân có kinh nghiệm 10 năm làm gỗ, sau 30 phút lăng mạ ông ta đuổi việc người công nhân đó luôn. Gần như ko có ai trong số khoảng 150 người từ quản đốc đến công nhân không bị chửi.

Buổi sáng khi mặt trời còn đang bận tiễn chân chú Cua rời WB, thì ở Bình Dương công nhân đã lò mò thức dậy đi làm, tối mặt trời lặn lâu lắm rồi họ mới về nhà. Trên đường về ghé qua chợ đêm mua đại cái gì đó rồi nấu cơm, ăn uống tắm giặt nữa là đến 21h. Trong nhà ko ti vi, báo chí và chẳng có đồ đạc gì có giá trị, ngoài mấy chiếc xe đạp, một nồi cơm điện, một bếp ga mini, một bình nước lọc. Đời sống công nhân đơn điệu và buồn tẻ một cách kinh ngạc. Chỉ lâu lắm mới có một đoàn pê đê đến biểu diễn ở ven KCN họ mới có dịp kéo nhau đi chơi.

Về lương, em mới vào làm lương 870.000đ một tháng, ngày nào cũng tăng ca đến 20h tối mới về và làm 4 chủ nhật, tiền công tháng đầu tiên em kiếm đc 1.200.000đ. Tháng thứ 2 lương cơ bản sẽ lên 960.000 ngàn, những tưởng tháng này kiếm được nhiều tiền hơn, nhưng tháng đó giám đốc kêu công ty lỗ nay giảm lương, ai muốn làm thì làm không làm thì thôi, vậy là tháng thứ hai em cũng chỉ kiếm đc 1.200.000 ngàn.”

Số tiền lương quá khiêm tốn, như trên, đã khiến nhiều người phải trải qua những cảnh đời vô cùng nghiệt ngã:

“Tôi lấy vợ được 4 năm rồi. Cô ấy là người ở vùng núi Vĩnh Cửu (Đồng Nai), làm chung công ty với nhau. Vẫn biết đời sống khó khăn nên hai người chỉ biết nương nhau mà sống. Từ hồi bé Trà My ra đời, cuộc sống của hai vợ chồng càng cơ cực hơn nữa vì nhiều chi phí phải dành cho con như tiền sữa, tiền bột, tiền quần áo, đồ dùng cho trẻ… mà vợ thì phải nghỉ làm ở nhà trông con. Khi bé được đúng 1 tuổi, vợ chồng đành phải gửi con ở nhà trẻ tự phát gần khu trọ để đi làm chứ một mình tôi lo không xuể. Mấy ngày đầu, bé xa cha mẹ nên khóc suốt, lại không ăn uống gì nên người cứ lả đi, rồi ốm.

Thế là lại xin nghỉ, cả hai đưa con đi Bệnh viện Nhi đồng 1 dưới quận 10 mà cả nhà chỉ còn hơn 600 ngàn đồng. Vừa đợi khám bệnh cho con, vừa lo lắng không biết có đủ tiền hay không nữa. Thấy vậy, cả hai chỉ biết quay đi, nhìn con mà rơi nước mắt. Như hiểu được nỗi lòng của vợ chồng tôi, có một bác bán cà phê cóc ở cổng bệnh viện bảo, nếu thiếu tiền khám bệnh cho con thì cứ sang bên Bệnh viện Chợ Rẫy mà bán máu kiếm tiền, dễ lắm. Hỏi kỹ ra mới biết, mỗi lần đi bán máu như vậy thu được gần 500 ngàn đồng mà cũng không ảnh hưởng gì tới sức khỏe của người bán. (Khánh Hoà, “Nghiệt Ngã Phận Đời Làm Công Nhân,” báo Dân Việt 16 tháng 02 năm 2014).

Bán máu, tuy thế, vẫn chưa phải là bước đường cùng. Đôi lúc, không ít nữ công nhân còn phải bán dâm để sinh tồn – theo tường thuật của ký giả Nguyễn Bay, báo Tuổi Trẻ Online:

“Một ngọn đèn dầu, cái giỏ nhựa đựng đồ nghề đấm bóp, giác hơi, chiếu cói, gối hoa trải sẵn hoặc chỉ là một tấm áo mưa. Thợ giác hơi quanh KCN Tân Tạo đa số là nữ với các ‘chiếu’ trên vỉa hè, ven đường, thậm chí chỉ một mô đất giữa ruộng; hoạt động từ 18g30 đến 3-4 giờ sáng…”

“Gần một năm nay, các ‘chiếu’ giác hơi ngày một dài thêm hàng cây số (đường đi Long An, An Sương). Lúp xúp trong bụi cây, bờ cỏ, chúng tôi nhận ra nhiều thợ vốn là công nhân… Những khi tan ca, họ lẫn vào dòng thợ ‘chào hàng’…. Tiền công 10.000 – 15.000 đồng/lần, bằng nửa ngày công .. làm thợ.”

Dẫy chiếu “ngày một dài thêm” vì vật giá mỗi lúc một tăng mà đồng lương thì không. Lương bổng công nhân Việt Nam không thể nào nâng cao hơn vì những người lãnh đạo ở xứ sở này đã lựa chọn một … quốc sách thấp – theo lời ông Hồ Xuân Lâm, trưởng phòng quản lý lao động các khu chế xuất – khu công nghiệp TP.HCM:

“Chúng tôi đã có cuộc họp với Hiệp hội Doanh nghiệp Đài Loan và tư vấn cho họ hãy trả lương cao hơn để tránh đình công. Họ nói là rất muốn trả cao hơn nhưng không thể vì quy định lương của Chính phủ Việt Nam quá thấp, các đối tác nước ngoài dựa vào đó kềm giá đơn hàng nên có muốn cũng không thể tăng hơn được”.

Khu nhà trọ nam công nhân rách nát gần cổng Khu công nghiệp Tân Tạo –

“điểm hẹn” của những “chiếu giác hơi” công nhân – Ảnh và chú thich: N.B.

Từ nhiều năm trước Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã đưa ra một nhận định rất buồn:

“Việt Nam đã bỏ cuộc trong cuộc chạy đua tri thức và kỹ thuật, hoạt động kinh tế chỉ còn tập trung trong các ngành đòi hỏi những kỹ năng thấp (đồ gỗ, may mặc, giầy dép, thực phẩm …). Những sản phẩm này đang bị cạnh tranh rất gay gắt từ những quốc gia chậm tiến sẵn sàng chấp nhận đồng lương rẻ mạt.”

Tôi còn không tin rằng giới lãnh đạo Việt Nam đã từng có lúc cố gắng (trước khi bỏ cuộc) “chạy đua tri thức và kỹ thuật” với những quốc gia lân cận. Bằng chứng là hiện nay chúng ta vẫn chưa tự làm nổi cái đinh vít cho ra cái đinh vít – theo như tường thuật của ký giả Quang Đông, báo Tiền Phong!

Mọi chủ trương lớn của Đảng và Nhà Nước đều thiển cận (theo kiểu mì ăn liền) nên chỉ chuyên chú vào việc khai thác ngay mọi tài nguyên thô sẵn có, cũng như nhân nguồn lực rẻ mạt của công nhân – kể cả lao động nước ngoài – để “vét” cho thật nhiều và thật nhanh thôi.

Người bị vơ vét – lúc cần mua một cái toa thuốc cho con khi đau ốm, hay một món tiền nhỏ gửi cho bố mẹ già ở quê nhà – phải đi bán máu, hoặc bán dâm. Kẻ có quyền vơ vét thì mua được mọi thứ.

Họ mua  “rau sạch ở Thiên Đường Xanh; đồ Tây lấy ở cửa sau khách sạn Sofitel ; bánhngọt ở L’Indochine ; bánh bao hiệu Tâm Tâm, bánh mì ở Hilton cạnh Nhà hát lớn ; đường, dấm, muối, xì dầu và gạo Thái Lan ở Westside, ốc lại lên tận Tây Hồ, còn đồ khô đến chợ Hàng Bè…” – theo như lời của nhà văn Phạm Thị Hoài.

Họ cũng có thể thưởng thức những tách cà phê hay những tô phở trị giá (cỡ) … nửa triệu đồng, tương đương với tiền lương hàng tuần của một công nhân!

Tôi không tin rằng hiện trạng chênh lệch bất công này sẽ kéo dài được mãi. Tôi cũng không nghĩ rằng những đống tro tàn sau những đám cháy vì bạo loạn ở Bình Dương đã hoàn toàn nguội lạnh, và nhà đương cuộc Hà Nội vẫn cứ có khả năng “triển khai các biện pháp để ngăn chặn ngay lập tức các hành động bạo động, bảo đảm điều đó sẽ không tái diễn ” – như lời hứa hẹn của ông Bộ Trưởng Kế hoạch / Đầu Tư, vào hôm 16 tháng 5 vừa qua.

Bên dưới lớp tro tàn hiện nay (e) vẫn còn những hòn than vẫn đang âm ỉ cháy. Trong tương lai gần không cần đến cái một giàn khoan dầu, một cái “tầu lạ” xuất hiện ở lãnh hải Việt Nam (hay sự kích động của bất cứ “kẻ xấu” nào) mà chỉ cần một cơn gió thoảng cũng vẫn có thể bùng lên những ngọn lửa bạo loạn ở rất nhiều nơi.

Hơn mười năm trước tướng Trần Độ đã có lời cảnh báo:”Đổi mới hay là chết.” Dường như, giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay đã nhất định tìm … cái chết!

Việt – Mỹ điện đàm về vụ giàn khoan

Việt – Mỹ điện đàm về vụ giàn khoan

Thứ tư, 21 tháng 5, 2014

Bộ trưởng Phạm Bình Minh từng gặp Bộ trưởng John Kerry ở hội nghị Asean tháng Bảy 2013

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh có cuộc điện đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Kerry về căng thẳng với Trung Quốc.

Trang web Bộ Ngoại giao Việt Nam nói cuộc điện đàm diễn ra sáng 21/5.

Việt Nam nói ông Phạm Bình Minh đã cập nhật cho ông John Kerry về việc Trung Quốc “đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”.

Theo Ngoại trưởng Minh, Trung Quốc “liên tục gia tăng số lượng tàu, trong đó có tàu hộ vệ tên lửa, tàu tuần tiễu tấn công nhanh và tàu đổ bộ lớn”.

Ông Phạm Bình Minh nhắc lại “Việt Nam đã hết sức kiềm chế, kiên trì thông qua đối thoại, tránh xung đột, đồng thời kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và các tàu hộ tống khỏi khu vực”.

Cũng theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, Ngoại trưởng Mỹ trả lời rằng ông “đánh giá cao sự kiềm chế và thiện chí của Việt Nam thể hiện trong việc kiên trì sử dụng các biện pháp hòa bình và đối thoại, không để căng thẳng leo thang”.

Ông John Kerry xem giàn khoan của Trung Quốc là “hành động khiêu khích, làm tăng thêm căng thẳng trong khu vực”.

Ngoại trưởng Mỹ tái khẳng định lập trường về việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông “một cách hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982”.

Cũng trong cuộc đối thoại, Ngoại trưởng Việt Nam nói Việt Nam “sẵn sàng phối hợp với Hoa Kỳ triển khai các biện pháp cụ thể nhằm tiếp tục thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ theo tinh thần quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước”.

Căng thẳng

Đại sứ Trung Quốc Thôi Thiên Khải đã công kích Việt Nam

Cuộc điện đàm được Việt Nam công bố dường như cho thấy cố gắng xích lại gần với Washington của Hà Nội trong bối cảnh Bắc Kinh không nhượng bộ về vụ giàn khoan.

Trong diễn biến mới nhất, Đại sứ Trung Quốc ở Mỹ công kích Việt Nam.

Trả lời đài Mỹ CNN hôm 20/5, Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ Thôi Thiên Khải nói công ty Trung Quốc hoạt động “tại vùng biển cách đảo Trung Quốc 17 hải lý, trong khi vùng biển này cách bờ biển Việt Nam 150 hải lý”.

“Thứ hai, đây là giàn khoan duy nhất của chúng tôi tại khu vực này. Nhưng Việt Nam đang có hơn 30 giàn khoan, đều nằm trong khu vực tranh chấp. Giàn khoan duy nhất của chúng tôi nằm ở vùng biển không hề có tranh chấp.”

Đại sứ Thôi nói tiếp: “Thứ ba, chúng tôi chỉ có tàu chính phủ và dân sự tại đó, nhưng Việt Nam có tàu quân sự, tàu vũ trang, đây là sự thật.”

Ông Thôi Thiên Khải cũng nhắc về các vụ bạo động ở Việt Nam.

“Họ tấn công các công ty nước ngoài, đốt nhà máy, giết người vô tội. Những gì đang xảy ra ở Việt Nam cũng cùng bản chất như những gì đang xảy ra trên biển,” Đại sứ Trung Quốc lớn tiếng.

Chính phủ Việt Nam cho biết đã 20 lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan.

Tuy vậy đến nay không có dấu hiệu cho thấy Trung Quốc nhượng bộ.

 

Lệ thuộc Trung Quốc: đe dọa an ninh quốc gia

Lệ thuộc Trung Quốc: đe dọa an ninh quốc gia

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-05-19

072_K76605-600.jpg

Vận chuyển hàng hóa từ TQ qua VN bằng đường bộ qua biên giới Lào Cai. Ảnh chụp hôm 10/5/2014.

AFP photo

Trong hai thập niên vừa qua kinh tế Việt Nam ngày càng lệ thuộc Trung Quốc. Chính sách trải thảm đỏ ưu đãi nhà đầu tư Trung Quốc đang thực tế gây ra mối quan ngại về an ninh cho Việt Nam. Trong nguy cơ mất biển vào tay Trung Quốc chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, Nam Nguyên ghi nhận một số ý kiến chuyên gia về vấn đề liên quan.

“Lãnh địa” của TQ ở VN

Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành hiện sống và làm việc ở Hà Nội đặc biệt quan tâm về mối nguy của Việt Nam do lệ thuộc Trung Quốc quá nhiều lĩnh vực. Chủ quyền biển đảo đang bị xâm phạm, nhưng vị chuyên gia Việt kiều cho thấy một sự đe dọa cực kỳ lớn tiềm ẩn trong nội địa Việt Nam. Ông nói:

“Lệ thuộc Trung Quốc có nhiều điều đang xảy ra ở Việt Nam, ví dụ Trung Quốc thuê rất nhiều khu vực ở ngay biên giới Việt Nam và Trung Quốc, thời hạn 50 năm-70 năm các vị lãnh đạo các tỉnh vùng biên giới cho Trung Quốc thuê như thế nào? Được biết một dãy dài dọc theo biên giới đã cho Trung Quốc thuê, đấy là một cách lệ thuộc. Hai nữa, ví dụ đã cho Trung Quốc thuê vùng Hà Tĩnh gần cảng Vũng Áng thời hạn cũng 50-70 năm nơi có nguyên một khu cảng như thế dọc bờ biển Hà Tĩnh dài 15-17 km thì như vậy sẽ như thế nào?”

Từ những thông tin vừa nêu, chuyên gia Bùi Kiến Thành cảnh báo mối đe dọa an ninh quốc phòng rất nguy hiểm cho Việt Nam. Ông nói:

” Rất khó, vì nhập khẩu từ Trung Quốc còn có phần tiểu ngạch đi qua biên giới một cách không chính thức. Mỗi ngày người ta đưa hàng hóa từ Trung Quốc vào mà ở đây có hai, ba vấn đề.
– Chuyên gia Bùi Kiến Thành”

“Vùng Vũng Áng-Hà Tĩnh đó đối diện và gần với Hải Nam. Nếu ngày nào Trung Quốc xây dựng cảng Vũng Áng ấy mà bên Hải Nam chĩa qua ngay Vũng Áng, thì có thể nói Vịnh Bắc Bộ sẽ trở thành một ao hồ của Trung Quốc và nó ngăn cản sự vận chuyển giao thông hàng hải của Việt Nam từ Bắc vào Nam, sẽ ra sao đây? Ngoài ra nó có những nguy cơ về quốc phòng, từ cảng Vũng Áng đi qua Lào chỉ có 50 km thôi. Như vậy nếu có vấn đề gì thì làm sao có thể phòng thủ khi Trung Quốc từ bên Lào đi qua Vũng Áng, 50km chạy ô tô vài tiếng đồng hồ là có thể cắt đôi Việt Nam ra hai khúc.”

Hồi trung tuần tháng 3/2014 chuyên gia kinh tế TS Lê Đăng Doanh, người được biết như một nhà phản biện độc lập hiện sống và làm việc ở Hà Nội từng bày tỏ quan ngại:

“Sự lo ngại trong công luận của Việt Nam rất là lớn, tôi cũng không hiểu tại làm sao mà trên lãnh thổ Việt Nam lại có các đơn vị Trung Quốc kinh doanh đóng kín như người dân ở đấy nói lại, như ở Hà Tĩnh công an vào họ cũng không cho vào. Như vậy ở đấy thành ra lãnh địa của Trung Quốc rồi chứ còn gì nữa! Và nhân kinh nghiệm ở Ucraina làm người ta cũng liên tưởng đến, nếu như ông Putin đã lấy lý do để bảo vệ kiều dân Nga ở Ucraina, thì cũng rất có thể đến một ngày nào đấy Trung Quốc lấy lý do để bảo vệ những công nhân Trung Quốc ở đấy, họ cũng sẽ làm một đòn tương tự thì lúc ấy sẽ ra làm sao?”

Lệ thuộc Trung Quốc thiên hình vạn trạng, chuyên gia Bùi Kiến Thành phân tích là từ đầu năm đến nay Trung Quốc đầu tư rất nhiều ở Việt Nam, một phần khác đầu tư vào bất động sản. Trung Quốc đầu tư vào mua những dự án bất động sản với giá rẻ bèo của những người phát triển dự án mà bây giờ buộc phải bán tháo bán đổ đi.

Ông Bùi Kiến Thành đặt vấn đề:

“Đi xa hơn chút nữa, nếu Trung Quốc đổ vào Việt nam 100 tỷ đô hay 1.000 tỷ đô Trung Quốc sẽ mua đứt luôn đất nước Việt nam này thì sẽ ra sao? Tất cả những chuyện ấy lãnh đạo nhà nước phải suy nghĩ xem, chúng ta có nên trải thảm đỏ ra để mời mà rước Trung Quốc vào đầu tư ở Việt Nam hay không. Và nếu Trung Quốc đầu tư ồ ạt thì liệu các doanh nghiệp Việt Nam có đứng vững hay không. Hiện nay đầu tư nước ngoài đã chiếm 68% xuất khẩu rồi, cả cái nước Việt Nam bao nhiêu trăm ngàn doanh nghiệp mà chỉ xuất khẩu được có 32%. Liệu ngày nào Trung Quốc đổ vào đây để đầu tư như thế thì ngoại thương Việt Nam sẽ ra sao tất cả chúng ta cần phải suy nghĩ.”

Làm thế nào để giảm lệ thuộc

image-250.jpg

Người dân biểu tình chống Trung Quốc hôm 11/5/2014. AFP photo

Viễn kiến và quan ngại của giới chuyên gia có đầy đủ cơ sở, nếu nhìn vào những diễn biến gần đây nhất, những vụ biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn chủ quyền biển đảo Việt Nam đã lan ra tới khu công nghiệp Vũng Áng tỉnh Hà Tĩnh. Bạo động giữa công nhân Trung Quốc và công nhân Việt nam làm 21 người chết gồm 15 Trung Quốc 6 Việt Nam, theo hãng tin uy tín của Anh Quốc Reuters. Bộ Ngoại giao Việt Nam cho là chỉ có 1 người Trung Quốc chết còn Bộ ngoại giao Trung Quốc xác nhận 2 công nhân Trung Quốc bị thiệt mạng.

Ngoài những quan ngại về chính sách ưu đãi nhà đầu tư Trung Quốc, nền kinh tế Việt Nam dựa trên xuất khẩu nhưng phụ thuộc phần lớn nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc. Năm 2013 Việt Nam nhập khẩu 39,6 tỷ USD hàng hóa và nguyên liệu Trung Quốc mà chỉ xuất khẩu qua Hoa lục được có 13,3 tỷ USD. Làm thế nào giảm lệ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc, chuyên gia Bùi Kiến Thành nhận định:

“Rất khó, vì nhập khẩu từ Trung Quốc còn có phần tiểu ngạch đi qua biên giới một cách không chính thức. Mỗi ngày người ta đưa hàng hóa từ Trung Quốc vào mà ở đây có hai, ba vấn đề. Một là về chất lượng hàng đấy có phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam hay không, nhiều báo cáo cho biết hàng hóa có chất độc trong đó, còn vấn đề đồ ăn bây giờ rất sợ có nhiều báo cáo cho thấy thực phẩm, hoa quả Trung Quốc đưa qua có nhiều chất độc, đồ dùng hàng ngày mà có nhiều chất độc thì sẽ ra sao.

” Lệ thuộc Trung Quốc có nhiều điều đang xảy ra ở Việt Nam, ví dụ Trung Quốc thuê rất nhiều khu vực ở ngay biên giới Việt Nam và Trung Quốc, thời hạn 50 năm-70 năm.
– Chuyên gia Bùi Kiến Thành”

Ngoài ra về vấn đề kinh tế thuần túy doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu rất nhiều nguyên liệu Trung Quốc, mình nói xuất khẩu hai mươi mấy tỷ đô la hàng may mặc, nhưng những hàng may mặc ấy có hơn 60% nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc. Tất cả những thứ đó cho chúng ta có cơ hội nhìn lại vấn đề ngoại thương với Trung Quốc và vấn đề khác là dưới chiêu bài kinh tế có vấn đề chính trị quốc phòng hay không thì Việt Nam phải thận trọng.”

Thành quả kinh tế xuất khẩu của Việt Nam tuy là xây dựng trên nền móng không vững chắc, nhưng nhà nước rất tự hào về thu nhập bình quân đầu người đạt mốc 1.900 USD/năm; theo cách tính lấy Tổng sản phẩm quốc dân chia đều cho dân số. Sau âm mưu xâm chiếm vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam, giả dụ Trung Quốc leo thang một bước trừng phạt kinh tế, Việt nam sẽ chịu ảnh hưởng tức thì và rất nặng nề.

Cũng chính vì thế giới chuyên gia cho rằng, vấn đề giảm lệ thuộc nhiều mặt vào Trung Quốc cần được xem xét khẩn cấp và có những bước thực hiện nghiêm túc. Nhất là trong bối cảnh Trung Quốc không chịu rút giàn khoan khổng lồ hạ đặt bất hợp pháp trên vùng biển Việt Nam.

Chỉ là chiến tranh tâm lý

Chỉ là chiến tranh tâm lý

Biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam.

Biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam.

Nguyễn Hưng Quốc

19.05.2014

Chung quanh vụ Trung Quốc mang giàn khoan HD-981 đến khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, nhiều người hốt hoảng tưởng một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc đang hoặc sắp sửa bùng nổ. Chưa biết vài ngày hay vài tuần hay vài tháng nữa thế nào, chứ hiện nay, theo tôi, đó chỉ là một cuộc chiến tranh tâm lý.

Vâng, chỉ là chiến tranh tâm lý.

Như tôi đã phân tích trong bài “Trung Quốc đã thắng trên Biển Đông”, mục tiêu chính của Trung Quốc khi mang giàn khoan HD-981 đến khu vực được xem là thuộc đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam không phải để đánh nhau. Với Trung Quốc hiện nay, một cuộc chiến tranh với Việt Nam, dù có thắng, cũng chưa chắc đã có lợi, đặc biệt, về phương diện kinh tế và quan hệ quốc tế, trong đó có hình ảnh phát triển trong hòa bình mà Trung Quốc đã đổ rất nhiều tiền bạc và công sức ra để xây dựng. Làm thế, có lẽ Trung Quốc chỉ nhắm đến hai mục tiêu chính: Một, trắc nghiệm phản ứng của Việt Nam, ASEAN và Mỹ; và hai, khẳng định chủ quyền của họ trên Biển Đông.

Về phía Việt Nam, chính quyền có một quyết định, tuy bị phê phán nặng nề, nhưng theo tôi, thành thực mà nói, khá hợp lý là cố gắng kiềm chế, không sử dụng bạo lực để dẫn đến chiến tranh với Trung Quốc. Một cuộc chiến tranh như thế, Việt Nam không thể thắng được. Hơn nữa, còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế vốn còn rất èo uột của Việt Nam. Nhưng, có điều, nếu Việt Nam không sử dụng bạo lực thì họ làm gì? Trên thực tế, như các bản tin được phát cho báo chí, họ chỉ cho tàu cảnh sát biển vờn tới vờn lui, húc qua húc lại và bắn súng nước… chơi. Làm như vậy, dĩ nhiên không thể thắng được Trung Quốc. Họ không thể đuổi được giàn khoan. Cũng không thể nhảy lên chiếm giàn khoan. Tất cả đều bất khả. Vậy thì tại sao người ta phải tốn tiền, tốn sức để làm một chuyện không có mục tiêu như vậy? Thực ra, hai mục tiêu mà Việt Nam nhắm tới và có thể làm được là: Một, lôi kéo sự chú ý của thế giới, từ đó, may ra, nhận được sự đồng cảm và/hoặc sự ủng hộ của các cường quốc hoặc các nước trong khu vực; và hai, chứng minh với dân chúng Việt Nam là chính quyền không… hèn: Họ cương quyết bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông. Cả hai mục tiêu ấy đều có tính chất tuyên truyền.

Dĩ nhiên, trò chơi tuyên truyền như vậy cũng nguy hiểm lắm. Chỉ cần húc nhau mạnh một chút, một chiếc tàu nào đó bị đắm, những người còn lại không thể kiềm chế, phản ứng theo bản năng, bất chấp mệnh lệnh từ trên, nổi điên bắn vài phát súng, làm chết vài người bên phe đối phương. Khi có máu đổ, chiến tranh cũng rất dễ bùng lên. Không ai biết trước được. Trên thế giới, từ xưa đến nay, có rất nhiều cuộc chiến tranh nổ ra một cách rất… lãng xẹt. Hy vọng đó không phải là trường hợp của chúng ta. Lần này.

Nếu xem cuộc tranh chấp hiện nay chỉ là một chiến tranh tâm lý và trên thực tế, nó chỉ là một cuộc chiến tranh tâm lý, có hai điều cần được ghi nhận ngay:

Thứ nhất, như tôi đã từng phân tích trong bài “Trung Quốc đã thắng trên Biển Đông”, cho đến nay, Trung Quốc đã thành công trong tất cả các mục tiêu họ đặt ra.

Thứ hai, điều đó cũng có nghĩa là Việt Nam đã thất bại: Họ không thể nào đuổi được Trung Quốc ra khỏi Biển Đông và cũng không thể tìm bất cứ đồng minh nào có thể giúp Việt Nam làm được điều đó.

Nhưng như vậy không có nghĩa là Việt Nam hoàn toàn tuyệt vọng. Nếu khôn ngoan, Việt Nam có thể lợi dụng tình thế hiểm nghèo và khá nhục này để chuyển bại thành thắng.

Bằng cách nào?

Có nhiều cách, nhưng cách thứ nhất là sử dụng hình ảnh ngang ngược của Trung Quốc trong cuộc xâm lăng thô bạo vùng biển của Việt Nam để giúp thế giới hiểu rõ những hiểm họa mà Trung Quốc có thể gây ra cho các quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và, về lâu về dài, cho cả thế giới. Nhận thức được hiểm họa ấy, người ta sẽ đoàn kết hơn để cùng chống lại Trung Quốc. Với sự đoàn kết ấy, may ra Việt Nam mới có thể xây dựng liên minh chiến lược với một số nước trong khu vực.

Trong cái gọi là liên minh trong khu vực này, hầu hết các nhà bình luận chính trị trên thế giới đều có hai ý kiến giống nhau: Một, Việt Nam nên loại bỏ ý định sử dụng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) như một liên minh để đối đầu với Trung Quốc. Lý do đơn giản: đó là một điều bất khả. Hầu hết các quốc gia trong khối đều có liên hệ kinh tế rất chặt chẽ với Trung Quốc. Sẽ không bao giờ có sự thống nhất nào cả, trừ phi Trung Quốc gặp khủng hoảng về kinh tế dài hạn. Hai, thực tế hơn, Việt Nam nên liên kết với các nước hiện đang có sự tranh chấp về biển và đảo với Trung Quốc: Malaysia, Philippines và Brunei (và có thể, Indonesia). Thật ra, Việt Nam và các quốc gia này cũng có những tranh chấp về lãnh hải, nhưng những tranh chấp ấy có những phạm vi khá nhỏ, không nghiêm trọng bằng những tranh chấp giữa họ với Trung Quốc (bao trùm đến 90% diện tích Biển Đông). Nếu khôn khéo và biết nhân nhượng nhau, họ có thể lập thành một mặt trận chung để đối đầu với Trung Quốc, từ đó, đòi hỏi Trung Quốc phải giải quyết vấn đề theo chiều hướng đa phương thay vì song phương như hiện nay. Nhờ thế, Việt Nam mới có thể quốc tế hóa các tranh chấp với Trung Quốc được.

Thứ hai, Việt Nam phải cấp tốc đẩy mạnh quan hệ với Mỹ. Thích hay không thích Mỹ, chúng ta cũng phải thừa nhận với nhau sự thật này: Hiện nay, chỉ có một nước duy nhất có thể giúp Việt Nam thoát khỏi hiểm họa Trung Quốc: đó là Mỹ. Không còn nước nào khác.

Thứ ba, trong suốt thời gian chờn vờn với nhau ngoài Biển Đông, chính quyền Việt Nam cần lấy lại niềm tin của dân chúng. Từ nhiều năm nay, rõ ràng nhận định phổ biến của dân chúng Việt Nam đối với chính quyền là: hèn. Không ít người đi xa hơn, cho chính quyền Việt Nam đã bị Trung Quốc hoàn toàn mua chuộc. Công việc đầu tiên mà chính quyền cần làm là chứng minh các nhận định ấy hoàn toàn sai và cũng chứng minh là họ thực sự đang lãnh đạo đất nước trong cuộc đối đầu với Trung Quốc xâm lược.

Nhưng để làm được ba điều trên, điều chính quyền cần phải làm là xác định lại quan hệ với Trung Quốc. Dĩ nhiên, sẽ không khôn ngoan chút nào nếu chính quyền công khai và thẳng thừng cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Là nước nhỏ, nằm ngay sát nách của Trung Quốc, Việt Nam rất khó làm được điều đó. Ngay từ xưa, cha ông chúng ta đã biết rõ như vậy. Ngay sau chiến thắng nhà Minh vào năm 1428, Lê Lợi đã chủ trương làm hòa ngay với Trung Quốc. Ngay sau khi đuổi bọn giặc nhà Thanh khỏi bờ cõi năm 1789, Quang Trung cũng đã làm hòa với Trung Quốc. Bây giờ, thời đại khác, nhưng số phận của đất nước chúng ta cũng không thay đổi. Nhưng làm hòa với Trung Quốc không có nghĩa là nhu nhược và dại dột đến mức cứ ra rả tụng niệm 4 Tốt và 16 Chữ Vàng.

Cứ khư khư ôm giữ những khẩu hiệu mù quáng ấy, sẽ không có ai tin và muốn làm bạn với Việt Nam.

Ngay cả dân chúng cũng không thể tin và kính trọng chính quyền.

Mồi lửa và Đống củi

Mồi lửa và Đống củi

Huy Đức

Blogger, nhà báo

Thứ hai, 19 tháng 5, 2014

Sự kiện Bình Dương – Vũng Áng cho thấy, khi gậy gộc đã ở trong tay đám đông, mọi giá trị đều trở nên vô nghĩa.

Tuy nhiên, còn “vô nghĩa” hơn nếu sự kiện “Bình Dương – Vũng Áng” được sử dụng như những con ngoáo ộp để dọa dân chúng nhằm củng cố độc tài, toàn trị.

Trong số 315 nhà đầu tư chịu thiệt hại trong vụ Bình Dương, có 12 công ty bị cháy lớn (nhiều nhà xưởng bị cháy rụi), 3 công ty bị cháy nhỏ, 33 công ty bị trộm cướp tài sản, 196 nhà xưởng bị đập phá, 241 văn phòng bị hư hại, có nhiều văn phòng bị đốt sạch, phá sạch.

Con số thiệt hại chưa được quy thành tiền nhưng cho dù nó lớn tới mức nào, đó cũng chỉ là những tổn thất có khả năng đo, đếm được.

Chưa biết bao giờ các nhà máy trong 29 khu công nghiệp ở Bình Dương mới có thể trở lại hoạt động bình thường. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp ngay tới hơn hai trăm ngàn lao động Việt Nam. Thiệt hại vì sự sút giảm uy tín của môi trường đầu tư còn khó định lượng hơn.

Trong mấy năm gần đây, Trung Quốc là thị trường có mức độ phát triển tốt nhất của ngành hàng không Việt Nam. Trước 13-5-2014, trung bình mỗi ngày có gần 20 chuyến bay Việt – Trung. Nay con số đó đang có nguy cơ bằng không. Thiệt hại cho Hàng không Việt Nam có thể lên đến hàng nghìn tỷ.

“Chúng ta cần một chính phủ ứng xử với Trung Quốc bằng tư thế của một quốc gia có chủ quyền chứ không phải một chính phủ, lúc thì quá lệ thuộc, lúc lại đẩy dân ra chỗ hòn tên mũi đạn”

Chủ một khu nghỉ dưỡng thường xuyên có 30% khách đến từ Trung Quốc ở Hội An cho biết, tất cả khách đặt phòng người Trung Quốc đều đã bị xóa.

Hàng nghìn biệt thự trên bãi biển Đà Nẵng vốn lâu nay sống nhờ khách Trung Quốc nay đang lần lượt bị trả lại.

Những phản ứng vừa qua cho thấy, người Việt Nam chỉ mới nhạy cảm trước một Trung Quốc bành trướng, trong khi, Trung Quốc còn là một nền kinh tế lớn.

Yếu tố bên trong

Người Việt có vẻ như đã xích lại gần nhau trong những ngày vừa qua. Dân chúng dễ dàng bỏ qua những chính sách đã đưa đất nước lún sâu. Một vài nhà lãnh đạo bỗng dưng sáng lên. Nhưng, chúng ta sẽ làm gì nếu giàn khoan Hải Dương 981 vẫn nằm lì ngoài biển đông.

Chúng ta sẽ làm gì nếu tất cả những nguyên nhân làm cho đất nước thất thế, tụt hậu vẫn tiếp tục phát huy; những kẻ bảo thủ, trì trệ vẫn bình chân và bọn tham nhũng vẫn tiếp tục ngự trị.

Một quốcgia không thể giữ yên bờ cõi nếu không đoàn kết. Nhưng nếu một quốc gia chỉ thực sự đứng bên nhau khi “tổ quốc bị xâm lăng” thì bi kịch còn lớn hơn.

Nếu không sớm tìm ra một yếu tố bên trong để đoàn kết quốc gia, chủ nghĩa dân tộc cực đoan sẽ luôn dễ dàng bị các bên lợi dụng (cả Chính phủ và những người được coi là “dân chủ”).

Cái giá mà dân tộc Việt Nam phải trả cho cuộc chiến kéo dài mười năm, 1979-1989, là không chỉ bằng sự kiệt quệ nội lực, sự cô lập trên trường quốc tế mà còn bằng xương, máu của hàng triệu thanh niên. Chúng ta cần một chính phủ ứng xử với Trung Quốc bằng tư thế của một quốc gia có chủ quyền chứ không phải một chính phủ, lúc thì quá lệ thuộc, lúc lại đẩy dân ra chỗ hòn tên mũi đạn.

Sáng 1-1-2014, khi nói chuyện với chúng tôi, ông Trần Việt Phương, người giúp việc của nhiều nhà lãnh đạo Hà Nội – từng sống và làm việc bên cạnh Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh từ 1949 – 1969 – nói: Trong lịch sử nghìn năm giữ nước, chưa có thời nào Việt Nam mất cảnh giác và chịu lệ thuộc vào Trung Quốc như ‘triều đại’ ngày nay.

Sở dĩ có điều đó là vì chúng ta đã nhiều lúc ứng xử với tư thế một ông em ngoan, ngây thơ tin các ông anh cũng vì tinh thần quốc tế vô sản. Theo ông Trần Việt Phương, thời còn Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã từng ở trong một nền thực dân kém văn minh hơn nền thực dân trước kia.

Những công nhân vô tội bị kéo vào một âm mưu nguy hiểm

Trong những ngày giàn khoan HD 981 đang ở trong vùng biển Hoàng Sa nhiều người Việt bàn đến chuyện “thoát Trung”. Nhưng theo tôi trước khi “thoát Trung”, người Việt phải thoát ra khỏi chính vấn đề đang ở trong tay người Việt.

Năm 1974, nếu người Việt chúng ta ở chung một chiến hào, chắc chắn Hoàng Sa không thể rơi vào tay Trung Quốc. Chắc chắn không có sự kiện HD 981. Chắc chắn Trung Quốc không thể khoan vào những nơi người Việt Nam rất dễ bị tổn thương.

Theo tôi, điều cấp bách nhất mà chúng ta, bao gồm cả những người cầm quyền, phải làm là phải thoát hoàn toàn ra khỏi ý thức hệ, điều khiến cho Chính quyền có những lúc “ngây thơ” tin vào “mười sáu chữ vàng”; điều đã khiến cho lãnh thổ quốc gia bị hơn hai mươi năm chia cắt; điều khiến cho người Việt Nam, gần 40 năm sau chiến tranh, vẫn không thể nào ngồi bàn với nhau hòa giải.

Giai cấp trai làng

Nói chuyện với hàng chục chủ doanh nghiệp và công nhân ở Bình Dương, chúng tôi nhận thấy cách lôi kéo công nhân biểu tình hôm 13-5-2014 gần giống như cách mà các cuộc đình công vẫn diễn ra ở đây. Liên đoàn Lao động không bao giờ có vai trò nào ngoài việc buộc các doanh nghiệp phải trả công đoàn phí hàng tháng một khoản tiền bằng 2% quỹ lương. Đứng sau các cuộc đình công thường là một bọn người giấu mặt.

Bọn người tương tự đã xuất hiện vào ngày 13-5-2014, xông vào các nhà máy, yêu cầu giới chủ phải cho công nhân nghỉ để đi “biểu tình chống Trung Quốc”. Đề nghị này ngay lập tức được công nhân hoan nghênh. Một số bỏ về nhà nghỉ ngơi, vui vì được “hưởng nguyên lương”. Một số khác đi theo những người cầm đầu cuộc “biểu tình”.

Những công nhân vô tội này không ngờ rằng, họ đang bị kéo vào một âm mưu nguy hiểm.

Người lao động ở Bình Dương mà những người Marxists thích gọi là “giai cấp công nhân”, thực chất vẫn là những nông dân. Trong số 235.800 lao động làm việc trong 29 khu công nghiệp ở Bình Dương chỉ có 9,8% là người địa phương. Họ phải rời bỏ quê hương vì chính sách đất đai và chính sách công nghiệp hóa sai lầm.

Chính sách đất đai không cho phép tích tụ những mảnh ruộng manh mún để hình thành các trang trại lớn, nơi có thể hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp và phát triển công nghiệp chế biến nông sản, nơi các trai làng có thể ở tại chỗ mà ly nông thay vì phải ly hương.

Họ bị dồn vào một nơi cách xa lũy tre, vẫn chất phác nông dân nhưng bị lẫn trong bộ đồng phục, không danh tính, không làng xóm. Họ ngây thơ đi theo đoàn “biểu tình chống Trung Quốc”, bị cuốn trong một cơn kích động, nghĩ là mọi hành động đập phá, lấy cắp của họ sẽ bị lẫn vào đám đông.

‘Ý thức hệ’

Hôm 29-4-2014, Cựu Bộ trưởng Trương Đình Tuyển đã được hoan nghênh khi ông phát biểu công khai ở Diễn đàn kinh tế mùa xuân Hạ Long: “Đã đến lúc phải thừa nhận xã hội dân sự”.

Nhưng, cũng ông Trương Đình Tuyển vào ngày 17-4-2014, khi nói chuyện nội bộ về TPP với các đại biểu quốc hội ở Văn phòng Quốc hội phía Nam lại cho rằng, phá bỏ thế độc quyền của Liên đoàn lao động Việt Nam (cho công nhân lập các công đoàn độc lập), là điều không thể thương nghị.

Hy vọng ông Trương Đình Tuyển, người đang cố vấn cho Chính phủ về đàm phán TPP, tìm hiểu vai trò Liên đoàn lao động trong các vụ đình công, bạo động, ở Bình Dương, để thấy, chỉ vì ngăn cản công nhân hình thành các tổ chức đại diện cho mình (điều kiện mà TPP đòi), khi lâm sự, chủ doanh nghiệp cũng như Đảng, Nhà nước đã không có ai để mà “thương nghị”. Công nhân nhanh chóng bị cuốn vào những đám đông không còn khả năng kiểm soát.

Cũng hôm 17-4-2014, ông Trương Đình Tuyển giải thích, Liên đoàn lao động là tổ chức của Đảng, giữ vị trí độc quyền của nó là giữ một đặc trưng của chế độ. Tiền thuế của dân đang được chi để nuôi các đoàn thể quốc doanh. Điều này rất dễ ru ngủ Chế độ khi trong ấm, ngoài êm. Nhưng, khi lâm trận thì mới thấy những tổ chức rình rang tốn kém đó nhanh chóng trở nên vô dụng.

Cựu Phó thủ tướng Trần Phương, một nhà lý luận gần gũi với Tổng bí thư Lê Duẩn thừa nhận:

“Cho đến trước khi Liên Xô sụp đổ, “.

Thật khó để biết một cách chắc chắn, thế hệ lãnh đạo hiện nay đã để cho đầu óc của mình ra khỏi “nhà tù ý thức hệ” như thế hệ Trần Phương hay chưa. Một người được coi là cởi mở như ông Tuyển, mà vẫn tư duy như vậy thì liệu có ai thực sự đã thoát khỏi “chiếc còng tư tưởng”.

‘Mồi lửa dưới đống củi’

‘Đầu óc chúng tôi vẫn bị cầm tù trong sự giáo điều của chủ nghĩa Marx – Lenin’

Nếu có một xã hội dân sự trưởng thành, công nhân có các tổ chức đại diện cho mình, chắc chắn sẽ không dễ bị kéo vào một đám đông như thế. Nếu có một nhà nước pháp quyền (và có luật biểu tình), cảnh sát tự tin vào tính chính danh của quyền lực công, chắc chắn đã có hành động thích hợp trước khi đám đông phạm tội.

Không chỉ gây ra thiệt hại, phải coi sự kiện “Vũng Áng – Bình Dương” là những cảnh báo sớm. Một chế độ toàn trị rõ ràng đã không có khả năng gìn giữ “ổn định chính trị” như nhiều người vẫn tưởng lầm. Mồi lửa đã ở dưới đống củi.

Đi đến tự do chính trị mà không có lộ trình thích hợp thì rất dễ gây rối loạn. Nhưng khước từ dân chủ hóa thì sự sụp đổ là chắc chắn xảy ra. Khi đó, bạo loạn sẽ không còn ở mức độ “Vũng Áng – Bình Dương” như chúng ta vừa chứng kiến.

Việt Nam đã rất cô độc trong xung đột Biển Đông không chỉ vì không có ai thực sự là đồng minh, mà còn, thay vì hòa vào xu thế của thời đại văn minh, Hà Nội lại tự xích mình trong nhóm những quốc gia bị “loài người (thực sự) tiến bộ” đặt sang bên lề thương hại.

Cho dù không thể có ai là “bạn vĩnh viễn”, nhưng nếu Việt Nam có một chế độ chính trị tiến bộ, bên trong tôn trọng dân chúng, bên ngoài chỉ “trao đổi vàng” với những nhà nước dân chủ văn minh, chúng ta chắc chắn sẽ có rất nhiều bạn đồng hành.

“Mỗi chúng ta phải bắt đầu làm gì đó trong nỗ lực của mình, để Đảng cầm quyền ngồi lại với nhân dân, cùng đối thoại để tìm ra lối thoát”

Trong những ngày này, tôi tin là có hàng triệu người Việt Nam tuy không xuống đường biểu tình nhưng vẫn đang nung nấu trong mình lòng yêu nước. Nhưng tôi tin, không ai, không riêng một đảng phái nào, đứng riêng lẻ mà có thể tìm được cho Việt Nam một con đường đi đến dân chủ, văn minh mà tránh được những tháng năm tao loạn.

Mỗi chúng ta phải bắt đầu làm gì đó trong nỗ lực của mình, để Đảng cầm quyền ngồi lại với nhân dân, cùng đối thoại để tìm ra lối thoát. Để đất nước rơi vào nông nỗi này, chúng ta có thể đổ lỗi cho những người cộng sản. Nhưng, nếu cứ để đất nước tiếp tục tình trạng này, mỗi chúng ta đều phải cộng đồng trách nhiệm.

Không ai thách thức quyền lực của những người cộng sản nếu như quyền lực đó không đặt chế độ lên trên sự phát triển bền vững của quốc gia. Không ai có thể ngồi mãi trên đỉnh cao quyền lực, Nếu anh thiết lập trên đầu dân chúng một phương thức cai trị thực dân, sẽ có ngày anh trở thành nô lệ trong nền thực dân do chính anh tạo lập.

Đừng cố gắng giữ nền độc tài cho tới ngày con cháu có thể thừa kế ngai vàng. Hãy thiết lập một thể chế mà nếu con cái quý vị xứng đáng, nhân dân sẽ trao “ngai vàng” cho chúng.

Chúa Giêsu về trời

Chúa Giêsu về trời

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Khi còn trên thế gian, trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14:1). Và rồi Ngài căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó” (Ga 14:2-3). Thật hạnh phúc cho chúng ta vì được Chúa Giêsu hứa cho chúng ta cùng ở với Ngài. Niềm hạnh phúc này quá lớn lao, không thể nào so sánh với bất kỳ thứ gì được!

Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chết vì tội lỗi của nhân loại, nhưng rồi Ngài sống lại từ cõi chết. Sau khi phục sinh, Ngài hiện ra với các tông đồ nhiều lần.

Bốn mươi ngày sau khi phục sinh, Chúa Giêsu quy tụ 11 môn đệ trên Núi Ô-liu, bên ngoài thành Giêrusalem. Vẫn chưa đủ hiểu sứ vụ của Đức Kitô là tâm linh chứ không là chính trị, nên các tông đồ mới hỏi Thầy Giêsu rằng có phải đến lúc Ngài khôi phục đất nước Israel hay không. Họ thất vọng vì sự đàn áp của người Rôma và có thể mong thấy ngày chính phủ Rôma bị lật đổ.

Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Anh em không cần biết thời giờ kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).

 

Nói xong, Ngài được cất lên cao, và có đám mây bao phủ Ngài khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngớ người ra, nhìn hút theo và… nuối tiếc điều gì đó! Khi đó, hai thiên thần mặc áo trắng đứng bên họ, vừa hỏi vừa giải thích: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Theo các thiên thần, Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai cung bất ngờkỳ lạ y như lúc Ngài lên trời vậy.

Sau đó, các môn đệ quay về Giêrusalem vào phòng kín và cùng cầu nguyện. Có vài điểm cần lưu ý về cuộc lên trời của Chúa Giêsu:

• Theo Kinh Thánh, đám mây thường diễn tả sức mạnh và vinh quang của Thiên Chúa, như trong sách Xuất Hành, khi cột mây dẫn đường cho dân Do Thái trong sa mạc.

• Trước đó, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về việc Ngài về trời với Chúa Cha, và rồi Chúa Thánh Thần sẽ đến ban sức mạnh cho họ. Ngày lễ Ngũ Tuần, họ đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần như hình lưỡi lửa. Ngày nay, mỗi người lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy đều được Chúa Thánh Thần ngự vào lòng, Ngài ban ơn khôn ngoan và sức mạnh để sống đời sống Kitô hữu.

• Mệnh lệnh Chúa Giêsu trao cho những người theo Ngài là làm nhân chứng tại Giêrusalem, Giuđê, Samari, và đến tận cùng trái đất. Mới đầu, Phúc Âm được loan báo cho người Do Thái, người Samari, rồi dân ngoại. Các Kitô hữu có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô cho những người chưa nghe biết.

• Sứ vụ của Chúa Giêsu trên thế gian đã hoàn tất. Ngài trở về trời là nơi Ngài đã đến. Ngài trở mặc xác phàm nhưng vẫn là Thiên Chúa, Thiên-Chúa-làm-người và nay là Con người vinh quang.

• Các thiên thần nói rằng một ngày nào đó Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang, giống như khi Ngài lên trời. Nhưng thay vì thụ động mong đợi ngày Chúa Giêsu đến lần thứ hai, chúng ta phải bận rộn làm công việc mà Ngài đã phân công cho mỗi chúng ta tùy mỗi hoàn cảnh khác nhau.

• Cuộc về trời của Chúa Giêsu là một trong các tín điều của Công giáo. Kinh Tin Kính của các Tông đồ, Kinh Tin Kính của Công đồng Ni-xê và Kinh Tin Kính của Thánh Athanasia cũng đều tuyên xưng rằng Đức Kitô lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha.

SUY TƯ:

Cần phải nhận biết rằng chính Thiên Chúa, trong hình dạng Chúa Thánh Thần, sống động trong mỗi tín hữu. Tôi có tận dụng tặng phẩm quý giá này để tìm hiểu về Chúa Giêsu và sống vui lòng Thiên Chúa hay không?

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Christianity.about.com)