Phạm Chí Dũng : Nhà nước cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của xã hội dân sự

Phạm Chí Dũng : Nhà nước cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của xã hội dân sự

RFI

Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.

Nhà bình luận Phạm Chí Dũng.

DR

Thụy My

Nhà báo Phạm Chí Dũng – Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (Hội NBĐLVN) – vừa nhận hai giấy triệu tập liên tiếp của Cơ quan an ninh điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu anh phải đến trụ sở cơ quan này vào 8h sáng các ngày 4/8 và 5/8 để “trả lời các bài viết trên Internet”.

Được biết ngày 4/8 cũng là thời điểm một cuộc sinh hoạt định kỳ của Hội NBĐLVN được tổ chức tại Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Ngày 5/8 là ngày họp mặt các nhóm xã hội dân sự tại Saigon.

Với giấy triệu tập lần 1, nhà báo Phạm Chí Dũng đã từ chối không đến, nhưng đành vắng mặt trong buổi họp vì bị ngăn chặn. Còn hôm nay 05/08/2014, anh đã chấp nhận đến trụ sở công an để làm việc. Sau khi kết thúc buổi làm việc này, anh cho đài RFI biết:

Nhà báo Phạm Chí Dũng : Một chi tiết thú vị là tôi lại gặp chính ông Lê Đình Thịnh – điều tra viên mà vào năm 2012 đã tham gia bắt và hỏi cung tôi. Lần này, điều tra viên hỏi khá nhiều về Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, nội dung xoay quanh mục đích tôn chỉ của Hội và một số vấn đề khác. Có vẻ họ rất quan tâm đến tiêu chí “hoạt động ôn hòa” của Hội và cố gắng dò tìm xem hội này thực sự ôn hòa hay có định xách động dân chúng không.

Tôi trả lời thẳng là Hội NBĐLVN là tổ chức nghề nghiệp về báo chí, đã tuyên bố hoạt động ôn hòa tức sẽ luôn ôn hòa về quan điểm, trong đó có quan điểm chính trị. Nhà nước Việt Nam luôn đa nghi, nhưng sẽ hoài công vì Hội NBĐLVN chẳng bao giờ có ý định “lật đổ chế độ”.

Tuy nhiên, mục tiêu chính của Hội là phản biện, và Hội chấp nhận các luồng quan điểm và ý kiến đa chiều, kể cả trái chiều giữa các hội viên để tạo nên một môi trường đa nguyên tư tưởng theo đúng nghĩa.

Về ngày thành lập 4/7 của Hội NBĐLVN trùng với ngày Quốc khánh Mỹ, ngay từ đầu chúng tôi đã xác định đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên nhưng rất ý nghĩa, vì điểm thời gian này tương hợp với Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hơn hai trăm năm trước – năm 1776. Nhưng không thể lấy sự trùng hợp về thời điểm như thế để quy cho Hội NBĐLVN là “theo đuôi Mỹ”.

Họ cũng cho rằng có thể tôi bị “cuốn theo đô la và ảo vọng”, tức “khen Mỹ” nhiều quá. Tôi trả lời thẳng là: “Các anh có chứng minh được chúng tôi dùng nguồn tiền bất hợp pháp cho hoạt động của Hội NBĐLVN không? Các anh có bao giờ thấy tôi hoang tưởng chính trị không? Vừa qua sau vụ giàn khoan HD 981 của Trung Quốc, nếu không có sự lên tiếng mạnh mẽ của Hoa Kỳ và phương Tây thì liệu Trung Quốc có nhượng bộ Việt Nam không? Như vậy cần thấy rằng phải cố mà xây cho được mối quan hệ đồng minh với Mỹ chứ. Quan hệ này không chỉ bảo toàn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam mà còn có lợi cho cả đảng của các anh đấy”.

Nội dung hỏi và trả lời chỉ có thế. Sau đó họ đề nghị tôi ký xác nhận vào những bài viết của tôi trên mạng Internet, nhưng tôi yêu cầu họ về nhà tôi để tôi tự in các bài viết từ trên mạng rồi mới có thể ký được.

Điều đọng lại cuối cùng nhưng ấn tượng nhất đối với tôi sau buổi làm việc hôm nay là Cơ quan ANĐT không hề đề cập đến việc hình thành Hội NBĐLVN là đúng hay sai luật pháp, cũng không đả động gì đến việc “xử lý vi phạm” hay bắt bớ nào đối với các hội viên của Hội NBĐLVN.

Họ cũng không đề cập đến cụm từ “đối lập chính trị” mà giới dư luận viên đã luôn dùng để công kích và quy chụp Hội NBĐLVN trong gần ba chục bài viết trên mạng trong một tháng qua, hay truy tìm nguồn tài chính của Hội mà có thể họ luôn cho rằng không minh bạch. Và Cơ quan ANĐT cũng chỉ hỏi về hoạt động của cá nhân tôi chứ không đề cập đến bất cứ người nào khác trong Hội NBĐLVN.

Tôi cho rằng đã đến lúc Nhà nước Việt Nam cần chấp nhận hoạt động ôn hòa của các hội đoàn dân sự độc lập, và thay vì điều tra xét hỏi và triệu tập liên miên mà có thể phạm vào việc lạm dụng quyền lực, họ nên đối thoại với chúng tôi về những giải pháp cho đất nước.

Nhà báo Phạm Chí Dũng – Saigon

 

05/08/2014
by Thụy My

 

Nghe (03:04)

 

 

 

 

Sài Gòn là điểm trung chuyển nạn nhân buôn người

Sài Gòn là điểm trung chuyển nạn nhân buôn người
August 04, 2014

Nguoi-viet.com
SÀI GÒN (NV) – Ðó là lời thừa nhận của chính quyền thành phố Sài Gòn khi sơ kết tình hình an ninh trật tự ở thành phố này trong sáu tháng đầu năm 2014.


Chùa Bồ Ðề ở Hà Nội, một nơi chuyên nuôi trẻ mồ côi và người già. Công an Việt Nam đang điều tra hoạt động mua bán trẻ em tại ngôi chùa này. Ðã có hai bảo mẫu bị bắt hôm 3 tháng 8. (Hình: xahoi.com.vn)

Ðại diện nhà cầm quyền thành phố cho biết là đã và đang là nơi được các nhóm buôn người dùng làm điểm “tập kết” để trung chuyển nạn nhân từ các tỉnh khác ra ngoại quốc.

Các nhóm buôn người thường dụ dỗ thiếu nữ bằng cách hứa giúp họ tìm việc làm có thu nhập cao ở ngoại quốc, khi đã đưa họ ra ngoại quốc thì bán họ cho những nhóm buôn người khác, cưỡng ép họ làm gái mại dâm, bóc lột tình dục. Ða số nạn nhân cư trú tại các tỉnh hoặc từ các tỉnh tìm về Sài Gòn kiếm sống.

Giới chức này nói thêm rằng họ vẫn chưa dẹp được tệ nạn môi giới hôn nhân trái phép với đàn ông ngoại quốc vì các hoạt động của các nhóm này càng ngày càng tinh vi và liên tục thay đổi phương thức hoạt động.

Sài Gòn hiện cũng là nơi mà các nhóm chuyên mua bán trẻ em hoạt động. Những nhóm này thường đến những nơi chăm sóc, nuôi dạy trẻ mồ côi, bệnh viện phụ sản, móc nối với nhân viên làm việc tại các cơ sở này gạ gẫm những phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, mang thai ngoài ý muốn bán trẻ sơ sinh cho chúng.

Trong sáu tháng đầu năm 2014, công an Sài Gòn đã tiếp nhận để điều tra bảy vụ bán phụ nữ sang Trung Quốc, ba vụ môi giới hôn nhân trái phép, bốn vụ mua bán trẻ em – giải cứu sáu đứa trẻ.

Cho đến nay, Việt Nam vẫn bị xem là một trong những điểm nóng về tệ nạn buôn người. Nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế liên tục cảnh báo về sự phát triển của tệ nạn này tại Việt Nam song chính quyền Việt Nam bất lực trong việc giải quyết thực trạng nhức nhối này.

Kết qủa điều tra về thực trạng buôn người 2014 do chính phủ Hoa Kỳ thực hiện và công bố cách nay vài tháng, ghi nhận Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể nhưng hiện tượng phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán sang các nước ở Châu Á để làm nô lệ tình dục vẫn rất đáng ngại. Nơi các nạn nhân này thường bị đưa đến là Trung Quốc, Campuchia, Malaysia và Nga.

Nạn nhân của tệ nạn buôn người tại Việt Nam không chỉ có phụ nữ và trẻ em. Thanh niên và đàn ông Việt Nam cũng bị biến thành hàng hóa để mua bán.

Hồi đầu năm nay, Walk Free – một tổ chức quốc tế chuyên tranh đấu cho nhân quyền, công bố kết quả một cuộc khảo sát-phân tích, xếp hạng về “chỉ số tình trạng nô lệ 2013.” Theo đó, Việt Nam bị xếp thứ 64/162 trên bình diện toàn cầu. Còn xét riêng khu vực Châu Á, Việt Nam xếp thứ 9. Nếu xếp theo tổng số nô lệ, Việt Nam đứng thứ 15 trên thế giới.

Con số nô lệ tại Việt Nam được Walk Free ước đoán nằm trong khoảng từ 240 ngàn đến 260 ngàn. Walk Free nhận định, tình trạng người Việt bị cưỡng ép lao động phổ biến cả ở bên ngoài lẫn bên trong Việt Nam.

Trước đây, chuyện lừa gạt, cưỡng ép làm việc và dùng nhiều biện pháp khác nhau để cầm giữ người lao động, cột chặt họ với giới chủ chỉ xảy ra với những người Việt đi làm thuê ở nước ngoài và những người Việt là nạn nhân của nạn buôn người. Nay, điều đó đang xảy ra trên khắp Việt Nam.

Thỉnh thoảng các tờ báo ở Việt Nam lại đưa tin, vừa có hàng chục, hàng trăm người, đa số là thành viên các sắc tộc thiểu số, bị gạt, bị đưa đến đâu đó ở Việt Nam, bị cưỡng ép làm việc như nô lệ. Chính quyền Việt Nam gần như làm ngơ, không can thiệp vào những vụ này. (G.Ð)

 

Tác hại của tuyên truyền

Tác hại của tuyên truyền

GS Nguyễn Văn Tuấn

04-08-2014

Theo cách hiểu thông thường, tuyên truyền là truyền bá những thông tin lệch lạc để quảng bá một mục tiêu chính trị hay một quan điểm. Theo cách hiểu này tôi thấy ở VN có nhiều hiểu lầm hay lệch lạc về các sự kiện lịch sử chỉ vì những sản phẩm của tuyên truyền.

Năm nay kỉ niệm đúng 50 năm ngày 3 tàu hải quân VN đụng độ với tàu khu trục Maddox của Mĩ (2/8/1964). Báo chí VN mô tả trận đánh đó như là một “chiến thắng giòn giã” của hải quân VN (1) vì đã đuổi được tàu Maddox. Nhưng tôi nghĩ đây là một sản phẩm tiêu biểu của tuyên truyền, và nó sẽ làm lệch lạc sự thật lịch sử.

Trong thực tế, cuộc đụng độ không tương xứng đó làm cho 3 tàu của VN đều bị hư hỏng, 4 thuỷ thủ bị tử vong, 6 người bị thương. Còn tàu của Mĩ chẳng hề hấn gì; họ thậm chí phản công gây nhiều tổn hại cho VN. Tàu Maddox cũng chẳng “chạy trốn” mà nó còn quay lại với một tàu khác cùng máy bay oanh kích và gây tổn thất khá lớn trên đất liền. Đã 50 năm rồi, chẳng có gì phải giấu diếm, nên nói thật cho công chúng biết. Không nói thì họ (cũng như tôi đây) vẫn có thể tìm trên mạng để đọc và biết.

Trong quá khứ, tuyên truyền đã làm sai lệch lịch sử. Một trong những sản phẩm tuyệt vời của tuyên truyền là nhân vật Lê Văn Tám. Đó là một cậu bé được hư cấu hoàn toàn, mà tác giả của nó là Trần Huy Liệu (2), lúc đó (1946) là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và Cổ động của VNDCCH. Ông Liệu sáng tác ra một thiếu niên 18 tuổi tên Lê Văn Tám, vì căm thù giặc Pháp, đã tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè vào ngày 1/1/1946. Người sáng tác câu chuyện Lê Văn Tám cho biết Tám chạy 50 mét để vào đến kho xăng. Nhưng người sáng tác có vẻ hơi cường điệu. Làm sao một đứa bé 10 tuổi, với sức nóng dữ dội của xăng, có thể chạy đến 50 mét? Nhưng sau này chúng ta biết rằng đó chỉ là hư cấu, chứ không có nhân vật Lê Văn Tám. Tác giả của nó thú nhận một cách chống chế: “Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyền nên tôi viết tài liệu này, sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa.” Ấy vậy mà Lê Văn Tám đã đi vào lịch sử, vào sách giáo khoa, có tên công viên và đường phố. Mặc cho tác giả trần tình, rất nhiều người vẫn không tin rằng Lê Văn Tám là nhân vật hư cấu!

Tuyên truyền có thể gieo căm thù cho cả một cộng đồng. Ngày xưa ở miền Bắc VN, tôi đoán người ta tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó đã thành công gieo được vào đầu óc của người dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến nỗi họ ăn gan uống máu người; sĩ quan và quan chức Nguỵ sống phè phỡn, bê tha, truỵ lạc, trong khi đó thì người dân đói khổ đến nỗi không có chén để ăn cháo. Có lẽ người dân ngoài Bắc tưởng là thật, nên có lí do để vào Nam giải phóng cho dân miền Nam. Có lẽ tin là quân Nguỵ ác ôn, nên mới có tình trạng khi tù cải tạo từ miền Nam bị áp tải ra ngoài Bắc bị dân chúng quăng đá ném gạch và chửi rủa thậm tệ. Có vài người chết vì đòn thù này. Không biết bao nhiêu là đạo diễn (như thời Cải cách ruộng đất) và bao nhiêu là căm thù thực sự, nhưng hệ quả của tuyên truyền quả là ghê gớm.

Cũng vì tuyên truyền mà đến nay người dân VN vẫn tin rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hoá thế giới do UNESCO công nhận. Sự thật thì UNESCO không có văn bản nào công nhận ông hay bất cứ ai là “danh nhân văn hoá thế giới” (3). Vậy mà báo chí và giới lãnh đạo vẫn cứ dùng cụm từ “danh nhân văn hoá thế giới”. Có lẽ họ đã bị nhập tâm cái sản phẩm tuyên truyền đó và nói như là một quán tính.

Còn rất nhiều tác hại của tuyên truyền mà rất khó liệt kê hết ở đây. Có những câu nói gần như đi vào tâm tưởng của người dân mà khi nói ra họ cũng không để ý đến tính hợp lí của nó. Trước đây, có người phàn nàn về câu “Mừng đảng, mừng xuân, mừng đất nước” người ta mới giật mình thấy có cái gì không đúng. Hay như từ một bài ca “đảng đã cho ta mùa xuân” đi vào câu khẩu hiệu mà chẳng ai để ý mùa xuân là kết tinh của đất trời hội tụ chứ có ai cho đâu. Tương tự, câu “Nước CHXNCN Việt Nam muôn năm” nếu nghĩ kĩ cũng khó có thể vì trên thế gian này chẳng có cái gì tồn tại vĩnh viễn cả. Các hoàng đế Tàu ngày xưa cũng thích “vạn tuế” mà có ai đạt được đâu. Những sản phẩm tuyên truyền đó nó được gieo vào tâm trí của nhiều thế hệ để rồi theo thời gian nó trở thành một loạt sự thật giả tạo.

Có thể nói không ngoa rằng VN là một xứ sở của tuyên truyền. Bật tivi, mở radio, đọc báo, tất cả đều có bóng dáng và cái air của tuyên truyền, đặc biệt là các bản tin và bài viết liên quan đến chính trị, xã hội, sử, văn học. Đó là chưa kể đến những pano nền đỏ chữ vàng xuất hiện trên khắp đường phố từ nông thôn đến thành thị, từ lộ nhỏ đến đường cao tốc đều mang nội dung tuyên truyền. Cái gì cũng tuyên truyền, từ chính trị, đóng thuế đến có con đều tuyên truyền. Tuyên truyền hàng phút, hàng giờ, hàng ngày, và ở bất cứ nơi nào. Thử tưởng tượng, người dân phải bị “exposed” (phơi nhiễm) với cường độ tuyên truyền như thế thì trước sau gì cũng bị nhiễm. Tổ sư về tuyên truyền của Đức Quốc Xã là Joseph Goebbels từng nói rằng một lời nói dối nếu được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành chân lí. Điều này rất đúng với VN.

—–

(1) http://danviet.vn/xa-hoi/50-nam-ngay-hai-quan-thang-tran-dau-dam-quyet-dam-danh-465658.html

(2) Ông Trần Huy Liệu được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ nhận ấn kiếm của Vua Bảo Đại vào năm 1945. Bảo Đại mô tả ông Liệu như là “Một người gầy gò trông rất thảm hại, đeo kính đen để giấu cặp mắt lé”.
http://www.viet-studies.info/kinhte/BaoDai_HCM_DL.htm

(3) http://unesdoc.unesco.org/images/0007/000769/076995E.pdf
Records of the General Conference Twenty-fourth Session Paris, 20 October to 20 November 1987 (xem trang 135)

Nạn bức cung, nhục hình vẫn phổ biến

Nạn bức cung, nhục hình vẫn phổ biến

Nghe (13:21)

RFI

 

Ảnh minh họa. Đã có ít nhất 9 người chết trong đồn công an trong sáu tháng đầu năm nay ở Việt Nam.

Ảnh minh họa. Đã có ít nhất 9 người chết trong đồn công an trong sáu tháng đầu năm nay ở Việt Nam.

Thanh Phương

Trong những năm gần đây nạn bức cung, nhục hình ở Việt Nam trở nên phổ biến một cách đáng ngại. Thỉnh thoảng báo chí trong nước lại loan tin có người chết tại đồn công an, mà vẫn được mô tả là do “tự tử”, do “đột tử”…, nhưng trên thực tế ai cũng biết đó là do bạo lực của công an đối với các bị can hay người bị câu lưu, tạm giữ.

Chẳng hạn như vụ anh Nguyễn Công Nhựt ở Bình Dương, bị cho là đã “tự tử” tại đồn Công an Bến Cát vào năm 2011, vì đã chết trong tư thế treo cổ. Cho tới nay, gia đình của anh Nhựt vẫn không chấp nhận kết luận điều tra cho rằng anh đã “tự nguyện” ở lại đồn công an, rồi sau đó tự tử, để lại một “lá thư tuyệt mệnh”, với nét chữ không giống với nét chữ bình thường của anh.

Một trong những vụ được dư luận chú ý nhất là vụ anh Ngô Thanh Kiều bị 5 công an đánh chết tại đồn Công an Phú Yên năm 2012. Dư luận càng phẫn nộ khi thấy là trong phiên xử sơ thẩm vào tháng 4 năm nay, 5 công an này chỉ bị tuyên án từ 12 tháng tù treo đến 5 năm tù giam. Trước sự phản đối mạnh mẽ của dư luận, vào đầu tháng 7 vừa qua, tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã hủy án sơ thẩm để điều tra lại vụ này.

Nạn nhân thậm chí là những người chỉ phạm tội vặt vãnh, như trường hợp của anh Cao Văn Tuyên (thôn Suối Lách, xã Khánh Trung, huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hoà), đã bị công an xã dùng dùi cui đánh chết khi bị bắt về đồn để thẩm vấn vào đầu tháng 7 năm 2013. Nguyên nhân vụ bắt giữ chỉ là anh Tuyên thèm thịt gà mà không có tiền mua, nên ăn trộm gà hàng xóm.

Riêng trong năm 2014, chỉ tính đến tháng 6, đã có ít nhất 9 người dân chết trong đồn công an khi bị hỏi cung, căn cứ theo thông tin trên báo chí chính thức. Gần đây nhất, ngày 11/06, ông Trần Đình Toàn đã chết chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi bị đưa về trụ sở công an phường Hạ Long, Nam Định, vì bị nghi tàng trữ ma túy.

Khi đưa xác ông Toàn về để mai táng, gia đình phát hiện trên ngực ông có nhiều vết thâm bất thường, nên nghi là ông đã bị đánh chết. Còn theo Công an Nam Định, các bác sĩ tham gia cấp cứu cho ông Toàn khẳng định, những dấu vết trên là do trong quá trình cấp cứu, các bác sĩ đã ép lồng ngực ông này.

Trong số những nạn nhân chết trong đồn công an từ đầu năm 2014 đến nay, ngoài ông Toàn, có một số người khác cũng được cho là « tự tử », như trường hợp của anh Đỗ Văn Bình tại trụ sở công an huyện Hòa Vang, Đà Nẳng vào tháng 4 hay, của cô Bùi Thị Hương ở trụ sở công an ở tỉnh Bình Phước vào tháng 3.

Trong số còn lại có một người « bò » về đến nhà thì chết, đó là ông Huỳnh N. , ở xã Đạo Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Vào tháng 2, ông đã bị bắt về trụ sở công an về hành vi trộm cắp. Theo gia đình, lúc đi thì ông khoẻ, nhưng lúc công an xã cho về nhà để hôm sau lên « làm việc » tiếp với công an, thì trên người ông có hơn 30 vết thương, vết bầm tím và sáng hôm sau, nạn nhân đã tử vong.

Có người thì chết bị cho là do « đột tử » như trường hợp của ông Đỗ Duy Việt, bị mời lên trụ công an huyện Thường Xuân để điều tra về vụ xâm hại tình dục trẻ vị thành viên. Gia đình nghi nạn nhân đã bị công an đánh chết vì sức khoẻ của ông rất tốt, nhưng không thể nào biết được chuyện gì xảy ra sau khi ông bị bắt giữ.

Vấn đề là ở chỗ đó. Những người bị bắt lên đồn công an chỉ có một mình đối đầu với những đại diện cơ quan công quyền, thường là cấp xã, huyện. Những gì xảy ra ở đó rốt cuộc chỉ do các công an tham gia thẩm vấn, hỏi cung khai báo, chứ không có lời chứng của một bên thứ ba như gia đình, bạn bè, luật sư.

Cách đây vài ngày, bộ Công an Việt Nam vừa ban hành một thông tư “về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân”. Thông tư này, sẽ có hiệu lực kể từ ngày 25/08/2014, “nghiêm cấm bức cung, mớm cung hoặc dùng nhục hình dưới bất kỳ hình thức nào.”

Thông tin này đã mặc nhiên thừa nhận là tệ nạn này vẫn diễn ra phổ biến mà gần như không có công an nào bị trừng trị đích đáng, mặc dù Hiến pháp cũng như Luật hình sự nghiêm cấm bức cung, nhục hình, cũng như quy định những hình phạt rất rõ ràng đối với người vi phạm.

Mặt khác, như đã nói ở trên, một số vụ người chết là xảy ra ở trụ sở công an xã do bị công an xã hỏi cung « quá trớn », trong khi theo pháp lệnh công an xã (do Chủ tịch nước ban hành ngày 02/12/2008), công an ở cấp này chỉ có quyền « lấy lời khai ban đầu các vụ việc, nhưng không được tạm giữ hình sự, hỏi cung các nghi can, nghi phạm ». Nếu vụ việc có dấu hiệu tội phạm phải chuyển nghi can lên cơ quan công an cấp trên…

Thế nhưng, Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự – hiện đang được thảo luận – lại dự trù là công an xã sẽ có quyền « tiến hành kiểm tra, xác minh ban đầu », tức là có thể tiến trành một số hoạt động điều tra ban đầu. Việc « tản quyền » cho công an cấp cơ sở khiến nhiều người sợ rằng nạn bức cung, nhục hình gây chết người ở trụ sở công an xã sẽ xảy ra nhiều hơn nữa, nhất là tại nhiều xã, công an gần như nắm quyền sinh sát trong tay đối với người dân. Như thế chẳng khác gì tăng thêm « quyền nhục hình » cho công an xã.

Theo tờ Người Lao Động ngày 13/07 vừa qua, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Đình Quyền, cho biết lả trong tháng 8, cơ quan này sẽ tổ chức điều trần về trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến việc truy bức, nhục hình trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong thời gian qua.

Nhưng theo ý kiến của luật sư Hà Huy Sơn ở Hà Nội, trả lời phỏng vấn RFI ngày 28/07 vừa qua, một trong những giải pháp đầu tiên để ngăn chận nạn nhục hình, đó là phải tôn trọng quyền của người bị bắt được mời luật sư đến chứng kiến việc thẩm vấn tại trụ sở công an. Nhìn xa hơn, theo luật sư Hà Huy Sơn, chỉ có một Nhà nước pháp trị thật sự mới có thể ngăn chận nạn nhục hình tại trụ sở công an. Sau đây mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với luật sư Hà Huy Sơn.

LS Hà Huy Sơn, Hà Nội

 

31/07/2014

 

Nghe (07:03)

 

 

 

Những phận đời ly hương mưu sinh giữa Sài Gòn

Những phận đời ly hương mưu sinh giữa Sài Gòn

image

Không nơi nào lực lượng hàng rong đông như ở Sài Gòn. Hàng rong từ chỗ mưu sinh nay đã thành một nghề nghiêm túc của nhiều người. Từ những vùng quê nghèo khó, nhất là miền Trung “cát trắng gió Lào”, người bán hàng rong đổ về thành phố với bao nỗi lo toan, từ cơm áo nợ nần đến chữ nghĩa cho con cái đều trông chờ vào việc góp nhặt những đồng tiền lẻ ở vỉa hè, quán nhậu.

Một ngày tháng 8 Sài Gòn mưa sụt sùi, theo chân những người bà, người chú, người chị bán hàng rong dọc ngang phố xá tôi mới thấm thía nỗi vất vả nhọc nhằn, cả những hiểm nguy của họ trong cuộc mưu sinh.

image

Hàng rong Sài Gòn

Theo chân người bán rong

Hình ảnh đôi gánh hàng rong, những chiếc xe đạp với lỉnh kỉnh bánh kẹo, cá viên chiên đã không còn quá xa lạ với người Sài Gòn. Bất kể nắng hay mưa, từ hẻm sâu đến đường lớn, những bước chân phụ nữ, đàn ông đầy lam lũ vẫn lặng lẽ quẩy đôi quang gánh kĩu kịt trên vai, lội bộ cùng đôi dép mòn vẹt gót giữa dòng xe cộ tấp nập.

Sống ở Sài Gòn gần chục năm, tôi đã gặp không biết bao nhiêu đôi quang gánh, đã nghe kể những câu chuyện đời, chuyện người sau mớ cóc, ổi, xoài… buồn, vui lẫn lộn nhưng đều có điểm chung là thấm đẫm mồ hôi, nước mắt dọc dài năm tháng đời bán rong.

image

Còn nhớ, ngày 17.7.2008, UBND TP.HCM ra quyết định cấm bán hàng rong trên 15 tuyến đường trọng điểm tại Q.1 (về sau nâng lên thành 53 tuyến đường trên toàn thành phố). Từ đó, bán hàng rong trở thành hành vi phạm pháp. Thấp thỏm, lén lút và âu lo là tâm trạng thường trực của những kiếp nghèo tha phương.

Nhiều người trong số họ còn chọn buôn thúng bán bưng ngay cả vào thời điểm nửa đêm về sáng dù biết nguy hiểm luôn chực chờ mình. Bị cấm, nơm nớp lo chạy đội trật tự, nhưng lời rao da diết đến não lòng từ những gánh hàng rong vẫn khiến không ít người xúc động. Để hiểu hơn về cuộc sống của những phận đời ấy, tôi đã theo chân họ nhiều ngày, rảo qua không biết bao nhiêu con đường Sài Gòn mùa mưa.

image

Dù trời mưa tầm tã nhưng các chị vẫn lặn lội đi bán hàng rong

Sáng nào cũng vậy, mặt trời chưa ló dạng, khu vực Nhà điều hành xe buýt Bến Thành (Q.1) đã đông nghẹt người. Hành khách già, trẻ, nam, nữ vội vã chen chân lên tuyến xe sớm nhất. Người đi làm, đi học, người tung tăng đi chơi. Không ai còn thời gian để tâm đến cái dáng lầm lũi, bơ phờ của các bà, các chị đang quẩy gánh hàng rong đi qua phía đối diện, trên đường Phạm Ngũ Lão (Q.1). Đằng sau gánh hàng với không quá 400.000 – 500.000 đồng tiền vốn là bao phận đời éo le, cơ cực.

Tôi biết chị Trần Thị Trang cách đây bốn năm. Hồi đó, chị quẩy gánh hàng rong với lỉnh kỉnh cóc, ổi, xoài, bánh tráng trộn… đi bán ở công viên 23.9 (Q.1). Chị người Bình Định, mới 47 tuổi mà tóc đã bạc nhiều, gương mặt đen sạm và hai mắt lúc nào cũng thâm quầng vì mất ngủ.

Chị thuê trọ, mà nói thuê trọ cũng chưa đúng, chẳng qua chỉ là “mua” chỗ ngủ đêm giá 8.000 đồng/đêm. 3 giờ sáng, chị tất tả ra chợ mua bánh, trái rồi gánh bán đến tận 1 giờ sáng hôm sau mới về. Ăn vội phần cơm nguội, tắm, giặt, chưa kịp ngả lưng đã lại quầy quả đi. Thành ra, trông chị lúc nào cũng như kiệt sức tới nơi. Dạo đó, tôi hay ghé công viên chơi, thăm chị. Hai chị em ngồi nói đủ thứ chuyện. Chị khoe 2 đứa con ở nhà học giỏi, ngoan ngoãn, khoe tháng vừa rồi chị bán được, chắt chiu gửi về nhà cho chồng, con cả triệu.

image

Thi thoảng, ngớt khách, chị ngồi bó gối, trầm ngâm, vừa nhìn xe cộ vừa thủ thỉ: “Chị ước hai đứa nhỏ nhà chị có cơ hội biết giảng đường đại học, biết Sài Gòn đặng tương lai bớt khổ”. Mỗi lần nhắc đến con, trong mắt chị ánh lên nhiều niềm vui. Chị bảo, lăn lộn kiếm từng đồng bạc lẻ như thế này không khiến chị khổ tâm bằng việc phải cho con thôi học. Bởi vậy, cực mấy chị cũng ráng chịu, chỉ cần các con chăm ngoan, học giỏi. Quen lâu, tôi chưa nghe chị than vãn hay mơ ước điều gì cho riêng mình. Tất cả đều vì con.

Hôm rồi gặp lại, chị cười hiền, khoe: “Hai đứa nhỏ nhà chị vô đại học hết rồi đó em”. Tôi mừng cho chị. Mừng những nhọc nhằn của chị đã được đền bù xứng đáng. Nhưng, hình như con càng học lên cao, chị càng cực. Bằng chứng là bữa cơm trắng quẹt với muối ới, mấy năm rồi vẫn vậy, không có gì khá hơn. Đôi dép lào mòn vẹt, cái nón lá rách bươm ngày xưa thấy chị ghi số điện thoại của con lên đó giờ chị còn đội trên đầu.

Tôi ngỏ ý xin theo chị bán hàng rong vài buổi. Chị lắc đầu nguây nguẩy, nói: “Thôi, thôi, sức đâu mà bán hả em. Sài Gòn đang mùa mưa, đường sá ngập nước tùm lum hết à, cái gánh này dòm vậy chớ nặng lắm, em kham không nổi đâu”. Tôi kham không nổi thật. Vừa kề vai vào, chực đứng dậy đã ngã nháo nhào. Mấy chị em cười ứa nước mắt. Chị Trang xuýt xoa: “Khổ chưa. Thôi, nếu muốn biết thì cứ theo chị, khỏi gánh gồng gì hết”. Đi cả buổi chiều, mưa không ngớt. Khách vắng, lạnh và đói meo.

image

Những người bán hàng rong trong đêm Sài Gòn

Chúng tôi ngang qua đường Nguyễn Thông (Q.3), trời bỗng đổ mưa ào ào. Trong mái hiên nhỏ, người đàn ông tóc bạc ngồi bó gối, không biết vì mệt hay vì lạnh. Tôi lân la hỏi chuyện, ông Huỳnh Văn Khương (61 tuổi, người Phú Yên) trải lòng: “Tôi vô Sài Gòn bán đậu phộng luộc 5 năm nay. Nhà có 4 đứa con, mần ruộng không đủ ăn nên phải đi thôi. Tôi thuê trọ dưới quận Bình Thạnh, chừng 4 giờ sáng là dậy nhận đậu đi bán đến 9-10 giờ đêm. Ngày nào cũng như ngày nào, lội bộ riết nên hai bàn chân từ chỗ sưng, đau thành ra chai luôn rồi”.

Ngoài thúng đậu phộng, bọc ni-lông, trong túi ông Khương còn có mớ thuốc Tây. Thấy lạ, hỏi mang theo thuốc chi vậy? Ông Khương bộc bạch: “Bệnh nhiều lắm cô à. Tôi bị tăng-xông, mệt trong người, phải mang theo thuốc đề phòng lỡ lên cơn đau đột ngột giữa đường thì còn biết xử trí”.

image

Mưa càng lúc càng nặng hạt. Ngoài đường, vài chị trùm áo mưa mỏng dính, tiếp tục quày quả đi. Cũng có người chở hàng bằng xe đạp, nhưng chủ yếu dắt bộ chứ chẳng ai dám ngồi lên xe chạy. Chị Trang nói vui: “Dắt bộ đặng mời khách chứ chạy ào ào thì bán cho ai. Những đêm ế khách, bọn chị hay ngồi chuyện trò rôm rả và so sánh coi chân ai chai hơn, “lì đòn” với mưa, nắng và sỏi đá hơn. Giả sử có cái giải thi gánh mướn, lội bộ đường dài chắc tụi chị trúng giải lớn quá”. Chị đùa mà tự dưng thấy nước mắt chảy.

Chập chờn giấc ngủ đêm

image

Lang bạt giữa Sài Gòn, không nhà, không người thân, tất nhiên phải ở trọ. Nhưng thực tế cho thấy, rất ít người bán hàng rong có đủ khả năng thuê một căn phòng tươm tất, sạch sẽ để ngả lưng sau ngày làm việc vất vả. Bởi vậy, ăn uống kham khổ, đến ngủ cũng kham khổ là tình cảnh chung của những người bán hàng rong.

Dì Tám (bán hàng rong tại công viên 23.9) tình thiệt: “Ôi, ăn còn không dám nói chi thuê phòng hả cô! Tụi tui chỉ mướn một chỗ ngủ vài ba giờ đồng hồ thôi. Hồi xưa giá có 6.000- 8.000 đồng/đêm, giờ thì 10.000- 15.000 đồng/đêm rồi. Nếu muốn sạc pin điện thoại thì phải trả thêm tiền. Nói chung, hở ra là tiền nên tiết kiệm được khoản nào hay khoản đó”.

Theo dì Tám, mấy xóm trọ trên đường Rạch Bùng Binh (Q.3), Cầu Ông Lãnh (Q.1) và cả dưới quận Bình Thạnh, Thủ Đức đều có những ngôi nhà cho người bán rong “mua ngủ” qua đêm. Bất kể già, trẻ, nam, nữ gì cũng có thể đi mua ngủ bởi giá thuê phòng trọ ở những quận này rất mắc. Hơn nữa, tâm lý chung của người bán hàng rong là “mỗi ngày ngủ chừng 2, 3 tiếng đồng hồ là nhiều, thuê phòng chi cho tốn kém”.

Phải năn nỉ mãi, chị Trang mới chịu đưa tôi về chỗ trọ mà chị đã tá túc mấy năm qua. Cái lý của chị nghe thương lắm: “Em là con gái, chỗ đó chẳng thích hợp cho em đâu. Đàn ông, phụ nữ, già, trẻ gì cũng chen vô ngủ, không có khoảng cách, không chăn, màn chi cả, đến cựa mình cũng khó khăn. Sợ vừa thấy cảnh đó, em lại nằng nặc đòi ra thì khổ. Đi bán như chị, miễn có được chỗ nằm nghỉ tí là mừng rồi, không dám đòi hỏi gì thêm”. Tôi quả quyết, dù thế nào cũng sẽ ngủ với chị một đêm.

Vậy là lại lẽo đẽo theo chị về khu vực Cầu Ông Lãnh. Chúng tôi dừng chân trong một căn nhà tối bưng, ẩm thấp và nồng nặc những mùi gián, chuột, thuốc lá. Nhà vệ sinh, nhà tắm dùng chung. 1 giờ sáng mà có cả chục người đứng, ngồi chờ đến lượt “giải quyết nhu cầu”. Chị Trang phân bua: “Đi bán cũng gặp nhà vệ sinh công cộng nhưng mình vô là mất 2.000 đồng/lượt chứ ít gì. Bởi vậy, ai cũng ráng nhịn em à, chừng nào chịu không thấu mới bấm bụng bỏ ra 2.000 đồng thôi. Riêng tắm, giặt thì chờ về đây, tắm phải dè xẻn từng ca nước.

image

Dù đã khuya nhưng những người phụ nữ bán hàng rong vẫn miệt mài với công việc của mình

Dạo này mưa, đi lang thang ngoài đường, người hết ướt rồi lại khô. Ngày mấy bận như vậy rất dễ bị cảm lạnh. Mà cảm thì cảm, hôm sau vẫn gắng dậy đi bán chứ không dám nghỉ”. Đứng cạnh chúng tôi, chị Phạm Thị Tâm (người Quảng Ngãi) xắn quần ống thấp, ống cao, mặt mũi bơ phờ. Chị thủ thỉ: “Nhiều khi, 2- 3 người phải vô nhà vệ sinh chung một lượt. Biết sao giờ, mình đi mua ngủ mà, có chỗ tắm táp, giặt giũ là may lắm rồi”.

Căn phòng mấy chục mét vuông mà cả trăm người chen chúc. Tiếng thở dài, tiếng ngáy, ho và cả những tiếng rì rầm chẳng rõ nghĩa vọng lại trong đêm. Tôi hỏi, có ngủ được không? Chị Trang cười: “Chập chờn thôi em. Từ ngày vô Sài Gòn đến giờ, chị chưa biết cảm giác ngả lưng xuống giường, chiếu, có gối, có mền nó thế nào. Thời gian đầu, buồn và tủi thân dữ lắm. Nhiều lúc muốn bỏ hết, về quê với chồng con, nhưng nghĩ đến cảnh ruộng ít, nhà lụp xụp, về thì tiền đâu đóng học phí, mua sách vở cho con, vậy là đành ở lại”.

Trong những ngày theo chân các bà, các chị bán hàng rong, tôi ngỡ ngàng nhận ra, đối với họ, mua chỗ ngủ qua đêm xem như vẫn còn may. Nhiều người vì không “xí” được một khoảng nền bé tẹo trong các nhà trọ đành ra quán cóc vỉa hè thuê võng, ghế ngủ ngồi. Có dịp ghé chợ đầu mối Bình Điền, Thủ Đức hay chợ Bình Tây lúc nửa đêm về sáng, sẽ không khó bắt gặp những phận đời ngủ ngồi giữa tiếng xe cộ ồn ào, khói thuốc lá nặng mùi và tiếng ngáy o o của cánh đàn ông.

image

Ông Khương cho biết: “Tôi thuê chỗ ngủ dưới Bình Thạnh, mấy trăm nghìn một tháng. Anh, em nằm, ngồi la liệt. Nhưng như vậy là mừng lắm rồi. Tôi đi bán mấy năm, gặp nhiều anh em khổ hơn nhiều. Họ ngủ ngoài đường, trong nhà chờ xe buýt hoặc mấy quán cà phê, người ta tính giá ghế, theo loại nước mình gọi, võng thì mắc hơn, chừng 10 ngàn/chiếc”.

Người xa quê, chọn nghề buôn thúng bán bưng giữa Sài Gòn là vậy. Họ luôn cố gắng tiết kiệm đến hết mức có thể. Ví như chị Trang, chị Tâm mỗi ngày chỉ ăn đúng một bữa. Thức ăn thường trực của họ là muối ớt, năm khi mười họa mới dám mua hộp cơm có thịt, cá. Không thuê phòng trọ, giấc ngủ luôn trong cảnh “thiếu trước hụt sau”.

Những ngày dọc ngang qua mấy công viên, thỉnh thoảng tôi lại gặp một bà, chị ngồi ngủ gật ngay bên gánh hàng của mình. Đến chừng giật mình dậy, gương mặt của họ hãy còn phảng phất cái sự “thèm ngủ”. Vậy mà, chẳng thấy ai than vãn điều gì. Họ cứ lặng lẽ đi, về như con ong chăm chỉ. Chị Trang bảo người bán rong dù là nam hay nữ gì cũng vậy, giấc ngủ luôn luôn thiếu.

Và những hiểm nguy

“Đã nghèo còn gặp eo” là câu nói tôi hay nghe các bà, các chị rỉ tai trong những ngày theo chân họ. Nào bị cụt vốn vì khách ăn quỵt, xin đểu, nào cướp giật, móc túi, đủ cả những điều bất an. Thế nhưng, lỡ có gặp nạn cũng cắn răng chịu chứ không biết cầu cứu ai. “Đã chọn nghề này thì phải chấp nhận rủi ro”- chị Trang kết luận.

image

Ghé Hồ Con Rùa vào đêm mưa, tôi chạnh lòng bắt gặp hình ảnh một người phụ nữ nằm co ro ngủ bên gánh hàng ế ẩm. Gọi mãi chị mới giật mình ngồi dậy. Rồi như nhớ ra điều gì khẩn cấp lắm, chị dụi mắt, hì hục lục lọi trong mấy lớp áo cũ tìm vật gì đó. Đến khi lôi ra được cái túi vải xỉn màu, chị mới thở phào: “Lội bộ từ quận Bình Thạnh lên tới công viên Lê Thị Riêng rồi qua đây, tôi kiệt sức, ngủ lúc nào không hay.

Mấy bận trước cũng thế này, tỉnh dậy thì không chỉ bánh, trái mất mà ngay cả tiền bọc trong túi cũng mất sạch”. Nói rồi, chị lại khẽ thờ dài. Chị tên Dinh, người Quảng Ngãi, 45 tuổi, tóc đã bạc và đôi mắt rất buồn. Chị bảo, hành trình buôn thúng bán bưng của mình mới đó mà đã ngót chục năm. Chị Dinh cho biết: “Mình phụ nữ chân yếu tay mềm, đi bán ban đêm nguy hiểm lắm. Có lần, một nhóm 5, 6 thanh niên tóc đỏ, tóc vàng ghé lại kêu tôi làm bánh tráng trộn. Tôi mừng quá chừng vì nghĩ mình gặp mánh, bán được nhiều. Ai dè, đang lúi húi thì một cậu đâu 20, 21 tuổi gì đó, kề dao sát cổ tôi, kêu có nhiêu tiền đưa ra, im thì sống. Vậy là, tôi có dám ú ớ câu nào đâu. Bao nhiêu vốn liếng bay hết chỉ trong vòng một phút.

Đau lắm! Tụi nhỏ bỏ đi, tôi ngồi khóc như mưa. Thấy thương mình quá!”. Ngồi gần chị Dinh, chị Nguyễn Thị Gái (người Bình Định) góp chuyện: “Làm nghề này, ngoài vất vả ra, rủi ro cũng rất nhiều. Hôm rồi, tôi ngồi bán bên công viên 23/9, có hai thanh niên tới mua cóc, xoài và bánh tráng trộn. Vừa làm xong, chưa kịp nói gì thì cả hai hè nhau giật phăng mấy gói bánh bỏ chạy. Vậy là mất tiền. Tôi đâu thể chạy theo, phần biết sức mình đuổi không kịp, phần lo, lỡ hớ ra, mấy đứa có đồng bọn đằng sau chạy tới trút luôn cái gánh thì cụt đường buôn bán chứ chẳng chơi”.

image

Bị móc túi, ăn quỵt chưa phải là những mối lo duy nhất của người bán hàng rong. Việc mua chỗ ngủ qua đêm cũng thường trực bất an cho họ. Tôi chưa kịp ngả lưng xuống nền, chị Tâm đã dặn dò: “Em có mang theo tiền bạc hay điện thoại thì nhớ cẩn thận kẻo bị móc mất, sáng dậy không còn gì đâu”. Chị Trang kể: “Người mua chỗ ngủ đủ mọi thành phần, biết ai mà lần. Chuyện kẻ xấu trà trộn vô ngủ để móc túi xảy ra thường xuyên. Chị bị mất một lần rồi. Về sau, kinh nghiệm là mình phải chia tiền ra, bỏ trong nhiều túi, chẳng may mất cái này thì còn cái khác”.

Bán hàng rong ban đêm, giá có nhỉnh hơn ban ngày 1.000- 2.000 đồng/loại hàng. Không chỉ vậy, ban đêm, khách ghé công viên chơi, ra bờ kè nhậu nhẹt nên các loại trái cây, đậu phộng, trứng cút, trứng gà bán được nhiều. Do dó, người bán hàng rong thường chấp nhận cảnh đi sớm, về khuya những mong có thêm ít tiền lời. Theo tìm hiểu của tôi, không chỉ cánh phụ nữ mà đàn ông cũng gặp phải cảnh xin đểu, trấn lột giữa đêm như thường.

Bán cá viên chiên, trứng cút chiên ngót 8 năm, anh Ngô Văn Thành (30 tuổi) không thể nhớ hết số lần mình bị ăn quỵt, xin đểu. Anh Thành kể: “Nhiều khi do đông khách, mình lơ là nên mấy tên choai choai ghé mua rồi bỏ chạy khi chưa trả tiền, nhưng phần lớn là chúng đi thành nhóm, 3- 4 tên, kề dao, kim tiêm vào cổ mình xin “chút đỉnh”. Những lúc như vậy, rất khó phản ứng kịp”.

image

Kham khổ nhiều, nguy hiểm cũng lắm nhưng khi tôi hỏi tính chừng nào về quê hẳn thì các bà, các chị, cá chú lại lắc đầu: “Chắc còn lâu lắm. Chờ tụi nhỏ học hành thành tài cái đã rồi mới tính. Ai chẳng muốn sum họp bên gia đình, nhưng về quê thì lấy gì sống?”. Câu hỏi nghe nhẹ hều mà chẳng ai trả lời được. Và như thế, họ lại lầm lũi sống những ngày đơn độc, vắt kiệt sức bên những gánh, thúng hàng rong. Với những phận đời ấy, đường về quê xa lắc!

Nhật Nguyệt

Hàng rong Sài Gòn hơn 100 năm trước

image

Gánh phở, xe kem, thùng tào phớ… trên vai, bộ bưu ảnh tái hiện nhiều ký ức thân quen ở Sài Gòn – Chợ Lớn đồng thời cho thấy cảnh sôi động của thành phố ngay từ đầu thế kỷ 20.

Đô thị Sài Gòn- Chợ Lớn, một trong hai thành phố quan trọng nhất Việt Nam sau khi Pháp chiếm Đông Dương vào cuối thế kỷ 19. Các nhà nhiếp ảnh người Pháp nhanh chóng phát hiện ra hoạt động buôn bán kiểu di động- hàng hoá, thức ăn được lưu thông dựa vào sự dẻo dai của đôi chân người bán hàng, có mặt ở khắp các ngóc ngách của thành phố. Bộ bưu ảnh hàng rong ở Sài Gòn- Chợ Lớn tái hiện một phần đời sống kinh tế- xã hội cũng như văn hoá của người Việt hồi đầu thế kỷ 20.

image

Phở là món ăn truyền thống của người Việt xuất hiện đầu tiên trên các gánh hàng rong. Thành phần đơn giản, chỉ gồm nước lèo, bánh phở, một vài miếng thịt và các lọ gia vị. Đây là một gánh phở dạo khác của người Sài Gòn xưa, người bán hàng gánh cả bếp lò, nồi nước sôi đi khắp nơi phục vụ.

image

Bánh gạo, một loại bánh phổ biến ũng được bán rong trên các khu phố. Bánh được làm từ gạo trộn cùng một số loại ngũ cốc khác cho có mùi vị, cho thêm bột kết dính rồi ép dẹp, sau đó hấp chín.

image

Cháo, mì hay hủ tiếu được người Pháp gọi chung là súp. Các gánh hàng loại này khá cồng kềnh, nặng nề nên chủ gánh thường chọn một góc phố đông người, ngã tư để tiện buôn bán.

image

Hình ảnh khá thú vị về một xe bán kem của người Hoa Sài Gòn những năm đầu thế kỷ 20. Kem được làm mát bằng đá lạnh xếp xung quanh, sát thùng là một lớp xốp mỏng để giữ đá lâu tan. Người bán sẽ “thu hút” khách bằng một cái chuông nhỏ gắn sát tay lái bên phải.

image

Khu vực Chợ Lớn tập trung đông đúc người Tàu theo đường biển vào lập nghiệp ở Việt Nam từ thời các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi. Người Hoa là những người giỏi buôn bán, chịu khó nên các gánh hàng của họ thường đông khách. Hình ảnh chú “Khách”- một cách gọi người Hoa của người Việt bán với đôi quang gánh bán dạo các món ăn như mì, cháo, tào phớ… rất quen thuộc và tồn tại cho đến những năm 70 của thế kỷ 20.

image

Hình ảnh điển hình của gánh tào phớ xưa. Người bán thường gánh một thùng gỗ đựng tào phớ, một chạn gỗ đựng chén bát, muỗng, và những vật dụng khác. Người bán tào phớ có tiếng rao rất đặc biệt, chỉ có một chữ ” phớ…” kéo dài.

image

Quán bán nước giải khát trên vỉa hè. Người bán hàng ngồi trên ghế cho thấy quán hàng kiểu này là cố đinh, khách hàng là khách qua đường, các bác phu xe kéo nghỉ chân uống chén trà xanh hay một loại nước trái cây nào đó như dừa, được trồng nhiều ở ngay tại vùng Sài Gòn- Chợ Lớn.

image

Những thực khách ngồi xổm thưởng thức món mỳ của một người bán hàng rong người Hoa ngay trên đường. Các gánh hàng kiểu này vẫn duy trì nhiều ở Sài Gòn cho đến tận những năm 1970.

image

Nón lá, hình ảnh đặc trưng của người Việt, được làm từ lá cọ lợp trên nên khung tre nhỏ hình chóp nhọn dưới có quai đeo, nón rộng vành nên che kín mặt và rất mát. Nón của người Việt khác với nón người Trung Quốc hay đội với cái chóp nhọn đặc trưng.

image

Sài Gòn xưa cũng có những khu phố tập hợp các loại gánh hàng rong để người dân và khách thuận tiện ăn uống. Vào buổi sáng khu phố rất náo nhiệt thu hút cả người Tây sống ở thuộc địa.

image

Họp chợ trên đường phố là một thói quen cố hữu của người Việt. Buôn bán nhỏ, mang bán từng mớ rau, con cá nuôi được nên người Việt tiện đâu bán đấy. Những hình ảnh này cho thấy các bà các chị đang mua bán nông sản, thực phẩm rất sôi động trên phố phường Sài Gòn xưa.

image

Một người Việt với chiếc nón lá đặc trưng quẩy đôi quang gánh trên đường phố Sài Gòn. Trong đôi sọt đan bằng lá của người đàn ông này thường có nhiều loại nông sản do chính gia đình trồng được để mang đi bán.

Bác sỹ người Mỹ nhiễm virus Ebola về nước

Bác sỹ người Mỹ nhiễm virus Ebola về nước

Bác sỹ Kent Brantly (trái) chữa trị cho một bệnh nhân nhiễm virus Ebola ở Liberia.

Bác sỹ Kent Brantly (trái) chữa trị cho một bệnh nhân nhiễm virus Ebola ở Liberia.

02.08.2014

Một bác sĩ nhiễm virus Ebola khi giúp những nạn nhân tại Liberia đã trở về Mỹ, trở thành bệnh nhân Ebola đầu tiên trên đất Mỹ.

Bác sĩ Kent Brantly được chở từ Liberia đến tiểu bang Georgia ở miền nam hôm nay, trên một chiếc máy bay thuê bao được trang bị các dụng cụ y tế đặc biệt.

Sau khi đến một căn cứ quân sự ở Georgia, ông được chuyển sang một xe cứu thương trong một đoàn xe đến Bệnh viện của trường đại học Emory, một cơ sở y tế tại thành phố Atlanta.

Video truyền hình từ bệnh viện cho thấy hai người ra khỏi xe cứu thương mặc bộ đồ bảo hộ màu trắng phủ toàn thân và vào bệnh viện.

Bệnh viện này là một trong 4 bệnh viện duy nhất tại Mỹ được trang bị để chữa trị những trường hợp này.

Bác sĩ Brantly sẽ được chữa trị trong một phòng cách ly hoàn toàn khỏi những khu vực bệnh nhân khác.

Bác sĩ Brantly và một người Mỹ khác là bà Nancy Writebol, là những nhân viên cứu trợ tại Liberia khi bị nhiễm virus Ebola. Virus này đã làm hơn 700 người thiệt mạng tại Tây Phi kể từ tháng Ba năm nay.

Bà Writebol sẽ đến Mỹ trong vòng vài ngày nữa và sẽ được chữa trị tại cùng một bệnh viện ở Atlanta.

Các giới chức y tế sẽ sử dụng cùng chiếc máy bay phản lực để chở bà Writebol. Chiếc máy bay nhỏ này chỉ có thể chở mỗi lần một người bị cách ly mà thôi.

Một bác sĩ Atlanta thuộc toán chữa trị cho bác sĩ Brantly cho biết ông không đồng ý về ý tưởng cho rằng virút Ebola được mang vào Mỹ.

Bác sĩ Jay Varkey nói ông xem bác sĩ Brantly như là một bệnh nhân cần được sự giúp đỡ của toán bác sĩ chữa trị.

 

Chính quyền Việt Nam mắc nợ ‘khủng khiếp’

Chính quyền Việt Nam mắc nợ ‘khủng khiếp’

August 03, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Ông Trịnh Tiến Dũng, một chuyên gia kinh tế khẳng định, các doanh nghiệp nhà nước nợ “khủng khiếp” và chính quyền Việt Nam không thể phủ nhận đây là nợ của mình.

Tuy phủ nhận trách nhiệm đối với chuyện nợ nần của các doanh nghiệp nhà nước nhưng những khoản nợ này vẫn tồn tại như các trái bom có thể nổ bất kỳ lúc nào. (Hình minh họa: Báo Dân Trí)

Ông Dũng là cựu trợ lý của trưởng ban cải cách khu vực công của Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại Việt Nam.

Hồi Tháng Sáu vừa qua, Bộ Tài Chính Việt Nam công bố báo cáo về sử dụng vốn vay, quản lý nợ công của chính quyền Việt Nam.

Theo báo cáo vừa kể, tính đến hết năm ngoái, Việt Nam nợ 1,913,000 tỷ đồng, tương đương 53.4% GDP, trong đó nợ của chính phủ Việt Nam là 1,488,000 tỷ đồng, tương đương 41.5% GDP.

Tính đến hết năm 2013, tổng số dự án được chính phủ Việt Nam bảo lãnh để vay là 104 dự án, trong đó có 23 dự án đã trả xong nợ.

Riêng năm ngoái, chính phủ Việt Nam bảo lãnh cho tám dự án vay $3.161 tỷ từ các tổ chức tín dụng ngoại quốc hoặc phát hành trái phiếu quốc tế.

Cả Bộ Tài Chính lẫn chính quyền Việt Nam liên tục khẳng định, những khoản nợ khác của các doanh nghiệp nhà nước không thể xem là nợ của chính quyền. Các doanh nghiệp nhà nước tự vay và tự trả.

Nhiều chuyên gia kinh tế khẳng định đó là một kiểu ngụy biện. Chính quyền Việt Nam ngụy biện như thế để trấn an mọi người rằng, nợ nần của chính quyền Việt Nam chưa vượt quá mức 65% GDP.

Theo khuyến cáo của nhiều tổ chức quốc tế, nếu nợ nần vượt quá mức 65% GDP thì an ninh tài chính quốc gia không còn an toàn.

Theo ông Dũng, dù những khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước được chính quyền Việt Nam bảo lãnh rồi được gộp vào khối nợ chung của chính quyển, chỉ chừng 4.2% đến 6.9% tổng nợ quốc gia nhưng tỷ lệ đó không phản ánh đúng thực chất nợ nần và thực tế vay trả.

Tại một cuộc hội thảo về nợ công, diễn ra hồi trung tuần tháng trước, ông Dũng đưa ra nhiều dẫn chứng để bác bỏ lập luận, các doanh nghiệp nhà nước tự vay và tự trả nợ. Nợ của các doanh nghiệp nhà nước không liên quan đến nợ nần của chình quyền.

Ví dụ rõ ràng nhất là trường hợp Vinashin. Năm 2009, tập đoàn nhà nước này phá sản và để lại khoản nợ 89,000 tỉ đồng, tương đương 52% GDP của năm 2009. Sau đó, chính quyền Việt Nam đã tổ chức chuyển nợ của Vinashin cho Vinalines và Petro Vietnam, bổ sung vốn, khoanh nợ. Tuy Vinashin “tự vay” nhưng rõ ràng trả là do chính quyền Việt Nam, kể cả phát hành trái phiếu để bù đắp và vì thế khiến ngân sách thâm thủng.

Không riêng ông Dũng, hai ông Phạm Thế Anh và Ðinh Tuấn Minh cũng đã sử dụng nhiều số liệu để chứng minh rằng, tổng các khoản nợ của hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã vay mà không được chính quyền Việt Nam bảo lãnh, nên không được kể là nợ công, tương đương 40.9% GDP.

Nếu tính đúng, tính đủ, cộng cả nợ nần chính thức lẫn nợ nần của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, những khoản chưa thanh toán khi thực hiện các công trình hạ tầng, nợ nần của chính quyền Việt Nam hiện nay xấp xỉ 98.2% GDP.

Hai ông Phạm Thế Anh và Ðinh Tuấn Minh khẳng định, các khoản vay ngoại quốc, vay các nhân hàng trong nước, vay lẫn nhau của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, dù không được chính quyền Việt Nam bảo lãnh vẫn đe dọa an ninh tài chính quốc gia.

Nếu không muốn những quả bom này phát nổ, việc cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa những doanh nghiệp này phải “triệt để,” không thể “hình thức” nhưng thực tế cho thấy, đến nay, cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa những doanh nghiệp này vẫn như trò đùa. (G.Ð.)

 

TQ ‘giương móng vuốt bắt con hổ họ Chu’

TQ ‘giương móng vuốt bắt con hổ họ Chu’

Carrie Gracie

Biên tập viên Trung Quốc

Thứ hai, 4 tháng 8, 2014

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chính thức thông báo điều tra một trong những chính trị gia quyền uy nhất, cựu lãnh đạo an ninh Chu Vĩnh Khang.

Trong động thái chứng tỏ Chủ tịch Tập Cận Bình đã chiến thắng trong trận đấu khó khăn giành quyền chỉ huy tối cao, Tân Hoa xã nói ông Chu sẽ bị điều tra do các vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, một cách nói để ám chỉ tội tham nhũng.

“Không cần biết con hổ to như thế nào, một khi vi phạm pháp luật… và vi phạm luật lệ đảng, con hổ đó sẽ khó có thể thoát được lồng sắt.”

Đây là phán quyết từ cơ quan ngôn luận của đảng, Nhân dân Nhật báo, khi đưa tin về vụ điều tra ông Chu Vĩnh Khang.

Nhưng với sự bẽ bàng của ông ta, chính trị Trung Quốc bước vào giai đoạn chưa từng có. Ông Chu là chính trị gia cấp cao nhất bị làm nhục theo cách này trong nhiều thập niên qua.

Trong giai đoạn đổi mới từ 35 năm qua, có bộ quy tắc không thành văn rằng những người mới lên nắm quyền không tấn công những người đã rời chức, nỗ lực nhằm tránh tình trạng thanh trừng chính trị man rợ trong thời Mao.

Chu Vĩnh Khang nghỉ hưu sau khi điều hành mạng lưới an ninh đầy quyền lực cùng lúc với ông Tập Cận Bình được thăng chức lãnh đạo Đảng năm 2012.

Nhưng với thông báo về vụ điều tra ông Chu, Chủ tịch Tập đã xé bỏ bộ quy tắc dành riêng cho chính giới cấp cao Trung Quốc, và các chính trị gia quyền lực một thời khác đang lo lắng mình có thể là người tiếp theo.

Ông Chu Vĩnh Khang thời còn làm lãnh đạo công an

Biến mất trước công chúng

Chu Vĩnh Khang nổi lên từ một gia đình nghèo và trở thành k‎ỹ sư ngành dầu khí, dần thăng tiến qua các cấp bậc trong đảng để lên nắm công ty dầu khí lớn nhất Trung Quốc rồi sau đó dẫn dắt Tứ Xuyên, tỉnh lỵ có 80 triệu dân.

Đỉnh cao sự nghiệp của ông là chiếc ghế trong đội ngũ chính trị cao nhất của đảng, Ủy viên thường trực Bộ chính trị.

Ngoài ngôi làng ở quê nhà, khó có thể nói ông là người được yêu quý ở Trung Quốc, nhưng tới năm 2012, ông có thể đạt được cái tiếng là người đáng sợ nhất.

Thông báo từ cơ quan thông tấn chính thống của Trung Quốc không ghi rõ chi tiết các cáo buộc đối với ông Chu.

Nhưng nhiều nhà quan sát tin rằng, số phận của ông đã được định đoạt khi người mà ông bảo trợ, Bạc Hy Lai, thất thế sau việc vợ ông liên quan tới vụ sát hại một doanh nhân người Anh đầy tai tiếng.

Rõ ràng là ông Chu Vĩnh Khang đã gặp rắc rối khi bỗng biến mất trước công chúng từ năm ngoái.

Trong những tháng sau đó, tên tuổi ông không được truyền thông Trung Quốc nhắc tới, nhưng lần lượt các đồng minh chính trị của ông, trong ngành dầu khí, ở tỉnh Tứ Xuyên hay trong bộ máy an ninh, đều trở thành con mồi cho chiến dịch chống tham nhũng ngày càng khốc liệt.

Các thành viên gia đình, tài xế, vệ sỹ, và những người được ông bảo trợ cũng bị sa lưới. Thông báo điều tra ông chỉ là vấn đề thời gian.

Vụ xử Bạc Hy Lai khiến nhiều nhân vật sửng sốt

‘Cả hổ lẫn ruồi’

Hệ thống chính trị độc đảng của Trung Quốc thiếu hệ thống bầu cử để có chỗ cho người mới và ý tưởng mới và chiến dịch chống tham nhũng thường được coi là phương thức tiện lợi để lãnh đạo mới khống chế đối thủ và củng cố quyền lực.

Nhưng khi làm nhục một nhân vật cấp cao đến thế, ông Tập Cận Bình đang đánh tín hiệu cho thấy chiến dịch của ông rất khác.

Suốt nhiều năm, các lãnh đạo Đảng Cộng sản đã cảnh báo rằng tham nhũng tràn lan là mối đe dọa lớn nhất đối với sự sống còn của đảng. Khó phóng đại nghi ngờ sâu sắc của dân chúng đối với tầng lớp lãnh đạo.

Khi kinh tế phát triển mạnh, các quan chức cấp cao vơ vét hàng tỷ từ tài sản công, rất nhiều trong số đó giấu của trong các tài khoản và tài sản ở nước ngoài.

Các chỉ trích gia cáo buộc ông Tập là người giả nhân giả nghĩa khi một số người trong gia đình ông trở nên giàu có hơn trong những năm gần đây.

Nhưng tuyên bố quyết tâm trị “cả hổ lẫn ruồi” của ông đã được sự ủng hộ của dân chúng và gửi tín hiệu tới hệ thống đảng và chính quyền rằng ông thực sự nghiêm túc trong việc giải quyết vấn đề tư lợi, đặc biệt là với những ai có thể có ý định cản trở kế hoạch đổi mới kinh tế của ông.

Hàng ngàn quan chức đã bị điều tra và không có dấu hiệu cho thấy chiến dịch này sẽ ngưng lại.

Nhân dân Nhật báo viết hôm 29/07: “Tình hình vẫn dữ dội và phức tạp… Đấu tranh chống tham nhũng sẽ không kết thúc. Lôi được Chu Vĩnh Khang ra không phải là hết. Đây chỉ là một bước, một giai đoạn. Bất kỳ ai tham nhũng cũng sẽ bị trừng phạt.”

Với ông Tập Cận Bình, đây là chiến thắng cá nhân quan trọng. Ông đã kết liễu những nghi ngại về việc liệu ông có thể hạ một trong những “con hổ” lớn nhất này và chứng tỏ mình là người đứng đầu mạnh mẽ không ai địch nổi.

Nhưng một bình luận trên mạng xã hội đưa ra vào đêm có thông báo điều tra rằng liệu ông Chu có thực sự là “vua của bầy hổ hay cũng chỉ là một con hổ thường mà thôi?” Và rất nhiều người Trung Quốc khác đồn đoán về “bầy hổ” còn lại vẫn đang tự do, những cựu lãnh đạo hay lãnh đạo đương chức che chắn cho các đế chế doanh nghiệp tham nhũng của người trong gia đình.

Hơn nữa, thông báo này chẳng có gì là cứu vãn danh tiếng của Đảng cả.

Cú đánh chính trị trọng đại lại chỉ được chuyển tải bằng một dòng ngắn gọn trên các cơ quan thông tấn và truyền thông nhà nước cho thấy người Trung Quốc hay công chúng thế giới vẫn chỉ được phép biết ít ỏi về các vấn đề nội chính của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.

GẬY ÔNG LẠI ĐẬP LƯNG BÀ

GẬY ÔNG LẠI ĐẬP LƯNG BÀ

Vợ chồng bà ly dị tính ra cũng hơn mười năm. Ly dị, không phải vì hạnh phúc gia đình bị vùi dập trong những cơn sóng gió, mà chỉ vì cả hai muốn tìm chút thú vị cho cuộc đời.

Thời gian mới đến Mỹ, hai vợ chồng bà đi làm lương ba cọc ba đồng, tháng nào cũng chật vật, thiếu thốn. Vì ngoài những khoản chi tiêu cho gia đình, gồm hai vợ chồng và hai đứa con, ông bà lại còn phải gửi tiền về Việt Nam hàng tháng cho cha mẹ hai bên. Gần hai năm trời, thời khóa biểu hàng ngày của bà đều đặn không thay đổi, sáng đi làm, chiều về nhà nấu ăn, cuối tuần đi chợ, giặt giũ quần áo… chẳng đi chơi, chẳng biết đâu là đâu. Chị Năm hàng xóm nghe bà than thân, trách phận mới nhỏ to chỉ dẫn. Thì ra, ở đất Mỹ này, nếu biết mánh mung cũng hưởng được nhiều khoản “quyền lợi”. Tối hôm đó, bà nhận được cú điện thoại “giúp đỡ” của chị Hiểu:

-Tôi sẽ giúp chị xin được nhà theo chương trình Housing, và cả tiền Food stamp nữa.

Bà còn lớ ngớ chưa biết nói năng gì, chị bồi thêm:

-Có điều kiện, tội gì không hưởng!

Ngập ngừng một lúc, bà nói nhỏ như sợ có ai nghe thấy:

-Vợ chồng tôi đi làm có lãnh lương đàng hoàng, làm sao có điều kiện mà hưởng.

Chị Hiểu xăn xái cướp lời:

-Lo gì chuyện đó. Phải làm được tôi mới nói. Miễn là tôi biểu gì, chị làm nấy thì chuyện gì cũng xong. Bảo đảm, một năm chị dư gần chục ngàn, bỏ túi xài chơi.

Bà bàng hoàng khi nghe đến số tiền khổng lồ -đối với bà lúc đó- nên chăm chú lắng nghe chị chỉ vẽ.

Suốt đêm đó bà trằn trọc không ngủ được. Vừa thích, vừa lo. Nửa muốn, nửa không. Bà dựng ông dậy vào giữa khuya để bàn bạc. Nói là bàn chứ mọi sự bà muốn ông phải thuận theo ý muốn của bà. Chỉ cần có người gật đầu, để bà yên tâm là mình có đồng minh. Ông thở hắt ra, quấn mình trong chăn, giọng ngái ngủ:

-Ối! bà muốn làm gì thì làm, tôi có cản nổi bà đâu mà bày đặt hỏi.

Vậy là theo “kế hoạch” bà thi hành, sau khi chạy đôn, chạy đáo, mượn một số tiền “khá bộn” để trà nước cho chị Hiểu. Việc trước tiên, bà nghỉ việc ở hãng, rồi xin vào làm ở một shop may. Tiền lương thì bà nằn nì chủ shop trả một nửa tiền mặt, một nửa check. Bước kế tiếp, hai vợ chồng bà ký tên vào đơn ly dị. Chưa đầy một năm thì bà mướn được căn nhà nhỏ ba phòng mà không tốn xu nào.

Thời gian đầu ông còn thận trọng việc đi về, vì sợ hàng xóm để ý, nhưng sau đó thì đâu vào đấy êm xuôi. Bà sung sướng vẽ ra một bản kế hoạch chi tiêu. Hàng tháng, bà chỉ xài phân nửa tiền lương của ông, cộng với tiền food stamp. Phân nửa còn lại và tiền lương của bà được cất kỹ ở một nơi bí mật. Tính ra, dư cả ngàn một tháng chứ đâu ít. Hạnh phúc đời bà cứ tăng dần theo số tiền trong “hộp saving”. Ông thì đặng chẳng mừng, mất chẳng lo. Cứ mỗi lần nghe bà báo cáo con số, ông lại trề môi, nhíu mũi:

-Tiền nhiều thì hưởng được gì? Có bao giờ được đi chơi hay ăn nhà hàng đâu. Lần nào bạn bè mời dự tiệc, bà cũng viện cớ từ chối, vì sợ phải tốn tiền quà cáp. Có bao nhiêu tiền đi nữa tôi cũng là cái thằng đói suốt đời, đói đủ mọi thứ.

Lòng bà đang tràn ngập niềm vui, nên dù ông có đay nghiến bà cũng không giận. Đứa con gái lớn, mới mười bốn tuổi cũng a dua theo ba nó, lên giọng dạy đời:

-Ba má làm chuyện kỳ cục. Mỗi lần người quen hỏi, ủa ba má mày ly dị từ hồi nào, con xấu hổ gần chết.

Thằng con út đi qua đi lại, cái mặt nghênh nghênh, chì chiết:

-Người lớn mà nói dối … vậy mà biểu con phải thiệt thà.

Bà cười bao dung, không chấp nhất bọn trẻ. Thế mới biết, khi người ta cảm thấy hạnh phúc thì tâm hồn cởi mở hơn, chẳng để ý làm gì đến những chuyện nhỏ nhặt xung quanh.

***

Ba năm sau, chị Năm hàng xóm -cũng là chị Năm thân ái – thủ thỉ với bà:

-Bà muốn có mười mấy ngàn bỏ túi không?

Bà tròn mắt:

-Giỡn chơi hoài, không lẽ ai có dư tiền, rồi không biết làm gì, kiếm tôi cho không?

Chị Năm nhìn bà, nói với giọng “hình sự”:

-Thiệt đó, bà để ổng về Việt Nam cưới con nhỏ cháu chồng tôi đem qua đây, lấy mười hai ngàn nhẹ nhàng.

Bà giật nẩy mình, nhìn chị hàng xóm chầm chập:

-Bà nói gì kỳ vậy… còn tôi … bỏ ở đâu?

Chị Năm cười ngặt nghẽo, khoát tay lia lịa:

-Hổng phải …. cưới giả thôi mà. Chuyện vầy nè ….

…. Vậy là vợ chồng bà được hai vé máy bay về Việt Nam “free”. Sau đó là một bao thư dầy cộm những tờ giấy một trăm đôla trong đó. Tiền trong “hộp saving” lại cao vun lên. Bà cảm thấy hạnh phúc vô vàn. Đã cố tình dấu kín, vậy mà không hiểu sao đứa con gái cũng biết. Nó vùng vằng nói với bà:

-Hết biết ba má rồi. Má đó nghe, cứ giả… rồi có ngày thiệt cho coi!

Bà cười hệch hạc:

-Ối! có mất mát gì đâu mà sợ. Chờ đủ ba năm thì ba bây làm giấy ly dị là xong. Ba năm… lâu la gì con ơi!

Thật vậy, ba năm bay qua cái vèo. Mọi chuyện trót lọt êm xuôi. Ông chồng của bà cũng mỗi ngày đi đi, về về, tối leo lên giường, nằm cạnh bà ngáy ro ro.

Một năm sau, vào buổi sáng đẹp trời, chị Năm lại sang thỏ thẻ:

-Kỳ này, mười lăm ngàn đó …. làm một chuyến nữa đi.

Bà mừng rơn, nhưng cũng làm bộ:

-Thôi! làm hoài… ngán quá. Rủi đổ bể, chết cả đám chị ơi!

-Làm sao bể được. Bà dấu kín, người ta còn kín hơn bà nữa. Đừng sợ, bà cẩn thận một, người ta cẩn thận mười. Ngon gần chết, bỏ uổng.

Bà quay ngược lại hỏi:

-Ùa! ngon sao chị không biểu anh Năm làm đi ?

Chị Năm cười nhẹ:

-Thì … tôi thấy … sẵn ổng với bà ly dị rồi …

-Thôi, lần này chị với anh Năm làm đi… kiếm tiền xài chơi.

Chị hàng xóm trở giọng nghe bắt ghét:

-Đời nào ông nhà tôi chịu làm chuyện đó.

Bà bực mình nên trả lời nhát gừng:

-Để tôi tính lại!

Đêm đó, bà chờ đến nửa khuya, khi mọi người yên giấc mới nhẹ nhàng lôi chiếc hộp ra đếm tới, đếm lui. Ôi! những tờ giấy bạc sao mà thơm ngát, hấp dẫn quá chừng. Để coi, mười lăm ngàn nữa là bao nhiêu hén. Trời! nhiều dữ vậy sao? Có nằm mơ, bà cũng không nghĩ rằng có ngày mình cầm được trong tay một số tiền lớn như thế. Đứng lên, ngồi xuống, lăn qua trở lại cả đêm, cuối cùng, bà lắc vai ông, ngọt ngào nói:

-Làm chuyến chót đi ông để kiếm tiền dưỡng già.

-Ừa !! ừa!!!

Bà hân hoan dẫn ông về Việt Nam “cưới vợ” lần thứ hai giữa sự chống đối và bất mãn của hai đứa con.

-Bọn bây còn nhỏ, ăn chưa no lo chưa tới, không biết tính toán chuyện lâu dài thì để tao lo, đừng nói tới, nói lui mệt lắm.

Thời gian trôi, rồi ba năm lại qua nữa. Ông ký tên lên tờ giấy ly dị thêm một lần nữa giữa tiếng thở phào nhẹ nhõm của bà. Tiền thì cũng ham lắm, nhưng trong lòng bà cũng thấp thỏm lo âu, lỡ có chuyện gì bất trắc, chắc là khó yên với ba cha con nó.

Thật sự, lúc bấy giờ bà có thể chọn cho mình một cuộc sống thanh thản, nếu bà muốn. Vì con cái đã lớn, học hành đâu ra đó, tiền chìm cũng rủng rỉnh đầy hộp, chồng thì hiền lành, dễ sai dễ bảo, chuyện gì cũng OK tuốt. Nhưng bà vẫn còn mê đôla, nên suốt ngày gò lưng trên bàn máy để kiếm tiền.Thấy bạn bè làm nghề may đều đổi sang dũa móng tay, lượm tiền như lượm lá, bà ham quá đỗi. Ngặt nỗi, cái đầu bà nhất định không chấp nhận. Nó phản đối dữ dội mỗi khi bà tiếp xúc với mùi hóa chất. Nó hành hạ bà bằng những cơn nhức đầu như búa bổ. Bà đành phải dẹp mộng làm nail để trở về shop may đếm bạc cắc.

Một năm nữa lại sắp hết. Sau khi bị layoff, ông tìm việc mãi không được, nên đành phải lên tận Fort Worth, nhận đỡ công việc mà ông không hề thích, đã vậy còn làm ca ba. Qua hai tháng, chịu hết nổi, ông mướn apartment ở, cuối tuần mới về nhà. Bà và hai đứa nhỏ đề nghị ông tìm job khác gần hơn, chứ tiền lương đâu có bao nhiêu mà chia năm, xẻ bảy. Nói gì thì nói ông vẫn giữ vững lập trường. Đúng là già sinh tật cứng đầu. Bà giận lẫy bỏ lơ, không thèm nói nữa. Riết rồi hai tuần, ba tuần ông mới về một lần, nhưng bà cũng chẳng buồn hỏi han. Ai không cần đây, thì đây cũng chẳng cần đó. Quan niệm sống của bà xưa nay là vậy mà, đời nào bà chịu xuống nước năn nỉ ai.

Một hôm, bà đi chợ Việt Nam Plaza thì gặp người bạn cũ.Lâu ngày mới có dịp hàn huyên tâm sự, bà mời bạn qua tiệm phở kế bên, vừa ăn vừa nói chuyện. Chợt bạn bà hỏi nhỏ:

-Con nhỏ cháu ở Việt Nam mới qua ở chung với chị hả?

-Cháu nào?

Bà ngạc nhiên hỏi ngược lại.

-Thì con nhỏ bữa hôm ảnh dắt đi sắm đồ trong Outlet Mall đó.

Bà hồ nghi nên hỏi tới. Thì ra, cách đây khoảng một tháng, vợ chồng chị bạn gặp ông đưa một cô gái đi sắm quần áo, và được giới thiệu là cháu của ông. Nhìn sắc mặt của bà, người bạn biết chuyện chẳng lành, nên nhẹ nhàng khuyên nhủ:

-Chuyện đâu còn có đó. Từ từ theo dõi, tìm hiểu coi ra sao, đừng ồn ào quá, mất mặt cả đám, mà mình lại bị thiệt thòi nữa. Đàn ông bây giờ ghê gớm lắm, nhất là từ hồi có cái vụ về Việt Nam cưới vợ, họ trở mặt với mình như không.

Bà trở về nhà bằng cái xác không hồn. Gọi con gái, bà khóc ồ ồ trên điện thoại. Một chặp sau nó trở về, không nói câu nào mà nhìn bà chầm chập. Bà lảng tránh ánh mắt của nó, như tránh câu hỏi gay gắt đang thầm gửi đến bà “Đó! con nói rồi mà má không nghe, giả riết rồi có ngày thành thiệt”. Bà vừa khóc rấm rứt, vừa nói:

-Ngày mai, con chở má đi tìm con nhỏ đó.

-Rồi má định làm gì?

-Chưa biết. Nhưng gì thì gì má cũng phải làm cho ra lẽ.

Con gái ôm vai bà:

-Má ráng bình tĩnh. Trên giấy tờ ba má đã ly dị rồi, má có làm gì cũng không được đâu. Từ từ nói chuyện tình cảm với ba.

Bà ngã lăn xuống giường. Bây giờ, nhắm mắt lại bà không còn thấy những đồng đôla màu xanh óng ánh nữa mà là hình ảnh một đứa con gái đỏng đa, đỏng đảnh giựt chồng bà.
***

Đứa con gái đứng trước mặt bà mặc chiếc váy cao, lộ đôi chân thon trắng muốt, hai tay khoanh trước ngực. Đôi mắt sắc lẻm của nó đậu trên khuôn mặt thanh tú. Dù trong lòng có muốn tặng nó mấy tô acid, bà vẫn phải công nhận nó rất đẹp. Nghe bà tự giới thiệu, nó vẫn thản nhiên hất mặt:

-Bác muốn chờ anh Nhàn hả? Ra ngoài sân ngồi chờ đi.

Bà nhào tới, gào vào mặt nó:

-Cái thứ mất nết ….

Bao nhiêu danh từ xấu xa bà gán hết cho nó. Đứa con gái cười nửa miệng, vừa quay lưng, vừa nói:

-Bác nên nhớ, tôi là vợ có giấy tờ của anh Nhàn. Bác lộn xộn tôi kêu cảnh sát đó.

Cánh cửa đóng rầm một cái. Thiệt tình, bà muốn vặn họng nó. Thứ đồ con nít, mặt búng ra sữa mà dám gọi chồng bà bằng anh. Bà xấn tới, đưa tay đập cửa thì bị ghì chặt lại với tiếng kêu “Đừng Má!” như ngăn cấm. Bà tức giận, giật mạnh cánh tay, ngồi bệt xuống đất, ôm lồng ngực có trái tim đang đau nhói. Con gái kéo bà ra xe.Trên đường về, bà khóc tấm tức. Bây giờ, bà mới vỡ lẽ ra tại sao ông chọn công việc xa nhà. Nhớ lại hồi năm ngoái, bạn bà kể, có thấy ông trong một nhà hàng sang trọng ở Việt Nam nhưng bà không tin. Thì ra, ông lén lút về Việt Nam để làm đám cưới và bảo lãnh con nhỏ này qua đây. Bao lâu nay, ông có đem về cho bà cắc nào đâu. Bà vặn hỏi thì hai đứa nhỏ cằn nhằn, ba ở một mình hao tốn lắm, lương ba sợ còn không đủ, làm gì có tiền dư mà má đòi. Không ngờ ông lại gian lận. Thôi chết! Chết thiệt rồi. Nhiều lần ông hù dọa bà phải đem tiền bỏ vào “safety box” ở ngân hàng, vì bọn cướp bây giờ hay cướp nhà Việt Nam. Bọn nó biết người mình thường giữ tiền mặt trong nhà, nên tra khảo tới chừng nào lòi tiền ra mới thôi. Để tiền ở nhà, không mất tiền thì cũng mất mạng.

Bà bảo đứa con gái chạy gấp tới ngân hàng…

Bà ngã quỵ xuống đất. Tay chân bủn rủn khi thấy trong hộp chỉ còn một xấp tiền xẹp lép dưới đáy. Về đến nhà, bà chụp điện thoại, run run bấm số. Vừa có tiếng a-lô, bà gào lên, vừa chửi rủa, vừa hạch hỏi:

-…Tại sao ông lường gạt tôi? Đồ tráo trở, gian manh!

Giọng ông cũng từ tốn như hồi nào:

-Bà bình tĩnh đi. Nếu muốn nói chuyện đàng hoàng thì đừng dùng những chữ khó nghe.

Bà nuốt ực nỗi uất ức trong lòng:

-Tôi hỏi ông, tại sao ông cả gan lấy tiền của tôi cho gái.

Ông cười khẩy:

-Tôi nói rõ cho bà biết, tiền tôi lấy là tiền của tôi, chứ không phải của bà. Bà bán tôi đến hai lần rồi bà không nhớ sao? Bà có thú vui đếm tiền thì tôi cũng thú vui của riêng tôi. Bao nhiêu năm sống với bà, tôi hưởng được cái gì? Ngoài tiền ra bà đâu cần biết đến chồng. Muốn chửi người khác thì hãy tự xét mình trước đi.

Tiếng máy dằn cái cụp vang lên khô khan. Trời ơi! ai dạy dỗ mà ông nặng nhẹ bà một cách trơn tru vậy chớ. Ngoài cái con chằn tinh gấu ngựa đó còn ai nữa. Tuổi nó chỉ xấp xỉ con gái bà mà cái mặt của nó lõi đời. Qua đây chưa bao lâu mà nó dám chọi tay đôi với bà thì đâu phải hiền lành. Không lẽ bà thua nó? Bà chưa nghĩ ra cách đối phó thì con gái đã cao giọng can ngăn:

-Má đừng tính chuyện gì nữa. Bây giờ, má chỉ có từ thua tới thua thôi. Con đã nói bao nhiêu lần mà má đâu có nghe.

Bà phang chiếc điện thoại đang cầm trên tay vào ngực con gái. Vừa khóc, vừa mắng:

-Đi đi cái đồ bất hiếu. Tao vô phúc quá mà. Chồng không ra gì, con cũng chẳng ra gì.

Bước ra cửa, nó còn nhẫn tâm quay lại, chua thêm một câu:

-Cũng là tại má thôi.

Ngân Bình

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Một tấm lòng vàng trên đường phố

Một tấm lòng vàng trên đường phố

Anh Trần Viết Hùng hành nghề bơm vá xe đạp trên góc đường Hà Huy Tập-Điện Biên Phủ ở quận Thanh Khê

Anh Trần Viết Hùng hành nghề bơm vá xe đạp trên góc đường Hà Huy Tập-Điện Biên Phủ ở quận Thanh Khê

Trà Mi-VOA

03.08.2014

Bạn cho là mình chưa đủ điều kiện để làm từ thiện? Hãy nghĩ lại, đặc biệt là khi bạn nghe câu chuyện sau đây về một anh chàng nghèo vật chất-giàu nhân ái ở Đà Nẵng.

Suốt hơn chục năm qua, anh Trần Viết Hùng hành nghề bơm vá xe đạp trên góc đường Hà Huy Tập-Điện Biên Phủ ở quận Thanh Khê để nuôi sống gia đình gồm mẹ già, vợ, và 3 con.

Lam lũ dầm mưa dãi nắng 10 giờ đồng hồ trên vệ đường mỗi ngày anh mới kiếm được cao lắm là 120 ngàn đồng đủ chạy cơm hai bữa qua ngày. Thế nhưng, có một điều đặc biệt khiến điểm vá xe vỉa hè của anh trở nên nổi tiếng, nhất là đối với những người nghèo cùng cảnh ngộ: Đây là nơi hiếm hoi, nếu không muốn nói có một không hai, vá xe miễn phí cho các khách hàng là học sinh và người tàn tật. Điểm sửa xe của anh có treo tấm bảng to ghi dòng chữ ‘Học sinh-Người Tàn Tật Miễn phí.’

Điểm sửa xe của anh Trần Viết Hùng, miễn phí cho các khách hàng là học sinh và người tàn tật.

Điểm sửa xe của anh Trần Viết Hùng, miễn phí cho các khách hàng là học sinh và người tàn tật.

Một khách hàng quen thuộc của anh Hùng 3-4 năm nay, chị Nguyễn Thị Gái hành nghề bán hàng rong trên chiếc xe đạp cũ kỹ, nói về anh bạn nghèo tốt bụng trên đường phố:

“Anh là người tốt bụng. Những người nghèo khổ như tôi đây khi xe bị hư anh không lấy tiền. Bao nhiêu người nghèo như tôi đi đường lở bị lủng lốp xe cũng nhờ ảnh. Đôi lúc mình không có tiền, cũng nhờ ảnh mới có phương tiện để đi. Những người trong cảnh nghèo anh đều giúp hết. Những người như anh rất tốt trong xã hội đầy những người lừa lọc, tham ô, ăn cắp, ăn trộm. Em cũng mong sao có được nhiều người như anh Hùng. Nhiều người giàu, có tiền, nhưng cũng này kia kia nọ lắm. Em cũng dạy dỗ con em là ‘nghèo cho sạch, rách cho thơm’, bắt chước theo tấm lòng như anh Hùng đây.”

Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay mời quý vị và các bạn cùng gặp gỡ người đàn ông sống nhờ vỉa hè nhưng rộng lượng giúp đỡ người nghèo khó, Trần Viết Hùng.

Trần Viết Hùng: Gia đình cũng khổ nên em làm nhiều nghề từ xích lô, xe bò, bốc vác, xe thồ và cuối cùng chọn nghề này. Em làm dựa vô vỉa hè của người ta, họ cho mình làm buổi chiều thôi. Em ra làm 2 giờ chiều đến 2 giờ sáng, khi nào đường hết người mình mới về. Hai vợ chồng em có 3 đứa con. Đứa đầu 18 tuổi. Cách đây 3 năm nó bị bệnh phổi, yếu quá, nên giờ ở nhà không đi học nữa. Hai đứa nhỏ còn đi học. Đứa nhỏ nhất học lớp 6. Vợ em buôn bán hàng rong.

Trà Mi: Xuất phát từ cơ duyên nào và từ khi nào anh có ý tưởng bơm vá xe miễn phí cho học sinh và người tàn tật?

Trần Viết Hùng: Mình cũng cực khổ nhiều rồi. Chỗ em làm cách chừng 200 mét có 2 trường học. Mình thấy nhiều hoàn cảnh cũng tội. Nhiều em ra học xe hư dắt bộ ngang qua chỗ mình mà không dám vô. Hùng kêu lại để làm dùm mà các em ngại. Trước tới giờ em bơm vá xe cho các em đã không lấy tiền rồi, nhưng còn nhiều em không biết, nên ngại. Cho nên, em mới để tấm bảng Miễn phí lên cho các em thấy an tâm. Còn người tàn tật, mình không giúp họ thì thôi, lấy tiền họ làm gì. Mình chỉ nghĩ đơn giản vậy thôi.

Trà Mi: Nói tới chuyện làm từ thiện, người ta liên tưởng ngay đến những người dư ăn, dư để. Chuyện người nghèo làm từ thiện cũng hiếm thấy..

Trần Viết Hùng: Giờ nghe người ta nói là mình làm từ thiện thì em mới biết vậy chứ khi đặt tấm bảng lên em chẳng nghĩ gì hết. Em chỉ muốn giúp đỡ những người tàn tật và các em học sinh lỡ đường. Mình nghĩ các em như con mình thôi, chứ không nghĩ là làm từ thiện này nọ. Đó là cái tâm mình thương các cháu như con mình thôi.

Trà Mi: Giữa đời sống bon chen có 1 tấm gương người nghèo làm việc tốt trên đường phố, anh có nghĩ hình ảnh của mình có thể giúp các cháu có cái nhìn và suy nghĩ tốt hơn về xã hội, về chuyện làm việc tốt giúp đời?

Trần Viết Hùng: Lần đầu tiên em được lên báo có các em gửi tin nhắn tới chúc mừng. (Mời quý vị bấm vào phần âm thanh sau đây để nghe toàn bộ cuộc trao đổi với anh Hùng)

Bấm vào để nghe âm thanh toàn bộ cuộc trao đổi với anh Trần Viết Hùng

 

Từ vô thần sang Công giáo: Một câu chuyện của nghi ngờ, hiếu kỳ và cuối cùng là niềm vui

Từ vô thần sang Công giáo: Một câu chuyện của nghi ngờ, hiếu kỳ và cuối cùng là niềm vui

Đặng Tự Do

02 tháng 8-2014

Người ta ước tính rằng khoảng 2 phần trăm của dân số thế giới là người vô thần. Trong nhiều năm, Jennifer Fulwiler, là một người trong số đó. Cô lớn lên trong một gia đình hạnh phúc nhưng vô tín ngưỡng. Thậm chí, cô tin rằng tôn giáo được dựa trên một câu chuyện cổ tích và Kitô giáo là một tôn giáo nguy hiểm.

Jennifer Fulwiler, tác giả cuốn “Something Other Than God”, nghĩa là “Còn gì khác ngoài Thiên Chúa”, nói:

“Vâng, tôi đã từng xem Kitô giáo như một cái gì đó nguy hiểm và tôi thực sự muốn khuyến khích mọi người quên đi hệ thống niềm tin nguy hiểm này.”

Trong cuốn sách của mình, ” Còn gì khác ngoài Thiên Chúa “, cô chia sẻ hành trình của mình. Tất cả mọi thứ từ sự thờ ơ, tới sự hiếu kỳ và cuối cùng là niềm vui. Cô nói rằng tất cả mọi thứ đã thay đổi khi cô và chồng có đứa con đầu tiên. Cô bắt đầu đặt ra nhiều câu hỏi hơn, mà chủ nghĩa vô thần không có thể trả lời.

Jennifer giải thích:

“Chủ nghĩa vô thần nói rằng cuộc sống của con người chẳng qua chỉ là tình cờ ngẫu nhiên của một chuỗi những phản ứng hóa học và điều đó thực sự trái ngược với kinh nghiệm của tôi về cuộc sống và sự gặp gỡ với những người khác.”

Sau khi đọc tất cả các loại sách tôn giáo, với nhiều bất ngờ, cô tìm thấy sự thật trong Kitô Giáo. Cuối cùng cô và chồng cô đã trở thành người Công Giáo. Nhìn lại, cô cho biết cuộc sống của cô bây giờ là hoàn toàn khác trước đây.

Jennifer nói thêm:

“Khi tôi còn là một người vô thần, tôi nghĩ rằng ý nghĩa của cuộc sống là phải có càng nhiều tiền càng tốt. Nhưng tôi nhận thấy không bao giờ là đủ. Ao ước được thăng chức nhưng khi được rồi, tôi lại muốn trèo lên cao hơn nữa. Có xe đẹp, tôi lại muốn có xe đẹp hơn. Tôi đã luôn luôn tìm kiếm một điều khác nữa.”

Kể từ đó, đức tin của tôi đã phát triển và cả gia đình cô cũng đón nhận đức tin. Cô vẫn giữ liên lạc với một số bạn bè vô thần. Họ có thể không đồng ý về những gì là chân lý, nhưng họ nhìn nhận một sự thật rằng cô đã tìm thấy niềm tin thông qua lý trí.

Jennifer nói tiếp:

“Tôi nghĩ rằng người Công Giáo đôi khi có chút do dự trước các cuộc đối thoại thân thiện với những vô thần, bởi vì họ có thể nghĩ rằng ‘Tôi không muốn nhìn vào những lập luận vô thần quá nhiều vì nó có thể làm lung lay đức tin của tôi và tôi có thể không thích những gì tôi tìm thấy. Tôi luôn luôn khuyến khích mọi người theo lời khuyên của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị: đừng sợ. Trước những thách đố của người vô thần, hãy khám phá mọi khả năng và bạn sẽ tự tin hơn nơi đức tin Công Giáo của mình. “

An Phong – Ngọn Gió Lành

An Phong – Ngọn Gió Lành

Chuacuuthe.com

image001

VRNs (02.08.2014) – Khi đặt thanh gươm hiệp sĩ của mình dưới bàn thờ “Đức Bà chuộc kẻ làm tôi”, Thánh An Phong đã quyết định con đường dấn thân của mình theo một khúc quanh mới, thuộc về Chúa hoàn toàn để thuộc về người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả.

Từ giã pháp đình, An Phong cũng từ giã giấc mơ đấu tranh giành lấy công bằng cho người nghèo bằng con đường luật pháp. Bỏ thanh gươm, An Phong từ chối can thiệp vào xã hội bằng quyền lực. Nhận lấy chiếc áo Giáo Sĩ, An Phong chọn con đường Tin Mừng.

Chẳng phải khi trở thành Linh Mục hoặc khi thiết lập DCCT vào năm 1732 thì An Phong mới có cảm thức về người nghèo, về sự áp bức và về sự công bằng, nhưng ngay khi còn đang đeo đuổi con đường luật học, An Phong đã đưa ra những quyết tâm thuộc về người nghèo, thuộc về công lý và công bằng. Quyết tâm không cãi trắng ra đen, chọn lựa người nghèo mà bênh vực, đó là những quyết tâm của luật sư An Phong nơi pháp đình của vương quốc Napoli.

“Hỡi thế gian, ta đã biết mi”, trên đường rời bỏ pháp đình, An Phong kinh nghiệm được sự giới hạn của con người. Luật pháp có công minh cách mấy cũng không đủ sức thắng sự dữ. Cái mỉa mai là luật pháp được biên soạn và ban hành bởi những kẻ cầm quyền thì làm sao lại có thể đứng về phía người nghèo, người bị áp bức được ? An Phong chọn Tin Mừng là “bộ luật” được biên soạn và ban hành bởi người nghèo cùng cực. An Phong nhận ra Thiên Chúa hóa thân nơi người nghèo, nên “bộ luật” này là bộ luật của người nghèo, người đau khổ, người hèn mọn. “Điều gì các ngươi làm cho người bé mọn nhất đó là làm cho chính Ta” ( Mt 25 ).

Chọn người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả, An Phong dấn thân thuộc trọn vẹn về người nghèo, đồng thân đồng phận với người nghèo, hòa mình sống kiếp nghèo. Bỏ giới thượng lưu, An Phong bỏ phong cách quý tộc, chọn lấy nếp sống giản dị, lối cư xử đơn sơ, mộc mạc. Cấm anh em mình ăn nói hoa mỹ, cấm anh em mình đem kiến thức lòe bịp thiên hạ, An Phong chia sẻ với anh em cách ăn nói bình dị, chữ nghĩa bình dị, “hãy nói sao cho người bình dân hiểu”. ( Ảnh chụp Đền kính Thánh An Phong tại đường Merulana ở Roma, ngay bên cạnh là Nhà Dòng Mẹ ).

image003

Bỏ pháp đình, An Phong không hề bỏ kiến thức luật học, nhưng chọn Tin Mừng, An Phong phả hồn Tin Mừng vào luật học, viết ra bộ Thần Học Luân Lý. An Phong sử dụng kiến thúc luật học của mình để đứng về phía người nghèo, người bị áp bức. Thời ấy, luật đạo luật đời gần như một, lắm mối liên kết chằng chịt đạo đời rối ren mật thiết. Không chấp nhận quan niệm mục vụ khắt khe cầm buộc, An Phong lên tiếng nói cho người nghèo, người bị bỏ rơi, những hối nhân đáng thương hại, tiếng nói mạnh mẽ không chỉ ngoài xã hội nhưng còn ngay giữa lòng Nhà Thờ. An Phong trả lại trách nhiệm cho lương tâm, cho tình thương, cho sự tha thứ.

An Phong trăn trở và kiên trì cho đến trọn đời, kinh nghiệm nỗi cô đơn trên con đường phục vụ người nghèo, người bị bỏ rơi, An Phong đã cam kết đi đến cùng cho dù chỉ còn một mình. Nỗi cô đơn ấy đã đeo bám An Phong cho đến hết cuộc đời, và An Phong cũng trung tín với lời cam kết cho đến hết hơi thở cuối cùng.

Có rất nhiều luồng gió thổi đến làm rung chuyển thời cuộc, biến hóa nhân sinh, thay cũ đổi mới. An Phong vẫn làm gió, nhưng khi chọn Tin Mừng, ngọn gió của An Phong là gió lành, ngọn gió lành không phá hủy, không tiêu diệt, không tàn phá, nhưng xây dựng, làm mát lòng người, làm phát sinh sự sống và làm cho sự sống thêm dồi dào.

Con cái An Phong có là ngọn gió lành không ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Lễ Thánh An Phong 2014