RỒI TÔI SẼ HẠNH PHÚC

RỒI TÔI SẼ HẠNH PHÚC

(Trích dịch từ sách “Who ordered this truckload of dung?” của Ajahn Brahm)

Lúc tôi khoảng 14 tuổi, đang học trung học ở Luân Đôn. Cha mẹ và thầy giáo khuyên tôi đừng đi chơi đá banh buổi tối và cuối tuần mà nên ở nhà học bài để lo thi bằng trung học đệ nhất cấp. Họ nói là khi thi đậu thì tôi sẽ cảm thấy sung sướng, hạnh phúc. Tôi nghe lời, lo học và thi đậu, nhưng tôi chẳng thấy hạnh phúc gì cả, vì sau đó phải học tiếp hai năm để thi tú tài.

Cha mẹ và các thầy giáo khuyên tôi đừng đi chơi với bạn bè buổi tối hoặc chạy theo con gái cuối tuần mà nên ở nhà lo học bài. Họ nói bằng tú tài rất quan trọng, nếu thi đậu thì tôi sẽ sung sướng, hạnh phúc.

Một lần nữa, tôi lại vâng lời cha mẹ và các thầy giáo nên tôi thi đậu tú tài.

Nhưng lại một lần nữa, tôi chả thấy sung sướng gì hết, vì sau đó tôi phải tiếp tục vào đại học, học ít nhất ba năm để lấy bằng cử nhân. Má tôi và các giáo sư (lúc này ba tôi đã mất) khuyên tôi không nên lân la ở các quán cà phê hoặc phòng trà, mà nên ở nhà lo học.

Họ nói bằng cử nhân là một bằng cấp giá trị của đại học, nếu có được thì tôi sẽ hạnh phúc lắm.

Nhưng lần này tôi bắt đầu nghi ngờ. Bởi vì tôi có vài người bạn lớn tuổi hơn, đã học xong và có bằng cấp, nhưng hiện nay họ đang vất vả với những việc làm đầu tiên; có người phải làm thêm giờ để có tiền mua xe.

Những người bạn này nói với tôi: “Khi nào tôi có đủ tiền mua được một chiếc xe hơi thì tôi sẽ sung sướng”.

Đến khi họ có đủ tiền mua được chiếc xe hơi rồi, tôi thấy họ cũng chẳng sung sướng gì hơn. Bây giờ họ phải làm việc cực hơn để sửa soạn mua một cái gì đó, hoặc họ đang tìm kiếm một người bạn đời.

Họ nói: “Khi nào tôi lập gia đình đàng hoàng thì lúc đó tôi sẽ hạnh phúc”.

Sau khi lập gia đình, họ cũng chẳng hạnh phúc gì hơn. Tệ hơn nữa, họ phải làm thêm hai, ba công việc, lo để dành tiền mua nhà.

Họ nói: “Khi nào mua được một căn nhà thì tôi hạnh phúc lắm”.

Nhưng mua được nhà rồi, hàng tháng vẫn phải trả nợ ngân hàng, như thế thì đâu có hạnh phúc gì.

Ngoài ra họ bắt đầu sinh con đẻ cái. Nửa đêm con khóc phải dậy thay tã hay cho nó bú. Khi con bệnh hoạn thì bao nhiêu tiền để dành phải trút ra lo thuốc men cho nó.

Và rồi hai mươi năm trôi qua trước khi họ có thể làm những gì mong ước.

Họ nói: “Khi nào con cái tôi học xong, có nghề nghiệp và tự lập được thì chúng tôi sẽ hạnh phúc”. Đến khi tụi nó rời khỏi nhà ra riêng thì lúc đó đa số cha mẹ sắp đến tuổi về hưu. Do đó họ ráng làm tiếp vài năm để lãnh tiền hưu trí nhiều hơn.

Họ nói: “Khi nào tôi về hưu thì lúc đó mới thật là sung sướng, hạnh phúc”. Nhưng trước khi về hưu, và ngay cả sau khi về hưu, họ bắt đầu biết đạo và đi nhà thờ.

Bạn có để ý đa số những người đi nhà thờ là những người lớn tuổi không? Tôi hỏi tại sao bây giờ họ lại thích đi nhà thờ?

Họ trả lời: “Tại vì sau khi chết, tôi sẽ được hạnh phúc!”

Những ai nghĩ rằng “khi nào tôi có được cái này, cái nọ thì tôi sẽ hạnh phúc”, họ không biết rằng hạnh phúc đó chỉ là một giấc mơ trong tương lai. Giống như người đuổi theo cái bóng của mình, họ sẽ không bao giờ nếm được hạnh phúc trong cuộc đời…

****

1. Cầu nguyện không phải là “bánh xe dự phòng”để lấy ra khi gặp khó khăn, nhưng là “tay lái”để lái đi đúng đường suốt cuộc tạm hành trên đất này.

2. Tại sao xe hơi có KIẾNG TRƯỚC lớn hơn nhiều so với KIẾNG CHIẾU HẬU? Vì QUÁ KHỨ của chúng ta không quan trọng so với TƯƠNG LAI. Vậy, hãy nhìn thẳng phía trước và đi tới.

3. Tình bạn như một QUYỂN SÁCH. Chỉ cần vài phút để đốt đi, nhưng cần vài năm để viết.

4. Tất cả những điều mình có trong đời sống nầy đều tạm bợ. Nếu được hạnh thông, hãy vui hưởng, vì nó sẽ chóng qua. Nếu không thuận lợi, cũng đừng lo lắng, vì nó cũng sẽ không kéo dài.

5. Bạn cũ là Vàng! Bạn mới là Kim Cương! Nếu ta có Kim Cương, đừng quên Vàng! Vì muốn giữ được Kim Cương, ta luôn cần Vàng để bọc Kim Cương!

6. Thường khi ta mất hy vọng và nghĩ đây là đoạn cuối đường, Thượng Đế ở trên cao cười và nói: “Hãy thư giãn, con yêu của ta. Đó chỉ là khúc quanh, chứ không phải là đường cùng”.

7. Khi Thượng Đế giải quyết những vấn đề của ta, ta đặt niềm tin nơi Ngài. Khi Thượng Đế không giải quyết những vấn đề của ta, Ngài đặt niềm tin vào khả năng của ta.

8. Một người mù hỏi thánh Anthony: “Có thể còn điều nào khổ hơn là bị mù không?” Ông thánh trả lời: “Có, lúc ngươi mất định hướng!”

9. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, Thượng Đế lắng nghe và ban phước cho người đó. Và đôi khi chúng ta bình an, hạnh phúc, hãy nhớ rằng một người nào đó đã cầu nguyện cho ta.

10. Sự LO LẮNG không dẹp bỏ được sự KHÓ KHĂN ngày mai, nhưng nó lấy đi sự BÌNH AN hiện tại.

Những Trận Chiến Bất Nhân

Những Trận Chiến Bất Nhân

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Nguyễn Trãi

“Ngày 21/7 vừa qua, trong cuộc họp của Hội đồng Bảo an diễn ra ở New York, Ngoại trưởng Hà Lan, ông Frans Timmermans đã có bài phát biểu vô cùng xúc động về vụ việc chiếc máy bay MH17 gặp nạn tại miền Đông Ukraine, khiến toàn bộ 298 người thiệt mạng.

Trong suốt bài phát biểu của mình, khóe mắt ông Frans Timmermans luôn chực trào nước mắt khi bày tỏ sự choáng váng, bàng hoàng trước quy trình xử lý thi thể các nạn nhân cũng như hàng loạt những thông tin nhiễu loạn xung quanh vụ MH17.”

Những dòng chữ trên được trích dẫn từ trang Dân Luận, đọc được vào hôm 27 tháng 7 năm 2014, cùng với lời dẫn nhập (hay nói chính xác hơn là nỗi băn khoăn) của ban biên tập:

“Bài phát biểu xúc động của vị chính khách một nước dân chủ phương tây, thể hiện rõ rằng đất nước của họ luôn quan ngại, lo lắng xót xa cho tính mạng người dân của mình. Không giống như tại Việt Nam, tính mạng của người dân không được quan tâm, đảm bảo, luôn bị đe dọa ở khắp nơi ngay cả ở những nơi công quyền, ví dụ như đồn công an. Chúng tôi tự hỏi, liệu các vị nguyên thủ quốc gia Việt Nam sẽ như thế nào nếu có xảy ra tình huống tương tự?”

Câu trả lời cho nghi vấn thượng dẫn, thực ra, đã có sẵn (cũng trên trang Dân Luận) từ hai ngày trước – hôm 25 tháng 7 năm 2014 –  qua một đoạn văn ngắn của tác giả Nguyệt Quỳnh:

Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như:“ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối; không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những “cột bia xi măng” vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những “cột gỗ mục” vô giá trị.

Và KHỐN KIẾP không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những “cột mốc sống dở chết dở” ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các “cột mốc còn sống” khác ra khơi trở lại.

Tàu đánh cá việt nam mang số hiệu QNa 90152 bị tàu Trung quốc đâm chìm khi đang đánh bắt hợp pháp trên vùng biển Hoàng Sa, chủ quyền Việt Nam, chiều 26/5/2014. Nguồn ảnh và chú thích: RFA

Những cột mốc sống, cột bia xi măng, cột gỗ mục … ở biển Đông – hôm nay – khiến tôi nhớ đến “Những Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá Đẽo,” trong cuộc chiến vừa qua:

“Sinh ra trong một gia đình nghèo có bảy chị em. Là con cả, ngày ngày Ðinh Thị Thu Hiệp phải lo bắt tép, mò ốc đỡ đần mẹ cha nuôi các em khôn lớn. Ðến tuổi thanh niên, chị theo phong trào ‘Ba sẵn sàng’ xung phong lên đường, nhưng địa phương không duyệt vì thân hình quá nhỏ. Không còn cách nào khác, chị đã viết đơn vào trận tuyến bằng máu với tất cả tình cảm thống thiết để được kết nạp vào đội hình TNXP và được phân công về làm nhiệm vụ ở đèo Ðá Ðẽo.

Ngày đó, đèo Ðá Ðẽo được xem như lằn ranh giữa sự sống và cái chết, là yết hầu của tuyến chi viện chiến lược 15A vào Nam. Từ năm 1967, không quân Mỹ đã thực hiện chiến dịch 97 ngày đêm xóa trắng, vùi lấp đèo Ðá Ðẽo, Ðinh Thị Thu Hiệp đã không ngần ngại bám sát mặt đường từng ngày, từng giờ, đếm từng quả bom rơi, vác từng thùng đạn chạy băng qua bãi bom nổ chậm. Chỉ nặng chưa đầy 40 kg nhưng lúc đó vác trên mình những kiện hàng, thùng đạn vượt bãi bom dài hơn cây số chạy băng đến điểm tập kết an toàn.

Cuối năm 1967, khúc cua 516+300 mái phía tây đèo Ðá Ðẽo thường xuyên trúng bom nổ chậm, nhiều người không có kinh nghiệm tiếp cận bom đã thiệt mạng. Cấp trên giao Ðinh Thị Thu Hiệp chốt giữ trọng điểm nóng đó nhằm bảo đảm thông tuyến nhanh nhất cho xe ra tiền tuyến.

Ngày đầu tiên, một quả bom nổ chậm rơi đúng tim đường. Lập tức chị yêu cầu mọi người tản ra xa, một mình chị vào kích nổ quả bom. Khi công việc hoàn thành, vừa trở ra khoảng 150 m thì bom nổ, chị bị sức ép khiến một tai bị điếc. Một lần khác, một đoàn xe chở hàng ra mặt trận bị ứ lại do vướng bãi bom ở chân đèo Ðá Ðẽo. Mọi người chưa biết làm sao thông tuyến, trong khi tiếng gọi chiến trường đang hết sức cần kíp thì chị Hiệp đã nhanh trí, quyết định biến mình thành cọc tiêu sống đưa đoàn xe 20 chiếc vượt qua bãi bom an toàn…

Sau những thành tích trong chiến tranh, chị vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân vào năm 1972. Hòa bình, chị trở về sống bình dị với ruộng nương, xóm làng…” (Hương Giang. “Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá Đẽo.” Nhân Dân 7 July 2010.)

Có vô số những chị Đinh Thu Hiệp (khác) đã vùi thây trong bom đạn, hoặc không bao giờ còn có thể “trở về sống bình dị với ruộng nương, xóm làng …”  mà nhà báo Hương Giang không biết hay không … dám biết.

Các chị bị lãng quên, và chỉ được nhắc đến – với rất nhiều xót sa, cùng với sự trân trọng – bởi một người ngoại cuộc (*) bằng một thiên tiểu luận [Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975)] đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas. Chúng tôi xin phép ghi lại vài trích đoạn – ngăn ngắn – để rộng đường dư luận, cùng với ước mong được xem đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả, cùng dịch giả:

– Đối với những thiếu niên-lính này (thậm chí trong một vài trường hợp là trẻ em-lính), vũ khí chỉ là cuốc chim đơn giản, xẻng lớn và hành trang trí thức ít ỏi mang theo người chỉ là vài năm học sơ cấp ở trường. Họ gặp nhau và chỉ trong mấy ngày là bị đẩy ra tuyến lửa. Không có kiến thức quân sự, tất cả họ đều được huấn luyện tại chỗ như câu khẩu hiệu “Khắc làm, khắc biết” đã tóm ý. Đối với những học sinh nữ ở các thành phố chẳng biết gì ngoài việc cầm bút, tham gia các công việc lặt vặt trong gia đình, hay còn được mẹ nuông chiều và ban đêm vẫn còn sợ ma thì sự hụt hẫng của họ thật dữ dội. Sau khi được tập hợp và biên chế thành đơn vị, những TNXP được nhanh chóng gởi ra tuyến lửa.

– Giống như các đồng nghiệp ở Liên Xô, phụ nữ Việt Nam không những không bị cấm ra mặt trận, mà còn ở ngay chính giữa mặt trận. Các cô gái TNXP trực tiếp tham gia chiến đấu, đặc biệt là trên đường mòn HCM, nơi có sự hoà nhập nhất với quân chủ lực, và với những người trong đội TNXP Giải phóng miền Nam thì chiến đấu là nhiệm vụ chính thức. Như chúng ta thấy, trong phần lớn thời gian, ranh giới giữa bộ đội nơi tiền tuyến và các lực lượng hậu cần không hề tồn tại. Việc lực lượng hậu cần cũng hứng chịu lửa đạn là chuyện bình thường của mọi cuộc chiến, nhưng trường hợp Việt Nam trở nên đặc biệt do một số lý do: độ tuổi tuyển mộ quá trẻ, họ gần như hoàn toàn không được chuẩn bị chút nào, và cách thức quản lý thuần chính trị và quân sự được áp dụng với họ. Sĩ quan trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và cựu cán bộ TNXP bị ảnh hưởng nặng nề bởi những đau đớn khủng khiếp thường nhật của các cô gái làm việc cùng họ, hoặc dưới quyền họ, phải chịu đựng. Nhưng tất cả bị tấm màn im lặng phủ kiến, bởi người ta muốn đây phải là cuộc chiến tranh nhân dân.

Sau “cuộc chiến tranh nhân dân” kể trên – nếu sống sót – những cành lan trong rừng cháy, những đoá hoa nhầu nát, hay những quả chanh khô (theo như cách nói của đời thường) sẽ trở thành những con số không tròn trĩnh: không chồng, không con, không nhà, và không chế độ!

Một mái nhà ở “xóm không chồng.” Nguồn ảnh:Báo Mới

Và cái lọai “chiến tranh nhân dân” (bất nhân) này vẫn đang tiếp diễn ở Việt Nam với những ngư dân làm cột mốc sống giữa biển khơi, thay cho những thanh niên xung phong (như cột tiêu sống) trên mọi nẻo đường đầy dẫy bom đạn – giữa thế kỷ trước. Và  ai mà “lỡ dại” lên tiếng  than phiền về thái độ vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền thì thế nào cũng bị nhốt tù, như trường hợp của nhà báo Tạ Phong Tần:

Đại tá Nguyễn Trọng Huyền- Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Phú Yên cho hay: “Thời gian vừa qua, đặc biệt hơn 10 ngày nay, tàu cá TQ xâm phạm nhiều lần trong vùng biển nước ta. Theo thông tin ngư dân báo về, trung bình mỗi ngày vùng biển ngoài khơi từ Đà Nẵng đến quần đảo Trường Sa có từ 120 đến 150, cá biệt có những ngày lên đến hơn 200 tàu cá TQ khai thác trong vùng biển nước ta”.

Cái đau của người Việt Nam là thông tin này do “ngư dân báo về” chớ không phải do Hải quân hay Cảnh sát biển phát hiện. Câu “ngư dân báo về” khiến người đọc hình dung ra bối cảnh lúc đó ngư dân với những chiếc tàu nhỏ bé trang bị thô sơ đang ở ngoài biển xa đối mặt với tàu to đùng tối tân của Trung Quốc, còn lực lượng có chức năng bảo vệ ngư trường, ngư dân và lãnh hải thì ngồi trong bờ… chờ nghe báo cáo.

Tôi không rõ những vị lãnh đạo đất nước Việt Nam hiện nay như qúi ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, ông Trung Tướng Thứ Trưởng Bộ Công An Tô Lâm, hay ông Đại Tá  Nguyễn Trọng Huyền có bị vấn đề về não bộ hoặc trí nhớ hay không nhưng tôi biết chắc (chắn) điều này: cái thời mà qúi vị huyễn hoặc và lừa mị để đẩy dân Việt vào chỗ chết (rồi thản nhiên phủi tay) đã qua rồi. Không ai có thể lường gạt mọi người mãi mãi.

Tưởng Năng Tiến

(*) Chú thích của talawas: François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.

Sơn Nam & Cách Mạng Tháng Tám Ở U Minh

Sơn Nam & Cách Mạng Tháng Tám Ở U Minh

RFA

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.

Nguyễn Văn Lục

Mấy năm trước, sau khi ghé thăm giáo sư Lý Chánh Trung, giáo sư Nguyễn Văn Lục đã có nhận xét như sau về người bạn đồng nghiệp cũ:

“… sau 1975 … có mấy mấy nhà văn, nhà báo trong Nam được cầm bút lại như Lý Chánh Trung. Con số đếm chưa hết một bàn tay… Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay”

Tôi có ngồi học với giáo sư Lý Chánh Trung đâu chừng cỡ… nửa giờ, ở trường Văn Khoa Đà Lạt. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Tôi không dám bàn luận lôi thôi gì (thêm) về chuyện viết lách của một người thầy học cũ.

Nhận xét dẫn thượng, chả hiểu sao, bỗng khiến tôi nhớ đến nhà văn Sơn Nam. Ông cũng là một trong những người may mắn hiếm hoi của miền Nam (trong “con số đếm chưa hết một bàn tay”) vẫn được phép cầm viết, sau 1975, và là một trong những nhà văn mà tôi vô cùng mến mộ.

Ảnh Duy Anh. Nguồn: Người Lao Động

Tác phẩm (có lẽ) đắc ý nhất của Sơn Nam là cuốn Hương Rừng Cà Mau, trong đó có truyện “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Tác giả kể lại chuyện một người dân ở U Minh Hạ, đặt mua báo dài hạn nhưng không trả tiền nên nhà báo phải cử người đi đòi nợ. Xin trích vài đoạn đọc chơi cho nó … đã:

– Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy?

Thầy xã trưởng đáp:

– Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Để tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó lên công sở…

Thầy phái viên nhà báo “Chim Trời” giựt mình:

– Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quí vị độc giả thân mến gần xa.

Thầy xã hỏi:

-Phái viên là gì vậy thầy?

– Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thu tiền.”

[(Sơn Nam. “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Hương Rừng Cà Mau, tr.99) (*)]

Nhân vật chính trong truyện, ông Trần Văn Có, theo như lời dân cùng xóm, là một người độc thân, làm nghề giăng câu, nuôi heo, lấy tổ ong, và hơi ba hoa chút đỉnh: “Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít-le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tầu…”

Nghe nói vậy nhưng không phải vậy. Khi phái viên báo Chim Trời giáp mặt độc giả Trần Văn Có, ngay tại nơi cư trú của ông, cuộc hội kiến – rõ ràng – rất là trang trọng và (vô cùng) thắm thiết:

“Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu… Tư Có kèm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đi. Thếp đèn dầu cá kèo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp.

Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời:

– Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá đó.

Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chui lẹ vào ngồi kế bên:

– Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hồi sanh bịnh chết.

Tư Có đáp:

– Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn… Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học.

Thầy phái viên trố mắt:

– Vậy à? Còn mấy làng khác?

– Ðông Thái, Ðông Hồ, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông… không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi…

– Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi… Báo có thích hợp không anh Tư?

– Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, tứ cứ. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không?

Thầy phái viên cười:

– Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt “ca rê”, tay xách toòng teng bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.

Tư Có nói:

– Chắc là thầy muốn nói bài ‘chốn quê hương đẹp hơn cả’ chớ gì?

Rồi chú đọc một hơi:

– Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: ông đi du sơn du thủy…

– Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá… Người du lịch mới trả lời: ở chốn quê hương… từ cái bụi tre ở xó vườn cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan… Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đống áo dài.

– Thì hình nào cũng khăn đống áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: ai bảo chăn trâu là khổ… Không, chăn trâu sướng lắm chứ.

Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng:

– Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ…

Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim…

Giọng Tư Có nói nhỏ:

– Ngủ chưa, thầy phái viên?

– Ngủ chưa anh Tư?

– Chưa!

– Tơi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt.

Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài:

– Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi… Chắc thầy tới đây thâu tiền.

– Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau…

– Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong… nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi “đăng” là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ.

– Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài  hoài cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động…”  (sđd 111-116).

Tôi đọc truyện “Tình Nghĩa Gíao Khoa Thư” khi còn ở tuổi đôi mươi. Tuổi trẻ bao giờ cũng nhiều lý tưởng. Tôi và bè bạn vẫn tâm nguyện rằng, sau cuộc chiến, thế hệ của mình sẽ cố góp hết sức để dựng xây những phần đất quê hương (bị lãng quên) như vùng U Minh Hạ.

Hòa bình, tiếc thay, đã không mang lại cuộc sống an bình như mọi người mong muốn. Không những thế, nó còn khiến cho hàng triệu kẻ đã phải liều mạng rời bỏ quê hương, để mưu cầu một cuộc sống khả kham hơn – nơi đất lạ quê người.

Tôi là một trong những kẻ đã (đành đoạn) bỏ đi như thế. Vài chục năm sau, khi tóc đã điểm sương, ở một góc trời xa, tình cờ đọc được bài báo (“Tiếng Kêu Giữa Rừng U Minh Hạ”) của phóng viên Hoàng Trí Dũng mà không khỏi băn khoăn nhớ về quê cũ:

“Tôi đã đến nhiều miền quê nghèo khó vùng sông nước ĐBSCL, nhưng có lẽ chưa lần nào tơi bị ‘sốc’ như chuyến đi lần này. Nơi tôi đến là một vùng quê giáp ranh giữa hai tỉnh Kiên Giang – Cà Mau, cách không xa trung tâm hai thành phố Rạch Giá và Cà Mau, vậy mà đã 30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất…”

“Trái ngược với hình ảnh ấy là cơ ngơi của các quan chức địa phương – những người đang giành giật đất đai của dân. Đó là chuyện thật ở ngay một góc Lâm trường U Minh 2, ấp 4, xã Khánh Hịa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.”

“Cách đây hai năm một cháu bé tên Hằng, 10 tuổi, con của hai vợ chồng trẻ không may bị bệnh viêm ruột thừa cấp tính, nhưng ở giữa rừng không có trạm y tế, mà lòng kênh trơ đáy khô queo, còn trên bờ thì không có đường đi rốt cuộc đành ngồi nhìn con chết mà bất lực vì không cách nào chuyển đi bệnh viện. ..”

“Ông chủ nhà Nguyễn Trung Liệt – một lão nông có uy tín trong vùng – vào chuyện: ‘Trên 60 tuổi rồi, hơn chục năm, ba thế hệ với hơn 30 người sinh ra và lớn lên tại khu rừng này, nhưng ngặt một nỗi nhà tui không ai có được tấm hộ khẩu, cũng chẳng hề có giấy chứng minh nhân dân. Người lớn còn đỡ chứ tội nghiệp sắp nhỏ, năm đứa cháu nội ngoại ra đời trong ruột rừng này hiện tại đều thất học như ông cha nó…’

Chú Ba Vinh thì kêu:“Cả trăm gia đình bà con ở đây khổ lắm, không thua gì thời kỳ Pháp thuộc…”

Chú Ba Vinh (nào đó) tuổi đời – ngó bộ – còn hơi ít nên không biết rõ cảnh sống của dân chúng ở U Minh Hạ vào thời Pháp thuộc. Chớ hồi đó, cứ theo như lời kể của ông già Nam Bộ Sơn Nam, nơi đây đã có người đặt mua dài hạn báo Chim Trời ở tận Sài Gòn, có kẻ giữa bữa giỗ (dám) bàn chuyện quốc sự và lớn tiếng chê bai tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang sa.

Những chuyện “tầm ruồng” như thế, xem ra, có vẻ như một giấc mơ (đã) xa xôi lắm đối với người dân ở U Minh Hạ – bây giờ. Trong bài phóng sự (thượng dẫn) không nghe phóng viên báo Tuổi Trẻ kể lại chuyện có bữa nhậu lai rai mấy con cá lóc nướng trui với người dân địa phương, và dùng chung với họ một bữa cơm chiều (“ngon làm sao”) như đặc phái viên của báo Chim Trời – hồi đó. Chuyện người ta ăn ở cư xử tử tế với nhau, theo kiểu “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư” (ngó bộ) cũng miễn có luôn.

Ở U Minh Hạ, ngày nay, theo như nguyên văn tường thuật nhà báo Hoàng Trí Dũng:“30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất.” Có chăng chỉ là tiếng kêu gào ai oán, của những người dân khốn cùng và uất hận, vì bị cướp bóc trắng trợn mà thôi.

Sơn Nam, có lẽ, vì tuổi đời đã cao nên không còn nghe và thấy được những tiếng kêu thương và cảnh đời vô vọng (đến thế) từ nơi sinh trưởng của ông. Ngày 18 tháng 8 năm 2008, trên diễn đàn talawas, tôi nghe nhà văn Lê Phú Khải kể chuyện này:

“Có lần tôi nhờ ông viết một bài cho Đài Tiếng nói Việt Nam để kỷ niệm Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ. Mấy ngày sau, cũng tại quán café ở Gò Vấp, ông đưa tôi bài: ‘Nhớ ngày Cách mạng tháng Tám ở U Minh’, đánh máy bằng cái máy chữ, chữ nhỏ li ti như con kiến. Ðài phát xong tôi thấy ‘tiếc’ quá! Vì chữ nghĩa phát lên trời rồi gió bay đi… Tôi bèn gửi bài đó cho báo Cà Mau. Khi bài báo đó được in trên giấy trắng mực đen ở Cà Mau thì bạn đọc, cán bộ, đồng bào và các nhà nghiên cứu của vùng đất này đều kinh ngạc về trí nhớ của Sơn Nam. Bài báo đó là một tư liệu lịch sử sống động về Cách mạng tháng Tám ở U Minh, chưa từng được ai ghi chép lại sinh động như thế. Thư gửi về toà soạn tới tấp… Xin trích đăng lại đoạn cuối của bài báo đó:

“Tại dinh chủ quận trước kia, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Từ những thôn xóm hẻo lánh, đồng bào đến dự ngày lịch sử trọng đại. Ðã có ban trật tự sắp xếp chỗ đậu xuồng ghe. Ðồng bào người Khmer cũng đến dự với các sãi áo vàng. Xuồng ghe đậu dài hàng kilômét. Nhiều người trung niên ‘quần bao áo bố’ cõng con trên vai để nó trông lên khán đài. Tiếng loa phát ra vang vang, báo tin đại diện của tỉnh bộ Việt Minh đã đến. Có múa lân. Vài ông lão tụ tập lại, dạy võ thuật cho thanh niên. Loa lại vang lên, khuyên đồng bào yên tâm, cứ chịu đói buổi sáng, sau đó sẽ có phân phát bánh tét, ăn thay cơm. Trời chuyển mưa. Ðồng bào vẫn đứng chịu mưa tại chỗ.”

Câu chuyện này cũng lại khiến tôi liên tưởng đến nhận xét của giáo sư Nguyễn Văn Lục về một vị thầy học cũ của mình:

“Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.”

Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm 2008 nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó.

Tưởng Năng Tiến

(*) Sách được in lại (và in “lậu”) tại Hoa Kỳ, tuyệt nhiên không có ghi một chi tiết nào về nhà xuất bản hay năm tái bản.

 

Cứu Agribank để tránh sụp đổ dây chuyền

Cứu Agribank để tránh sụp đổ dây chuyền

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-08-05

Văn phòng một chi nhánh Agribank

Văn phòng một chi nhánh Agribank

(Photo Anh Quân/ảnh minh họa)

Tổng nợ xấu của Ngân hàng Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn Agribank khoảng 40.000 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 1/4 tổng nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Kiểm toán Nhà nước vừa chính thức báo động tình trạng nguy ngập của Agribank.  Những giải pháp nào có khả năng được nhà nước thực hiện để cứu ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam khỏi bị sụp đổ và gây ảnh hưởng dây chuyền.

Cần bao nhiêu bài học Vinashin, Vinalines nữa

Nếu để cho Agribank phá sản thì chính phủ phải đợi một thời gian nữa. Phải tới ngày 1/1/2015 Luật Phá sản sửa đổi bổ sung mới có hiệu lực thi hành. Luật mới có nội dung qui định vấn đề phá sản của các tổ chức tín dụng.

Tuy vậy vấn đề không đơn giản, Agribank là Ngân hàng thương mại quốc doanh gần như lớn nhất trong hệ thống với tổng tài sản lên tới 500.000 tỷ. Agribank đã có lịch sử 26 năm, qui chế của nó có nhiều lần điều chỉnh nhưng luôn luôn là quốc doanh.  Kể từ 2011 Agribank được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi hoạt động sang mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu 100% vốn điều lệ. Tổng vốn điều lệ của Agribank là 29.605 tỷ đồng và trên thực tế số vốn này đã bị mất hết, không những thế tổng nợ xấu và nợ khó đòi còn vượt vốn điều lệ khoảng 10.000 tỷ. Điều đáng lưu ý, những khoản cho vay có vấn đề của Agribank không phải là tín dụng phát triển nông nghiệp mà ở các lĩnh vực bất động sản hoặc đầu tư ngoài ngành.

” Không phải chỉ một cái Ngân hàng Nông nghiệp này mà bài học Vinashin, Vinalines một số đơn vị kinh tế nhà nước đã làm thất thoát thâm thủng rất nhiều….Nếu không cải cách lại thì đây là một vấn nạn

Giáo sư Ngô Trí Long”

Theo Phó Giáo sư Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội nếu Agribank sụp đổ nó sẽ gây hiệu ứng Domino cho toàn hệ thống, do vậy Nhà nuớc sẽ phải tìm cách cứu vãn. Ông nói:

“ Không phải chỉ một cái Ngân hàng Nông nghiệp này mà bài học Vinashin, Vinalines một số đơn vị kinh tế nhà nước đã làm thất thoát thâm thủng rất nhiều. Nhưng vì cái mục tiêu Hiến pháp đã qui định kinh tế Nhà nước là chủ đạo, phải cải tổ cải cách lại làm sao thực sự có hiệu quả. Nếu không cải cách lại thì đây là một vấn nạn, một gánh nặng cho nền kinh tế đặc biệt là người phải chịu ảnh hưởng lớn nhất là người dân, tiền thuế của dân đóng vào, sử dụng tiền ấy vào những việc làm ăn không có hiệu quả. Hiện nay thực chất ngân sách Việt Nam không lành mạnh, lạm phát, bội chi luôn tăng cao từ 4,8 tới 5,3%. Trong bối cảnh như vậy ngân sách khó khăn mà lại phải đi xử lý những hiện tượng này thì hoàn toàn là một gánh nặng. Một điều mà Nhà nước phải trả giá rất là lớn cho nên đòi hỏi phải cải tổ cải cách đặc biệt về kinh tế quốc doanh làm sao thực sự có hiệu quả để tránh lập lại vết xe đổ.”

Trụ sở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank).

Trụ sở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank).

Yếu kém trong việc quản trị ngân hàng

Trong câu chuyện với chúng tôi, TS kinh tế Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội nhà báo độc lập hiện sống và làm việc ở Saigon đã nối kết sự kiện Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Phá sản 2014 sửa đổi bổ sung, dành hẳn một chương dài để tuyên bố đánh giá các tổ chức tín dụng có thể lâm vào vòng phá sản và có thể cho phá sản và động thái ít lâu sau của Ngân hàng Nhà nước. Đó là việc lần đầu tiên đưa ra tuyên bố về khả năng giảm một nửa trong tổng số hơn 30 tổ chức tín dụng ngân hàng của Việt Nam. Mô tả sự kiện vừa nêu bằng một nhóm từ dân gian “họ muốn buông” các tổ chức ngân hàng yếu kém. TS Phạm Chí Dũng tiếp lời:

” Hiện nay không chỉ có 9 ngân hàng rơi vào tình trạng yếu kém như Ngân hàng Nhà nước công bố. Thực ra có đến 2/3 số ngân hàng là không bảo đảm khả năng hoạt động, không bảo đảm khả năng thanh toán và cũng khó mà trụ nổi

TS Phạm Chí Dũng”

“Hiện nay không chỉ có 9 ngân hàng rơi vào tình trạng yếu kém như Ngân hàng Nhà nước công bố. Thực ra có đến 2/3 số ngân hàng là không bảo đảm khả năng hoạt động, không bảo đảm khả năng thanh toán và cũng khó mà trụ nổi một khi mối quan hệ sở hữu chéo, chồng chéo với nhau dẫn tới hệ lụy nợ xấu liên quan tới nhau. Khi một ngân hàng đổ bể thì sẽ dẫn tới hàng loạt ngân hàng khác. Tóm lại chỉ có khoảng 1/3 số ngân hàng có thể trụ lại nhưng không phải là hoàn toàn bền vững. Thậm chí người ta đặt vấn đề rằng ngay cả ngân hàng nằm trong tốp 5 như BIDV, Agribank, Vietinbank hay Vietcombank đều có khả năng đội nón ra đi nếu không được quản trị cẩn thận.

Vấn đề quản trị ngân hàng là một trong những yếu kém nhất của Việt Nam. Chúng ta vừa thấy bằng chứng đó là Agribank và nếu như vấn đề Agribank không được giải quyết rốt ráo ngay lập tức, như là lời của một kiểm toán viên cơ quan kiểm toán Nhà nước, thì chắc chắn Agribank phải đối diện với rất nhiều thách thức và lúc đó có khả năng, tôi muốn nói là rất nhiều khả năng Agribank sẽ trở thành trường hợp ngân hàng Lehman Brothers của Hoa Kỳ .”

Xin nhắc lại vụ phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers tháng 9/2008 được cho là lớn nhất trong lịch sử với khoản nợ khổng lồ 613 tỷ USD. Nó là một trong các nhân tố của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

” Nhà nước đẻ nó ra thì nhà nước phải quản lý nó cho tốt. Nó làm thất thoát như thế thì ngân sách phải gánh chịu. Như vậy phải xem ai phải chịu trách nhiệm về hoạt động của những ngân hàng chính sách ấy, đó là chính phủ hay là Ngân hàng Trung ương hay là ai

Chuyên gia Bùi Kiến Thành”

Theo chuyên gia tài chánh Bùi Kiến Thành ở Hà Nội, không thể cho phá sản hay giải thể Agribank vì nó là một dạng ngân hàng chính sách của Chính phủ, nó rất cần thiết cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ông Thành cho là trong quá khứ Việt Nam lập ra những ngân hàng để lo riêng từng lãnh vực như nông nghiệp, công thương, ngoại thương. Nhưng về sau tất cả các ngân hàng này mở rộng hoạt động trong mọi lãnh vực tương tự như nhau. Vị chuyên gia đặt câu hỏi tại sao không sáp nhập những ngân hàng này lại một cách sớm sủa và có biện pháp quản lý chặt chẽ. Chuyên gia Bùi Kiến Thành đề nghị truy trách nhiệm cao nhất trong vụ việc Agribank, mặc dù nhiều giới chức lãnh đạo của Agribank ở trung ương và địa phương đã lần lượt bị bắt và khởi tố.

“ Nhà nước đẻ nó ra thì nhà nước phải quản lý nó cho tốt. Nó làm thất thoát như thế thì ngân sách phải gánh chịu. Như vậy phải xem ai phải chịu trách nhiệm về hoạt động của những ngân hàng chính sách ấy, đó là chính phủ hay là Ngân hàng Trung ương hay là ai. Ai trách nhiệm trực tiếp về vấn đề hoạt động sái qui định gây ra những thất thoát lớn như thế đối với Ngân hàng Nông nghiệp thì phải làm rõ ràng việc đó ra.”

Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đang đứng trước một nan đề, nếu tăng vốn cho Agribank bằng tiền ngân sách thì càng gây khó khăn hơn và có thể làm nền kinh tế sa lầy thêm. Giải pháp thứ nhì là tái cơ cấu bằng hình thức sáp nhập, nhưng điều này cũng khó vì Agribank quá lớn và ngập trong nợ. Giải pháp thứ ba được đề cập tới là cổ phần hóa Agribank và xem xét tỷ lệ cổ phần mà nhà nước muốn nắm giữ.

Theo các chuyên gia tất cả ba giải pháp đều không trọn vẹn và nói cách khác Agribank chính là con tàu đắm Vinashin của ngành ngân hàng. Cứ trông vào Vinashin và những giải pháp chắp vá để nhìn về tương lai Agribank.

Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?

Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-08-06

Hội nghị Thành đô 1990

Hội nghị Thành đô 1990

Files Photos

Hội Nghị Thành Đô là cụm từ nhức nhối đối với người quan tâm tới vận mệnh đất nước có liên quan đến yếu tố Trung Quốc. Hồi gần đây sự đòi hỏi minh bạch hội nghị này ngày một xuất hiện nhiều hơn trong giới sĩ phu cũng như tướng lãnh quân đội Nhân dân Việt Nam.

Bí ẩn vẫn bao trùm Hội nghị Thành Đô

Trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 Hội nghị Thành Đô được tổ chức tại Tứ Xuyên quy tụ lãnh đạo cao cấp của hai nước Việt Nam-Trung Quốc cho đến nay vẫn còn để lại trong lòng người dân nhiều câu hỏi về những gì mà hai bên bàn luận. Những khuôn mặt phía Việt Nam như Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng, cố vấn ban chấp hành Trung ương Đảng. Phía bên kia là Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.

Qua hình ảnh, những cái bắt tay đi kèm những nụ cười cho biết họ vừa bàn thảo những sự kiện quan trọng nhưng không ai được đọc hay nghe những gì mà hai bên thỏa thuận bên trong hội nghị. Từ đó đến nay, sự bí mật, hay nói đúng hơn là bưng bít vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô như một vùng cấm của người cộng sản mặc dù nội dung của nó liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc.

Lịch sử cho thấy bất cứ sự thỏa hiệp mờ ám nào dù tinh vi tới đâu cũng bị lật tẩy. Không ai có thể buộc kẻ thù không được công bố những gì mà trong quá khứ đã trót bằng lòng với chúng. Câu chuyện công hàm Phạm Văn Đồng là một thí dụ lớn nhất mà nhà nước có thể lấy làm bài học vì thời gian dù có bao lâu vẫn không mài mất được chữ ký của một Thủ tướng.

” Qua hình ảnh, những cái bắt tay đi kèm những nụ cười cho biết họ vừa bàn thảo những sự kiện quan trọng nhưng không ai được đọc hay nghe những gì mà hai bên thỏa thuận bên trong hội nghị. Từ đó đến nay, sự bí mật, hay nói đúng hơn là bưng bít vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô”

Công hàm Phạm Văn Đồng do Hà Nội quá lâu không lên tiếng giải bày khiến Trung Quốc có lợi thế như một yếu tố phân hóa quần chúng không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính quyền khi xảy ra vấn đề tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Tương tự như vậy, Trung Quốc đã dùng sự mập mờ của Hội Nghị Thành Đô để bịt miệng lãnh đạo Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử khiến tay họ trót nhúng chàm vì quá tin vào người bạn xã hội chủ nghĩa.

Năm 2004 tập hồi ký của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cho thấy phần nào sự bí ẩn phía sau khi ông bị Trung Quốc gạt ra khỏi Hội Nghị vì quan điểm chống Trung Quốc công khai của ông. Yếu tố này một lần nữa chứng minh sự gượng ép của những người đại diện Việt Nam tham gia hội nghị và mãi một phần tư thế kỷ sau đó bí mật vẫn bao trùm câu chuyện Thành Đô.

Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang là người từng nhiều lần tiếp xúc với nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch cho biết:

Chụp ảnh lưu niệm sau hội đàm Thành Đô

Chụp ảnh lưu niệm sau hội đàm Thành Đô

Trung quốc đưa ra một điều kiện tiên quyết đó là Việt Nam thực tâm muốn bình thường, cải thiện quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì việc đầu tiên là Việt Nam phải loại bỏ Bộ trưởng Thạch, đó là điều anh ấy nói riêng với tôi và sau này tôi được biết anh ấy nói công khai trong Bộ Ngoại giao. Còn nhiều việc anh ấy nói với tôi nữa nhưng tôi chưa dám công bố bởi vì có thể những việc đó anh ấy sẽ viết trong cuốn hồi ký của anh ấy.

Anh ấy là người rất hiểu Trung Quốc và hiểu tận tim gan của họ. Ví dụ như Trung Quốc nói rằng đảo Hoàng Sa có xương của người Trung Quốc thì ảnh đập lại anh ấy nói nếu như thế thì ngay thủ đô Hà Nội cũng sẽ là đất của Trung Quốc bởi vì gò Đống Đa có rất nhiều xương của Trung Quốc vì người Hán bị vua Quang Trung tiêu diệt chất thành cả một cái gò như thế. Nếu nói đâu có xương của người Hán người Trung Quốc thì nơi đó là dất của Trung Quốc thì phi khoa học.

Việt Nam một tỉnh tự trị của Trung Quốc?

Tài liệu về hội nghị này hết sức ít ỏi khiến bao nhiêu học giả muốn nghiên cứu về nó phải chịu thua vì sự trung thành của người trong cuộc. Bí mật càng giữ, sự xuyên tạc sự thật về nó càng khiến người ta tin hơn, đặc biệt nếu sự xuyên tạc ấy đến công khai từ phía Trung Quốc khi hai nước chạm trán với nhau trên vấn đề biên cương lãnh thổ.

” Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên

Tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã”

Tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã vừa cùng nhau công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự thật về “Kỷ Yếu Hội Nghị” trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau:

Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….

Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên , và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.”

Với những từ ngữ tuyên giáo như thế không ai có thể tin rằng lãnh đạo Việt Nam đã mù quáng đến nỗi đi tới quyết định như vậy mặc dù sự xụp đổ của Liên Xô đã khiến đảng Cộng sản Việt Nam phải tìm cách dựa vào Trung Quốc để sống còn.

Dù sao thì Chủ nghĩa Xã hội cũng không thể biến Việt Nam thành một tỉnh tự trị của Trung Quốc vì ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười cộng với Phạm Văn Đồng không đủ chính danh để ký một văn tự vô giá trị như thế.

Tuy nhiên vì Hà Nội tiếp tục im lặng nên câu hỏi đã dần dần biến thành sự thật cho dù chỉ phân nửa sự thật đến từ Hoàn Cầu Thời Báo.

Phản ứng của nhân sĩ trí thức và tướng lãnh Việt Nam rõ ràng là phẫn nộ và họ đòi hỏi nhà nước phải bạch hóa sự kiện Thành Đô. Trước tiên là Thiếu tướng Lê Duy Mật sau đó là Đại tá công an Nguyễn Đăng Quang cùng nhiều người khác đã công khai kiến nghị lãnh đạo phải giải thích minh bạch những điều mà Trung Quốc đưa ra như đã từng đưa sự việc công hàm Phạm Văn Đồng khiến Hà Nội phải ngậm bù hòn làm ngọt không thể tiến tới một vụ kiện phản đối Trung Quốc.

” Hoàn Cầu Thời báo thì nó không phải là cơ quan chính thức của dảng và nhà nước Trung Hoa cho nên nó đưa như thế ai muốn hiểu thế nào thì hiểu, bản thân cá nhân tôi thì tôi không tin đó là sự thật. Thế nhưng nếu mình im lặng trong chuyện này thì bất lợi cho mình. Phải có một kênh thông tin nào đó để phản bác lại chuyện đó

Đại tá Nguyễn Đăng Quang”

Nói với chúng tôi Thiếu tướng Lê Duy Mật cho biết:

Vấn đề Thành Đô quan hệ như thế nào nó ảnh hưởng ra sao và hậu họa của nó thế nào thì giờ mình cũng chưa thật rõ cho nên tôi nêu ra vấn để để các đồng chí lãnh đạo xem xét và đồng thời có ý kiến với toàn bộ đảng toàn nhân dân thế thôi. Bây giờ thì cứ chờ họ xem quan điểm, thái độ và cách giải quyết như thế nào. Còn bây giờ mình hãy nêu vấn đề, một vài ví dụ thế thôi. Nó là vấn đề bang giao chiến lược và của tập thể chứ không phải của một cá nhân nào.

Đại tá Nguyễn Đăng Quang không tin vào những thông tin này tuy nhiên theo ông nếu nhà nước vẫn chủ trương im lặng thì không khác gì trao vũ khí tuyên truyền cho giặc, ông chia sẻ:

Cái thông tin này thì bản thân tôi nghĩ rằng không phải là thật. Hoàn Cầu Thời báo nó tung ra để gây chia rẽ mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam với nhau thôi và gây phân hóa trong người dân Việt Nam với nhau.

Hoàn Cầu Thời báo thì nó không phải là cơ quan chính thức của dảng và nhà nước Trung Hoa cho nên nó đưa như thế ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. bản thân cá nhân tôi thì tôi không tin đó là sự thật. Thế nhưng nếu mình im lặng trong chuyện này thì bất lợi cho mình. Phải có một kênh thông tin nào đó để phản bác lại chuyện đó.

Còn chuyện có công bố cho dân biết về Hội nghị Thành Đô hay không thì tôi nghĩ rằng không phải là chuyện dễ làm nhưng phần nào ít nhiều gì cũng phải cho người dân biết.

Hội Nghị Thành Đô như một giọt nước tràn ly, đây là cơ hội để nhà nước bạch hóa một sự thật được giữ kín trong suốt 24 năm. Tuy nhiên bí mật khi đã trở thành gai nhọn thì cách hay nhất vẫn phải chịu đau mà lấy gai lể nó.

Yêu kẻ thù

Yêu kẻ thù

Vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương họ.

Yêu kẻ thù

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,44-45). “Anh em hãy yêu thương kẻ thù mình”. Việc này thật đòi hỏi: Nó đảo lộn các suy nghĩ của ta và làm mọi người phải thay đổi hướng đi của đời mình! Bởi vì, đừng dấu diếm nữa, tất cả chúng ta đều có một vài kẻ thù… lớn hoặc nhỏ.

Kẻ thù đang ở đàng sau cánh cửa căn nhà bên cạnh, nơi người đàn bà đáng ghét đó mà tôi thường tìm cách tránh né mỗi làn bà ta sắp sửa cùng bước lên cầu thang.

Kẻ thù ở chính nơi người bà con mà cách đây ba chục năm đã đối xử bất công với cha tôi, vì thế tôi không còn chào hỏi nữa.

Kẻ thù ngồi ở bàn đàng sau trong lớp học và từ ngày nó tố cáo cho bạn tôi với thầy giáo, không bao giờ bạn nhìn mặt nó.

Kẻ thù là người bạn gái đó, vì cô ta đã bỏ bạn để đi với người khác.

Kẻ thù là người bán hàng đã đánh lừa bạn.

Cũng có người nhìn các linh mục và Giáo Hội như là thù địch.

Tất cả những người này và vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương họ.

Phải yêu thương họ sao?

Thưa phải, phải yêu thương họ! Và đừng cho mình có thể làm được bằng cách thay đổi tình cảm oán ghét thành tình cảm nhân hậu hơn. Mà còn hơn nữa. Bạn hãy lắng nghe lời Đức Giêsu dạy:

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy, anh em mới thực sự trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Bạn thấy không? Đức Giêsu muốn một tình thương thể hiện qua việc cầu nguyện và những hành động cụ thể. Ở nơi khác, Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ mình” (Lc 6,27-28).

Ngài giải thích cho ta lý do tại sao Ngài truyền dạy như vậy, và chỉ cho ta mẫu gương là tình thương của Thiên Chúa, Cha Ngài; Ngài dạy ta làm như vậy cùng hành xử theo gương Chúa Cha. Điều đó có nghĩa là trên đời ta không còn cô đơn: ta có một người Cha và phải sống như Người. Không những thế, mà Thiên Chúa còn có quyền đòi ta làm như vậy, bởi vì khi ta còn là thù địch của Người, còn sống trong tội lỗi, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x.2Ga 4,19), và sai Con của Người đến với ta, Đấng đã chết cách nhục nhã vì mỗi người chúng ta.

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Bài học ấy chú bé Jery người da đen đã học được ở Washington. Vì có trí thông minh, em đã được nhận vào một lớp đặc biệt gồm toàn thiếu niên da trắng. Nhưng trí thông minh không đủ để làm cho các bạn cùng lớp hiểu rằng em cũng bình đẳng như chúng. Màu da đen đã làm cho tất cả ghét bỏ em, đến độ ngày lễ Giáng Sinh các học sinh tặng quà cho nhau nhưng không thèm để ý tới Jery. Em bật khóc, điều này dễ hiểu! Nhưng khi về nhà em nghĩ đến Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù của anh em”, và đồng ý với má, em mua quà vui vẻ tặng cho tất cả những “người anh em da trắng” của mình.

“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt”.

Ngày hôm đó Elizabeth, cô bé có đạo ở thành phố Florence (Italia) thật đau lòng, khi bước lên bậc thang vào nhà thờ dự lễ, vì cô nghe tiếng cười nhạo của một nhóm đồng lứa tuổi. Cho dù muốn chống lại, em mỉm cười và trong nhà thờ em cầu nguyện cho những thiếu niên ấy.

Khi đi ra, các thiếu niên chặn em lại và hỏi lý do tại sao em xử sự như vậy. Em trả lời, mình là người có đạo, nên phải thương yêu luôn luôn. Em nói lên điều đó với niềm xác tín mạnh mẽ.

Chứng ta của em Elizabeth đã được thưởng công: Chúa Nhật sau đó em thấy tất cả các thiếu niên ấy trong nhà thờ, rất chăm chú ở hàng ghế trên cùng. Các thiếu niên chấp nhận Lời Chúa như thế. Do đó các em là người lớn trước mặt Chúa.

Có lẽ ta cũng nên điều chỉnh lại một vài tình trạng, hơn nữa cũng vì ta sẽ được xét xử theo như cách ta xét đoán người khác. Thật vậy, chính ta là người trao vào tay Chúa cái thước mà Ngài phải dùng để đo tình yêu của chúng ta. Ta đã chẳng xin Chúa: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đó sao? Vậy ta hãy yêu thương kẻ thù! Chỉ khi xử sự như vậy ta mới có thể sửa chữa lại sự chia rẽ, đạp đổ những hàng rào ngăn cách và xây dựng cộng đoàn huynh đệ.

Điều đó khó khăn sao? Nặng nề sao? Nó không để ta ngủ yên, ngay khi mới nghĩ đến sao? Hãy can đảm lên! Điều đó không phải là quá sức: một nỗ lực nhỏ từ phía ta, rồi 99 phần trăm Thiên Chúa sẽ làm, và… trong tâm hồn ta sẽ dâng trào niềm vui.

Vaodoi

Cốt lõi của tôn giáo

Cốt lõi của tôn giáo

Nhân một chuyến công du, vị Tổng Trấn sở tại dừng chân đảnh lễ Minh Sư.

Ông nói: “Thưa ngài, Việc Nước bề bộn không cho phép tôi có nhiều thì giờ luận bàn viển vông. Có thể nào ngài tóm gọn cốt lõi của tôn giáo trong một hai câu, cho một người quá bận rộn như tôi không?”

“Vì lợi ích của Thượng Quan, tôi xin tóm tắt điều cốt yếu đó trong một từ (kép)”

“Tuyệt vời! Và từ siêu việt đó là gì?”

Thinh-Lặng.”

“Và đường nào dẫn tới Thinh-Lặng?”

Chiêm-niệm.”

“Và xin cho phép tôi được hỏi chiêm-niệm là gì?”

Thinh-Lặng.”

Suy tư

Mỗi ngày, trước khi ngủ, cần 15 tới 30 phút thinh lặng để nhìn lại

Suốt một ngày quamối tương quan của tôi với Chúa hiện nay ra sao???

 

Một vụ án rắc rối về DNA

Một vụ án rắc rối về DNA

Người mẹ trẻ ở bang Washington, Mỹ đã phải đấu tranh với tòa án để giữ đứa bé mà cô mang nặng đẻ đau, vì theo xét nghiệm nó không phải là con ruột cô.

“Cô là ai? Cô đang âm mưu gì với bọn trẻ?”

Lydia Fairchild, 26 tuổi, sinh nở ba lần. Sau khi sinh đứa thứ ba, cô bị thất nghiệp. Do không đủ điều kiện kinh tế nuôi ba con một mình, Lydia phải viết đơn xin trợ cấp hàng tháng của chính phủ tại địa phương cư trú, tiểu bang Washington. Mọi người trong gia đình cô đều được triệu tập tới Sở Dịch vụ xã hội để chứng minh một số thông tin có liên quan.

Ban đầu, Fairchild nghĩ đó đơn giản là một cuộc triệu tập như thường lệ với một nhân viên xã hội. Nhưng cô không ngờ bị thẩm vấn nghiêm khắc giống như một nghi can tội phạm. Cô chết điếng khi toà tuyên bố bạn trai cô là bố bọn trẻ. Còn cô, người đã sinh ra chúng lại không phải là mẹ, vì DNA của cô không trùng hợp với chúng.

Lydia Fairchild sẽ còn nhớ mãi cái ngày hôm ấy. Nhân viên tòa án gọi cô đến hỏi một cách đầy ngờ vực: “Cô là ai? Cô đang âm mưu gì với bọn trẻ?” Ngạc nhiên, Lydia trả lời,: “chúng là con tôi mà, sao lại có chuyện âm mưu gì ở đây?”. Người đó đáp lại lạnh lùng: “Chúng không phải là con cô. Chúng tôi đã xét nghiệm DNA. DNA của cô và bọn trẻ không giống nhau”.

Từ tòa án trở về, Lydia tưởng như sắp phát điên. Rõ ràng cô là mẹ của ba đứa trẻ. Cô đã mang thai và sinh nở bình thường. Tất cả những người thân trong gia đình, hàng xóm và bác sĩ ở nhà hộ sinh đều biết. Thậm chí, mẫu DNA bố của bọn trẻ cũng phù hợp với DNA của cả ba đứa. Nhưng tất cả những cái đó đều vô nghĩa trước tòa. Lý thuyết y học đã khẳng định DNA của mẹ và con phải tương đồng. 100% trường hợp đều như vậy. Ngược lại chỉ có thể là giả mạo.

Nghi ngờ xét nghiệm của tòa có sai sót, Lydia xin thực hiện lại xét nghiệm ở một số phòng thí nghiệm độc lập do chính cô lựa chọn. Kết quả vẫn y nguyên, không có chút sai sót nào. Cô, người sinh ra chúng lại không phải là mẹ. Mặc dù, cả ba đứa trẻ đều khăng khăng khẳng định mẹ chúng chính là Lydia Fairchild – người đang đứng trước mặt chúng.

Tuy nhiên, đó chưa phải là bằng chứng đủ sức thuyết phục. Như vậy, từ chỗ chỉ muốn xin một khoản trợ cấp xã hội hằng tháng để nuôi con, Lydia phải đối mặt với nguy cơ phạm tội: Cô có thể bị buộc tội giả mạo và lạm dụng bọn trẻ, thậm chí là bắt cóc trẻ em. Trong trường hợp đó, lũ trẻ sẽ bị đưa vào trung tâm bảo trợ xã hội và Lydia sẽ không bao giờ gặp lại các con mình. “Cô biết đấy. Chúng tôi có thể đón bọn trẻ đi bất cứ lúc nào”, một nhân viên xã hội nói với Lydia trước khi cô rời khỏi phòng.

Có sự nhầm lẫn?

Sau những giờ “thẩm vấn” xót xa, đầy hoài nghi, Lydia bắt đầu hoảng loạn, cô bước đi loạng choạng. Lydia vội vã trở về nhà tìm những bức ảnh siêu âm trong quá trình cô mang thai của từng đứa con một. Vừa nỗ lực lục tìm, Lydia kể với cha mẹ mình về kết quả xét nghiệm DNA  “quái dị” ấy. Cha mẹ Lydia không tin điều đó.

“Lúc đầu, tôi nghĩ rằng, con bé đang nói đùa. Chắc có sự nhầm lẫn nào đó. Chính tôi là người đưa Lydia đến bệnh viện sinh. Rồi cả ba lần sinh, chính mắt tôi nhìn thấy bọn trẻ do Lydia mang nặng đẻ đau. Tôi còn nhẹ nhàng ẵm chúng lên, khoe với mọi người trong gia đình và một số bạn bè”, bà Carol Fairchild, mẹ của Lydia kể lại trong sự ngỡ ngàng và đau khổ.

Tiến sĩ Leonard Dreisbach, bác sỹ khoa sản, người trực tiếp ba lần đỡ đẻ cho Lydia khẳng định, Lydia là mẹ của cả ba đứa trẻ. Ông còn cho rằng, trường hợp kỳ lạ của Lydia chắc chắn có sự nhầm lẫn nào đó trong kết quả xét nghiệm DNA. Ông cũng rất sẵn lòng làm chứng trong phiên tòa về “sự thật” này.

Xét về tình, các thành viên ban hội thẩm cũng tin rằng, Lydia Fairchild là mẹ của cả ba đứa trẻ. Nhưng về lý, Lydia Fairchild không có bằng chứng chứng minh, cô và các con có cùng dòng máu. Lydia có thuê luật sư biện hộ cho cô nhưng không ai nhận. Vì họ biết chắc, họ không thể thắng, kết quả DNA đã cho biết điều đó. Sau cùng, Luật sư Alan Tindell “dũng cảm” nhận lời, bởi theo linh cảm ông tin, Lydia không phải là kẻ bắt cóc chúng, mà cô chính là mẹ đẻ.

Người có DNA từ nhiều nguồn khác nhau (Genetic Chimerism)

Trong thời điểm u ám ấy, một tia hy vọng chợt lóe lên. Luật sư Alan Tindell tìm thấy một bài viết trên tạp chí New England Journal of Medicine, có nói đến một trường hợp ở Boston tương tự như của Lydia. Ông đệ đơn lên tòa xin hoãn xét xử khi các xét nghiệm này có thể thực hiện.

Đó là trường hợp của bà Karen Keegan, một bà mẹ 52 tuổi có hai con trai ở Boston. Xét nghiệm trước ca ghép thận của Karen cũng cho thấy DNA của bà và bọn trẻ không giống nhau. Bác sĩ ở đó, mặc dù biết chắc chắn rằng không hề có sự giả mạo nào, nhưng cũng không thể giải thích nổi điều gì đã diễn ra. Họ tiến hành những mẫu xét nghiệm ở máu, tóc, mô miệng nhưng tất cả đều không có DNA  của con trai bà.

Các bác sĩ đã tìm hiểu kỹ hơn tuyến giáp của Karen. Lý do khiến các bác sỹ chọn tuyến giáp để xét nghiệm AND vì trong 100 ml máu ở người bình thường, có 2 – 2,5 mmol calcium (100 mg/l) và tồn tại dưới 3 dạng là 40% gắn với protein, 5 – 10% ở dưới dạng muối kết hợp với phosphat, bicarbonat, citrat; và 50% còn lại tồn tại dưới dạng ion hóa, để đảm bảo cho hoạt động điện sinh lý của các tế bào.

Mỗi ngày, cơ thể hấp thu vào 25 mmol canxi và thải trừ 20 mmol ra phân + 5 mmol ra nước tiểu. Hormon tuyến giáp có vai trò huy động canxi từ xương ra máu, và vitamin D giúp hấp thu canxi vào cơ thể, đưa đến xương. Karen Keegan gặp một vấn đề khá hiếm trong y học gọi là chimerism.

Hiện tượng này xảy ra ở người hay động vật khi hai trứng được thụ thai, hoặc phôi thai kết hợp cùng nhau trong thời kỳ đầu của thai kỳ. Mỗi hợp tử mang một bản sao DNA của bố mẹ, vì vậy hợp tử mới có một bộ gene khác biệt. Về cơ bản, đứa trẻ sinh ra là song sinh của chính nó. Chimerism ở người rất hiếm. Trong các thử nghiệm DNA nhằm xác định con ruột của bố mẹ đã phát hiện trường hợp Chimerism khi đứa trẻ không có liên hệ sinh học với người mẹ – nó mang một DNA khác. Lydia Fairchild là trường hợp điển hình sinh ra một chimera. Người mẹ trẻ ở bang Washington đã phải đấu tranh với tòa án để giữ đứa bé mà cô mang nặng đẻ đau.

Trên thế giới có khoảng 30 trường hợp như vậy được ghi nhận. Thực chất đó là trường hợp hai cá thể song sinh tồn tại trong một cơ thể. Nguyên nhân là do có hai trứng cùng được thụ tinh, nhưng khi trong tử cung, đáng lẽ phải phát triển thành hai trẻ song sinh thì chúng lại “hòa lẫn” vào nhau, và trở thành một bào thai hoàn hảo duy nhất, nhưng có hai mã di truyền khác nhau – hai chuỗi DNA khác nhau.

Nói một cách khác, Karen là hai người trong một cơ thể và điều đó không thể quan sát bằng mắt thường, mà chỉ có thể phát hiện nếu xét nghiệm vật chất di truyền. Đó là lý do DNA trên khắp cơ thể bà lại khác với DNA của các con, nhưng DNA ở tuyến giáp lại giống.

Câu chuyện của Karen khiến Lydia có cơ sở thuyết phục quan tòa cho cô thêm thời gian. Cuối cùng, sau hàng loạt xét nghiệm, bác sĩ kết luận rằng Lydia cũng là một trường hợp chimerism. Hồ sơ vụ án được khép lại với một kết thúc có hậu: Lydia được công nhận là mẹ đẻ của các con cô và được nhận trợ cấp hàng tháng. Mỗi lần nhớ lại chuyện đã qua, Lydia vẫn thầm cảm ơn Karen: “Nếu không có bà ấy, tôi đã mất con”.

Câu chuyện của Lydia được lưu kỹ lưỡng trong hồ sơ xử án của tòa án tiểu bang Washington. Họ xem đây là “một vụ án y khoa” hiếm gặp. Còn phía y học và các nhà khoa học, đặc biệt là những nhà chuyên môn nghiên cứu về DNA cả về con người và động vật, họ xem đó là một bước tiến mới.

TUỔI GIÀ

TUỔI GIÀ

Tuổi già nhàn lắm, các cụ ơi!
Cầy cuốc, hôm nay dẹp hết rồi.
Rộng rãi thênh thang, nhà hai đứa,
Thoải mái ra vào, đôi ta thôi.

Tuổi già khỏe lắm, các cụ ơi!
Cái vòng lợi danh, rũ sạch rồi.
Giờ đây tóc bạc, ta hai đứa,
Sáng tối nắm tay đi bộ thôi.

Tuổi già vui lắm, các cụ ơi!
Con cái giờ đây lớn cả rồi.
Nhìn qua nhìn lại, mình hai đứa
Ngày tháng đôi ta cho nhau thôi.

Tuổi già thích lắm, các cụ ơi!
Cháu nội, cháu ngoại đến chơi rồi.
Ông bà ôm nựng, ôi yêu quá,
Nhìn cháu tung tăng, ta vui thôi.

Tuổi già sướng lắm, các cụ ơi!
Bệnh tật bao nhiêu cũng biết rồi.
Khoán giao tất cả cho thày thuốc,
Thanh thản, đôi ta rong chơi thôi.

Trương Ngọc Thạch

“CON LỪA” CỦA THIÊN CHÚA THÁNH GIOAN VIANNEY

“CON LỪA” CỦA THIÊN CHÚA  THÁNH GIOAN VIANNEY

LM Giuse Nguyễn Thành Long

“Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì để làm vinh danh Ngài.”
Câu nói này rất đúng với trường hợp của thánh Gioan Vianney.
Nếu so sánh với thánh Augustinô, thánh Toma Aquinô, thánh Bonaventura, thánh Phanxicô Xaviê,…. thì trí thông minh của thánh Gioan Vianney cách biệt một trời một vực.  Người ta nói rằng chưa có vị thánh nào chậm hiểu và học hành kém cỏi như Gioan Vianney, đặc biệt là môn Latinh và Thần học, vốn là hai môn quan trọng cho chức vụ linh mục.   Kém đến nỗi Ban Giám Đốc Chủng Viện khuyên ngài nên hồi tục.   Mười bảy tuổi mới học xong tiểu học.  Tú tài phải thi đến 12 lần mới đậu.  Dưới mắt các vị giáo sư và các cha giáo khó tính, thì ngài thuộc diện “ngu lâu dốt bền khó đào tạo”.  Chẳng phải thế mà đã có lần, một giáo sư thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo hạch xem ngài có đủ khả năng học vấn tối thiểu để làm linh mục hay không.  Vị giáo sư hỏi câu nào ngài cũng không trả lời được.  Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Gioan Vianney, anh dốt đặc như một con lừa, thì giúp được gì cho Giáo hội”.  Ngài khiêm tốn trả lời:
“Thưa thầy, xưa Samson chỉ dùng một cái hàm của con lừa  mà đánh bại 3000 quân Philitinh.  Vậy với cả một con lừa này, lẽ nào Thiên Chúa không dùng được việc gì sao?”

Lời của ngài nói quả là không sai.  Thiên Chúa đã dùng con lừa đó, dùng con người kém cỏi đó và biến ngài thành vị thánh lừng danh, một vị thánh có thể nói được là đã ghi nhiều “kỷ lục Giuness” đặc biệt nhất trong lịch sử Giáo Hội.

– Kỷ lục thứ nhất: ngài là vị thánh có tài ngồi toà nhất.

Người ta nói không ngoa rằng trong lịch sử Giáo hội chưa từng có một vị linh mục nào có tài ngồi toà lâu giờ, giải tội cho nhiều người và làm ích cho linh hồn người ta nhiều như cha Gioan Vianney.  Ngài ngồi toà không biết mệt mỏi, ngồi tòa không bất kể giờ nào, sáng sớm, giữa trưa, cả lúc nửa đêm về.  Ngoài những giờ dâng lễ, cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng và tiếp khách, người ta chỉ thấy ngài nơi toà giải tội.  Ngài say mê ngồi toà đến độ quên ăn, quên ngủ.  Cũng nhờ đó mà trong suốt thời gian ngài làm cha sở họ Ars, đã có đến hàng trăm ngàn linh hồn tội luỵ được ngài cứu giúp.

– Kỷ lục thứ hai: ngài là vị thánh giảng dạy có sức lôi cuốn nhất.

Thành phần đến nghe ngài giảng dạy thuộc đủ mọi hạng người, mọi địa phận, mọi quốc gia; các linh mục, giám mục và cả hồng y, … cũng bị thu hút đến thọ giáo với ngài.  Đến nỗi nhà nước phải mở một tuyến đường xe lửa đến giáo xứ của ngài và lập thêm một nhà ga riêng để phục vụ khách hành hương đến với ngài.  Một linh mục dốt thần học, một cha xứ dở triết học, lại quê mùa, vậy mà lại dạy tu đức, mục vụ cho những người trí thức và những bậc vị vọng trong Giáo Hội.  Chỉ có Thiên Chúa mới làm được chuyện phi thường này!

– Kỷ lục thứ ba: ngoài Đức Mẹ ra, ngài là vị thánh làm cho ma quỷ lo sợ nhất.

Ma quỷ lo sợ phải “thất nghiệp”. Đã có lần ma quỷ nói với nhau rằng trên thế gian này nếu có ba người như cha Gioan Vianney thì chúng thất nghiệp dài dài.  Chính vì vậy mà ma quỷ đã tìm đủ mọi cách để quấy phá ngài và những việc ngài làm.  Đêm đêm chúng làm ồn ào không cho ngài ngủ, có ngày ngài đang ở nhà thờ thì chúng đốt giường của ngài.  Ma quỷ còn lấy cả bùn đất bôi đen thánh giá trên toà giải tội của ngài.  Ma quỷ lo vì nhiều người đã “bỏ mặc” chúng đơn côi mà theo ngài.  Ma quỷ sợ vì ngài đã đem về với Chúa quá nhiều linh hồn tội lỗi mà lẽ ra đã thuộc về chúng.

Dĩ nhiên, có được những kỷ lục có một không hai như thế là nhờ đâu?  Trước hết là nhờ ơn Chúa.  Sau nữa là nhờ ngài có một ý chí hy sinh hãm mình nghiêm nhặt, một tinh thần cầu nguyện liên lỉ, và một lòng kính mến phép Thánh Thể và Mẹ Maria phi thường.  Đó là bí quyết thành công của ngài.

Trong ngày lễ mừng kính ngài hôm nay, một lần nữa, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa một cách đặc biệt vì Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội một vị thánh, một cha sở “trên cả tuyệt vời”.  Đồng thời chúng ta hãy xin Chúa qua lời cầu bầu của thánh Gioan Vianney ban cho các linh mục, nếu không được hoàn toàn giống như ngài thì cũng được một phần như ngài, đó là luôn nhiệt thành với sứ vụ và sẵn sàng hao mòn vì Chúa và vì các linh hồn. Amen.

LM Giuse Nguyễn Thành Long

Thủy điện ở Việt Nam: ‘Bên nào cũng khóc’

Thủy điện ở Việt Nam: ‘Bên nào cũng khóc’
August 05, 2014

Nguoi-viet.com


VIỆT NAM (NV)
Bộ Công Thương Việt Nam vừa tuyên bố sẽ tổ chức một hội nghị với chính quyền các tỉnh có công trình thủy điện để bàn bạc cách thức quản lý thủy điện tốt hơn.

Tuyên bố vừa kể được đưa ra sau khi đập tạm để chặn nước làm đập chính của thủy điện Ia Krel 2 tại huyện Ðức Cơ, tỉnh Gia Lai bị vỡ lần thứ hai vào ngày 1 tháng 8.


Thủy điện Ia Krel 2. (Hình: Tuổi Trẻ)

Ðập tạm này từng bị vỡ hồi tháng 6 năm ngoái, gây thiệt hại khoảng ba tỉ đồng. Theo chủ tịch huyện Ðức Cơ, thiệt hại của lần vỡ thứ hai chắc chắn sẽ gấp vài lần thiệt hại hồi năm ngoái.

Vụ đập tạm để chặn nước làm đập chính của thủy điện Ia Krel 2 bị vỡ khiến chủ đầu tư bàng hoàng. Ðến bây giờ, ông Nguyễn Ngọc Ẩn, phó giám đốc công ty Bảo Long Gia Lai – doanh nghiệp chuyên kinh doanh vật liệu xây dựng và phụ tùng xe vận tải nhưng không hiểu sao vẫn được chính quyền tỉnh Gia Lai cấp giấy phép đầu tư ba công trình thủy điện tại Gia Lai, trong đó có thủy điện Ia Krel 2 – chính thức thú nhận: “Chúng tôi không thể ngờ! Chúng tôi không lường hết được sự việc! Chúng tôi chưa có kinh nghiệm!”

May mắn là thủy điện Ia Krel 2 đang xây dựng, chưa tích nước, nếu đập chính vỡ khi hồ chứa nước đã tích đủ nước, hậu quả sẽ rất thảm khốc.

Vụ đập tạm của thủy điện Ia Krel 2 vỡ lần thứ hai khiến dân chúng Tây Nguyên và miền Trung thêm lo âu. Từ cuối năm 2012 đến nay đã xảy ra bốn vụ đập chặn nước của các công trình thủy điện ở Tây Nguyên và miền Trung bị vỡ. Ngoài đập tạm của thủy điện Ia Krel 2 bị vỡ hai lần, trong vòng chưa đầy hai năm, còn có đập chặn nước của thủy điện Ðak Mek 3 ở Kon Tum và đập chặn nước của thủy điện Ðakrong 3 ở Quảng Trị bị vỡ.

Ðến nay, việc cho phép thực hiện ồ ạt hàng ngàn dự án thủy điện đã tạo ra một thảm họa mới cả về kinh tế, môi trường lẫn dân sinh, đặc biệt là tại khu vực Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam.

Các dự án thủy điện đã làm Tây Nguyên mất 80,000 héc ta đất, gây xáo trộn sinh hoạt, sinh kế của 26,000 gia đình, phần lớn là người thiểu số.

Những dự án thủy điện được cấp giấy phép để thực hiện tại Tây Nguyên và miền Trung được xem là nguyên nhân tăng thêm đói nghèo, đẩy dân chúng tới tột đỉnh của sự bần cùng, vì gây ra hạn hán nghiêm trọng vào mùa khô, lũ lụt thường xuyên vào mùa mưa.

Chưa kể chuyện xả lũ vô tội vạ sau các trận bão hồi năm ngoái đã làm 41 người chết, 5 người mất tích, 74 người bị thương, 410 ngôi nhà bị nước cuốn, 425,573 ngôi nhà bị ngập. Chưa kể thiệt hại do ruộng vườn mất trắng vì lũ. Hậu quả thiên tai thêm trầm trọng.

Cũng năm ngoái, sau khi thẩm tra các dự án thủy điện, Ủy Ban Khoa Học-Công Nghệ-Môi Trường của Quốc Hội Việt Nam cho biết, việc quản lý chất lượng, an toàn tại các công trình thủy điện tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường. Khoảng 30% đập chắn nước của các công trình thủy điện chưa được kiểm định. Khoảng 66% đập chắn nước chưa được duyệt phương án bảo vệ. Khoảng 55% chủ đập chưa có phương án phòng chống lụt bão.

Sau khi Quốc Hội Việt Nam yêu cầu chính phủ Việt Nam báo cáo về “Quy hoạch tổng thể cho thủy điện,” đại diện chính phủ Việt Nam loan báo đã loại bỏ 424 dự án thủy điện. Trừ đi các dự án bị loại bỏ, tại Việt Nam vẫn còn 815 dự án, công trình thủy điện, trong đó có 205 dự án đang thi công hoặc dự kiến sẽ khai thác cho đến 2017.

Dù vậy những thảm họa đi kèm các dự án thủy điện vẫn lơ lửng trên đầu hàng chục triệu người cư trú ở Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam.

Các hồ chứa nước của một số công trình thủy điện như Sông Tranh 2, Ðăk Ðrinh, Ðakrong nay là gốc rễ của vài chục trận động đất xảy ra liên tục ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam; huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum; huyện Ðakrong, tỉnh Quảng Trị.

Các dự án thủy điện còn là nguyên nhân gây ra xung đột giữa chính quyền thành phố Ðà Nẵng, chính quyền tỉnh Quảng Nam, chính quyền tỉnh Phú Yên với Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, Bộ Công Thương do bất đồng về qui trình tích nước trong mùa khô và xả nước trong mùa lũ. Từ năm ngoái đến nay, những viên chức lãnh đạo ngành nông nghiệp-phát triển nông thôn của các tỉnh vừa kể, liên tục lên án hai Bộ Tài Nguyên-Môi Trường và Công Thương là vô trách nhiệm khi đặt lợi ích của thủy điện lên hàng đầu và bỏ qua lợi ích của hàng ngàn gia đình vùng hạ du. (G.Ð)

 

Nhân quyền tại Miến Điện được mổ xẻ trong hội nghị ASEAN

Nhân quyền tại Miến Điện được mổ xẻ trong hội nghị ASEAN

RFI

Miến Điện : số phận cộng đồng hồi giáo Rohingya vẫn làm quốc tế quan ngại.

Miến Điện : số phận cộng đồng hồi giáo Rohingya vẫn làm quốc tế quan ngại.

Reuters

Thụy My

Miến Điện, nước chủ nhà hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN diễn ra trong tuần này có nguy cơ bị lên án, khi bạo động tôn giáo và vi phạm tự do báo chí đã làm mờ nhạt đi các cải cách thực hiện từ ba năm qua.

Những cải cách chính trị và kinh tế do một chính phủ hầu như dân sự đưa ra từ khi tập đoàn quân sự cầm quyền tự giải tán năm 2011 đã được phương Tây rất hoan nghênh, do đó đã dỡ bỏ hầu hết các biện pháp cấm vận. Nhưng cộng đồng quốc tế gần đây lo ngại trước các vụ bắt bớ nhà báo, và xu hướng dân tộc chủ nghĩa Phật giáo đang lên kèm theo các vụ xung đột đẫm máu giữa người Phật giáo và Hồi giáo.

Các Ngoại trưởng 10 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ họp lại vào thứ Sáu 8/8 tới tại Naypyidaw, trước khi họp riêng vào thứ Bảy 9/8 với Trung Quốc, Hoa Kỳ và các đối tác quan trọng khác của khối ; rồi đến một hội nghị với toàn thể các quốc gia khách mời vào Chủ nhật 10/8. Các cuộc thảo luận chủ yếu tập trung vào vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển giữa Bắc Kinh và nhiều thành viên ASEAN tại Biển Đông.

Nhưng một số thành viên cũng sẽ nêu ra những câu hỏi về vấn đề nhân quyền đối với nước chủ nhà, nhất là Ngoại trưởng Mỹ John Kerry. Ông sẽ kêu gọi chính phủ Miến Điện bảo vệ tất cả mọi công dân và « thiết lập những bảo đảm tốt nhất về nhân quyền và các quyền tự do căn bản ». Danny Russel, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương cho biết như trên.

Sean Turnell, trường đại học Macquarie của Úc nhấn mạnh : « Nhiều cường quốc phương Tây đã nỗ lực rất nhiều cho một sự chuyển đổi thành công của Miến Điện. Các vấn đề như bạo động tôn giáo và vi phạm tự do báo chí đã gây khó khăn cho cố gắng này ».

Các chỉ trích đối với chính phủ Miến Điện có thể được đưa ra trong cuộc họp kín. Tuy nhiên Trung Quốc, vốn đã bị mất đi vị trí một đồng minh không thể thay thế trong thời kỳ tập đoàn quân sự cầm quyền, nhờ đó sẽ có được cơ hội lại đóng vai trò lá chắn cho nước láng giềng.

Từ khi chính quyền quân sự giải thể, hàng trăm tù chính trị đã được phóng thích, kiểm duyệt được bãi bỏ và nhà đối lập Aung San Suu Kyi từng bị quản thúc suốt 15 năm, đã trở thành dân biểu. Nhà nước bị cô lập trước đây nay thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư quốc tế, với nguồn lợi thiên nhiên dồi dào và dân số 60 triệu người.

Nhưng Miến Điện luôn bị ảnh hưởng bởi những trận đánh lẻ tẻ ở miền cực bắc giữa quân đội và phe nổi dậy người thiểu số Kachin, đã ngăn trở kế hoạch ngưng bắn trên toàn quốc với tất cả các phe sắc tộc. Bạo động giữa người Phật giáo và Hồi giáo đã làm trên 250 người chết tại nhiều vùng kể từ năm 2012 cũng gây quan ngại cho cộng đồng quốc tế.

Bên cạnh đó là bản án 10 năm tù khổ sai dành cho năm nhà báo hồi tháng Bảy vì một bài báo lên án một nhà máy quân sự sản xuất ra vũ khí hóa học. Và theo một nhà ngoại giao phương Tây, gần đến kỳ bầu cử quan trọng năm 2015 mà đảng của bà Aung San Suu Kyi chiếm ưu thế, truyền thông Miến Điện có nguy cơ phải chịu đựng áp lực ngày càng cao.

Ông David Mathieson của Human Rights Watch bình luận : « Tôi nghĩ rằng ông Kerry nhận ra ông đến không phải để ca ngợi vì sẽ khó nói ». Về phía Soe Thein, Bộ trưởng phụ trách Văn phòng Tổng thống mới đây đã yêu cầu « thông cảm » trước một số cải cách đã không tiến hành như dự kiến. Ông hứa hẹn : « Chúng tôi tiến bước trên con đường dân chủ, và sẽ không quay trở lại ».