Manila dự tính phản đối Bắc Kinh biến đổi nguyên trạng Biển Đông

Manila dự tính phản đối Bắc Kinh biến đổi nguyên trạng Biển Đông (RFI)

Ngoại trưởng Albert del Rosario họp báo về tình hình biển đảo Philippines - Reuters

Ngoại trưởng Albert del Rosario họp báo về tình hình biển đảo Philippines – Reuters

Đức Tâm

Chính quyền Manila đang xem xét khả năng chính thức phản đối Bắc Kinh làm thay đổi nguyên trạng các vùng biển đang có tranh chấp, sau khi Tổng thống Benigno Aquino, ngày hôm nay, 05/06/2014, nói rằng dường như Trung Quốc đang gia tăng sự hiện diện tại những nơi này.

Website thông tin Rappler của Philippines đưa tin, Ngoại trưởng Albert del Rosario nói với các nhà báo rằng nếu khẳng định được là Trung Quốc tăng cường hiện diện trong vùng biển đang có tranh chấp với Philippines và có những hành động giống như Bắc Kinh đã làm trên đảo Mabini, xây dựng các cơ sở hạ tầng, thì điều này gây lo ngại.

Đảo Mabini – tên quốc tế là Johnson South Reef, Trung Quốc gọi là Xích quan tiều và Việt Nam gọi là đảo Gạc Ma – thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.

Theo lãnh đạo ngoại giao Philippines, việc Trung Quốc tăng cường hiện diện ở những vùng biển đang có tranh chấp là vi phạm Tuyên bố chung về ứng xử của các bên tại Biển Đông – DOC mà Trung Quốc và các nước ASEAN đã ký kết năm 2002.

Bên lề Hội nghị Á-Âu (ASEM), được tổ chức tại Manila, Tổng thống Benigno Aquino cho biết là ông đã nhận được các báo cáo về việc Trung Quốc gia tăng hiện diện trong vùng biển của Philippines và ông đã xem các bức ảnh chụp các tàu Trung Quốc trong khu vực bãi đá Gavin và Cuarteron thuộc quần đảo Trường Sa.

Theo nguyên thủ Philippines, có thể đó là những con tàu mà Trung Quốc đã từng điều động tới đảo Mabini – Gạc Ma trong thời gian qua.

Về phần mình, Ngoại trưởng del Rosario giải thích rõ hơn : « Thực ra, nếu chúng tôi biết rõ là tình hình nguyên trạng trong khu vực này đang bị thay đổi, thì chúng tôi sẽ tính đến việc đưa ra phản đối chính thức. Nhưng cho đến nay, chúng tôi không chắc chắn và chúng tôi đang theo dõi sát việc này ».

 

ĐÔI VỢ CHỒNG NÀY ĐÃ THƯA VÂNG VỚI CÂU HỎI CỦA ĐỨC KITÔ

ĐÔI VỢ CHỒNG NÀY ĐÃ THƯA VÂNG VỚI CÂU HỎI CỦA ĐỨC KITÔ

Đan Quang Tâm dịch từ bản tiếng Anh

Báo L’Osservatore Romano ngày 24 tháng 10 năm 2001

Khi Con Người trở lại, liệu Ngài có còn tìm thấy lòng tin trên mặt đất không? Với tư cách một đôi vợ chồng, họ đã giữ ánh sáng đức tin rực sáng.

Đức Gioan Phaolô II đã hoàn thành một tâm nguyện ấp ủ đã lâu vào ngày Chủ nhật 21 tháng mười 2001 khi ngài tuyên chân phúc cho một đôi vợ chồng, để nhấn mạnh rằng sự thánh thiện là một phần của đời sống người giáo dân cũng như của cuộc sống tu trì và đời giáo sĩ.

Chân Phúc Luigi (1880-1951) và Maria (1884-1965) Beltrame Quattrocchi thành Rôma kết hôn được 50 năm và có 4 người con, ba người hiện còn sống và tham dự lễ tuyên chân phúc. Hai người con trai, các Linh Mục Pilippo và Cesare, đồng tế với Đức Thánh Cha. Người con gái Enrichetta của ông bà cùng tham dự thánh lễ với các tín hữu. Đức Thánh Cha diễn giải trong bài giảng rằng đôi vợ chồng đó “sống cuộc sống đời thường một cách phi thường”. Hội Thánh đã nhìn nhận sự thánh thiện của những đôi vợ chồng khác nhưng đây là lần đầu tiên một đôi vợ chồng được tuyên chân phúc cùng nhau. Việc tuyên chân phúc là cao điểm của ngày cuối tuần với những nghi lễ do Hội Thánh tại Ý tổ chức nhằm đánh dấu kỷ niệm lần thứ 20 dịp công bố Tông Huấn Familiaris Consortio (Gia đình Kitô giáo trong thế giới ngày nay). Đó là tài liệu quan trọng nhất của Đức Gioan Phaolô II về cuộc sống hôn nhân và gia đình.

1. “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8).

Câu hỏi mà Đức Giêsu dùng để kết thúc dụ ngôn về nhu cầu “phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng” khiến tâm hồn của chúng ta rúng động. Đó là câu hỏi chưa có câu trả lời tức thời: thực vậy, câu hỏi dù được nêu ra như một thách đố chất vấn mỗi người, mỗi cộng đồng hội thánh, mỗi thế hệ loài người. Mỗi người trong chúng ta phải đưa ra câu trả lời. Đức Kitô muốn nhắn nhủ chúng ta rằng cuộc sống con người có định hướng là chung cuộc sẽ gặp gỡ Thiên Chúa; thế nhưng trước viễn cảnh ấy Ngài băn khoăn tự hỏi khi quay trở lại, liệu Ngài có tìm thấy các linh hồn đang sẵn sàng đợi chờ Ngài đến để cùng với Ngài đi vào nhà Cha. Bởi lí do đó Ngài nói với mọi người: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13).

Đôi vợ chồng này đã tích cực trả lời câu hỏi của Đức Kitô.

Anh chị em thân mến! Các gia đình thân mến! Hôm nay chúng ta tập họp quây quần nơi đây để tiến hành lễ tuyên chân phúc cho một đôi vợ chồng: Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi. Bằng hành vi long trọng này của Hội Thánh, chúng ta nhắm đề cao một gương mẫu đã trả lời tích cực câu hỏi của Đức Kitô. Đôi vợ chồng này đã sống tại Roma vào nửa đầu thế kỷ 20, một thế kỷ trong đó niềm tin vào Đức Kitô bị thử thách mãnh liệt, và họ đã đưa ra câu trả lời tích cực. Thậm chí trong những năm tháng gian khó đó, hai vợ chồng, Luigi và Maria, đã giữ vững ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng — ánh sáng Đức Kitô — và đã trao lại cho bốn người con của ông bà, ba người có mặt hôm nay trong đại giáo đường này. Các bạn thân mến, đây là điều bà cụ thân sinh đã viết về các bạn: “Chúng tôi dạy bảo chúng trong đức tin, để chúng có thể hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa” (L’Ordito e la trama, tr. 9). Cũng chính cha mẹ các bạn đã trao ngọn đèn đang cháy cho bạn bè, thân bằng quyến thuộc, các bạn đồng nghiệp của mình…. Và bây giờ, từ trên thiên quốc, các ngài đang trao lại cho toàn thể Hội Thánh.

Cùng với thân quyến và bạn hữu của hai tân Chân Phúc, tôi xin chào mừng hàng giáo phẩm tham gia nghi lễ này, bắt đầu với Hồng Y Camillo Ruini và các vị Hồng Y khác, các Tổng Giám Mục và Giám Mục có mặt hôm nay. Tôi cũng chào mừng các vị trong chính quyền dân sự và, đặc biệt, xin đón chào Ngài Tổng Thống Cộng Hoà Ý và Hoàng Hậu Vương Quốc Bỉ.

Các đôi vợ chồng lĩnh nhận ân sủng bí tích để sống lời mời gọi nên thánh.

2. Có lẽ không có hạnh phúc nào lớn hơn cũng như không có dịp nào long trọng hơn hôm nay để kỷ niệm năm thứ 20 ngày ban hành Tông Huấn “Pamiliaris Consortio”. Văn kiện này, ngày hôm nay vẫn còn là ánh sáng hướng dẫn các gia đình Kitô giáo, trong khi đề cao giá trị của hôn nhân và sứ mạng của gia đình, đặc biệt mời gọi các đôi vợ chồng hãy đi theo con đường nên thánh bằng ân sủng bí tích, “không phải chỉ trút ban hết trong ngày cử hành bí tích hôn phối, nhưng vẫn còn tiếp tục đi theo nâng đỡ đôi vợ chồng trong suốt cuộc sống của họ” (Familiaris Consortio, số 56). Vẻ đẹp của con đường này tỏa sáng trong cuộc sống chứng tá của đôi Chân Phúc Luigi và Maria, một biểu hiện sáng ngời về dân tộc Ý, là những người đã chứng tỏ tầm quan trọng biết bao của đời hôn nhân và cuộc sống gia đình xây nền tảng trên hôn nhân.

Đôi vợ chồng này sống tình yêu hôn nhân và phục vụ cho đời trong ánh sáng Phúc Âm và đã cống hiến với cường độ lớn lao. Với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, ông bà đảm nhận nhiệm vụ cộng tác với Thiên Chúa trong sự truyền sinh, quảng đại hiến thân cho con cái, dạy bảo, hướng dẫn và định hướng để con cái mình có thể khám phá ra kế hoạch tình yêu của Ngài. Từ mảnh đất tâm linh mầu mỡ này đã nảy sinh ơn gọi linh mục và ơn sống đời thánh hiến, điều này cho thấy đời hôn nhân và đức khiết tịnh, đều có chung cội rễ là tình yêu phu phụ của Chúa Kitô, được gắn kết với nhau mật thiết và soi chiếu cho nhau ra sao.

Kín múc sức mạnh từ Lời Chúa và chứng tá của các thánh, đôi vợ chồng chân phúc sống một cuộc sống đời thường một cách phi thường. Giữa những vui mừng và âu lo của một gia đình bình thường, họ biết cách sống một cuộc sống tâm linh đặc biệt phong phú. Trung tâm cuộc sống của họ là đón nhận Thánh Thể hàng ngày và tận hiến cho Đức Trinh Nữ Maria, mà họ khẩn cầu mỗi tối bằng lời kinh Mai Khôi, và biết tham khảo, lắng nghe các vị linh hướng khôn ngoan. Bằng cách này họ có thể kèm cặp con cái của mình nhận thức rõ về ơn gọi, huấn luyện chúng biết đánh giá mọi thứ “từ mái nhà lên trên”, như họ thường hay nói một cách dí dỏm.

Luigi và Maria Quattrocchi minh chứng rằng có thể thực hiện nhân đức anh hùng trong cuộc sống hôn nhân và trong việc phục vụ đời sống.

3. Sự phong phú trong đức tin và tình yêu của vợ chồng Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi là một bằng chứng sống động về lời mời gọi của Công Đồng Vatican II rằng mọi tín hữu hãy nên thánh, nêu rõ người chồng người vợ cần phải vươn đến mục đích này, “propriam vi am sequentes”, “theo đuổi lối sống riêng của mình” (Lumen gentiưm, số 41). Hôm nay ước nguyện của Công Đồng đã thành toàn với biến cố lần đầu tiên một cặp vợ chồng được phong chân phúc: lòng trung thành với Phúc Âm và các nhân đức anh hùng của hai ông bà đã được chứng thực, tỏ bày ra trong cuộc sống của họ với tư cách là vợ chồng và cha mẹ.

Trong cuộc sống của họ, cũng như trong cuộc sống của biết bao cặp vợ chồng khác đang ngày này qua ngày khác tận tụy chu toàn sứ mạng của mình với tư cách là cha mẹ, ta có thể chiêm ngắm sự mạc khải bí tích của tình yêu Đức Kitô đối với Hội Thánh. Thực vậy, “nhờ sức mạnh của bí tích này, tất cả đời sống của họ được thấm nhuần tinh thần Đức Ki tô mà chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ, nhờ đó tất cả cuộc sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy, mến, và càng ngày càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh hoá lẫn nhau của họ, và bởi đẩy, cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa” (Gaudium et Spes, số 48).

Các gia đình thân mến, hôm nay chúng ta khẳng định rõ rằng con đường nên thánh trong đời vợ chồng là có thể thực hiện được, đẹp biết bao, hiệu quả biết bao, và là nền tảng xây dựng gia đình, Hội Thánh và xã hội.

Điều ấy nhắc nhớ chúng ta hãy cầu khẩn cùng Chúa sao cho ngày càng có nhiều đôi vợ chồng nữa có thể làm hiển lộ ra qua đời sống thánh thiện của họ, “mầu nhiệm vĩ đại” của tình yêu vợ chồng, bắt nguồn từ thuở tạo thành và được thành toàn trong sự kết hiệp của Đức Kitô với Hội Thánh của Ngài (x. Ep 5,22-33).

Hãy tìm kiếm trong Lời Chúa giải pháp cho những vấn đề của cuộc sống hàng ngày.

4. Các đôi vợ chồng thân mến, như mọi con đường nên thánh khác, con đường của các bạn không phải êm xuôi, dễ dàng. Mỗi ngày các bạn phải đối mặt với các thử thách, khó khăn, để trung thành với ơn gọi của mình, để nuôi dưỡng hòa khí giữa các bạn và giữa con cái của mình, để thực hiện sứ mạng làm cha làm mẹ của các bạn và tham gia vào cuộc sống xã hội.

Các bạn có thể tìm thấy trong Lời Chúa câu trả lời cho những vấn đề phát sinh trong cuộc sống hàng ngày. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng “Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tm 3,16). Được bồi dưỡng, đỡ nâng bằng sức mạnh của các lời này và cùng nhau hành động, các bạn sẽ có thể kiên trì dạy bảo con cái của mình “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện”, thuyết phục, khiển trách, và khích lệ chúng “với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2).

Cuộc sống hôn nhân và gia đình có thể cũng phải trải qua các giây phút rối bời. Chúng ta biết có biết bao gia đình trong các trường hợp như thế này dễ bị thối chí nản lòng. Tôi đặc biệt muốn nói đến những ai đang phải trải qua bi kịch chia li; tôi đang nghĩ đến những ai phải đối mặt với bệnh tật và những ai đang chịu đựng cảnh tử biệt khi mà người chồng, người vợ hoặc một đứa con đã sớm ra đi. Trong các tình cảnh ấy, ta vẫn có thế làm chứng cho sự chung thuỷ trong tình yêu, điều này có ý nghĩa đặc biệt khi ta phải chịu tôi luyện trong khổ đau.

Với ân sủng bí tích, đừng bao giờ để gian khổ khuất phục; hãy giơ đôi tay lên trời.

5. Tôi phó thác mọi gia đình đang chiến đấu và lâm cơn thử thách cho Thiên Chúa quan phòng và cho tình thương từ ái của Đức Maria, gương mẫu nổi bật của người vợ và người mẹ đã biết thế nào là khổ đau và tình trạng cùng kiệt của sự dấn bước đi theo Đức Kitô đến dưới chân thập giá.

Các đôi vợ chồng thân mến, đừng chịu khuất phục bởi gian khổ: ân sủng của bí tích sẽ nâng đỡ các bạn và giúp các bạn không ngừng giơ tay lên trời, giống như Môsê, mà bài đọc thứ nhất đề cập đến (x. Xh 17,11-12).

Hội Thánh ở kề bên các bạn và giúp đỡ các bạn bằng lời cầu nguyện của mình, đặc biệt là vào những giờ phút khó khăn.

Đồng thời, tôi cầu xin mọi gia đình về phần mình hãy hỗ trợ Hội Thánh, để Hội Thánh không bao giờ ngưng thực hiện sứ mạng chuyển cầu, an ủi, hướng dẫn và khích lệ của mình. Các gia đình thân mến, tôi cám ơn các bạn về sự nâng đỡ mà các bạn đã dành cho tôi trong việc phục vụ Hội Thánh và phục vụ nhân loại của tôi. Hàng ngày tôi đều nguyện xin Chúa phù hộ mọi gia đình đang chịu cảnh nghèo khó, bất công và khẩn xin Ngài hãy làm tăng trưởng nền văn minh tình thương.

Hãy đón nhận và loan báo Tin Mừng ngay trong gia đình của mình.

6. Các bạn thân mến, để đương đầu với những thách thức đang chờ đợi Hội Thánh trong thiên niên kỷ mới, Hội Thánh tín nhiệm, tin tưởng các bạn. Giữa những nẻo đường sứ mạng của Hội Thánh, “gia đình chiếm vị trí hàng đầu và quan trọng nhất” (Thư gửi các gia đình, số 2); Hội Thánh đang đặt lòng trông cậy vào gia đình và kêu mời mọi gia đình hãy trở nên “một chủ thể đích thực của công cuộc Phúc Âm hoá và làm tông đồ” (sđd, số 16).

Tôi tin chắc các bạn sẽ trở nên ngang tầm với nhiệm vụ đang đợi chờ các bạn ở mọi lúc mọi nơi. Các người làm vợ làm chồng thân mến, tôi khuyến khích các bạn hãy đảm nhận vai trò và gánh vác các trách nhiệm của mình. Hãy làm mới lại lòng nhiệt thành truyền giáo của mình, hãy làm cho gia đình của mình trở thành nơi chốn cần ưu tiên loan báo và tiếp nhận Tin Mừng trong bầu khí cầu nguyện và trong việc thực thi tình liên đới Kitô giáo.

Nguyện xin Đức Chúa Thánh Thần, Đấng ngự đầy tràn tâm hồn Đức Maria để đến thời gian viên mãn, Mẹ đã có thể cưu mang Ngôi Lời sự sống và cùng với Giuse phu quân của mình, Mẹ đã đón tiếp Ngài ân cần, sẽ nâng đỡ các bạn và củng cố các bạn. Nguyện xin Chúa Thánh Thần đổ tràn đầy tâm hồn của các bạn niềm vui và ơn bình an để hàng ngày các bạn biết ngợi khen Cha trên trời, nơi Người tuôn tràn chan chứa mọi ân sủng và phúc lộc.

Amen!

Tác giả: Augustinô Đan Quang Tâm (dịch)

Những người xứ miệt vườn đi bán thận

Những người xứ miệt vườn đi bán thận

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-06-03

RFA

mien-tay-305.jpg

Một người lao động thu nhập thấp ở miền Tây.

RFA

Chuyện bán thận của những người nghèo ở miệt vườn Tây Nam Bộ không phải là chuyện mới mẽ gì, nó đã diễn ra gần mười năm nay nhưng mới được phát hiện và báo chí vào cuộc trong vài tháng trở lại đây. Khi báo chí đánh động cũng là lúc mà hậu quả kinh hoàng của nó đã ập lên nhiều số phận, nhiều gia đình ở đây. Hầu như những ai từng bán thận đều có cuộc đời nghèo khổ, trái ngang, mong cứu được sự xuống dốc của gia đình bằng một phần thân thể quan trọng của mình nhưng rồi sau khi bán thận, mọi bi kịch lại ập xuống theo một lối khác.

Bán thân và bán thận

Một người tên Mỹ, ở thành phố Cần Thơ, chia sẻ: “Giống như người ta thiếu nợ, họ bán một của thận khoảng một trăm, nó mua vô một trăm, một trăm mấy nhưng nó mua của người ta năm, bảy chục triệu gì đó! Nhưng bán quả thận rồi thì đâu có còn sức lao động đâu. Như có một ông, ổng nghĩ ổng có sức khỏe đầy đủ, thấy vợ con, gia đình khổ quá, nợ nần nên bán bớt một trái, cuối cùng về mất sức lao động luôn, đâu có làm nổi. Có một số thì chồng đi làm, vợ ở nhà, ở không nên sinh ra cờ bạc, nợ nần, một phần con cái bệnh, nhưng con cái bệnh thì ít, nặng vì vợ thì nhiều, ở không không biết làm gì nên gây ra nợ nần.”

Như có một ông, ổng nghĩ ổng có sức khỏe đầy đủ, thấy vợ con, gia đình khổ quá, nợ nần nên bán bớt một trái, cuối cùng về mất sức lao động luôn, đâu có làm nổi.
-Ông Mỹ

Theo ông Mỹ, cho đến thời điểm hiện tại, vấn đề người nghèo đi bán thận để cứu gia đình đã trở thành một đại nạn của người dân nơi đây. Và đối tượng đi bán thận thường là người lâm vào tình trạng khốn cùng, có nghĩa là nông dân quá nghèo hoặc những người từng giàu có nhưng vì một nguyên nhân nào đó dẫn đến trắng tay, cuối cùng, để cứu gia đình họ thoát khỏi cái nghèo, họ quyết định đi bán thận, họ cứ nghĩ chuyện đi bán thận cũng giống như đi bán máu ở các bệnh viện nhưng lại có mức thu nhập cao hơn chứ chưa hình dung được mức độ nguy hiểm và rủi ro của nó.

Có một đặc điểm là đa phần những người đi bán thận đều có tiền sử đi bán máu ở các bệnh viện thành phố. Nhiều gia đình có hai, ba người lên các bệnh viện bán máu theo định kì. Tuy phải cật lực làm việc, phải bán máu định kì nhưng cái nghèo vẫn cứ ám lấy họ, làm thuê cuốc mướn, gặt lúa thuê, làm đủ các nghề mà nghèo vẫn cứ nghèo.

mien-tay-2-250.jpg

Một xóm có nhiều người bán thận ở Cần Thơ. RFA PHOTO.

Thời gian mười năm trở lại đây, khi người Trung Quốc sang miền Tây ngày càng nhiều thì cũng là lúc mà người dân nghe được một món hàng mới có thể bán kiếm được nhiều tiền. Cô Út Thủy, một người từng bán thận, buồn bã nói với chúng tôi rằng ở xứ của cô, nếu không may rơi phải cảnh nghèo khổ thì chỉ có con đường duy nhất là bán thân, nếu không bán thân thì khổ tới khi xuống mồ. Bây giờ, nghe tin bán thận, cô thấy dù sao bán thận cũng hay hơn bán thân vì bán thận chỉ đau một lần, nó khác xa với việc bán thân phải chịu đau khổ dai dẵng suốt cuộc đời.

Có lẽ chính vì thế mà không ít phụ nữ Tây Nam Bộ ở lứa tuổi còn rất trẻ đã chấp nhận đi bán thận để cứu gia đình. Nhưng rất tiếc là họ đã gặp những tay cò để bán với giá rẻ bèo, số tiền từ sáu chục đến bảy chục triệu đồng, trên thực tế, giá của nó cao gấp nhiều lần so với giá họ bán. Và thường thì họ gặp những tay cò người Trung Quốc biết nói tiếng Việt hoặc thông qua những phiên dịch người Việt, và gặp cả hai loại người này, đều phải bán với giá rẻ bèo vì đây là những tay cò cấp hai, cấp ba và giữa họ có sự thống nhất với nhau về chia chác, giá cả thị trường, nên người chịu thiệt bao giờ cũng là dân nghèo, vừa bị ăn chặn nhiều hướng lại phải lãnh hậu quả lâu dài.

Bị người Trung Quốc lừa đảo?

Một người tên Khải, ở Long Xuyên, An Giang, chia sẻ thêm:“Có một số thì họ bán thận, nghe Trung Quốc hô giá cao quá đó… Có người thì kinh tế khó khăn, nợ nần, đủ thứ việc hết, cho nên sao? Người ta phải bán thận, có người bán một trái, có người bán hai trái, vẫn sống nhưng không lao động được. Gia đình giàu có mà lâm vào cảnh nợ nần mới bán, còn gia đình nghèo thì họ sống rất hạnh phúc, khổ tâm thế! Còn gia đình hồi trước rất giàu nhưng giờ đi bán thận, một là cờ bạc, bài số lâm vào cảnh vợ con, tan nhà nát cửa, buộc phải bán cái quả thận để giải quyết một số nợ, bế tắc.”

Theo anh Khải, những trường hợp bán thận trong hai năm trở lại đây có thân thế khá phức tạp. Nghĩa là không giống như nhiều người bán thận ở Tây Nam Bộ trước đây, đa phần họ là những người từng giàu có, khá giả, nhưng do chơi thân với người Trung Quốc, thậm chí có mối quan hệ làm ăn, dây mơ rễ má với những nhà buôn Trung Quốc, về lâu về dài, làm ăn cẩu thả, đề đóm liên miên đâm ra sự nghiệp tan nát, nợ nần chồng chất, đến đường cùng, chọn giải pháp bán thận để thoát nợ nhưng lại rơi vào bi kịch khác.

mien-tay-3-250.jpg

Nhà sàn ở ngoại ô Cần Thơ. RFA PHOTO.

Vì đa phần những người bán thận xong, khi về nhà thì sức khỏe bị tuột dốc hẳn, không thể làm những công việc trước đây, thậm chí có người đi đứng còn không được bình thường nữa chứ đừng nói gì đến chuyện lao động, làm ăn. Và từ chỗ một người khỏe mạnh, họ trở thành bệnh nhân, thành gánh nặng của gia đình. Số tiền sáu, bảy chục triệu có được nhờ bán thận không những không giúp gia đình trả được nợ mà còn không đủ để chạy chữa bệnh tật sau khi mất đi một phần quan trọng trong cơ thể.

Anh Khải cho biết thêm, sở dĩ đa phần người bán thận phải ra nông nổi như thế là do họ bị mắc vào cái bẫy tiền tài do người Trung Quốc sắp đặt trước đó. Anh cũng thừa nhận là người Trung Quốc quá thâm hiểm và tính toán rất kĩ lưỡng, trong khi đó người Tây Nam Bộ thì tính tình hồn nhiên, thẳng ruột ngựa và sẵn sàng chơi hết mình một khi đã thân thiết, tin tưởng. Lợi dụng sự tin cẩn của bà con, các tay cò người Trung Quốc đã sắp đặt một kịch bản, đầu tiên là sang làm ăn, buôn bán các loại nông sản, hải sản, sau đó rủ rê một số người nhẹ dạ đưa con gái sang Trung Quốc lấy chồng, nếu không có con gái thì rủ con cháu bà con, hàng xóm láng giềng cũng được.

Chính vì khoản tiền kiếm được rất dễ dãi từ chỗ cò người nhà, họ hàng lấy chồng Trung Quốc, dần dà, người Tây Nam Bộ hiền lành lún sâu vào tham vọng kiếm tiền bằng nhiều cách, trong đó có đầu tư lâu dài vào dịch vụ mai mối chồng nước ngoài. Và đây là giai đoạn bao nhiêu tiền kiếm được của họ mang đổ sông đổ bể. Chỉ cần hai lần làm ăn thất bại vì lý do này, lý do nọ, coi như sạch vốn, phải thế chấp nhà cửa để lao theo sự nghiệp cò hôn nhân này. Khi mọi sự đã đến đường cùng, phá sản và nợ nần chồng chất, hết đường, người bạn Trung Quốc kia sẽ khuyên người bạn Việt Nam đi bán thận để trừ nợ.

Lần bán thận cũng là lần cuối người Trung Quốc chơi với người Việt ở đây và là cú hốt hụi chót của họ. Một khi gom được mối từ ba người trở lên chấp nhận bán thận, họ kiếm lãi ít nhất cũng được sáu chục ngàn đô la tiền lãi. Như vậy, coi như khoản lãi ròng đã nhận được, họ quất ngựa truy phong.

Với những người nghèo miệt Tây Nam Bộ, việc bán thận cứ ngỡ là cứu rỗi, là sự vớt vát họ thoát khỏi dòng xoáy của nghèo đói. Thế nhưng họ không hề hay biết là lựa chọn này đã dắt gia đình họ đến chỗ bi kịch không lối thoát và biến họ thành những bệnh nhân, người tàn tật!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

httpv://www.youtube.com/watch?v=PYYGvYaBsbM

Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng

Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-04

namnguyen06042014.mp3

Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc

Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc

RFA file

Trước khả năng chính quyền Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế về vụ giàn khoan HD 981 xâm phạm vùng biển Việt Nam, nhiều ý kiến từ giới học giả trí thức cho rằng nhà nước phải nhanh chóng  hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958 về việc công nhận lãnh hải Trung Quốc.

Khúc xương mắc nghẹn

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 từng được coi là một khúc xương mắc nghẹn của Việt Nam. Lúc đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý tính từ đất liền, kể cả các hải đảo như Tây Sa và Nam Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Ngày 14/9/1958, ông Phạm Văn Đồng Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã gởi công hàm ngoại giao tán thành tuyên bố đó của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Sau này Phía Trung Quốc đã sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng như một lợi thế trong mọi tranh chấp chủ quyền biển đảo với Việt Nam.

Qua vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 bất hợp pháp xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi, hôm 23/5/2014 lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo chính thức ở Hà Nội để biện giải công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị. Công luận Việt Nam đưa ra rất nhiều ý kiến tranh cãi phản biện về nội dung công hàm Phạm Văn Đồng và về cách thức làm thế nào để vô hiệu hóa giá trị của nó.

Chúng tôi ghi nhận ý kiến mới nhất của học giả Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu biển Đông hiện sống và làm việc ở Sài Gòn. Ông nói:

Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.
-Thạc sĩ Hoàng Việt

“Dù là người phát ngôn Bộ Ngoại giao hay là Thứ trưởng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì đều không có giá trị, phải có một Nghị quyết của Quốc hội phủ nhận hoàn toàn công hàm Phạm Văn Đồng thì mới có thể đấu lại Trung Quốc. Còn công hàm Phạm Văn Đồng đúng hay sai thì kiện ra tòa các nhà luật học sẽ chứng minh công hàm đó đúng hay sai ở mức độ nào trong từng thời điểm của lịch sử. Tôi nghĩ rằng tôi không bênh Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhưng như tôi đã thường nói cái ý thức hệ đồng chí anh em nó đã khiến cho những người lãnh đạo Việt Nam đã phải ký cái công hàm này thì đó là cái giá phải trả rất lớn mà đến ngày hôm nay không rút được kinh nghiệm thì Việt Nam sẽ còn trả những cái giá lớn hơn mất trọn biển Đông.”

Một trong các luận điểm được nhiều học giả Việt Nam và nay cũng là luận điểm của giới chức chính phủ Việt Nam để hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958.  Đó là miền Bắc vào thời điểm 1954-1975 không có thẩm quyền gì đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do miền Nam tức quốc gia Việt Nam Cộng Hòa quản lý và không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được. Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên luật quốc tế Đại học Luật TP.HCM, thành viên Quỹ nghiên cứu biển Đông đã kiên trì với lập luận của mình:

“Không có ông nào ở miền Bắc lúc đó có quyền nói về công nhận Hoàng Sa Trường Sa được cả. Bởi vì lúc đó theo Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.”

Đề nghị vô hiệu hóa công hàm PVĐ

Untitled-2.jpg

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958

Ngày 26/5/2014 ông Trương Nhân Tuấn, một người Việt Nam cư trú ở Pháp đã gởi thư không niêm cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh để góp ý là, các luận cứ của giới chức chính phủ và nhiều học giả khác có thể bất lợi và khó thuyết phục về việc công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị. Ông Tuấn viện dẫn Hiệp định Geneve 1954 xác nhận Việt Nam là nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất và được tái xác nhận theo Hiệp định Paris 1973. Theo Hiệp định Geneve 1954, Việt Nam là một quốc gia nhưng tạm thời bị phân chia, trong khi chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Từ quan điểm này, ông Trương Nhân Tuấn đề nghị vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.

Trong dịp trả lời Gia Minh đài ACTD, ông Trương Nhân Tuấn phát biểu:

“Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoảng thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.”

Rất khác biệt với ý kiến của ông Trương Nhân Tuấn, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một nhà hoạt động xã hội dân sự từ Đà Nẵng nhận định:

“Lẽ ra mình phải làm ngay chuyện này trước, tức là hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng. Thứ hai là phải thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa để chúng ta có tuyên bố chủ quyền liên tục từ 1954 tới 1975 vì chủ quyền Hoàng Sa từ 1954 tới 1975 Việt Nam Dân Chủ Công Hòa ở phía Bắc không có tuyên bố chủ quyền. Cho nên hai điều quan trọng nhất là phải hóa giải cho được công hàm Phạm Văn Đồng, tức là phải tuyên bố rõ với thế giới là công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị, thứ nhất là không được Quốc hội thông qua. Thứ hai là trong hoàn cảnh VNDCCH phía Bắc đã không sở hữu quần đảo Hoàng Sa này. Và thứ ba để có một tuyên bố chủ quyền liên tục, để tiến tới kiện thì phải có tuyên bố với thế giới, có văn bản thừa nhận chính quyền VNCH. Phải có những tiền đề rồi sau đó cùng với các nước ASEAN, cụ thể là những nước có tranh chấp như Philippines, Malaysia, Indonesia. Những chuyện về các hòn đảo thì mình bàn trước đi để thống nhất tạo một cái luật chơi.”

Công luận Việt Nam, từ báo chí chính thức đến các diễn đàn xã hội đều cho thấy nhà nước Việt Nam phải đặt ưu tiên số một về việc hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng, còn làm thế nào để vô hiệu hóa nó thì sự tranh cãi vẫn đang tiếp tục. Liệu Việt Nam có thể khởi kiện Trung Quốc hay không trước khi thực sự hóa giải được công hàm Phạm Văn Đồng 1958.

Các bà mẹ Thiên An Môn: Không muốn trả thù, nhưng từ chối sự lãng quên (*)

Các bà mẹ Thiên An Môn: Không muốn trả thù, nhưng từ chối sự lãng quên (*)

Patrick Saint-Paul, Le Figaro 30/05/2014

Thụy My dịch

clip_image002

Quảng trường Thiên An Môn, 1989.

Những bà mẹ của các thanh niên đã bị sát hại trong sự kiện ngày 4 tháng Sáu năm 1989 tiếp tục đấu tranh để được tưởng niệm họ và cho công lý. Nhưng gần đến ngày kỷ niệm 25 năm Mùa xuân Bắc Kinh, Tập Cận Bình lại siết chặt thêm gọng kìm, do sợ hãi một sự thật có thể làm chao đảo chế độ.

Mỗi năm, Bắc Kinh lại sống với nhịp điệu “những vụ mất tích mùa hè”. Gần đến ngày 4 tháng Sáu, thời điểm “nhạy cảm” nhất trong năm của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chính quyền Trung Quốc lại buộc nhiều “nhà ly khai” hoặc chỉ đơn giản là các thân nhân những người mất tích phải “đi nghỉ mát”.

Nhân kỷ niệm 25 năm vụ đàn áp đẫm máu phong trào biểu tình sinh viên  năm 1989, các nhà quan sát và những người chủ trương tự do Trung Quốc chờ đợi xem thái độ của nhà cầm quyền có thay đổi hay không dưới sự cai trị của tân lãnh đạo Tập Cận Bình, mà một số người hy vọng ông ta là một nhà cải cách… Trên thực tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) năm nay lại siết chặt thêm chủ trương cấm nêu lên “các sự kiện” ở quảng trường Thiên An Môn, khiến khó thể hy vọng đến cải cách chính trị.

“Các vị đã làm đúng khi đến đây trước khi người ta bắt tôi đi ‘nghỉ mát’. Cần phải tiếp tục kể lại câu chuyện của chúng tôi”. Bà Đinh Tử Lâm (Ding Zilin) thổ lộ với Le Figaro như vậy vào đầu tháng Hai. Con trai của bà là Tưởng Tiệp Liên (Jiang Jielian) là một trong những sinh viên đầu tiên đã ngã xuống dưới những lằn đạn, hôm 03/06/1989.

clip_image004

Bà Đinh Tử Lâm bên cạnh ảnh con trai, bị sát hại tại Thiên An Môn ngày 03/06/1989.

Là người sáng lập phong trào Các bà mẹ Thiên An Môn, một hiệp hội tập hợp những người mẹ của các sinh viên bị giết chết trong vụ thảm sát 1989, Đinh Tử Lâm bị giám sát cao độ từ đầu tháng Ba. Công an cấm vào căn hộ của bà ở Bắc Kinh cũng như mọi tiếp xúc với người ngoại quốc. Và vài tuần trước ngày kỷ niệm 25 năm Thiên An Môn, bà cùng với chồng đã biến mất, bị đưa đi quản chế ở một nơi nào đó không ai biết ở xa thủ đô Trung Quốc, cũng giống như hàng mấy chục nhà đấu tranh nhân quyền khác.

Năm nay, bà Đinh Tử Lâm sẽ không được đến mặc niệm tại địa điểm mà con trai bà đã bị một viên đạn cướp đi mạng sống hôm 3 tháng Sáu năm 1989, bị chính quyền ngăn trở như mọi năm. Bà kể lại: “Con trai tôi sinh ngày 2 tháng Sáu năm 1972. Mỗi năm, tôi đều mừng sinh nhật cháu vào ngày 2/6 trước khi cúng giỗ cháu vào ngày hôm sau. Ngay cả an ninh cũng biết chuyện này. Mỗi năm, các nhân viên công an đều nói với tôi là họ hiểu nỗi đau của tôi to lớn như thế nào. Nhưng họ lại không thương hại bà cụ bị bệnh tim sinh năm 1932, đã từng bị lên cơn đau tim vào cuối năm 2013. Bà nói: “Tôi không còn kể câu chuyện về con trai tôi từ nhiều năm qua. Nhưng sắp đến ngày kỷ niệm, tôi đã viết ra một cuốn sách, khiến tôi nhớ lại tất cả những chuyện cũ. Trái tim tôi đã không chống chọi được với nỗi đau.

Tôi đã cấm con tôi ra đi

clip_image006

Sinh viên đang dựng tượng Nữ thần Dân Chủ

Vào mùa xuân 1989, trên quảng trường rộng mênh mông ở trung tâm Bắc Kinh, địa điểm mang tính biểu tượng nhất của quyền lực Trung Quốc, các sinh viên đòi hỏi dân chủ và tự do đã được dân chúng tham gia ủng hộ, trong một không khí hồ hởi lan truyền khắp đất nước. Trước bức chân dung của Mao, họ dựng lên bức tượng “Nữ thần Dân Chủ” theo mô hình tượng “Nữ thần Tự Do” của Mỹ.

Bà Đinh thở dài não nuột: “Con trai tôi chỉ mới 17 tuổi, nhưng từ hai năm trước nó đã tranh đấu cho sự tiến triển của xã hội, đòi hỏi được tự do và dân chủ hơn. Cháu thường xuyên đến quảng trường Thiên An Môn để ủng hộ các sinh viên. Chồng tôi cổ vũ con trai. Nhưng tôi là đảng viên Cộng sản trung thành và một lòng tin vào Đảng từ năm 1960, tôi biết Đảng có thể đối xử tồi tệ với người dân như thế nào, từ khi một số đồng nghiệp của tôi bị đánh đập cho đến chết trong Cách mạng văn hóa.

Tôi nói với các học trò và với con tôi là đấu tranh chống lại Đảng chỉ vô ích. Nhưng từ khi lệnh thiết quân luật được ban bố hôm 20/5, các cháu chỉ có mỗi một ý tưởng trong đầu: đó là xuống đường. Chúng nó trách tôi trung thành với Đảng một cách mù quáng. Tôi thì tôi chưa bao giờ hy vọng là phong trào này có thể mang lại một sự thay đổi nhỏ bé nào. Tôi chỉ muốn bảo vệ các cháu thôi.

clip_image008

Sinh viên dựng lều chiếm cứ Thiên An Môn

Sau bảy tuần lễ chiếm đóng quảng trường, các sinh viên bị quân đội truy sát đêm 3 rạng 4 tháng Sáu. Giải phóng quân Trung Quốc huy động hàng chục ngàn lính với hàng trăm chiến xa hỗ trợ, và nổ súng. Tưởng Tiệp Liên không còn ở tại chỗ từ khi quân đội công bố thông báo với giọng điệu hết sức đe dọa, đòi hỏi sinh viên rời các lều trại trên quảng trường.

Cha của cậu đã đến phía tây thành phố, nhìn thấy các đoàn quân tiến về phía Thiên An Môn và cố làm giảm nhẹ những lo ngại của họ. Bà Đinh Tử Lâm nhớ lại: “Con trai tôi không ngừng lặp lại, nghĩa vụ của nó là phải xuống đường để hỗ trợ cho các bạn sinh viên. Tôi cấm cháu ra ngoài. Nó giận dữ bảo rằng, nếu tất cả các bậc cha mẹ đều như chúng tôi, thì đất nước chẳng còn chút hy vọng nào.

clip_image010

Quân đội đổ vào quảng trường

Chúng tôi không muốn trả thù

Bất lực, bà đóng cửa nhốt con trai trong nhà vệ sinh. Nhưng hai mẹ con vẫn tiếp tục đối thoại qua cánh cửa. Đinh Tử Lâm kể tiếp qua hơi thở nghẹn: “Nó hỏi tôi, làm cách nào có thể cứu được các sinh viên. Tôi trả lời rằng nếu tất cả mọi người dân Bắc Kinh đều xuống đường, thì không một ai dám bắn vào họ. Suốt cả đời, tôi hối tiếc đã nói câu này. Tôi chỉ có một mình. Nếu chồng tôi có mặt bên cạnh, có lẽ hai vợ chồng đã có thể giữ được con lại.

Vào lúc 22 giờ, Tưởng Tiệp Liên nhảy qua cửa sổ nhà vệ sinh và la to: “Vĩnh biệt mẹ !. Chàng thanh niên sau đó bị giết chết vào lúc 23 giờ 10 phút.

clip_image012

Máu đã đổ trước cường quyền!

Từ đó đến nay, bà Đinh Tử Lâm thệ nguyện trung thành với lý tưởng của người con, mà bà đã lập một bàn thờ trên đó đặt bình tro cốt của con trong phòng khách. Chân dung của chàng trai được treo trên tường, bên cạnh nhiều bằng tưởng thưởng của các tổ chức bảo vệ nhân quyền. Một tấm ảnh do bà Lưu Hà (Liu Xia), vợ của giải Nobel hòa bình đang bị giam cầm là Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) chụp, được đặt đối diện với bức tượng kỷ niệm người con trai.

Cựu giáo sư triết của trường đại học Bắc Kinh danh giá, Đinh Tử Lâm đấu tranh không ngơi nghỉ cho tiến bộ xã hội và cho tự do. Vào Đảng năm 1960, bà là một trong số 303 nhà trí thức Trung Quốc ký tên vào Hiến chương 08, được công bố ngày 10/12/2008 để đòi hỏi cải cách chính trị và xúc tiến phong trào dân chủ Trung Quốc.

Nhưng nhất là năm 1992 bà đã thành lập một mạng lưới gồm 150 bà mẹ, Các bà mẹ Thiên An Môn, mà những người con đã ngã xuống đêm 3 rạng 4 tháng Sáu năm 1989 tại Bắc Kinh, mà chính quyền từ chối mọi tiếp xúc với báo chí. Đến 1993, bà bị cấm giảng dạy. Kể từ đó, chính quyền liên tục quấy nhiễu để ngăn cản Đinh Tử Lâm tiếp xúc với các bà mẹ có con bị sát hại khác. Nhà nước thúc giục bà sang tị nạn ở Đài Loan, nơi một bộ phận trong gia đình bà đã định cư từ năm 1949 nhưng bà chưa bao giờ nhượng bộ.

clip_image014

Sơ tán các sinh viên bị thương

Là lãnh đạo Các bà mẹ Thiên An Môn, bà Đinh Tử Lâm không ngừng đòi hỏi sự thật và công lý về vụ thảm sát tháng Sáu năm 1989. Bà nhắc lại: “Chúng tôi không muốn trả thù, nhưng từ chối sự quên lãng. Và chúng tôi chỉ có ba yêu sách đơn giản: một cuộc điều tra để tìm ra sự thật về những gì đã diễn ra; công lý phải được thực thi và những kẻ chịu trách nhiệm phải bị đưa ra xét xử, đặc biệt là Lý Bằng (Li Peng), người đã công bố lệnh thiết quân luật; bồi thường cho gia đình các nạn nhân.

Những yêu cầu của bà chưa bao giờ thay đổi. Nhưng Đảng lo ngại nếu đáp ứng, sẽ xảy ra một cơn địa chấn chính trị mà các rung chấn sẽ làm bản thân Đảng sụp đổ. “Hai mươi lăm năm sau, tôi tự hỏi, ai sợ hãi ai? Tôi hy vọng Tập Cận Bình sẽ là một đại đế sáng suốt và tử tế. Nhưng tôi không ảo tưởng, sự kiện ông ta ngưỡng mộ Mao khiến tôi lo sợ. Tôi không còn hy vọng mọi việc sẽ thay đổi” – Đinh Tử Lâm than thở, đã gần kiệt sức.

clip_image016

Cuộc đấu tranh không cân sức

Đó là lý do khiến bà chuyển giao chức trách đứng đầu Các bà mẹ Thiên An Môn, lo ngại lý tưởng đấu tranh của thế hệ mình sẽ biến đi khi họ qua đời vì tuổi già. Nâm Vĩ Kiệt (You Weijie), 61 tuổi, có chồng bị sát hại trong vụ Thiên An Môn, lên thay. Trong căn hộ ở Bắc Kinh bị công an quản chế hồi đầu tháng Ba, tân chủ tịch chia sẻ: “Tôi biết những rủi ro chứ, áp lực không ngừng tăng lên đối với chúng tôi từ đầu năm. Nhưng tôi không thể xóa đi câu chuyện lịch sử này, và muốn rằng cuộc chiến đấu cho công lý được tiếp tục.

Chồng bà là Dương Minh Hồ (Yang Minghu), nhân viên của Ủy ban Xúc tiến Thương mại Trung Quốc, năm ấy 42 tuổi. Người vợ góa kể lại: “Chúng tôi thức giấc vào nửa đêm 3 rạng 4 tháng Sáu bởi những tràng súng nổ. Sau khi nhìn qua cửa sổ, chồng tôi lo ngại và quyết định đi cùng với các sinh viên về phía Thiên An Môn. Tôi không đi với anh ấy vì phải lo cho con trai nhỏ năm tuổi. Vào lúc hai giờ sáng, một viên đạn đã xé toang khung chậu và bàng quang của Dương Minh Hồ.

clip_image018

Một thế hệ hào hùng không còn được biết đến

Giới trẻ Trung Quốc không biết đến Thiên An Môn

Nâm Vĩ Kiệt tìm được chồng vào sáu giờ sáng tại bệnh viện. Anh chống chọi được hai ngày rồi mới qua đời. “Chúng tôi ủng hộ 100% các yêu sách của sinh viên, tất cả không phải là điều sai lầm. Nếu chính quyền thời đó đáp ứng, Trung Quốc đã có một số phận tốt đẹp hơn. Chúng tôi có được phát triển kinh tế. Nhưng thiếu vắng mở cửa chính trị, chúng tôi sống trong một xã hội phi đạo đức với trái tim bệnh hoạn. Nếu Trung Quốc tiếp tục tận dụng con đường này, thì cuối cùng sẽ sụp đổ. Không thể tiếp tục lâu dài mà không có mở cửa về dân chủ, vì dân chủ là điều kiện của tự do. Tiện nghi vật chất, mà các đảng viên được hưởng lợi là chính, không thể thay thế được.

Vụ đàn áp đẫm máu đêm 3 rạng 4 tháng Sáu đã làm cho hàng trăm người chết, thậm chí hơn một ngàn, theo một số nguồn tin. Các bà mẹ Thiên An Môn đã chính thức nhận dạng được 202 nạn nhân – một công việc tỉ mỉ chủ yếu dựa trên các ảnh chụp những xác chết, theo Nâm Vĩ Kiệt. Chính mắt bà trông thấy xác của bảy người tại bệnh viện Tongren nơi chồng bà được đưa đến, nhưng hôm đó chỉ nhận ra được ba thi thể.

clip_image020

Có bao nhiêu thanh niên đã bị giết hại trong Mùa xuân Bắc Kinh???

Bà nhận xét: “Nhiều gia đình không biết người thân của mình đã biến mất như thế nào, hay không dám nói ra do sợ bị trả thù. Người ta không biết có 1.000 hay 3.000 người bị giết chết. Chỉ có mỗi mình chính quyền mới biết được danh sách. Ngày nào mà họ công bố và nhìn nhận trách nhiệm, sẽ là một dấu hiệu tiến bộ vô biên cho tự do và dân chủ của đất nước.

Từ năm 1989, chế độ cộng sản đã nỗ lực tránh mọi sự nhắc nhở đến biến cố Thiên An Môn. ĐCSTQ cấm đoán các phương tiện truyền thông chính thức, trên internet và sách mọi liên tưởng đến vụ đàn áp Mùa xuân Bắc Kinh, cho đến nỗi đại đa số thanh niên Trung Quốc không hề biết đến vụ thảm sát này. Gần đến ngày kỷ niệm 25 năm Thiên An Môn, chế độ càng siết chặt thêm gọng kìm. Nâm Vĩ Kiệt tóm tắt: “Mỗi năm, khi chúng tôi đi về phía các nghĩa trang nơi chồng, con chúng tôi được chôn cất, luôn luôn công an còn đông đảo hơn là thân nhân các nạn nhân.

P. S.-P.

(*) Nguyên tác “Au nom des fils de Tiananmen”

Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958

Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958

Chuacuuthe.com


VRNs (04.06.2014) – Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai đã “đóng đanh” bức Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 bằng những chứng cứ trên giấy trắng mực đen như sau:

– Thực chất của công hàm đó là “công khai tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là “rất tai hại, rất phản động”, “là một tai họa cho Việt Nam”, là “có tác hại phản quốc phải hủy bỏ”.

140604-CH PVD

4- Đó là một CÔNG HÀM cấp nhà nước (xem hình bên), giữa hai đại diện cao nhất của hai chính phủ, vì thế không thể tùy tiện hạ thấp tầm quan trọng của công hàm này thành một “công thư”, coi văn bản này “không có giá trị, vì anh không thể đem cho cái không phải quyền của anh”. Tác giả cho thấy cách lập luận nhằm hủy bỏ tầm quan trọng của một Công hàm như vậy là “hời hợt”, chỉ là “cãi chày cãi cối”, là “vô trách nhiệm”!

– Vì vậy. để hủy bỏ được công hàm tai hại ấy, tác giả thấy phải đưa ra một giải pháp khác là “Quốc Hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy”.

Đấy là những kết luận dứt khoát dựa trên những chứng cứ không thể chối cãi. Nhưng một khi đã công nhận những kết luận ấy không thể không tiếp tục đặt ra những câu hỏi khác và bàn thêm về hai cách giải thoát khỏi Công hàm 1958 ấy cho thật cặn kẽ.

1/ Một Công hàm đã bán chủ quyền, đã “phản động, phản quốc” như vậy thì tác giả của Công hàm ấy, cá nhân cũng như tập thể, cần được phán xét ra sao, chịu trách nhiệm thế nào với hậu thế, với sự tồn vong của đất nước? Bài học rút ra là gì?

2/ Thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách nào?

Mọi người đều thấy Công hàm 1958 là sự ràng buộc nguy hiểm nên đều thấy phải tìm cách thoát khỏi Công hàm đó. Nhưng tùy thuộc mục đích ưu tiên bảo vệ đất nước hay ưu tiên bảo vệ chế độ mà phát sinh hai kiểu thoát hiểm.

– Muốn bảo vệ cái nền móng, bảo vệ thể chế, sợ dứt dây động rừng thì lái cho thiên hạ quên đi tầm quan trọng của Công hàm đó, hạ thấp tính chính thống và tính pháp lý của Công hàm, coi Công hàm là thứ chẳng đáng quan tâm. Song ngụy biện kiểu này chỉ để tự che mắt mình và che mắt dân, chứ không thể cãi được với kẻ xâm lược tinh quái đã “nắm đằng chuôi”, và cũng không thuyết phục được công lý quốc tế khách quan. Thật vậy, ai có thể tưởng tượng một Thủ tướng lại dễ dãi đến mức quyết định “cho” nước láng giềng một phần lãnh thổ của Tổ quốc chỉ vì nghĩ rằng phần lãnh thổ ấy đang thuộc phần quản lý của đồng bào mình ở miền Nam thì cứ việc “cho” cũng chẳng hại gì? Trong khi vị Thủ tướng này luôn nhắc lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chịu trách nhiệm cao nhất bấy giờ, rằng “Tổ quốc Việt Nam là một,… chân lý ấy không bao giờ thay đổi” kia mà? Thêm nữa, đã tâm niệm “Tổ quốc Việt Nam là một” thì khi Trung Quốc chiếm mất Hoàng Sa năm 1974 phải hiểu là một phần Tổ quốc của mình bị xâm lược (dù đồng bào nửa nước bên kia đang quản lý), sao không có một lời phản đối bọn xâm lược. lại phấn khởi vui mừng vì một vùng biển đảo của Tổ quốc đã vào tay nước bạn để nước bạn giữ cho? Thật tiếu lâm, khôi hài đến chảy nước mắt.

– Tóm lại là cố gắng vô hiệu Công hàm 1958 kiểu này không có giá trị thực tế gì, rất dễ bị đối phương bẻ gãy. Nếu kiện ra Liên Hiệp Quốc, chỉ một Công hàm Phạm Văn Đồng đủ làm cho Việt Nam đuối lý (chưa cần đến những hiệp ước nhượng bộ, đầu hàng về sau mà Trung Quốc đã thủ sẵn trong tay). Khi Trung Quốc đã chốt được tính pháp lý chính danh của Công hàm 1958 thì mặc nhiên đã vô hiệu được tất cả những chứng cứ lịch sử trước 1958 và cả những tranh cãi sau 1958 đến nay. Chính phủ Việt Nam cũng biết vậy nên cứ trì hoãn không dám kiện Trung Quốc, viện lý do rất “đạo đức” là sợ làm đổ mất “bát nước đầy” (cái bát nước hữu nghị mà phía Trung Quốc đã phóng uế vào!). Kiểu chống đỡ này lúng túng bởi vì ưu tiên bảo vệ chế độ, bắt Tổ quốc phải hy sinh cho chế độ, vô tình hay hữu ý tránh né việc phê phán sai lầm của chế độ.

– Vậy phải thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách khác, “bằng một tuyên bố công khai có giá trị pháp lý cao hơn” ví dụ “Quốc hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy” như bác Nguyễn Khắc Mai đề xuất. Nhưng giải pháp này có hiệu quả đến đâu? Vấn đề là một chính phủ với tư cách hậu duệ kế tục của chính phủ Phạm Văn Đồng – Hồ Chí Minh thì đương nhiên có trách nhiệm thi hành những tuyên bố của chính phủ hợp pháp trước đây đã ký, Trung Quốc có quyền đòi hỏi theo luật như vậy, điều Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có trách nhiệm thực hiện, một khi ông Thủ tướng sau đã nguyện kế tục sự nghiệp của ông Thủ tướng trước. Chỉ còn một cách: Muốn khước từ thi hành Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 buộc Chính quyền Việt Nam hiện nay phải nhân danh nhân dân Việt Nam tuyên bố khước từ và tẩy chay những sai lầm “phản động, phản quốc” của chế độ cũ, lập chế độ mới. Liệu cái Quốc hội Cộng sản hiện nay có dám cắt đứt cái mạch máu huyết thống này để kiến tạo một quyết định thoát Cựu, thoát Trung, ích nước lợi nhà như vậy không?

Khó khăn cốt lõi vẫn ở chỗ: Muốn thoát Hán, mà bước một là thoát khỏi Công hàm phản quốc 1958, chỉ có cách phải giải Cộng, thoát Cộng! Chỉ có nhân dân đứng lên, trong một thể chế của nhân dân, mới vô hiệu hóa được mọi ký kết phản quốc, vi hiến, đã ký kết sau lưng nhân dân như Công hàm PVĐ!

3/ Thoát Cộng được lợi những gì?

Trong thực tiễn Việt Nam hiện nay nói thoát Cựu, thoát Cộng hay “vượt qua chính mình” thực ra cùng một nghĩa, tuy “vượt qua chính mình” là cách nói dễ nghe hơn, nhưng tôi xin được dùng chữ thoát Cộng vì đúng thực chất nhất.

Nếu giữ chủ nghĩa Cộng sản thì phải gánh chịu những tai hại gì?

Toàn bộ kế hoạch “đô hộ Việt Nam kiểu mới” mấy chục năm nay của Trung Cộng được thiết kế trên hai chữ Cộng sản, giữ cái nền Cộng sản là giúp cho mưu đồ Hán hóa có một ưu thế ở tầm chiến lược.

– Giữ Cộng sản thì Việt Nam bị ràng buộc bởi quá khứ đầy nợ nần và lầm lỡ, khó thoát ra, chẳng hạn như công hàm 1958, cam kết Thành Đô, các ký kết thời Lê Khả Phiêu, thời Nông Đức Mạnh, thời Nguyễn Phú Trọng…

– Còn giữ Cộng sản thì quan hệ ràng buộc Trung-Việt như quan hệ giữa “thú dữ và con mồi” cứ thít chặt lại, trong khi các khối đoàn kết để kháng cự thì bị lỏng ra, ví dụ giới lãnh đạo thì bị chia thành phái thân Tàu và nhóm lợi ích, lãnh đạo thì ngày càng đối lập với dân, quốc nội với hải ngoại vẫn còn cách biệt, các liên kết Việt Mỹ, Việt Âu, Việt ASEAN… đều bị yếu tố Cộng sản hạn chế một phần, không thể thanh thoát… Như thế lấy đâu ra sức mạnh? Giữ được nước hay không chủ yếu là do có sức mạnh hay không, đừng trông chờ quá nhiều ở công pháp quốc tế.

Trái lại, chỉ cần thoát Cộng thì tất cả những trở ngại trên sẽ được giải tỏa, đặc biệt là toàn bộ dân Việt khắp nơi khắp chốn tự nhiên sẽ ôm lấy nhau mà reo hò, không cần bất cứ một nghị quyết “hòa hợp hòa giải” nào hết, niềm mơ ước một hội nghị Diên Hồng từ đó mới có cơ sở để mở ra, nếu không thì Diên Hồng mãi mãi chỉ là một lời hô hào suông, không có thực chất.

4/ Thoát Cộng dễ hay khó?

– Sẽ quá khó, quá gay go, nếu Đảng Cộng sản cứ ôm lấy vinh quang quá khứ và lợi quyền hiện tại khiến cho Đảng ngày càng xa dân, đối lập với dân, mỗi động tác dân chủ hóa, dẫu còn ở mức độ “cải lương” thôi cũng đã là một cuộc cọ xát nảy lửa, đã xảy ra bắt bớ cầm tù, nói gì đến sự đổi mới thể chế, đổi mới hệ thống?

– Nhưng không, sẽ vô cùng dễ dàng nếu Đảng biết “tự vượt qua mình”, lấy lợi ích dân tộc trên hết mà vượt trên quá khứ, chuyển sang nền dân chủ đa nguyên như các nước tiên tiến thì Đảng có mất chỉ mất cái danh hão mà được tất cả. Chẳng những không ai chỉ trích quá khứ nữa làm gì, mà các vị cầm quyền còn được nhân dân yêu quý và biết ơn thật sự, không còn tình trạng “thấy mặt là tắt tivi” như bấy lâu nay. Về tinh thần đã thanh thỏa như vậy, về vật chất cũng cơ bản được đảm bảo; có phải nhân dân đã từng bắn tiếng rằng nếu người lãnh đạo biết đổi mới để cứu nước, thoát Hán thì dân sẵn sàng độ lượng cho tận hưởng bổng lộc đấy thôi? Triển vọng xán lạn ấy có thể lắm chứ, sao lại không?

Quả bóng cứu dân cứu nước hiện đang trong chân người cầm quyền, dân rất mong mỏi những người cầm quyền biết xử lý thông minh, khôn ngoan, ích nước lợi nhà. Chỉ trừ trường hợp chẳng may, đợi mãi, vô vọng (chẳng hạn như tiền đạo họ Phùng cứ sút mãi bóng vào lưới nhà) thì tất nhiên dân phải đứng dậy giành quả bóng về chân mình mà xử lý theo đúng ý nguyện của dân, để “nâng thuyền hay lật thuyền” như quy luật của muôn đời mà Nguyễn Trãi đã diễn tả bằng một hình ảnh lưu danh bất hủ…

H.S.P. (2-6-2014)

Hà Sĩ Phu

Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/26882

Sức mạnh Chúa Thánh Thần

Sức mạnh Chúa Thánh Thần

Chuacuuthe.com


140602005

VRNs (03.05.2014) – Sài Gòn – Mỗi người Công giáo nên đọc Kinh Thánh và luôn nói về Kinh Thánh. Mỗi ngày hãy đọc vài câu. Kinh Thánh sẽ nói với bạn. Đừng chỉ đọc những câu bạn thích vì thấy “hợp” với bạn, mà hãy đọc tất cả, bất cứ câu nào, càng “khó nghe” càng tốt. Đôi khi chúng ta phải làm điều gì đó dù cảm thấy miễn cưỡng.

Theo chu kỳ Mùa Phục Sinh, vợ chồng tôi bắt đầu đọc sách Công Vụ Tông Đồ hàng ngày. Chúng tôi đọc Kinh Thánh nhiều lần trong cuộc sống, nhưng chưa bao giờ thấy vui với các câu chuyện của Giáo hội sơ khai. Các câu chuyện đầy tính nhân bản, lộn xộn, và thực tế. Các tín hữu thời đó đối mặt với quá nhiều thử thách đối với đức tin của họ và cách sống mới của họ. Các thành phố như bị đảo lộn bởi những người ít học nhưng đầy Thánh Thần. Hãy nhớ rằng họ có là những người như thế trước đó vài tuần? Không. Họ chạy trốn, ẩn náu, nhút nhát, sợ hãi,…

Chúng ta hiểu tại sao Phó tế Stêphanô hiên ngang bảo vệ Đức Kitô trước mặt các vị lãnh đạo Do Thái, không sợ sệt, mạnh dạn nói, và chịu chết.

Chúng ta đọc câu chuyện về Phaolô và Sila trong tù, vừa hát vừa cầu nguyện giữa đêm khuya sau khi họ bị đánh đập. Họ “điên” thật! Có bao giờ bạn thấy một người bị bệnh nặng mà vẫn ca tụng Thiên Chúa? Họ dại dột hay điên khùng? Chắc hẳn chỉ có thể là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Đó cũng là Chúa Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, vậy tại sao chúng ta sợ hãi như các Tông Đồ xưa? Phải chăng cuộc đời chúng ta trôi nổi vì chúng ta không nhận ra Chúa Thánh Thần?

Tại sao Chúa Thánh Thần được so sánh với lửa?

Nước biểu hiện sự sinh sản và hoa trái của cuộc sống được trao ban trong Chúa Thánh Thần, lửa biểu hiện năng lực biến đổi nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Khi cầu nguyện, Tiên tri Êlia “xuất hiện như ngọn lửa” và “lời lẽ cháy như ngọn đuốc”, đem lửa từ trời xuống hy lễ trên Núi Camêlô. Sự kiện này là “hình ảnh” của Lửa Thánh Thần, Đấng biến hóa những gì ông chạm vào. Ông Gioan Tẩy Giả “đi trước Chúa trong thần khí và sức mạnh của ông Êlia” và tuyên bố Đức Kitô là Đấng “làm phép rửa bằng Lửa và Thánh Thần”. Còn Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Thần: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Trong hình “lưỡi lửa”, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ vào sáng ngày Lễ Ngũ Tuần và lòng họ đầy Chúa Thánh Thần. Truyền thống Kitô giáo dùng biểu tượng lửa là một trong các hình ảnh diễn tả sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta thấy Giáo hội nhiệt thành trong sách Công Vụ Tông Đồ là một ĐGH Phanxicô đã nói về Đại hội Giới trẻ tại Rio: “Cha mong muốn kết quả của Ngày Giới Trẻ là gì? Một sự hỗn độn. Sẽ có điều đó. Sẽ có sự hỗn độn ở đây, tại Rio này ư? Sẽ có! Nhưng cha muốn có sự hỗn độn tại các giáo phận! Cha muốn mọi người phải ra đi! Cha muốn Giáo hội ra các đường phố! Cha muốn tất cả chúng ta chống lại những gì trần tục, máy móc, thoải mái, giáo sĩ trị, khép kín, ung dung tự tại. Các giáo xứ, các trường học, các tổ chức,… hãy ra đi!”.

Lễ Ngũ Tuần là ngày khai sinh Giáo hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta chính Ngọn Lửa đã xuống trên các Tông Đồ xưa và đã biến đổi cuộc đời họ.

Nguyện xin Mưa Thánh Linh tuôn đổ trên chúng ta và ban cho chúng ta sự can đảm để dám ra đi và hăng say loan báo Tin Mừng cho mọi người, đồng thời biến đổi chính cuộc đời của chúng ta và mọi người xung quanh chúng ta.

RACHEL ZAMARRON

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

5 thói quen giúp bạn sống lâu

5 thói quen giúp bạn sống lâu

Những người ăn nhiều đậu, ít thịt, sống có mục đích với tinh thần lạc quan và những người sống chậm rãi có tuổi thọ lâu hơn tuổi thọ trung bình tới 10 năm.
Đó là kết luận của Dan Buttner, chuyên gia người Mỹ với nghiên cứu về thói quen sinh hoạt giúp gia tăng tuổi thọ.
Ăn nhiều đậu, ăn ít thịt

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những người có tuổi thọ cao thường ăn ít thịt, nhiều đậu. Họ chỉ ăn thịt 1 hoặc 2 bữa trong tuần. Còn lại, thực phẩm họ dùng chủ yếu là rau củ quả. Họ ăn nhiều vào buổi sáng và ăn ít vào buổi tối.
Làm công việc “không cần suy nghĩ” 1,5 giờ/ngày

Theo nghiên cứu của Dan Buttner, những người sống thọ nhất thường sống ở những vùng có điều kiện sống ít phát triển. Công việc chính của họ là lao động sản xuất như đồng áng, chăn nuôi. Ở những vùng như đảo Sardinia, Italy, có những người đàn ông đã trăm tuổi vẫn có thể làm đồng. Chính những không việc không cần suy nghĩ này giúp họ gia tăng tuổi thọ.Dan Buttner khuyên những người sống ở các thành phố công nghiệp, nên dành ít nhất 1,5 giờ mỗi ngày làm những công việc “không cần suy nghĩ”. Ví dụ như thay vì đi xe máy, ô tô đi chợ, bạn hãy đi bộ hoặc thay vì sử dụng máy hút bụi, hãy dùng chổi quét nhà, rửa bát bằng tay thay cho máy. Đây là cách thức hữu hiệu giúp bạn củng cố sức khỏe và gia tăng tuổi thọ.
Có mục đích sống rõ ràng và tinh thần sống lạc quan

Hầu hết những người sống lâu đều có tín ngưỡng tinh thần của riêng mình cho dù họ không tín ngưỡng một tôn giáo nhất định nào. Họ thường có những mối quan hệ xã hội rộng mở và nhận được sự ủng hộ của xã hội, họ cũng có mục tiêu sống rõ ràng. Người có tinh thần lạc quan cởi mở thường ít có tâm trạng ưu phiền, sức đề kháng cũng nhờ đó tăng lên và tỉ lệ phát bệnh tim sẽ giảm đi.
Sống chậm, tranh thủ thời gian rảnh rỗi để nghỉ ngơi

Nhịp độ sống của người tuổi thọ cao luôn duy trì ở mức chậm rãi. Khi ăn thì nhai chậm, khi làm việc thì không cần phải gấp gáp, không để bản thân mình quá mức bận rộn, đồng thời đảm bảo thời gian nghỉ ngơi giải trí mỗi ngày. Áp lực là nguyên nhân có hại cho sức khỏe con người. Áp lực tích lũy dần sẽ hình thành những chứng viêm mãn tính, khiến cho cơ thể bị lão hóa quá sớm.
Sống trong gia đình có nhiều thế hệ

Những người sống lâu đều sống trong một gia đình hòa thuận với con cháu đầy đàn. Trong điều kiện sống này, người già được chăm sóc đầy đủ hơn. Đông con cháu sẽ giúp họ cảm thấy vui vẻ, thoải mái và được quan tâm hơn. Con cháu sống cùng với họ sẽ học được những bài học quý giá từ kinh nghiệm sống của người lớn tuổi, đồng thời, bản thân người già cũng có động lực sống, động lực duy trì sự dẻo dai của cơ thể từ sức sống thanh xuân của con cháu. Trong ngôi nhà của mình, người già sẽ không ngừng lao động, dù là những hoạt động nhỏ nhất, để giúp gia đình mình tốt hơn, nhờ đó mà tuổi thọ của họ cũng tăng cao hơn.

Bích Hậu
Theo Bluezone

L ỜI NÓI DỐI CỦA CHA

LỜI NÓI DỐI CỦA CHA
(Ngày Từ Phụ)
Gia đình nghèo, mẹ cha lớn tuổi
Mới cưới nhau, không hỏi, không xin.
Suốt cuộc đời bẩy nổi ba chìm,
Tần tảo nuôi bầy con bốn đứa.
Cuộc sống là một chuỗi gian khổ.
Thường cơm rau, ba bữa lót lòng.
Nhà ven sông, nhưng cá cũng không.
Vì cha yếu, mẹ thường bệnh hoạn.
Có cá ăn, kể là thịnh soạn.
Nhưng luôn luôn tôi nhận thấy rằng
Cha chỉ dành ăn đầu và xương.
Tôi thắc mắc hỏi ông sao vậy.
Cha nghiêm nghị, nói như răn dậy:
“Cha già rồi, thường thấy nhức đầu.
Các Cụ dậy hễ đau ở đâu
Thì cứ ăn thật nhiều thứ đó.
Cha lại còn bị đau xương nữa.
Nên xương, đầu phải cố mà ăn.
Cốt là để bồi dưỡng bản thân!”
Chúng tôi nghe, đinh ninh là thật.
Năm mẹ con chia nhau phần thịt,
Còn xương, đầu dồn hết cho cha.
Một đôi lúc tôi cũng nghi ngờ,
Phân vân hỏi, thì cha cười bảo:
“Lúc trước đây, khi Cha còn nhỏ,
Nội cho ăn thịt đã đời luôn,
Đến bây giờ còn ớn tởn thần!
Khi các con lớn khôn sẽ hiểu!”
Rồi sau này qua thời niên thiếu,
Anh em tôi có thể thay cha
Mò cua, bắt cá, lội sông hồ.
Cuộc sống đỡ vất vơ, vất vưởng.
Cha cũng có thịt ăn thỉnh thoảng,
Nhưng vẫn dành từng mảng xương, đầu.
Có lẽ muốn chứng tỏ trước sau
Ông không hề tào lao, nói dối.
Tháng ngày qua, vật dời, sao đổi,
Cha ra đi, về cõi vĩnh hằng.
Còn phần tôi, theo với tháng năm
Đã ổn định, không giầu sang lắm,
Cũng gọi là dư dả, êm ấm.
Vợ con hiền, thảo, chẳng thua ai.
Những bữa ăn, thỉnh thoảng đôi ngày
Có món cá, vợ tôi sửa soạn.
Tôi nhớ lại những ngày cay đắng
Dặn vợ giữ những mảng đầu, xương
Cho riêng tôi. Nàng rất cảm thông
Nên đầu, xương xẻ riêng một chỗ.
Con gái tôi, ngạc nhiên, hỏi bố:
“Sao Bố ăn lạ thế, Bố ơi?”
Tôi mỉm cười: “Bố lớn tuổi rồi
Đầu thường đau, xương hay nhức nhối!
Ăn đầu, xương tốt thôi, con gái!
Sẽ giúp Bố khỏe lại mấy hồi!”
Nói vậy rồi, nhớ đến cha tôi,
Nước mắt bỗng tuôn rơi trên má!

CHẨM TÁ NHÂN
(phóng tác)
06/03/2014

Vinh Le wrote:
Lời nói dối của Cha

Cha mẹ nó lớn tuổi mới cưới nhau. Hồi đó, gia đình nghèo khó. Mẹ mất sớm, cha tần tảo nuôi 3 anh em nó nên người. Nhà gần sông, nhưng cha đau yếu, ít khi có được con cá mà ăn, mà có được bữa cá đã là thịnh soạn lắm với anh em nó rồi. Nó còn nhớ, mỗi lúc ăn cá, cha thường bảo: “Để tao ăn đầu và xương”

Nó nhanh nhẩu: “Tại sao hả cha?”

Cha nó nói vẻ mặt nghiêm nghị, kiểu răn dạy: “Vì cha già rồi, hay đau đầu, nên ăn đầu thì nó sẽ bớt đau-cái này gọi là ăn óc bổ óc, hiểu không? Xương yếu, ăn xương thì sẽ cứng cáp hơn. Có vậy mà cũng không hiểu hả?”

Tâm hồn trẻ con, nó và hai đứa em đinh ninh là cha nói thật. Mỗi lúc đến bữa ăn, nó còn nhanh nhẩu sẻ ra từng phần. Bỏ đầu và xương qua cho cha nó. Ba anh em tranh nhau phần thịt. Có những lúc nó cũng phân vân, những khi như thế, cha nó lại bảo: “Hồi nhỏ, ông bà nội cho tao ăn thịt suốt, giờ nhìn thịt là cha thấy ớn quá, sau này lớn các con cũng như cha thôi.”

Thấm thoắt thoi đưa, anh em nó lớn lên, và cha nó già đi. Sau này, khi nó đủ hiểu biết những lời cha nó nói trước đây là nói dối. Thì cũng là lúc đời sống của gia đình nó khấm khá hơn. Anh em nó có thể thay cha đi đò, đi sông, mò cua, thả cá. Vì thế mà cha nó cũng thỉnh thoảng ăn thịt, hay ăn thường xuyên nó cũng chẳng nhớ. Vì tuổi trẻ bồng bột, không dám- không ngẫm ngĩ nhiều về yêu thương, hay vì cha nó cố tìm cách cho “lời nói dối” được anh em nó chấp nhận hơn, nó cũng chẳng còn nhớ.

Để đến hôm nay, khi đã thành đạt, vợ đẹp, con ngoan. Cuộc sống hối hả, vô thường vô tận. Nó cũng chẳng bao giờ đóai hoài đến cái đầu, hay miếng xương con cá. Vì những thứ đó đã được vợ nó bỏ đi, chỉ mang phần thịt lên mâm cơm.

Hôm nay là ngày dỗ lần thứ 10 của cha nó. Nhìn di ảnh ba gầy còm, nhưng nở một nụ cười tươi sáng. Nhìn con cá chiên to đùng, lấp lánh mỡ mà vợ đặt lên bàn thờ, nó chợt bất giác rơi lệ. Một cơn đau từ đâu hiện về nhói lòng vô tận. Nó phải quay mặt đi để lau hàng lệ, để giấu vợ con. Nhưng nó không thể xóa đi được hình dáng cha già còm cõi, xiêu vẹo bước đi bên sông, “cha đi thả cá mùa nước nổi”. Rồi sau đó là những trận thương hàn triền miên hành hạ ông. Nó không thể xóa đi được cái ý nghĩ “nếu cha ăn nhiều thịt hơn, thì đã không già yếu như thế”. Vừa khấn vái, nó lại bất giác kêu lên những tiếng “cha” từ trong cổ họng.

Đến lúc ra bàn ăn. Nhìn vợ đang xẻ thịt con cá, để bỏ đi phần đầu và xương. Nó giữ tay vợ lại: “Em, để anh ăn đầu, đừng bỏ đi”.

Vợ hiểu. Vợ nó bỏ đầu cá qua cho chồng. Chỉ có cô con gái nhỏ là thắc mắc “Sao hôm nay ba lại ăn đầu, nó lắm xương, nó sẽ làm đau ba đấy”.

Nó xoa đầu con gái, nuốt tiếng nấc đang chầu chực nơi cổ họng vào trong, bảo “Dạo này ba hay đau đầu, nên ăn đầu sẽ hết đau con gái à, cái này gọi là ăn đầu bổ đầu đấy con yêu”.
Nó vừa ăn vừa cố cho những giọt nước mắt khỏi tràn xuống.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay

Trần Trung Đạo (Danlambao) – Một sinh viên đứng trên bục cao trong tang lễ Hồ Diệu Bang ngày 24 tháng Tư 1989, phát biểu: Đồng chí Hồ Diệu Bang vừa qua đời. Ông là một lãnh đạo trong sạch. Ông không có một chương mục ngân hàng ở nước ngoài. Con cái ông không thăng quan tiến chức chỉ vì cha là lãnh đạo đảng Cộng Sản. Hôm qua chúng ta nói về minzhu, dân chủ. Vậy minzhu nghĩa là gì? Min là “nhân dân” và Zhu là “làm chủ”. Chúng tôi muốn nhận trách nhiệm làm chủ!

Lời phát biểu của anh được đáp lại bằng những tràng pháo tay nồng nhiệt của hàng trăm ngàn người như được ghi lại trong cuốn phim tài liệu nổi tiếng The Gate of Heavenly Peace của Long Bow Group.

Và đó cũng là một trong hàng loạt các hoạt động của phong trào dân chủ Trung Quốc đã kéo dài suốt bảy tuần lễ tại quảng trường Thiên An Môn. Kết quả, một thiên hùng ca được viết bằng máu của nhiều ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ và được thế giới biết đến hôm nay và mãi mãi về sau như Tàn Sát Thiên An Môn. Một điều cần lưu ý, nguyện vọng của nhân dân bị đáp lại bằng máu chẳng phải chỉ phát xuất từ quan điểm Cộng Sản cứu cánh biện minh phương tiện thôi mà còn là đặc tính riêng của văn hóa Trung Quốc. Ngay từ 1926, Lỗ Tấn đã phát biểu “Thỉnh nguyện lên chính phủ xảy ra tại mọi nước. Điều đó không cần thiết phải kết quả bằng cái chết, ngoại trừ, dĩ nhiên tại Trung Quốc”.

Lý tưởng Cộng Sản được Marx, Engel và các môn đệ ở Trung Quốc điểm tô như một thiên đàng tuyệt hảo, có khả năng thỏa mãn mọi nhu cầu của loài người tự giác. Lý thuyết đó cuốn hút hàng triệu nông dân Trung Quốc nghèo khó bỏ gia đình, vợ con, ruộng vườn, đi theo Mao Trạch Đông tìm chân lý. Từ vỏn vẹn 12 đại biểu đại diện cho 57 đảng viên cả nước trong đại hội thành lập đảng 1921 tại Thượng Hải, đảng Cộng Sản Trung Quốc có trên 10 triệu trong đại hội lần thứ Tám vào 1956, chưa tính số đảng viên bị giết trong thời kỳ nội chiến và trong chiến tranh chống Nhật.

Tuy nhiên, sau khi tóm thâu toàn lục địa Trung Hoa, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã lộ nguyên hình là một đảng độc tài toàn trị, chăn dân chẳng khác gì chăn trâu ngựa. Thiên đàng đâu không thấy, chỉ có một chế độ nô lệ mới ra đời trong địa ngục trần gian Trung Quốc. Giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã phản bội khát vọng của nhân dân, bỏ chết đói nhiều chục triệu người qua các chính sách kinh tế vô cùng ngu xuẩn trong những năm từ 1958 đến 1961, và sáng sớm ngày 5 tháng Sáu 1989 đã tàn sát thêm nhiều ngàn thanh niên Trung Quốc vô tội.

Trong lúc phong trào Thiên An Môn 1989 là một thiên hùng ca về khát vọng dân chủ tự do của con người sẽ mãi mãi được hát lên trên khắp địa cầu, nguyên nhân, diễn tiến và hậu quả thảm khốc của biến cố đã để lại những bài học hữu ích cho các phong trào sinh viên dân chủ thế giới, đặc biệt đối với các phong trào sinh viên dân chủ tại các quốc gia có hoàn cảnh chính trị tương tự như Trung Quốc trong những ngày trước mắt.

Trước hết cần sơ lược những diễn biến chính của phong trào Thiên An Môn. Tại Trung Quốc, các buổi tập hợp nhằm mục đích biểu dương sức mạnh quần chúng đã trở thành một tập quán lâu đời. Có thể vì nhiều lần và có nội dung trùng hợp, nhất là trong thời “Cách Mạng Văn Hóa” nên các biến cố thường được gọi bằng ngày tháng mà biến cố đó phát sinh thay vì nguyên nhân tạo nên biến cố. Ví dụ, Phong Trào 4 tháng Năm để nhắc nhở cuộc nổi dậy chống đế quốc qua các hiệp ước bất bình đẳng do sinh viên Bắc Kinh phát động ngày 4 tháng Năm 1919 hay biến cố 5 tháng Tư với hàng trăm ngàn người tập trung để kỷ niệm một năm ngày cố Thủ Tương Chu Ân Lai qua đời. Biến cố 4 tháng Sáu, hay còn được báo chí quốc tế gọi là biến cố Thiên An Môn, diễn ra từ 14 tháng Tư đến 5 tháng Sáu 1989, được quan tâm nhiều nhất, không những vì phong trào kéo dài nhiều tuần lễ, số người chết cao, được hàng ngàn nhà báo quốc tế theo dõi mà còn gây tác dụng mạnh mẽ đối với vị thế chính trị của Trung Quốc trong bang giao quốc tế.

Biến cố Thiên An Môn phát sinh sau khi cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang, nguyên là một lãnh tụ Cộng Sản có khuynh hướng cải cách ôn hòa, qua đời sáng sớm 15 tháng Tư 1989. Sáng hôm đó, hàng trăm ngàn người thuộc nhiều giới, trong đó có các đảng viên Cộng Sản trẻ, các nhóm Cộng Sản có khuynh hướng cải cách, các nhóm Cộng Sản thuộc phe đệ tứ tập trung để thương tiếc cựu tổng bí thư và phản đối chính sách trung ương tập quyền của đảng, đòi hỏi các cải cách chính trị, kinh tế. Trong những ngày đầu này sinh viên chưa thực sự tham gia mặc dầu có một số đã có mặt, trong đó có Chai Ling, người sẽ đóng vai trò quan trọng trong nhiều tuần sau đó. Ngày 15 tháng Tư cũng là ngày sinh nhật của cô sinh viên 23 tuổi này và như cô ta nhìn lại sau này: “Phong trào là một biểu lộ ý thức dân chủ tự nhiên của người dân và sinh viên”.

Sau tuần lễ đầu không có một lãnh tụ nào nổi bật và cũng không có mục đích cụ thể, sáng 17 tháng Tư, ba ngàn sinh viên từ Đại Học Bắc Kinh tiến về quảng trường Thiên An Môn, và tiếp theo sau, nhiều ngàn sinh viên khác từ Đại Học Thanh Hoa (Tsinghua) nỗi tiếng cũng tham gia cuộc biểu dương lực lượng. Cuộc biểu tình nhận được sự ủng hộ của các trường đại học khác ở Bắc Kinh và bắt đầu lan tràn sang các thành phố khác.

Ngày 19 tháng Tư, một liên hiệp sinh viên các trường đại học tại Bắc Kinh ra đời. Ba ngày sau, sinh viên tham dự lễ tưởng niệm cựu Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang tại Nhân Dân Đại Sảnh. Vào thời điểm này, một bản thỉnh nguyện bảy điểm được sinh viên công bố, gồm (1) Khẳng định quan điểm dân chủ và tự do của cố Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang; (2) thừa nhận chiến dịch chống sa đọa tinh thần và giải phóng tư sản là sai lầm; (3) công khai hóa lợi tức của các lãnh đạo nhà nước và gia đình họ; (4) chấm dứt việc ngăn cấm báo chí tư nhân và cho phép tự do ngôn luận; (5) tăng ngân sách giáo dục và tăng lương cho trí thức; (6) chấm dứt hạn chế biểu tình tại Bắc Kinh; (7) tổ chức các cuộc tuyển cử dân chủ để thay thế các viên chức chính phủ đã thực hiện các quyết định sai lầm. Ngoài ra, các lãnh tụ phong trào Thiên An Môn còn đòi hỏi các phương tiện truyền thông nhà nước phải công bố các yêu sách của họ cho dân chúng biết.

Ngày 26 tháng Tư, tờ Nhân Dân Nhật Báo trong bài bình luận đã tố cáo “một nhóm nhỏ âm mưu” tạo sự xáo động nhằm lật đổ đảng Cộng Sản và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sinh viên đã phản ứng bằng một cuộc biểu dương lực lượng của 40 trường đại học để phản đối nội dung của bài bình luận trên báo Nhân Dân. Ngày 13 tháng Năm sinh viên bắt đầu cuộc tuyệt thực trước Nhân Dân Đại Sảnh, trụ sở của Ủy Ban Thường Trực Hội Đồng Đại Biểu Nhân Dân. Hơn một ngàn người tham gia chiến dịch này. Trong lúc đó, nhiều ngàn sinh viên khác bao vây khu Trung Nam Hải, trụ sở của các cơ quan nhà nước. Tại cả hai nơi, các lãnh tụ sinh viên yêu cầu chính phủ phải công bố bản thỉnh nguyện bảy điểm. Các lực lượng công an phòng vệ giải tán bằng gậy gộc. Sinh viên phản ứng bằng cách kêu gọi đình công, bãi trường. Cả Tổng Bí Thư Triệu Tử Dương lẫn Thủ Tướng Lý Bằng đều có gặp sinh viên để tìm cách chấm dứt cuộc tuyệt thực nhưng không có kết quả. Trong các lãnh đạo đảng, Triệu Tử Dương có khuynh hướng mềm dẻo, trong lúc Lý Bằng và Đặng Tiểu Bình thiên về các phương pháp cứng rắn. Đặng Tiểu Bình trong một phiên họp mật của trung ương đảng đã cảnh giác một mối đe dọa thực sự đang xảy ra. Mặc dù vị trí nhà nước của họ Đặng tương đối thấp so với các lãnh đạo khác, y lại là Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương và là người có quyết định ban hành luật quân sự nhân danh các lãnh đạo nhà nước, phần lớn chỉ có tính cách lễ nghi.

Trong lúc cuộc tuyệt thực đang tiến hành, ngày 15 tháng Năm, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Xô Mikhail Gorbachev đến Bắc Kinh trong ngày đầu của chuyến viếng thăm cực kỳ quan trọng giữa hai nước. Đây là chuyến viếng thăm chính thức đầu tiên trong 30 năm và hy vọng sẽ tái lập mối quan hệ ngoại giao vốn bị rạn nứt từ thời Nikita Khrushchev. Hơn một ngàn đại diện báo chí quốc tế, trong đó rất đông do chính nhà nước Trung Quốc mời, để tường thuật chuyến viếng thăm của Mikhail Gorbachev. Luật quân sự được ban hành ngày 20 tháng Năm. Ngày 24 tháng Năm, Tổng Hành Dinh Bảo Vệ Quảng Trường Thiên An Môn được thành lập và sinh viên bậc cao học Chai Ling được bầu làm Tổng Chỉ Huy. Một bức tượng Nữ Thần Tự Do cao mười mét được dựng lên vào tuần lễ sau đó.

Lúc 5 giờ chiều ngày 2 tháng Sáu, Lưu Hiểu Ba và hai người khác bắt đầu tuyệt thực. Trường hợp Lưu Hiểu Ba rất đặc biệt vì khi mới bắt đầu xảy ra vụ Thiên An Môn ông còn ở New York. Như ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn truyền hình sau đó, các hình ảnh trên TV Mỹ đã có tác dụng sâu sắc vào nhận thức của ông và ngày 26 tháng Tư, ông quyết định trở lại Trung Quốc qua ngả Tokyo. Ngày 2 tháng Sáu, Trung Ương Đảng dứt khoát đồng ý dọn sạch quảng đường Thiên An Môn bằng võ lực. Ngày 3 tháng Sáu, các đơn vị Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc bắt đầu tấn công vào quảng trường. Binh đoàn 27 được báo chí ghi nhận là chủ chốt gây thương vong cho sinh viên và dân chúng. Vào lúc 5 giờ 40 sáng 4 tháng Sáu, quảng trường Thiên An Môn nằm trong tay kiểm soát của quân đội. Số người bị giết được ước tính khác nhau tuy theo nguồn tin. Tình báo của NATO ước lượng 7 ngàn người bị giết trong lúc tin của Liên Xô có khoảng 10 ngàn và theo tin của cơ quan Hồng Thập Tự Trung Quốc có 5 ngàn người bị giết và 30 ngàn bị thương.

Dưới các chế độ Cộng Sản những cuộc thảm sát thường không được tiết lộ ra ngoài. Các chính sách kinh tế sai lầm tệ hại của Mao dẫn đến hàng nhiều chục triệu người dân vô tội chết oan, chết đói cũng không được thế giới biết đến một cách chi tiết. Cuộc Tàn Sát Thiên An Môn là biến cố được các hãng truyền hình ghi nhận nhiều nhất và đã có tác hại trầm trọng đến uy tín chính trị của đảng và nhà nước Cộng Sản Trung Quốc trong bang giao quốc tế một thời gian khá dài vì hai lý do. (1) Các cơ sở truyền thông quốc tế đến Trung Quốc như một trùng hợp ngẫu nhiên để đưa tin về chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng Bí Thư Liên Xô Michail Gorbachev nhưng lại có cơ hội hiếm hoi ghi nhận các hậu quả của biến cố Thiên An Môn, và (2) các hãng truyền thông truyền hình của đảng trong lúc chỉ trích cuộc biểu tình qua các tin tức, phóng sự truyền hình đã vô tình tiếp tay giúp loan tin đến các tầng lớp quần chúng và kích động quần chúng tham gia biểu tình.

Dù gây một tiếng vang lớn, phong trào Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc đã không đạt được mục đích như đã đề ra trong tuyên bố bảy điểm và để lại cho các phong trào dân chủ trẻ thế giới nói chung và tại các quốc gia Cộng Sản nói riêng những bài học cần thiết:

1. Đoàn kết nội bộ: Theo ký giả Robert Gifford của đài BBC nhận xét nhân dịp đánh dấu 10 năm Tàn Sát Thiên An Môn, một trong những lý do dẫn đến sự thất bại của phong trào Thiên An Môn là sự thiếu đoàn kết trong lãnh đạo phong trào sinh viên. Phần lớn các lãnh tụ sinh viên tham gia một cách tự phát cuộc biểu tình chỉ vì bất mãn trước tình trạng lạc hậu kinh tế, tham nhũng xã hội và độc tài chính trị nhưng không có một nghị trình rõ ràng cần phải làm gì để chuyển hóa một tập thể đầy cảm tính sang một phong trào có tổ chức. Sự chia rẽ không những vì quan điểm mà còn cục bộ đến mức theo mỗi trường, mỗi khoa, mỗi nhóm đã diễn ra rất sâu sắc trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào.

2. Ý thức về dân chủ: Tất cả sinh viên Trung Quốc trong lứa tuổi hai mươi trưởng thành dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, ở đó các lý thuyết dân chủ hoàn toàn không được giảng dạy đừng nói chi đến việc ứng dụng vào một hoàn cảnh xã hội đa văn hóa vô cùng phức tạp như Trung Quốc. Bản thân của những lãnh tụ sinh viên chẳng những không phải phát xuất từ thành phần chống đảng mà còn được rèn huấn bằng lý luận Cộng Sản. Cha mẹ của Chai Ling, lãnh tụ hàng đầu của phong trào là đảng viên Cộng Sản và bản thân cô là thành viên của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Trung Ương.

3. Phong trào kéo dài quá lâu nhưng không thực hiện các biện pháp có tính quyết định: Các lãnh tụ sinh viên lẽ ra ngay từ đầu phải đặt chỗ dựa vững chắc trong lòng nhân dân, tìm mọi cách nối kết với các phong trào lao động, nhưng theo nhiều nguồn tin quốc tế, họ đã tỏ ra do dự không chịu sự hợp tác đấu tranh với tầng lớp công nhân. Thái độ thiếu dứt khoát và tầm nhìn chiến lược quá giới hạn của sinh viên đã dẫn phong trào đến chỗ bế tắc. Căn cứ vào lời phát biểu của các lãnh tụ sinh viên, dù vụ tàn sát Thiên An Môn không diễn ra, phong trào Thiên An Môn sớm muộn cũng tự giải tán. Tác giả Eddie Chang trong tác phẩm Standoff at Tiananmen mô tả tâm trạng tuyệt vọng của các lãnh tụ sinh viên trong những ngày cuối trước khi cuộc tàn sát xảy ra như trường hợp Chai Ling: “Ngoại trừ những khi thật cần để phát biểu để sinh viên lên tinh thần, Chai Ling ít khi xuất hiện và giao phó hết công việc cho phụ tá của cô”.

Đó là chưa kể các khó khăn về thông tin, vệ sinh, thực phẩm, nước uống, y tế, trật tự trong quảng trường bao la với nhiều trăm ngàn người tập trung suốt nhiều tuần lễ.

Vào thời điểm 1989, phần lớn những khó khăn đó là những khó khăn khách quan bị quy định bởi hoàn cảnh xã hội, ý thức chính trị và giới hạn thông tin tại Trung Quốc.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay, những khó khăn đó chắc chắn sẽ được vượt qua khá dễ dàng bởi vì, về mặt chủ quan thế hệ trẻ ngày nay có một nhận thức dân chủ rõ ràng và vững chắc, và về mặt khách quan thế giới đã chuyển mình sang một thời đại thông tin rộng mở mà không nhà nước nào, không một kỹ thuật nào có khả năng bưng bít được hoàn toàn, kể cả tại Trung Quốc. Cuộc cách mạng tin học bùng nổ đầu thập niên 1990 đã giúp mang con người không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, khác biệt về tôn giáo đến gần nhau trong một căn nhà. Trái đất mỗi ngày một nhỏ dần. Những hàng rào ngăn cách giữa người và người đã bị giới hạn nhiều. Nhân loại ngày nay cần được sống trong một xã hội mở, không bị bao bọc trong bốn bức tường độc tôn hay độc tài.

Một số nhà phân tích tình hình Trung Quốc cho rằng những gì đang xảy ra tại Quảng Trường Tahrir ở Cairo không thể xảy tại Quảng Trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh như giới lãnh đạo Trung Quốc đang lo lắng quá xa. Xin đừng quên, trước ngày Thiên An Môn bùng nổ 1989 không ai nghĩ biến cố đó có thể xảy ra. Các lãnh đạo nhà nước Trung Quốc được Đặng Tiểu Bình đưa lên trong giai đoạn đó như Triệu Tử Dương, Lý Bằng là những chuyên viên có đầu óc thực dụng. Chính sách bốn hiện đại hóa đang chứng tỏ thành công. Nền kinh tế Trung Quốc đang bước vào thời kỳ phát triển thứ hai với các kết quả vượt kế hoạch dự trù. Hệ thống tập thể hóa nông nghiệp đã bị xóa bỏ. Công nghiệp tư doanh phát triển một cách nhanh chóng. Giá cả hàng hóa không còn bị quy định bởi nhà nước mà theo nhu cầu thị trường. Nhưng tất cả những phát triển đó đã không đáp ứng được đòi hỏi của thế hệ thanh niên đã tiến xa hơn thực tế xã hội.

Sau ngày thảm sát Thiên An Môn tháng Sáu 1989, một nhà văn Trung Quốc dấu tên đã viết những lời tưởng niệm và dán lên bức tường Thiên An Môn chưa khô hết máu, trong đó có đoạn: “Chúng tôi vững tin tưởng rằng, sẽ có một ngày khi chúng tôi có thể hát bài hát vui mừng và chiến thắng cho những người đã chết hôm qua, cho những người đang chết hôm nay, và sẽ chết ngày mai, và cho những người gặp nhau đây rồi vĩnh biệt hôm sau.”

Đúng vậy, phong trào Thiên An Môn bùng nổ và đã bị dập tắt nhưng chắc chắn một Thiên An Môn khác đang được hình thành tại Trung Quốc bởi vì khát vọng tự do dân chủ là ngọn lửa thiêng âm thầm cháy trong lòng người dù đang sống ở đâu trên mặt đất này. Nơi nào có độc tài đảng trị nơi đó sẽ có cách mạng dân chủ. Không ai biết thời điểm nào một cách mạng sẽ diễn ra nhưng không thể phủ nhận hay trốn tránh quy luật xã hội đó.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay, ý thức dân chủ trong thệ hệ trẻ Trung Quốc đã trưởng thành cộng với các phương tiên thông tin đang có, cuộc tranh đấu sẽ không dừng lại ở những điều thỉnh nguyện suông mà có thể dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hay ít nhất làm thay đổi căn bản cơ chế chính trị tại Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ ngăn chận Internet như họ đã ngăn chận Twitter, Facebook, Flickr, Youtube, Blogspot v.v. nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tàn Sát Thiên An Môn cách đây hai năm, nhưng phe dân chủ vẫn còn rất nhiều cách để thông tin trong nội địa cũng như chuyển và nhận tin từ nước ngoài. Một chuyên viên kỹ thuật Trung Quốc dấu tên khi được hỏi những gì sẽ xảy ra nếu biến cố Thiên An Môn đang diễn tiến hôm nay, đã thừa nhận rằng với số lượng người được nối kết vào Internet mỗi ngày tăng hàng triệu, việc chận đứng toàn bộ và lâu dài không phải là chuyện dễ dàng.

Mộtbằng chứng điển hình, theo The Wall Street Journal Asia phát hành hôm 31 tháng Giêng 2011, chính phủ Trung Quốc chặn hai chữ Egypt và Cairo từ các nguồn tìm kiếm internet. Hành động trẻ con đó của giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Trung Quốc cho thấy họ luôn sống trong bất an, bị động và luôn nằm trong thế thủ hơn là thế công. Hơn ai hết, giới lãnh đạo Trung Quốc biết vị trí của họ là vị trí của một quốc gia bị bao vây, bởi vì chung quanh họ hầu hết là kẻ thù, không chỉ thù kinh tế, chính trị mà cả về văn hóa, lịch sử, địa lý. Ngoài ra, Trung Quốc ngày nay không phải là một quốc gia đang phát triển, không có gì để mất như hai chục năm trước mà là một cường quốc, dù muốn hay không, họ cũng phải đóng vai trò cường quốc với tất cả trách nhiệm quốc tế để bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc. Nếu không, một khi phong trào dân chủ thế giới qua đi, Mỹ sẽ xuất hiện trên trường quốc tế như một cường quốc có lợi nhất, ngay cả còn mạnh hơn một nước Mỹ sau thế chiến thứ hai.

Và cho dù chế độ có thể ngăn chận được thông tin trong lục địa Trung Quốc, Bắc Kinh cũng không thể làm gì được để ngăn chận thông tin quốc tế được truyền đi qua hàng trăm phương tiện internet nhanh nhất và có tác dụng tạo nên một làn sóng công phẫn trên phạm vi toàn thế giới. Sinh viên Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc sẽ không cô đơn như 1989 mà cả nhân loại sẽ đứng về phía họ. Hàng trăm cuộc biểu tình trước các tòa đại sứ Trung Quốc ở nước ngoài sẽ tạo nên một áp lực quốc tế thường trực không kém gì tại lục địa Trung Hoa. Thượng Nghị Sĩ John McCain phát biểu trên CNN tuần này “Chúng ta không thể chấp nhận một Tiananmen Square xảy ra tại Cairo”. Điều đó có nghĩa nếu Thiên An Môn xảy ra hôm nay, giới lãnh đạo Mỹ, vì cả hai lý do nhân đạo cũng như kinh tế, sẽ không đứng bàng quan nhìn hàng ngàn thanh niên vô tội bị nghiền nát dưới lằn xích sắt như đã diễn ra trong 1989.

Giống như cơ chế nhà nước tư bản là hệ quả khoa học của cuộc cách mạng kỹ nghệ vào thế kỷ 18, các chế độ dân chủ mở rộng ngày nay là hệ quả khoa học của một nền kinh tế đang được toàn cầu hóa. Ánh sáng tự do đang rọi vào những nơi mà trước đây không mấy ai quan tâm đến như Tunisia, Sudan, Yemen, Morocco và lần lượt sẽ đến nhiều nơi khác đang sống dưới chế độ độc tài.

Trần Trung Đạo

danlambaovn.blogspot.com

Hậu Lục Vân Tiên

Hậu Lục Vân Tiên

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cho dù ngành công an có dùng tất cả những cái trò bẩn thỉu đê hèn đối với những người đấu tranh cho Công lý và Sự thật, đặc biệt cho vấn đề biển đảo quê hương đang bị Trung Cộng xâm lược, thì tôi tin rằng nỗi đau của tôi nó chỉ là một phần nhỏ so với những anh chị em đấu tranh khác.

Thúy Nga – thành viên Hội Phụ Nữ Nhân Quyền V.N.

Có khoảng một trăm ngàn người Việt sống quần tụ ở thành phố San Jose, California. Trong số này tôi biết (ít ra) cũng hơn phân nửa. Giao thiệp rộng (tới) cỡ đó rất tốn thời giờ, và tốn … bộn tiền. Đám cưới, cũng như đám ma, xẩy ra ngày một.

Bù lại, được cái tiện là mỗi ngày – sau khi tan sở – lái xe vòng vòng ngang đâu cũng thấy nhà quen, và ghé bất cứ ai cũng có thể kiếm được một bữa cơm chiều hoàn toàn miễn phí! Lần rồi tạt qua một bà đồng hương sồn sồn tôi được mời ăn tối, cùng với một nhân vật (tăm tiếng) mới từ Việt Nam sang: ông Bùi Minh Quốc.

Thiệt là vinh dự hết biết luôn. Niềm vinh dự này – tiếc thay – chỉ thoảng qua như gió. Sau độ mươi, mười lăm phút ngồi cạnh thi nhân là tôi đã bắt đầu cảm thấy … có cái gì không ổn. Tuyệt nhiên, không nghe nhà thơ bàn chuyện thơ văn gì ráo trọi. Cha nội chỉ mải miết ăn thôi.

Mà có phải cao lương mỹ vị gì cho cam. Trên bàn (Giời ạ!) toàn là rau muống:

– Rau muống xào tỏi.

– Rau muống xào mắm ruốc.

– Rau muống xào chao.

– Rau muống xào thịt bò.

– Rau muống chẻ.

– Rau muống làm nộm, trộn với bắp chuối cộng vừng và thịt ba chỉ thái nhỏ như những que diêm.

– Rau muống luộc, cùng với nước chan có dằm cà chua và vắt thêm mấy giọt chanh.

– Hết!

Vào mùa hè, loại rau thổ tả này ở California rẻ như bèo. “Bà chủ nhà hà tiện dữ,” tôi thầm nghĩ như thế và chợt thấy ái ngại vô cùng cho ông thi sĩ. Chắc là con mẹ này chả xem thi phú ra cái đinh gì nên mới đãi đằng (và đãi bôi) như vậy.

– Thế anh sang đây công tác hay tham quan ạ ? Tôi hỏi cho có hỏi.

– Không, không công tác cũng chả tham quan gì sất, tôi nghe nói ở California rau muống rẻ và lành nên ghé     (ăn) chơi cho nó đã thôi.

Thấy tôi há hốc miệng, không cách nào ngậm lại được, và nhà thơ thì mải nhai chả để ý người đối thoại nên chủ nhà vội vã đỡ lời:

– Chả là anh ấy vốn hảo rau muống nhưng ở Việt Nam loại rau này không ăn được nữa nên mới phải lặn lội “tha phương cầu thực” một phen…

– Nhưng sao lại không ăn được?

– Toàn là rau muống đểu chứ sao, chả hiểu chúng nó giồng bằng cái thứ hoá chất gì mà hễ cứ ăn vào là bị mửa. Nhà thơ vừa ực vội bát nước rau, vừa trả lời, suýt sặc.

Tôi chợt nhớ ra một câu thơ hay được truyền tụng của ông: “Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa.” Té ra ông ấy cứ bị ói mửa đều đều vì ăn phải rau muống đểu. Thế mà cả nước, nhất là đám công an văn hoá, cứ ngờ là thi sĩ có ý miệt thị Chính Phủ, Nhà Nước và Đảng (kính yêu) của toàn dân. Thiệt là một sự hiểu lầm đáng tiếc.

Bùi Minh Quốc còn nhiều câu thơ nổi tiếng nữa nhưng tiếc là (nay) đã bị thời thế bỏ xa rồi:

Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu
Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên
Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu
Thi nhau bốc phét để quên hèn

Giữa chợ đời (vẫn) biệt dạng Lục Vân Tiên nhưng những nàng Nguyệt Nga, ngày nay, không thèm kêu la cầu cứu đến ai nữa. Họ đã xăm xăm bước ra khỏi nhà, và giữa đường gặp cảnh bất bằng chẳng tha – theo tường thuật của blogger Huỳnh Phương Ngọc:

“Đại diện cho Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam, tôi cùng chị Nguyễn Ngọc Lụa đi Tuyên Quang tham gia phiên tòa phúc thẩm 3 người H’Mông là ông Thào Quán Mua, Lý Văn Dinh và Dương Văn Tu. Chúng tôi khởi hành từ Hà Nội, đi xe khách lên Tuyên Quang từ tối ngày 26 tháng 5 và có mặt ở cổng Trại giam Công an tỉnh Tuyên Quang sáng ngày 27 tháng 5 năm 2014.

Từ sáng sớm, an ninh, công an sắc phục và thường phục, cảnh sát giao thông đặt chốt chặn ở mọi ngã đường dẫn đến trại giam Tuyên Quang. Chị em chúng tôi không được cho vào tham dự phiên tòa nên ngồi đợi ở quán nước bên đường. Đợi đến 8h40, khi đã bắt đầu phiên xét xử, chị em tôi đi đến cổng trại giam và trình thẻ chứng minh xin vào xem xét xử. Một lúc sau, tôi bị ba người công an yêu cầu vào làm việc…

Lúc làm việc họ đã quát tháo, dí máy quay sát vào mặt tôi, chỉ mặt sỉ vả to tiếng. Lúc ấy tôi rất hoang man vì đây là lần đầu tôi bị công an bắt cóc và thẩm vấn. Chúng tôi là hai cô gái, không sức lực, không phương tiện liên lạc, phải ngồi một chỗ cho họ thẩm vấn và xúc phạm. Tuyên Quang là một nơi vô cùng xa xôi hẻo lánh, tôi bắt đầu lo sợ họ bất chấp luật pháp và hành động sai trái làm ảnh hưởng đến sức khỏe nên tôi im lặng và không trả lời. Tôi gục đầu mệt mỏi vì đói lã sau buổi tối bị say xe từ Hà Nội đi Tuyên Quang, sáng đi vào trại giam sớm, rồi bị bắt qua trưa không ăn uống gì…

Tôi về lại nhà nghỉ. Hai chị em nói chuyện với nhau tôi mới biết họ đã hành động và cư xử với Lụa không khác gì với tôi. Mỗi người đã làm việc với hơn 30 công an tỉnh Tuyên Quang. Bây giờ đây, mọi chuyện đã qua, chúng tôi được nghỉ ngơi và tranh thủ thời gian ít ỏi đi thăm bạn bè tại Hà Nội, nhưng vẫn còn rất mệt mỏi và lo sợ các hành động sách nhiễu khác có thể gặp phải tại nơi này. Chúng tôi đang xa gia đình và rất lo lắng cho an nguy của mình khi vẫn đang còn tạm trú tại Hà Nội…”

Những thành viên của Hội PNNQVN từ trái qua:

Huỳnh Phương Ngọc, Mai Phương Thảo, Nguyễn Ngọc Lụa.

Ảnh:vnwhr.net

Nguyệt Nga thời nay cũng làm bộ nói là “lo sợ các hành động sách nhiễu” và “lo lắng cho an nguy của mình” – giữa cảnh thân gái dặm trường – cho ra vẻ (yểu điểu thục nữ) chớ thiệt ra hai em Huỳnh Phương Ngọc và Nguyễn Ngọc Lụa chả có e ngại cái con bà (hay con tự do) nào cả. Sáng hôm sau, họ lại tiếp tục hành hiệp giang hồ – vẫn theo như tự thuật của blogger Huỳnh Phương Ngọc:

“Hôm nay, ngày 29/5/2014 chị em Hội Phụ nữ nhân quyền Việt Nam gặp nhau tại bệnh viện Việt Pháp, nơi chị Nga đang chữa trị vì bị an ninh giả danh côn đồ đánh gãy chân và nhiều vết thương trên cơ thể.

Vì chuyến đi tham dự phiên tòa phúc thẩm và viếng thăm gia đình các tù nhân người H’mông ở Tuyên Quang không thực hiện được, chúng tôi đành hẹn thân nhân của ba tù nhân này (con trai của các  ông: Thào Quán Mua, Lý Văn Dinh và Dương Văn Tu) xuống Hà Nội để gặp mặt.

Mặc dù đang mệt mỏi, chị Thúy Nga vẫn cùng hai chị em Hội Phụ Nữ Nhân Quyền VN khác là Huỳnh Phương Ngọc và Mai Phương Thảo tổ chức buổi gặp mặt ngay tại Bệnh viện để thăm hỏi, nói chuyện và tặng quà cho đại diện ba gia đình…”

Theo tường thuật của phóng viên Huyền Trang (VRNs) sau khi bị hành hung mang thương tích đến nỗi phải nhập viện bà Thúy Nga vẫn thản nhiên khẳng định: “Cho dù ngành công an có dùng tất cả những cái trò bẩn thỉu đê hèn đối với những người đấu tranh cho Công lý và Sự thật, đặc biệt cho vấn đề biển đảo quê hương đang bị Trung Cộng xâm lược, thì tôi tin rằng nỗi đau của tôi nó chỉ là một phần nhỏ so với những anh chị em đấu tranh khác.”

Hành động cũng như khẩu khí của bà Thúy Nga (nói riêng) và cả hội PNNQVN (nói chung) quả là một tín hiệu đáng mừng, rất đáng mừng cho giới anh hùng hảo hớn ở xứ sở này. Từ nay, đám liền ông có thể hoàn toàn yên tâm để tiếp tục mà giang hồ quán nhậu – trừ ông ông Trương Tấn Sang. Theo Tiền Phong, số ra ngày 17 tháng 5 năm 2014, có trích dẫn lời kêu gọi “thống thiết” của Chủ Tịch Nước trước “tình huống khó khăn” hiện nay:

“Tôi mong bà con trong những tình huống khó khăn như thế này cần phải hết sức bình tĩnh, sáng suốt và nhắc nhở nhau tăng cường đoàn kết xung quanh Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội và phải hết sức cảnh giác trước những thông tin mang tính chất chia rẽ nội bộ.”

Nguồn ảnh:vnwh.net

Nhìn hình ảnh các thành viên của HPNNQVN và những thanh niên H’mông bên cạnh giường bệnh của Thúy Nga khiến tôi tin rằng “tinh thần đoàn kết cũng như sự bình tĩnh và sáng suốt” của dân Việt có thừa nhưng chỉ e là họ không chịu “đoàn kết xung quanh Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc Hội – như ông Chủ Tịch Nước mong đợi thôi. Bộ điên hay sao mà lại đoàn kết quanh một bầy sâu, một đám côn đồ, hay một lũ bù nhìn – cha nội?

Vậy chớ họ đoàn kết với ai? Xin thưa: họ đoàn kết với nhau. Và đây mới là điều đáng lo nhất “trước tình huống khó khăn như thế này,” bác Sang à.