KẺ THÙ CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC

KẺ THÙ CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC

(Bài do một trí thức Trung Quốc viết)

Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Trung Quốc, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Trung Quốc, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy-Lạp thời nay với người Hy-Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai-Cập cũng vậy. Nhưng người Trung Quốc hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Trung Quốc cổ đại. Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo nguợc, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.

Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương – thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: “Làm người Trung Quốc ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa”. Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.

Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ hồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận.

Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!

Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn “chối tai”, có một người đứng dậy nói: “Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?”. Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: “Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!” Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: “Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!” Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: “Tiền đồ Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!”

Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời ? Đến đời nào thì mới thật khá lên được ? Tại Trung Quốc đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, dầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú

Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng-Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.

Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế?

Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Trung Quốc (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?

Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái. Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:

“Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!”

Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: “Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử”. Lại nhìn về trẻ con ở Trung Quốc lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?

Người ta thường nói: “Mình nắm tương lai mình trong tay mình”. Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.

Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi-măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.

Lúc chết, Chúa Giê-Su (Jesus) bảo: “Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu”. Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Trung Quốc sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.

Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì ? Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.

Tôi nghĩ người Trung Quốc chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Trung Quốc thoát khỏi khổ nạn?

Nguyên do vì sao?

Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Trung Quốc có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh.

Có người sẽ bảo: “Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!”. Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng “Quần ma” (Những con ma) của Ibsen (íp-sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: “Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?” Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta.

Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Trung Quốc chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!

Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Trung Quốc đến ở là những người khác phải dọn đi. Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Pa-ri sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: “Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!” (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Trung Quốc). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: “Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?” Cô ta đáp: “Làm sao nổi!”

Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn.

Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: ” Chúng tôi đang thì thầm với nhau”.

Tại sao tiếng nói người Trung Quốc lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?

Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Trung Quốc bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.

Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Trung Quốc. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.

Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại người Trung Quốc không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Trung Quốc mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.

Cho nên, có thể nói, mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư.

Người Trung Quốc ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi – nơi không cần quan hệ với người khác – thì lại có thể phát triển tốt.

Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Trung Quốc có biệt tài đấu đá lẫn nhau.

Chỗ nào có người Trung Quốc là có đấu đá, người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Trung Quốc không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: “Anh có biết người Trung Quốc vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!” Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.

Người Trung Quốc không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.

Ở Trung Quốc có câu: “Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống”. Người đông thì dùng để làm gì? Người Trung Quốc trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết.

Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học – anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước… –

Ngày hôm sau tôi bảo:

“Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!”. Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: “Anh đưa tôi đi một lát nhé!”. Anh ta bảo: “Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!”.

Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Hoa cắn xé nhau là một đặc trưng nghiêm trọng.

Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Trung Quốc với nhau.

Bán rẻ người Trung Quốc, hăm dọa người Trung Quốc lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa.

Tại Ma-lai-xi-a có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Ma-lai-xi-a tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: “Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?”. Người kia bảo: “Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?”

Cho nên kẻ thù của người Trung Quốc lại là người Trung Quốc.

Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Trung Quốc với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói “người Trung Quốc và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù”. Điều này phải chia làm hai phần:

Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy nghìn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ “Tứ nhân bang” (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.

Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Trung Quốc thường đăng: “Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau”, nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng I-xra-en vẫn tổ chức bầu cử.

Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.

Tại Trung Quốc chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco. Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở I-xra-en cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Trung Quốc thì một người sẽ bảo: “Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!”

Người Trung Quốc không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Trung Quốc ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ.

Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: “Chết cũng không chịu nhận lỗi”. Có ai nghe thấy người Trung Quốc nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Trung Quốc nói: “Việc này tôi đã sai lầm rồi!” Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.

Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: “Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!” Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.

Người Trung Quốc không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che dấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: “Đóng cửa suy gẫm lỗi lầm” (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai ? Dĩ nhiên của đối phương.

Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: “Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!”. Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu?

Người Trung Quốc không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Trung Quốc không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Trung Quốc thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.

Họ liên miên khoa trương về dân Trung Quốc, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Trung Quốc, nào là có thể khuếch trương thế giới,v.v…Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.

Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Trung Quốc thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu “Em yêu, em cưng” [Bá Dương dùng chữ “đường mật” và “ta linh” để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh -ND] thì người Trung Quốc gọi nhau là “kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc” (sát thiên đao đích).

Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: “Tại sao người Trung Quốc lại độc ác và hạ lưu đến thế?”

Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: “Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!”. Còn người Trung Quốc sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là “Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!” Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời.

Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: “Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!” Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.

Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.

Trung Quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi.

Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Trung Quốc có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Trung Quốc không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?

Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.

Mọi người Trung Quốc đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: “Bỏ qua cho rồi!”

Mấy chữ “bỏ qua cho rồi” này đã giết hại không biết bao nhiêu người Trung Quốc và đã biến dân tộc Trung Quốc thành một dân tộc hèn mọn.

Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi.

Xem thêm: soha.vn

VẬN ĐỘNG CƠ THỂ VỚI TUỔI LÃO NIÊN…

VẬN ĐỘNG CƠ THỂ VỚI TUỔI LÃO NIÊN…

Vào thế kỷ thứ 13, giáo sĩ kiêm khoa học gia, triết gia Anh Cát Lợi Roger Bacon, nhân dịp nghiên cứu về vấn đề tuổi thọ con người, có nhận xét rằng: “Không chịu vận động cơ thể là một trong nhiều nguyên nhân đưa đến sự không sống lâu”. Ngày nay dù không được coi trọng như thực phẩm, không khí, nước uống, sự vận động cơ thể đã được chứng minh là có nhiều công dụng. Vận động đóng góp vào việc duy trì sức khỏe, cải thiện sự bền bỉ, di động của con người đồng thời cũng là một phương tiện phòng ngừa bệnh tật rất hữu hiệu.

Với ý thức đó, số người thực hiện sự tập luyện cơ thể mỗi ngày mỗi gia tăng.

Theo một thống kê của viện thăm dò Gallup, thì vào năm 1960, chỉ có 43 triệu (24%) người dân Hoa Kỳ tập dượt. Đến năm 1986, số này tăng lên là 136 triệu (57%). Năm 1974, người Mỹ bỏ ra 93 triệu Mỹ Kim để mua dụng cụ tập dượt, thì đến năm 1986, số tiền này tăng lên 1.2 tỉ Mỹ Kim.

Vận động tập thể thực hiện lần đầu vào năm 1800 tại nước Phổ, với mục đích lấy lại niềm kiêu hãnh dân tộc sau cuộc chiến với Napoleon. Ngày nay, nó đã trở thành một sinh hoạt gắn bó vào đời sống hàng ngày của đa số dân chúng, trong đó có người cao tuổi. Sinh hoạt này cũng giống như việc tổ tiên ta khi xưa phải dành thì giờ mấy lần một tuần để đi mà tìm kiếm thực phẩm, nước uống. Họ thực sự đi, có khi chạy, đuổi theo để bắt con mồi. Họ vừa vận động vừa kiếm thức ăn.

Với người cao tuổi, sự vận động cơ thể lại càng quan trọng hơn/

Trong tiến trình lão hóa có những thay đổi theo chiều đi xuống về chức năng cũng như cấu tạo của mọi bộ phận con người, những thay đổi mà sự vận động có thể khiến chậm lại hoặc khiến tốt hơn.

Xương già dễ nứt gẫy, cơ thịt già dễ tổn thương, khớp xương già co duỗi giới hạn. Lý do là vì nồng độ nước trong xương, trong sụn bớt đi, trở thành ròn, dễ gẫy khi va chạm. Lại nữa, sự bao che của cơ thịt chống lại sức va chạm giảm vì khối lượng bắp thịt teo bớt tới 20% kể từ tuổi 65 trở lên.

Thần kinh kém nhậy cảm, phản ứng chậm tới 10-15% kể từ tuổi 60, do đó dễ gây ra nguy cơ té ngã.

Tim kém hoạt động. Nhịp tim chậm lại từ 6-10 nhịp cho mỗi 10 tuổi cao, máu rời tim sau mỗi lần co bóp ít đi tới 20-30%, huyết áp tăng vì thành động mạch xơ cứng.

Hô hấp giảm, dư khí trong phổi tăng tới 30-50% vào tuổi 70, không khí trao đổi giảm tới 40-50%.

Với sự hóa già cộng thêm nếp sống tĩnh tại của một số người cao tuổi, việc không xử dụng những chức nưng của cơ thể, khiến chúng yếu và tiêu mòn đi, trở thành bất khiển dụng.

ÍCH LỢI CỦA SỰ TẬP LUYỆN CƠ THỂ

Một chương trình tập luyện cơ thể vừa sức, đều đặn, có thể chuyển hướng những tiêu cực này thành tích cực, nhiều lợi ích.

Người vận động sẽ cảm thấy thoải mái hơn, nhanh nhẹn hơn, trẻ trung hơn và sống lâu hơn. Khoa học thực nghiệm đã chứng minh những điều đó.

Dáng điệu của người năng vận động nom ngay thẳng, vững chắc. Với tình trạnh tĩnh tại kinh niên, cơ thịt teo, mô liên kết co ngắn, làm con người như xiêu vẹo, lưng còng, di động chậm chạp.

Tập luyện làm tăng khối lượng cũng như sức mạnh của cơ thịt, tăng mức co ruỗi các khớp, xương cốt cứng cáp vì calcium đã không mất, còn tăng cao, sự hoại xương bình thường ở người cao tuổi cũng chậm lại.

Thân thể thon nhỏ dễ coi vì sự vận động tiêu dùng nhiều calories, tránh dự trữ dưới dạng mỡ, tăng biến hóa căn bản khiến cơ thể đốt thêm calories, tiết chế sự ngon miệng, bớt ăn quá mức vì trầm cảm lo âu. Tất cả tạo ra hình dáng con người có phong độ, ít mỡ, nhiều thịt, dẻo dai, nhanh nhẹn khi di động.

Hệ thống tim mạch cũng được hưởng nhiều ích lợi qua vận động.

Bình thường, khi hệ giao cảm hoạt động mạnh, thành mạch máu căng đưa đến tăng huyết áp. Vận động làm giảm tác dụng này của hệ giao cảm, mạch máu mở rộng, máu lưu thông nhiều, dễ dàng hơn, đồng thời cũng giảm thiểu sự đóng cholesterol trong mạch máu, làm giảm nguy cơ gây tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim.

Tim trở nên hữu hiệu hơn trong việc bơm máu. Khối lượng máu xuất tim mỗi khi co bóp tăng, nhịp tim do đó chậm lại. Máu về tim dễ dàng khiến tránh được tình trạng phù chân, nở tĩnh mạch ở hạ chi.

Vận động cũng nâng cao cholesterol lành HDL, và hạ thấp cholesterol dữ LDL.

Năm 1985, Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ lên tiếng khuyến cáo mọi người nên vận động để tránh ung thư. Theo giáo sư bác sĩ Edward R. Eichmer, Đại học Oklahoma, thì sự vận động ngừa ung thư gián tiếp bằng cách làm giảm béo mập, tăng sự miễn dịch, và thúc đẩy mọi người sống lành mạnh với ít thói quen xấu như rượu, thuốc lá cũng như ăn uống đầy đủ dinh dưỡng hơn.

Người cao tuổi ta cũng hay bị táo bón khi sống tĩnh tại. Vận động giải tỏa trở ngại này bằng cách dẫn máu tới hệ thống tiêu hóa nhiều hơn, tăng hiệu năng sự biến hóa thức ăn.

Ở người cao tuổi, tính miễn dịch suy yếu vì kém dinh dưỡng, nhiều căng thẳng, vệ sinh không hoàn hảo, khiến dễ nhiễm trùng. Sự vận động đều hòa, phải sức, giúp cơ thể duy trì khả năng này bằng gia tăng sự lưu hành của kháng thể trong máu. Nhưng nên nhớ, sự vận động đột xuất, quá sức, sẽ khiến cơ thể sản xuất nhiều chất cortisone, mà chất này lại làm giảm sức đề kháng của cơ thể.

Sau khi quan sát, nghiên cứu 1200 người khỏe mạnh trên 70 tuổi, các Đại Học Harvard, Yale, Duke kết luận là sự tập luyện cơ thể làm tinh thần họ lành mạnh, tỉnh táo, giải quyết vấn đề nhậm lẹ, suy luận tốt, trí nhớ tốt. Sự kiện này được giải thích là vận động đưa máu nhiều về não bộ, đồng thời não cũng tiết ra kích thích tố hưng phấn. Một thí nghiệm ở North Carolina còn cho là với 6 tuần lễ đi bộ nhanh nhẹn, khả năng trí tuệ sẽ tăng lên 7.6%.

Người cao tuổi thường hay bị té vì khả năng giữ thăng bằng cơ thể bị rối loạn. Nhờ vận động, trở ngại này có thể tránh được.

Còn tác dụng của vận động trên tuổi thọ thì có nhiều ý kiến.

Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ cho là vận động có thể làm hạ số tử vong do bệnh tật gây ra. Các chuyên gia Hòa Lan nhận thấy những người làm việc chân tay như bổ củi, vác đồ sống lâu hơn người làm việc văn phòng cả 7, 8 năm. Nghiên cứu tại Đại Học Harvard quan sát 10.000 cựu sinh viên tuổi 45 tới 84, cho thấy những người vận động như đi bộ, đánh quần vợt, sống 29% lâu hơn.

Trong khi đó Leonard Hayflick, chuyên gia nổi tiếng về vấn đề người già, góp ý: không có bằng chứng nào về sự tăng tuổi thọ khi người già vận động. Nếu đúng vậy thì ta phải thấy, khi xưa, các cụ lớn tuổi nhất sẽ rất năng động. Nhưng sự thực thì các cụ lại sống rất tĩnh tại. Hayflick còn cho là nếu vận động làm sống lâu hơn có lẽ là do tác dụng tích cực của nó vào diễn tiến bệnh tật.

Như vậy thì dù không có bảo đảm là sự vận động kéo dài tuổi thọ, nhưng kinh nghiệm chung cho hay nó mang nhiều lợi ích cho đời sống. Nó làm ta cảm thấy vui đời hơn, ít lo âu, tỉnh táo, nhanh nhẹn hơn. Nó mang lại vẻ trẻ trung, phong độ, di động nhẹ nhàng. Đời sống tình dục thỏa mãn hơn, ăn ngon chừng mực, dễ tiêu lại ít táo bón. Sức nặng cơ thể ở mức vừa phải, bớt đau nhức xương lưng. Nguy cơ bệnh tim phổi ít đi, tính miễn dịch gia tăng. Và hy vọng là sự hóa già đến chậm hơn.

LẬP CHƯƠNG TRÌNH TẬP LUYỆN

Với những ích lợi như vậy, lại không mất tiền mua, có lẽ tuổi già ta cũng nên sắp đặt để có một chương trình tập luyện cơ thể. Mà khởi đầu chương trình bao giờ cũng có những khó khăn.

Ôi, già rồi, thở không ra hơi, còn tập tành làm gì cho mệt. Lái xe đưa bà ấy đi chợ, lại phải trông cháu, lấy đâu ra thì giờ rảnh để tập. Tôi không khoái việc tập tành, các cụ ạ. Mình ngồi nhẩn nha tâm sự thế này vui hơn. Tập xong tôi đói, tôi lại phải ăn như vậy tôi càng mập ra. Tập nhỡ dạ con tôi nó sa xuống thì chết tôi à. Lại còn phấn son trên mặt, mồ hôi làm hư hết mất.

Vượt qua được lý do lảng ra này là ta đã tiến gần đến mục tiêu. Bây giờ cần tham khảo với bác sĩ để điều chỉnh mấy thứ thuốc mình đang uống cho vài bệnh đang chữa trị, cũng như kiểm soát lại sức khỏe tổng quát xem có trở ngại gì khi vào chương trình tập luyện không.

Thuốc ngủ, thuốc an thần làm hạ huyết áp khi đứng lâu, gây chóng mặt, dễ ngã.

Thuốc thông tiểu tiện làm mất nước, mất potassium, gây vọp bẻ, nhịp tim loạn xạ, nên khi tập cần uống thêm nước.

Thuốc trị tiểu đường làm giảm đường trong máu, sự vận động cũng đốt nhiều nguyên liệu này, nên cần đề phòng lượng glucose trong máu quá thấp, gây tổn thương cho cơ thể.

Nếu đang có bệnh tim, bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, quá mập, hoặc hút thuốc lá thì cần được bác sĩ hướng dẫn mức độ tập luyện để bệnh không nặng hơn.

NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI TẬP LUYỆN

Có mấy điểm sau đây ta cần lưu ý:

1- Khi chưa bao giờ tập luyện, ta cần cẩn thận lựa chọn môn tập nào thích hợp với tuổi tác và điều kiện sức khỏe của mình.

2- Khi đã có chương trình tập từ những năm về trước, ta có thể tiếp tục chương trình đó miễn là cơ thể không thấy có triệu chứng khó chịu nào. Tuy nhiên cũng nên bớt chút thời gian vận động cho phù hợp với niên kỷ hiện tại
.
3- Không nên tiếp tục những môn vận động gây nhiều cảm xúc mạnh hay có tính cách tranh đưa dữ dội khiến có thể gây ra thay đổi đột ngột cho cơ thể. Ở tuổi già, sự vận động mang nhiều tính chất thư giãn, linh hoạt cơ thể hơn là cạnh tranh.

4- Tạm ngưng vận động khi trong người không hoàn toàn khỏe mạnh hoặc quá lo lắng khi tập. Tránh tập luyện ngay sau hoặc trước khi ăn no.

5- Những ngày quá nóng và ẩm, hoặc quá lạnh và gió, không thuận lợi cho việc vận động ngoài trời.

6- Đang tập luyện mà thấy những dấu hiệu sau đây thì nên ngưng: Khó thở, hồi hộp, nhịp tim nhanh, không đều, đau ngực nhất là cơn đau chạy xuống vai tay trái.

MÔN VẬN ĐỘNG NÀO TỐT

Nhiều vị cao niên hỏi môn vận động nào tốt. Ý kiến chung của các chuyên gia cho là môn nào cũng tốt miễn là phù hợp với điều kiện cá nhân của mình: tuổi tác, tình trạng sức khỏe. Thường thường, người ta chia môn tập luyện ra làm 4 loại:

– Tập luyện để có sức chịu đựng, tăng nhịp tim đập, tăng hô hấp trong một thời gian, tốt cho tim phổi và giúp ngăn ngừa hay trì hoãn một số bệnh tật.

– Tập luyện cho có sức mạnh, bắp thịt nở nang, khiến người cao tuổi có thể sống độc lập, làm những việc cần thường nhật.

– Tập luyện để giữ thăng bằng cơ thể, để tránh té ngã, gây gãy xương, đưa đến tàn tật.

– Tập luyện co dãn để cơ thể linh động, mềm mại.

Bơi lội, khiêu vũ, đạp xe đạp, nhất là đi bộ đều tốt.

Đi bộ thường được coi như thông dụng, thích hợp với người già, có thể thực hiện bất cứ lúc nào, ít gây tai nạn và mang lại nhiều ích lợi cho cơ thể:

1- Đi bộ là một trong nhiều môn tập luyện mà tuổi tác cũng như điều kiện sức khỏe không là những trở ngại.

2- Không phải học cách đi bộ vì ta đã biết đi từ lúc một tuổi, bây giờ chỉ cần áp dụng nhịp điệu theo tuổi hiện tại.

3- Người đi bộ thường ít bỏ cuộc và đi lâu hơn là chạy bộ.

4- Đi bộ đều đặn làm điều hòa tim mạch, tăng khả năng hít thở của phổi, làm hạ huyết áp, đốt nhiều nhiên liệu khiến bớt mập, giảm sự loãng xương, giảm phong thấp. Một cuộc quan sát tại Luân Đôn từ năm 1950 với những bưu tín viên đi bộ đưa thư và nhân viên làm việc văn phòng, cho thấy người đưa thơ ít bị bệnh tim hơn.

5- Đi bộ làm tâm hồn thư giãn, tâm trạng thoải mái, trí tuệ lanh lợi, sáng suốt.

6- Người đi bộ thường ăn uống điều độ, không hút thuốc lá hơn người không tập luyện.

Trước khi bắt đầu chương trình luyện tập, ta cũng nên khám bác sĩ và làm một trắc nghiệm xem khả năng chịu đựng của cơ thể tới mức nào. Trong trắc nghiệm này, ta đi rồi chạy nên trên máy chạy tự động với tốc độ tăng dần; máy tâm điện ký ghi nhịp tim coi xem sự lưu thông của máu trong động mạch vành nuôi dưỡng tim có bị cản trở, gây khó khăn cho sự tập luyện.

Chúng tôi xin trình bầy chương trình 5 tuần lễ đi bộ giản dị sau đây của bác sĩ Whitaker:

a- Tuần lễ thứ nhất: đi bộ 5 phút với những bước đi trung bình không chậm, không nhanh, từ nhà ra đường rồi trở về nhà.

b- Tuần thứ hai: Tăng thời gian đi bộ từ 5 lên 10 phút từ nhà ra đường và 10 phút từ đường trở về nhà, vẫn đi những bước trung bình như trên.

c- Tuần thứ ba: Tăng thời gian lên 15 phút đi và 15 phút về, tổng cộng là 30 phút.

d- Tuần thứ tư: Vẫn giữ thời gian đi-về là 30 phút, nhưng bước nhanh hơn để tăng khoảng đường đi bộ lên 10%.

Trong khi đi bộ, giữ lưng thẳng, bụng thót, cổ và đầu ngay, mắt nhìn về phía trước. Bước tới nhịp nhàng, không quá dài, tay vung tới lui để có thêm trớn và giữ thăng bằng cho cơ thể.

Ngoài ra đi dưới nước cũng rất tốt. Nếu có một hồ tắm với mực nước ngang tầm ngực thì đi trong nước là một hình thức vận động lý tưởng và an toàn. Đi như vậy ta thấy sức cản của nước mà ta có thể điều chỉnh sức cản đó bằng cách tăng hay giảm tốc độ bước đi.

Mỗi giờ đi trong nước có thể tiêu đi khoảng 460 calori. Một tuần đi ba lần, mỗi lần 20 phút có thể đem lại những ích lợi cho cơ thể như đi trên đất liền.

Ngoài việc tăng cường sức khỏe, đi trong nước có thêm mấy lợi điểm như: không đổ mồ hôi, an toàn đối với người có bệnh tim mạch, phong thấp, cao huyết áp vì nước gánh chịu 90% sức nặng của cơ thể, khiến họ thoải mái hơn là khi đi trên bộ. Người đi bộ trong nước còn cảm thấy như được xoa bóp, làm tan biến sự căng thẳng thần kinh.

Để mang lại ích lợi cho cơ thể, tập luyện cần đều đặn và lâu dài. Với nhiều vị cao tuổi, động lực thúc đẩy lúc nào cũng có sẵn. Họ nói rằng sự chuyên cần này mang đến cảm giác sung sướng khiến họ khó mà ngưng vì chỉ thiếu vận động vài ngày là thấy hậu quả ngay.

Nhưng cũng có nhiều vị cần thêm một khích lệ như có bạn để cùng tập, nghe nhạc hay coi phim truyện hấp dẫn khi tập, giữ đúng giờ tập như một cuộc hẹn quan trọng, đặt tiêu chuẩn tập cho từng giai đoạn và tự thưởng khi thực hiện được. Đồng thời chương trình tập cũng cần được sắp xếp làm sao cho lý thú, hấp dẫn.

Kết luận:

Cách đây trên nửa thế kỷ, học giả lão thành Trần Trọng Kim và các cộng sự viên đã kể câu chuyện sau đây trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Dự Bị:

“Người Nô Phổ hỏi ông Hoa Đà cái cách giữ vệ sinh thế nào, ông Hoa Đà nói rằng:
“Người ta phải làm lụng vận động luôn, thì ăn uống mới dễ tiêu, huyết mạch mới dễ lưu thông, và bịnh tật mới không sinh ra được. Cái chìa khóa mà không rỉ là vì dùng đến luôn. Nước giữa dòng không dơ bẩn, là vì chảy luôn. Người ta cũng vậy, có vận động thì mới khỏe mạnh”

“Người Ngô Phổ theo lời dạy ấy. Quả nhiên mỗi ngày một khỏe ra và sống được ngoài chín mươi tuổi”

Lại có nhận xét: “Ở tuổi trẻ, sự sung sức là một lựa chọn, nhưng ở người già, nó là điều cần thiết”.

Ta nhớ những cái đồng hồ cổ xưa: khi nó ngưng chạy không phải vì lý do hao mòn, mà vì cần phải được lên dây thiều.

Cơ thể người cao tuổi cũng vậy, cần được lên dây thiều. Bằng sự vận động, tập luyện cơ thể. Để có thể AN HƯỞNG TUỔI VÀNG trong những năm còn lại của cuộc đời.

MS Trương Văn Sáng.

From: thunhan & Anh chị Thụ Mai gởi

Không phải dàn khoan. Gạc Ma mới là chuyện lớn!

Không phải dàn khoan. Gạc Ma mới là chuyện lớn!

Nguyễn Khắc Mai

Cả tháng nay, chúng ta tập trung vào vụ dàn khoan HY981. Dùng dư luận lên án, phản đối, dùng cảnh sát biển, kiểm ngư để ngăn cản… Trung Hoa cứ lì lợm, tăng thêm lực lượng, tăng cả thủ đoạn hành động, tăng cả đấu khẩu, bất chấp lý lẽ, mặc kệ thiên hạ chê cười. Vì sao?

Nay đang có thêm một hướng phán đoán mới, để trả lời câu hỏi vì lý do gì mà Trung Hoa đem giàn khoan vào vùng biển chủ quyền của Việt Nam. Vấn đề là Gạc Ma!

Có vẻ như “Tàu Khựa” đang dùng mẹo Tôn Tử, dương Đông kích Tây, đưa giàn khoan xuống để dư luận tập trung vào đây, còn chúng lại cấp tập, ráo riết đổ vật liệu, biến Gạc Ma thành một căn cứ, một sân bay quân sự.

Khi Gạc Ma đã trở thành một căn cứ không quân, bấy giờ mới là vấn đề. Chúng sẽ tuyên bố về một “Vùng phòng ngự không phận” trên Biển Đông, như chúng đã làm tại biển Hoa Đông. Còn Việt Nam sẽ nghẽn đường ra Trường Sa. Bởi Gac Ma sẽ như một cứ điểm nằm ở yết hầu của con đường huyết mạch quan trọng ấy

Từ năm 1988 sau khi Trung Hoa dùng vũ lực, tranh cướp Gạc Ma trên tay của Việt Nam, phía Việt Nam chỉ lên tiếng “bóng gió” rằng Việt Nam có đầy đủ chứng lý, Trường Sa là của Việt Nam. Tuồng như ban lãnh đạo Việt Nam âm thầm, mặc nhiên công nhận việc chiếm đóng Gạc Ma của Trung Hoa. Chưa hề có một tố cáo rành mạch, cương quyết việc chiếm đóng trái phép của phía Trung Hoa. Hơn nữa, hễ ai tưởng niệm những chiến sĩ hy sinh để bảo vệ Gạc Ma còn bị bắt bớ, cấm đoán, gây khó dễ.

Thâm độc và nguy hiểm đấy, hành động của Trung Hoa ở Gạc Ma.

Bộ Chính trị, Chính phủ, Nhà nước không thể tiếp tục lầm lỗi của mình, để phó mặc cho Trung Hoa làm gì thì làm ở Gạc Ma. Chính đây mới là chỗ để khởi kiện Trung Hoa ra Tòa án quốc tế. Hãy tập trung khởi kiện hành động dùng vũ lực quân sự để tranh chấp biển đảo với Việt Nam – một điều bị cấm trong công ước về Luật biển 1982 của Liên Hiệp Quốc. Rõ ràng đây là sự vi phạm trắng trợn về luật biển của phía Trung Hoa, một bên đã ký công ước!

Hãy ngăn cản không để cho Trung Hoa lộng hành, làm việc đã rồi ở Gạc Ma. Hãy chặn đứng hành động nham hiểm, thâm độc của Trung Hoa ở Gạc Ma.

Bỏ mặc, để Trung Hoa biến Gạc Ma thành căn cứ không quân của chúng là tội lỗi muôn đời không thể tha thứ!

Không được mắc mưu Trung Hoa đang dương Đông kích Tây!

N. K. M.

VN muốn TQ ‘rút giàn khoan vô điều kiện’

VN muốn TQ ‘rút giàn khoan vô điều kiện’

Cập nhật: 13:05 GMT – thứ bảy, 7 tháng 6, 2014

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nói Trung Quốc phải rút giàn khoan ‘vô điều kiện’ (ảnh chụp 2012)

Một Phó Thủ tướng Việt Nam tuyên bố Trung Quốc phải rút giàn khoan “vô điều kiện”, và nói Việt Nam “không chấp nhận đánh đổi độc lập, chủ quyền để lấy bất kỳ thứ gì”.

Ông Hoàng Trung Hải phát biểu tại Hải Phòng sáng 7/6 nhân Lễ mít tinh quốc gia hưởng ứng Ngày Đại dương Thế giới và Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2014.

Quan hệ Việt – Trung tiếp tục căng thẳng, với việc Việt Nam nói tàu Trung Quốc đã làm hư hỏng 24 tàu của Việt Nam từ ngày Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 gần quần đảo Hoàng Sa.

Tương tư như tuyên bố của một số lãnh đạo Việt Nam, ông Hoàng Trung Hải nói Trung Quốc đã có “hành động sai trái, ngang ngược, bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế”.

“Trung Quốc liên tục có những hành động khiêu khích, gây hấn, tấn công tàu chấp pháp và đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam đang hoạt động trong vùng biển nước ta.”

“Hành động sai trái của Trung Quốc không chỉ bị Việt Nam mà còn bị nhiều quốc gia, nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới lên án mạnh mẽ,” ông Hải phát biểu.

Ông Hải nhấn mạnh Việt Nam “kiên trì đấu tranh thông qua các biện pháp hòa bình” nhưng “hòa bình, hữu nghị phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, chủ quyền”.

“Chúng ta không chấp nhận đánh đổi độc lập, chủ quyền để lấy bất kỳ thứ gì và không chấp nhận bất kỳ hình thức đe dọa, áp đặt nào.”

Phó Thủ tướng Việt Nam nói Việt Nam “yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan vô điều kiện khỏi vùng biển của Việt Nam và giải quyết các tranh chấp bằng con đường hòa bình, đối thoại trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế”.

Bài phát biểu của phó thủ tướng Việt Nam dường như nhận được sự tán thưởng của dư luận trong nước.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập viết trên Facebook của ông: “Phát biểu của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khá hay, mềm mỏng nhưng khảng khái.”

Việt Nam tổ chức họp báo hôm 5/6 để lên án Trung Quốc

“Lần đầu được nghe một quan chức chính phủ yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan vô điều kiện,” ông Lập nhận xét.

Trước đó, người đứng đầu chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tuyên bố đã ‘chuẩn bị’ và ‘sẵn sàng’ có hành động pháp lý kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về vụ Giàn khoan Hải Dương 981.

 

CÁC LINH HỒN LINH THIÊNG

CÁC LINH HỒN LINH THIÊNG

Kim Hà

Sáng ngày 29/5/2014 vào ngày lễ Thăng Thiên, tôi được nghe hai cảm nghiệm của các anh chị em trong Huynh Đoàn Đa Minh kể. Vừa nghe mà tôi nổi da gà vì lời cầu bầu của các linh hồn ở luyện ngục thật là linh thiêng.

-Cảm nghiệm thứ nhất:

Cách đây ít lâu có một cô gái trong Huynh Đoàn của chúng tôi lái xe ra công viên Mile Square Park để dắt chó đi bộ. Khi cô vừa mở cửa xe thì con chó nhỏ vội chạy ra khỏi xe. Cô hốt hoảng sợ mất chó nên vội vàng đuổi theo con chó nhỏ mà quên rằng mình chưa khoá cửa xe hơi. Khi cô trở lại xe thì cái bóp của cô bị kẻ gian ăn cắp mất. Tuy trong bóp ấy chỉ có 80 đô la nhưng cô mất hết giấy tờ quan trọng và các thẻ tín dụng (credit cards).

Suốt trong mấy tuần cô gái buồn bã và cầu nguyện xin các linh hồn giúp đỡ cho cô tìm ra cái bóp.

Ngày 28/5/2014, cô nhận được một gói đồ gửi qua bưu điện về địa chỉ nhà của cô. Trong gói đồ là cái bóp của cô, tờ 100 đô la và một lá thư viết nguyệch ngoạc bằng tiếng Việt với nhiều lỗi chính tả, nội dung như sau:

“Tôi là một kẻ nghiện cần sa ma tuý và đã bỏ đạo Công giáo hơn 20 năm. Tôi lấy cái bóp của cô nhưng ban đêm, các linh hồn hiện về bắt tôi phải trả lại cái bóp cho cô. Mẹ tôi chết đã lâu nhưng bà cũng hiện về bắt tôi phải tìm cách trả cái bóp cho cô. Tôi sợ quá nên gửi trả lại cho cô số tiền nhiều hơn số tiền mà tôi đã lấy của cô. Đây là số tiền 100 đô la. Bây giờ tôi rất tin là có Chúa và có các linh hồn luôn giúp đỡ người ta. Tôi quyết định trở về với Chúa. Xin cô cầu nguyện cho tôi. “

-Cảm nghiệm thứ hai:

Một ông trưởng ca đoàn trồng rau ngót (bồ ngót) để bán. Thế mà một buổi tối nọ có kẻ tinh quái đã nhổ sạch hơn 40 cây bồ ngót của nhà ông. Ông buồn quá và bắt đầu cầu nguyện xin các linh hồn giúp đỡ ông để kẻ cắp trả lại các cây rau bồ ngót cho ông.

Ít ngày sau, kẻ cắp trả lại các gốc cây bồ ngót và viết thư xin lỗi ông. Nội dung thư cũng nói rằng:

“Tôi đã bị các linh hồn hiện ra ban đêm và bắt tôi trả lại cho ông những gì thuộc về ông. Tôi xin lỗi ông.”

Xin các linh hồn cầu bầu cho chúng con và nhất là cho những ai luôn cầu nguyện và xin Thánh lễ cầu nguyện cho các ngài. Xin giúp đỡ chúng con tìm lại những của  đã mất. Chúng con xin hậu tạ bằng các Thánh lễ cầu nguyện cho các ngài. Amen.

Kim Hà
29/5/2014

BỐN “CHUYỆN LẠ” Ở ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN- Thật đáng để suy ngẫm

BỐN “CHUYỆN LẠ” Ở ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN- Thật đáng để suy ngẫm

1./ Trung thực
Ở Nhật, bạn khó có cơ hội bắt taxi để đi một cuốc đường dài. Vì sao? Các bác tài sẽ tự chở bạn thẳng đến nhà ga tàu điện ngầm, kèm lời hướng dẫn “Hãy đi tàu điện ngầm cho rẻ”.

Sự trung thực của người Nhật, in đậm nét ở những “mini shop không người bán” tại Osaka. Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân. Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm. Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh. Người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng. Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà. Nhẹ nhàng và đơn giản. Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka… cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ/túi xách.

Quầy thanh toán cũng không đặt ngay cổng ra vào. Người Nhật tự hào khẳng định động từ “ăn cắp vặt” gần như đã biến mất trong từ điển. Nếu bạn đến Nhật, toàn bộ các cửa hàng sẽ tự động trừ thuế, giảm 5 – 10% khi biết bạn là khách nước ngoài.

2./ “No noise” – không ồn
Nguyên tắc không gây tiếng ồn được áp dụng triệt để tại Nhật. Tất cả đường cao tốc đều phải xây dựng hàng rào cách âm, để nhà dân không bị ảnh hưởng bởi xe lưu thông trên đường. Osaka bỏ ra 18 tỷ USD xây hẳn 1 hòn đảo nhân tạo để làm sân bay rộng hơn 500ha ngay trên biển. Lý do đơn giản chỉ vì “người dân không chịu nổi tiếng ồn khi máy bay lên xuống”.

Tại các cửa hàng mua sắm, dù đang vào mùa khuyến mãi, cũng không một cửa hàng nào được đặt máy phát ra tiếng. Tuyệt đối không được bật nhạc làm ồn sang cửa hàng bên cạnh. Muốn quảng cáo và thu hút thì cách duy nhất là thuê một nhân viên dùng loa tay, quảng cáo với từng khách.

3./ Nhân bản
Vì sao trên những cánh đồng ở Nhật luôn còn một góc nguyên, không thu hoạch? Không ai bảo ai, những nông dân Nhật không bao giờ gặt hái toàn bộ nông sản mà họ luôn để phần 5-10% sản lượng cho các loài chim, thú trong tự nhiên.

4./ Bình đẳng
Mọi đứa trẻ đều được dạy về sự bình đẳng. Để không có tình trạng phân biệt giàu nghèo ngay từ nhỏ, mọi trẻ em đều được khuyến khích đi bộ đến trường. Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất. Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi.

Việc mặc đồng phục vest đen từ người quét đường đến tất cả nhân viên, quan chức cho thấy một nước Nhật không khoảng cách. Những ngày tuyết phủ trắng nước Nhật, từ trên cao nhìn xuống, những công dân Nhật như những chấm đen nhỏ di chuyển nhanh trên đường. Tất cả họ là một nước Nhật chung ý chí, chung tinh thần lao động.

Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật. Không có bất cứ sự ưu tiên. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là Thủ tướng.

Ở Nhật, nội trợ là một nghề. Hàng tháng chính phủ tự trích lương của chồng đóng thuế cho vợ. Do đó, người phụ nữ ở nhà làm nội trợ nhưng vẫn được hưởng các chế độ y như một người đi làm. Về già, vẫn hưởng đầy đủ lương hưu. Độc đáo hơn nữa là nhiều công ty áp dụng chính sách, lương của chồng sẽ vào thẳng tài khoản của vợ. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình vì thế luôn được đề cao, tôn trọng.
(Sưu tầm)

Văn nghệ ‘vô cảm’

Văn nghệ ‘vô cảm’
June 02, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương
“Nhìn cái xấu cái ác mà không bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi ai lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy!”

Những dòng chữ các bạn vừa đọc không phải là một định nghĩa lấy ra từ một cuốn từ điển nào mà chỉ là những ý tưởng của một em học sinh lớp 9 tại Việt Nam, trình bày trong một bài luận văn về tính “vô cảm,” là tĩnh từ mới, không thấy trong những tự điển cũ để nói về một trạng thái thờ ơ, tê cứng của tâm hồn trước những những điều đang xảy ra chung quanh mình, được thấy hoặc được nghe.

Một thanh niên tham gia biểu tình gần Tòa Ðại Sứ Trung Quốc ở Hà Nội bị công an chìm bắt đi. (Hình minh họa: An Nam/AFP/Getty Images)

Thái độ này là thái độ của kẻ bàng quan đứng ngoài cuộc, cũng có thể xem là thái độ “tọa sơn quan hổ đấu,” mặc dù không có tính cách thủ lợi như trong một thành ngữ của Trung Quốc ngày xưa, nhưng rõ ràng là một thái độ thờ ơ, không thân thiện, không có trách nhiệm cũng không muốn dây dưa phiền toái đến mình. Một đứa trẻ qua đường bị xe đụng, bị thương nằm giữa đường, tài xế đã vô trách nhiệm bỏ chạy, khách qua đường cũng để mặc, thờ ơ, đi thẳng. Thái độ này phát sinh từ tâm trạng một phần không muốn dính líu đến sự việc như phải khai báo, làm chứng, mặt khác đã mất thời giờ mà chẳng lợi ích gì cho cá nhân mình. Ðây chính là lối sống “ung dung tự tại,” hay kiểu “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại,” “sống chết mặc bây” mà chúng ta vẫn thường nghe thấy.

Ðối với quần chúng, nhất là trong các quốc gia thiếu văn minh, không được hưởng một nền “công dân giáo dục,” chuyện này cũng dễ hiểu, nhưng đối với các nhà lãnh đạo, nhất đối với những người tự cho mình là kẻ sĩ, điều này không thể tha thứ được.

Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư kể chuyện Vua Lý Thánh Tông, một năm trời trở lạnh, nhà vua nghĩ đến những phạm nhân đang chịu án trong ngục thất, ra lệnh cho các quan đem chăn chiếu phát thêm cho tù và nói rằng: “Trẫm ở trong cung, ăn mặc thế này mà còn thấy rét, những kẻ nghèo khó, những tù phạm phải trói buộc, cơm không có đủ ăn, áo không có mà mặc, thì khổ sở đến đâu!” Trong một câu chuyện khác, nhà vua nhân một buổi du hành ban đêm mùa Ðông ra ngoài cung điện, thấy một kẻ ăn mày nằm co ro lạnh lẽo ở vệ đường, vua bèn cởi long bào đắp cho người ấy.

Những câu chuyện kể này có thể chỉ là giai thoại, nhưng quả thật nếu cấp lãnh đạo không biết thương dân, không biết nghĩ đến quyền lợi của dân, lo cho dân no ấm, “vô cảm” với nỗi nhục nhằn của dân thì chẳng khác chi một lũ cướp ngày có quyền lực trong tay.

Trong xã hội, kẻ sĩ là người dẫn đầu. Khổng Phu Tử yêu cầu kẻ sĩ sống phải có trách nhiệm với xã hội, với cuộc đời, với đồng loại, với con người. Dù xã hội này, cuộc đời này có thế nào đi chăng nữa thì kẻ sĩ vẫn phải tận lực nhập thế, nỗ lực dấn thân vào cuộc đời chứ không thể lấy lý do “tránh đời ô trọc” để lẩn tránh trách nhiệm kẻ sĩ: con người không thể tồn tại ngoài thế giới người, cũng tức là, con người không thể sống ngoài xã hội của chính mình. Tiêu chuẩn đầu tiên của kẻ sĩ này là biết nhục, biết xấu hổ, hiểu rõ rằng không biết nhục không phải là người.

Giới văn nghệ được xem như thành phần của kẻ sĩ dù xưa hay nay. Người trí thức, văn nghệ sĩ náu mình, thoát ly thực tế đời sống, ôm ấp những tri thức của sách vở, xa rời thực tế, được gọi là văn nghệ sĩ sống trong “tháp ngà.” Ở đây chúng tôi không nhắc lại các quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” và “nghệ thuật vị nghệ thuật” đã được tranh luận nhiều. Nhưng nếu thực sự văn chương, kịch nghệ là một điều gì không ăn nhập với thời thế, nhất là thời thế hiện nay thì quả thật đó là một thứ trang trí không cần thiết cho con người. Thời bình, chúng ta đã nghe định nghĩa về một người nghệ sĩ là một kẻ “ru với gió, mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây” nhưng trong một đất nước đã đau khổ vì – chiến tranh, tù đày, chia ly, chết chóc và ngày nay, là áp bức, bất công, khốn cùng, sa đọa, vô đạo-văn chương, kịch nghệ có còn là thứ đứng bên lề cuộc chiến, bên lề cuộc đời, “trùm chăn,” không thấy, không nghe, không nói, không muốn dính dấp đụng chạm gì đến nỗi vui buồn của vận nước, hay “không dính đến chính trị” như cách nói của nhiều ca sĩ “mất trí nhớ” đương thời.

Bài thơ “Thạch Hào Lại”của Ðỗ Phủ lại tả cảnh bắt lính của thời chiến tranh trong một đêm khi nhà thơ ghé qua Thạch Hào thôn, là một bài thơ hay được truyền tụng, vì mô tả được hoạt cảnh của một thời, để lại trong ta chút ngậm ngùi:

“Ðêm khuya tiếng nói im rồi,
Vẫn nghe nức nở tiếng người khóc thương.

Sáng mai khách bước lên đường,
Chỉ cùng ông lão bẽ bàng chia tay.”

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Ðỗ Mục, một đêm trăng ghé qua bến Tần Hoài, buồn trách bọn xướng ca không nhớ đến nhục mất nước, bên sông vẫn đàn ca xướng hát:

“Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng ‘Hậu Ðình Hoa.’”

Nhà phê bình Nguyễn Mạnh Trinh đã viết về nhà văn Phan Nhật Nam, như là một nhà văn nhập thế, chia sẻ những nỗi đau của đồng đội, đồng bào: “Tôi muốn nói về một người lính và viết văn có lửa. Những tác phẩm của ông là kết tinh của xương máu, tủy, da của một người lính đã trải qua những thống khổ của cuộc chiến. Văn chương của ông không phải là một thứ cưỡi ngựa xem hoa mà là cuộc đời thực, của cảm xúc thực.”

Phải xem Việt Khang, một người nhạc sĩ trẻ ở trong nước như một kẻ sĩ:

“Tôi không thể ngồi yên
Khi nước Việt nam đang ngả nghiêng
Dân tộc tôi sắp đắm chìm
Một ngàn năm hay triền miên tăm tối.

(Việt Nam Tôi Ðâu?)

Trước năm 1960, ở miền Nam chúng ta có kịch tác gia Vũ Ðức Duy với những vở kịch ngắn nói về hiện trạng xã hội và thẳng thắn nói đến những thói hư tật xấu của con người. Ở miền Bắc, Lưu Quang Vũ với những vở kịch lừng danh, phê phán thẳng vào con người trong xã hội, cũng được coi như kê kích thẳng vào chế độ cộng sản, đã đổi lại sự “dấn thân” của ông với cái chết của chính ông, vợ, Xuân Quỳnh, và một đứa con.

Tại hải ngoại, kịch nói không có cơ hội phát triển, có thể nói thảm cảnh chiến tranh, tù binh, vượt biển, những cảnh đổi đời sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975 ở hải ngoại và trong nước là những đề tài xúc động vô tận mà các nhà viết kịch có thể khai thác, nhưng tiếc thay, chúng ta thiếu những nhà viết kịch có tài. Khán giả dễ dãi bằng lòng với những vở kịch “xưa hơn trái đất” như “Trà Hoa Nữ” (La Dame aux Camélias) cả 166 năm, hay thời Pháp thuộc như “Ông Cò Quận 9,” “Lá Sầu Riêng,” “Ðời Cô Lựu!”

Trong khi ngư dân của chúng ta bị đánh đập, xô đẩy, mất mạng ngoài Biển Ðông, dân oan và người biểu tình quằn quại dưới roi vọt của nhà cầm quyền Hà Nội, thì ở trong nước cũng như hải ngoại, trên sân khấu, ca sĩ vô cảm vẫn oằn oại với trong những tư thế khích dục, lõa lồ, có khi phơi bày cả “nội y.”

Trong khi mỗi ngày chúng ta nghe những nguồn tin về phận người xót xa ở trong nước, thì trên màn ảnh người ta dễ dãi với những tràng cười không dứt với những lời nói châm chọc, thậm chí chửi bới nhau giữa hai anh hề diễu, không bài bản, không biên kịch và không hề có một ý nghĩa nào. Trong khi tàu giặc đã vào Biển Ðông, thảm họa mất nước đã đến nơi thì thương nữ, văn nhân còn muốn về làm đẹp cho chế độ, ca hát, vẽ vời cho cái nơi chốn mà họ đã trốn chạy lúc ra đi.

Câu nói mà chúng ta đã nghe quá nhiều lần này, lại là của Karl Marx: “Chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi khổ đau của đồng loại mà chăm lo riêng cho bộ lông của mình.”

Sự quay lưng đó chính là thái độ “vô cảm” của những nhà lãnh đạo, sĩ phu và trí thức trong hiện tình đất nước hôm nay: “Nhìn cái xấu cái ác mà không bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Thấy cảnh tượng bi ai lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can!”

 

LỬA THÁNH THẦN

LỬA THÁNH THẦN

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ.  Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu.  Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài.  Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt.  Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài.  Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới.  Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy.  Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.

Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ.  Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp.  Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa.  Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi.  Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa.  Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.

Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi.  Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm.  Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới.  Đường đi xuất hiện rõ ràng.  Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.

Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu.  Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa.  Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.

Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía.  Các ngài phải trốn chạy.  Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu.  Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái.  Các ngài sống như tựa như đã chết.  Các ngài giống như cái xác không hồn.  Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống.  Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ.  Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh.  Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa.  Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng.  Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.

Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết.  Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố.  Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta.  Thế giới hôm nay đầy những bóng tối.  Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi.  Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt.  Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.  Amen!

TGM Ngô Quang Kiệt

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

“Em gắng chờ khi nào anh về,”

“Em gắng chờ khi nào anh về,”

Dù cho bao năm bao tháng có lê thê.

Xuân đến Hè sang rồi Thu lạnh lùng,

Vẫn bên lòng một nỗi nhớ nhung.”

(Văn Phụng – Chung Thuỷ)

(RTm 12: 12-13)

Kể ra thì cũng lạ. Lạ ở chỗ, là: tác giả viết lên nhạc bản ở trên lại cứ nhắn với người “em” của mình: hãy “gắng chờ khi nào anh về”, dù đời người có lê thê, hay gì gì đi nữa, người vẫn “bên lòng một nỗi nhớ nhung”. Nhớ nhung đây, chỉ một nỗi mà thôi, chứ không đếm tới hai, ba bao giờ. Chao ôi là âm nhạc! Ối dào, là thi ca! Những là, tình tứ, mong chờ nhiều nỗi nhớ.

Hát thế vẫn chưa xong, người anh của đàn “em” trong làng nhạc lại cứ hát thêm:

“Em vẫn chờ khi nào anh về,

Về thôn xưa nghe tiếng sáo đê mê.

Bên mái nhà tranh hàng cau thơm vàng,

Vui êm đềm đời sống mơ màng.”

(Văn Phụng – bđd)

Thế đó, là thuỷ chung/chung thủy, ở thời trước. Còn hôm nay, nếu có ai hỏi rằng: còn chăng những người anh và “em” như thế nữa không? Thì đây, câu trả lời xin dành cho bạn và cho tôi, là bầu bạn đang nghe ý-kiến rất phản hồi này như câu tiếp “phê” hơn, vẫn bảo rằng:

“Nhớ chăng bên giàn hoa?

Vẫn còn chim yến vẫn còn sơn-ca.

Nhớ chăng bên bờ ao?

Vẫn hòn đá cũ vẫn hàng cây cao.”

(Văn Phụng – bđd)

Hôm nay đây, bần đạo sẽ thôi không còn hỏi câu tương-tự, với ai hết. Nhưng, chỉ dám thưa với bạn đọc và bạn nghe đọc ở đây rằng: ta nên đi dần vào chốn lan-man tình-tứ, cũng rất “phiếm”. Phiếm nhiều điều, cả về đạo lẫn đời, để cho qua đi những tháng ngày vất vả vật-lộn với giòng tư-tưởng những là thần-học và học rất thần (sầu) mãi về sau.

Hôm nay nữa, sau những ngày rong chơi tản-mạn rất nhiều chốn miền xa xôi có nền văn-minh gần gũi với người mình, bần đạo thấy mình thật nhỏ bé cả về hình tượng lẫn tâm-thân, đành im hơi lặng tiếng, không còn dám hứa hẹn viết lách gì nhiều về các cuộc rong chơi với bất cứ ai.

Cảm tạ Ơn Trên, bần đạo được đi đây đó cũng khá nhiều, không những chỉ biết được nhiều thứ của xứ người, lại còn thưởng-thức cái hay cái đẹp cũng như những cái còn chưa đẹp của người ở xứ khác. Tuy nhiên bần đạo lại chẳng có được năng-khiếu ghi chép thành ký-sự, nên chỉ dám mời bạn/mời tôi, ta vào xem các bài tường-thuật do cây viết có tên là Anthony Trần ở “Duc in Altum” trên trang mạng Gia Đình An Phong, sẽ biết về các chuyến đi xa của bần đạo, rất nhộn-nhạo. Ở đó, bầu bạn sẽ gặp thấy các thiên phóng-sự “nóng hổi” của cây viết rất trẻ này.

Nói thế rồi, nay bần đạo bầy tôi lại xin “đổi đề tài”, để mời bà con ta đi xa hơn chút nữa mà vào vườn cây khô khan những học thần/thần học quả thật sơ-cứng. Vườn này, bạn và tôi ta sẽ thấy toàn những cây khô đét-đèn-đẹt được gọi là “triết-thần”, hoặc học về thần cho lắm rồi chỉ nói toàn chuyện triết-lý viển vông, lông ngông không bông đùa.

Quả thật rất đúng. Trong lúc bần đạo thấy “lúng túng” đặt mãi vấn đề cốt lõi là: làm sao ta đi Đạo cho vui tươi, sung sướng, nhẹ nhàng, lại đã bắt gặp ngay câu dặn dò của chàng trai nào đó có kinh-nghiệm yêu-thương vợ hiền mình đến độ ly-dị vợ rồi mới thấy cần thiết thương-yêu “bà xã” mình nhiều hơn nữa. Biết rồi, chàng mới có câu nói mà bần đạo đây thấy có thể áp-dụng chuyện đạo rất triết/thần như sau:

“Đừng có mà khùng điên/dại khờ mà tự hành-hạ mình một cách quá ư là nghiêm-khắc. Hãy cười cho thật nhiều và hãy làm mọi cách để người-mình-yêu-dấu cũng cười thành tiếng, giống như mình. Bông đùa/cười vui, sẽ khiến mọi việc trở nên nhẹ nhõm, dễ chịu.”

Dĩ nhiên, những người hoặc những điều mình thương-yêu hôm nay không hẳn là chuyện đạo những triết/thần rất “thần-học”, mà học mãi vẫn chỉ thấy vẩn vơ lưng chừng, mà thôi. Nói cách khác, nếu đi vào địa hạt thần-học rất Thánh-kinh mà không mang tính vui tươi/bông đùa chút nào, hẳn người học thần và triết sẽ không bị khùng điên/dại khờ là may lắm rồi.

Nay, bần đạo mời bạn và tôi, ta đi vào địa-hạt thần-học và triết-lý hoặc thánh kinh với một đề-nghị đừng dở khùng dở điên nữa, nhưng hãy vui tươi, nhẹ nhàng một khẳng-định đầy quyết tâm, như khẳng-định mới đây của vị cựu Giám-tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Úc từng viết như sau:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa tạo một tầm nhìn mới cho Giáo hội mình. Ngài muốn tặng cho Giáo-hội một thứ “đổi-thay dáng vẻ bề ngoài” cho dễ nhận. Dễ nhận diện, ở chỗ: nay ta phải ra khỏi tính nghiêm-khắc khó lay-chuyển để về với Đạo Chúa từng biết tự kỷ, ngõ hầu chuyển lay/thay đổi cho đúng nghĩa. Đức Giáo-hoàng Phanxicô muốn Giáo hội mình trở-thành “hiền-thê” mang dáng vẻ trong sáng, nổi bật, nhiều sắc mầu tươi vui hơn trước. Dáng vẻ này, không chỉ là vẻ là dáng có thoáng chốc hiện-diện trước ống-kính máy hình, có đèn nháy chỉ một chốc lát để bắt mắt thiên-hạ thôi. Nhưng, một Giáo-hội được thêu-đan cẩn-thận bằng đường nét tinh-tế mà Đức Kitô muốn Giáo hội phải như thế, với thế-giới thời hậu-cận-đại.

Bằng vào tông-thư “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Phanxicô đã phác-hoạ nên chiến-lược cho Giáo hội tương-lai mai ngày. Chiến-lược đây, không để chinh-chiến hoặc đấu-tranh giành lợi-lộc mà đưa ra lời chỉ-dẫn để Giáo-hội sống Phúc Âm giữa thế kỷ 21 đầy thách-thức. Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn căn-dặn Giáo-Hội ta phải mãi mãi đi vào trạng-thái thừa-sai/mục-vụ rất phục-vụ. Là Kitô-hữu, mỗi người và mọi người sẽ quyết-tâm ra ngoài để đến với những người từng xa rời Giáo-hội và cả những người bị xã-hội bỏ bê, chê-bai, vùi dập. Không ai được phép loại-trừ bất cứ người nào khỏi Giáo-hội, tức: cộng-đoàn tình-thương của muôn người. Mỗi người và mọi người có bổn-phận tỏ-bày với tất cả chúng-dân gần xa niềm thương-yêu xót xa, đầy trìu mến. Và, cho phép mình tự-do trở thành người cận thân và cận lân với tất cả mọi chúng-dân. Ta làm thế, vì Chúa đã và đang hướng-dẫn ta mang Tin Mừng vui-tươi hạnh-đạo đến với mọi loài. Ta làm thế với xác-tín rằng: Tin Mừng lành thánh, vẫn cống-hiến cho nhân-loại cung-cách lành-đẹp để cùng sống. Và, Tin Mừng đối với ta là những kẻ rất tin-tưởng chuyện ấy, đã và sẽ là nguồn hoàn-thành chức-năng lớn của con người” (Xem Lm Michael Gilbert, A Joyful Church, The Majellan Family, April-June 2014, tr. 1-5).

Chính đó là vấn đề của thế hệ ngày hôm nay. Thế đấy, là bận tâm của con người hiện tại, cả ở trong Đạo lẫn ngoài đời. Bận-tâm chính, là: làm sao “đem vui tươi vào chốn sầu buồn”, cả đời người. Nghĩ thế rồi, nay mời bạn/mời tôi ta đi thêm vài bước nữa mà phiếm cho sâu cho sát, để rồi ở cuối con đường tăm tăm-tối, sẽ thấy loáng thoáng ngọn đèn suy-tư,hầu tìm ra chút ánh sáng của niềm vui.

Suy tư, là suy-nghĩ rất tư-lự bằng vào ý-kiến của nhiều người như tôi, như bạn trong cõi đời đầy những “phiếm”. Nhưng, trước khi “phiếm loạn” điều gì, lại cũng xin đề-nghị bạn và tôi, ta nghe câu tiếp ở nhạc-bản về những đợi chờ, thuỷ chung, lung linh tình tứ như sau:

“Khi nắng chiều hôm ngả chân đồi

Lòng bâng khuâng em trông ngóng xa xôi

Mơ thấy nhạc vang lừng khúc khải hoàn

Tim rộn ràng tưởng bóng anh về (anh đã về).”

(Văn Phụng – bđd)

Hát thế rồi, nay ta dõi-theo ý-kiến của một đấng-bậc khác từng có vai vế, nay chỉ muốn những vế và vai kéo dài đến mọi người bằng cảm-kích viết thành lời, rằng:

“Bạn Homer Simpson thân mến,

Tôi vẫn nghĩ là bạn sẽ chẳng nề-hà gì khi tôi viết cho bạn những giòng chữ sau đây với tư-cách một người cha gửi đến một người cha khác, để trao-đổi.

Trước tiên, phải nói ngay ở đây rằng: tôi cần ý-kiến bạn để tư-vấn. Bởi, con cháu tôi chúng bỏ quá nhiều giờ ra nghe bạn nói chuyện hơn ngồi nghe cha mẹ chúng dạy dỗ. Cả tôi nữa, tôi từng chào thua và nhận ra được là: bạn có nhiều cái mà tôi không thể nào tạo ra cho mình được. Tôi cũng có máy truyền-hình và ghế bành để ngả dài ra mà thưởng ngoạn chương-trình cười vui của bạn. Nhưng, chỉ có bạn mới là người khiến nhiều kẻ giống như tôi đã xài tối-đa hai thứ đó, mà không tiếc tiền. Bạn từng bảo với người nghe, rằng: “Thật khó đánh lừa được các bà bầu hoặc các đứa trẻ đang gặp rắc rối với nhiều nhiều chuyện; nhưng, tôi có thể lấp kín 8 tiếng đồng hồ một ngày dài bằng chuyện tiếu-lâm trên truyền-hình!” Thêm vào đó, nếu bạn không ngại để cho tôi nói thêm đôi lời, thì: tôi sẽ bảo với bạn rằng: bạn không là người để lại ấn-tượng của kẻ lanh-lợi nhất hành-tinh này từng sống hoặc không sống giống tôi hoặc làm bất cứ thứ gì thích-hợp để vẽ lên cá-tính của nhân-vật trong hoạt-hình. Tôi nhớ cái lần gặp tình-trạng khẩn-cấp hôm ấy, bạn cứ ới gọi người quay phim mà hét lên rằng: “Ấy ông thu hình ơi, gọi gấp cho tôi số điện-thoại khẩn-cấp 911 ngay được không?”…

Đa số các bậc cha mẹ sống thực trên đời, đang phải sống khổ sở vì chứng căng-thẳng thần-kinh mình gặp phải và cứ mong đợi mãi mà chẳng thấy được cái ngày giờ họ ở vào địa-vị thực để mà sống. Trong khi đó, thì bạn lại quay về hướng đối nghịch với họ, để rồi cứ khơi khơi nói rằng: chẳng cần phải làm như thế mới sống vui, sống khoẻ.  Bạn thuộc loại bậc thày chuyên đi đường tắt, vẫn không ngừng khai-thác chỗ nước cạn của đời sống để biết được đâu là chiều sâu của đời sống. Biếng nhác như bạn là thế, mà bạn cũng sản-sinh được đến hơn 500 phim tập. Mỗi tập phim Simpsons đưa ra là để bạn có thể giảng và dạy dỗ rất sâu rất sát, cả chuyện đạo đức của tôn-giáo nữa, cũng không gờm.

Homer bạn hiền quí mến,

Tôi đây rất thích cung-cách làm cha làm mẹ của bạn khi bạn ứng-xử với bọn trẻ con trong xóm. Bạn chẳng bao giờ thiếu lời khuyên-nhủ dành cho chúng, thế mà một số nhỏ trong bọn chúng lại toả ánh vượt xa cả gia đình chúng nữa, là khác. Có lần bạn có nói với Lara, con gái yêu của bạn, rằng: “Nếu con không thích các công-việc mình làm, thì đừng phấn-đấu nữa mà làm gì. Hãy cứ bước vào đó mỗi ngày, rồi chỉ cần làm phân nửa công việc thôi, là được rồi. Và, đó là cung-cách mà người ở Mỹ vẫn làm thế đấy”.

Tôi dám cá rằng: người từng dàn dựng nên chương-trình này thường vẫn sử-dụng lời tư-vấn của bạn để châm-chích cung-cách làm cha làm mẹ cách tuyệt-hảo mà lâu nay vẫn được cổ-suý. Điều này khiến một số cha mẹ đâm nghi-ngờ và lo-ngại cho khả-năng của họ nữa, ít ra, thì bạn cũng từng làm mẫu cho một ông bố tồi-tệ đến là thế. Bọn tôi đây vẫn thấy mình ở “trên cơ” của bạn rất nhiều. Còn nhớ, có lần bạn còn nói với vợ mình rằng: “Em à, em đừng làm thằng bé nhà mình nó nản-chí nam-nhi đấy nhé! Như như con chồn chui ống với những việc quan trọng hơn cả chuyện học hành, nữa là khác. Đó là điều tách bọn mình ra khỏi giống vật, ngoại trừ con chồn chui ống, thôi.”

Dưới đây, còn nhen-nhúm cả một chỉ-dẫn rất “bá-đạo” hơn thế nhiều, như câu nói mà bạn từng bảo với con mình: “Con à, nếu con thật sự muốn có thứ gì trên đời này, thì phải làm việc cho cật-lực để đạt được điều con muốn. Nay, thì hãy câm mồm lại! Kìa, họ đang công bố số lô-tô trúng giải độc-đắc kia kìa!…”

“Này bọn con trẻ, phải chăng bọn con vẫn muốn làm tốt hết mọi sự, chứ? Nhưng, tất cả sẽ thất-bại một cách thảm não, cho mà coi! Hãy học nơi đây bài học này, là: đừng bao giờ thử thời-vận như thế hết.”

“Nay ta muốn truyền cho các con ba điều ngắn ngủi, con cần phải giữ suốt đời mình. Thứ nhất, là: Hãy bảo vệ lấy chính mình! Thứ hai, là: Ý-kiến hay đấy, ông chủ à! Và, thứ ba, là: Cái đó giống như khi ta tới đó, rồi cũng biết thôi.”

“Này Bart, với 10 ngàn đô-la, ta sẽ trở-thành triệu-phú chỉ mấy hồi! Nghĩa là, ta có thể mua tất cả mọi thứ rất hữu sự, như: tình yêu! Đấy à nghen”

“Sách vở là những thứ vô-tích-sự, chẳng lợi lộc. Ta đây, lâu rày, chỉ đọc mỗi cuốn: “Hãy giết con chim nhại tiếng người! mà thôi; nhưng rồi sách-vở cũng chẳng mang đến cho ta ý-tưởng gì để giết những con chim nhại tiếng người kia ấy. Đúng rồi. Nó dạy ta, không chỉ có mỗi cách-thức phê-bình người khác qua màu da của họ…, nhưng bằng những gì tốt đẹp mà người ấy đem đến cho ta, thôi.”

Homer à,

Đôi khi tôi đây lại cũng nghĩ, rằng: lý do khiến con cháu của tôi chúng thích nghe lời bạn hơn cả tôi nữa, chỉ vì bạn chuyên môn tìm phương-cách nào dễ chịu để mọi người thực hiện, cho thoải mái. Trong khi đó, bọn tôi cứ buộc phải nói,đó cũng là thách-thức không nhỏ, đối với bọn trẻ. Thế đó, là công việc tôi phải làm. Và tôi đây, sẽ khiến bọn trẻ chúng nó chán ngấy cả tôi nữa, khi tôi chỉ thích dán mũi vào màn ảnh truyền hình hơn là lo chuyện giáo-dục bọn trẻ con. Nhưng tôi chẳng nề-hà gì khi phải cho chúng biết là: đi học về đến nhà, là phải bỏ bao bị xuống, sắn tay áo ra mà rửa bát dĩa, rồi tự tổ-chức sắp xếp hầu chuẩn-bị cho ngày mai lại lên trường, và làm bài tập ở nhà cho xong rồi cả nhà mới được xem chương-trình “The Simpsons” nửa tiếng, cũng không sao…” (xem Michael McGirr, A Letter to Homer Simpson, Australian Catholics số Summer 2014, tr. 8).

Điều mà nhà mô-phạm Michael McGirr muốn nói với tay hài thời đại là Homer ở phim hoạt hoạ nhiều tập The Simpsons mỗi điều này: không biết tại sao nhà-giáo chúng tôi học bao nhiêu thứ trên đời, để rồi cố truyền lại cho đám trẻ nhà mình, mà sao bọn chúng chẳng thích thứ nào do bọn tôi đưa ra hết. Phải chăng: bọn tôi vẫn còn thiếu chất “hài” là cái hấp-dẫn nhất trên đời? Phải chăng đó là món thời-thượng cho mọi người được dễ sống chuỗi ngày đáng nản?

Hỏi thế, khác nào trở về với câu của con trẻ từng đưa ra với cha cố bé ở nhà thờ hôm đó, rằng: Thưa cha/thưa cố, giữ đạo Chúa và đi nhà thờ hôm nay cũng là một thứ, phải không ạ? Và hôm nay đi nhà thờ có gì vui không mà sao người lớn cứ bắt con đi như thế tối ngày, vậy?

Thật ra thì, câu hỏi của trẻ bé nghe qua cứ tưởng chỉ là chuyện của con trẻ, chẳng cần suy-nghĩ làm gì cho bận trí óc với tâm-can. Nhưng, thời đại hôm nay, nếu diễn rộng, có thể đó cũng là câu để đời, khiến ta suy-tư mà tự cật vấn. Cật và vấn, để rồi tự mình tìm ra câu trả lời cho thoả-đáng, rất hữu-dụng.

Hỏi thế, có là hỏi nhau những câu hỏi rất thường-thức, trong Đạo/ngoài đời rất như sau:

-Danh hài nào là người mà bạn thích nhất, trên sân khấu cuộc đời?

-Những gì trong đời làm ta cười vui, nhiều nhất? Bạn có giống thế không?

-Tại sao cứ bảo: vui tươi/cười đùa là quà tặng mình tạo cho đời?

-Cười vào chính mình có là chuyện dễ làm hơn cười vào người khác?

-Hãy thử lấy ví-dụ thế nào là vui tươi/cười đùa dù xấu/tốt?

-Có bao giờ ta nghĩ: Chúa cũng hóm hỉnh, cười vui như con người?

Trả lời cho các câu hỏi này, nhiều vị cũng không ngại đưa ra thêm câu trả lời, rất để đời. Như, Đức Bênêđíchtô thứ 16 có lần nói: “Tôi tin một cách chắc-chắn rằng Thiên-Chúa của ta cũng đầy tính hóm-hỉnh, cười vui như mọi người. Ngài vẫn muốn mọi người coi mọi sự nhẹ nhàng, dễ chịu để còn sống” (x. Anne Rennie, The Life of the party, Australian Catholics số Summer 2014, tr. 15).

Nhìn vào Kinh Sách, hẳn người người đều thấy rõ: Đức Giêsu cũng từng lân-la ăn uống với tất cả mọi hạng người, từ giới bê tha, thấp hèn, phường đĩ điếm, cũng đâu sao! Ngài chắc cũng là nghệ-sĩ rất đáng kể mới lôi cuốn cả ngàn người đến nghe Ngài giảng dạy đến độ bụng đói cồn cào mà vẫn cứ đi theo. Ngài còn có tài kể chuyện ngụ ngôn, nhẹ nhàng, dễ nghe khiến giới “mày râu nhẵn nhụi” như Kinh Sư Biệt Phái, phải khó chịu?

Đức Giêsu phải là người vui vẻ hết mình mới dám “khuyến mại” về Vương Quốc Nước Trời của Ngài đã gần kề? Mới khuyên bảo được mọi người hãy hối cải, đổi đời và trỗi dậy làm cuộc sống mới. Ngài phải là Đấng có tài ăn nói cuốn hút mọi người quyết tâm đi vào cuộc sống triệt-để có hồi tâm, canh cải để “chui qua lỗ kim nhỏ” của Nước Chúa, đầy vui tươi?

Trả lời được các câu vấn-nạn cho đời mình như thế, ắt hẳn người người sẽ hồi-tâm biến đời mình thành những chuỗi ngày vui có bạn bè vây quanh, mỗi ngày đều là ngày của Chúa, chứ?

Và, khi người người đi Đạo đã có thể biến cuộc sống mỗi ngày của mình thành những ngày vui có Chúa, có anh có em ở với mình rồi, thì khi ấy tha hồ mà kể cho nhau nghe những câu truyện tưởng rằng đứng-đắn, khó khăn, nhưng dễ cười như truyện đời được kể, như sau:

“Tôi và bạn gái tôi đã hẹn hò được hơn một năm. Và, chúng tôi đã quyết-định đi đến hôn-nhân trong thời-gian tới. Mọi thứ đều tươi đẹp đối với tôi trong thời-gian này, chỉ duy có một điều làm tôi phân tâm, đó là… cô em gái dịu dàng, xinh đẹp của vị hôn-thê của tôi.

Cô em vợ tương lai của tôi năm nay 22 tuổi, có “gu” ăn mặc gọn gàng, lại rất “chuẩn” về tính đài-các, nết na, lẫn sắc đẹp. Ngoài những điều ấy ra, cô còn tỏ ra rất dễ chịu với mọi người kể cả những vị rắp ranh làm anh rể của cô nữa.

Một ngày đẹp trời nọ, cô em vợ tương-lai bé bỏng đẹp xinh của tôi đã gọi điện-thoại cho riêng tôi và mời tôi đến nhà để kiểm-tra giấy mời và thiệp báo hỷ cho đám cưới của tôi và chị cô. Khi tôi đến, thấy chỉ có mình cô ở nhà. Cô đến gần bên tôi rồi thì thầm đôi điều rằng: chính ra cô cũng rất yêu tôi và không thể cưỡng lại được tình-cảm riêng-tư của mình… Cô còn nói: cô muốn gần-gũi tôi dù chỉ một vài phút phù-du trong đời, trước khi tôi làm đám cưới với người chị của cô.

Lúc ấy, tôi không thốt ra được lời nào và càng lung-túng hơn nữa, khi cô nói: “Bây giờ em lên phòng riêng của em trên gác, nếu anh không ngại thì hãy lên đó với em một chốc lát, nhé.

Tôi đứng im như pho tượng gỗ và nhìn cô thoăn thoắt bước lên gác, trước một mình. Tôi cứ đứng đó một lúc, không biết phải làm gì cho xứng hợp với thân-phận mình. Cuối cùng, tôi quyết-định thẳng bước tiến ra cửa trước. Tôi mở cửa và đi thẳng đến chiếc xe của mình, dự tính lấy cái gì đó làm bằng, cho xong.

Vừa quay lại, thì lạ chưa, trước mắt tôi là cả gia đình nhà vợ chưa cưới của tôi đang đứng đó vỗ tay cười. Với đôi mắt hơi rơm rớm nước mắt và bằng một giọng nói xúc động, bố vợ tương-lai của tôi bảo với tôi, rằng: “Gia đình ta cảm-thấy rất vui khi con đã vượt qua được bài kiểm-tra nhỏ của ta. Ta sẽ không thể tìm đâu ra được một người rể tốt lành và xứng-đáng hơn cho con gái ta. Chào mừng con đến với gia-đình!” Tôi đã vượt qua được bài “kiểm” trước đám cưới. Thật hú vía và … tôi quả là người may mắn nhất trong đời. Đời của con người cố sống tốt lành với… nhà vợ!” (trích bài chia-sẻ tâm-tình của một người trong buổi “Thăng Tiến Hôn-Nhân”, rất tận tình).

Truyện kể ở trên cũng “tếu”, cũng “buồn cười” và cũng “bé cái lầm” nhưng không “buồn” và “cứng” như bao câu truyện kể của đấng bậc giảng dạy vào các Tiệc Thánh Thể ở nhà Đạo.

Nói cho cùng, suốt đời đi Đạo nghe giảng dạy mà không vui tươi, cười đùa thì cũng chưa hẳn là đã tuân theo lời dặn dò của bậc thánh-hiền cho đúng cách, khi thánh-nhân từng bảo ban:

“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh

đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rm 12: 12-13)

Nói cho cùng, thì: để ra một đời đi đạo, mà chẳng có được giây phút vui tươi, bông đùa, cười giỡn thì cũng uổng. Uổng, cho những tháng ngày có cầu mà không nguyện, cũng không biết. Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta hãy vùng đứng, trỗi dậy mà hát lên những câu ca nhè nhẹ, ngăn ngắn có chút vui, như sau:

“Khi nắng chiều hôm ngả chân đồi

Lòng bâng khuâng em trông ngóng xa xôi

Mơ thấy nhạc vang lừng khúc khải hoàn

Tim rộn ràng tưởng bóng anh về (anh đã về).”

(Văn Phụng – bđd)

Hát thế rồi, bạn và tôi, ta cứ ra đi mà truyền-bá những điều vui đi Đạo, để người người mãi rồi sẽ phấn-chấn với tháng ngày nguyện cầu rất chuyên-chăm. Hạnh đạo.

Trần Ngọc Mười Hai

Và một quyết-tâm

Cũng nhẹ nhàng như thế.

Để sống đạo.

 

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,”

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,”

“Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.”

(Dẫn từ thơ Thâm Tâm)

Ga 3: 16-18

Sương rơi quá, nhưng lòng anh nay bình-thản lại rồi, và tâm-tư anh nay cũng đã khác. Lòng nhà Đạo, lại không thế. Vẫn không khác và không đổi, vì Ba Ngôi Đức Chúa vẫn diễn tả một tình thương tuy suộc sống nhiều diễn biến.

Trình-thuật tác giả thánh hôm nay cũng ghi lại một diễn biến rất sinh động trong cuộc sống thường nhật. Sống thường nhật, nhiều lúc con người vẫn hiểu rằng ngôn ngữ và biểu tượng không thể diễn tả được các chân lý sâu thẳm của con người, cho đúng đắn. Nhất thứ, là khi chân lý ấy lại thuộc địa hạt tín lý, thần học.

Nhiều năm trước, tôi đã có dịp đến với các em học sinh lớp nhỏ thuộc trường tiểu học công lập, ở Tiểu bang. Đến, để rút kinh nghiệm giảng dạy môn giáo lý cơ bản cho các em trong/ngoài nhà Đạo. Hôm ấy, tôi bắt đầu giờ dạy bằng một câu hỏi rất ngắn để xem các em có tiếp cận được các kiến thức sơ đẳng, hay không. Câu hỏi tôi chọn, chỉ đơn giản có thế này: “Mỗi khi làm dấu thánh giá, các em đọc gì?” Cả lớp nhao lên: “Thưa, nhân danh Cha, Con và Thánh Thần!”

Cũng khá! Sẵn đà, tôi hỏi luôn: “Các em tuyên xưng: Cha, Con và Thánh Thần. Thế thì, ý nghĩa của lời tuyên xưng ấy, như thế nào?” Cả lớp đều lặng thinh. Tôi bèn thay đổi, bằng câu khác dễ hiểu hơn: “Mỗi lần làm dấu thánh giá, các em nghĩ gì?” Cả lớp lại im lặng. Thứ im lặng dễ sợ, tôi hằng ngao ngán.

Bỗng một chú bé con, xem ra có vẻ thông minh, giơ tay nói: “Dạ thưa, cũng giống như một cụ già, một tay hảo hán và con chim trắng!” Tôi cảm thấy hỡi ôi khi nghe em nói, nhưng không dám trách móc ai, vì biết chắc có người lớn nào đó đã nhét vào đầu em, hình ảnh Ba Ngôi Đức Chúa, thật thiếu xót. Thật nghèo nàn.

Nhiều người lớn, lâu nay vẫn mang trong đầu những hình ảnh sai lạc, có được từ tranh vẽ hoặc ảnh tượng, do nghệ nhân nào đó, nghĩ ra. Sự huyền nhiệm về Ba Ngôi Đức Chúa -còn gọi là Nhiệm tích Đức Chúa Trời Ba ngôi – hàm ngụ trong câu nói của em bé, chứng tỏ là ta đã hình-tượng-hóa Cha, ConThánh Thần Chúa theo kiểu cách không xứng hợp, và không diễn tả đủ ý nghĩa của nhiệm tích.

Không ai hình dung ra được một ảnh hình chính xác, về Đức Kitô. Các bức ảnh ta có, cũng như ngôn từ ta sử dụng để nói về Ba Ngôi Đức Chúa, phần lớn đều do những suy nghĩ rút từ sự tin tưởng, mà ta hằng bồi đắp; hơn là, chân lý chung cuộc, về Đức Chúa.

Sự thật về Ba Ngôi Đức Chúa, lúc nào cũng đầy tràn sự sung mãn vượt trên các danh xưng ta đặt cho Ngài; và, siêu thăng ở trên mọi ý niệm triết học, ta suy diễn. Nhận thức đặc biệt, mà ta tập trung mừng kính hôm nay để mừng Chúa Ba Ngôi, là trọng tâm ý thức giúp ta nhận biết Đức Chúa là ai? Ba Ngôi là gì?

Các tín hữu Hội thánh tiên khởi, phải mất 400 năm mới nhận biết được lý lẽ: tại sao Đức Giê-su luôn đề cập đến tương quan Ngài vẫn có, với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Các tín hữu phấn đấu lắm, mới hiểu được lý do tại saotheo cung cách nào Đức Chúa có tới 3 diện mạo, mà lại hiện hữu trong cùng chỉ một hữu thể.

Ba Ngôi yêu thương sống động chỉ như Một. Ba Ngôi vẫn hành xử như Một. Và, cộng đoàn Dân Chúa, đã cảm nhận được bản chất của Ba Ngôi Đức Chúa, qua các chỉ dẫn cho ta biết ngôi vị của Đức Chúa rõ ràng “cùng đồng đều”, “cùng thực tiễn” “cùng vĩnh hằng”, như nhau.

Các tín hữu tiên khởi, đã thẩm định được “tại sao” Đức Chúa lại có đến Ba Ngôi. Định được như thế, là nhờ có suy tư và kinh nghiệm, rằng: tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một thách thức của Tình thương. Cộng đoàn tiên khởi nhận thức rất rõ bản chất nòng cốt của Đức Chúa, không phải là một ý niệm suông; hoặc, một nguyên tắc cứng ngắc; nhưng là tương quan sống động. Và, các tín hữu hiểu ra rằng: họ được mời gọi để tháp nhập vào tương quan này.

Những gì là sự thật đối với tín hữu tiên khởi, cũng là chân lý cho chúng ta, hôm nay. Và chân lý ấy, là như thế này: Đức Chúa đã tạo dựng, cứu độ và bảo bọc thế giới con người. Ngài luôn tìm cách gặp gỡ chúng ta để kêu mời chúng ta tháp nhập vào tương quan sinh động của Ngài. Tức là kết hợp với tình yêu thương của Ngài.

Làm như thế, Ngài đem đến cho ta giá trị cao quý nhất. Đồng thời, hành động của Ngài hối thúc chúng ta san xẻ lời mời gọi gửi đến những người mà ta vẫn gặp gỡ trong cuộc đời. Thử hỏi, còn gì ưu ái hơn? Có gì quý trọng hơn lời mời gọi ấy? Có vị thần linh nào như Đức Chúa không?

Cũng nên thêm một điều: nếu các tương quan trong đời người, được đưa vào trọng tâm tương quan giữa Ba Ngôi Đức Chúa; và, nếu chúng ta biết chấp nhận lời mời tháp nhập vào tương quan của Ba Ngôi Đức Chúa, thì mọi tương quan ta có với mọi người, cũng sẽ mang ý nghĩa của tình thương yêu, nòng cốt. Có như thế, chúng ta sẽ không bị tách lìa khỏi tương quan lòng mến của Đức Chúa, nhờ vào niềm tin yêu ta có. Và nhờ vậy, chúng ta mới trở thành người con ngoan, mới được làm môn đệ dấu yêu, của Ba Ngôi Đức Chúa.

Cuối cùng, có am hiểu thấu đáo ý nghĩa của lễ hội mừng kính Ba Ngôi Đức Chúa hay không; và, am hiểu đến mức độ nào, điều này còn tùy thái độ của ta, có quan tâm bày tỏ tương quan mật thiết với người khác không. Và, cũng tùy theo tương quan ta thực hiện, có mang tính xã hội, thân mật và chuyên môn, không? Có đượm mầu sắc dân gian, hoặc quốc tế hay không?

Mỗi khi làm bất cứ việc gì, để thiết lập tương quan mới cho tốt đẹp, hãy nhớ đến những tương quan lâu nay gãy đổ. Hãy tiếp tay, hàn gắn giúp đỡ họ. Hãy tái tạo, tình yêu sâu thẳm và dồi dào cho họ.

Một cách chí tình hơn, hãy vui hưởng các tương quan tốt đẹp, ta đang có. Bởi, ta vừa khám phá ra chân lý nền tảng này, là: lễ Ba Ngôi Đức Chúa là lễ hội đem lại cho ta những tâm tình thân thương, đầy khích lệ. Tâm tình này, các thánh đã hơn một lần khẳng định:

“Đức Chúa đã thương yêu loài người đến độ Ngài phú ban Con Một Ngài, cho ta. Ngài không chỉ ban Con Một Ngài mà thôi, nhưng cả Thánh Thần của Con Một Ngài, đã được kết thành nơi hình hài Đức Kitô. Thánh Thần Chúa ở trong ta, để ta kêu lên:“Abba! Lạy Cha! để biểu tỏ tương quan Ba Ngôi Đức Chúa, là: Cha, Con và Thánh Linh.”

Chúng ta có hiểu được điều ấy không? Chúng ta có cổ vũ tương quan này không? Và, chúng ta có trân trọng lẫn nhau không? Đó chính là tinh thần của lễ hội hôm nay.

Trong tâm tình cảm và thong những điều vừa diễn-tả, cũng nên ngâm nga lời thi-ca, rằng:

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,

Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.

Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi,

Niềm uất hận của một thời lưu-lạc.”

(Thâm Tâm – Dang Dở)

Sương có rơi, trời có lạnh, nay lòng anh đã bình-thản lại rồi. Bình thản hơn, khi anh lại nhận ra được tình Chúa thương-yêu hết mọi người, như Ba Ngôi Đức Chúa vẫn yêu-thương nhau suốt mọi thời, thật vĩnh cửu. Và, tình thương nơi Ba Ngôi sẽ còn dàn trải mãi đến muôn người, trong mọi chiều.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

CHÚA THÁNH THẦN VỚI NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

CHÚA THÁNH THẦN VỚI NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

Thánh Phaolô dạy : Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ. Thật vậy,

Chỉ có một Thiên Chúa,

Chỉ có một Đấng trung gian

Giữa Thiên Chúa và loài người,

Và cũng là người thật, Đức Giêsu Kitô,

Đấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người.

(I Tm 2,4-6)

như vậy, mạc khải đã khẳng định tuyệt đối : mọi người được ơn cứu độ là nhờ Đức Giêsu Kitô mà thôi, không có ơn được cứu độ ngoài trung gian duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đáng Cứu độ nhân loại . Ta tin vào Chúa Kytô , ta tin mình đươc cứu độ , còn số phận dân ngoại ?

Giáo lý của Công đồng Vatican II nói về dân ngoại :

Sau cùng, những ai chưa lãnh nhận Phúc âm cũng được an bài bằng nhiều cách để thuộc về dân Thiên Chúa” (Lumen gentium, số 16)

Điều nói trên (hoạt động của Thánh Thần và ơn Phục Sinh) không phải chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng cho tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn. Thưc vậy, Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực sự là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào Mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi” (Gaudium et Spes, số 22, Bản dịch của Giáo Hoàng học viện).

Rõ ràng Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người Kitô hữu thì Chúa Thánh Thần cũng hoạt động nơi người chưa biết Chúa Kitô để họ có khả năng tham dự Mầu Nhiệm Phục Sinh, để họ được ơn cứu độ.

Cũng vậy, đối với các  tôn giáo ngoài Kitô Giáo

Những kẻ đang tìm kiếm Chúa trong bóng tối và qua ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Ngài cũng không xa họ, bời vì chính Ngài ban cho họ sự sống, hơi thở và tất cả mọi sự (x. CvTđ 17,25-28), và vì là Đấng Cứu Thế, Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi (x 1 Tm 2,4). Thực thế, những kẻ vô tình không nhận biết Phúc âm  của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu độ” (Lumen Gentium, số 16).

Từ xưa tới nay, người ta nhận thấy nơi nhiều dân tộc khác nhau một cảm thức về quyền lực tiềm ẩn trong vòng chuyển biến của sự vật và trong những biến cố của đời người, đôi khi cảm thấy cả sự nhìn nhận một vị thần Linh Tối Cao hay một Người Cha. Cảm thức và sự nhìn nhận đó làm cho cuộc sống họ thấm nhuần ý nghĩa tôn giáo. Phần các tôn giáo có liên quan mật thiết với tiến bộ văn hóa thì cố gắng giải đáp những vấn đề trên bằng những ý niệm cao siêu và bằng thứ ngôn ngữ ngày càng tinh tế… Giáo hội công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiếu điểm khác nhau với chủ trương mà giáo Hội duy trì, nhưng cũng đem lại ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi mọi người” (Tuyên ngôn Nostra Aetate. Số 2, Bản dịch của Giáo Hoàng học viện).

Rõ ràng Giáo Hội Chúa Kitô rất tôn trọng các tôn giáo ngoài Kitô Giáo. Ơn Chúa hoạt động trong các tôn giáo đó. Đối với các tín hữu theo các tôn giáo đó, trước Công Đồng vatican II, thần học  vẫn nghĩ rằng nếu họ sống tốt lành theo tiếng nói lương tâm ngay thật của họ, họ được ơn cứu độ vì vô tri bất khả thắng, Công Đồng vatican II xem những người thuộc tôn giáo đa thần là “kẻ tìm kiếm Thiên Chúa qua ngẫu tượng” (Lumen Gentium, số 16), Thiên Chúa hiện diện nơi họ.

Công Đồng không giải thích ơn cứu độ làm sao có trong các tôn giáo ngoài Kitô Giáo.

một số thần học gia đưa ra lý thuyết Đức Kitô hiện diện trong các tôn giáo (théorie de la présence du Christ dans les religions) do Chúa Thánh Thần hoạt động .

Dĩ nhiên các truyền thống tôn giáo của nhân loại là hiện tượng xã hội và đâm rễ sâu trong xã hội,  ảnh hưởng tới xã hội và đã tạo ra những hình thức xã hội nữa, tạo ra thể chế xã hội.  Tôn giáo  lấy con người làm cứu cánh, giúp con người sống tốt dẹp  trừ ra có tôn giáo  tạo ra giai cấp , một thứ định mệnh khắc nghiệt cho con người.

Nhờ sự hiện diện của Chúa Kytô và hoạt động của Chúa Thánh Thần  các tôn giáo có giá trị cứu độ  nghĩa là Chúa Kitô hoạt động, Chúa Thánh  Thần ban ơn mặc dầu họ không có kinh thánh mạc khải, không có Tin Mừng của Chúa Kitô. Đây là các tôn giáo (ngoài Kitô Giáo) có ơn cứu độ không có Phúc Âm. Không thể nói các tôn giáo đó có ơn cứu độ không cần Chúa Kitô. Nhà thần học Karl Rahner gọi là “Kitô giáo vô danh” (Christianisme anonyme).

Như vậy, Chúa Kitô thật  là Đấng cứu độ cho mọi người. Ngài chết cho mọi người và sống lại để ban phát ơn cứu độ cho mọi người.

Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Chúa Kitô mang lấy vật chất, Ngài “thần linh hóa vũ trụ”, Ngài mang lấy bản tính nhân loại, Ngài thu hút tất cả mọi người. Trong Mầu nhiệm Phục Sinh, cường độ nhập thể và nhập thế của Ngài không còn bị cản trở. Dầu mầu nhiệm Nhập thể và Phục Sinh mới được thực hiện sau này, nhưng đã ảnh hưởng tới tất cả trong quá khứ của vũ trụ và đã hướng tất cả về mầu nhiệm đó. Do đó, chỉ có một lịch sử do Thiên Chúa và cũng do con người tạo ra.

Chúa Kitô mạc khải về Chúa Thánh Thần như là Đấng Bảo Trợ (Paraklêtos) khác ( x. Gioan  14,16) , từ Chúa Cha gửi đến  (Gioan  14,16) và chính Chúa Kytô cũng là Đấng Bảo trợ  (I Gioan 2,1) trước tòa Thiên Chúa. Chính Ngài dạy các môn đệ ở lại thành cho đến khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần  (x. Lc 24,49 ; CvTđ  1,8) rồi hãy thi hành lời Ngài dạy :” Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt  28,19-20) .

Sách Tông đồ Công vụ đã cho ta thấy hoạt động của Chúa Thánh Thẩn khi hiện xuống : biến đổi các Tông đồ thành người  học thức (nói tiếng lạ),  giảng dạy có khả năng thu hút lòng người , can đảm. làm phép lạ .

Thành công đầu tiên đưa khoảng ba nghìn người Do Thái vào Đạo Chúa, rồi đến người Samaria,  và các dân ngoại .  Ngày nay, sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại vẩn còn đó, nhất là giúp cho người có Đạo sống Đạo :  phải trung thành với lời Chúa Kytô dạy tức lá  nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn .

Lời nguyện trong tháng sáu nầy : Giáo Hội cầu nguyện cho những người thất nghiệp và cầu cho lòng tin ở Âu châu(Xin cho châu Âu  tìm lại được nguồn cội  Kitô giáo của mình nhở chứng từ Đức tin của người tín hữu ). Cụ thể, người Âu châu vẫn tin Chúa nhưng họ không tới nhà thờ ….Xem đá banh thì khán già chật ních sân trường , năm nào cũng vậy , thế mà đến nhà thờ thì không ! Giá mà không có n.t để các linh mục coi xứ phải làm tạm thời một nhà gần sân banh rồi dùng loa mời người  ta đến sân banh hãy đến dự lễ , trước giờ vào sân ……Gương của các nhà truyền giáo cầu nguyện cho công việc truyền giáo rồi đi đến nơi giúp người ta hiểu Chúa , Không đến với họ, chác chắn chẳng có ai trở lại ?  Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con đang ở Việt Nam giáo dân đến nhà thờ ngày Chúa nhật có nơi đật tới 120% (có người đi hai lễ) đừng rơi vào cảnh ngày Chúa nhật ở Âu châu .

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh