Vấn đề Hỏa Ngục

Vấn đề Hỏa Ngục

TRẦM THIÊN THU

Hỏa Ngục có thật, không là chuyện mơ hồ hoặc bịa đặt để hù dọa. Hỏa Ngục như một Biển Lửa, lửa-của-các-loại-lửa, cực mạnh và vô cùng khủng khiếp, không như lửa bình thường ở thế gian này. So với Lửa Hỏa Ngục và Lửa Luyện Hình, lửa thế gian chỉ như “gió mát” mà thôi. Đừng cứng lòng mà phải khốn nạn đời đời!

Bài chia sẻ này gồm vài chứng cớ mạnh mẽ và khủng khiếp mà các thánh nhân đã được mặc khải và trực tiếp cảm nghiệm thực tế về nơi ở ngùn ngụt lửa của ma quỷ. Các mặc khải này đã được Giáo hội chuẩn nhận vì hoàn toàn phù hợp với các giáo huấn trong Phúc Âm. Kitô hữu không buộc phải tin các mặc khải tư, nhưng các mặc khải về Hỏa Ngục này khả dĩ giúp chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn và sâu sắc hơn về sự bí ẩn và thực tế của Hỏa Ngục.

Tháng Mười Một, tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, là dịp thuận tiện để chúng ta cùng kiểm tra và xác định lại đức tin của chính mình. Hãy chú ý các “bí quyết” mà ma quỷ áp dụng để cám dỗ và khiến chúng ta phạm tội. Mưu ma chước quỷ thật đáng sợ!

1. THÁNH TIẾN SĨ TERESA ÁVILA (1515–1582)

Thánh nữ Teresa Ávila là nhà thần bí, tiến sĩ Giáo hội. Bà cho biết:

“Một hôm, khi tôi đang cầu nguyện, tôi thấy chính mình trong một lúc, không biết thế nào, rõ ràng chìm vào Hỏa Ngục. Tôi biết đó là Ý Chúa muốn tôi thấy nơi mà ma quỷ đang sẵn sàng đối với tôi, tôi đáng như vậy vì tội của tôi. Thời gian kéo dài một lúc, nhưng có vẻ như tôi không thể quên được dù tôi còn sống nhiều năm sau đó. Lối vào có vẻ hẹpdài, giống như lò lửa, rất tối tămchật chội. Nền như đầy nước, bùn lầy, hôi thối, kinh tởm, và đầy sâu bọ gớm ghiếc. Phía cuối là khoảng trống rỗng như khoang trống ở trên vách tường, tôi thấy mình bị nhốt giam ở đó. Không có gì khoác lác trong lời tôi nói đâu”.

“Với những gì tôi cảm thấy lúc đó, tôi không biết bắt đầu từ đâu nếu tôi phải diễn tả nơi đó. Rất khó giải thích. Tôi cảm thấy lửa trong linh hồn tôi nhưng tôi không thể diễn tả. Đau khổ thể lý của tôi không thể chịu nổi. Tôi chịu các đau khổ nhất trong đời, như các thầy thuốc diễn tả là teo gân khi tôi bị tê liệt, không thể so sánh với các dạn bệnh khác, ngay cả những gì tôi nói, Satan bắt tôi phải chịu. Nhưng những điều đó chẳng là gì so với những gì tôi cảm thấy lúc đó, nhất là khi tôi thấy không có sự tạm ngưng hoặc kết thúc cực hình”.

“Các cực hình đó không là gì so với nỗi thống khổ của linh hồn tôi, một cảm giác áp bức, ngột ngạt, đau nhói, cùng với cảm giác vô vọng và tàn khốc, tôi không biết mô tả như thế nào. Nếu tôi nói rằng linh hồn tiếp tục bị xé ra khỏi thân xác thì cũng chưa chính xác, vì điều đó ngụ ý nói sự hủy diệt sự sống bằng tay của người khác, nhưng ở đây, chính linh hồn tự xé ra từng mảnh. Tôi không thể mô tả lửa hoặc nỗi vô vọng trong lòng, hơn cả mọi sự giày vò và đau khổ. Tôi chưa thấy ai bị hành hạ như tôi, tôi cảm thấy mình đang cháy và bị xé ra từng mảnh. Tôi lặp lại rằng đó là lửa trong lòng, và nỗi vô vọng là cực hình khủng khiếp nhất.

“Khi vào nơi khủng khiếp đó, không còn hy vọng được thoải mái, tôi không thể ngồi hoặc nằm, không có khoảng trống nào hết. Tôi như bị đặt vào khoảng không trên vách tường, nhìn mình rất khủng khiếp, xung quanh tôi là những tiếng rên la. Tôi không thể hít thở. Không có ánh sáng, chỉ có bóng tối dày đặc. Tôi không biết mô tả nó như thế nào. Dù không có ánh sáng, nhưng mọi thứ có thể gây đau khổ bằng cách bị thấy mà vô hình”.

“Lúc đó, Đức Mẹ không cho tôi thấy Hỏa Ngục nữa. Sau đó, tôi có một thị kiến khủng khiếp nhất, trong đó tôi thấy hình phạt của các tội lỗi. Các hình phạt nhìn rất khủng khiếp, nhưng vì tôi không còn đau đớn nữa, nỗi kinh hoàng của tôi cũng không còn ghê gớm…”.

“Tôi quá đỗi hoảng sợ khi thấy thị kiến đó, nhìn như nơi mà tôi thấy sáu năm trước, sức nóng tự nhiên của cơ thể khiến tôi rùng mình mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Vì thế, trong mọi đau khổ mà tôi có thể phải chịu, tôi luôn nhớ rằng mọi đau khổ trên thế gian này không là gì cả. Có vẻ chúng ta than phiền vô cớ. Tôi lặp lại rằng thị kiến này là một trong các điều thương xót của Thiên Chúa. Đó là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, vì điều đó đã hủy diệt nỗi lo sợ của tôi về sự rắc rối và sự mâu thuẫn của thế gian, vì điều đó đã làm tôi đủ mạnh mẽ để chống lại, tôi tạ ơn Đức Mẹ là Đấng giải thoát tôi khỏi những nỗi đau khổ kinh khủng và lâu dài như vậy”.

2. NỮ TU JOSEFA MENENDEZ (1890–1923)

Nữ tu Josefa Menendez, người Tây Ban Nha, qua đời năm 1923 ở tuổi 33, là một trong các nhà thần bí “nổi tiếng” của thế kỷ XX. Nữ tu này có cuộc đời ngắn ngủi nhưng chịu nhiều đau khổ, và được mặc khải trong đa phần cuộc đời, gom lại trong cuốn “The Way Of Divine Love” (Cách Thức của Tình Chúa). Bà đã được đưa tới Hỏa Ngục để chứng kiến và cảm nhận nỗi thống khổ. Nữ tu Josefa buộc lòng phải viết về Hỏa Ngục, vì bà làm vậy chỉ là làm theo ý muốn của Chúa. Đây là chứng cớ:

“Linh hồn tôi rơi vào vực thẳm, rộng bao la, không thấy đáy… Rồi tôi bị đẩy vào một hồ lửa, giống như ở giữa các tấm ván đang cháy, các đinh nhọn sắc và các thanh sắt nóng đỏ như muốn đâm vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy như thể chúng muốn tuốt lưỡi tôi ra nhưng không thể. Cực hình này khiến tôi đau đớn đến nỗi mắt tôi như không còn nhìn thấy. Tôi nghĩ đó là vì lửa cháy, bừng cháy… Không móng tay nào của tôi không đau đớn, người ta không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để cho bớt đau nhức, không thể thay đổi tư thế, vì cơ thể có vẻ như bị dát mỏng và bị gấp đôi lại. Các âm thanh khó phân biệt và lời phỉ báng không ngừng, dù chỉ trong một thoáng. Mùi hôi thối kinh tởm làm ngột ngạt và làm hư hại mọi thứ, như thể mùi thịt thối rữa bị cháy, pha lẫn với mùi hắc ín (nhựa đường) và lưu huỳnh… Đó là sự pha tạp mà không thể so sánh với bất cứ mùi gì khác trên thế gian này… Mặc dù các cực hình này rất rùng rợn, không thể chịu đựng nổi, không thể mô tả được… Nhữ gì tôi viết ra đây chỉ là bóng mờ nhạt của những gì mà linh hồn phải chịu, không lời nào có thể mô tả nỗi đau khổ khốc liệt như vậy” (ngày 4-9-1922).

“Đêm nay, tôi được đưa tới một nơi hoàn toàn tăm tối Xung quanh tôi có bảy hoặc tám người. Tôi chỉ có thể thấy họ qua ánh lửa. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Một người nói: Chúng ta phải rất cẩn thận kẻo bị phát hiện, vì chúng ta dễ bị phát hiện lắm”.

“Ma quỷ nói: Hãy xúi giục họ bất cẩn… nhưng hãy ở phía sau để không bị phát hiện… cứ dần dần rồi họ sẽ chai lì, chúng ta sẽ kéo nó về phía xấu xa. Hãy cám dỗ những người khác tham lam, ích kỷ, giàu có mà không cần làm việc, dù đúng luật hay không. Hãy kích thích người ta khoái nhục dụcham vui. Hãy làm cho thói xấu làm mờ mắt họ… Với những người khác… hãy vào trái tim họ… nên biết khuynh hướng của tâm hồn họ…! Hãy làm cho họ yêu thích… yêu thích say đắm…! Hãy làm việc hết sức… đừng nghỉ ngơi… đừng thương hại! Cứ để họ say mê ăn uống! Như vậy sẽ dễ cho chúng ta… Hãy để họ tiếp tục tiệc tùngchè chén. Ham vui là cửa ngõ để chúng ta đến với họ…” (ngày 3-2-1923).

“Tôi thấy vài linh hồn sa Hỏa Ngục, trong số đó có một em gái mới 15 tuổi, nó nguyền rủa cha mẹ đã không dạy nó kính sợ Thiên Chúakhông cho nó biết có Hỏa Ngục. Nó cho biết rằng đời nó ngắn ngủi nhưng đầy tội lỗi, vì nó đã chiều theo mọi thứ mà thể xác và đam mê đòi hỏi…” (ngày 22-3-1923).

“Hôm nay, tôi thấy rất nhiều người phải vào lò lửa… Họ có vẻ như người trần gian và một quỷ hét lớn: Thế giới đã chín muồi cho ta thu hoạch…! Ta biết rằng cách tốt nhất để bắt giữ các linh hồn là khuấy động lòng ham vui của người ta… Hãy ưu tiên tôi… Tôi trước mọi người… không có sự khiêm nhường đối với tôi! Hãy cứ để tôi vui thỏa… Với dạng này chắc chắn chúng ta chiến thắng… và chúng sẽ xuống Hỏa Ngục” (ngày 4-10-1923).

3. THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)

Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặcngột ngạt khủng khiếp, mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng, căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ bángnguyền rủa hèn hạ. Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan. Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội. Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội.

“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó, vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục”.

“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy. Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục. Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất.

4. FATIMA – BA TRẺ THẤY HỎA NGỤC

Năm 1917, trong thời gian Thế Chiến I, Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ tại Fatima, Bồ Đào Nha, vào các ngày 13 từ tháng Năm tới tháng Mười. Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ đã cho ba trẻ em này thấy Hỏa Ngục. Đây là chứng cớ:

“Đức Mẹ xòe tay ra, những tia sáng như xuyên thấu thế gian, chúng tôi thấy như là biển lửa. Chìm trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn trong dáng vóc con người, như than hồng trong suốt, mọi thứ như đồng đen hoặc hoặc bóng lộn, lơ lửng trong lửa cháy, lửa bốc cao đưa người ta lên như đám khói, rồi lại rơi xuống như những đốm lửa trong ngọn lửa lớn, không trọng lượng hoặc mất thăng bằng, ở giữa những tiếng la hétkêu thanđau khổtuyệt vọng, điều đó làm chúng tôi sợ hãi và phát run vì hãi hùng. Cảnh tượng đó khiến chúng tôi bật khóc, như thể người ta nghe được vậy”.

Ma quỷ có thể phân biệt bằng cách nhìn chúng giống như những con vật lạ lẫm, gây hoảng sợ, cự tuyệt, đen đủi và trong suốt như những cục than hồng. Chúng tôi sợ hãi và xin Đức Mẹ cứu giúp, Đức Mẹ nói với chúng tôi bằng giọng buồn: “Các con đã thấy Hỏa Ngục, nơi các linh hồn tội lỗi phải vào. Như vậy, khi các con đọc Kinh Mai Côi, hãy đọc câu này sau mỗi chục kinh: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.

Chúng ta cùng sám hối và chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” [Tv 50 (51):3-6]. Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” [129 (130):1-4].

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

From: bichlanthivu & Anh chị Thụ Mai gởi

Việt Nam tiến tới báo chí tư nhân trong giới hạn?

Việt Nam tiến tới báo chí tư nhân trong giới hạn?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-10-25

RFA

namnguyen10252014.mp3

000_Hkg7508717-305.jpg

Một sạp báo ở Hà Nội, ảnh minh họa chụp hôm 26 tháng 6 năm 2012.

AFP

Báo chí tư nhân và tự do báo chí là những vấn đề gây dị ứng với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Tuy rằng Hiến pháp 2013 và các Hiến pháp trước đó đều xác định người dân có quyền tự do báo chí. Trước xu thế hội nhập thế giới, Việt Nam có thể nới lỏng ở chừng mực nào đó đối với vấn đề cho phép tư nhân hoạt động báo chí hay không?

Một hướng đi mới?

Ít người tin là Việt Nam sẽ có thể sớm có báo chí tư nhân, chưa nói đến tự do báo chí. Nhưng báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về báo chí của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho thấy đang hé mở một hướng đi mới.

Thời báo Kinh tế Việt Nam bản tin trên mạng ngày 10/10/2014 trích nội dung báo cáo theo đó, Điều 25 Hiến pháp 2013 qui định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Tuy vậy, cho đến nay báo chí tự nhân không được thừa nhận ở Việt Nam và một Chỉ thị của Thủ tướng ban hành vào năm 2006 khẳng định: “Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức.”

Tôi nghĩ sẽ phải thay đổi bởi vì xu hướng thế giới không thể chấp nhận mập mờ về chuyện tự do báo chí được.
-Nhà báo Thanh Thảo

Sự tréo cẳng ngỗng này giữa qui định của Hiến pháp và thực tế đời sống pháp luật ở Việt Nam được Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Hà Nội giải thích:

“Bây giờ Việt Nam có một qui trình không bình thường, Hiến pháp thì bị luật treo, luật thì bị nghị định thông tư treo, cứ treo, kéo dài. Vấn đề đặt ra ở đây, những Luật gọi là nhân quyền ở Chương II của Hiến pháp phải triển khai mà bây giờ triển khai rất chậm, kể cả Luật Biểu tình cũng nói đi nói lại mãi cũng không có; Luật Lập hội cũng treo ở đó, rồi quyền được cung cấp thông tin rồi tự do báo chí… Tất cả những thứ đó nếu được triển khai trong một thể chế như thế này mà người dân có được những quyền đó thì dĩ nhiên cũng có được những phương tiện rất tốt để góp phần bóc tách những người tham nhũng, tham ô, thiếu năng lực ra khỏi bộ máy công quyền…”

Việt Nam hiện có 900 cơ quan truyền thông, báo chí với 40.000 nhân viên và 30% các nhà báo ở Việt Nam là đảng viên. Về nguyên tắc tất cả báo, đài đều thuộc quyền quản lý nhà nước. Theo báo cáo giám sát của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội: “Hiện nay mới có 277 trong số 838 cơ quan báo in tự cân đối thu chi tài chính. Còn lại đại bộ phận cơ quan báo chí được Nhà nước bao cấp toàn bộ hoặc một phần về nhân sự, trụ sở, trang thiết bị, in ấn và được phát hành tới các đơn vị hành chính, các tổ chức chính trị, xã hội cũng bằng ngân sách nhà nước.”

baochi-305.jpg

Một sạp báo ở Sài Gòn

Đối với vấn đề mở rộng làng báo nhà nước để có thêm thành phần tư nhân, Nhà báo Thanh Thảo báo Thanh Niên từ miền Trung Việt Nam phát biểu:

“Tôi nghĩ sẽ phải thay đổi bởi vì xu hướng thế giới không thể chấp nhận mập mờ về chuyện tự do báo chí được. Việt Nam muốn hội nhập sâu hơn với thế giới thì bắt buộc cũng phải thế thôi, có điều nó thay đổi chậm hay nhanh. Trong thực tế lại là một chuyện khác, họ vẫn để hình thức tư nhân núp bóng mù mờ, những ai trong cuộc mới hiểu chứ bên ngoài chẳng ai để ý cứ tưởng báo nhà nước nhưng không phải. Nhất là báo trên mạng thì nhà nước ít thôi còn là tư nhân núp bóng, nhà nước cũng biết thừa nhưng vẫn để cho hoạt động bình thường. Thế thì tại sao lại không có qui chế để cho chính danh, nếu họ làm sai thì phạt xử nó chuẩn hơn, có luật đàng hoàng chứ không phải ra ngoài.”

Tạp chí của tổ chức tư nhân?

Bên cạnh tình trạng núp bóng để hoạt động báo chí như nhà báo Thanh Thảo vừa nêu, ở Việt Nam đang có một thực tế là đã có một dạng báo chí in ấn và trang mạng điện tử không mang tính núp bóng nhưng lại sai về hình thức chủ quản và cũng có những tạp chí được xem là của tổ chức tư nhân.

Trong thực tế lại là một chuyện khác, họ vẫn để hình thức tư nhân núp bóng mù mờ, những ai trong cuộc mới hiểu chứ bên ngoài chẳng ai để ý cứ tưởng báo nhà nước nhưng không phải.
-Nhà báo Thanh Thảo

Báo cáo giám sát của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho biết, do sự thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước một số cơ quan cấp tổng cục đã chuyển thành tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, nhưng những đơn vị này vẫn tiếp tục xuất bản những ấn phẩm báo chí chuyên ngành của các tổng cục nhà nước trước đây. Thí du như Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam.

Thời báo Kinh tế Việt Nam trích nội dung báo cáo giám sát còn ghi nhận một thực tế là đã có khoảng 10 trường đại học dân lập đã xuất bản tạp chí. Việt Nam hiện có hơn 80 trường đại học tư thục, trường đại học có vốn đầu tư nước ngoài và hàng chục viện, trung tâm nghiên cứu do tư nhân thành lập. Các tổ chức như thế có nhu cầu xuất bản tạp chí để thông tin, công bố và trao đổi về kết quả nghiên cứu.

Trong tương lai Luật Báo chí sẽ phải sửa đổi để thực thi Hiến pháp 2013, Ủy ban Giáo dục Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội khuyến nghị mở rộng đối tượng được thành lập cơ quan báo chí, bên ngoài các đối tượng theo qui định của luật hiện hành. Vẫn theo thông tin này, quan điểm của Ủy ban là khá thoáng, theo đó ngay cả những tổ chức xã hội nghề nghiệp của Việt Nam hoạt động hợp pháp tại Việt Nam cũng được thành lập cơ quan báo chí hoạt động rộng rãi trong mọi lĩnh vực thông tin, kể cả thông tin chính trị-xã hội.

Theo một số nhà phân tích, có báo chí tư nhân chưa chắc sẽ có tự do báo chí, đặc biệt dưới các chính thể độc tài. Nhưng báo chí tư nhân lại là điều kiện cần để thực hiện tự do báo chí và trong trường hợp Việt Nam cởi một gút thắt nhỏ mở rộng số đối tượng được phép ra báo cũng sẽ là một tín hiệu vui.

Giáo dân Thái Hà biểu tình: “Các anh hãy ra Hoàng Sa, Trường Sa mà giữ đất, giữ đảo đừng có cướp đất của người dân”

Giáo dân Thái Hà biểu tình: “Các anh hãy ra Hoàng Sa, Trường Sa mà giữ đất, giữ đảo đừng có cướp đất của người dân”

Dòng Chúa Cứu Thế,

VRNs (25.10.2014) – Hà Nội –  “Các anh hãy ra Hoàng Sa, Trường Sa mà giữ đất, giữ đảo đừng có cướp đất của người dân”. Đó là những lời bà con giáo dân Giáo xứ Thái Hà đã nói với công an, an ninh khi những người này mang barie và chặn bà con không cho vào khu vực đất Hồ Ba Giang lúc sáng nay 25.10.2014.

Sau thánh lễ sáng, lúc 8 giờ 30 khoảng 50 bà con giáo dân Thái Hà đã tập trung tiến ra mảnh đất Hồ Ba Giang mà nhà cầm quyên đang thi công trái phép để biểu tình, yêu cầu chính quyền tôn trọng và trả lại mảnh đất cho Giáo xứ và Nhà Dòng.

Trên tay cầm biểu ngữ “Trả Lại Đất Cho Giáo Xứ Thái Hà”. Đoàn người vừa đi vừa hát kinh Hòa Bình “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa….”

Đoàn người sắp thành hàng đôi đi bên lề đường. Trong lúc đi, có vài bà cụ nhắc người trong đoàn: “Chú ý đi hàng đôi. Chúng ta phải trật tự, không làm gì cản trở giao thông”. Nhiều người dân tò mò đứng xem. Có người mở cửa nhà coi đoàn biểu tình đi qua.  Họ nói với nhau: “Đất Hồ Ba Giang, giáo dân họ đòi chính quyền trả lại cho nhà thờ”.

Khu vực đất Hồ Ba Giang cách nhà thờ Giáo xứ khoảng 300 m, khi đoàn biểu tình đến trước khu vực mảnh đất đã có nhiều dân phòng, công an, anh ninh đứng sẵn và dùng barie chặn lối vào khu đất.

Bà con giáo dân yêu cầu được vào bên trong khu đất nhưng không được đáp ứng. Vài viên an ninh nói với bà con: “chỗ này không được vào” “đề nghị không được gây rối an ninh trật tự. Yêu cầu bà con giải tán…”

Đoàn người biểu tình vẫn hát vang lời kinh Hòa bình. Giáo dân nói với các viên an ninh rằng: “Các anh hãy ra Hoàng Sa, Trường Sa mà giữ đất, giữ đảo đừng có cướp đất của người dân”. “Đất của nhà thờ hãy tôn trọng và trả lại cho nhà thờ. Đây là mảnh đất mà cha ông chúng tôi đã bỏ xương máu ra để có, các anh đừng có ăn cướp, chia chác nhau”

Không biết trả lời những cầu hỏi của bà con giáo dân ra sao, nhiều an ninh chỉ đứng nhìn. Một viên an ninh cầm chiếc loa nhỏ cho một viên an ninh khác đọc bản văn “quyết định quy hoạch đất” của nhà cầm quyền,  trong đó có đoạn “quyết định này được nhiều người dân ủng hộ” và đề nghị bà con giả tán. Người này đọc cách rời rạc, vô hồn. Ông ta đọc được một lúc thì dừng, nhưng viên an ninh đứng đằng sau chỉ đạo: đọc tiếp, đọc tiếp đi..

Bà con giáo dân tiến ra khu đất Hồ Ba Giang

Bà con giáo dân tiến ra khu đất Hồ Ba Giang

"Trả lại đất Hồ Ba Giang cho Giáo xứ Thái Hà", "Phản đối chính quyền xâm chiếm đất đai tôn giáo"

“Trả lại đất Hồ Ba Giang cho Giáo xứ Thái Hà”, “Phản đối chính quyền xâm chiếm đất đai tôn giáo”

IMG_8719

Đất Hồ Ba Giang của tổ tiên để lại và chúng tôi là những người nối tiếp, chúng tôi phải bảo vệ

Công an, an ninh dùng barie ngăn cản bà con vào khu vực đất Hồ Ba Giang

Công an, an ninh dùng barie ngăn cản bà con vào khu vực đất Hồ Ba Giang

Anh Trần Đức Mạnh là một người trong đoàn biểu tình nói rằng: “Đất hồ Ba Giang là đất của nhà thờ, của Giáo xứ nhưng chính quyền đã biến chỗ đó chia chác nhau. Chính quyền trắng trợn và quá đáng. Họ dùng mọi thủ đoạn để cướp đất của Nhà thờ. Nhà thờ có đầy đủ giấy tờ và chính quyền cũng đã phải công nhận điều đó nhưng họ vẫn trắng trợn muốn cướp để chia chác. Tôi lên tiếng và đi biểu tình như thế này họ cũng không từ bỏ thủ đoạn nào để làm khó khăn tôi. Tôi không sợ vì điều đó. Họ đã từng đánh gẫy chân tôi và làm khó gia đình, làm khó công ăn việc làm của tôi, nhưng tôi sẽ lên tiếng cho sự thật này”

Nghĩ tới công sức của cha ông để lại, nghĩ tới tương lai cho con cháu là suy nghĩ của một giáo dân trong Giáo xứ Thái Hà. Chị này chia sẻ: “Đất của nhà Chúa và có giấy tờ. Chúng tôi phải bảo vệ đất của nhà Chúa để đời con đời cháu chúng tôi còn có chỗ thờ. Công an, công nhân đang hung hổ làm như là đang cướp. Chúng tôi không biết họ đang làm gì nữa.”

Nguyễn Thị Dung, thuộc Gx. Nam Dung nói rằng: “Tôi là con người có đức tin. Tôi hay đến đây để đi lễ vì đây là đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, là trung tâm Hành Hương… Tài sản là tài sản của Giáo hội. Bao đời cha ông đã để lại, chúng tôi là những giáo dân kế tiếp theo các ngài. Tôi rất bất bình khi sống trong một xã hội mà không biết tôn trọng, trân trọng sự thật”

Bà con giáo dân đứng trước lối vào khu đất khoảng hơn gần 2 giờ đồng hồ sau đó ra về. Đi qua khu vực vừn hoa – khu đất của Giáo xứ mà chính quyền định phân lô bán nhưng sau đó phải làm vườn hoa, bà con thấy người ta lắp rạp tổ chức đám cưới trên khu vược này, một người nói: Không thể phân lô bán được, phải làm vườn hoa, nhưng chúng lại biến vườn hoa thành khu vực cưới hỏi. Bà con nói với nhau, bao lâu chính quyền chưa trả lại đất cho Giáo xứ thì sẽ tiếp tục xuống đường để cho mọi người biết cách hành xử như kẻ cướp của nhà cầm quyền.

Cha Giuse Nguyễn Văn Phượng, Chính xứ Giáo xứ Thái Hà kiêm Phó bề trên Tu viện DCCT Hà Nội cho biết, mặc dù Giáo xứ và Nhà Dòng đã lên tiếng, đã gửi đơn kiến nghị khẩn cấp yêu cầu dừng ngay việc thi công trái phép trên mảnh đất Hồ Ba Giang nhưng họ vẫn tiếp tục thi công ngày đêm. Họ đã không tôn trọng chúng tôi và tôn trọng ý kiến, nguyện vọng của bà con giáo dân.

Trong thánh lễ kết thúc Tháng Hoa kính Đức Mẹ tối nay vào lúc 19 giờ và thánh lễ cầu nguyện cho Công lý và hòa bình vào lúc 20 giờ Chúa Nhật ngày mai, Giáo xứ Thái Hà và Tu Viện sẽ cầu nguyện cách đặc biệt cho nhà cầm quyền biết tôn trọng và trả lại mảnh đất tại khu vực Hồ Ba Giang cho Giáo xứ để sử dụng vào mục đích tôn giáo.

IMG_8731

Viên an ninh đọc “Quyết định quy hoạch liên quan đến khu đất Hồ Ba Giang”

Viên an ninh đọc "Quyết định quy hoạch liên quan đến khu đất Hồ Ba Giang"

Viên an ninh (người đứng ngoài cùng, phía trái) chỉ đạo: đọc tiếp, đọc tiếp khi người kia chỉ đọc được một đoạn thì ngừng và tỏ ra mệt mỏi

Viên an ninh (người đứng ngoài cùng, phía trái) chỉ đạo: đọc tiếp, đọc tiếp khi người kia chỉ đọc được một đoạn thì ngừng và tỏ ra mệt mỏiIMG_8790

VRNs tại Hà Nội

Nhà báo Anh: Bằng chứng đường 9 đoạn của TQ là vô căn cứ

Nhà báo Anh: Bằng chứng đường 9 đoạn của TQ là vô căn cứ

Hoài Vũ, phóng viên RFA
2014-10-25

RFA

hoaivu10252014.mp3

Hayton_305.jpg

Nhà báo Anh Bill Hayton tại Washington DC, Mỹ. Ảnh minh họa chụp năm 2010.

Screen capture

Nhà báo Anh Bill Hayton, một trong những chuyên gia nghiên cứu Biển Đông, khẳng định bằng chứng lịch sử về đường chín đoạn của Trung Quốc về chủ quyền tại vùng biển này là vô căn cứ. Ông đưa ra phát biểu trên trong buổi giới thiệu cuốn sách mới về Biển Đông có tên: The South China Sea: The struggle for power in Asia tại đại học Georgetown ở Washington DC, Mỹ, hôm 23/10.

Đơn phương tuyên bố chủ quyền

Trung Quốc lâu nay đơn phương tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ khu vực Biển Đông. Một trong những bằng chứng lịch sử mà họ đưa ra là bản đồ gồm đường 9 đoạn, hay còn gọi là đường lưỡi bò, ôm gần như trọn Biển Đông, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Đường lưỡi bò này còn chồng lấn lên vùng biển chủ quyền trong khu vực đặc quyền kinh tế tính theo luật pháp quốc tế của một số nước Đông Nam Á.

Tuy nhiên, độ chính xác của đường 9 đoạn này ra sao? Theo nhà báo Bill Hayton vào thập niên 30 khi tàu chiến Pháp cập cảng ở Trường Sa và bắn 21 phát súng tuyên bố chủ quyền ở đây, Trung Quốc do không thể điều quân ra khu vực này nên đã tìm đến các nhà làm bản đồ để khẳng định chủ quyền.

Bill Hayton cho biết đến tận năm 1933, Trung Quốc còn không biết có những đảo gì, tên gì ở Biển Đông. Vào năm 1935, Trung Quốc mới bắt đầu đặt tên cho 132 đảo lớn nhỏ ở khu vực này và phần lớn là dịch ra từ tên tiếng Anh trên bản đồ quốc tế.

Lần đầu tiên vào năm 1936, đường 9 đoạn được đưa ra. Bản đồ đó sinh ra là hoàn toàn do hiểu lầm.
-Nhà báo Bill Hayton

Người đưa đoạn lưỡi bò hình chữ U đến với Trung Quốc là một người có tên là Bạch Mi Sơ. Bill Hayton cho hay ông Bạch là một nhân sĩ yêu nước và ham mê địa lý. Năm 1930, Bạch Mi Sơ từng vẽ bản đồ miêu tả lại điều được gọi là “sự sỉ nhục quốc gia” của Trung Quốc, trong đó chỉ ra những phần lãnh thổ của nước này đã bị đánh cắp. Vào năm 1936, ông Bạch vẽ bản đồ với đường lưỡi bò ôm trọn gần như toàn bộ Biển Đông. Ông Bạch từng nói rằng khu vực nằm trong đường lưỡi bò là “những nơi mà ngư dân của Trung Quốc kiếm sống và hiển nhiên là nó thuộc về chủ quyền của chúng ta”.

Nhà báo Bill Hayton phát biểu: “Lần đầu tiên vào năm 1936, đường 9 đoạn được đưa ra. Bản đồ đó sinh ra là hoàn toàn do hiểu lầm.”

Bill Hayton cho rằng sở dĩ có bản đồ như trên cũng như các bản đồ về sự sỉ nhục quốc gia mà Trung Quốc đưa ra là do sự hiểu lầm về quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á trước đó. Ông nói các học giả Trung Quốc thời đó đánh đồng việc các nước thiết lập quan hệ thương mại với việc cống nạp với tư cách là nước chư hầu cho Trung Quốc.

001_GR368325.jpg

Bản đồ Biển Đông với đường lưỡi bò do TQ đơn phương công bố nhằm chiếm trọn Biển Đông, vị trí dàn khoan HD 981 và dàn khoan thứ hai do TQ thiết lập hồi tháng 6 năm 2014.

Nhà báo Hayton lấy ví dụ về ghi chép liên quan tới quan hệ giữa Trung Quốc và Hà Lan. Theo ghi chép của Trung Quốc thì Hà Lan khi đó là một vương quốc và phải cống nạp cho vương triều Trung Quốc và nhún nhường trước nhà vua ở đây. Tuy nhiên, thực tế là Hà Lan là một nước cộng hoà và việc cống nạp thực chất là trao đổi để được quyền giao thương ở quốc gia đông dân và rộng lớn là Trung Quốc.

Hayton từ đó đặt câu hỏi, có lẽ các nhà học giả Trung Quốc hiểu lầm rằng các nước Đông Nam Á là chư hầu của họ khi cũng phải “cống nạp” cho vương triều.

Đường lưỡi bò được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đưa lên bản đồ vào năm 1947. Lúc này, nó có 11 đoạn. Qua thời gian, hai đoạn được bỏ đi. Nó chứng tỏ Trung Quốc không hề có một cơ sở pháp lý cụ thể nào cho đường lưỡi bò này. Về pháp lý mà nói, đường 9 đoạn không định nghĩa biên giới trên biển của Trung Quốc.

Vậy đường 9 đoạn có ý nghĩa gì? Bill Hayton giải thích:

“Một học thuyết đường chín đoạn chỉ ra những hòn đảo nào thuộc về Trung Quốc và cũng có một lý giải khác là đường chín đoạn là biên giới vùng biển chủ quyền của Trung Quốc, có nghĩa là bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông.”

Biển Đông thuộc về bên nào?

Để hoàn thành cuốn sách về Biển Đông, Bill Hayton đã mất hơn hai năm rưỡi đào sâu các tài liệu lịch sử. Theo ông, người đầu tiên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là một người Anh, khi đó là để khai thác phân chim. Ngoài Trung Quốc, các nước như Việt Nam, Malaysia, Đài Loan, Philippines cũng tuyên bố một phần chủ quyền ở Biển Đông, tuy nhiên không nước nào đi xa như Trung Quốc trong việc khẳng định quyền sở hữu khu vực thậm chí chồng lấn lên hải phận của nước khác theo luật quốc tế.

Câu hỏi đặt ra cuối cùng là, vậy Biển Đông thuộc về bên nào. Câu trả lời là không ai biết cả.

Liệu có cách nào giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông hay không? Bill Hayton cho rằng khó có thể có một giải pháp hợp lý cho tất cả các bên, vì rằng không một bên nào chịu nhượng bộ hoặc đưa ra những khẳng định có bằng chứng rõ ràng. Cũng không bên nào sẵn lòng thống nhất về một quy chuẩn về pháp lý. Trung Quốc, một bên lớn trong xung đột này chỉ muốn đối thoại song phương trong khi các nước khác muốn đối thoại đa phương.

Bill Hayton cho rằng xung đột ở Biển Đông thỉnh thoảng sẽ lại căng thẳng song ông bác bỏ ý kiến về một cuộc chạy đua vũ trang lớn trong khu vực này. Theo nhà báo, Trung Quốc đã bỏ xa các đối thủ về lĩnh vực vũ khí.

Bill Hayton cũng có một cuốn sách khác về Việt Nam có tên Vietnam – the rising dragon. Cuốn sách mới về Biển Đông của ông vừa được xuất bản. Bill Hayton gia nhập BBC News từ năm 1998. Ông có một năm làm báo ở Việt Nam và gần đây nhất, ông ở Myanmar trong một năm vào năm 2013.

Cuốn sách “The South China Sea: The struggle for power in Asia” tuy còn nhiều điều cần bàn luận thêm nhưng ít ra cũng cho thấy ngày càng nhiều hơn sự quan tâm của quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực truyền thông. Theo nhà báo Bill Hayton thì ông rất vất vả khi tìm nguồn tư liệu từ Việt Nam do đó khó khăn này đã cản trở ông rất nhiều khi viết cuốn sách.

Có lẽ nhà nước Việt Nam nên xem xét việc cung cấp thông tin cho bất cứ ai muốn tìm hiểu về chủ quyền Biển Đông nhằm tránh sự đáng tiếc vì không nắm bắt cơ hội chứng minh chủ quyền của mình trước quốc tế.

10.000 người ‘nhiễm virus Ebola’

10.000 người ‘nhiễm virus Ebola’

Số ca nhiễm virus Ebola đã vượt quá 10.000 người, với 4.922 ca tử vong, theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

Chỉ có 27 ca xảy ra bên ngoài ba nước bị ảnh hưởng nặng nhất: Sierra Leone, Liberia và Guinea.

Ngoài 10 trường hợp, số tử vong còn lại đều xảy ra ở ba nước này.

Mali là nước mới nhất có người chết, một bé gái hai tuổi.

Theo WHO, Liberia vẫn là nước bị tác động nặng nề nhất, với 2.705 người đã chết.

Trong khi đó tại Hoa Kỳ, hai y tá bị nhiễm virus trong lúc chăm sóc bệnh nhân Thomas Eric Duncan đã được tuyên bố chữa khỏi.

Cô Nina Phạm, 26 tuổi, đã gặp Tổng thống Barack Obama tại Nhà Trắng, vài giờ sau khi ra viện.

Hải Phòng: Truy sát kinh hoàng, nhiều người thương vong

Hải Phòng: Truy sát kinh hoàng, nhiều người thương vong
October 24, 2014

Nguoi-viet.com

HẢI PHÒNG (NV)Chỉ vì xích mích nhỏ trong lúc ăn tiệc có tổ chức đánh bài, hai nhóm thợ hồ đã truy sát nhau dẫn đến nhiều thương vong, khiến người dân một phen khiếp vía.

Theo Người Lao Ðộng, sự việc xảy ra vào tối ngày 23 tháng 10, 2014, trước cửa nhà ông Nguyễn Quang Thịnh, chủ thầu xây dựng, ở đường Thiên Lôi, phường Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng, khi hai nhóm thợ xây xảy ra xô xát lúc ăn tiệc hoàn thành công trình, thì bất ngờ xảy ra vụ truy sát kinh hoàng với nhau, khiến 2 thợ xây tử vong, 3 người khác trọng thương.


Vụ truy sát khiến người dân khiếp vía. (Hình: Người Lao Ðộng)

Nguyên nhân ban đầu được xác định, trong lúc ăn uống và chơi đánh bài đã xảy ra mâu thuẫn giữa 2 thợ hồ. Bị đánh, hung thủ cùng em vợ quay lại tấn công khiến 5 người thương vong.

Tin tức tường thuật lại thì khoảng 19 giờ cùng ngày, Hà Văn Mười, Nguyễn Hữu Nhật, và Bùi Công Danh, (là bạn Mười) đến nhà ông Thịnh để lấy tiền công làm thuê. Khi đến nhà thì gặp ông Thịnh đang ngồi ăn tối cùng với 5 người khác gồm: Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Xuân Chi, Phạm Hồng Phúc, Trần Thanh Cương và Tạ Hữu Lộc và một số người nữa.

Sau khi lấy 1.8 triệu đồng tiền công thì Mười và Doanh ra về, còn ông Nhật ở lại nhà ông Thịnh ăn cơm cùng mọi người. Còn Mười và Doanh đi nhậu đến 20 giờ 30 cùng ngày thì quay trở lại nhà ông Thịnh.

Khi quay lại, mọi người đã ăn xong và có một số người đang ngồi đánh bài ăn tiền. Ông Mười vào tham gia đánh bài thì xảy ra mâu thuẫn và bị nhóm người ở đây đánh lại. Mười chạy bộ ra khỏi nhà ông Thịnh và hẹn lát nữa sẽ quay lại.

Bị đánh, Mười đã điện thoại cho em vợ là Trần Văn Ðức (24 tuổi) ở Vĩnh Niệm, Lê Chân, Hải Phòng, bảo bị mấy thằng thợ xây đánh và nhờ Ðức đến giải quyết hộ.
Ngay sau đó Ðức chở Mười quay lại nhà ông Thịnh tạo ra cuộc truy sát kinh hoàng.

Hai nạn nhân tử vong là Ngọc Tuấn (26 tuổi), và Tuấn Anh (26 tuổi), do bị nhiều vết thương nặng nên đã gục chết ngay tại chỗ.

Ngoài ra, nhiều thợ hồ khác bị thương, trong đó có ông Trần Thanh Cương (23 tuổi), bị một vết thương khá nặng tại vùng cổ sau gáy, Nguyễn Xuân Chi (21 tuổi), Tạ Hữu Lộc ( 29 tuổi) cùng trên địa bàn Hải Phòng và một số người chưa rõ lai lịch đang được cấp cứu tại bệnh viện Hữu Nghị Việt- Tiệp, Hải Phòng.

Tại nơi xảy ra vụ đâm chém, công an thu giữ một dao bầu dài khoảng 30cm, một giáo tre đầu bịt sắt nhọn được cho là của nhóm hung thủ vứt lại.

Một công an điều tra quận Lê Chân cho biết, qua quá trình khám nghiệm tử thi, ghi nhận thông tin từ các nạn nhân cho thấy, các nạn nhân đều bị đâm một nhát duy nhất vào các vùng nguy hiểm đến tính mạng.

Trong một diễn biến khác, tại buổi làm việc với công an quận Lê Chân, hai nhà báo trong khi thu thập thông tin về vụ việc trên, đã bị một cán bộ công an quận Lê Chân có hành vi cản trở, hành hung.

Trao đổi với báo chí, ông Trần Tiến Quang, phó trưởng công an quận Lê Chân lập lờ “ghi nhận ý kiến phản ánh của nhà báo và sẽ cho xác minh lại vụ việc và trả lời các cơ quan báo chí sau (?!).” (Tr.N)

Sài Gòn: Hàng trăm học sinh nghỉ học do nhiễm bệnh ‘lạ’?

Sài Gòn: Hàng trăm học sinh nghỉ học do nhiễm bệnh ‘lạ’?
October 24, 2014

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) Hàng trăm học sinh tại một trường tiểu học bị nhiễm bệnh có triệu chứng giống nhau phải xin nghỉ học. Thế nhưng, ngành y tế Sài Gòn vẫn chưa biết bệnh “lạ” là gì (?!).

Theo Dân Trí, liên tục trong 4 ngày qua, tại trường tiểu học Nguyễn Khuyến ở phường Ðông Hưng Thuận, quận 12, Sài Gòn đã ghi nhận hàng trăm học sinh xin nghỉ học vì có biểu hiện sốt, đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn, chóng mặt,…



Bác sĩ đang thăm, khám cho học sinh. (Hình: Dân Trí)

Phúc trình của Trung Tâm Y Tế Dự Phòng quận 12, trong vòng 4 ngày từ ngày 21 đến 24 tháng 10 có tổng cộng 145 học sinh đã nghỉ học.

BS Nguyễn Ðăng Tuyến, phó giám đốc Trung Tâm Y Tế Dự Phòng quận 12, cho biết, chiều ngày 21 tháng 10, trường Nguyễn Khuyến đã báo với Khoa Kiểm Soát Dịch Bệnh của trung tâm có 27 học sinh than mệt, sốt xin nghỉ học giữa giờ và nhà trường đã mời phụ huynh đến để đưa các em đi khám bệnh. Ngay sau đó, trung tâm đã đến trường để ghi nhận và hướng dẫn thực hiện phương pháp khử khuẩn bằng Cloramin.

Ngày 24 tháng 10, đoàn Sở Y Tế Sài Gòn bao gồm Trung Tâm Y Tế Dự Phòng, Phòng Nghiệp Vụ Y, Chi Cục An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm, cùng một số bác sĩ của bệnh viện Nhi Ðồng 1 và bệnh viện Nhiệt Ðới Sài Gòn làm việc với trường Nguyễn Khuyến để đánh giá và tìm nguyên nhân.

Tuy nhiên, sau khi làm việc với nhà trường, Bác Sĩ Nguyễn Trí Dũng, giám đốc Trung Tâm Y Tế Dự Phòng, cho biết: “Cơ quan chức năng đang hướng đến nguyên nhân nghỉ học hàng loạt của học sinh có thể do một loại bệnh truyền nhiễm qua tiếp xúc, nhưng vì diễn tiến lây lan khá chạm nên không phải lây qua đường hô hấp. Do không có triệu chứng gì rõ ràng nên tạm thời kết luận là nhiễm siêu vi và tiếp tục hỏi phụ huynh tình hình khám bệnh của các cháu để theo dõi thêm.”

Ðồng thời, ông Dũng yêu cầu Trung Tâm Y Tế Dự Phòng quận 12 ngay trong chiều 24 và sáng 25 tháng 10 phải có điều tra tình hình dịch tễ ở 145 trẻ, lấy mẫu phân của trẻ để gửi Viện Pasteur Sài Gòn xét nghiệm.

Bà Trịnh Thị Kiều Trang, hiệu trưởng trường tiểu học Nguyễn Khuyến cho biết, số học sinh nghỉ như trên là vô cùng bất thường. Bởi trung bình trường chỉ có khoảng 5-11 học sinh vắng mặt trong ngày. Hiện nhiều phụ huynh vẫn chưa cho các em đến trường vì quá lo lắng. (Tr.N)

Dân chủ hoá: Một tiến trình đầy nhọc nhằn

Dân chủ hoá: Một tiến trình đầy nhọc nhằn

Nguyễn Hưng Quốc

21.10.2014

Mới đây, trong chuyến thăm Đức, khi được hỏi về vấn đề dân chủ ở Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố: nhân quyền, tự do và dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược được và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế ấy.

Lời phát biểu ấy, thật ra, có hai cái sai.

Thứ nhất, dân chủ không hẳn đã là một xu hướng không thể đảo ngược. Trước đây, giới nghiên cứu Tây phương hay nói đến xu hướng dân chủ hoá trên thế giới như những làn sóng. Làn sóng dân chủ thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 với 29 quốc gia được dân chủ hoá; làn sóng thứ hai diễn ra từ cuối đệ nhị thế chiến đến đầu thập niên 1960 với 36 quốc gia được dân chủ hoá; và làn sóng dân chủ thứ ba từ đầu thập niên 1970 đến đầu thập niên 1990 với trên 100 quốc gia được dân chủ hoá trong đó có nhiều quốc gia thuộc khối cộng sản cũ. Từ đầu thập niên 2010, với sự sụp đổ của các chế độ độc tài ở một số quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi, một số học giả vội vã cho rằng làn sóng dân chủ lần thứ tư đã xuất hiện, tuy nhiên, sau đó, hầu như mọi người đều lẳng lặng rút lại cái tên gọi đầy hoan hỉ ấy.

Có điều cần chú ý là sau mỗi làn sóng dân chủ ấy lại có những cuộc thoái trào. Trong làn sóng dân chủ lần thứ nhất, có lúc các quốc gia dân chủ chỉ còn 12; trong làn sóng thứ hai có lúc chỉ còn 30. Làn sóng dân chủ thứ ba cũng vậy; sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Nga và Đông Âu, không phải quốc gia nào cũng thẳng tiến trên con đường dân chủ hoá. Phần lớn các quốc gia tuyên bố độc lập sau khi Liên bang Xô Viết bị giải thể đều trở thành độc tài.

Ở vào thời điểm hiện nay, các học giả cũng ghi nhận nhân loại đang ở giữa cuộc thoái trào của dân chủ. Theo tổ chức Freedom House vào năm 2013, sự phát triển của dân chủ cơ hồ dừng lại, hơn nữa, xu hướng phản dân chủ cơ hồ tăng nhanh. Trong hầu hết các quốc gia Trung Đông đã trải qua cuộc cách mạng mùa xuân, hầu như chỉ có Tunisia là tương đối ổn định, còn Ai Cập và các nước khác thì hoặc rơi vào cảnh hỗn loạn hoặc quay ngược lại chế độ độc tài. Nước Nga được dân chủ hoá dưới thời Boris Yeltsin, đến thời Vladimir Putin, lại biến thành độc tài. Ở Nigeria, Pakistan, Kenya, Venezuela, Bangladesh và Thái Lan cũng như Thổ Nhĩ Kỳ, dân chủ rất yếu ớt và thường xuyên bị đe doạ.

Có hai nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc thoái trào của dân chủ:

Một, nền dân chủ ở các quốc gia ấy còn non yếu. Nói chung, một hệ thống chính trị dân chủ phải tôn trọng cả quyền tự do chính trị lẫn các quyền tự do dân sự. Phần lớn các quốc gia mới dân chủ đều chỉ thực hiện được yếu tố thứ nhất: quyền tự do chính trị, ở đó, dân chúng được tự do bầu cử để chọn một người hoặc một đảng nào đó lên cai trị. Tuy nhiên, họ lại chưa có tự do dân sự, trong đó, quan trọng nhất là tự do ngôn luận và tự do tham gia vào chính trị dưới các hình thức lập hội, thậm chí, lập đảng để đối lập lại chính quyền.

Hai, trong các quốc gia thoái trào dân chủ ấy, một mặt, giới cầm quyền tham lam muốn thâu tóm mọi quyền lực vào tay mình; mặt khác, dân chúng chưa quen với dân chủ, chưa có văn hoá dân chủ nên dễ dàng bị khiếp phục. Có thể nói, cả hai, giới lãnh đạo lẫn dân chúng, đều chưa quen với các trò chơi dân chủ. Ở các quốc gia Trung Đông, sau cách mạng mùa Xuân, bất cứ người nào lên nắm quyền cũng đều có tham vọng loại trừ đối lập; ở Thái Lan, ngược lại, các phe đối lập lại chỉ khăng khăng muốn xoá ván bài bầu cử trước đó để làm lại từ đầu theo hướng có lợi cho mình.

Nhưng dù với nguyên nhân gì thì, trên phạm vi thế giới, xu hướng dân chủ không phải là không thể đảo ngược được. Nếu không có văn hoá dân chủ và không có quyết tâm của mọi người, những chế độ dân chủ mới manh nha rất dễ quay ngược lại thời kỳ độc tài.

Nhấn mạnh đến nguy cơ thoái trào của dân chủ chủ yếu là để mọi người cảnh giác: dân chủ không những tự nhiên mà có. Nó là kết quả của những cuộc đấu tranh lâu dài và quyết liệt. Hơn nữa, khi đã xuất hiện, dân chủ không tồn tại mãi. Nó cần được nuôi dưỡng. Có thể nói quá trình dân chủ hoá là một con đường hết sức nhọc nhằn và luôn luôn đối diện với nguy cơ bị bóp chết tức tưởi.

Nhưng cái sai thứ hai trong lời phát biểu của Nguyễn Tấn Dũng là, trên thực tế, chính quyền Việt Nam lâu nay vẫn hành xử như một ngoại lệ trên thế giới. Trên ngôn ngữ tuyên truyền, họ vẫn nói đi nói lại những khẩu hiệu dân chủ, tự do và nhân quyền, nhưng trên thực tế, họ vẫn hành xử như những tên độc tài. Họ vẫn tổ chức đều đặn các cuộc bầu cử Quốc hội nhưng dân chúng lại không được tự do ứng cử, bầu cử và cũng không có quyền kiểm soát quá trình kiểm phiếu: Tất cả đều nằm trong tay của Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản. Hơn nữa, chính bản thân Quốc hội, gồm tuyệt đại đa số là các đảng viên, chỉ là những con rối của đảng mà thôi.  Ở Việt Nam cũng không có các quyền tự do dân sự: tất cả các quyền tự do căn bản như tự do ngôn luận, tự do biểu tình, tự do lập hội đều bị cấm cản.

Việt Nam không hề có dân chủ. Hầu như ai cũng biết điều đó. Điều đáng nói hơn là chính quyền Việt Nam, ngoài những lời hứa hẹn suông, đều không hề có thiện chí xây dựng các tiền đề cho dân chủ để khi dân chủ được thiết lập, nó có thể vững mạnh. Tiền đề ấy nằm trong hai yếu tố: Một, xã hội dân sự, và hai, văn hoá dân chủ. Hai, nhưng thật ra, chỉ là một: văn hoá dân chủ chỉ thực sự nảy nở trong các hoạt động thuộc xã hội dân sự. Khi cấm các hoạt động của xã hội dân sự, chính quyền cũng bóp chết cả triển vọng xây dựng văn hoá dân chủ.

Nói tóm lại, khi tuyên bố Việt Nam không phải là ngoại lệ của xu thế dân chủ hoá, Nguyễn Tấn Dũng chỉ lặp lại những điều ông và đảng ông từng làm: nói dối.

Y tá Nina Phạm khỏi Ebola, gặp tổng thống Obama trước khi về nhà

Y tá Nina Phạm khỏi Ebola, gặp tổng thống Obama trước khi về nhà

Ông Obama trao cho cô Nina một cái ôm tại Tòa Bạch Ốc không lâu sau khi cô rời khỏi bệnh viện của Viện Y tế Quốc gia (NIH) bên ngoài thủ đô Washington.

Ông Obama trao cho cô Nina một cái ôm tại Tòa Bạch Ốc không lâu sau khi cô rời khỏi bệnh viện của Viện Y tế Quốc gia (NIH) bên ngoài thủ đô Washington.

Y tá Mỹ gốc Việt Nina Phạm đã xuất viện sau khi được chữa khỏi virus Ebola và đã gặp gỡ Tổng thống Barack Obama.

Ông Obama trao cho cô một cái ôm tại Tòa Bạch Ốc không lâu sau khi cô rời khỏi bệnh viện của Viện Y tế Quốc gia (NIH) bên ngoài thủ đô Washington.

Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Josh Earnest nói rằng Tổng thống không hề lo lắng về bất cứ nguy cơ nào khi ôm nữ y tá.

Nina Phạm là y tá tại một bệnh viện ở thành phố Dallas bang Texas, nơi điều trị bệnh nhân đầu tiên được chẩn đoán nhiễm Ebola ở Mỹ. Cô nói với báo giới và những người ủng hộ trong sáng thứ Sáu rằng cô biết ơn về sự phục hồi của mình.

Bác sĩ Anthony Fauci, giám đốc Viện Dị ứng và Các bệnh truyền nhiễm, ôm cô Nina Pham khi cô chuẩn bị rời khỏi NIH.

Bác sĩ Anthony Fauci, giám đốc Viện Dị ứng và Các bệnh truyền nhiễm, ôm cô Nina Pham khi cô chuẩn bị rời khỏi NIH.

Bác sĩ Anthony Fauci thuộc NIH hôm thứ Sáu khẳng định nữ y tá gốc Việt đã được chữa khỏi Ebola. Ông cho biết cô không được cấp bất kỳ loại thuốc thử nghiệm nào trong khi điều trị tại NIH và nói chưa rõ vì sao một bệnh nhân Ebola lại hồi phục còn bệnh nhân kia thì chưa. Ông cho biết tuổi trẻ và sức khỏe tốt của cô có thể đã giúp cô đánh bại virus.

Giới chức y tế cho biết nữ y tá Amber Vinson, đồng nghiệp của Nina Phạm đang được điều trị Ebola, không còn virus ở mức có thể nhận biết được. Nhưng họ chưa định ngày để Vinson xuất viện ở Đại học Emory thành phố Atlanta.

Cũng trong ngày thứ Sáu, giới chức y tế thành phố New York cho hay nạn nhân Ebola thứ ba, bác sĩ Craig Spencer, đang trong tình trạng ổn định. Bác sĩ Spencer, vừa trở về Mỹ sau khi chữa trị bệnh nhân Ebola ở Guinea, trở thành người đầu tiên được chẩn đoán nhiễm virus ở thành phố New York vào hôm thứ Năm.

Trong một diễn biến khác hôm thứ Sáu, Tổ chức Y tế Thế giới cho biết ca nhiễm Ebola đầu tiên của Mali, được xác nhận vào ngày thứ Năm, đã tiếp xúc với nhiều người khi du hành khắp đất nước bằng xe buýt.

Trước đó trong ngày thứ Sáu, Tổ chức Y tế Thế giới cho biết họ có kế hoạch bào chế hàng trăm ngàn liều vắc-xin Ebola để có sẵn đến nửa đầu năm 2015.

Buồn và lo vì có vị bộ trưởng quốc phòng quá dớ dẩn

Buồn và lo vì có vị bộ trưởng quốc phòng quá dớ dẩn

Chuacuuthe.com

VRNs (24.10.2014) – Hà Nội – Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quanh Thanh vừa dẫn đầu một đoàn 13 tướng lĩnh sang phụng bái Bắc Triều từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10 năm 2014. Đoàn gồm các ông: Trung tướng Bế Xuân Trường – Phó tổng Tham mưu trưởng; Trung tướng Lương Cường – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Trung tướng Dương Đức Hòa – Tư lệnh Quân khu 2; Trung tướng Phương Minh Hòa – Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân; Trung tướng Võ Trọng Việt – Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; Trung tướng Phạm Hồng Hương – Tư lệnh Quân khu 3; Chuẩn đô đốc Phạm Hoài Nam – Phó tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân; Thiếu tướng Phan Văn Tường – Phó tư lệnh Quân khu 1; Trung tướng Vũ Văn Hiển – Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng;Thiếu tướng Vũ Anh Văn – Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc; Thiếu tướng Vũ Chiến Thắng – Cục trưởng Cục Đối ngoại – Bộ Quốc phòng; Thiếu tướng Ngô Quang Liên – Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng.

Thực tế không biết họ đã bàn thảo với nhau những gì nhưng qua lời khai báo của Phùng Quang Thanh trong bài trả lời phỏng vấn các nhà báo bên lề cuộc họp Quốc hội hôm 20 tháng 10 năm 2014 thì không người Việt Nam nào không khỏi buồn lo, căm tức.

Nhà báo Vũ Đông Hà nhận xét:

Phùng Quang Thanh đã chính thức hùa theo Bắc Kinh để xem những vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông không còn là của Việt Nam nữa mà là khu vực chung của các quốc gia cùng khai thác. Ông ta “mượn” Đài Loan, Philippines, Malaysia để biện hộ cho những hành vi xâm lược của Bắc Kinh trên biển Đông. Phùng Quang Thanh đã trở thành người phát ngôn Việt Nam tích cực nhất cho chủ trương tằm ăn dâu của Bắc Kinh: “biến vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam thành vùng tranh chấp, biến vùng tranh chấp thành vùng khai thác của Trung Quốc, và sau cùng biến vùng khai thác chính thức thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc””.

Mở đầu buổi phỏng vấn, Phùng Quang Thanh tí tởn khoe: “Chúng tôi sang thăm và làm việc thì bạn đón tiếp rất nhiệt tình, trọng thị, chu đáo và rất hữu nghị”.

Cái hoạt cảnh “nhử kẹo” này Thanh chẳng cần khoe thì tướng Nguyễn Trọng Vình, đại sứ lâu năm ở Trung Quốc cũng đã phác họa tử trước: “Chắc hẳn đoàn Bộ trưởng được đón tiếp trọng thị, khoản đãi hậu tình, có quà cáp đáng giá và được nghe những lời đường mật giả dối”.

Trả lời câu hỏi: “Thưa ông, trong các cuộc làm việc, hai bên có bàn về việc phía Trung Quốc đốc thúc nhiều hoạt động xây dựng trên khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng như chuyện giàn khoan đã xảy ra ít tháng trước không?” Thanh nói:

Chúng tôi có trao đổi là bây giờ phải giữ nguyên hiện trạng trên biển Đông và phải thực hiện cho đầy đủ DOC. Tinh thần, quan điểm chung là không mở rộng tranh chấp, không cắm mới vào những nơi mà các bên chưa cắm”.

Chết rồi! Ai đã cử Thanh sang Trung Quốc để lạy lục, cầu xin bọn chúng “giữ nguyên hiện trạng” chiếm biển, chiếm đảo của mình?

Chẳng nhẽ Thanh đành cúi đầu dâng bái trước cái hiện trạng biển đảo của ta đã bị xâm lăng, chiếm đoạt rất đau lòng ư?

Chẳng nhẽ Thanh không biết rằng chúng đã chiếm Hoàng Sa và đang tiếp tục lấn chiếm Trường Sa của ta ư?

Từ cuối năm ngoái, Quân đội Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động xây dựng và cải tạo đất trên nhiều rạn san hô và đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa. Hình ảnh mà vệ tinh Mỹ thu được gần đây cho thấy các hoạt động của Trung Quốc đã làm tăng diện tích Đá Chữ Thập hơn 11 lần, từ 0,08 km vuông thành 0,96 km vuông. Đá Chữ Thập của ta bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp từ năm 1988 giờ đã trở thành đảo lớn thứ 5 ở Biển Đông sau đảo Phú Lâm, đảo Đông Sa, đảo Linh Côn và đảo Tri Tôn. Trên Đá Chữ Thập Trung Quốc đã xây dựng bãi đậu trực thăng, bến cảng, một tòa nhà hai tầng và một nhà kính 500 mét vuông. Hai trăm binh sĩ Trung Quốc đang đồn trú tại đó. Sau sân bay trên đảo Phú Lâm, Trung Quốc sẽ xây sân bay Đá Chữ Thập.

Đá Chữ Thập được coi có vị trí chiến lược quan trọng ở Biển Đông, cách đảo Trường Sa Lớn của Việt Nam khoảng 110 km.

Nhẽ ra khi đàm phán Thanh phải nói: tạm thời giữ nguyên hiện trạng, không mở rộng tranh chấp, không làm phức tạp thêm tình hình, Thế cũng đã là nhún lắm rồi. Nhún tạm thời nhưng nhất định sẽ chờ thời cơ đòi lại chủ quyền toàn vẹn.

Trả lời câu hỏi: “Vậy Trung Quốc có đưa ra cam kết hay lời hứa nào về việc giữ nguyên hiện trạng không, thưa ông?” Thanh cho biết:

Hứa thì bạn không hứa nhưng nói chung hai bên đều thống nhất phải thực hiện DOC – nghĩa là không mở rộng, làm phức tạp thêm tranh chấp. Còn hiện nay trên biển, nói thật là các bên đều có xây dựng. Đài Loan cũng xây dựng, Philippines cũng tiến hành xây dựng đường băng, Malaysia có xây dựng và Việt Nam cũng có hoạt động xây dựng. Đều là tôn tạo, nâng cấp, mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo để đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, đảm bảo điều kiện sinh hoạt trên đảo”.

Sao lại lập lờ đánh lận con đen như vậy được? Sao lại hùm bà làng địch ta như vậy được! Tất cả như nhau ư? Tất cả đều được quyền tôn tạo để “tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo” ư? Nhân dân nào? Nhân dân hay thực dân? Lực lượng đóng quân nào? Đóng quân để giữ chủ quyền hay để xâm lăng?

Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh, đại biểu Quốc hội tỏ ra tỉnh táo khi ông nói:

Theo tôi, việc Trung Quốc cơi nới các đảo, xây dựng các công trình ở Trường Sa vừa rồi không phải vì mục đích kinh tế, cũng không phải vì mục đích nhân đạo, mà họ phục vụ mục đích và ý đồ độc chiếm biển Đông”.

Khi phóng viên bầy tỏ mối quan ngại sâu sắc qua câu hỏi: “Nhiều chuyên gia nêu ý lo ngại hướng xây dựng của Trung Quốc là để hình hành một căn cứ quân sự tấn công. Điều đó đe dọa mối an ninh hàng hải trong khu vực. Cảnh báo đó có đáng suy nghĩ, lo ngại?” thì Thanh lại cố tình bình thường hóa vấn đề: “Đó là các nhà nghiên cứu dự báo. Đương nhiên bên nào mà tiến hành xây dựng thì đó cũng là một căn cứ quân sự cả”.

Đó là dự báo của các nhà nghiên cứu, còn Thanh thì sao? Có đáng suy nghĩ, lo ngại? hay Thanh cho rằng địch xây căn cứ quân sự trên lảnh thổ mình là chuyện đương nhiên?

Nhảm nhí đến thế là cùng! Mù mờ đến thế là cùng!

Các hãng tin Trung Quốc thì tiết lộ:

Ngày 17/10, tại Bắc Kinh, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn đã cho biết: Hai bên đã đạt được ba nhân thức chung nguyên tắc về tiếp tục phát triển quan hệ giữa hai quân đội. Một là, thể theo phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, từng bước khôi phục và thúc đẩy quan hệ giữa hai quân đội phát triển lành mạnh. Hai là, tăng cường đoàn kết giữa hai quân đội, cung cấp sự bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản ở hai nước, bảo vệ sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Ba là, tuân thủ các nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng và hai nước Trung-Việt, phát huy vai trò tích cực vì xử lý thoả đáng vấn đề trên biển, giữ gìn cục diện hoà bình và ổn định”.

Thì ra, họ đến vời nhau chủ yếu là để: “tăng cường đoàn kết giữa hai quân đội, cung cấp sự bảo đảm vững chắc cho củng cố vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản ở hai nước”,

Đến nước này thì không thể còn nén chịu mà phải chửi thẳng vào mặt họ: “Chúng mày là lũ gian tặc, là tội đồ dân tộc, nếu chưa treo cổ ngay chúng mày lên được thì nhân dân cũng sẽ đời đời nguyền rủa chúng mày”.

Nếu Thường Vạn Toàn nói sai sự thật thỉ Phùng Quang Thanh phải nghiêm túc cải chính ngay để không bị dư luận khẳng định là thằng phản bội tổ quốc.

Cách đây mấy năm Nguyễn Phú Trọng đã chính thức ngỏ lời mời công an Trung Quốc sang đàn áp nhân dân ta, khi cần (Tìm đọc “Mấy nghi vấn đối với tuyên bố chung Việt Nam- Trung Quốc do ông Nguyễn Phú Trọng ký kết” trong thư viện online “www.nguyenthanhgiang.com”). Có phải nay anh ta, với cương vị Bí thư Quân ủy Trung ương, lại cử Phó Bí thư Quân ủy TW Phùng Quang Thanh mời Trung Quốc chuẩn bị sang chiến đấu với nhân dân Việt Nam để bảo vệ Đảng Cộng Sản Việt Nam!

Rõ ràng họ đang dụ voi về giầy mả tổ, chuẩn bị dâng giang sơn gấm vóc ta cho Tầu. Họ sẵn sàng lấy máu xương nhân dân ta chêm vững ngai vàng thống trị của họ (mà họ nhân danh Đảng).

Báo Quân đội Nhân dân thì đưa tin:

Chuyến thăm này (của Phùng Quang Thanh) nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên và bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị giữa nhân dân và Quân đội hai nước”.

Sao Phùng Quang Thanh lại ngồi với Thường Vạn Toàn để bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương? Có phải Quân đội Trung Quốc sẽ sung sướng được “quốc phòng” Việt Nam và quân đội Việt Nam sẽ phải đổ máu ra mà quốc phòng cho Trung Quốc?

Cầu hòa, cầu thân thì phải cử lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ, Ngoại giao … đi đàm phán chứ sao lại cử quân đội đi tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên. Ôm chặt lấy nhau thì còn tay nào cầm súng khi cần thiết.

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh dạy rằng: “Sinh ra bộ Quốc phòng là để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải quốc gia. Lẽ ra ông Bộ trưởng phải phân biệt rõ bạn, thù, ra sức tăng cường lực lượng quốc phòng về mọi mặt, luôn sẵn sàng chuẩn bị đối phó với tình hình xấu nhất theo tinh thần “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn” như dân tộc ta đã thực hiện”.

Không biết do phản bội tổ quốc hay vì quá non kém, ngu xuẩn mà Nguyễn Phú Trọng lại xuất tướng trong trường hợp này.

Nói về thao lược thì một người đàn bà Việt Nam làm thơ cũng biết khi bí phải ghểnh sỹ, còn tốt đầu phải để dành mà dú dí vô cung.

(Thơ Hồ Xuân Hương: “Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sỹ/ Chàng lừa thiếp đang khi thất ý/ Đem tốt đầu dú dí vô cung”).

Đằng nay, họ thấp cơ thua trí đàn bà thế này thì đúng như tướng Nguyễn Trọng Vĩnh lo ngại: “Có một ông Bộ trưởng Quốc phòng như thế thì việc mất biển, đảo và mất nước là khó tránh khỏi”.

Từ nay đến Đại hội ĐCSVN thứ XII còn những hơn một năm nữa. Trong khoảng thời gian này không biết cái cặp đôi Nguyễn Phú Trọng – Phùng Quang Thanh sẽ còn gây biết bao nguy hại cho đất nước.

Chúng tôi khẩn thiết kiến nghị: “Truất phế ngay Nguyễn Phú Trọng và Phùng Quang Thanh” .

Hà Nội 24 tháng 10 năm 2014 Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6, ngõ 235, đường Trung Văn                                                                                                      Quận Nam Từ Liêm – Hà Nội

Giáo xứ Thái Hà lại nóng

Giáo xứ Thái Hà lại nóng

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ
2014-10-24

000_Hkg5590233.jpg

Chốt chặn của công an gần nhà thờ giáo xứ Thái Hà Dòng Chúa Cứu Thế tại Hà Nội hôm 17 tháng 11 năm 2011.

AFP photo

Vụ việc đất đai của Giáo xứ Thái Hà và Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà lại “nóng” lên khi khu đất Hồ Ba Giang mà Nhà Dòng có đầy đủ giấy tờ sở hữu đang bị cải tạo; dù Nhà Dòng lâu nay có nhiều đơn thư khiếu nại nhưng chính quyền không giải quyết.

Giấy tờ sở hữu hợp pháp

Giáo xứ Thái Hà do các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách vào ngày 16 tháng 10 vừa qua có đơn khiếu nại khẩn cấp gửi đến chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Thế Thảo. Đơn khiếu nại nêu ra vụ việc khu đất Hồ Ba Giang rộng hơn 18.200 mét vuông thuộc giáo xứ Thái Hà và Dòng Chúa Cứu Thế đang bị san lấp một cách vội vã. Việc làm này theo đơn khiếu nại là bất chấp mọi qui định của pháp luật và đạo lý, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà Dòng và Giáo xứ Thái Hà.

Linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà trình bày lại thông tin liên quan khu đất đó như sau:

Chuyện Hồ Ba Giang là một câu chuyện rất dài. Từ năm 1996, chúng tôi đã đề nghị, yêu cầu chính quyền trao lại quyền quản lý cho chúng tôi bởi vì khu đất đó là của Nhà Dòng chúng tôi từ xưa đến nay. Chính xác từ năm 1928 khi các linh mục Canada đến Việt Nam và mua mảnh đất ở Hà Nội này thì khu đất Hồ Ba Giang đã nằm trong bản đồ đất đai của Nhà Dòng chúng tôi. Và từ đó đến nay chúng tôi chưa có trao nhượng, bán hay giao quyền sử dụng, sở hữu cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào. Ngay cả những công văn gần đây nhất chính quyền Hà Nội cũng công nhận khu đất đó do Giáo xứ Thái Hà của chúng tôi quản lý.

” Thực ra mà nói họ có gì đó nghi kỵ với tôn giáo nên họ cứ chèn ép thế. Họ cứ lấy quyền của họ để lấy của mình, chẳng làm sao mà đòi được.
– Giáo dân Thái Hà”

Từ năm 1996 chúng tôi làm đơn yêu cầu họ trao trả cho chúng tôi và từ đó đến bây giờ chúng tôi vẫn cứ tiếp tục làm đơn. Đến gần đây phía chính quyền cũng trả lời các văn thư của chúng tôi và cũng như mọi khi: không có gì mới. Họ vẫn lấy lý do là vào năm 1961, linh mục Nguyễn Ngọc Bích quản lý đã ký bàn giao toàn bộ 60.000 mét vuông của Nhà thờ Thái Hà, và Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội giao quyền quản lý cho Nhà Nước.

Chúng tôi yêu cầu trưng tất cả những bằng chứng cho thấy linh mục Nguyễn Ngọc Bích đã ký giấy bàn giao thì họ không chứng minh được sự quản lý hợp pháp từ phía Nhà nước: đã quản lý trong hoàn cảnh nào và linh mục đã ký bàn giao như thế nào, đâu là bằng chứng cho thấy linh mục Nguyễn Ngọc Bích đã ký giấy bàn giao. Cho đến nay Nhà nước vẫn không chứng minh được điều đó và họ cứ nại vào lý do đó để lấp liếm công luận, tiến hành những công trình phi pháp trên đất đó.

Nhu cầu giáo dân gia tăng

Một giáo dân thuộc Giáo xứ Thái Hà cho biết về nhu cầu của giáo xứ hiện nay như sau:

000_Hkg2312971-300.jpg

Dự án nhà ở đô thị tại khu hồ Ba Giang thuộc giáo xứ Thái Hà Dòng Chúa Cứu Thế, Hà Nội. Ảnh chụp hôm 24/4/2009. AFP photo

Các lớp giáo lý của các cháu vào mỗi chiều chủ nhật các cháu phải ngồi cả ngoài sân và cả trong Nhà Thờ. (Ngoài sân) thì trời nắng như vậy. Các cháu nay càng lúc càng đông. Mỗi chiều chủ nhật từ lúc 2 giờ, vài trăm cháu đến sinh hoạt. Còn vào buổi tối thì các lớp dự tòng, các hội đoàn đến sinh hoạt cũng không có đủ phòng để họp. Nay có nhiều người muốn tìm hiểu về đạo nhưng cũng không có phòng để mở lớp, mỗi tuần chỉ mở được bốn buổi hai khóa, giáo lý hôn nhân một khóa nữa…Còn 12 ca đoàn tập hát thì lấy phòng ốc đâu mà tập. Đồi với nhu cầu, chúng tôi còn thiếu thốn lắm nhưng họ chẳng quan tâm đến.

Linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong cũng cho biết nhu cầu phục vụ giáo dân không chỉ của giáo xứ Thái Hà mà của nhiều người giáo dân nhập cư làm ăn, sinh sống tại Hà Nội:

Hiện nay chúng tôi chỉ còn 2700 mét vuông trên tổng số 60 ngàn mét vuông mà thôi. Trong khi nhu cầu của chúng tôi rất lớn: mỗi ngày chủ nhật ở đây có khoảng 15 ngàn người đến để thực hành các nghi thức tôn giáo. Chúng tôi không có chỗ để mở các lớp giáo lý, các trường cho người giáo dân. Cơ sở của chúng tôi không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu giáo dân, đặc biệt những người di dân đến làm ăn, sinh sống. Chúng tôi có nhu cầu như thế và nhiều lần đề nghị chính quyền cấp đất cho chúng tôi, hay giao lại cho chúng tôi những khu đất mà hiện nay đang bỏ trống như khu đất Hồ Ba Giang là khu đất mà về mặt luật pháp ngay cả những văn bản của chính quyền cũng khẳng định chúng tôi là người quản lý khu đất đó một cách hợp pháp.

Hành xử của chính quyền

Như trình bày của linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong thì Giáo xứ Thái Hà và Nhà Dòng Cứu Thế đã có nhiều văn thư liên quan khu đất Hồ Ba Giang gửi đến các cấp chính quyền; thế nhưng mọi trình bày, nguyện vọng nêu ra đều không đượcgiải quyết.

Người giáo dân Thái Hà bày tỏ quan điểm của bản thân về hành xử của chính quyền trong vấn đề đất đai của giáo xứ lâu nay như sau:

Thực ra mà nói họ có gì đó nghi kỵ với tôn giáo nên họ cứ chèn ép thế. Họ cứ lấy quyền của họ để lấy của mình, chẳng làm sao mà đòi được. Còn đất của chúng tôi có từ năm 1928 đến nay chứ có phải đến bây giờ mới có đâu!

” Từ năm 1996 chúng tôi làm đơn yêu cầu họ trao trả cho chúng tôi và từ đó đến bây giờ chúng tôi vẫn cứ tiếp tục làm đơn.
– LM Nguyễn Ngọc Nam Phong”

Theo quan điểm của linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong thì vì chủ trương bất dung tôn giáo của chính quyền cộng sản nên họ không muốn giải quyết những khiếu nại về đất đai cho giáo xứ Thái Hà và Dòng Chúa Cứu thế một cách thỏa đáng. Linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong phát biểu:

Tôi nghĩ nếu Nhà nước này thật sự vì dân, vì nước thay vì thể chế cộng sản thì vấn đề cũng dễ dàng chứ không có khó khăn gì. Bởi vì quỹ đất không phải là thiếu; có rất nhiều những dự án mà bây giờ người ta gọi là ‘dự án treo’ để đó mà không phát triển được.

Đây là một chủ trương của nhà nước, chủ trương hạn chế tôn giáo. Nếu họ không thâm nhập làm cho tôn giáo đó biến chất từ bên trong được, thì họ đánh phá từ bên ngoài, hạn chế sự phát triển Chính vì chủ trương đó làm cho vấn đề giải quyết đất đai trở nên khó. Thực chất chính sách về tôn giáo của họ trước sau như một, không bao giờ thay đổi. Khi mà chính sách không thay đổi thì không thể giải quyết bất cứ vấn đề gì.

Vào chiều ngày 23 tháng 10, một số giáo dân xứ Thái Hà đến tại Ủy ban Nhân dân Quận Đống Đa để phản đối việc chính quyền để cho đơn vị thi công san lấp Hồ Ba Giang. Tin tức và hình ảnh cho thấy, ủy ban không những không tiếp người dân mà còn cho nhân viên ra giằng xé những biểu ngữ phản đối của giáo dân.

Vào đầu giờ chiều ngày 24 tháng 10, chúng tôi gọi điện đến lãnh đạo các cơ quan chức năng quận Đống Đa gồm Uy ban nhân dân, Hội đồng Nhân dân và phòng Địa chính- Nhà Đất- Đô thị nhưng cả ba nơi đều không ai trả lời.