Làm thế nào để VN đuổi kịp các nước Asian-6?

Làm thế nào để VN đuổi kịp các nước Asian-6?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-02-21

anhvu02212015.mp3

000_Del6394306-622.jpg

Ảnh minh họa chụp tại trung tâm thành phố Hà Nội hôm 17/02/2015.

AFP PHOTO / HOANG DINH Nam

Your browser does not support the audio element.

Nguy cơ tụt hậu?

Mùa xuân đến với nhiều tín hiệu tốt lành, tuy vậy nền kinh tế của đất nước vẫn không phát huy hết khả năng để phát triển mạnh mẽ ở mức có thể, ngược lại đang còn bị tụt hậu khá xa so với các nước láng giềng. Điều gì đã cản trở và cần phải làm thế nào để VN có thể đuổi kịp các nước Asian-6?

Khoảng cách về phát triển giữa VN với Asean-6 ngày càng tăng, trong lúc so với các nước Asean-4 thì ngày càng thu hẹp. Điều này cho thấy VN đang đứng trước nguy cơ tụt hậu.

Hiện tại, VN đang đứng sau 6 nước Asean tức là xếp thứ 7, sau các quốc gia như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Brunei và chỉ đứng trên Myanmar, Lào, Campuchia.

Trong một phiên họp của Chính phủ  gần đây, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đặt câu hỏi: “Sao lại cứ phải đứng sau 6 nước Asean? Chúng ta có đuổi kịp được Asean-6 không? Không có lý do gì chúng ta không cải thiện được để bằng Asean-6.”

Cái thứ nhất là phải triệt để xóa bỏ đường lối sai lầm của Đảng CSVN là: KT Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trên cơ sở đó có thể vạch ra các chính sách kinh tế thúc đẩy cho sự phát triển của khu vực KT Tư nhân trong nước và tạo điều kiện cho chúng hoạt động ngang ngửa, sòng phẳng và bình đẳng với các thành phần KT khác.
-TS Nguyễn Quang A

Điều gì đã cản trở sự phát triển của dân tộc, để đến hôm nay khiến người đứng đầu Chính phủ phải đặt câu hỏi trên?

Nói về những hạn chế được cho là cơ bản nhất đã khiến cho kinh tế VN không phát huy hết khả năng, để phát triển mạnh mẽ ở mức có thể.

Chuyên gia KT Bùi Kiến Thành, trong một lần trao đổi với RFA gần đây thấy rằng, tư duy lãnh đạo là nguyên nhân dẫn tới kinh tế VN trì trệ không phát triển được, theo ông lãnh đạo VN cần phải thay đổi tư duy một cách tích cực, nếu không muốn đất nước tụt hậu so với khu vực và thế giới. Ông nói:

“Bây giờ các vị lãnh đạo đi ra nước ngoài cũng vẫn nói  Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, yêu cầu Mỹ yêu cầu Châu Âu và khắp mọi nơi mà các vị đến, yêu cầu công nhận chúng tôi là nền kinh tế thị trường. Như vậy rõ ràng chúng ta muốn hội nhập vào nền kinh tế thị trường của thế giới. Nhưng mà tiếp theo câu đó nó có sự không ăn khớp, tức là doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vấn đề này tư duy chưa rõ ràng, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo thì làm gì có nền kinh tế thị trường được nữa?”

Nền kinh tế thị trường gắn với định hướng XHCN là biểu hiện sự ôm đồm không cần thiết của nhà nước. Đây là cái cần phải xóa bỏ ngay lập tức để tạo điều kiện cho nền KT của VN có thể cất cánh. TS. Nguyễn Quang A nhấn mạnh:

000_Hkg10147574-400.jpg

Ảnh minh họa chụp tại ngoại thành Hà Nội hôm 28/01/2015. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.

“Cái thứ nhất là phải triệt để xóa bỏ đường lối sai lầm của Đảng CSVN là: KT Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trên cơ sở đó có thể vạch ra các chính sách kinh tế thúc đẩy cho sự phát triển của khu vực KT Tư nhân trong nước và tạo điều kiện cho chúng hoạt động ngang ngửa, sòng phẳng và bình đẳng với các thành phần KT khác. Chỉ có trên cơ sở đó thì nền KT của VN mới phát triển một cách bền vững.”

Những khó khăn đang phải đối mặt khiến Việt Nam ngày càng tỏ ra “hụt hơi” trong việc bắt kịp tốc độ phát triển của các nước trong khu vực, đặc biệt là Asean-6. Tuy nhiên, theo các chuyên gia cho biết nếu nỗ lực và có chính sách đúng, kinh tế Việt Nam vẫn chưa hết hy vọng sẽ cất cánh.

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), TS. Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển cho rằng: “Các phân tích kinh tế gần đây cho thấy, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được thành công như những nền kinh tế trong khu vực đã biến thành các nước công nghiệp mới – (NICs) một khi xây dựng được một thể chế hỗ trợ phát triển. Một trong những cơ sở tiền đề ấy là kinh tế Việt Nam vẫn có tiềm năng phát triển lớn”.

Trách nhiệm thuộc về ai?

Trả lời câu hỏi cần phải có các giải pháp quan trọng nào để tạo ra sự bứt phá của kinh tế VN để đuổi kịp các nước Asean–6 trong thời gian tới?

Trên thực tế Nhà nước vẫn có vai trò can thiệp trực tiếp quá lớn vào nền kinh tế, với tư cách là chủ đầu tư công và chủ sở hữu doanh nghiệp, trong khi Nhà nước lại chưa thực hiện tốt các chức năng quản lý và điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế. Đây là một trong những điểm nghẽn đang làm thui chột tinh thần kinh doanh của không ít người dân. TS. Võ Đại Lược Viện Kinh tế và Chính trị thế giới nhận định:

“Cái gì thuộc quyền nhà nước quyết thì nhà nước quyết và cái đó có thể có tính pháp lệnh, còn cái gì thuộc về thị trường thì nhà nước không nên quyết, mà để thị trường định. Do vậy dù ông quyết thông qua các cái tín hiệu của thị trường, nếu can thiệp quá mạnh các tín hiệu của thị trường thì anh sẽ làm thị trường méo mó. Và do thế nó làm cho nên kinh tế phát triển kém hiệu quả.”

Cái gì thuộc quyền nhà nước quyết thì nhà nước quyết và cái đó có thể có tính pháp lệnh, còn cái gì thuộc về thị trường thì nhà nước không nên quyết, mà để thị trường định.
-TS Võ Đại Lược

Theo TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế VN cho biết: VN có đủ các điều kiện cần để thực hiện “cú nhảy vọt lịch sử” để rút ngắn khoảng cách phát triển, tiến kịp thế giới và Asean – 6. Cần định rõ lộ trình tận dụng thời cơ để tiến vượt bằng lộ trình công nghiệp hóa đến năm 2020 gồm 2 bước. Bước 1 ráo riết chuẩn bị các điều kiện và năng lực, chuẩn bị điều kiện cất cánh. Bước 2 bùng nổ phát triển, cất cánh và tăng tốc. Ông nói:

“Nếu chúng ta tạo ra sự ổn định, tạo ra niềm tin của các nhà đầu tư trong thị trường, thì có khi đặt mục tiêu tăng trưởng thấp nhưng tăng trưởng thực vẫn cứ cao, vì các nhà đầu tư tin cậy. Nhà nước định hướng, nhưng nhà nước có thể tác động đến bằng cách tạo ra các công cụ khuyến khích hay là kiềm chế để cho các nhà đầu tư hành động làm sao nó gần nhất với định hướng của mình.”

Chỉ có xây dựng khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa của VN lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng và bất cứ nhà nước nào cũng phải can thiệp vào thị trường bằng chính sách của mình. Do vậy, đừng lo ngại việc Nhà nước không kiểm soát được khu vực KT Tư nhân. TS. Nguyễn Quang A khẳng định:

“Nền Kinh tế thuộc sở hữu tư nhân phải đóng vai trò trung tâm, dẫn dắt và vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Chỉ có nền kinh tế tư nhân nó mới có những động lực để thúc đẩy nền kinh tế chung phát triển. Kinh tế Nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo trong một nền kinh tế được, nó chỉ giữ một vai trò có tính chất phù trợ nào đấy mà thôi. Tôi nghĩ biện pháp quan trọng nhất là phải xóa bỏ tất cả những cái ưu ái, trước hết là các ưu ái đối với DN Nhà nước, thậm chí cả những ưu ái đối với DN Đầu tư nước ngoài. Tôi không nghĩ các DN Tư nhân cần có sự hướng dẫn hay hỗ trợ của Nhà nước, tôi tin họ sẽ tự lo lấy của họ. Song cái quan trọng là phải để cho nó có một môi trường thông thoáng và không bị ai chèn ép.”

Nếu nhìn sang các nước láng giềng thì thấy thiên hạ đã đi nhanh hơn VN rất nhiều, lẽ dĩ nhiên nếu không tiến theo kịp thì lập tức VN sẽ tụt hậu và bị họ bỏ rơi. Trong lúc VN, là một đất nước có vị trí địa lý chiến lược quan trọng, tài nguyên thiên nhiên giàu có, con người cần cù và chịu khó. Vậy tại sao đất nước vẫn cứ tụt hậu, chậm phát triển? Trách nhiệm này thuộc về ai?

Trước bàn thờ Tổ Tiên ngày Tết

Trước bàn thờ Tổ Tiên ngày Tết

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

A. Dâng hương

Theo luật tuần hoàn của vũ trụ, năm Giáp Ngọ âm lịch đi vào qúa khứ . Và năm mới Ất Mùi âm lịch đang về với đất trời cùng với lòng con người.

Chúng ta, những người con dân đất nước Việt Nam, dù sinh sống nơi đâu trên thế giới, đều đón mừng mùa xuân năm mới Ất Mùi với tâm hồn vui mừng rộn rã.

Đó là tập tục văn hóa đã khắc ghi trong dòng máu chúng ta. Và đó cũng là nếp sống đạo đức làm người trong tương quan với Đấng Tạo Hóa càn khôn, và với xã hội con người.

Đón mừng mùa Xuân năm mới, nhưng tâm hồn ta luôn hướng về cội nguồn Tổ tiên quê hương tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta.

Trước bàn thờ Đấng Tạo Hóa càn khôn, và bàn thờ Tổ Tiên xin cùng thắp những nén nhang lòng yêu mến nhớ về cội nguồn của chúng ta.

Thành kính dâng lời tạ tổ tiên,

Đầu nơi cội mạch lập gia hiền.

Khơi nguồn tựa suối trôi liên lỉ,

Trổ rễ như cây mọc vững bền.

Đứng mũi chở che giông chẳng quản,

Chịu sào chèo chống bão không nghiêng.

Mãn phần an nghỉ về Thiên quốc,

Thắp nén trầm hương nhớ cửu huyền.

B. 12 cây nến nguyện cầu

1. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa Xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến tâm tình tạ ơn Đấng Tạo Hóa luôn hằng chúc phúc lành che chở cho đời sống chúng con thời gian năm cũ Giáp Ngọ vừa qua.

2. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa Xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến lòng ái quốc cho quê hương tổ quốc, cho Tổ Tiên chúng con đã dầy công lao xây dựng, gìn giữ quê hương đất nước Việt Nam từ ngàn xưa.

3. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến chúc phúc lành cho dân tộc Việt Nam chúng con, trong mọi hoàn cảnh luôn đặt niềm tin tưởng vào Đấng Tạo Hóa, Đấng là nguồn mạch mọi ân đức chúc phúc lành.

4. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến lòng hiếu thảo biết ơn Ông Bà Cha Mẹ chúng con, những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục đào tạo chúng con nên người ở đời.

5. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến gia đình. Xin cho các gia đình có được đời sống no cơm ấm áo, hòa thuận thương yêu nhau, phát triển tình nghĩa giữa các thành phần trong gia đình với nhau.

6. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến niềm vui tuổi xuân xanh cho con em bạn trẻ chúng con. Xin cho họ sống khoẻ mạnh hồn xác, học hành tấn tới, thành công trong việc làm, cùng tin tưởng vào ngày mai.

7. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến tình yêu cho các người trẻ đang trên đường đi tìm xây dựng con đường đời sống, lòng hăng say mong muốn dấn thân phục vụ con người, nhận ra dấu chỉ tín hiệu của ý Chúa muốn cho đời sống họ hôm nay và ngày mai.

8. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến hòa bình cho những đất nước trên thế giới đang sống trong những biến chuyển chiến tranh có nhiều đe dọa xáo trộn, bị phân ly chia rẽ sống đời lưu lạc tỵ nạn, có được hòa bình công lý, đời sống an cư lạc nghiệp trở lại.

9. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến niềm an ủi cho những người bị bệnh tật yếu đau, những người sống trong hoàn cảnh nghèo túng, trong thiên tai, nhận được sự trợ giúp tình người.

10. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến lòng nhân đạo cho những người bị đối xử phân biệt ngược đãi bất công, cho những thai nhi bị phá hủy sự sống ngay từ cung lòng mẹ, được tôn trọng phẩm gía là con người do Thượng Đế tạo dựng nên.

11. Kính lạy Đấng Tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến niềm hy vọng cho những người sống trong thất vọng cô đơn, cho những người bị bỏ rơi khinh miệt, cho những người bị vướng mắc vào hoàn cảnh tù đày bạc đãi, được tìm thấy ánh sáng tự do vươn lên cho đời sống.

12. Kính lạy Đấng tạo Hóa càn khôn là Chúa mùa xuân năm mới, xin dâng lên bàn thờ cây nến sự sống nơi cõi vĩnh hằng

-cho những người đã dấn thân hy sinh tính mạng gìn giữ bảo vệ tổ quốc quê hương Việt Nam chúng con,

-cho Tổ Tiên , Ông bà, Cha mẹ, vợ hay chồng, con cháu, anh chị em, bạn bè, thầy cô giáo, những người thân yêu trong gia đình, mà nay đã về cùng Thiên Chúa.

– cho các Linh mục, các vị Tu sỹ nam nữ đã qua đời.

– cho các người đã bỏ mình trong chiến tranh loạn lạc, bị khủng bố, bị chết vì đói khát nghèo túng bệnh tật.

– cho những người đã sống làm ơn cho chúng con trong đời sống, mà nay tất cả đã khuất núi ra đi về đời sau.

Trước bàn thờ Chúa cùng theo làn khói ánh nến tỏa lan lung linh, chúng con chân nhận rằng:

Nhục thể ly trần lưu cát bụi,

Hồn thiêng thoát tục nhập thiên cung.“ Amen.

Mùng Một Tết Ất Mùi 2015

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

CẦU NGUYỆN ĐỂ VƯỢT QUA CÁM DỖ

CẦU NGUYỆN ĐỂ VƯỢT QUA CÁM DỖ

Tác giả: Huệ Minh

St 9, 8-15; 1 Pr 3, 18-22; Mc 1, 12-15

Ngày còn bé, chẳng được đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn và vài vùng lân cận. Chính vì thế, chẳng biết được đường đèo trắc trở là gì ? Chỉ nghe ai đi về kể hay chỉ xem trên màn hình của TV.

Lớn lên một chút, có dịp đi hành hương La Vang để thăm Mẹ. Chính nhờ chuyến đi La Vang đó mà tận mắt thấy được nhiều đoạn đường quanh co và nguy hiểm. Có lẽ trắc trở nhất chính là đoạn đường đèo Hải Vân.

Khi đi qua đường đèo Hải Vân, đâu đó hai bên đường người ta lập những miếu thờ để thờ những nạn nhân không may mắn. Tai nạn xảy ra có thể bất cẩn từ phía người lái nhưng cũng có khi bất cẩn từ người thợ máy, kỹ thuật xe để làm cho chiếc xe không đủ an toàn khi leo đèo và nhất là khi xuống đèo. Chính vì sự chểnh mảng, thờ ơ hay cẩu thả đã để lại những tai nạn khôn lường và đáng tiếc.

Trên con đường đèo, dọc theo đường đèo, ta thấy rất nhiều bảng cảnh báo, nhiều bảng chú ý để cảnh báo người lưu thông nhằm tránh gây tai nạn đáng tiếc. Với mức độ nguy hiểm như vậy, dĩ nhiên những ai đi trên đèo đều hết sức cẩn thận, tỉnh cáo và đề cao cảnh giác đến mức tối đa.

Khi đi hành hương chung với nhau, với những người tâm linh theo đạo Công Giáo chắc có lẽ có thói quen lần chuỗi, cầu nguyện để cho mọi chuyện tốt đẹp khi lên đèo và tạ ơn Chúa và Mẹ sau khi đổ đèo được an toàn.

Thường là như vậy, khi bước lên xe, khi đi qua những đoạn đường nguy hiểm người ta thường đọc kinh cầu nguyện, xin ơn bình an. Cũng thế, ta thấy rằng khi cuộc sống của ta đứng trước bờ vực của sự nguy hiểm ta cũng ra sức cầu nguyện và xin ơn.

Con người là như vậy để rồi ta thấy chính Chúa Giêsu cũng như thế khi gặp những khó thăn, thử  thách của cuộc đời.

Chúa Giêsu bước vào hoang địa để chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú. Nhưng, ta để ý, chính Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và rồi sau khi vào rồi thì có các Thiên Thần hầu hạ người.

Vấn đề lớn, vấn đề chính yếu đó chính là Thần Khí Chúa thúc đẩy, Thần Khí Chúa tác động và dĩ nhiên có ơn của Chúa Thánh Thần ở với Chúa Giêsu. Cùng theo đó, các Thiên Thần hầu hạ Chúa và điều đặc biệt hơn cả phát xuất tự nơi Chúa Giêsu đó chính là việc Chúa Giêsu đã ăn chay và cầu nguyện.

Giữa những thử thách của cuộc đời, chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện thì khi đó ta kết hợp mật thiết với Chúa và khi đó ta mới vượt qua những cơn cám dỗ mà thôi. Chuyện dễ hiểu bởi lẽ trong ta luôn luôn có sự giằng co của con người xác thịt và con người Thần Linh.

Bản thân mỗi người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội ắt hẳn được Thiên Chúa ghi dấu ấn trong đời và có Chúa ở cùng. Cạnh đó, mỗi người đều có một vị thiên thần bản mệnh đi theo mình để giúp mình, định hướng sống cho mình và giúp cho mình vượt qua những cơn gian nan thử thách trong cuộc đời.

Trải qua dòng chảy của lịch sử cứu độ, ta thấy cầu nguyện, ăn chay, hãm mình hết sức cần thiết cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta. Như hơi thở của cuộc sống, cầu nguyện cũng như thế. Thân xác ta, nếu ta không khổ chế, ta không hãm mình thì ta sẽ dễ hưởng thụ để chu cấp những đòi hỏi cho thân xác này.

Cũng dễ hiểu vì lẽ con người là con người phàm xác thịt để rồi cứ bị giằng co của thân xác, đặc biệt với quyềm, danh, tình … Những thứ đó dường như nó giằng co, nó không chế con người. Nếu như con người không biết mình là ai, không biết được giới hạn của mình sẽ dễ đi vào con đường của hưởng thụ. Từ hưởng thụ đó, con người sẽ dễ buông mình để đi theo những cám dỗ của nó.

Lời thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa cất lên thật hay :

Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa;
xin dạy bảo con về lối bước của Ngài.
Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con,
vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

Và như vậy, ta cứ mãi mãi chạy đến Chúa, xin Chúa hướng dẫn cuộc đời ta để ta luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa. Có như thế, ta mới có thể vượt qua những cơn cám dỗ bên đời ta.

Huệ Minh

Chuyển đổi chế độ bằng cách ảo thuật

Chuyển đổi chế độ bằng cách ảo thuật

Chuacuuthe.com

VRNs (20.02.2015) – Baotoquoc – Chế độ Xã hội chủ nghĩa

Năm 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn quyết định đổi tên nước là Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đổi tên đảng Lao động Việt Nam thành đảng Cộng sản Việt Nam. Tuyên bố tiếp tục áp dụng chế độ Cộng sản theo như Hiến pháp của CSVN năm 1959. Hiến pháp này rập khuôn hiến pháp của Stalin và hiến pháp của Mao Trạch Đông.

Thực ra Chế độ Xã hội chủ nghĩa là một tên gọi khác của Chế độ Cộng sản. Thoạt ban đầu chữ “Cộng sản” là tên gọi của một chế độ tưởng tượng do 3 triết gia Saint Simon, Fourier và Robert Owen nghĩ ra vào đầu thế kỷ 19. Theo đó thì mọi của cải trong xã hội đều là của chung ( Cộng sản ), mọi người cùng làm và cùng hưởng.

Tuy nhiên sau đó Robert Owen dùng tài sản của gia đình mình phân phát cho nông dân nghèo cùng nhau tự quản lý, nhưng kết quả thất bại vì “cha chung không ai khóc”. Vì vậy người ta đặt cho chế độ Cộng sản của 3 triết gia là “Chế độ Cộng sản không tưởng”.

Đến giữa thế kỷ 19 triết gia Karl Marx sửa đổi Chế độ Cộng sản không tưởng thành “chế độ Cộng sản hiện thực”. Theo chế độ này thì xã hội được quản trị bởi một chính quyền. Đặc biệt chính quyền này toàn là do những người lao động nghèo điều hành. Những người lao động nghèo được gọi là giai cấp vô sản. Và giai cấp vô sản nằm trong một tổ chức chặt chẻ gọi là Đảng Cộng sản. Tổ chức này coi những người có học, những người giàu, những người có đất đai nhiều, có thế lực mạnh… là kẻ thù ( Trí, Phú, Địa Hào ).

Cuối thế kỷ 19, một triết gia Cộng sản khác là Friedrich Engels nghĩ ra một chế độ chuyển tiếp trước khi đi đến chế độ Cộng sản, ông ta đặt tên cho chế độ đó là “Chế độ Xã hội chủ nghĩa khoa học”.

Như vậy, khi CSVN áp dụng “Chủ nghĩa xã hội khoa học” vào năm 1959 thì Miền Bắc Việt Nam được lãnh đạo bởi ĐCSVN ( Điều 4 hiến pháp ). Đảng này sẽ làm chủ đất nước, còn người dân là lực lượng lao động làm ra của cải cho đất nước; nghĩa là người dân cũng giống như trâu cày ngựa kéo ( nô lệ ) của ông chủ CSVN.

Số của cải có sẵn trong nước và số của cải do lực lượng lao động ( người và thú vật ) làm ra sẽ được quản lý bởi các cán bộ của ĐCSVN. Những cán bộ này nằm trong một cơ chế quản lý gọi là “nhà nước”.

Như vậy theo như hiến pháp 1959 của nước CSVN thì mọi đất đai tài sản có trong nước là do Đảng làm chủ và Đảng quản lý. Đảng muốn sử dụng đất đai tài sản trong nước ra sao là tùy Đảng. Thường thì Đảng giao đất cho người dân sử dụng để sinh sống, phát cho người dân một tờ giấy gọi là “quyền sử dụng đất” ( sổ đỏ ); khi nào Đảng muốn lấy lại đất để làm việc khác, thí dụ như để giao cho một công ty ngoại quốc, thì gởi cho người dân đó một tờ giấy “thu hồi quyền sử dụng đất” hay nói gọn là “thu hồi đất”.

Cái lối quản lý tài sản như vậy cuối cùng đưa tới sụp đổ “chế độ Xã hội chủ nghĩa” vì hai nguyên lý cơ bản :

(1). Bất công : Của cải chung của toàn xã hội rơi vào tay một nhóm người và những người này phân phối quyền hưởng thụ tài sản cho cá nhân mình hay gia đình mình mà không có ai được quyền xoi mói hay can thiệp.

(2). Cha chung không ai khóc: tài sản chung giống như một cái kho chung do một nhóm người quản lý. Nhưng những người này chuyên môn đục khoét cái kho để tuồn của cải về cho gia đình mình. Hoặc là thay vì đem của cải cất vào kho thì đem thẳng về nhà mình. Rốt cuộc kho chung như cái thùng lủng đáy.

Hai nguyện lý cơ bản trên đây trái ngược với chế độ Tư sản ( Tư bản). Trong chế độ Tư sản thì của cải trong nước là của cải riêng của từng người dân. Mỗi người dân tự quản lý lấy tài sản của mình. Cho nên không có bất công và không hề thất thoát. Hễ dân giàu thì nước mạnh.

15022000

Chế độ “Xã hội chủ nghĩa, định hướng cơ chế thị trường”

Năm 1976 Mao Trạch Đông chết, năm 1978 Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền. Đến 1983 Đặng Tiểu Bình cho áp dụng chế độ Cộng sản cải cách, gọi là “Chế độ Xã hội chủ nghĩa, định hướng cơ chế kinh tế thị trường”.

Tại Việt Nam năm 1986 Lê Duẩn chết, Nguyễn Văn Linh lên nắm quyền. Mặc dầu không chuyển đổi chế độ như Đặng Tiểu Bình nhưng Nguyễn Văn Linh cũng cho dẹp bỏ một số quy định phi lý của cơ chế kinh tế Cộng sản và tuyên bố sẽ “đổi mới” chế độ.

Từ năm 1987 người Phó thủ tướng kinh tế của CSVN là Võ Văn Kiệt bắt đầu tìm cách tiếp xúc với thế giới tư bản. Ông nhờ người cố vấn kinh tế của ông là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh liên lạc với cựu Phó thủ tướng VNCH là Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo để vận động hành lang nối lại liên hệ Việt- Mỹ.

Đầu tháng 9 năm 1987 Tổng thống Mỹ Ronald Reagan cử người đại diện của ông là Tướng John Vessy đến Hà Nội. Sau 1 tuần làm việc, ngày 14-9-1987 Vessy ký với Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Khoan một Hiệp ước giải quyết những gì còn tồn đọng sau chiến tranh Việt Mỹ.

Chủ yếu của Hiệp ước là Mỹ nới bỏ một phần lệnh cấm vận cho CSVN, bắt đầu cung cấp viện trợ nhân đạo cho CSVN nhưng không phải là viện trợ “Bồi thường chiến tranh” như đã ghi trong “Mật ước Nixon-Phạm Văn Đồng ký ngày 1-2-1973”. Ngoài ra còn có tìm kiếm người Mỹ mất tích, và đưa đi định cư tại Mỹ những nhân viên của VNCH đã từng bị giam trong tù cải tạo. ( Sưu tập báo chí của Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuyến, Lịch Sử Việt Nam 1975-2000, trang 83,84 ).

Sang năm 1988 ông Võ Văn Kiệt nối được đầu cầu giao lưu kinh tế với thế giới tư bản qua ông Võ Tá Hân, một thương gia tại Singapore ( Huy Đức, Bên Thắng Cuộc ). Trước đó ông Hân đang phụ trách quản trị trung tâm băng nhạc Asia thì nhận được lệnh đến Singapore với danh nghĩa “Chủ tịch hiệp hội thương mại Canada”.

Đến cuối năm 1989 chủ nghĩa Cộng sản đang trên đà sụp đổ. Tại Đông Đức, Tổng bí thư CSVN Nguyễn Văn Linh xin tiếp kiến Tổng bí thư Liên Xô Gorbachev nhưng ông này đối xử lạnh nhạt. Nguyễn Văn Linh trở về dẫn Đổ Mười và Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc để gặp Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân. Cuộc gặp này được gọi là Hội nghị Thành Đô.

Sau hội nghị Thành Đô, CSVN học theo Đặng Tiểu Bình sửa lại hiến pháp, tuyên bố nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng thể chế “Xã hội chủ nghĩa, định hướng cơ chế kinh tế thị trường”.

Thực ra đây chỉ là một cách chơi chữ của Đặng Tiểu Bình : “xã hội chủ nghĩa” có nghĩa là độc tài độc đảng (chuyên chính vô sản). Và “định hướng cơ chế kinh tế thị trường” có nghĩa là kinh tế tư bản. Vì vậy chế độ XHCNĐHCCTT tức là chế độ “Cộng sản” về cai trị nhưng “Tư bản” về kinh tế. Hoặc nói một cách bình dân là chế độ “Cộng sản lai tư bản”.

Chế độ Cộng sản lai tư bản vẫn giữ nguyên chuyên chính vô sản, nghĩa là ĐCS vẫn là chủ nhân ông của đất nước; quân đội và công an vẫn là công cụ bảo vệ chế độ, tức là được dùng để trấn áp dân chúng. Khi nào có đánh nhau với nước ngoài thì quân đội với nhân dân cùng nhau chống giặc, nhưng trong thời bình thì quân đội được dùng để chống lại sự nổi dậy của nhân dân.( Quân đội trung với Đảng chứ không phải trung với dân ).

Còn về kinh tế thì có sự đổi khác rõ rệt giữa “kinh tế Xã hội chủ nghĩa” và “kinh tế thị trường” : Kinh tế XHCN có 2 thành phần sở hữu là sở hữu nhà nước (quốc doanh) và sở hữu hợp tác xã, còn kinh tế thị trường có 5 thành phần sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân. Nghĩa là nhà nước làm chủ đất đai và tài sản lớn (công cộng) do cha ông để lại, còn người dân được quyền làm chủ tài sản nhỏ, tức là làm chủ những gì do công sức mình làm ra.

Thí dụ như có 1 công ruộng do một hộ nông dân cày cấy thì đương nhiên Đảng là chủ của công ruộng đó, còn người nông dân làm chủ tất cả sản phẩm được làm ra từ công ruộng đó. Đảng sẽ cấp cho người dân một quyển sổ màu đỏ gọi là “giao quyền sử dụng đất” (cho mượn). Khi nào Đảng muốn lấy lại công ruộng đó thì thông báo cho hộ nông dân biết là Đảng sẽ “thu hồi” miếng đất để làm chuyện khác. Điển hình của thí dụ này là vụ cưỡng chế thu hồi đất tại Văn Giang, Hưng Yên. Hay vụ cưỡng chế thu hồi đất của ông Đoàn Văn Vươn tại Quảng Ninh.

*( Đa số người dân đã hiểu lầm khi nhận được quyển sổ đỏ, họ cứ đinh ninh rằng quyển sổ đỏ là sổ “chủ quyền” bởi vì miếng đất đó do cha ông họ đã làm sở hữu chủ từ nhiều đời. Sự thực cái quyền sở hữu chủ đó đã bị mất vào tay ĐCS khi ĐCS dùng súng chiếm được toàn Miền Bắc năm 1954 và toàn Miền Nam năm 1975; sau đó Đảng giao cho mỗi người dân quyển sổ đỏ như là giấy chứng nhận cho mượn đất để sinh sống.

Đến năm 1993 thì CSVN cho ra đời luật đất đai, cho phép người được giao đất (sổ đỏ) có quyền sang nhượng, thừa kế hay thế chấp “quyền sử dụng” đất đó nếu như Đảng không “thu hồi”. Vì vậy mà quyển sổ “sử dụng đất” có vẻ như là sổ “chủ quyền” ).

Chế độ “Kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Mãi đến năm 2006 Nguyễn Tấn Dũng thống lĩnh quyền lực tại VN, ông ta vận động Trung ương ĐCSVN sửa đổi tên gọi của chế độ thành “Chế độ kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tức là chế độ tư bản về kinh tế nhưng không đa nguyên đa đảng. Hoặc nói một cách bình dân là “chế độ Tư bản lai Cộng sản”. Đến năm 2008 thì tên gọi này được viết thành Nghị quyết 21 của ĐCSVN.

Nghĩa là Nguyễn Tấn Dũng làm ảo thuật, hoán đổi vị trí của hai vế tên gọi của chế độ. Biến đổi từ chế độ “Cộng sản lai Tư bản” thành chế độ “Tư bản lai Cộng sản”. Nhưng thoạt đầu chỉ là hoán đổi tên gọi, rồi sau mới dần dần cải sửa chế độ đúng như tên gọi.

Tuy nhiên quá trình cải sửa chế độ của Nguyễn Tấn Dũng gặp nhiều rắc rối. Cơ bản là do ông ta muốn chơi cờ vua trên bàn cờ tướng.

Nguyên tắc đầu tiên của chế đô Tư bản ( tư hữu ) là tài sản trong xã hội do mỗi người dân làm chủ. Cho nên người dân có quyền sống chết với những gì do công sức của họ làm ra, từ đời cha tới đời con, đời cháu. Họ có toàn quyền sang nhượng, thừa kế hay thế chấp những tài sản đó.

Nguyên tắc thứ hai là người làm chủ có quyền sang nhượng tài sản của họ với những điều kiện hoàn toàn do họ muốn, và với giá cả hoàn toàn do họ ấn định. Họ có quyền sang nhượng cho bất cứ người nào trả giá cao nhất, bất kể là người trong nước hay người ngoài nước.

Nguyên tắc thứ ba là họ có quyền làm chủ bất kể số lượng tài sản to lớn đến bao nhiêu. Họ có quyền làm chủ hằng vạn mẫu ruộng, hằng ngàn căn nhà.

Nguyên tắc thứ tư là nếu tài sản đó cần cho nhu cầu chung của quốc gia thì nhà nước có thể trưng thu nhưng đền bù ngang giá thị trường hoặc trên giá thị trường.

Nguyên tắc thứ năm là mọi tài sản được đánh giá và trao đổi trên căn bản tự do cạnh tranh và chống độc quyền.

Nguyên tắc thứ sáu là chính quyền có bổn phận bảo vệ quyền làm chủ tài sản của mỗi người dân, chính quyền sẽ khuyến cáo hoặc can thiệp nếu tài sản của người dân có nguy cơ bị xâm phạm hoặc bị xâm phạm.

Nếu có đủ 6 nguyên tắc cơ bản trên đây thì mới có thể hội nhập với thị trường của kinh tế tư bản, thiếu một trong 6 nguyên tắc đó thì không thể nào vận hành kinh tế tư bản. Cho nên dầu cho Nguyễn Tấn Dũng có làm ảo thuật tài giỏi như thế nào đi nữa thì cũng không thể hoàn thiện được chế độ “Tư bản lai Cộng sản”.

Đầu năm 2014 Nguyễn Tấn Dũng đã hăng hái tuyên bố sẽ hoàn thiện chế độ Tư bản lai Cộng sản ( Kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa ). Nhưng đầu năm nay không thấy ông báo cáo thành quả của công cuộc hoàn thiện chế độ. Nghĩa là không thành công.

Sát thủ kinh tế

Sở dĩ NTD không thành công bởi vì ông ta không đạt được một nguyên tắc nào trong 6 nguyên tắc trên. Trong khi đó các nhà tư vấn quốc tế quốc tế đã vẽ ra cho NTD quá nhiều hướng tiến đầy lạc quan, nhưng chỉ là lạc quan ảo.

Sự thực những nhà tư vấn kinh tế ngoại quốc ( Sát thủ kinh tế ) không hề muốn CSVN chuyển đổi thành chế độ Tư bản. Bởi vì chỉ có chế độ XHCN thì đất đai tài sản trong nước mới thuộc về Đảng Cộng sản. Mà chỉ có ĐCS mới dám bán đất đai, tài nguyên quốc gia với giá bèo, ngang giá với của cải ăn trộm ăn cướp. Còn một khi đất đai là tài sản của người dân thì họ sẽ bán đúng theo giá thị trường. Nhưng nếu đúng theo giá thị trường thì các nước tư bản còn gì nữa đâu mà kiếm một vốn bốn lời ?

Nguyễn Tấn Dũng thành công như ngày nay là nhờ tư vấn của các sát thủ kinh tế. Nhưng nếu cứ theo các sát thủ kinh tế thì chế độ “Tư bản lai Cộng sản” sẽ không bao giờ hoàn thiện được. Rồi đây NTD sẽ tiếp tục thu hồi đất đai mà người dân đang sinh sống để giao cho các công ty ngoại quốc ( Thuê dài hạn 90 năm và tái ký hợp đồng, tức là bán ) cho tới khi nào không còn đất để bán mới thôi.

Như vậy càng ngày nước mắt của dân oan càng nhiều chứ không thể nào giải quyết hết bằng cách bày trò ảo thuật hứa hẹn “Đổi mới thể chế”, “Phát huy quyền làm chủ thực sự của người dân”, “Phát huy quyền sở hữu tài sản”, “Tạo mội trường cạnh tranh bình đẳng”, “Xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp”, “Thúc đẩy tập trung ruộng đất”, “Tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”,v.v … ( trích nguyên văn thông điệp đầu năm 2014 của Nguyễn Tấn Dũng ).

BÙI ANH TRINH

http://baotoquoc.com

Ngai vàng và tượng đồng

Ngai vàng và tượng đồng

Ngô Việt (Danlambao) – Thật tình mà nói thì khi nhìn cảnh “cung điện” của cựu TBT đảng CSVN, ông Nông Đức Mạnh, tôi không thấy có chút gì nể phục vì vẻ xa hoa của nó. Đã vậy tôi còn cảm thấy có chút buồn cười hài hước gì ở đây. Đồ vàng mã? Cảnh của sân khấu chèo, hay sân khấu ca nhạc, kiểu như sân khấu hài sớ táo quân, bày biện cảnh cung điện trên thiên đình mà chúng ta vẫn thấy trên TV mỗi dịp xuân về! Tất nhiên ông Nông Đức Manh, không phải là vua, thành ra ghế ngồi có dát vàng, chạm khắc đầu rồng thì nó cũng chỉ là cái ghế để ngồi, chứ nhất đinh nó không phải là ngai vàng để  “Mạnh Vương, ngự!”

Trước đây, chúng ta cũng được chứng kiến tư thất sang trọng của ông Lê Khả Phiêu, một cựu TBT tiền nhiệm của ông Nông Đức Mạnh. Ở đây không có “ngai vàng” nhưng có trống đồng, ngà voi, tượng đồng bán thân của ông Phiêu và có cả vườn rau sạch trồng trên sân thượng để cho ngài TBT và gia đình sử dụng, tránh nhiệm độc khi ăn phải rau dơ do người dân trồng bán ở bên ngoài.

Không hiểu quí ngài khi đúc tượng đồng của mình, xây dựng cung điện hoành tráng như là của vua chúa thật sự để làm gì? Để dân chúng tôi khi nhìn thấy những thứ đó để nhớ đến các ngài chăng? Không bao giờ! người dân sẽ nhớ đến các ngài qua những công việc mà các ngài để lại cho dân cho nước.

Khi nhắc đến ngài TBT Lê Khả Phiêu, chắc chắn người dân Việt Nam sẽ nhắc đến gần một ngàn cây số vuông đất biên giới phía bắc mà Việt Nam đã cắt để nhượng cho Trung cộng, để họ không lộ chuyện bí mật chuyện đời tư của ngài! Xa hơn chút nữa, khi nhắc đến ngài, người dân Huế, sẽ nhớ đến Trung đoàn trưởng Lê Khả Phiêu, chỉ huy chiếm đóng thành phố Huế trong tết Mậu Thân mà kết quả là hơn 5000 người dân Huế thiệt mạng trong những ngày tết thiêng liêng của dân tộc Việt Nam.

Còn ngài Nông Đức Mạnh thì sao? Ôi ngài nổi tiếng với câu nói: “Chúng ta phải biết nuôi con gì trồng cây gì để đời sống người nông dân giàu lên…!” Cây gì con gì của ngài nói, đến nay vẫn còn là những ẩn số… Đời sống của người dân ngày càng đi xuống và đời sống của các ngài càng ngày giàu sang! Nhớ đến ngài Nông Đức Mạnh là phải nhắc đến chủ trương lớn của đảng CSVN và nhà nước CHXHCNVN: dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Giờ này thì dự án này đã là thứ gân gà khó nuốt rồi đó, mặc dù mới đây ông Nguyễn Tấn Dũng có lên gân bảo dự án đã có lãi (?). Tin mấy ngài là bán thóc giống mà ăn. Quan trong hơn nữa, một khi những hồ bùn đỏ vỡ ụp, làm ô nhiễm cả một vùng đất nước rộng lớn thì lúc đó dù còn sống hay đã chết rồi quí ngài vẫn không chạy thoát khỏi sự trừng trị của người dân.

Người Việt nam mình có câu: Nghĩa tử nghĩa tận. Nhưng cũng có câu: Cọp chết để da người ta chết để tiếng. Các ngài dù gì thì cũng là những con người của lịch sử, ít nhiều hậu thế sau này sẽ nhắc đến. Họ nhắc chuyện tốt hay xấu là do công việc các ngài làm khi còn sống nhất là lúc đương chức. Người Việt Nam hôm nay nhắc Trần Hưng Đạo thì cũng nhắc Trần Ích Tắc, nhắc Vua Quang Trung thì cũng nhắc Lê Chiêu Thống. Lịch sử sẽ phán xét các ngài một cách công bằng không vì cái tượng đồng hay một chiếc ghế giả ngai vàng.

Ngô Việt

danlambaovn.blogspot.com

Tốt với ngu bây giờ giống nhau?

Tốt với ngu bây giờ giống nhau?

Chuacuuthe.com

VRNs (21.02.2015) – Sài Gòn – Nói thật, trước giờ tôi rất ít khi xem phim Việt Nam vì hầu như nội dung của các bộ phim đều nhạt nhách, đôi khi hết sức vô duyên và tình tiết thì khiên cưỡng. Lợi ích có được chăng cũng chỉ là giúp người ta giải trí chứ ít để lại ấn tượng gì để mà suy gẫm…

Trong dòng phim Hài mùa Tết 2015 có lẽ đã có sự khác biệt khi “TRÚNG SỐ” được công chiếu và ít nhiều đọng lại trong tôi đôi điều trăn trở…

Bộ phim gây được ấn tượng sâu sắc với tôi cũng chỉ bởi vì nó gióng lên được một thông điệp, nó khái quát gần như đầy đủ bộ mặt thật và văn hóa sống của con người Việt Nam dưới chế độ thiên đường XHCN. Bây giờ sống tốt được xem là ngu, chân tình – thật thà là ngốc, gian dối, tham lam, lừa đảo là điều hết sức bình thường… Chỉ có điều bất thường là hầu như người ta xem những người dám sống tốt là những người bất bình thường!

Poster phim Trúng Số của đạo diễn Dustin Nguyễn

Poster phim Trúng Số của đạo diễn Dustin Nguyễn

Tôi chưa thấy ở nơi đâu mà giá trị “Tốt” được đánh đồng là “Ngu” và quả thật là rất đúng như ở xã hội Việt Nam hiện nay. Bạn có thừa nhận với tôi không: ở cái xứ sở này người tốt và việc tốt đang được xem như một điều lạ lùng và hiếm thấy. Nó khiến người ta phải ca ngợi, tôn vinh, nhắc nhở nó trên báo đài như một tấm gương, như bài học luân lý… mặc dù xét ở nhiều góc độ, cái được xem là người tốt, việc tốt ở Việt Nam cũng chỉ là điều hiển nhiên, là thứ văn hóa giao tế cộng đồng bình thường, là những nguyên tắc cơ bản được mặc định ở các xã hội khác trên toàn thế giới…

Bạn có bao giờ đặt câu hỏi và lý giải tại sao xã hội Việt Nam ngày nay lại tràn lan những sự việc suy đồi và đạo đức con người đang xuống cấp, tha hóa đến mức trầm trọng? Tôi không phải là giáo sư, tiến sĩ để có thể lý giải bằng thứ triết học cao siêu, uyên bác… Tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng Cha mẹ sống thế nào thì con cái thế ấy. Bản chất Chính quyền ra sao thì nảy sinh bản chất người dân như vậy! Bạn không thể đòi hỏi một xã hội lành mạnh và phát triển khi chính bộ phận điều hành xã hội đó chưa bao giờ được lành mạnh và sâu bệnh từ gốc đến ngọn.

Chế độ tại VN đã được hình thành và xây dựng với niềm tự hào là “cướp chính quyền” bằng sự khẳng định và tư liệu chính thống; Một đất nước với sách giáo khoa là những trang lịch sử ngụy tạo, xóa bỏ sự thật, che dấu sự giả dối! Một bộ máy với cơ chế và những con người luôn đặt lợi ích bản thân lên trên lợi ích đất nước và nhân dân… thì làm sao xây dựng được một xã hội biết nói không với giả dối? Biết tự trọng để nhìn nhận lỗi lầm? Biết quay lưng với sự gian tham? Biết giúp đỡ, lên tiếng phản đối bất công và gìn giữ sự thật, công bằng? Dám làm điều tốt mà không sợ nhầm lẫn và không bị xem là ngớ ngẩn khác lạ…

Với một chính thể và bộ máy điều hành như vậy thì Người dân biết dựa vào đâu để cùng xây dựng và vun đắp những giá trị luân lý? Biết dùng tấm gương tốt nào để học tập và noi theo? Thể chế và lãnh đạo toàn thể hiện điều xấu xa thì dân làm theo cũng là điều hiển nhiên!
Tốt và ngu bây giờ như nhau có đồng nhất không? Giống như Xứ sở này là thiên đường nhưng đang lao nhanh xuống địa ngục vậy? Y chang!

Bạch Cúc

Dư luận phẫn nộ về tư dinh xa hoa của ông Nông Đức Mạnh

Dư luận phẫn nộ về tư dinh xa hoa của ông Nông Đức Mạnh
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Tin tường thuật sự kiện Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn Thanh Niên CSVN đến chúc Tết ba cựu tổng bí thư Đảng CSVN hôm mùng 1 tháng 1 Âm lịch khiến công chúng phẫn nộ.

Ba tấm hình ông Nông Đức Mạnh tiếp Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Việt Nam tại tư gia hôm 19 tháng 2, 2015, khiến dư luận phẫn nộ. (Hình: Tiền Phong)

Các tờ báo trực thuộc Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Việt Nam như Tiền Phong, Thanh Niên vừa có tin tường thuật về việc Ban Bí Thư Trung Ương Đoàn Thanh Niên CSVN đến chúc Tết các ông: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh – ba nhân vật từng là tổng bí thư Đảng CSVN, Lê Đức Anh – cựu chủ tịch Nhà Nước Việt Nam và thắp nhang cho ông Võ Nguyên Giáp.

Lẽ ra sẽ chẳng có bao nhiêu người quan tâm đến sự kiện này nếu như tờ Tiền Phong không dùng ba tấm ảnh giới thiệu sự xa hoa tại tư gia của ông Nông Đức Mạnh. Phòng khách trong nhà ông Mạnh được bày biện như cung điện. Các vật dụng được chạm trổ cầu kỳ. Kiểu ghế giống như ngai vàng…

Nhiều blogger, Facebooker dẫn lại tin tường thuật này như một bằng chứng về việc tại sao giới lãnh đạo Đảng CSVN tìm mọi cách để Đảng CSVN nắm giữ độc quyền lãnh đạo: Toàn dân, toàn quân phải bảo vệ đảng để giới lãnh đạo Đảng CSVN có thể tiếp tục duy trì cuộc sống xa hoa, vương giả như thế…

Trong quá khứ, việc công bố hình ảnh liên quan đến tư gia của giới lãnh đạo Đảng CSVN đã từng được xem là “trọng án.”

Cũng vì vậy, người ta chưa rõ ba tấm ảnh vừa được tờ Tiền Phong công bố về tư gia của ông Nông Đức Mạnh kể liệu có biến thành một vụ “trọng án” hay không.

Trước Nông Đức Mạnh là Lê Khả Phiêu

Ngày 24 tháng 1 năm 2009, ban liên lạc đồng hương Thanh Hoá ở Hà Nội với đại diện là các ông: Lê Thế Chữ – trưởng ban liên lạc đồng hương Thanh Hoá, Lê Xuân Thảo – trưởng ban doanh nghiệp đồng hương Thanh Hoá, Hoàng Văn Đoàn – phó ban doanh nghiệp đồng hương Thanh Hoá, Lữ Thành Long – tổng giám đốc công ty Misa, Nguyễn Hồng Chung – chủ tịch công ty Luật Đại Việt, Bùi Việt Hà – giám đốc công ty HINCO, Nguyễn Hữu Hùng – công ty Truyền Thông Dầu Khí Việt Nam, Lê Xuân Tiến Trung – công ty Việt FT và một số người khác, cùng là dân Thanh Hoá đã đến tư gia ông Lê Khả Phiêu để chúc Tết, tặng quà cho cựu tổng bí thư Đảng CSVN…

Các thành viên trong đoàn đã được ông Lê Khả Phiêu đưa đi thăm tư gia và không rõ ai đó đã đưa hàng loạt ảnh lên Internet để tất cả mọi người có thể tận mắt mục kích, một cựu tổng bí thư của Đảng CSVN đang sống xa hoa như thế nào (?), sùng bái cá nhân mình ra sao.

Khắp nhà Lê Khả Phiêu, chỗ nào cũng có tượng đồng, tranh, ảnh của ông Lê Khả Phiêu, nhân vật này còn tặng cho các thành viên đến thăm, mỗi người một cuốn sách do Lê Khả Phiêu tự viết về mình với tên sách là… “Mênh mông tình dân”?

Đáng lưu ý là Lê Khả Phiêu từng được tôn vinh như một lãnh đạo liêm khiết, đi đầu trong việc chống tham nhũng nhưng trong tư gia của ông Phiêu lại có những báu vật quốc gia, cấm cá nhân sở hữu như trống đồng, hoặc những bộ ngà voi mà người ta lượng giá không dưới 50,000 Mỹ kim, hoặc vườn rau được trồng, tưới tự động, phục vụ nhu cầu của gia đình ông Phiêu, mà vốn đầu tư được ước đoán không dưới 20,000 Mỹ kim.

Lê Khả Phiêu cũng từng là nhân vật được xem như “tuyệt đối trung thành với lý tưởng Cộng Sản,” từng lớn tiếng dạy dỗ ông Bill Clinton khi ông đến thăm Việt Nam về sự ưu việt của Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Lúc đó, loạt ảnh chụp tư gia kèm theo lời bình về sự xa hoa và những tuyên bố giả dối “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” của ông Phiêu cũng như các viên chức cao cấp khác của đảng và chính quyền CSVN đã khiến dư luận trong nước rúng động. Những hình ảnh và lời bình này đã được phát tán rộng rãi trên Internet.

Các nguồn thạo tin kể rằng, đích thân ông Lê Hồng Anh, ủy viên Bộ Chính Trị, thời điểm đó là bộ trưởng Công An Việt Nam đã trực tiếp chỉ đạo điều tra. Sau đó, Công An Việt Nam xác định, trong nhóm đến thăm tư gia ông Phiêu, có ít nhất ba người mang máy ảnh và cả ba đều đã bị triệu tập để lấy lời khai, nhằm xác định xem người đưa tin vô danh là ai…

Nay, hình ảnh về tư gia của ông Mạnh cho thấy nó giống hệt tư gia của ông Phiêu ở cả sự xa hoa lẫn sự tôn vinh ông Hồ Chí Minh – “tấm gương” mà họ “nguyện suốt đời noi theo.” (G.Đ)

Báo Tiền Phong gỡ ảnh ‘nhạy cảm’

Báo Tiền Phong gỡ ảnh ‘nhạy cảm’

Một trong các bức ảnh đã bị gỡ bỏ

Tờ báo của Trung ương Đoàn Thanh niên CS vừa gỡ ba bức ảnh chụp tại tư gia cựu Tổng Bí thư Đảng CSVN Nông Đức Mạnh, vốn gây bàn tán trên các mạng xã hội.

Bài báo ‘ Ban Bí thư T.Ư Đoàn chúc Tết nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước‘ đăng hôm 19/2 phản ánh việc “Ban Bí thư T.Ư Đoàn do Bí thư thứ nhất T.Ư Đoàn Nguyễn Đắc Vinh dẫn đầu tới thăm, chúc Tết các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và thắp hương tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu (Hà Nội)”.

Sự kiện diễn ra sáng 19/2, tức sáng Mùng 1 Tết Ất Mùi.

Trong bài có một số ảnh đoàn đại biểu tới thăm và chúc Tết cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười; Lê Khả Phiêu; cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh và cựu Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.

Ba bức ảnh được cho là chụp tại tư gia ông Nông Đức Mạnh với nội thất màu vàng rực rỡ đã gây bàn tán khá nhiều trên các mạng xã hội.

Một bức mô tả ông Mạnh ngồi tiếp ông Nguyễn Đắc Vinh trong phòng khách có tượng Hồ Chủ tịch màu vàng bày trước mặt trống đồng cũng màu vàng.

Hai ông ngồi trên hai chiếc ghế bành có tay nắm hình đầu rồng, lưng ghế cao như ngai vàng.

Hai bức khác cũng được chụp trong căn phòng trên, nhưng có nhiều người hơn.

Tư gia ông Nông Đức Mạnh trên các bức ảnh khá khác biệt với nhà của hai ông tiền nhiệm Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu.

Ba bức ảnh nhanh chóng được lưu truyền trên mạng xã hội Facebook với nhiều bình luận khen chê.

Báo Tiền Phong sau đó đã gỡ bỏ ba bức ảnh này và thay bằng một bức khác trung tính hơn mô tả đoàn đại biểu chụp hình lưu niệm cùng ông Nông Đức Mạnh và các em thiếu nhi quàng khăn đỏ. Bức này không nhìn rõ nội thất.

Ông Nông Đức Mạnh, sinh năm 1940, làm tổng bí thư Đảng CSVN hai nhiệm kỳ từ 2001 tới 2011.

Trước đó ông làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam từ 1992 đến 2001.

Nghịch lý ở Việt Nam: Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi.

Nghịch lý ở Việt Nam: Một quốc gia nhỏ chỉ ăn rồi chơi.

Tác Giả : Tạ Duy Anh

Xahoi – Có lẽ không quốc gia nào mà cuộc sống của giới công chức chứa nhiều điều nghịch lý như ở Việt Nam.


Lương không đủ sống nhưng lại thuộc thành phần khá giả của xã hội; đã vào biên chế là có thể nằm lỳ cho đến hết đời, ngang nhiên đòi hỏi mọi chế độ phúc lợi, ngay cả khi chẳng làm gì; là người làm thuê cho dân nhưng lại hành xử như ông chủ có quyền ban ơn; năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm trước công việc phần lớn ở mức trung bình và thấp, nhưng cực kỳ có khả năng trong việc kinh doanh “quyền lực Nhà nước” để tư lợi …Nhưng điều nghịch lý nhất là một nền hành chính cồng kềnh, ì ạch, dôi dư cả triệu người như vậy lại vẫn cứ ngày một phình to?

Trong một hội nghị có đưa tin trên truyền hình và sau đó hầu như các báo đều đưa lại, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói thẳng ra rằng: “Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Nói cách khác, cái số 30 % công chức đó hoàn toàn không cần thiết, y như cái bướu trên cổ. Với 2,8 triệu công chức, chỉ cần làm phép tình nhẩm cũng ra ngay con số thuộc diện có cũng như không kia khoảng 800.000. Nghĩa là mỗi 100 người dân Việt Nam, phải nuôi không một ông (bà) vô công rồi nghề mang danh công chức! Vậy tại sao một nền dịch vụ công chỉ cần 2 triệu người, mà phải trả lương cho tận những gần ba triệu? Ai phải chịu trách nhiệm về vấn đề này? Trong khi chưa thể tìm ra câu trả lời, chúng tôi chỉ xin làm thứ công việc đơn giản hơn là giúp mọi người hình dung một phần cái gánh nặng vật chất và tinh thần mà cả xã hội đang phải è lưng chịu đựng để “cõng” gần một triệu công chức dư thừa đó.

Trước hết, 800 ngàn người lớn đến mức nào? Đó là số dân (hơn kém chút ít) của Cyprus, Bahrain, Bhutan, Qatar, Đông Timor…Hay nó có quy mô gấp đôi dân số Luxemburg, Brunei, Malta, Iceland…

Thứ hai, và đây là vấn đề chính, cần bao nhiêu tiền để nuôi cái đám công chức thừa thãi ấy? Chắc chắn là không ai có thể tính chính xác, vì có những công chức thuộc loại dư thừa, nhưng lại hưởng mức thu nhập nhiều người mơ ước. Hẵng chỉ tính đơn giản thế này: Mỗi người trong số đó, vì họ là công chức, nên thuộc diện thu nhập trung bình khá (so với mức 1000 USD trung bình) sẽ nhận của Nhà nước khoảng 60 triệu đồng (3000 USD) một năm. Nghĩa là cần số tiền lên tới 50.000 tỷ đồng ( 2,5 tỉ USD) cho việc chi lương để ngày ngày 800.000 người ăn mặc sang trọng chỉ để “sáng vác ô đến cơ quan, tối vác ô về nhà” mà không làm bất cứ việc gì. Tuy nhiên, số tiền phải bỏ ra phục vụ việc ngồi chơi xơi nước của “một quốc gia nhỏ” ấy trên thực tế còn lớn hơn nhiều.

Theo thông lệ thì số tiền lương cho công chức chỉ bằng hai phần ba số tiền phải chi ra để họ có thể làm việc, được tính vào khoản duy trì hoạt động của cơ quan Nhà nước. Đó là tiền thuê nhà, tiền điện, tiền điện thoại, tiền khấu hao tài sản, tiền phúc lợi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chi phí đi lại và cơ man nào những thứ tiền khác được gọi bằng cái tên chung là văn phòng phí. Khiêm tốn tính gộp thì con số 50.000 tỉ đó phải cộng thêm khoảng 20.000 tỉ đồng. Giờ ta thử xem 70.000 tỷ đồng nhiều đến mức nào? Nó nhiều hơn toàn bộ số tiền thu được từ xuất khẩu gạo năm 2012; nó bằng khoảng 5 lần số tiền phí bảo trì đường bộ mà Bộ GTVT dự kiến thu được hằng năm từ ô tô, xe máy với giả phải trả là hứng chịu biết bao lời chì chiết của dư luận; nó bằng già nửa số tiền 120.000 tỉ đồng cần để nâng cấp quốc lộ 1A lên thành đường bốn làn xe ô tô; nó giúp cho khoảng 7 triệu dân miền núi đủ gạo ăn trong một năm để không phá rừng. Nếu có ngần ấy số tiền, toàn bộ các xã nghèo miền núi có trường học, có chợ, có đường trải bê tông. Nó có thể mua được số bò giúp cho Chương trình Lục lạc vàng duy trì liên tục 1500 buổi, với khoảng 9000 gia đình nông dân thuộc dạng nghèo nhất nước có cơ hội đủ cơm ăn. Nó là con số dài tới mức mà không một nông dân bình thường nào đọc chính xác được.

Nhưng đấy mới chỉ tính về khoản vật chất, cho dù không hề nhỏ nhưng chưa chắc đã là lớn nhất. Tai hoạ của nạn biên chế tràn lan là nó khiến cho bộ máy hành chính công của chúng ta thuộc loại công kềnh, kém hiệu quả và lạc hậu vào loại nhất khu vực. Nhàn cư vi bất thiện. Vì không làm gì nên những ông, bà công chức thừa thãi trên trở thành những “con bệnh” của xã hội. Ta hãy xem họ làm gì mỗi ngày để tiêu hết 8 giờ vàng ngọc? Nếu là đàn ông thì phần lớn lướt web, chơi game oline, xem phim sex, tìm cách vào nhà nghỉ với chính đồng nghiệp của mình. Thời gian còn lại ngồi nghĩ mưu kế tư lợi hoặc hại người khác. Còn với thành phần nữ giới thì shoping tối ngày, ăn uống, khoe của tối ngày, buôn dưa lê tối ngày…

Nhiều người coi trụ sở cơ quan chẳng hơn gì cái bếp nhà mình, tranh thủ tận dụng điện nước miễn phí để nấu nướng. Số còn lại, nếu không làm những việc như trên, thì làm chim bói cá, cứ thấy ở đâu có mầu mỡ là đến. Cũng vì thừa dẫn đến lười, ích kỷ, đấu đá chèn ép nhau thay vì thực thi công vụ. Có rất nhiều người cả một đời công chức chỉ chuyên kiện cáo, lao vào đấu đá vì những lợi ích cá nhân. Nhưng lương của họ thì vẫn cứ đến hẹn lại lên. Chức của họ thì cứ đến tuổi là đến. Kèm với lương với chức là đủ thứ tiêu chuẩn ưu đãi khác. Những công bộc này, về nguyên tắc là những người giúp việc cho “ông chủ” Nhân dân, nhưng trên thực tế cũng là những người quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham lam, làm khổ “ông chủ” vào loại nhất thế giới. Làm bất cứ việc gì thuộc phạm vi chức phận cũng đòi lót tay. Trong bất cứ nhiệm vụ nào cũng lồng lợi ích của mình vào. Từ lái xe, nhân viên đóng dấu, nhân viên gác cổng…đến những người có tí chức, tí quyền đều là những kẻ chỉ thạo ăn tiền, vòi vĩnh, hạch sách…biến cửa Công đường thành nơi nhếch nhác, bất tín, đáng sợ hơn cả hang hùm. Nền đạo đức xã hội xuống cấp, có phần đóng góp không nhỏ của những thành phần được gọi là công chức ấy.

Nhưng thiệt hại vẫn chưa dừng lại ở đó. Nạn chạy chức chạy quyền thì ai cũng biết. Nhưng nạn chạy chọt để được thành công chức Nhà nước còn khốc liệt hơn và cũng bi hài hơn rất nhiều. Vì số người tham gia luôn rất đông, diễn ra trên một diện rộng, với sự tham gia của mọi thành phần. Nó làm hư hỏng cả người có quyền nhận và người được nhận. Người có quyền nhận thì một khi đã lấy tiền, đã nhúng chàm, làm sao còn dám yêu cầu cấp dưới phải nêu cao đạo đức, kỷ cương, nhân cách-ngoại trừ đó là một truyện hài! Người được nhận vào làm công chức thì cậy tiền nên không cần học, không cần trau dồi chuyên môn, coi thường kỉ cương, phép tắc. Đó là chưa kể họ phải tìm cách ăn chặn, ăn bẩn, vơ vét bằng mọi cách để bù lại số vốn đã bỏ ra.

Nhưng những bệnh tật trên, dù rất trầm trọng, nếu quyết tâm ngăn ngừa, vẫn còn nhiều hy vọng chữa chạy, dù rất tốn kém. Song có một thứ bệnh do nạn chạy công chức gây ra rất khó chữa, thuộc loại nan y, là bệnh ỷ lại, lười biếng và mất khả năng tự trọng. Căn bệnh thuộc loại lây nhiễm này có thể huỷ hoại nhân cách cả một thế hệ, góp phần làm nghèo đất nước. Người ta cần một cái bằng đại học với bất cứ giá nào đôi khi không phải để sau đó làm việc, cống hiến, mà để có cơ hội gia nhập cái đội quân công chức vốn là thừa thãi kia. Với những người này, cái điều đáng lẽ thành nỗi xấu hổ khi chả làm gì ngoài việc “sáng vác ô đi, tối vác ô về”, thì lại là mục tiêu phấn đấu, là sự nghiệp của đời họ. Liệu có khác gì một thứ quốc nạn?

Mưa xuân – Bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu hay nhất của Nguyễn Bính

Mưa xuân – Bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu hay nhất của Nguyễn Bính

RFA

NGUYỄN TƯỜNG THỤY

Thơ Nguyễn Bính hay hơn ở những sáng tác trước năm 1945, tức là khi ông chưa sáng tác theo phương pháp hiện thực XHCN, chưa có tính đảng. Đây cũng là nét chung của các nhà thơ trong phong trào thơ mới như Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận, Chế Lan Viên…

Trong giai đoạn này thì thời kỳ 1936-1940 là thời kỳ rực rỡ nhất của thơ Nguyễn Bính, trong đó thành công hơn cả là mảng mùa xuân – làng quê – tình yêu. Sau đó thì đuối dần.

Khi chọn 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20, chia đều cho100 tác giả, mỗi tác giả 1 bài thì với Nguyễn Bính, người ta chọn bài “Những bóng người trên sân ga”. Không ai phủ nhận đấy là một bài thơ hay nhưng nếu được quyền, tôi sẽ chọn bài “Mưa xuân”. Khi giới thiệu 8 bài thơ của Nguyễn Bính vào “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh không lấy bài này cũng như “Những bóng người trên sân ga”

MƯA XUÂN

Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già

Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

Thế nào anh ấy chả sang xem!

Em xin phép mẹ, vội vàng đi

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.

Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

Em mải tìm anh chả thiết xem

Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.*

Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê!

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

(* Có bản chép “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”, hoặc “lỡ làng”)

Đã có nhiều bài bình về bài thơ này, mỗi người cảm thụ một vẻ, nhưng cũng có những phần giao thoa.

Mùa xuân trong bài thơ có mưa bụi, có hoa xoan, có hội chèo. Ba nét ấy là những nét chấm phá nói về mùa xuân ở làng quê. Bức tranh làng quê sống động hẳn qua ngòi bút của ông. Cách dùng chữ của ông thật tài tình. Mùa xuân đẹp đến hạt mưa cũng bay phơi phới, như nỗi lòng con gái dậy thì, đầy nhựa sống và xúc cảm. Tác giả đã thổi hồn vào hạt mưa thật đẹp. Chữ phơi phới nhiều người dùng, nhưng dùng làm tính từ kèm theo mưa xuân thì chỉ Nguyễn Bính.

Qua hình ảnh “hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy, ta biết bối cảnh trong bài thơ là vào tháng Ba. Lúc này, ở làng quê đang tiếp tục mùa lễ hội. Trong các lễ hội thường có diễn chèo, diễn tuồng, gọi chung là đi xem hát, chứ không nói là xem chèo hay xem tuồng (hát bội). Hát ở đây không phải là chương trình ca nhạc như bây giờ. Đó là các gánh hát tư nhân thường diễn các tích chèo, tuồng cổ. Các đôi trai gái đang yêu vụng nhớ thầm thường mượn những nơi hội hè, phiên chợ để tìm cơ hội gặp nhau. Nhưng cũng chỉ là lúc mới thương thương nhớ nhớ mơ hồ thôi, chứ khi họ đã thuộc về nhau rồi thì chẳng dại gì đem nhau ra những nơi ấy. Họ có bờ ao, gốc cây riêng của họ.

Cô gái trong bài thơ cũng thế. Lý do là đi xem hát nhưng là để mong gặp chàng trai đấy thôi chứ thiết gì xem. Đi chơi cần tiết trời đẹp. Nhưng vì trời đang mưa nên cô phải thử:

Em ngửa bàn tay trước mái hiên

Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh.

Và cô nghĩ mưa nhưng nhẹ để cho rằng “Thế nào anh ấy chả sang xem”. Cũng qua câu này, ta biết đây không phải là cuộc hẹn mà cô gái phỏng đoán, là hy vọng đấy thôi. Nhưng cũng đáng trách chàng trai là trước đó có hứa, có hẹn gì đấy nhưng không cụ thể, theo kiểu sẽ thế này, sẽ thế nọ.

Cô gái ở đây là con nhà bình dân làn nghề canh cửi, có khuôn phép. Cô đang độ xuân thì, còn trong trắng, ví như “cây lụa trắng” mà quyền bán là của người mẹ. Ấy thế nhưng không thể đóng khao khát yêu đương của cô vào một cái khuôn nào đó:

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Hai chữ “hình như” và “có lẽ” đặt vào tâm trạng cô gái lúc này là rất chính xác. Cắt nghĩa ra thì nó không mang tính khẳng định nhưng ai cũng biết má cô bừng đỏ thật, cô đang nghĩ đến người yêu thật, chứ không phải “hình như” hay “có lẽ”. Cô vừa muốn thừa nhận lại vừa sợ người khác biết, thậm chí muốn dối lòng mình nên chỉ lấp lửng như vậy thôi. Nó còn nói lên tâm trạng phân tâm, nên đi hay không đi.

Cuối cùng thì cô đã bị tình cảm lấn át:

Em xin phép mẹ vội vàng đi.

Tác giả tả cảnh, tả tình thật tuyệt vời. Người và cảnh hòa quyện đến độ con đê, hạt mưa, hoa xoan cũng biết vui, biết buồn.

Sau khi “chờ mãi anh sang anh chẳng sang”, cô gái “lầm lụi trên đường về”. Có một sự trách nhẹ ở đây:

Thế mà hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.

Ai đã từng một lần mong gặp người yêu mà không được sẽ thấu hiểu hơn tâm trạng cô gái lúc này. Nguyễn Bính diễn tả tâm lý cô gái khi đi và khi về rất tinh tế. Ông sử dụng thủ pháp tương phản rất hiệu quả. Đây là điều cơ bản tạo nên sự thành công của bài thơ.

Hãy đọc lại những cặp câu tương phản sau:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Mưa bụi nên em không ướt áo/ Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Thôn đoài cách có một thôi đê/ Có ngắn gì đâu một dải đê

Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay/ Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày

Tình cảm của cô gái đã rõ, còn chàng trai đối với cô gái như thế nào? Chàng được nhắc đến hai lần:

… hôm nọ hát bên làng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Và:

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang.

Có thể nói anh chàng này rất khả nghi, còn tình cảm cô gái rất mãnh liệt. Mặc dù việc không gặp được người yêu làm cho “cả mùa xuân cũng bẽ bàng” nhưng cô gái vẫn tha thiết, mòn mỏi, hy vọng.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

Và với cả sự trách nhẹ của cô đã nhắc trên đây nữa, ta thấy ở cô một tấm lòng bao dung, trong sáng và cao đẹp.

Khi yêu, thường là người con trai chủ động hơn người con gái. Nói như thế, không phải là tình yêu của con trai mãnh liệt hơn. Cô gái ở đây chỉ có một hành động duy nhất là sang hội chèo xem có gặp người ta không, rồi về, thế thôi. Nếu như chàng trai cũng sang xem hát, chắc là cô sẽ không hỏi trước, không tỏ ra vồn vã. Đó là sự kín đáo của con gái, nhất là con gái nhà quê. Nhưng ai bảo là cô không khao khát yêu đương.

Kể ra, bài thơ có thể thay nhân vật cô gái bằng chàng trai. Như vậy có vẻ hợp với lẽ thường hơn. Nhưng nếu thế, có lẽ bài thơ kém hay đi nhiều. Chợt nhớ Huy Thục, ít nhất đã có 2 lần đổi ngôi anh thành ngôi em khi phổ nhạc. Đó là bài “Đợi” của Vũ Quần Phương, “Trăng khuyết” của Phi Tuyết Ba, và cái sự có vẻ trái khoáy ấy làm cho bài hát thành công hơn hẳn:

Anh ngỏ lời yêu em => Em ngỏ lời yêu anh

Anh đứng trên cầu đợi em => Em đứng trên cầu đợi anh.

Trở lại bài “Mưa xuân”. Bài thơ được bố cục rất chặt chẽ. Ta không thể thay đổi vị trí các câu, các khổ thơ cho nhau, cũng không thể bỏ đi hay thêm vào một khổ thơ nào. Từ ngữ được huy động đầy dụng ý, không có một chữ nào khiên cưỡng. Khó có thể thò bút chữa đi một chữ mà không làm suy giảm giá trị của bài thơ. “Những bóng người trên sân ga” cũng được bố cục rất chặt chẽ nhưng ở “Mưa xuân”, ý và chữ nghĩa hay hơn, đẹp hơn. Có thể nói, “Mưa xuân” là một bài thơ toàn bích.

Nguyễn Bính không cố đi tìm những từ lạ, lối diễn đạt lạ. Ông chỉ sử dụng ngôn ngữ bình dân nhưng với ngòi bút tài hoa, ông đã để lại cho đời nhiều bài thơ xuất sắc, trong đó “Mưa xuân” – một bài thơ tình tuyệt đẹp là ví dụ điển hình.

Tháng 2/2013

Tháng 2/2015

NTT

.benmonguyenbinh

Tác giả bài viết bên mộ Nguyễn Bính

Những thương phế binh VNCH không có Tết

Những thương phế binh VNCH không có Tết

Nguoi-viet.com

Việt Hùng/Người Việt

SÀI GÒN (NV)Trên đường phố Sài Gòn ngày 30 Tết Ất Mùi có những phận đời hẩm hiu, xem đường phố là nhà. Họ là những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mưu sinh giữa lòng Sài Gòn khi năm mới cận kề.

Nếu ai đó đã từng đi qua ngã tư Ðiện Biên Phủ-Lê Quí Ðôn, Quận 3, Sài Gòn, ắt hẳn từng bắt gặp hình ảnh một người đàn ông, khoảng 68 tuổi, bị mất cả 2 chân, tay cầm xấp vé số, giơ lên hua qua hua lại: “Các cô các chú giúp giùm một tờ vé số.”



TPB Nguyễn Văn Quang bị mất 2 chân đang bán vé số. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Ðó là chú thương phế binh Nguyễn Văn Quang, số quân 52/711750, thuộc đơn vị Tiểu Ðoàn 328, địa phương quân Tiểu Hậu, xã Hậu Nghĩa, Huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

Chú Quang cho biết: “Hôm nay đã là 30 Tết rồi, chú cố gắng ra đây bán, để kiếm thêm một ít mua vài món quá về làm lễ cúng giao thừa. Nhà trọ của chú ở huyện Nhà Bè, cách đây hơn 30km, chú không có tiền nên phải thuê xa cho nó rẻ…”

Bữa trưa của chú Quang là ổ bánh mì, xong rồi tiếp tục bán cho đến hết khoảng 100 tờ vé số mới nghỉ.

Lau những giọt mồ hôi trên trán, chú cho biết thêm: “Tôi là lính VNCH, tôi bị mất cả 2 chân trong chiến dịch Phượng Hoàng vào năm 1969. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên tôi mới phải đi bán vé số thế này. Nhà nước này không hoan nghênh những trường hợp như tôi, nhưng tôi luôn tự hào vì mình là người lính VNCH, đã chiến đấu cho sự bình yên của miền Nam Việt Nam.”

Khi biết chúng tôi muốn viết phóng sự về những người lính VNCH, chú còn nhiệt tình cho vài số điện thoại của những người bạn mà chú biết. Chú nói thêm: “Hầu hết người lính VNCH bây giờ có hoàn cảnh rất khó khăn, như chú là còn có sức khỏe để bán vé số, chứ nhiều người bây giờ phải nằm liệt giường, hoàn cảnh rất thương tâm.”

Trước khi chào chú ra về, chú Quang còn lấy trong đống hành lý những tấm hình lính cũ ngày xưa mà chú đã cất giữ rất cẩn thận để chúng tôi xem.



TPB Nguyễn Văn Tài hành nghề xe honda ôm, khuôn mặt buồn bã khi không có khách. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Cũng tương tự như trường hợp chú Quang, chú Ðoàn Quang Thí (số quân 131798, đơn vị Triệu Phong, Quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) cũng làm nghề bán vé số ở ngã tư Bà Huyện Thanh Quan-Lý Chính Thắng, Quận 3, Sài Gòn.

Sài Gòn những ngày cận Tết trời nắng gắt, thế nhưng trưa 30 Tết, chúng tôi vẫn bắt gặp chú ngồi trên chiếc xe lăn, tay cầm xấp vé số hua qua hua lại: “Ngày 30 rồi cô chú ơi, mua giúp tờ vé số lấy hên may mắn đầu năm.”

Chú tâm sự: “Chú bị thương vào mùa Hè đỏ lửa 1972 ở Quảng Trị. Trọng một lần hành quân, đơn vị của chú bị tập kích của địch, chú bị trúng đạn xuyên sống lưng, bị đứt dây thần kinh, nên 2 chân hoàn toàn bị bại liệt. May mắn còn giữ được tính mạng.”

Chú còn cho biết thêm: “Chú không có nhà cửa, cũng không có tiền thuê nhà, bởi vậy mọi sinh hoạt của chú đều trên xe lăn. Buổi tối chú về chỗ nhà thờ Mai Khôi (12 Tú Xương, Quận 3) và lấy nhà vệ sinh chung của nhà thờ để tắm rửa. Ban đêm chú ngủ trên xe lăn ở mai hiên nhà thờ.”

Tuy hoàn cảnh rất thương tâm, thế nhưng khi được chúng tôi hỏi về đời lính, chú rất hào hứng: “Chú sinh ra trong thời chiến, chú tự hào vì đã cầm súng cho chế độ VNCH. Nếu có sự lựa chọn làm lại, thì chú vẫn sẽ làm lính VNCH, vì miền Nam là quê hương máu mủ của chú.”

Những ngày này không khí Tết đã lan tỏa khắp các thôn xóm Việt Nam, nhiều người hồ hởi sắm sửa Tết cho gia đình, nhưng cũng có nhiều người Tết như một giấc chiêm bao mà ở đó cảm giác nửa mơ nửa tỉnh, nửa đói nửa buồn, nửa tồn tại, nửa mơ hồ cứ vây bủa lấy họ.

Ðiển hình là TPB VNCH Nguyễn Văn Tài, số quân 75109488, Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, Lữ Ðoàn 1, chỉ huy trưởng là Trung Úy Thăng, trung đội trưởng là Thiếu Úy Tâm. Hiện nay chú đang làm nghề xe ôm ở góc ngã ba Võ Thị Sáu-Lê Quí Ðôn.

Chúng tôi bắt gặp chú vẫn đang chở đồ thuê vào chiều 30 Tết. Chú cho biết: “Trước đây thì còn có khách đi xe ôm, bây giờ sát Tết rồi, không ai đi xe nữa, nên tôi chuyển sang chở hàng cho khách.”



TPB Ðoàn Quang Thí bị liệt 2 chân ngồi xe lăn bán vé số. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)

Chú tâm sự: “Chú bị thương vào ngày 23 tháng 12, 1972 vào mua Hè đỏ lửa ở Quảng Trị. Trong một lần nhảy dù xuống để yểm trợ cho quân ta, tiểu đoàn của chú đã bị trúng mìn của địch. Hấu hết đều bỏ mạng vào lúc đó, chú may mắn chỉ bị thương ở chân, nhưng phải cắt bỏ để giữ lấy tính mạng.”

“Ngày mai là mồng Một Tết rồi, tôi cố gắng chạy thêm vài ‘cuốc’ nữa để kiếm thêm chút ít, ngày mai mồng một hẳn nghỉ. Tôi thuê nhà ở quận 9, cách xa chỗ này khoảng 20km. Thuê ở xa cho nó rẻ, chứ ở trung tâm này mắc quá…”

Có lẽ ngày 30 Tết, ai cũng muốn về nhà để yên vui với gia đình, con cái. Thế nhưng với những người từng là lính VNCH, thì mơ ước nhỏ nhoi đó lại là bài toán mà họ đã tìm cách giải hơn 40 năm nay vẫn chưa được.

Cuộc sống có vẽ như quá bất công với họ. Mỗi con người một hoàn cảnh, một ngành nghề kiếm sống khác nhau, thế nhưng điều đọng lại cho người viết khi tiếp xúc với họ đều có một mẫu số chung “Tôi tự hào là một người lính VNCH.”

Từ thế kỷ trước, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết ra câu thơ mô tả dân nghèo thời đấy: “Có một người nghèo không biết Tết. Mang lì chiếc áo độ thu tàn.” Thế nhưng một thế kỷ trôi qua, câu thơ này vẫn con nguyên giá trị của nó.

Thêm một cái Tết nữa đã đến, mùa Xuân đã về. Nhưng còn nhiều lắm những hoàn cảnh TPB VNCH với bao nỗi lo toan vất vả. Mỗi dịp Tết đến là một lần họ lại chạnh lòng thấm thía thân phận của mình trong xã hội Việt Nam hiện nay.