LUYỆN NGỤC CUỘC THANH TẨY CUỐI CÙNG
httpv://www.youtube.com/watch?v=9q67amJSTXA
httpv://www.youtube.com/watch?v=9q67amJSTXA
“Nhân đức anh hùng” của cậu thiếu niên12 tuổi được ĐTC Phanxicô công nhận
VRNs (11.11.2014) – Sự ra đi của cậu trai 12 tuổi vào năm 1970 cùng với 7 người đàn ông và phụ nữ khác đã bước gần hơn tới việc tuyên thánh vì ĐTC Phanxicô đã công nhận nhân đức anh hùng của cậu. Thông báo này đã được ĐHY Angelo Amato trường Thánh bộ Phong Thánh công bố hôm 7 tháng 11.
ĐTC đã ủy quyền để Thánh bộ Phong thánh tuyên bố 8 trường hợp được tôn phong lên Bậc đáng Kính, gồm có giáo dân, linh mục và các tu sĩ, trong số này cũng có trường hợp của cậu Silvio Dissegna.
Sinh ngày 1 tháng 7 năm 1967 ở tỉnh Turin của Moncalieri, Italia – cậu Dissegna đã được chuẩn đoán bị ung thư xương hồi đầu năm 1978.
Theo thông tin trên website dành riêng về trường hợp của cậu (www.silviodissegna.org) cho biết, cậu đã trải qua thời gian đau bệnh trong việc cầu nguyện và đặc biệt là lòng sùng ái mãnh liệt đối với Kinh Mân côi. Cậu đã hiến dâng sự đau khổ cùng với lời cầu nguyện cho ĐGH, cho các nhà truyền giáo, những hối nhân trong số các ý nguyện của mình. Cậu đã chết vào ngày 24 tháng 9 năm 1979 ở Poirino của Ý.
Marthe Louise Robin, một giáo dân nữ người Pháp và là nhà sáng lập của tổ chức cứu trợ Foyers cũng đã được công nhận nhân đức anh hùng, bà Robin được cho là một nhà huyền bí và bị bêu xấu. Bà mất vào ngày 6 tháng 2, 1981.
Một người Pháp khác là bà Jeanne Mance là người sáng lập của bệnh viện Hotel-Dieu (Hotel-Dieu hospital) ở Montréal, Canada. Bà mất ở Montréal ngày 18 tháng 6, 1963.
ĐTC Phanxicô cũng đã thông qua những bước tiến mới trong trường hợp của cha John Sullivan, một linh mục dòng tên người Ailen. Cha mất ở Dublin 1933.
Một số Bậc đánh Kính mới khác có trong danh sách gồm có, Linh mục người Đức, cha Pelagius Sauter; tu sỹ Phanxicô người Chile, Francesco Massimiano Valdes Subercaseaux; Bề trên và là người sáng lập dòng Các chị em bảo trì gương mặt Thánh của Chúa Giê-su (Sisters of the Reparation of the Holy Face of Jesus), nữ tu Ildebrando Gregori người Ý; và linh mục người Ý Raimondo Calcagno của Nhà nguyện thánh Philip Neri.
Việc công nhận một người là “Đấng đáng kính” là một bước trong quá trình dẫn đến việc tuyên thánh. Để chuyển sang bước tiếp theo – là giai đoạn tuyên phong chân phước – phải có ít nhất một phép lạ được chuyển cầu từ người đó, nếu người đó không phải là một vị tử đạo. Và theo thông lệ, nếu một phép lạ thứ hai được xác nhận thì người đó sẽ được tuyên bố là một vị thánh, mặc dù yêu cầu này có thể được miễn bởi ĐTC.
Pv. VRNs
ĐTC: cá nhân chủ nghĩa sẽ không bao giờ đạt được hòa bình và công lý
VRNs (12.11.2014) -theo zenit- Trong một bức thư ký ngày 06.11 vừa gửi đến Thủ tướng Australia, ông Tony Abbott, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh giác rằng một “suy nghĩ mang tính cá nhân chủ nghĩa kết cục sẽ bị sa thải và không bao giờ đạt được công lý và hòa bình.”
Lá thư vừa được gửi đi nhân dịp hội nghị thượng đỉnh G20 sắp tới, sẽ diễn ra vào cuối tuần này tại Brisbane, Australia. Đức Thánh Cha nói rằng cuộc họp sẽ mang đến một cơ hội cho cả thế giới để “góp phần đáng kể cho Châu Đại Dương trong việc quản lý giao thương trên thế giới.”
Đức Thánh Cha nói rằng cuộc họp sắp tới diễn ra vào thời điểm quyết định khi đòi hỏi của công ăn việc làm cần phải được đáp ứng bằng cách đánh thuế công bằng và minh bạch trong lĩnh vực tài chính. Ngài cũng kêu gọi người đứng đầu nhà nước và chính phủ “đừng quên rằng đằng sau các cuộc thảo luận chính trị sẽ có những mảnh đời bị đe dọa.”
Đức Thánh Cha đã viết trong bức thư như sau: “Các nước G20 thừa nhận rằng, trên khắp thế giới, còn có quá nhiều trẻ em bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng; gia tăng số lượng người thất nghiệp; một tỷ lệ rất cao của những người trẻ không có việc làm và tệ nạn xã hội gia tăng có thể dẫn đến nguy cơ phạm tội và thậm chí những kẻ khủng bố còn thông báo tuyển dụng người.”
“Ngoài ra, môi trường tự nhiên bị tấn công do hậu quả của chủ nghĩa tiêu thụ không vô độ, và điều này sẽ gây nên tình trạng đáng lo ngại cho nền kinh tế thế giới.”
Khi nhận đình về tình hình hiện tại của an ninh toàn cầu và hòa bình, đặc biệt là ở Trung Đông, Đức Thánh Cha bày tỏ niềm hy vọng về một sự đồng thuận có thể khơi lên ở đây. Ngài cũng kêu gọi một sự thỏa thuận rộng lớn hơn nữa giữa các quốc gia, thông qua hệ thống pháp lý của Liên Hợp Quốc, để chấm dứt việc xâm lược, bách hại các tôn giáo và dân tộc thiểu số.
Về thỏa thuận này, ngài viết: “nên loại bỏ hẳn tận gốc rễ các nguyên nhân đưa đến chủ nghĩa khủng bố, mà cho đến nay nó đã bành trướng không thể tưởng tượng nổi. Chủ nghĩa này đã gây nên bao nghèo đói, kém phát triển và loại trừ.”
ĐTC cũng nói rằng cần phát triển giáo dục và tôn giáo không thể sử dụng để biện minh cho hành vi bạo lực.
Ngài viết như sau: “Tình hình ở Trung Đông đã khơi lên một cuộc tranh luận về trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ các cá nhân và các dân tộc thiểu số. Các hành vi bạo lực này tấn công vào nhân quyền và bất chấp pháp luật.”
“Cộng đồng quốc tế, và đặc biệt là các nước thành viên G20, nên đưa ra suy nghĩ về việc cần thiết phải bảo vệ công dân của tất cả các nước tránh mọi hình thức xâm lược.”
Đức Thánh Cha cũng đề cập đến điều gọi là “lạm dụng trong hệ thống tài chính” đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Ngài cảnh báo chủ nghĩa cá nhân sẽ làm người ta ném đi mọi thứ, “sẽ không bao giờ đạt được hòa bình và công lý.”
ĐTC khẳng định: “Trách nhiệm đối với người nghèo và bị áp bức phải là một yếu tố thiết yếu của bất kỳ quyết định chính trị nào, cho dù ở cấp quốc gia hay toàn cầu”.
Kết thúc lá thư, ĐTC bày tỏ sự đánh giá cao đối với công việc của Thủ tướng Abbot và chuyển lời “cầu nguyện khích lệ” của ngài đến các tham dự viên Hội nghị thượng đỉnh G20.
Hoàng Minh
httpv://www.youtube.com/watch?v=D_5uqvXhiUo
httpv://www.youtube.com/watch?v=rVbTQbOpqac
Dân Việt làm gì có quyền bầu cử
Hoàng Long Gửi tới BBC từ Hà Nội
Ông Nguyễn Minh Thuyết trong buổi tọa đàm trực tuyến qua Hangouts-on-Air của BBC Tiếng Việt nói: “Nếu hỏi vì sao chúng ta lại có một Quốc hội mà người dân không hài lòng như vậy, thì tôi cho là chính người dân cũng phải tự trách mình.”
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết mới đây cho rằng khi có một Quốc hội mà người dân không hài lòng như vậy thì “chính người dân phải tự trách mình” và nếu “chọn lọc cẩn thận thì lúc ấy mình sẽ có Quốc hội như ý”.
Cảm ơn giáo sư đã thẳng thắn nói rằng Quốc hội bây giờ chưa tốt, nhưng có lẽ giáo sư chưa bao giờ đi thị sát một cách đầy đủ các điểm bỏ phiếu ở địa phương.
“Trò bầu cử”
Người dân bao năm qua vẫn thắc mắc rằng: mình không bầu cho ông này, người xung quanh cũng không ai bầu, vì chẳng ai (trừ số ít người quen họ hàng ứng viên) muốn ông ấy làm thêm nhiệm kỳ nữa, thế mà ông ta vẫn tái đắc cử như thường.
Cũng chỉ thắc mắc đến thế chứ không ai nhọc công mạo hiểm tìm tòi thêm, may mà nhà tôi có người quen được ở trong Ban kiểm phiếu: “Ôi ăn gian lắm em ơi, chỉ những vị trí cấp thấp thì may ra…”.
Thế là từ đó tôi đã biết nguồn gốc của từ “trò bầu cử”.
Ngay cả ở vị trí thấp nhất người dân còn chẳng bầu được thì lấy đâu ra tác động được tới vị trí Đại biểu Quốc hội, và đương nhiên lên đến những lãnh đạo cấp cao nhất thì không có quyền rồi, đến đây thì đã là luật.
“Phổ thông đầu phiếu” và “bầu cử trực tiếp” chỉ là hình thức, mà có cho bầu trực tiếp tất cả các vị trí đi chăng nữa thì cũng không có nhiều ý nghĩa, vì các ứng cử viên đều được cơ cấu sẵn.
Với hình thức bầu cử hiện nay cũng chẳng ai biết các ứng viên đã làm hoặc sẽ làm được những gì, đó là chuyện nội bộ của các quan chức với nhau.
“Đảng phân công”
Các quan chức ở địa phương làm được một thời gian là tìm cách chạy lên Trung ương, nói cách khác là chuyển ra Hà Nội nắm giữ các chức vụ do “Đảng phân công”.
Ví dụ như bí thư hay chủ tịch thì sang làm bộ trưởng hoặc trưởng ban, phó bí thư hay phó chủ tịch thì làm phó ban hay thứ trưởng, miễn là chức tương đương bất chấp vị trí chuyên môn có phù hợp hay không.
Ở Việt Nam ai nghe đến “ngoại giao” là cũng nể lắm, vì thường dân ngoại giao được đi nước ngoài, nói ngoại ngữ như gió… nhưng thực tế có khi người đứng đầu ngành ngoại giao lại mù tịt về ngoại giao và ngoại ngữ.
Tất nhiên cấp dưới phải giỏi các thứ tiếng để đi tháp tùng rồi, những người ấy sẽ lo mọi việc cho lãnh đạo. Nhưng cơ hội cho những người đi lên bằng con đường học hành để nắm những vị trí quan trọng nhất thì không nhiều.
Lý do là việc luân chuyển, đề bạt cán bộ cao cấp cũng không liên quan đến thành tích tại nơi làm việc ban đầu. Lãnh đạo của những tỉnh yếu kém bậc nhất vẫn ra Trung ương, nắm giữ những vị trí chóp bu phải là họ, phải là “Đảng phân công”.
Có nhiều người rất giỏi làm ở một cơ quan cả đời chẳng lên được sếp; trong khi có những anh khôn ngoan hơn, tìm cách chuyển sang nơi ít danh giá nhưng ở đó có thể lên làm lãnh đạo rồi cuối cùng lại được “luân chuyển” về làm sếp của cơ quan cũ mà ngày xưa mình chẳng là gì cả.
Rõ ràng năng lực chỉ là chuyện nhỏ, “không thoái thác nhiệm vụ Đảng phân công” mới là chuyện lớn.
Người dân không quan tâm đến bầu cử?
Khi mà người dân đứng ngoài gần như mọi cuộc bầu cử, tại sao họ phải quan tâm đến những cuộc “bầu bán”? Bầu cho ai mà chẳng thế, rồi đâu lại vào đấy cả thôi.
Còn về chuyện nhà nước có mở rộng quyền ứng cử và bầu cử cho người dân hay không, đừng hy vọng hão!
Bầu cử “khép kín” hiện tại là một trong những điều kiện để duy trì quyền lực, bởi nếu dân chúng được tự do bầu cử, họ sẽ không ngại ngần mà chọn con đường khác cho đất nước.
Đến lúc ấy thì người dân chắc chắc sẽ quan tâm đến bầu cử lắm.
Người ta sẽ thấy không phải dân Việt Nam “không quan tâm đến chính trị” đâu, họ không được phép quan tâm thì đúng hơn.
Lãnh đạo là người ra những chính sách tác động trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của họ thì làm sao mà không quan tâm cho được.
Đến kỳ bầu cử người ta sẽ nô nức đi bỏ phiếu và bàn tán xôn xao xem nên bỏ cho ai – điều không thấy ở xã hội hiện tại (có chăng là bàn tán ông nào sẽ mất chức, ông nào sẽ “lên” theo một kết quả nội bộ có thể biết trước từ nhiều tháng).
NGƯỜI VIỆT DỄ GHÉT
Từ trước đến nay, một cách công khai, trên sách báo cũng như trên các diễn đàn, hình như ai cũng nói người Việt…đáng yêu. Đó cũng là nhan đề cuốn sách do Doãn Quốc Sỹ viết và xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975. Xuất phát từ một lập trường và động cơ chính trị hoàn toàn ngược lại với Doãn Quốc Sỹ, Vũ Hạnh, giả danh một người Ý (Pazzi), cũng vội vã viết cuốn “Người Việt cao quý”, trong đó, nội dung chính của khái niệm “cao quý” cũng là…sự đáng yêu.
Mà không phải chỉ có người Việt Nam mới nói thế. Tôi có khá nhiều sinh viên Úc hoặc người các nước khác thường đi Việt Nam. Nhiều người không ngớt khen là người Việt Nam đáng yêu. Cách đây mấy năm, có một sinh viên người Na Uy sang Úc du học. Trên đường từ Na Uy sang Úc, anh ghé Việt Nam chơi hai tuần. Lý do ghé Việt Nam chỉ có tính chất thực dụng: vật giá rẻ. Vậy thôi. Nhưng hai tuần ở Việt Nam đã làm thay đổi hẳn kế hoạch học tập của anh. Mê Việt Nam trong thời gian hai tuần ấy, sang Úc, anh quyết định chọn Tiếng Việt làm một trong hai môn học chính trong chương trình Cử nhân. Hỏi: Mê nhất ở Việt Nam là điều gì? Anh đáp: Con người. Và nói thêm: “Người Việt rất đáng yêu”.
Cách đây mấy ngày, tôi cũng lại gặp một sinh viên khác, cũng mê Việt Nam như thế. Sau khi học xong trung học, thay vì vào đại học ngay, cô quyết định nghỉ một năm để đi làm và đi du lịch. Sau khi qua nhiều nước, cô ghé Việt Nam. Cũng chỉ là một quyết định tình cờ. Thoạt đầu, định ở vài ba tuần. Nhưng rồi cô lại đâm mê Việt Nam. Bèn quyết định ở lại thêm vài tháng. Trong vài tháng ấy, cô xin dạy học trong một trung tâm sinh ngữ tại Sài Gòn. Cô càng mê hơn nữa. Về lại Úc, cô bèn quyết định học tiếng Việt để sau này có cơ hội quay sang làm việc lâu dài tại Việt Nam. Hỏi lý do, cô cũng đáp như anh sinh viên người Na Uy kể trên: “Người Việt đáng yêu”.
Người Việt đáng yêu như thế nào? Tôi chưa bao giờ có ý định làm một cuộc điều tra thật đàng hoàng về đề tài này. Nhưng từ những gì tôi nghe từ các sinh viên cũng như bạn bè, đồng nghiệp của tôi, những nét đáng yêu nhất của người Việt Nam thường được nêu lên là: vui vẻ, cởi mở và thân thiện.
Tuy nhiên, tất cả những điều kể trên chỉ là một khía cạnh. Có một khía cạnh khác, vì lịch sự, người khác ít nói; và vì tự ái, chúng ta cũng ít khi đề cập: Có vô số người chê người Việt là cục cằn, thô lỗ, ích kỷ, tham lam vặt, hay nói dối vặt, thiếu kỷ luật, thiếu lịch sự, nói chung, là…dễ ghét. Ngay chính những người được xem là “mê” Việt Nam cũng thấy điều đó. Và dĩ nhiên, với tư cách là người Việt Nam, chúng ta cũng thừa biết điều đó.
Thật ra, ở quốc gia nào cũng có những người đáng yêu và những người dễ ghét. Đó là chuyện bình thường. Tuyệt đối không có gì đáng ngạc nhiên cả. Chỉ có vấn đề là: ở những nơi khác, nét đáng yêu và đáng ghét ở con người chủ yếu là do cá tính, hay nói cách khác, do Trời sinh; còn ở Việt Nam, chủ yếu do văn hoá, hay nói cách khác, do xã hội, đặc biệt, do chế độ sinh. Ở những nơi khác, sự phân bố của những người được xem là đáng yêu và những người bị xem là đáng ghét hoàn toàn có tính ngẫu nhiên; ở Việt Nam thì khác: nó có tính quy luật để theo đó, người ta có thể vẽ lên được một “bản đồ” đáng yêu / đáng ghét của người Việt một cách khá chính xác.
Đại khái “bản đồ” ấy như thế này:
Người Việt rất đáng yêu trong quan hệ cá nhân và ở những nơi quan hệ cá nhân đóng vai trò chủ đạo: gia đình, bàn tiệc, quán nhậu, và hàng xóm. Ở những nơi đó, người Việt, nói chung, rất nhiều tình cảm và tình nghĩa. Và cũng ở những nơi đó, ít ai phàn nàn về người Việt.
Nhưng vượt ra ngoài quan hệ cá nhân thì khác. Bước vào không gian công cộng ở Việt Nam, nhất là không gian công cộng thuộc quyền nhà nước, từ uỷ ban nhân dân đến công an phường, quận, thành phố; từ bưu điện đến bệnh viện; từ bàn hải quan đến văn phòng xuất nhập cảnh, v.v…ở đâu người Việt Nam cũng dễ ghét.
Cái dễ ghét ấy có thể được nhìn thấy ngay trên các chuyến bay về Việt Nam: Theo nhận định của nhiều người vốn đi nhiều, ít có tiếp viên hàng không nào dễ ghét như tiếp viên hãng Hàng Không Việt Nam; ít có công an cửa khẩu và nhân viên hải quan nào dễ ghét như những người làm việc tại các sân bay quốc tế tại Việt Nam. Một sinh viên của tôi, người Úc, rất mê Việt Nam, và vì mê Việt Nam, cuối cùng, lấy vợ Việt Nam.
Chính trong thời gian làm đám cưới, phải chạy vạy làm đủ các loại giấy tờ, từ hôn thú đến bảo lãnh vợ sang Úc, anh phờ phạc cả người.
Quay về Úc, anh than: Chưa bao giờ anh thấy nhân viên hành chính ở đâu dễ ghét bằng các nhân viên hành chính ở Việt Nam.
Một người bạn khác của tôi, về Việt Nam thăm thân nhân bị bệnh, phải nằm bệnh viện, than:
Chưa bao giờ thấy bác sĩ và y tá ở đâu lại dễ ghét như ở Việt Nam. Mặt mày ai cũng hầm hầm hay lạnh tanh. Người ta hỏi gì cũng quát, nạt. Họ chỉ dịu giọng được một lát khi nhận tiền lót tay.
Một người bạn khác rất có thiện chí giúp đỡ Việt Nam, nhiều lần tổ chức quyên góp từ quần áo, sách vở đến máy vi tính ở Úc để chuyển về tặng cho người Việt; nhưng sau đó, đâm nản, cuối cùng, bỏ cuộc. Anh nói: “Mình mang quà về giúp, nhưng ở đâu cũng bị làm khó dễ.” Và kết luận: “Người Việt thật dễ ghét!”
Xin lưu ý: những nhân viên các loại và các cấp bị xem là dễ ghét trong công sở ấy có thể trở thành cực kỳ dễ thương với bạn bè, người thân hoặc người quen. Một viên công an mặt mày lúc nào cũng lạnh như tiền và lăm lăm đòi móc túi những người dân đến xin chứng nhận một thứ giấy tờ gì đó có thể là một người cởi mở, hào hiệp và hào phóng khi ngồi vào bàn nhậu với bạn bè. Nhưng trong quan hệ công cộng thì họ lại biến thành một người khác hẳn.
Có thể nói gọn lại thế này: Trong quan hệ cá nhân, người Việt thường đáng yêu; nhưng trong quan hệ công cộng, nhất là ở công sở, người Việt thường rất dễ ghét.
Cũng có thể nói một cách khái quát hơn: ở Việt Nam, cứ hễ có chút quyền lực, bất kể là quyền lực gì, người ta liền biến ngay thành người dễ ghét. Bản tính dễ thương đến mấy cũng thành dễ ghét. Nếu không dễ ghét vì sự hách dịch, quan liêu hay tham lam thì cũng dễ ghét vì sự chậm chạp, cẩu thả, lười biếng và vô trách nhiệm. Bởi vậy, nhiều người nhận xét: Chơi với người Việt thì vui, nhưng làm việc với người Việt thì đúng là một cực hình. Trên bàn nhậu, ai cũng thông minh, biết điều, cởi mở; nhưng quay lại bàn giấy thì người ta lại lề mề, khó khăn, tắc trách, rất ít đáng tin cậy.
Do đó, vấn đề không phải là bản tính mà là văn hoá. Mà văn hoá, nhất là văn hoá hành chính, lại gắn liền với chế độ.
Bạn có nghĩ vậy không?
Chị Nguyễn Kim Bằng gởi
‘ Đam mê của tôi không được khuyến khích ở VN’
Xe bọc thép mà cha con ông Trần Quốc Hải đóng mới cho quân đội Campuchia
Một nhà sáng chế ở tỉnh Tây Ninh vừa được Campuchia phong tặng Huy chương Đại tướng quân vì đã giúp sửa chữa xe bọc thép cho quân đội nước này.
Ông Trần Quốc Hải, ở tỉnh Tây Ninh, và con trai là Trần Quốc Thanh đã được Nhà nước Campuchia vinh danh.
Ông Hải cũng là người từng chế tạo máy bay trực thăng và nhiều máy móc công nghiệp mà báo chí Việt Nam từng phản ánh. Tuy nhiên ông nói ở Việt Nam, đam mê của ông không được khuyến khích.
Ông Trần Quốc Hải: Xe bọc thép ở các nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) thì đại đa số là dùng xe của Liên Xô cũ, nhiều xe đã trong tình trạng hỏng hóc.
Những xe này cũng không phù hợp với địa hình và điều kiện địa phương nên các tướng lĩnh Campuchia họ muốn có một loại xe phù hợp hơn.
Người Campuchia họ biết là tôi có năng lực, chế tạo máy bay rồi máy móc công nghiệp nên họ mời tôi sang, Trước hết là sửa máy nông nghiệp, sau đó thấy xe bọc thép Liên Xô chế tạo hỏng rất nhiều họ yêu cầu mình khắc phục.
Khắc phục được 11 chiếc thì họ biết mình có năng lực rồi nên họ bàn làm sao chế tạo xe bọc thép mới để không phụ thuộc vào nước ngoài.
Tới nay thì tôi cũng mới chỉ bắt đầu chế tạo hoàn toàn một chiếc xe bọc thép phù hợp với điều kiện Đông Dương.
Campuchia họ đang muốn xây dựng nhà máy để chế tạo 100 chiếc, thay thế cho loại xe của Liên Xô đã không còn phù hợp nữa.
Hiện tôi mới chỉ chế loại xe sáu bánh, họ yêu cầu chế xe tám bánh.
BBC: Thế ở Việt Nam, giới chức quân đội họ có tiếp cận ông và đề nghị ông làm việc cho họ không ạ?
Ông Trần Quốc Hải: Chưa nghe thấy ai đề nghị gì cả.
BBC: Trước kia ông đã từng chế tạo cả trực thăng, rồi máy móc, báo chí cũng đã viết nhiều về ông. Vậy mà chính quyền tỉnh và trung ương không tiếp cận ạ?
Ông Trần Quốc Hải: Cũng có tiếp cận, rồi thưởng bằng khen. Thế nhưng cơ chế của Việt Nam nó rất là ngộ.
Họ [giới chức Việt Nam] nói: “Anh chế (tạo) rất giỏi, nhưng thôi đừng chế nữa”
Ông Trần Quốc Hải
Ở Campuchia, nếu anh làm được một công trình nào đó, đánh giá xong họ công nhận anh là nhà khoa học.
Ở Việt Nam, người làm được thì họ không công nhận, người chưa làm được gì thì công nhận.
Khi làm trực thăng thì họ nói thế này: thứ nhất là không phù hợp. Thứ hai là Việt Nam không có đủ trình độ để chế tạo máy bay. Tôi cũng tranh luận với họ, nhưng họ cũng không muốn tranh luận ra ngô ra khoai.
Tôi nói ở châu Âu người ta làm máy bay từ cách đây cả trăm năm, Việt Nam không lẽ thua họ? Tôi tự hào là người Việt Nam chứ.
Họ cũng im lặng không tranh luận, nhưng về họ viết văn bản. Họ nói: “Anh chế rất là là giỏi, nhưng thôi đừng chế nữa”.
BBC: Như vậy, ông không có dự án gì ở Việt Nam ạ?
Ông Trần Quốc Hải: Các dự án lớn thì cần quy hoạch của chính phủ. Không có kế hoạch của chính phủ, một mình mình thì không làm gì được.
BBC: Vừa rồi, ông được Campuchia vinh danh phải không ạ?
Ông Trần Quốc Hải: Họ tặng tôi huy chương Đại tướng quân, do Quốc vương Sihamoni ký lệnh và Thủ tướng Hun Sen trao tặng. Họ cũng đối xử với tôi như cấp tướng. Sống, sinh hoạt bên Campuchia họ cho tôi hưởng tiêu chuẩn cấp tướng.
BBC: Ông có ý định sống và làm việc bên Campuchia không ạ?
Ông Trần Quốc Hải: Chuyển sang sống hẳn bên đó thì tôi chưa có ý định, nhưng người Campuchia rất thân thiện và tạo điều kiện cho tôi thực hiện những đam mê của tôi nên tới đây chắc tôi sẽ tiếp tục hợp tác với họ.
Khoa học không có biên giới, nơi nào họ cần mình, họ coi trọng mình thì mình đến phục vụ cho họ. Đơn giản thế thôi.
Trường hợp quỉ ám gia tăng vì trò chơi Cầu Cơ, theo các chuyên gia từ Vatican.
11/9/2014
|
Hiệp hội quốc tế của những chuyên gia về quỉ ám (International Association of Exorcists, AIE) báo động rằng các vụ quỉ ám đã đạt đến một mức độ báo động.
“Chúng ta phải dành nhiều nỗ lực hơn vào việc mục vụ khẩn cấp này để giúp đỡ cho những trường hợp bị quỉ ám đang gia tăng một cách phi thường ở khắp mọi nơi,” là lời tuyên bố của bác sĩ Valter Cascioli, phát ngôn viên của AIE, sau khi hiệp hội kết thúc phiên họp thuờng niên thứ 12 tại Roma từ ngày 20 đến 25 tháng 10 vừa qua. Phiên họp qui tụ 250 giáo sĩ có năng quyền trừ quỉ và các chuyên gia và bác sĩ tâm bệnh trên khắp thế giới.
Theo ông, thì số các vị Hồng Y và Giám Mục đăng ký tham gia kỳ họp này đã tăng lên nhiều so với các năm trước bởi vì đã có những dấu hiệu cho thấy rằng hoạt động cuả ma quỉ đang gia tăng tại giáo phận nhà.
Hoạt động cuả ma quỷ gia tăng vì một số nguyên do, một là vì đức tin cuả hàng giáo dân bị suy giảm, hai là vì tính hiếu kỳ, nhiều người đã thử tham dự vào những hoạt động huyền bí (occult activity) như cầu cơ hoặc lên đồng (Ouija boards and séances.)
![]() |
Cầu Cơ, mà giới trẻ ở Việt Nam thường rủ nhau chơi để so tài gan dạ với nhau, là một biến thể cuả một trò chơi huyền bí ở Mỹ goị là Ouija boards, là một sáng kiến có đăng ký do hãng Parker Brothers sản xuất. Ngày nay tập đoàn Hasbro đã mua bản quyền và Ouija là một thương hiệu độc quyền.
Thực ra việc Cầu Cơ đã có từ rất lâu ở bên Trung Hoa, Ấn Độ và thế giới Cổ Hy La. Những sử liệu thời nhà Nguyên còn ghi chép về việc dùng một bảng gỗ có vẽ nhiều dấu hiệu vô nghĩa để dùng vào công việc bói toán. Một ‘con đồng’ được ‘nhập’ sẽ chỉ vào nhiều dấu hiệu với nhau tạo nên những ‘bút tự’ để giải đáp những vấn nạn cuả thân chủ.
Những cách bói toán như thế đã bị nhà Thanh cấm đoán vì lý do mê tín dị đoan và sự lạm dụng cuả những đám buôn thần bán thánh.
Giới khoa học ngày nay cũng bác bỏ mọi sự huyền bí siêu nhiên cuả các trò Cầu Cơ, những cuộc nghiên cứu Tâm Lý Học đã chứng minh rằng sự chuyển động cuả con ‘Cơ’ (cái phím hình trái tim hay là đồng xu có lỗ ) chỉ là kết quả cuả một tình trạng gọi là hiệu ứng vô thức (ideomotor effect). Càng nhiều người tham gia thì hiệu ứng càng tăng lên. Có lẽ vì vậy mà những chỉ dẫn về Cầu Cơ thường ghi chú rằng phải có 3 người chơi thì mới nên bắt đầu, nếu không có thể sẽ bị “Tà ma ám hại’.
(Những nghiên cứu cho thấy xác xuất cuả việc Cầu Cơ là khoảng 62%. Trong khi 50% là sự may rủi bình thường, vậy thì hiệu ứng vô thức là 12%, tức là một ảnh hưởng cũng rất nhỏ mà thôi).
Tới đây, tưởng cũng xin tạm ngưng để ghi chú rằng Việt Nam là nơi duy nhất đã phát triển hình thức Cầu Cơ thành một tôn giáo: đó là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hay còn được gọi là đạo Cao Đài.
Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng Đế đã dùng hình thức Cơ Bút để giáng truyền kinh sách và tổ chức tôn giáo cho họ.
Những bình luận và phê phán sau đây không có ý nhắm vào đạo Cao Đài, vốn đã chứng tỏ là một tôn giáo đáng tôn kính, mà chỉ nhắm vào những hoạt động bình dân coi việc Cầu Cơ là một trò chơi tiêu khiển như đã nói ở trên.
Nhiều thanh niên thiếu nữ đi tìm hoạt động huyền bí như thế, bắt đầu vì sự tò mò có vẻ như vô tội hoặc vì bản tính thích những sự kinh dị. Nhưng dần dà đã có nhiều người bị ám ảnh và bắt đầu đào xâu hơn vào những hoạt động phù thủy, ma quái.
Các nhà cố vấn về giới trẻ thường coi đó như là một giai đọan ‘tăng trưởng bình thường.’ “Đừng làm to chuyện,” là lời khuyên cuả họ cho các bậc cha mẹ. “Cứ bỏ lơ qua chuyện đó thì sớm hay muộn, cháu nó sẽ lớn lên.”
Tuy nhiên, bác sĩ Valter Cascioli không đồng ý như vậy. “Bất kỳ sự tham gia nào vào những điều huyền bí, dù là thụ động, vẫn có thể là một thảm họa và nên phải từ chối và tránh xa,” ông nói.
“Cho dù sự khởi đầu là vì thiếu hiểu biết, nông cạn, ngu dốt hoặc tích cực tham gia do ước muốn hoặc chỉ là để xem cho biết thì…”
“Hậu quả luôn luôn là một tai họa.”
Ảnh hưởng đến người tham gia bao gồm nhiều hệ lụy về vật lý, tâm lý, tinh thần và đạo đức. Kể ra là những sự lo lắng, những cơn hoảng loạn, những cơn ác mộng, những hành vi tự hủy, những suy nghĩ liên tục về cái chết… Trong một vài trường hợp nặng, hoạt động huyền bí dẫn đến việc bị quỉ ám.
“Cho dù chúng ta có biết hay không, có hiểu được hay không, cho dù việc đó là làm cho vui, một trò giải trí hoặc vì lý do nào khác, thì những tác động tàn phá cũng giống như nhau.”
“Mọi người đều bị lừa và tin tưởng sai lầm rằng họ đang liên lạc được với một linh hồn của những người thân, nhưng trong thực tế họ đang đối thoại với quỉ và mời nó vào cuộc sống của họ,” bác sĩ Cascioli nói tiếp.
“Cái gọi là ‘Thực thể tâm linh’ dấu giếm và phản bội chúng ta về danh tính thực sự của nó, nó chỉ cho chúng ta biết về những điều mà chỉ có một phần là dựa trên sự thật; do đó nó dụ dỗ chúng ta, lừa phỉnh và cố gắng xâm nhập vào chúng ta, “ông giải thích.
Cha Stephen Doktorczyk, một linh mục của Giáo Phận Orange, đã chữa lành và cầu nguyện cho nhiều người đang ở trên bờ vực cuả việc bị quỉ ám.
Ngài đề nghị rằng nhiệm vụ của cha mẹ khi có những đứa con bị lôi kéo vào những hoạt động huyền bí như Cầu Cơ là phải cầu nguyện bằng cách lần hạt Mân Côi và phải ngăn cản không cho chúng tham gia bất kỳ loại hoạt động huyền bí nào nữa.
“Ma quỉ là một tên rất thông minh. Nó biết du giỗ người ta bằng những thứ dường như là vô hại. Vì trong thư cuả thánh Phêrô đã viết (1 Peter 5: 8-9:) ‘Kẻ thù là ma quỷ thì luôn luôn rình mò xung quanh chúng ta như sư tử rình mồi để mà ăn tươi nuốt sống. Hãy chống lại nó, và hãy kiên trì trong đức tin. ”
“Tôi đã giúp cho quá nhiều những tình huống liên quan đến những người, vì ngây thơ, đã bắt đầu tìm hiểu về những điều huyền bí. Bây giờ thì họ ước ao rằng họ có thể quay trở lại quá khứ mà làm khác đi,” Cha Doktorczyk nói thêm.
Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, thì mọi người phải xa lánh tất cả các hình thức “bói toán” có liên quan đến việc nhờ ma quỷ, hoặc gọi hồn người chết hoặc tìm việc tiết lộ các sự kiện tương lai.
Sách Giáo Lý Công Giáo dậy về ‘Bói toán và ma thuật’ rằng:
-Tất cả những hình thức bói toán nhằm biết vận mệnh tương lai, đầu trái nghịch với lòng tôn kính và phó thác cho một mình Thiên Chuá. Những cách thực hành ma thuật hoặc phù thủy nhằm có một quyền hành bí ẩn đối với đồng loại, đều nghịch với đức thờ phượng.
Đoạn 2116 cuả phiên bản tiếng Anh (CCC) còn liệt kê rõ ràng những việc phải tránh là “Xem tử vi, coi chiêm tinh, xem chỉ tay, bói theo điềm hay xin xâm, dùng người ngoại cảm…”
“Một lỗi phổ biến là chúng ta tin tưởng rằng ma quỷ và các lĩnh vực huyền bí là không có thật,” bác sĩ Cascioli nói; “nhưng ma quỷ là có thật, và Kinh Thánh đề cập đến nó tới 118 lần dưới những cái tên khác nhau như Satan, Ma quỉ, và hoàng tử của thế gian.”
Nguyễn Tiến Dân
16-10-2014
Bài mở đầu
QUỶ CỐC TỬ
持枢 TRÌ KHU
持Trì (cầm,nắm) – 枢Khu (trục, bản lề của cánh cửa). Trì khu, tức là phải tìm cho ra và nắm cho chắc điểm mấu chốt, điểm quan trọng nhất của sự vật, sự việc. Dựa vào đó, mà xử lý công việc. Công việc, sẽ được giải quyết rất nhẹ nhàng. Giống như, mở 1 cánh cửa nặng, bằng cách đẩy nó quay quanh bản lề. Nói rộng ra, Quỷ Cốc Tử cho rằng: Tìm và Hiểu cho bằng được, quy luật của Tự nhiên. Thuận theo nó – sẽ tồn tại và phát triển bền vững. Tìm và Hiểu cho bằng được, quy luật của xã hội. Đi ngược với nó – chắc chắn, sẽ bị diệt vong. Nguyên tắc này, đúng với từng người, khi họ học phép dưỡng sinh. Đúng với từng doanh nghiệp, khi họ sản xuất và kinh doanh. Đúng với từng giáo phái, khi truyền Đạo cho tín đồ. Đúng với từng thể chế chính trị, khi Trị nước – An dân.
持枢谓春生夏长,秋收冬藏 . Trì khu, vị Xuân sinh – Hạ trưởng – Thu thu – Đông tàng .
Mùa Xuân, tiết trời mát mẻ, không khí ẩm thấp. Cây cối, nhờ thế mà vươn lên mơn mởn. Động vật chui ra khỏi hang, để đi tìm mồi. No ăn – rửng mỡ, chúng đi kiếm bạn tình. Vì thế, nói: “Xuân là mùa thuận tiện cho sự sinh sản”.
Mùa Hạ, trời nắng chói chang, thời tiết nóng nực. Cây cối vươn cành, tiếp thu ánh sáng mặt trời. Chất dinh dưỡng, được chuyển hóa, để nuôi cành lá xum xuê – nuôi quả ngọt lớn dần. Bào thai trong bụng động vật, cũng được nuôi dưỡng, để dần thành hình hài. Vì thế, nói : “Hạ là mùa của sự trưởng thành”.
Mùa Thu, trời trong xanh, gió mát. Cây – Quả đã chin nục. Người nông dân, đi gặt hái thành quả của mình. Thiên nhiên, chào đón những sinh linh mới ra đời. Vì thế, nói: “Thu là mùa của sự thu hoạch”.
Mùa Đông, cây trút lá, trơ những cành khẳng khiu đứng giữa trời. Chúng, hầu như không phát triển. Động vật, chui vào hang, để đi ngủ đông. Các loại hạt giống, mà người nông dân gieo, cũng im lìm, nằm dưới lớp tuyết dày. Vì thế, nói: “Đông là mùa của sự nghỉ ngơi – tàng trữ”.
天之正也,不可干而逆之. 逆之者,虽成必败. Thiên chi chính dã, bất khả can nhi nghịch chi. Nghịch chi giả, tuy thành tất bại.
Tứ quý luân phiên, bốn mùa thay đổi. Đó là, 1 trong những quy luật vận hành của Tự nhiên. Tự nhiên, bao giờ cũng được phát triển 1 cách có tuần tự. Con người, không thể tự tiện can thiệp. Cố tình can thiệp: Thành công, nếu có, chỉ là nhất thời. Chung cuộc, chắc chắn sẽ nhận được bại vong.
故人君亦有天枢,生养成藏. Cố nhân quân, diệc hữu thiên khu: Sinh – Dưỡng – Thành – Tàng .
Từ người Dân, cho đến bậc Đế vương. Từ hội nhóm, đảng phái, cho đến Quốc gia. Không ai thoát khỏi được vòng luân hồi của Tự nhiên: Xuất sinh – Dưỡng dục – Trưởng thành – Tàn lụi.
Con người ta, phải trải qua quá trình thai nghén trong bụng mẹ. Đủ ngày – đủ tháng, mới được sinh ra đời. Những đứa trẻ sinh thiếu tháng, chúng thường không được khỏe. Nuôi dưỡng chúng, rất vất vả và tốn kém. Nhiều người mê tín, họ chọn mổ đẻ vào những ngày – giờ đã định. Hy vọng, với những lá số Tử vi đã được chọn trước đó, sau này, con mình dễ trở thành ông nọ – bà kia. Có lẽ, họ không biết: Kể cả những thầy Tử vi cao tay nhất, không ai có thể lên và nói chính xác, về lá số của các cháu bé đó.
Chủ nghĩa Mác cho rằng: Xã hội loài người, phải lần lượt vận động qua các hình thái, Nguyên thủy – Nô lệ – Phong kiến – Tư bản – Cộng sản. Và, “cách mạng vô sản”, chỉ có thể thành công, khi nó xảy ra đồng thời, trên phạm vi toàn Thế giới.
Ông Lê nin, “Vận dụng sáng tạo” cái chủ thuyết này. Ông ta, làm “cách mạng vô sản” ở phạm vi 1 nước Nga. Khi đó, nền tảng công nghiệp của chủ nghĩa Tư bản, còn chưa được phát triển đầy đủ. Cuộc cách mạng ấy, “đẻ non – chín ép”, mà vẫn thành hình hài – vẫn không bị chết yểu. Thậm chí, có lúc còn mạnh đến mức: Có thể tranh bá với Thiên hạ. Những người CS, họ phục ông Lê nin lắm. Họ, tôn ông ta là Thánh. Đâu hay rằng: để giữ được như thế, Liên xô đã phải trả giá, bằng bao nhiêu thời gian – bằng bao nhiêu tiền của – bằng bao nhiêu sinh mạng. Cuối cùng, “mèo vẫn hoàn mèo”. Liên xô vẫn phải tan rã. Một kết cục, thật là bi thảm.
Ông Lê nin đã “giỏi”, nhưng có người, còn trăm ngàn lần giỏi hơn. Đó là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, đã “vận dụng” chủ nghĩa Mác, 1 cách có tính chất “Đột – phá”. Hồ Chí Minh và đảng của ông, liều lĩnh đến mức: Cho tiến hành cách mạng vô sản, ở 1 nước Phong kiến lạc hậu. Phương thức sản xuất thì vừa nhỏ, vừa manh mún. Nền tảng công nghiệp, hầu như không có gì. Giai cấp công nhân (theo đúng nghĩa), còn chưa được hình thành. Ấy thế mà, ông cùng với toàn đảng của ông, vẫn cố nuôi hy vọng, có thể bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản. Để “Tiến nhanh – Tiến mạnh – Tiến vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội”. Một ảo tưởng vĩ đại. Để đến bây giờ, đảng CS Việt nam, phải âm thầm trở lại điểm xuất phát: Bắt đầu, xây dựng lại, nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Tư bản. Tuy vậy, những người CS Việt nam, vẫn không nhận và không chịu trách nhiệm, cho hàng loạt, những sai lầm của họ. Đất nước Việt nam, đâu có may mắn, để được hưởng sự vô can đó. Cả dân tộc Việt, đang phải trả giá, cho cái ảo tưởng vĩ đại của đảng CS Việt nam.
亦复,不可干而逆之.逆之, 虽盛必衰. Diệc phục, bất khả can nhi nghịch chi.Nghịch chi, tuy thịnh tất suy.
Những quy luật của xã hội, phải luôn được tôn trọng. Không được làm trái. Làm trái với quy luật của xã hội, tạm thời, có thế hưng thịnh. Nhưng , chung cuộc, chắc chắn sẽ bị suy vong.
此天道人君之大纲也. Thử Thiên đạo, Nhân quân chi đại cương dã.
Đó là quy luật của Tự nhiên, là Cương lĩnh căn bản của Quân chủ khi thống trị Quốc gia.
Lời bàn:
1-Hiểu được Trì khu, mỗi cá nhân, sẽ luyện được phép dưỡng sinh. Luyện được phép dưỡng sinh, con người ta sẽ khỏe mạnh và trường thọ.
-Hãy sống hòa hợp với Thiên nhiên. Cơ thể của bạn, phải được tiếp xúc với bầu không khí ẩm thấp của mùa Xuân . Đừng vì cái nắng cháy da của mùa Hè, mà suốt ngày ngồi trong phòng lạnh. Hãy đến công viên, để tận hưởng thời tiết mát mẻ, dễ chịu của mùa Thu. Khi Đông về, hãy co ro đôi chút. Làm được như thế, cơ thể bạn sẽ dẻo dai và săn chắc. Thỏi thép kia, sở dĩ cứng rắn, bởi nó được nung trong lửa đỏ và tôi trong nước lạnh. Đừng nên ăn quá nhiều. Khiến dạ dày, chẳng còn có lúc được nghỉ ngơi. Đừng bắt trẻ con, học đến mức mụ mị. Hãy dành thời gian, để chúng chơi đùa và chiêm nghiệm những điều đã học. Đừng nên lạm dụng chất kích thích. Kháng sinh, chỉ dùng trong những trường hợp hi hữu.
-Có 1 định nghĩa vui: “Con người ta, chỉ hạnh phúc, khi mọi cái lỗ trên người, đều thông”. Hãy nói về 1 cái lỗ, rất ít được chú ý, lỗ chân lông. Nhiệm vụ chính của nó, là tống cặn bã dưới da ra ngoài. Về già, cơ thể ta yếu đi. Lỗ chân lông sẽ nở to ra, để giúp cho sự bài tiết tốt hơn. Nhiều người, muốn chống lại quy luật ấy. Họ săn lùng các loại thuốc, có thể làm “se khít lỗ chân lông”. Hy vọng, các loại thuốc ấy, sẽ giúp họ, lấy lại vẻ mịn màng của tuổi trẻ. Đâu hay, vẻ đẹp ấy, nếu có, cũng chỉ được nhất thời. Nhưng, mồ hôi không được toát ra, “bí hạ” nó sẽ “phá thượng”. Nay mai, viêm da và mặt mũi thì sần sùi như quả cam sành. Đó là điều, chẳng cần phải bàn cãi.
2-Những doanh nhân thành đạt, bao giờ họ cũng làm những việc, mà mình có thể mạnh. Không bao giờ, làm việc trong lĩnh vực, mà mình chẳng hiểu gì. Bao giờ, họ cũng sản xuất và bán ra những thứ, mà thiên hạ cần. Không cố tình sản xuất và bán ra, những thứ mà chỉ riêng mình thích. Khi máy ảnh kĩ thuật số ra đời, không ai dại gì, tiếp tục sản xuất film và máy ảnh dùng film. Dây chuyền sản xuất ấy, dù đắt tiền đến đâu, cũng phải bị phế bỏ. Không được luyến tiếc.
“Cọp chết, để lại da – Người ta chết, để lại tiếng”. Con người ta, già rồi là phải chết. Chết rồi, thương mấy cũng phải đem chôn. Cái mà, người đã khuất, có thể để lại cho hậu thế, đó chính là sự nghiệp.
Đức Thánh Trần, dặn gia nhân: “Sau khi ta chết, hãy đem xác đi thiêu. Tro cốt, cho vào lọ sành. Chôn trong vườn, rồi phủ đất và trồng cây lên trên”. Đơn giản, chỉ có vậy. Nhưng, danh tiếng và sự nghiệp lẫy lừng của Đức Thánh, đâu có thể vì thế, mà nhanh chóng mai một theo thời gian.
Quang Trung Hoàng đế, sau khi chết, được con cái và các vị đại thần tôn vinh. Được cúng lễ linh đình. Được xây lăng to – mả lớn. Nhưng, ích gì. Sau khi chết, thân xác vẫn bị quan quân nhà Nguyễn, quật lên để làm nhục.
Ở nhiều nước, người ta chỉ trưng bày (bêu) xác của người đã khuất, trong trường hợp cần hạ nhục họ. Đổng Trác, bị người đời căm ghét. Khi chết, xác bị bêu trên phố, cho Thiên hạ tới phỉ nhổ. Cũng vì chưa chôn, nên binh lính mới có thể mạo phạm đến thi thể. Họ, cắm bấc vào rốn Đổng Trác, rồi đốt. Mỡ chảy lênh láng ngoài đường. Gaddafi, được nhiều người “yêu” quá. Thế nên, sau khi chết, xác bị trưng bày nhiều ngày, ở lò mổ súc vật.
Hy vọng sau này, ông Lê nin, ông Mao… không bị đối xử như thế.
Sự nghiệp mà không có, dẫu cố tình, có để lại cái xác khô ở trên đời, phỏng có ích gì. Chỉ rác tai, để nghe Thiên hạ đàm tiếu.
Đạo đức – Tư cách chẳng ra gì, dẫu có được đem tạc bia đá – đúc tượng đồng và lập đền, để thờ cúng ở khắp mọi nơi, phỏng có ích gì. Cuối cùng, tránh sao cho khỏi, bị quần chúng tròng dây vào cổ, mà kéo sập xuống.
3-Trái đất này, có rất nhiều tôn giáo, như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hòa hảo, Tin lành…Tuy có nhiều nét khác nhau, về hình thức, về tổ chức, về nghi lễ thờ phụng…Nhưng, hết thảy, đều có 1 mẫu số chung. Đó là, các tôn giáo ấy, luôn dạy chúng sinh, làm điều Thiện – sống Ngay thẳng. Nhẫn nhịn và Thương yêu đồng loại. Nó hợp với tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của cả loài người. Vì vậy, nó được nhiều tín đồ tự nguyện theo . Nó có gốc rễ bền vững. Nên nó sẽ trường tồn.
Ngược lại. Ý thức hệ CS, căn bản dựa trên 2 trụ cột: Bạo lực và dối trá.
-Một trong những nguyên tắc cơ bản của học thuyết CS, đó là đấu tranh giai cấp. Muốn có chính quyền ư? “Súng (sẽ) đẻ ra chính quyền”. Cần gì phải rèn tài năng và tu đức độ: Để được dân bầu – Để được nắm chính quyền, 1 cách đàng hoàng và tử tế. Muốn có của cải ư? Cần gì phải học hành – phải siêng năng – phải tiết kiệm. Hãy đi ăn cướp của nhà giàu. Nếu có bị họ đánh chết, âu cũng chỉ là 1 cách, để giải thoát. Đó là, nguyên ý của câu: “Trong cuộc đấu tranh (giai cấp) này, giai cấp vô sản: Nếu được, thì được tất cả – Nếu mất, họ chỉ mất đi xích xiềng nô lệ”. Để được việc, họ sẵn sàng, xử tử cả những ân nhân của mình. Những người, đã từng nuôi nấng – cưu mang họ, trong lúc còn trứng – nước. Để thâu tóm quyền lực, họ chẳng ngần ngại, dùng những thủ đoạn hèn hạ nhất, để thanh trừng, ngay cả đồng đội của mình. Họ bắt: Con phải tố cha – Vợ phải chửi chồng. Phá nát nền tảng đạo đức – gia đình. Để thâu tóm nhà máy – ruộng đất, họ xá gì chuyện bất hiếu: Lừa gạt, cả những giai cấp, đã sinh ra mình. Đâu rồi, lời hứa: “Nhà máy về tay thợ thuyền – Ruộng đất về tay dân cày”. Mượn nhà của ân nhân, thích thì chiếm đoạt luôn (trường hợp gia đình cụ Trịnh Văn Bô). Mượn đất của Tôn giáo, rồi thẳng tay cướp lấy (trường hợp Nhà Chung và giáo xứ Thái Hà). Mượn tiền của Dân, rồi lì lợm tìm mọi cách để chiếm đoạt. Người ta đi đòi, thì vu oan – giáng họa, để làm hại người ta.
-Trong các nhà trường CS, từ bé đến lớn, các cháu học sinh, được dạy 1 mớ kiến thức hổ lốn, cộng với thói ăn gian – nói dối. Học “Cuội” và thi cử không trung thực. Cho nên, bằng cấp của Việt nam, đâu có được Quốc tế thừa nhận. Học vị Tiến sĩ, khó là thế. Nhưng, cán bộ CS, ai cũng có.
Những người CS, nói mà không hề biết xấu hổ, rằng: “Việt nam, là nước theo chế độ Dân chủ”. Rằng: “Dân chủ ở Việt nam, cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”. Họ, cũng leo lẻo nói rẳng: “Đi lên CNXH, là khát vọng của Nhân dân” và “Nhân dân Việt nam, không có nhu cầu đa đảng”. Nhưng, họ không bao giờ, dám làm 1 cuộc Trương cầu Dân ý về việc này. Bởi làm thế, họ sẽ bị lòi đuôi.
Lừa bịp Nhân dân đã quen. Đến Thủ tướng của họ, họ cũng không tha: “Tỉnh nào tôi đi làm việc, (cũng) đều (báo cáo, GDP tăng) từ 9 đến 14%,trong khi cả nước, (GDP cũng) chỉ (tăng có) 5,8%” (Những chữ in đậm, là nguyên văn lời ông Nguyễn Tấn Dũng).
Trừ Giáo sư Ngô Bảo Châu, còn ai cũng hiểu, 1 mệnh đề thật là đơn giản: “Toán học, không thể có chỗ đứng, trong 1 đất nước, mà ở đó, Tổng của những con số dương, là 1 số âm”.
Chủ thuyết CS, đầy rẫy những chuyện phi Luân thường – Đạo lý. Đâu có hợp lòng Dân. Nó trường tồn sao được.
4-Những người, làm nghề vận tải hỗn hợp sông – biển, bao giờ họ cũng phải tính toán con nước. Sao cho, khi thủy triều lên, họ sẽ ngược dòng – khi triều xuống, họ sẽ xuôi dòng. Hiệu quả kinh tế, sẽ rất lớn.
-Chính quyền, nếu ví như 1 con thuyền – thì Ý chí của Nhân dân giống như 1 dòng nước chảy xiết. Thuận lòng Dân, không tốn mấy sức lực, con thuyền cũng mau chóng về đến đích. Đối nghịch với Nhân dân, khác nào con thuyền, ngược dòng trong bão tố. Đợi đến khi: “Lật thuyền, mới biết sức Dân như nước”, thì mọi chuyện, đã trở nên quá muộn mằn.
Sau Đệ nhị Thế chiến, Nga xô chiếm được hàng loạt các nước ở Đông Âu. Họ dùng lưỡi lê và xe tăng, áp đặt cho Dân chúng ở đó, những Nhà nước Cộng sản. Những Nhà nước đó, không hợp với tâm nguyện của Nhân dân sở tại. Cuối cùng, nhà tù cộng với sự đàn áp, kìm kẹp hết sức dã man, cũng phải chịu thua ý chí của Nhân dân. Trước khí thế của quần chúng, Những nhà nước CS ở đó, đã sụp đổ tan tành.
-Đảng CS chỉ biết đến mình. Quyền lợi của đất nước, họ vơ hết vào lòng. Chính quyền, họ độc chiếm. Nhưng nghĩa vụ và trách nhiệm, chẳng thấy họ nhận bao giờ. Quy luật “Âm – Dương hòa hợp”, không được tôn trọng. Khiến xã hội đảo điên – thiên hạ hỗn loạn.
-“Chọn lọc Tự nhiên”. Đó là, một trong những quy luật phát triển của sinh giới.
Những người CS, họ không tôn trọng quy luật này. Thể chế của họ, được xây dựng trên cơ sở độc tài. Họ chủ trương: Triệt hạ đối lập, để không phải cạnh tranh.
Cán bộ của họ: Không phải, được chọn lọc ra, từ những người có tài. Không phải, được Nhân dân chọn lọc ra, từ những cuộc bầu cử Tự do và Bình đẳng. Xã hội, được điều hành, bởi những cán bộ là “Con ông cháu cha” – bởi những kẻ được “cơ cấu”, do có nhiều tiền và nhắm mắt tuân theo lệnh cấp trên, “bất cần biết đúng sai”. Những loại dốt nát – mù quáng đó: Nói gì sai đấy – Làm đâu hỏng đó. Bởi thế, chính thể của họ, không thể bám rễ được vào cuộc sống. Dĩ nhiên, nó không có sức sống. Chính thể ấy, đã già nua, lại đầy bệnh hoạn. Đứng vững sao được.
-Trên thế gian này, thông thường: Nhà nước, quản lý xã hội phải bằngLuật pháp. Những người CS, họ làm ngược lại.
Trong 1 phiên điều trần trước Quốc hội, một vị Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, ngang nhiên phát biểu: “Ơ nước ta xử đúng cũng được, xử sai cũng được, xử hòa cũng được, xử thắng cũng được, xử thua cũng được. (nguồn: “Tính nghiêm minh của Pháp luật”). Đó là, lời thú nhận công khai, giữa thanh thiên – bạch nhật, rằng: “Những người Cộng sản, đang quản lý xã hội trên cơ sở Luật rừng”. Và dưới chế độ CS, không còn có khái niệm, gọi là Công lý và Đạo lý.
Sơ qua như thế, để thấy: Những người CS, họ đang đi ngược với những quy luật của Tự nhiên – của Xã hội. Bởi thế, dẫu tạm thời họ còn đang tồn tại, trong một thực lực, có vẻ rất mạnh. Nhưng , 太强必折 . Tháicường – tất chiết . Cứng quá, chỉ tổ dễ gãy. Ăn thua gì. Tương lai, họ sẽ đi theo vết xe đổ của Nga xô và các nước CS Đông Âu. Đó là 1 điều chắc chắn. Vấn đề còn lại, chỉ là nhanh hay chậm mà thôi.
Nguyễn Tiến Dân
Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội .
Điện thoại : 0168-50-56-430.
Nguyễn Tiến Dân
27-10-2014
Đôi lời của tác giả: “Lục thao”, là 1 trong “7 bộ Binh pháp kinh điển” của Trung hoa cổ đại (Võ kinh thất thư). Không dừng lại, ở việc luận binh. “Lục thao”, còn dạy các bậc Đế vương, cách trị nước – an dân. Đọc “Lục thao”, ta sẽ hiểu, vì sao các thể chế Dân chủ, trường tồn và ngày càng phát triển bền vững. Tại sao, các thể chế độc tài, ngày càng thưa hiếm và suy vong. Ngẫm vào thực trạng của Đất nước, ta sẽ thấy, tương lai của đảng CS Việt nam, “tươi sáng” đến mức nào.
Xin lần lượt, giới thiệu “Lục thao”, với bạn đọc.
VĂN SƯ
Thiên này, thuật chuyện gặp nhau lần đầu, giữa Chu Văn vương và Khương Tử nha. Chu Văn vương, là vị Vua, giỏi đến mức, có thể đặt lời thoán, chú thích cho “Chu dịch”. Nhưng, chưa bao giờ vỗ ngực, tự cho rằng, mình là “đỉnh cao trí tuệ của Nhân loại”. Vì đại nghiệp diệt Thương, ông xuống mình, “cầu hiền như khát”. Khương Thái công, hung hoài thao lược. Chỉ hận, chưa gặp được minh chủ. Bèn về chốn sơn cùng – thủy tận, câu cá – đợi thời.
Chí lớn, gặp nhau. Bởi thế, sơ kiến mà đã như cố tri. Hai người, thảo luận sách lược thu phục thiên hạ. Mục tiêu và các biện pháp thi hành. Họ, dùng ngay việc câu cá, làm đề tàì, để triển khai thảo luận.
Biết Văn vương còn do dự, bởi nhà Thương quá mạnh. Khương Thái công, ngầm chi rõ: Đó chỉ là, cái mẽ ngoài. Sự thực, Thương triều đã mục ruỗng, đến tận xương – tận tủy. Nhà Chu, nên thừa cơ, mà đoat thủ thiên hạ. Muốn thu phục được Thiên hạ, phải có người đứng đầu, để tập hợp quần chúng. Người này, phải có đầy đủ cả Nhân – Đức – Nghĩa – Đạo. Những phẩm chất này, Trụ vương của nhà Thương không có. Trong khi, Văn vương đủ đầy.
Hai người, đồng quan điểm: Đất nước, phải là của Nhân dân (Dân chủ) và phải để cho mọi người, được “Ngôn luận tự do”.
文师
文王将田,史编布卜曰:“田于渭阳, 将大得焉. 非龙, 非螭, 非虎, 非羆,兆得公侯. 天遗汝师, 以之佐昌, 施及三王”。Văn vương tương điền, sử Biên bố bốc viết : “Điền vu Vị dương, tương đại đắc yên. Phi long, phi li, phi hổ, phi bi, triệu đắc công hầu. Thiên di nhữ sư, dĩ chi tá xương, thi cập tam vương”
Văn vương muốn đi săn. Ngài sai sử Biên, đoán cát hung. Sử Biên gieo quẻ, rồi bẩm lại: “Đến bờ bắc của sông Vị thủy, Đại vương sẽ thu hoạch được rất lớn. Không phải được rồng, đươc li (Theo truyền thuyết, giống như rồng, sắc vàng, không có sừng), không phải được hổ, được gấu. Điềm báo, đươc công hầu, mà trời dành riêng, để làm quân sư cho Đại vương. Vị công hẩu này, sẽ giúp Đại vương, hưng nghiệp tận ba đời”
文王曰: “兆致是乎?” Văn vương viết: “Triệu chí thị hồ”
Văn vương hỏi: “Điềm tốt đến thế sao ?”
史编曰: “编之太祖史畴为禹占, 得皋陶, 兆比于此” . Sử Biên viết : “Biên chi Thái tổ sử Trù, vi Vũ chiêm, đắc Cao Đào. Triệu tỉ vu thử”
Sử Biên đáp: “Xưa, Thái tổ của thần là sử Trù, chiêm bốc cho vua Vũ. Quẻ ấy, báo đươc quý nhân Cao Đào. Điềm hôm nay, giống như vậy”
文王乃斋三日, 乘田车, 驾田马, 田于渭阳, 卒见太公, 坐茅以渔 . Văn vương nãi trai tam nhật, thừa điền xa, giá điền mã, điền vu Vị dương. Tốt kiến Thái công, tọa mao dĩ ngư
Mừng quá, Văn vương bèn trai giới ba ngày. Sau đó, sai sửa soạn loan giá (xe Vua), để ông mang đi đón hiền tài, ở bờ bắc của sông Vị thủy. Đến đó, ngài thấy Thái công, đang ngồi trên đám cỏ lau um tùm, để câu cá. Lưỡi câu đã thẳng, không mắc mồi, lại còn để trên mặt nước. Tai lắng nghe chim hót, mắt nhắm nghiền suy tư.
文王劳而问之, 曰: “子乐渔耶?” . Văn vương lao nhi vấn chi, viết: “Tử lạc ngư da”
Thấy lạ, Văn vương xuống ngựa. Lệnh cho tùy tùng đứng ngoài. Ngài vất vả, tự tay rẽ cây mở đường, vào để gặp Thái công. Gặp rồi, mới hỏi thăm rằng : “Ông lão, ông thích câu cá theo kiểu gì, mà lạ vậy ?”
太公曰: “臣闻君子乐得其志, 小人乐得其事”. Thái công viêt: “Thần văn quân tử lạc đắc kì chí, tiểu nhân lạc đắc kì sự”.
Thái công đáp: “Thần nghe, người quân tử, chỉ mãn nguyện, khi thỏa được chí của minh. Kẻ tiểu nhân, chỉ vui, khi được việc của mình”.
Sinh thời, trung tướng Trần Độ, “Những mơ xóa ác ở trên đời”. Cho nên, nguyện “phó thân cho đất trời”, để đi làm “cách mạng”. Đất nước đã thống nhất. Nhưng, nhận thấy: Dưới chế độ mới, cái ác, không có bị mất đi. Nó lại luân hồi. Chí chưa thỏa. Ông tiếp tục đấu tranh. Cho dù, bị mất hết mọi quyền lợi của cá nhân. Thật là, 1 vị Chính nhân – Quân tử.
Đối nghịch với Trần Độ. Biết bao nhiêu kẻ, sẵn sàng, làm những việc táng tận lương tâm. Miễn sao, chúng giữ được, cái ghế quyền lực của mình.
今吾渔甚有似也, 殆非乐之也 . Kim ngô ngư thậm hữu tự dã, đãi phi lạc chi dã.
Nay, thần ngồi câu cá ở đây, cũng vậy. Mệt mỏi và không vui thú gì, với việc đi câu.
文王曰: “何谓其有似也?”. Văn vương viết: “Hà vị kì hữu tự dã?”
Văn vương hỏi: “Sao lại cho rằng, có sự giống nhau ở đây?”
太公曰: “钓有三权, 禄等以权, 死等以权, 官等以权”. Thái công viết : “Điếu hữu tam quyền: Lộc đẳng dĩ quyền – Tử đẳng dĩ quyền – Quan đẳng dĩ quyền”
Thái công trả lời : “Những tay câu thiện nghệ, đều hiểu: Muốn câu cá gì, phải sắm thính – luyện mồi, cho phù hợp với sở thích của loài cá đó. Thánh nhân, chiêu nạp hiền tài, giúp mình mưu việc lớn, cũng phải làm như vậy :
+Có kẻ theo ta, mong hưởng bổng lộc. Hãy lấy nhà đất, lương bổng, sổ hưu ra, mà chiêu dụ nó.
+Có người theo ta, để giúp dân – cứu nước. Gian khó, họ không sờn lòng. Hi sinh, họ không quản ngại. Hãy khắc thẻ tre, lưu danh họ vào lịch sử. Hãy lập đền thờ, để dân chúng, muôn đời hương khói cho họ. Người đã khuất rồi. Nhưng vợ con họ, vẫn còn đó. Nhớ thay mặt người ta, mà chăm sóc cha me – vợ con họ, cho đàng hoàng – tử tế. Chớ nói đãi bôi – Đừng làm lấy lệ.
+Lại có người, nghiện quyền lực, mà đi theo ta. Hãy lấy chức tước, mà ban cho họ.
Bé, thì cho làm đội trưởng đội thiếu nhi. Lớn, hãy lấy lon thượng – đại tướng ra, mà phong bừa phứa cho họ. Hãy lấy nhôm mỏng, dập thànhhuân – huy chương, rồi gắn chi chit lên ngực họ. Già rồi, cũng phải dựng lên những hội hữu danh – vô thực như: hội khuyến học, hội bảo vệ người tiêu dùng … rồi ấn họ vào đấy. Loại này, ngồi không dễ sinh tật. Nhưng chớ trao quyền lực, để chúng phục vụ nhân dân, cho đến “hơi thở cuối cùng”
夫多久以求得也, 其情深, 可以观大矣 . Phù đa cữu dĩ cầu đắc dã, kì tình thâm, khả dĩ quan đại hĩ
Người ta đi câu, lâu mau – nhiều ít, khoan hẵng nói. Nhưng, ai cũng mong được cá. Đó là, chân lí sâu xa .Từ việc ngồi câu cá, ta có thể, ngẫm ra nhiều việc lớn trong Thiên hạ.
文王 曰: “愿闻其情” . Văn vương viết : “Nguyện văn kì tình”
Văn vương : “Xin rửa tai, lắng nghe”
太公曰: “源深而水流, 水流而鱼生之, 情也”. Thái công viêt: “Nguyên thâm nhi thủy lưu, thủy lưu nhi ngư sinh chi, tình dã”
Thái công chỉ dòng Vị Thủy, mà nói rằng: “ Đầu nguồn sâu, lưu vực rộng thì con sông đầy nước. Sông đầy, thì đưa dòng phù sa, đi nuôi dưỡng, cho những cánh đồng phì nhiêu. Đưa nguồn thức ăn dồi dào, đi nuôi dưỡng các loài cá tôm. Khiến chúng sinh sôi – phát triển. Đó là, lý Tự nhiên”.
根深而木长, 木长而实生之,情也 . Căn thâm nhi mộc trường, mộc trường nhi thực sinh chi, tình dã
Ngài chỉ 1 cây cao, trên bờ Vị Thủy, mà tiếp rằng: “Rễ có sâu, thì cây mới có thể vươn cao. Cây càng vươn cao, thì lượng gỗ sinh ra càng nhiều. Đó là, lý Tự nhiên”.
Cây có bộ dễ chùm, càng cố vươn cao, càng dễ bị bão quật ngã. Những chính thể, không bám rễ được vào cuộc sống, càng “phát triển nóng” bao nhiêu, càng chóng sụp đổ bấy nhiêu. Đó cũng là, lý Tự nhiên.
君子情同而亲合, 亲合而事生之, 情也. Quân tử tình đồng nhi thân hợp, thân hợp nhi sự sinh chi, tình dã.
Chậm rãi nhìn Văn vương, Thái công nói tiếp: “Những người Quân tử, họ có lí tưởng tương đồng. Những cách biệt về địa lí, những khác biệt về xuất thân, không thể ngăn được họ kết thân với nhau. Kết thân được với nhau, họ sẽ phát huy được thế mạnh của mỗi người. Nhân dân và Đất nước, đang chờ những quyết sách của họ. Đó là, Chân lí”.
言语应对者, 情之饰也 . Ngôn ngữ ứng đối giả, tình chi sức dã.
Trong một cộng đồng, lời ta nói ra, nhiều người hiểu. Nhưng nỗi lòng ta, mấy ai biết cho. Bởi vậy, người ta phải dùng ngôn ngữ – chữ viết, để biểu đạt tình cảm.
言至情者, 事之极也 . Ngôn chí tình giả, sự chi cực dã.
Lời nói chí tình, bao giờ cũng xuất phát từ trái tim. Người ta dùng nó, để góp ý chân thành với nhau. Lời nói chí tình, có thể, đẩy sự việc, đi theo hai hướng trái ngược nhau:
+Gặp những người nhỏ nhen, họ sẽ ghét ta. Bởi, họ cho rằng, ta cố tình bới móc, dạy khôn, đố kị và nói xấu họ. Ai đã từng góp ý (phản biện) về bô xit, về xây mới tòa nhà quốc hội, về điện hạt nhân…chắc thấu hiểu điều này.
+Gặp những người đại lượng, họ sẽ cảm ơn ta. Bởi, ta làm cho họ, tỉnh táo nhìn lại mình. Gạn đục – Khơi trong, họ sẽ không mắc, những sai lầm ngớ ngẩn. Không có tấm gương, ai mà nhìn thấy vết nhọ, ngay trên trán của mình? Không cám ơn tấm gương, sao được.
今臣言至情不讳, 君其恶之乎? Kim thần ngôn chí tình bất húy, quân kì ố chi hồ?
Nay, thần sẽ nói, những lời chí tình, không kiêng nể. Đại vương, có muốn nghe không ? Nghe rồi, có truy chụp thần không ?
(Ngay từ đầu, Khương Tử Nha đã đề xuất với Văn vương: Hãy để cho những người xung quanh, được nói thẳng chính kiến của mình. Nói cách khác, hãy để cho họ, được Tự do ngôn luận. Không biến họ, thành những con vẹt. Nói những lời, không phải suy nghĩ thực của lòng mình).
文王曰: “惟仁人能受直谏, 不恶至情. 何为其然”. Văn vương viết: “Duy nhân nhân năng thụ trực gián, bất ố chí tình. Hà vi kì nhiên?”
Văn vương nói: “Chỉ những người nhân nghĩa, mới có khả năng tiếp thu, những lời can gián ngay thẳng – chân thành. Họ đâu ganh ghét, đố kị với những người khuyên can họ. Đó, chẳng phải là lẽ tự nhiên ư?”
太公曰: “缗微饵明, 小鱼食之”. Thái công viết: “Mân vi nhĩ minh, tiểu ngư thực chi”
Thái công trả lời: “Dùng chỉ làm dây câu – dùng hạt cơm làm mồi. Người ta, chỉ câu được cá thầu dầu, thòng đong, cân cấn. Giỏi lắm, thì được con cá mài mại”.
缗调饵香, 中鱼食之 . Mân điều nhĩ hương, trung ngư thực chi.
Dùng cước làm dây câu – dùng giun làm mồi. Người ta, có thể câu được cá trê – cá chép.
缗隆饵丰, 大鱼食之. Mân long nhĩ phong , đại ngư thực chi.
Dùng cáp lụa làm dây câu – dùng con chó, con vịt làm mồi. Người ta, có thể ra khơi, mà câu cá mập – săn cá sấu.
夫鱼食其饵, 乃牵于缗. Phù ngư thực kì nhĩ, nãi khiên vu mân.
Con cá kia, tham mồi. Nên, bị trói buộc, bởi dây câu.
人食其禄, 乃服于君. Nhân thực kì lộc, nãi phục vu quân.
Con người ta, ăn lộc của Nhà nước, nên phải phục vụ Vua.
故以饵取鱼, 鱼可杀 . Cố dĩ nhĩ thủ ngư, ngư khả sát
Dùng mồi đi câu, ta có thể bắt được cá.
以禄取人, 人可竭. Dĩ lộc thủ nhân, nhân khả kiệt.
Dùng bổng lộc đãi người. Người ta, có thể tận tâm – kiệt lực với ta .
以家取国, 国可拔. Dĩ gia thủ quốc, quốc khả bạt.
Làm cho vài kẻ có chức – có quyền, ở cái nước man di – mọi rợ kia, được “vinh thân – phì gia”. Nước ấy, chiếm dễ như bỡn. (Nhưng, có giữ được hay không, lại là chuyện khác hẳn) .
以国取天下, 天下可毕。 Dĩ quốc thủ thiên hạ, thiên hạ khả tốt
Đem quyền lợi của nước này, dâng cho nước khác. Đem tử huyệt của nước nọ, nói với nước kia. Rồi xúi giục, xúc xiểm chúng đánh nhau. Đã đánh nhau, là sứt đầu – mẻ trán, là kiệt quệ. Khi kiệt quệ, tất phải nhờ ta, đứng ra dàn xếp. Việc thiên hạ, do ta dàn xếp. Thiên hạ ấy, không phải của ta, thì hỏi rằng: Thiên hạ ấy, là của ai?
Nhớ khi xưa:
Trung cộng, xua quân đánh chiếm Hoàng sa của Việt nam. Tàu chiến của Đệ thất Hạm đội, đã lừng lững tiến vào, định can thiệp. Ta biết rất rõ: Chỉ cần, có sự hiện diện của Hải quân Hoa kì (không cần họ nổ súng), “ bố bảo”, Trung cộng cũng không bao giờ, dám đánh chiếm Hoàng sa. Nhưng cuối cùng, tàu chiến Hoa kì, được lệnh rút ra. Để mặc đồng minh VNCH, chiến đấu anh dũng trong tuyệt vọng. Và để mất Hoàng sa. Hoa kì, không đến nỗi, “Giữa đường, thấy sự bất bình, chẳng tha”. Họ cũng thừa biết, cái giá phải trả, cho việc đánh mất chữ tín, khi bỏ mặc đồng minh.
Nhưng ở đây, họ có chủ ý. Vì, đó là bài “Vứt xương, cho sư tử cắn nhau”. Hoàng sa, rõ ràng không phải của Mĩ. Nhưng miếng mồi này, lại được Mĩ, sử dụng 1 cách cực kì thâm – hiểm :
+Trung quốc, chẳng có chứng cớ pháp lí vững chắc nào, để khẳng định, Hoàng sa là của họ. Phi nghĩa, nhưng lại cướp được Hoàng sa, 1 cách quá dễ dàng.Trung cộng, làm gì mà không biết, có sự tiếp tay của Hoa kì. Dĩ nhiên, phải chịu ơn họ. Chịu ơn Hoa kì, quà ra mắt: Chống LX mạnh hơn. Bức tường “đoàn kết” trong phe cộng sản, sẽ nứt thêm một mảng to tướng.
+Mâu thuẫn giữa giữa Việt nam DCCH và Trung quốc, từ nay, sẽ hết sức căng thẳng. Họ, sẽ luôn gầm ghè nhau. Sức mạnh của họ, bởi thế sẽ giảm đi đáng kể.
+Bắc Việt ở thế kẹt :
-Nếu không nói ra, sẽ bị hiểu là bán nước . Đồng thời, Trung quốc sẽ có cớ, để nói Hoàng sa là của họ
-Nói ra, Trung quốc chắc chắn cũng không hoàn trả Hoàng sa. Đã thế, còn mất đi viện trợ. Trong khi, Bắc Viêt đang hết sức cần đến nguồn viện trợ này . Để “giải phóng Miền nam – thống nhất Đất nước”.
-Hậu quả, Nhân dân Miền nam nói riêng và Nhân dân cả nước nói chung, mất đi thiện cảm, với chính phủ VNDCCH và Mặt trận DTGPMN.
Tình hình biển Đông, ngày càng phức tạp. Chứng tỏ, người Mĩ hết sức cao tay. Những con diều hâu ở Bắc kinh, đã tỏ ra hết sức sốt ruột. Chúng, liên tục gây hấn. Còn người Mĩ, dùng đúng bài của Trung cộng khi xưa: “Mi không đụng đến ta, thì ta cũng không đụng đến mi”. Và tuyên bố, đứng ngoài tranh chấp lãnh thổ. Sự thực, có phải như thế không? Ngàn lần Không. Hoa kì đang ung dung, chờ gặt hái thành quả của mình. Bắc kinh chưa nổ súng, nhiều nước đã xun xoe, chạy đến cầu cạnh Hoa kì. Trước kia, đuổi họ đi. Nay, năn nỉ, mời họ vào. Chỗ đứng chân của Hoa kì, trong Chiến lược toàn cầu, đã trở nên quá vững chắc. Chưa kể tình huống: Bắc kinh do bị ấm đầu, mà khai chiến ở Biển Đông. Họ chưa chắc, đã chiếm được Trường sa. Nhưng, có thể khẳng định, 1 cách chắc chắn rằng: Cả khu vực này, sẽ tình nguyện, xin nằm trong mặt trận chung, để chống Trung quốc. Tất nhiên, do Hoa kì đứng đầu. Tấm lưới, mà Hoa kì tung ra, để bao vây Trung quốc, đã dần được xiết chặt.
Đây có thể, được coi là, mẫu mực của sách lược “Dĩ quốc thủ thiên hạ”
呜呼, 曼曼绵绵, 其聚必散. Ô hô,man man miên miên, kì tụ tất tán.
Ô hô, Thương triều kia, từ khi tụ nghĩa, để khởi binh – lập nghiệp đến nay, thời gian đã quá dài. Thành cao – hào sâu; binh hùng – tướng hổ, ăn thua gì. Chẳng qua, chỉ là cái mẽ ngoài. Thực chất, dân chúng ghê tởm, họ đang quay lưng – sĩ phu khinh bỉ, họ đã ngoảnh mặt. Xã hội thối nát – quan lại bạo tàn. Mục ruỗng, đến tận xương – tận tủy rồi. Đã đến lúc:
Mây tán – Tuyết tan – Hoa tàn – Trăng lặn .
嘿嘿昧昧, 其光必远. Mặc mặc muội muội, kì quang tất viễn
Trong đêm đông âm u và lạnh lẽ, ánh hào quang, phát ra từ ngọn Hải đăng, sẽ được người ta, trông thấy từ rất xa. Giữa cái tối tăm – mù mịt đến mức đặc quánh của nhà Thương, với ánh hào quang, vừa mới nhen nhóm của nhà Chu. Không nói, Thiên hạ cũng biết, phải đi theo con đường nào.
微哉! 圣人之德, 诱乎独见. 乐哉! 圣人之虑, 各归其次, 而树敛焉 . Vi tai! Thánh nhân chi đức, dụ hồ độc kiến. Lạc tai! Thánh nhân chi lự, các qui kì thứ, nhi thụ liễm yên.
-Thánh nhân, chỉ có mỗi 1 cách, để thể hiện Đức hạnh của mình: Hãy làm, cho quần chúng thấy – Thấy rồi, người ta sẽ tin – Tin rồi, người ta sẽ yêu quí và kính trọng mình.
Xin hãy 1 lần, nghe theo lời khuyên của Tổng thống Việt nam Cộng hòa, ông Nguyễn Văn Thiệu. Để, nhìn vào việc làm của lãnh đạo CS:
Ông thì nhìn thấy sâu – mà không dám bắt. Ông thì nhìn thấy chuột – nhưng chẳng dám đập. Ông thì hứa: “không chống được tham nhũng, xin từ chức” – nhưng rồi thấy, ông xù. Ông Chủ tịch Quốc hội quyết sai – ông bắt Dân, phải chịu trách nhiệm thay mình.
Từ trên xuống dưới, rặt 1 loại võ mồm. Chuyên ăn tục – nói phét. Làm gì có Đức hạnh, mà bắt Dân tin.
-Thánh nhân, ngày đêm trăn trở. Sung sướng gì hơn, khi chứng kiến, dòng người trong Thiên hạ, lũ lượt đổ về theo mình. Nhân tâm tụ hợp. Đó là, điều kiện tiên quyết, cho việc “dựng công – lập nghiệp”.
文王曰: “立敛若何,而天下归之?”. Văn vương viết: “Lập liễm nhược hà, nhi thiên hạ qui chi?”
Văn vương hỏi: “Thánh nhân, phải tạo lập ở mình, những phẩm chất gì, khiến Thiên hạ, họ tự nguyện theo?”.
太公曰: “天下非一人之天下, 乃天下之天下也. Thái công viết: “Thiên hạ phi nhất nhân chi thiên hạ, nãi thiên hạ chi thiên hạ dã”.
Thái công đáp : “Thiên hạ, không phải là của riêng của 1 người, hoặc là của riêng của 1 nhóm người.Thiên hạ, là của người trong Thiên hạ”. Nói cách khác, chính những người DÂN, đang sinh sống trên đó, mới là CHỦthể của Thiên hạ. Và, muốn thu phục được Thiên hạ, khoan hẵng nghĩ đến mình. Đầu tiên, phải học cách cúi đầu trước Thiên hạ.
Cách đây mấy nghìn năm, giữa thời phong kiến thối nát, luôn coi, Thiên hạ là của Vua. Khương Tử nha, đã nêu ra luận điểm, hoàn toàn trái ngược: “Thiên hạ là của Dân”. Thật là tuyệt vời. Rõ ràng, Khương Tử nha, đã đi trước thời đại. Nhà Chu, tiếp thu ý tưởng “Dân chủ” của Khương Tử Nha. Sửa đổi cho phù hợp và thi hành tốt điều này. Nên, tồn tại khoảng 800 năm (Lâu gấp 14 lần, so với Liên xô – “Thành trì” của phe XHCN)
同天下之利者, 则得天下 . Đồng thiên hạ chi lợi giả, tắc đắc thiên hạ.
Ai, có khả năng, chia cho mọi người, cùng hưởng thụ nguồn lợi của Thiên hạ. Người đó, sẽ chiếm được Thiên hạ.
Ở các nước, theo thể chế Dân chủ, tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên…được công khai cho toàn dân biết. Được đưa vào quỹ an sinh xã hội. Người ta dùng nó, để chi trả cho Giáo dục, cho Y tế, cho Trị an, cho chăm sóc Môi trường…Vì thế: Trẻ con, đi học không mất tiền. Thất nghiệp, có Nhà nước trợ cấp. Đau ốm, được chăm sóc thuốc men cộng với tình thương mến. Nhân dân, yêu quí Nhà nước. Những Nhà nước ấy, sụp đổ sao được.
擅天下之利者, 则失天下 . Thiện thiên hạ chi lợi giả, tắc thất thiên hạ.
Ngược lại, nguồn lợi của Thiên hạ, mình khư khư độc chiếm. Chuyện mất Thiên hạ, chỉ là vấn đề thời gia .
Ông Saddam Hussein và ông Gaddafi đều có một điểm chung: Tất cả, mọi quyền lợi kinh tế – chính trị – văn hóa của đất nước, đều được đem gom hết vào mình, vào gia đình mình, vào cánh hẩu của mình.Tóm lại là độc tài. Kết quả: Không những mất Thiên hạ, mà bản thân ?
Một người, bị quần chúng tóm cổ, lôi ra khỏi ống cống. Van lạy, cũng không được tha. Giữa thanh thiên – bạch nhật, bị đập chết, một cách thê thảm. Xác, được trưng bày, trong lò mổ xúc vật.
Người kia, may mắn hơn chút xíu . Được đem ra xét xử, một cách đàng hoàng. Nhưng cuối cùng, đâu có thoát được, cái thòng lọng của giá treo cổ.
Đảng CS Việt nam, đâu có kém cạnh gì những ông đó. Quyền lợi của Đất nước, họ vơ hết vào lòng. Chính quyền, họ độc chiếm. Tương lai của họ, là con đường, mà 2 ông kia đã đi.
天有时, 地有财, 能与人共之者, 仁也. Thiên hữu thời, địa hữu tài. Năng dữ nhân cộng chi giả, NHÂN dã.
Trời, cho con người ta thời cơ – Đất, cho con người ta sản vât. Biết đem chia những thứ đó, cho mọi người cùng hưởng. Thế mới là, có NHÂN.
Nói về tuyển chọn cán bộ. Ở Việt nam, không ai không biết đến “tứ ệ”: Hậu duệ (con ông cháu cha) – Tiền tệ – Quan hệ – Trí tuệ. Những người thực tài, họ rất ít có cơ hội, để được phục vụ Tổ quốc – phục vụ Nhân dân.
Việt nam, hút được dầu mỏ. Nhưng, dân chúng, chẳng hề biết, bán được bao nhiêu tiền và tiền ấy, được dùng vào việc gì. Chỉ biết, họ vẫn phải mua xăng, với giá thành, mà thuế và phí, đã chiếm non nửa trong số đó.
Đâu dễ gì thuyết phục, để Nhân dân tin rằng, những người CS, họ có NHÂN.
仁之所在, 天下归 之. Nhân chi sở tại, thiên hạ qui chi.
Ở đâu có NHÂN, Thiên hạ sẽ theo về đấy. Những kẻ bất Nhân, Thiên hạ sẽ quay lưng – ngoảnh mặt.
免 人之死, 解人之难, 救人之患, 济人之急者, 德也 . Miễn nhân chi tử, giải nhân chi nan, cứu nhân chi hoạn, tế nhân chi cấp giả , ĐỨC dã.
Phải khoan dung – độ lượng. Tháo gỡ, những khó khăn cho người dân. Cứu họ, trong cơn hoạn nạn. Tiếp tế, khi họ gặp cảnh thiên tai. Làm được tất cả những cái đó, Đại vương đã để ĐỨC cho Thiên hạ.
Công an CS, bắt dân lành vì những tội tào lao. Vào nha môn, khỏe mạnh. Lúc ra, chỉ là cái xác, không hồn. Không phải 1, mà là nhiều. Nhiều như thế, nhưng chẳng thấy kẻ nào, bị đền tội. Ngược lại, người Dân có lỗi tí ti, họ bị hành hạ lên bờ – xuống ruộng. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.
Không những, không tìm cách tháo gỡ khó khăn cho người dân. Chế độ CS, luôn tìm mọi cách, để hành Dân. Cán bộ của họ, thản nhiên dạy nhau: “Việc dễ, không làm cho khó, lấy đâu thịt chó mà ăn”. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.
Khi người ta đau yếu, không có tiền, đừng mong được bệnh viện CS cứu chữa. Không có phong bì, đừng mong có thái độ ân cần. 3 đến 4 thằng dân đen, nằm chung 1 giường bệnh, là chuyện bình thường. Tính mạng của chúng, đáng kể gì. Bao nhiêu kinh phí, còn phải dồn cho cán bộ CS. Để, họ được đi chữa bệnh, ở những bệnh viện tốt nhất thế giới. Chế độ như thế, đâu gọi là có đức.
Khi người ta, gặp thiên tai – địch họa. Lâm vào cảnh, màn trời – chiếu đất. Cán bộ CS, cũng chẳng bỏ lỡ dịp, để xà xẻo cả vào tiền cứu trợ của cộng đồng. Họ “Ăn của dân, không chừa 1 thứ gì”(Lời bà Nguyễn Thị Doan). Chỉ có chế độ thất đức, mới sinh ra những loại cán bộ như vậy.
德之所在, 天下归之 . Đức chi sở tại, thiên hạ qui chi.
Phải có Đức, Thiên hạ mới theo. Nếu Đại vương thất Đức. Dẫu có bị kề gươm vào cổ, Thiên hạ, người ta cũng không đi theo Đại vương.
与人同忧同乐, 同好同恶者, 义也 . Dữ nhân đồng ưu đồng lạc, đồng hiếu đồng ố giả , NGHĨA dã
Biết cảm thông, mà không hả hê với nỗi đau của người khác. Biết hân hoan, mà không ganh ghét với thành công của họ. Cùng sở thích với Thiên hạ. Cùng ghét cay ghét đắng, những gì Thiên hạ không ưa. Làm được như thế, gọi là có NGHĨA.
Trên đời, ai cũng muốn, làm những việc mình say mê. Làm rồi, phải được hưởng thành quả. Không ai muốn, bị kẻ khác cướp công.
Câu chuyện anh em Đoàn Văn Vươn, ở Tiên lãng – Hải phòng, là 1 ví dụ nổi bật, để thấy cái NGHĨA của những người CS.
义之所在, 天下赴之. Nghĩa chi sở tại, thiên hạ phó chi.
Đại vương có nghĩa, bá tính trong Thiên hạ, họ sẽ giao phó tính mạng – của cải – tài sản cho Đại vương.
Bạn cho chính quyền CS vay tiền của – cho họ mượn tài sản ư? Hãy tin tưởng 1 điều: Họ, sẽ không bao giờ, hoàn trả lại bạn. Đi đòi ư? Nhà tù của chế độ, còn rộng chỗ lắm. Họ sẽ vu oan – giáng họa, để tống bạn vào. Bạn mong chờ điều chi, khi lũ “Đầu trộm – đuôi cướp”, chúng lại ngồi, ở ghế quan tòa?
凡人恶死而乐生, 好德而归利, 能生利者, 道也 . Phàm nhân ố tử nhi lạc sinh, hiếu đức nhi qui lợi. Năng sinh lợi giả, ĐẠO dã.
Con người ta, không ai thích chết chóc, bệnh tật, nghèo hèn, thiên tai, mất mùa, thi trượt, lỗ vốn, khổ nhục, tù tội…Ai cũng thích được sống lâu, khỏe mạnh, phú quí, được tôn vinh, hiển danh. đắc ý, làm ăn phát tài, học hành tấn tới…Ai, cũng quí trọng, người nhân đức – việc nhân nghĩa. Nhưng trên hết, người đời hành động, theo cái lợi của riêng mình. Giúp dân, sinh lợi và trừ hại cho họ, đại vương, đã thực sự : “thế Thiên hành Đạo rồi”.
Khi dân bị hại, chính quyền không trừ được hại cho họ. Người xưa, đã xếp chính quyền ấy, vào loại vô Đạo. Trên cả mức ấy, có chính quyền chuyên làm hại dân – hại nước. Nhưng, chưa thấy người xưa, đặt ra cái thứ hạng gì, để có thể, xếp nó vào?
道之所在, 天下归之. Đạo chi sở tại, thiên hạ qui chi.
Ở đâu có đạo, Thiên hạ sẽ theo về.
文王再拜曰: “允哉, 敢不受天之诏命乎!” 乃载与俱归. 立为师 . Văn vương tái bái viết: “ Doãn tai, cảm bất thụ thiên chi chiếu mệnh hồ !” Nãi tải dữ câu qui. Lập vi sư.
Văn vương, bái tạ 2 lần, rồi nói: “Nghe tiên sinh giảng giải, khác nào, như quét được đám mây mù, mà trông thấy trời xanh. Ta đâu dám, không tiếp thụ, chiếu mệnh của Ngọc Hoàng thượng đế”. Nói đoạn, mời Khương Thái công, ngồi cùng xe, hồi triều. Lập làm quân sư.
Lời bàn:
-Quản Trọng, là Tể tướng của nước Tề, thời Xuân Thu. Ông đã từng tổng kết: 争天下者, 必先争人 – tranh Thiên hạ giả, tất tiên tranh nhân. Nghĩa là, muốn thu phục được Thiên hạ, đầu tiên, phải nghĩ đến chuyện giành dân.
Nhà buôn, muốn bán được hàng, bao giờ, họ cũng tìm mọi cách, để chiếm được tình cảm của khách hàng. Họ cải tiến mẫu mã – tăng chất lượng hàng hóa – giảm giá thành và tăng chất lượng dịch vụ. Họ biết, không làm tốt việc đó, chỉ có mỗi con đường: Phá sản và đi ăn mày. Đối với nhà buôn, không vui sướng gì hơn, khi chứng kiến cảnh khách hàng, ùn ùn đổ về mua và dùng sản phẩm của mình.
Trong bầu cử, ở các thể chế Dân chủ. Ứng cử viên nào, cũng phải vận động cử tri. Thuyết phục họ. Để họ tin mình, để họ theo mình và để họ dồn phiếu cho mình. Thắng cử rồi, họ tận tâm – tận lực, phục vụ Nhân dân. Những ông Chủ – bà Chủ của họ.
Những người CS, thì khác. Họ luôn tâm niệm 1 điều: “súng đã đẻ ra được chính quyền”, thì “súng cũng sẽ giữ được chính quyền”. Bởi thế, họ chỉ cần, tìm mọi cách để nắm lực lượng vũ trang và hết lòng chăm lo cho chúng. Đối với họ, quần chúng, chỉ là một con số 0 tròn chĩnh. Giỏi lắm, quần chúng là nơi để họ bóc lột – là nơi để họ sai khiến và là nơi, để họ bố thí của ôi thiu – dư thừa. Họ thản nhiên ăn trên – ngồi trốc trên đầu Nhân dân. Đó là, sai lầm chết người của CS. Không có ai dạy, để cho họ biết rằng: Không có Dân, chính quyền, chỉ như một con thuyền nằm trên bờ.
Nga xô và các nước CS Đông Âu sụp đổ. Những người CS, họ đổ riệt cho: “Âm mưu diễn biến Hòa bình” và “Các thế lực thù địch và phản động”. Xem ra, họ chẳng khác gì, những con đà điểu. Thích rúc đầu vào cát, để không muốn nhận ra, 1 sự thực rằng: Chính những ung nhọt, trong lòng chế độ CS và chỉ nó, mới có thể phá nát những chế độ CS. Ung nhọt đó, bắt nguồn từ chỗ: “bất Nhân – phi Nghĩa – thất Đức – vô Đạo”. Họ, không có, những phẩm chất của 1 bậc Đế vương. Nên dân chúng không theo. Mất dân, cho nên họ mất tất.
Ở Việt nam cũng vậy. Mấy triệu con người, đã phải gạt nước mắt, bỏ lại nhà cửa, bỏ lại người thân, bỏ lại Đất nước, mà ra đi. Họ, thà làm mồi cho cá mập, thà bị cướp biển giết chóc – cưỡng đoạt, chứ nhất định, không chịu sống dưới chế độ CS. “Chế độ CS, phải như thế nào, người ta mới bỏ đi ồ ạt như thế chứ”.
Khi bỏ nước, để đi tìm “mảnh đất hứa”: Người ta, chọn đến xứ, có “cờ 50 sao”. Chẳng ai chọn đến xứ có “cờ 5 sao” cả. Chẳng cứ cá nhân, các Nhà nước cũng vậy. Khi cần chọn đồng minh, ai cũng chọn Hoa kì. Không ai chọn Trung quốc. Tất nhiên, trừ nhà nước CHXHCN Việt nam. Bởi, người thông minh, họ phải biết, đi tới chỗ sáng. Nơi có NHÂN – NGHĨA – ĐỨC – ĐẠO. Chỉ có ngu dốt, mới chịu sa chân, để bước vào nơi tối tăm mù mịt.
Nguyễn Tiến Dân
Địa chỉ: 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội
Điện thoại: 0168-50-56-430.
Nguyễn Tiến Dân
DOANH HƯ
Thiên này, thảo luận việc hưng – suy – trị – loạn của 1 quốc gia.
Việc đó, không phụ thuộc, vào mệnh Trời. Không phụ thuộc, vào vị trí địa lí của Quốc gia. Không phụ thuộc, vào tập quán sinh hoạt của người Dân. Việc đó, hoàn toàn phụ thuộc, vào người đứng đầu quốc gia. Người đứng đầu giỏi, Đất nước sẽ phồn vinh. Nhân dân, sẽ ấm no – hạnh phúc. Ngược lại, lũ hôn quân – vô đạo, chúng, sẽ đưa Đất nước, đến chỗ điêu tàn. Đẩy dân chúng tới chỗ lầm than.
盈虚
文王问太公曰: “天下熙熙, 一盈一虚, 一治一乱, 所以然者, 何也. Văn vương vấn Thái công viết: “Thiên hạ hi hi, nhất doanh nhất hư, nhất trị nhất loạn, sở dĩ nhiên giả hà dã?”
Văn vương hỏi Thái công: “Thiên hạ, vốn dĩ hỗn loạn và phức tạp. Quốc gia: Có lúc, hưng thịnh – Có lúc, suy vong. Đất nước: Có lúc, của cải dư thừa – Có lúc, chết đói đầy đường. Dân chúng: Có lúc, an cư – lạc nghiệp. Có lúc, loạn lạc – bất yên. Cơ sự ấy tại đâu?”
其君贤不肖不等乎, 其天时变化自然乎? Kì quân hiền bất tiếu bất đẳng hồ, kì thiên thời biến hóa tự nhiên hồ?
Vua hiền, hay Chúa u mê không giống nhau, mà sinh ra chăng? Hay tại thiên thời – tự nhiên biến hóa, mà thành ra như vậy?
太公曰: 君不肖, 则国危而民乱. 君贤圣, 则国安而民冶. 祸福在君不在天时. Thái công viết: “Quân bất tiếu, tắc quốc nguy nhi dân loạn. Quân hiền Thánh, tắc quốc an nhi dân trị. Họa phúc tại Quân, bất tại thiên thời”
Thái công đáp: “Người đứng đầu Đất nước, có Tài hèn – Chí cùn. Tầm nhìn thiển cận. Tư duy nhiệm kì. Đã thế, lại còn ích kỉ. Chắc chắn, Quốc nguy, mà Dân loạn. Người đứng đầu Đất nước, Tài giỏi – Thông minh, có tầm nhìn xa – trông rộng. Hết lòng vì Dân – vì Nước. Chắc chắn, Quốc an, mà Dân trị. Họa – phúc của 1 Quốc gia, tại Vua – tại Chúa – tại người lãnh đạo.Thiên thời vô can”.
Cứ gì Quốc gia. Bill Gates, khởi đầu sự nghiêp, gần như, với 2 bàn tay trắng. Ông, chỉ có trong tay, niềm đam mê. Chỉ có trong tay, trí tuệ sắc bén. Cộng với, đầu óc tổ chức, cực tài. Bây giờ, nói đến ông và Microsoft, ai mà chẳng biết. Chương trình Bô xít của chúng ta, có dàn lãnh đạo, quá tồi. Chưa làm, đã thấy cửa bại. Nhưng, vẫn đâm đầu vào. Để đến giờ, càng làm – càng chết.
Cứ gì Doanh nghiệp. Gia đình nào, có ông bố tài năng – đức độ, có bà mẹ đảm đang – tháo vát. Gia đình ấy, ắt thuận hòa, ăn gia làm nên. Ngược lại, ông bố bất tài – nghiện ngập, bà mẹ vụng về – cờ bạc. Dẫu có hàng núi vàng, gia đình ấy, vẫn lục đục, chẳng bao giờ yên.
文王曰: 古之贤君可得闻乎?Văn vương viết: “Cổ chi hiền quân, khả đắc văn hồ?”
Văn vương hỏi: “Cổ đại, vị nào, có thể được coi là Vua hiền?”
太公曰: 昔者帝尧之王天下也, 上世所谓贤君也. Thái công viết: “Tích giả, Đế Nghiêu chi vương thiên hạ dã, thượng thế sở vị hiền quân dã”
Thái công trả lời: “Cổ – kim, đều ca tụng Đế Nghiêu. Ngài xứng đáng, được coi là, vị Vua hiền”.
文王曰:其治如何? Văn vương viết:“Kì trị như hà” .
Văn vương hỏi: “Đế Nghiêu, trị lí thiên hạ ra sao?”
太公曰: 帝尧王天下之时. 金银珠玉不饰, 锦绣文绮不衣. Thái công viết: “Đế Nghiêu vương thiên hạ chi thời, kim ngân, châu ngọc bất sức; cẩm tú, văn ỷ bất y”.
Thái công trả lời: “Đế Nghiêu khi làm Vua: Ngài, không dùng vàng bạc – châu báu, làm đồ trang sức. Không dùng lụa là – gấm vóc, để may y phục. Quần áo mặc, không may vá – thêu thùa cầu kì”.
奇怪珍异不视. 玩好之器不宝. Kì quái trân dị bất thị, ngoạn hảo chi khí bất bảo.
Việc li kì, không nghe. Vật quí hiếm, không xem. Trong nhà, không tàng trữ bảo vật, như ngà voi – sừng tê. Cũng không chứa đồ đẹp đẽ – chế tác cầu kì, như trống đồng, bình vàng, chén ngọc. Việc đó, Ngài dặn lại con cháu, xui lãnh đạo CS, loại như ông Lê Khả Phiêu. Để, ông ấy làm.
淫佚之乐不听, 宫垣屋室不垩. Dâm dật chi nhạc bất thính, cung viên ốc thất bất ác.
Nhạc dâm dật, không nghe. Thi Hoa hậu, không xem. Giữa thanh thiên – bạch nhật, trai gái, ôm riết lấy nhau, mà đú đởn trước liệt tổ – liệt tông, Ngài cấm chỉ. Hành vi đó, Ngài đóng hòm, cho xuất khẩu, sang Bộ Văn hóa của nước Nam.
Phòng Ngài ở: Tường, không cho bả – Vách, chẳng cho sơn. Xem ra, tư dinh của Ngài, chẳng bằng cái bếp, trong biệt thự của ông Bùi Thanh Quyến. Bí thư của 1 tỉnh, nhỏ xíu ở Việt nam.
甍、桷、椽、楹、不斫,茅茨偏庭不剪. Manh, giác, chuyên, doanh bất chước; Mao tỳ biên đình bất tiễn.
Cột, kèo, rui, mè để dựng nhà, Ngài không cho đẽo gọt – chạm trổ cầu kì. Mái điện, lợp bằng cỏ gianh. Nếu có lòa xòa, cũng chẳng cần cho cắt tỉa.
Thế mới hay, người xưa, chẳng biết thưởng ngoạn. Cung điện của Ngài, sánh sao cho được, với Hội trường Ba đình của Việt nam. Vậy mà, những người CS, họ vẫn cho đập đi. Để, xây Trụ sở Quốc hội mới. Tỷ lần, hoành tráng và đẹp đẽ hơn. Để, các ông nghị – bà nghị, có chỗ, vào đó mà ngủ gật.
鹿裘御寒, 布衣掩形. Lộc cừu ngự hàn; bố y yểm hình
Mùa đông, dùng da hươu, may áo. Khoác lên người, chỉ cốt chống rét. Mùa hạ, dùng vải thô, may y phục. Mặc vào người, chỉ cốt kín thân.
粝粱之饭, 藜藿之羹. Lệ lương chi phạn, lê hoắc chi canh
Cơm ăn, dùng gạo giã dối, để thổi. Canh chan, dùng rau hoang dã, để nấu. Không bao giờ, uống những chai rượu, giá bằng mấy con trâu. Chẳng cho phép, bán đi hàng chục tấn thóc. Để lập vườn, trồng sau sạch, chỉ dành riêng cho mình.
不以役作之故, 害民耕绩之时. Bất dĩ dịch tác chi cố, hại dân canh tích chi thời
Không cố, cưỡng ép dân, đi phu – đi lính. Nay hội, mai hè triền miên. Để làm hại tới ngân quỹ của Quốc gia và nông vụ của người Dân.
Thời Đế Nghiêu, “Vua – tôi đồng lòng. Anh – em hòa thuân. Cả nước gắng sức”. Bởi thế, Xã hội thanh bình. Toàn dân, liên kết, thành 1 khối thống nhất. Những nước láng giềng, dẫu có dã tâm, cũng không dám đến, để nhòm ngó. Nuôi làm gì lắm lính, để tổn hại, đến Ngân quỹ Quốc gia.
Những người CS, họ không có khả năng, đoàn kết được toàn dân. Họ, chẳng sợ Trung quốc. Vì, đấy là “bạn tốt” của họ. “Bạn ấy”, chỉ nhòm ngó thứ khác. “Bạn ấy”, đâu có nhòm ngó, ngai vàng của họ. Họ chỉ sợ, Nhân dân, sẽ lật đổ họ. Như Nhân dân, đã lật đổ các chế độ CS ở Nga xô và các nước CS Đông Âu. Vì thế, Công an “nhiều như quân Nguyên”. Nhưng, được giành phần lớn, để đi theo dõi và trấn áp người dân. Cướp – giết – hiếp – nghiện ngập đầy đường, đâu có thấy, bóng dáng các anh. Bộ đội, đông vô kể. Nhưng, thỉnh thoảng mới thấy họ. Khi, họ đi duyệt binh và khi, họ bám càng công an, để đi cưỡng chế Dân oan. Lãnh thổ, bị xâm phạm, chẳng thấy, ông lính nào, đến nhòm ngó.
削心约志, 从事乎无为. Tước tâm, ước chí. Tòng sự hồ vô vi.
Không muốn cao sang. Chẳng hề mơ mộng. Dân trí còn thấp, không siết ngân sách giáo dục, dành tiền nuôi gà nòi. Để mong, được giải Nô bel hão huyền. Kinh tế còn nghèo, không màng, xây những công trình “Xứng tầm khu vực và thế giới”. Chỉ cốt, khoe sự tham ăn và ngu dốt của mình.
Thuận theo tự nhiên, thuận theo dân ý mà trị nước, chăn dân. Ngài, không quy hoạch khu dân cư, ở vùng trũng. Bởi thế, triều cường, dẫu có lên đến đỉnh, cũng chẳng hề ảnh hưởng, đến việc đi lại và sinh hoạt của Nhân dân. Thuận theo nguyện vọng của Nhân dân, Ngài, tuyển chọn quan lại, thật kĩ càng.
吏忠正奉法者尊其位. Lại trung chính, phụng pháp giả, tôn kì vị.
Tiêu chuẩn, để tuyển chọn quan lại, bao gồm: Trung thành – Chính trực – Thượng tôn pháp luật. Và, chỉ những người, làm tốt các tiêu chí đó, mới được thăng chức.
Tục ngữ Việt nam, có câu: “Ăn cây nào – Rào cây ấy”. Quan lại, lĩnh lương của Nhà nước. Họ, phải có nghĩa vụ, trung thành với Tổ quốc và hết lòng, phục vụ Nhân dân. Họ không thể nhập nhèm: Lĩnh lương của Nhà nước, nhưng lại tuyên thệ trung thành và làm việc, cho 1 cái đảng nào đấy. Giống như sư sãi: Khi đã qui y, họ được ăn oản. Bắt buộc, họ phải ở lại chùa, mà quét lá đa. Họ, không được phép, mang lộc Chùa, để về, xây nhà thờ Tổ của mình.
Quan lại thời nay, đầy kẻ gian dối. Bằng cấp, chúng đi mua. Tuổi tác, chúng khai man. Quả trứng, có thể ăn cắp được. Xá gì, mà chúng, chẳng dám trộm bò. Đưa những kẻ lươn lẹo, vào hệ thống chính quyền. Chúng, sẽ phá nát chính quyền và chia nhau, ăn hết sạch của cải của Nhân dân.
Khi làm viêc, quan lại: “Lục thân đến, không được nhận – Đầu đảng nói, không được nghe”. Chỉ biết, “Thượng tôn pháp luật”. Pháp luật, cho người dân, được “Tự do ngôn luận”. Đừng bịt mồm – bịt miệng người ta. Pháp luật, cho người dân, được “Tự do đi lại”. Chớ xích chân – trói cẳng người ta. Pháp luật, cho người dân, được “Ứng cử tự do”. Đừng đem, “Mặt trận Tổ quốc” ra, làm trò mèo, để loại bỏ người ta.
廉洁爱人者厚其禄. Liêm khiết, ái nhân giả, hậu kì lộ.
Muốn Quan lại liêm khiết – thương dân, ít nhất, cũng phải trả cho người ta, đồng lương đủ để sống. Các thể chế Dân chủ, họ đều thực hiện cách này. Nhưng, thể chế CS, thì không. Cán bộ của họ, có đồng lương chết đói. Muốn sống sung túc, họ không từ 1 thủ đoạn nào, để vơ vét của Nhân dân.
民有孝慈者爱敬 之. Dân hữu hiếu từ giả, kính ái chi.
Xã hội, thời Đế Nghiêu. Những người, được kính trọng nhất: Không phải, là bọn trọc phú, lắm tiền. Không phải, là kẻ dốt nát, có quyền cao – chức trọng. Những người: Ở nhà mình, họ Hiếu thảo – Ra ngoài đường, họ Từ tâm. Họ, là người tốt, từ trong – ra ngoài. Họ, được cả xã hội, kính trọng.
Thời CS, cả xã hội, xun xoe trước những kẻ giàu và quị lụy, đến mức hèn hạ, trước những kẻ cầm quyền. Từ tâm và Hiếu thảo, là những thứ xa xỉ, hiếm gặp vô cùng. Mấy ai, biết rằng: Có bác sĩ, đã cấy vi trùng phong, vào dái tai của mình. Để chứng minh, bệnh phong không dễ lây. Để kêu gọi, cả xã hội, đừng kì thị những bệnh nhân, mắc chứng bệnh phong. Bao nhiêu người, biết rằng: Có cô nuôi dạy trẻ, lăn xả vào miệng rắn độc, để cứu cháu bé. Cô, bị rắn cắn. Nhưng, cháu được bình yên. Xã hội, thời CS, vinh danh họ, hay nghĩ rằng, họ là những người điên?
尽力农桑者慰勉之. Tận lực nông tang giả, ủy khuyến chi.
Tận lực, tăng gia sản xuất – khai hoang phục hóa, như Đoàn Văn Vươn. Ngài về tận nơi: Cầm tay, mà biểu dương – Cho vay thêm tiền, mà làm vốn – Cấp thêm ruộng đất, cho mà làm ăn. Bởi Ngài biết, Vươn mà ăn to – làm lớn, bao nhiêu người chậm chạp, họ sẽ có phận nhờ.
Trong hoàn cảnh, nhà nghèo – vốn ít – con đông. Những gia đình căn cơ, họ không bao giờ chia đều – cào bằng. Họ dồn tiền vốn – đất đai, cho đứa nào có khả năng, để nó sản xuất. Họ dồn tiền của – thời gian, cho đứa nào thông minh, để nó đi học. Họ gom vàng – bạc, cho đứa nào tháo vát, để nó vượt biên. Những người con đó, sau này, sẽ dìu dắt, tất cả những người còn lại của gia đình.
Những người CS, họ làm ngược lại. Đất đai – vốn liếng, họ không giao cho những người tài giỏi. Họ, giao hết vào tay, lũ đầu đất. Đầu tư vào chúng, khác nào, đổ tiền vào 1 cái thùng, không đáy. Không sạt nghiệp, sao được.
旌别淑德, 表其门闾. Tinh biệt thục đức, biểu kì môn lư.
Phụ nữ, có “Tiết hạnh khả phong”, được mọi người biết, ngay từ khi, đặt chân đến cổng làng.
Chư hầu, có quý bà, trải qua ba – bốn đời chồng, cuối cùng vẫn lấy được Vua. Vẫn được Vua, lập làm Hoàng hậu. Sự ô nhục ấy của Vua chư hầu và sự “tài giỏi” của Hậu, sẽ được vinh danh, nơi cửa chuồng trâu.
平心正节, 以法度禁邪伪. Bình tâm chính tiết, dĩ pháp độ cấm tà ngụy
Khí tiết thanh cao – Tấm lòng ngay thẳng. Lấy pháp luật, mà cấm chỉ tà ngụy – đồng cốt – bói toán quàng xiên. Không bao giờ, nghe lời xui dại của lũ Hòa thượng Quốc doanh, để làm những chuyện nhảm nhí. Tỉ như đúc 2 quả tim, rồi yểm cho tượng Thánh Gióng, lẫn con ngựa đồng. Nếu, những người CS, tin rằng, phải có sự ấy, thì tượng mới Linh thiêng. Bắt buộc, ta phải nghĩ rằng: Họ, đang hạ bệ, Thần tượng Hồ Chí Minh. Bởi, chắc chắn 1 điều: Trong lồng ngực của Chủ tịch, bây giờ, không có quả tim của Người.
所憎者, 有功必赏. Sở tăng giả, hữu công tất thưởng.
Người mà mình không ưa, có công, vẫn được trọng thưởng.
Trung tá Ngụy Văn Thà, cùng các chiến sĩ Hải quân Việt nam Cộng hòa, đã anh dũng hy sinh, để bảo vệ, sự toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước. Dẫu, không ưa chế độ Việt nam Cộng hòa. Nhưng, những người CS, vẫn phải có nghĩa vụ, vinh danh họ. Thế, mới phải Đạo.
所爱者, 有罪必罚. Sở ái giả, hữu tội tất phạt.
Người mà mình yêu quí, có tội, vẫn phải lôi ra chém đầu.
Xưa, Khổng Minh, phải gạt nước mắt, để chém Mã Tốc – một đệ tử yêu của mình. Do can tội, để mất Nhai đình. Nay, Vinashin, làm thất thoát của Đất nước, có nhõn 4 tỉ USD. Nhà nước CS, cho toàn dân biết “Bộ Chính trị quyết định, không xử phạt 1 ai”. Phép nước, “nghiêm” đến thế là cùng.
存养天下鳏, 寡, 孤, 独. 赈赡祸亡之家. Tồn dưỡng thiên hạ quan, quả , cô , độc ; Chẩn thiệm họa vong chi gia .
Lập trại dưỡng lão, để nuôi dưỡng người già yếu – cô đơn – cô nhi – quả phụ. Tổ chức cứu tế, cho những gia đình, gặp địch họa – thiên tai.
其自 奉也甚薄, 其赋役也甚寡. Kì tự phụng dã thậm bạc, kì phú dịch dã thậm quả
Bản thân sống cần kiệm – sinh hoạt đạm bạc. Thu của dân thì nhẹ thuế – ít phí. Không tùy tiện, bắt dân phu phen – tạp dịch.
Thông qua, 1 ví dụ cụ thể, là chiếc ô tô. Chúng ta hãy xem, những người CS, họ đã học được những gì, ở Đế Nghiêu. Chiếc ô tô, phải cõng trên mình nó, ít nhất, 3 loại thuế và 7 loại phí. Loại nào, cũng rất “nhẹ”. Cho nên, để sở hữu, một chiếc Hyundai SantaFe nhập khẩu, người tiêu dùng, phải bỏ ra, khoảng 83.000 USD. Trong khi, chiếc xe này, có giá tại Mỹ, chỉ là 23.000 USD.
CS, không chịu làm. Nhưng, họ ăn quá dầy.
故万民富乐而无饥寒之色. Cố vạn dân phú lạc nhi vô cơ hàn chi sắc.
Cho nên, vạn dân giàu có – yên vui. Muôn nơi, rộn tiếng cười. Không đâu, ngộ cảnh đói – rét.
百姓戴其君如日月, 亲其君如父母. Bách tính đái kì Quân như nhật nguyệt, thân kì Quân như phụ mẫu.
Trăm họ, mang ơn Vua, như đội ơn, hai vầng Nhât – Nguyệt. Thân thiết, kính trọng Vua, như cha mẹ của mình.
Đó, cũng chính là lý do, giải thích tại sao: “Các thế lực thù địch và phản động”, lẫn “Âm mưu diễn biến Hòa bình”, không dám và không thể, lật đổ được, vị Vua thân yêu của họ.
文王曰:大哉!贤君之德也! Văn vương viết: “Đại tai! Hiền Quân chi Đức dã”.
Đức hạnh của bậc Thánh nhân, cao siêu vời vợi. Rút gọn lại, chỉ gồm: Cần – Kiệm – Liêm – Chính. Chí công – Vô tư. Ai, mà chẳng nói được. Nhưng, có phải, ai cũng làm được như Đế Nghiêu đâu.
Vì thế, Văn vương phải thốt lên : “Ôi! Vĩ đại thay, cái Đức của bậc Thánh nhân”.
Lời bàn:
Ở Việt nam, có 1 ông, Trung ương ủy viên – phó trưởng Ban Tuyên huấn. Ông ta, làm như thể, mình là người đầu tiên, phát hiện ra 1 sự thật: “Nước ta, cùng Hàn Quốc, cách đây 50 năm, đều trong một hoàn cảnh giống nhau. Vậy mà hôm nay, ở Việt Nam, có khoảng 90.000 người Hàn Quốc. Họ, đều là những ông chủ – bà chủ. Còn, 90.000 người Việt ở Hàn Quốc. Tất thảy, đều đi đến đó, để làm tôi tớ”. Nếu biết điều, xin ông, hãy nói tiếp: “Nhật bản và Hàn quốc, giàu có và Văn minh. Bởi, họ có ban lãnh đạo tài giỏi, hết lòng vì Dân – vì Nước. Lãnh đạo Việt nam, có những phẩm chất ngược lại. Bởi thế, chúng ta đã – đang và sẽ mãi mãi, vẫn nghèo hèn và lạc hậu. Không thể khác được”.
Ông Tố Hữu, có 1 câu thơ: “Ta tự hào đi lên. Ôi Việt nam”. Không tự hào, sao được. Bởi, đường tới Thiên đàng của chúng ta, Thiên hạ, chẳng ai dám đi. Vì, họ biết, đích đến của nó, là vực thẳm. Chỉ có ta, nhắm mắt và hiên ngang bước tới. Đường chúng ta đi, lồi lõm, giống như mặt ruộng, lúc mới cày. Phố xá chúng ta ở, mưa xuống là thành sông. Sông ngòi của chúng ta, đen ngòm và đặc quánh. Đầy túi nilon và dư thừa xác xúc vật. Thủ đô “nghìn năm văn hiến”của chúng ta, bẩn thỉu – hôi thối – nhếch nhác – lộn xộn và kệch cỡm. Con người của chúng ta, được đảng giáo dục. Cho nên, Văn – Võ toàn tài. Văn: Bằng cấp của chúng ta, chẳng được ai tôn trọng và công nhận. Đi ra nước ngoài, họ cảnh báo chúng ta, bằng tiếng Việt: Xin đừng ăn cắp của họ. Võ: Động tí, là đánh – chửi nhau. Đi ăn cắp chó, cũng có thể, bị đập chết, như 1 con chó. Những người cai trị chúng ta, họ thật là nhân từ. Họ, cư ngụ, trong những căn biệt thự xinh đẹp. Mặc kệ người Dân, sống vất vưởng. Họ, coi người dân, chỉ bằng nửa con mắt. Công an của chúng ta, “giỏi nhất Thế giới”. Bằng chứng, chính họ, phát truyền đơn, cảnh báo cho du khách, trộm cắp ở Việt nam, nhiều hơn rươi.
… và …
Xem bức tranh, phác họa 1 cách vội vàng đó. Bạn, thấy tự hào hay nhục nhã, khi cầm trên tay, cuốn Hộ chiếu của nước CHXHCN Việt nam? Quan trọng hơn, bạn nghĩ, đấng Quân vương của chúng ta: Hiền minh, hay là lũ đầu đất?
Những người CS, họ lập ra, cái gọi là, Ban Tuyên giáo Trung ương. Giao cho, 1 ông vua của đảng CS, cầm đầu. Tập hợp trong đấy, tinh những Giáo sư – Tiến sĩ. Họ được đào tạo, 1 cách, hết sức bài bản. Chuyên “định hướng dư luận” và “đấu tranh, với các luồng tư tưởng, đối nghịch với đảng CS”. Hướng ra nước ngoài, tất nhiên, họ không dám rồi. Bởi, ra ngoài đó: Ăn nói mà u mê – Diễn thuyết mà lẩm cẩm. Thiên hạ, người ta lập tức cấm cửa. Họ không dỗi hơi, nói chuyện với thằng khùng. Trong nước, một mình – một chợ. Sao chẳng dám, lập 1 diễn đàn công khai. Để, những tinh hoa của đảng CS, đối thoại trực tiếp với Nhân dân và vạch rõ, những luận điệu sai trái của “Các thế lực thù địch và phản động” ?
Chiến thắng “đối lập”, bằng lý luận và thực tiễn. Bao giờ, cũng vẻ vang hơn, chiến thẳng họ, bằng nắm đấm. Ban Tuyên giáo Trung ương, hãy chứng tỏ: các Anh – các Chị, có bản lĩnh; các Anh – các Chị, không phải là 1 thực thể thừa và các Anh – các Chị, không bao giờ, chịu núp sau đũng quần của ngành Công an. Xin, các Anh – các Chị, hãy dũng cảm lên.
Mang chiêng, đi đấm ở xứ mình.
Không kêu, cũng phải đánh 1 hồi, cho Thiên hạ biết danh
Nguyễn Tiến Dân
Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội
Điện thoại : 0168-50-56-430
Đòn thù thâm độc của công an trại giam
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-11-10
11102014-reveng-treat-to-poli-pri.mp3
Từ trái: anh Nguyễn Hữu Vinh, chị Cấn Thị Thêu và anh Đặng Xuân Diệu.
RFA files
Nhiều tù nhân chính trị/lương tâm kiên quyết không chịu nhận tội phải đón nhận những hành xử mang tính trả thù dữ dội trong trại giam.
Anh Basam Nguyễn Hữu Vinh
‘Kiến nghị về việc đổi người giam cùng buồng với nghi can Nguyễn Hữu Vinh’ do luật sư Hà Huy Sơn gửi Viện Kiểm sát Tối cao và giám thị trại giam B14 Bộ Công An ký vào ngày 31 tháng 10 vừa qua. Trong thư luật sư Hà Huy Sơn, người bào chữa cho trường hợp của blogger AnhBasam Nguyễn Hữu Vinh, hiện đang bị tạm giam và khởi tố về điều 258 Bộ luật hình sự Việt Nam ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ …’ thuật lại lần làm việc vào ngày 30 tháng 10, đích thân ông Nguyễn Hữu Vinh cho biết đang bị giam giữ cùng một bị can nhỏ hơn chừng 20 tuổi có biểu hiện tâm lý bất thường. Người này từng có tiền án giết người và đang bị khởi tố về một tội hình sự đặc biệt nghiêm trọng. Ông Nguyễn Hữu Vinh đã sử dụng nhiều phương cách để khuyên nhủ, chấn tĩnh tâm lý cho bị can giam chung phòng; thế nhưng mọi biện pháp đều không hiệu quả và nếp sinh hoạt bất thường của bị can đó gây ảnh hưởng đến tinh thần của ông Nguyễn Hữu Vinh một cách nghiêm trọng, cũng như có nguy cơ không bảo đảm an toàn cho ông Vinh. Bản thân ông này đề nghị được đổi người giam chung cùng phòng như thế.
Luật sư Hà Huy Sơn vào ngày 9 tháng 11 cho biết như sau:
Trong buổi làm việc cùng điều tra viên thì ông Vinh có trình bày như vậy. Tôi với trách nhiệm của luật sư tôi cũng làm kiến nghị và tôi gửi cho các cơ quan chức năng và tôi thông báo cho gia đình, vợ ông Vinh được biết.
Dân oan Cấn Thị Thêu
Một trường hợp khác được gia đình lên tiếng kêu cứu là của tù nhân Cấn Thị Thêu hiện đang bị giam chung với hai tù nhân nhiễm HIV nặng, thân hình bị lở lói. Thông tin này được một tù nhân khác cũng là dân oan Dương Nội vừa mãn án tù cho các con của bà Cấn Thị Thêu biết.
Anh Trịnh Bá Phương, con trai bà Cấn Thị Thêu, nói về việc nhận được tin xấu đó:
Sau khi cô Nguyễn thị Ngân và Nguyễn thị Toàn, hai người cùng trong đoàn Dương Nội bị bắt, trước khi ra tù hai cô ở cùng buồng giam của mẹ tôi gần một tháng. Sau khi ra tù, các cô cho biết thông tin ở trong đó là mẹ tôi bị nhốt chung với hai tù nhân bị nhiễm HIV và trong trại giam họ có nhiều sai phạm, ngược đãi tù nhân. Qua lời cô Nguyễn thị Ngân thì mẹ tôi bị nhốt cùng hai tù nhân bị nhiễm HIV từ khi bị bắt vào. Cũng theo lời cô Ngân, sau khi xử xong mẹ tôi chuyển sang buồng khác thì hai tù nhân đó cũng đi theo sang. Tôi nghĩ rằng đây là một sự sắp đặt, cố tình nhốt mẹ tôi với hai tù nhân nhiễm HIV.
Về việc ngược đãi, qua lời cô Ngân, cô Toàn, thì mẹ tôi bị cấm cả buồng giam khoảng hơn 20 người không ai được giao tiếp, không ai được nói chuyện với mẹ tôi. Nếu ai nói chuyện sẽ bị kỷ luật trực thêm 5 ngày. Cô Ngân một lần thấy mẹ cháu mệt đến vuốt đầu thì bị đe dọa kỷ luật; thế nhưng mẹ cháu đấu tranh nên không bị.
Mặc dù hai vợ chồng bà Cấn Thị Thêu và ông Trịnh Bá Khiêm bị đưa ra xét xử sơ thẩm vào ngày 19 tháng 9 vừa qua, nhưng đến nay gia đình chưa phép được thăm nuôi hai ông bà này, lý do được cơ quan chức năng đưa ra với gia đình như sau, qua lời của anh Trịnh Bá Phương:
Từ ngày 25 tháng tư khi hai bố mẹ tôi bị bắt thì hai anh em chúng tôi chưa được gặp mặt. Chỉ có em gái được gặp ở phiên tòa thôi, còn hai anh em chúng tôi do không vào được phiên tòa nên từ đó đế nay không được gặp. Họ lấy lý do án chưa có hiệu lực, còn kháng án, án sơ thẩm chưa chính thức có hiệu lực nên chưa cho gặp.
Tù nhân Đặng Xuân Diệu
Vào ngày 7 tháng 10 vừa qua, anh Trương Minh Tam mãn án một năm tù và ra khỏi Trại giam số 5 Yên Định, Thanh Hóa. Cựu tù nhân này tiết lộ thông tin tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu bị giam trong một phòng giáp vách với anh này bị đối xử rất hà khắc vì anh Đặng Xuân Diệu không chịu nhận tội, không mặc áo tù. Theo cựu tù nhân Trương Minh Tam thì tình trạng của anh Đặng Xuân Diệu rất nguy cấp và mọi người cần phải lên tiếng để cứu tù nhân lương tâm này trước những đòn thù mà nhà tù dành cho anh này.
Phản ứng của cơ quan chức năng
Sau khi có sự lên tiếng của cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Tam về trường hợp tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu, trong lần thăm gặp hồi tháng 10 vừa qua, thân nhân anh này được trại giam cho thấy mặt anh trong vòng chừng một phút. Trước đó từ khi chuyển trại đi thi hành án, vì không chịu nhận tội và mặc áo tù, nên trại giam cắt thăm gặp của gia đình đối với tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu.
Đối với trường hợp của bà Cấn Thị Thêu, các con của bà cùng dân oan Dương Nội đã đến các cơ quan chức năng tại Hà Nội yêu cầu ngưng việc giam chung bà với những người nhiễm HIV nặng như thế; tuy nhiên việc kêu cứu đó chưa hề được lắng nghe. Anh Trịnh Bá Phương cho biết:
Đơn thư thì gia đình và bà con đã gửi rồi, phản ánh vi phạm trực tiếp của trại giam đã vi phạm Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền Con người và các công ước mà Việt Nam đã ký về quyền dân sự và chính trị. Theo công ước này mẹ tôi bị vi phạm nghiêm trong điều 7 điểm 10, điều 1 và điều 4. Kể cả luật pháp Việt Nam hiện hành là khi những người vào tù phải được đảm bảo sức khỏe và an toàn tính mạng. Nhưng việc nhốt chung với những người nhiễm HIV là đe dọa trực tiếp đến tính mạng của mẹ tôi. Hành vi này là hành vi cố ý giết người, nhưng đến nay chưa có cơ quan nào đứng ra để giải quyết, chúng tôi đã đến cả Bộ Công An và rất nhiều cơ quan rồi nhưng đến nay chưa có ai đứng ra để giải quyết.
Luật sư Hà Huy Sơn cũng cho biết về sự lên tiếng cho trường hợp mới nhất của blogger Anh Basam Nguyễn Hữu Vinh và một số trường hợp khác trước đây và phản hồi từ phía cơ quan chức năng như sau:
Khi xảy ra các dấu hiệu nguy hiểm thì người bị giam cùng và luật sư khi biết cần phải có thông báo với ban giám thị trại và đơn vị thụ lý giai đoạn cuối cùng. Thường chỉ có sự khiếu nại thôi chứ sự đáp ứng luật sư không được thông báo. Nguy cơ như thế nhưng giải quyết thế nào, bản thân tôi trong các trường hợp tôi làm chưa thấy trường hợp nào được trả lời.
Việt Nam tham gia ký kết Công ước Chống Tra tấn và quốc hội kỳ 8 khóa 13 đang họp vừa được chủ tịch nước Trương Tân Sang trình công ước để phê chuẩn. Có thể nói Hà Nội tham gia rất sớm nhiều công ước quốc tế, thế nhưng việc thực thi những công ước đó rất hạn chế. Những đối tượng như tù chính trị, tù nhân lương tâm, những thành phần đối kháng, bất đồng chính kiến… tại Việt Nam luôn đối diện với những hành xử mà những người trong cuộc nói là ‘trả thủ’ nặng nề khi không khuất phục được họ.