Sài Gòn nở rộ cà phê ‘phim giường’ cho 2 người

Sài Gòn nở rộ cà phê ‘phim giường’ cho 2 người

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) – Kín đáo, có không gian riêng, thoải mái “tâm sự” chẳng sợ ai làm phiền, giá cả lại bình dân nên những rạp chiếu phim hai người theo yêu cầu ngày càng hút khách, đặc biệt là giới trẻ.

Loại hình cafe phim… giường đang được giới trẻ ưa chuộng. (Hình: Tuổi Trẻ & Đời Sống)

Mỗi phòng chiếu 20m2, được trang trí đơn giản với bàn và ghế bệt, giường nằm khách không chỉ được xem phim mà còn được làm&’diễn viên’ nên những quán café phim…giường đang được nhiều giới ở Sài Gòn thích thú.

Một vòng quanh những con đường như Phan Văn Trị, Nguyễn Trãi ở quận 5; Sư Vạn Hạnh, CMT8, 3 Tháng 2, quận 10; Tạ Quang Bửu, quận 8; Độc Lập, Phổ Quang, quận Tân Bình,…mọc lên nhiều bảng hiệu quán cà phê chiếu phim HD tự chọn dành cho 2 người.

Phòng xem phim được thiết kế không khác gì một phòng khách sạn, treo đầy bong bóng màu hồng và có chiếc giường màu đỏ khá đẹp đủ để 2 người nằm.

Một bạn trẻ thản nhiên chỉ dẫn: “Lần đầu mà rủ bạn gái đi khách sạn thì không ai nhận lời, nhưng rủ đi xem phim thì kiểu gì cũng đồng ý ngay. Đến quán café phim giường này thì khác nào khách sạn. Phòng kín mít, đèn có nhưng hầu như không ai buồn bật. Khi đóng cửa phòng lại thì mình muốn làm gì chẳng được…”

Quán café chiếu phim K. ở đường Nguyễn Trãi, quận 5; quán HDTibo gần cầu Nguyễn Văn Cừ, quận 5, hay quán HD May 2 ở đường Sư Vạn Hạnh, quận 10… hoạt động khá nhộn nhịp. Mức giá 60,000/giờ dành cho 2 người từ thứ 2 đến thứ 6; thứ 7 và Chủ Nhật là 80,000/giờ.

Nhiều quán còn có ưu đãi giảm giá 20% cho khách đến xem lần 2, và từ lần thứ 5 trở lên được tặng thẻ VIP, giảm 10% cho tổng hóa đơn cho các lần xem kế tiếp.

Hầu như các “rạp” phim kiểu này đều phục vụ cả ngày, nhưng thường nhộn nhịp về đêm. Một số quán chỉ phục vụ từ tối tới khuya. Nhân viên chỉ dẫn khách lên phòng, đem nước rồi đi xuống, khách cứ thoải mái tâm sự rồi tự xuống, thanh toán tiền phòng.

Vừa kín đáo, có không gian riêng, chẳng sợ ai làm phiền, giá cả lại bình dân, nên những rạp chiếu phim 2 người theo yêu cầu ngày càng thu hút khách. Dưới ánh sáng mờ mờ ảo ảo từ màn hình, các cặp đôi sẽ thoải mái “tâm sự” mà không sợ ai làm phiền.

Vì vậy, đây còn là một bãi đáp lý tưởng cho khách mại dâm hành nghề vì giá phòng rẻ. Đám sinh viên học sinh có thể chọn nơi đây để qua mắt phụ huynh và “học” làm chuyện người lớn. Không loại trừ cả chuyện hút chích. (Tr.N)

Chẳng làm được gì?

Chẳng làm được gì?

Nguyễn Hưng Quốc

Tôi gặp một số trí thức, thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, từ Việt Nam sang Úc công tác hoặc thăm gia đình. Nói chuyện với họ, tôi phát hiện ra một điểm chung: Một mặt, họ biết tất cả những những gì chúng ta biết; mặt khác, họ lại từ chối bất cứ hình thức dấn thân nào. Họ biết, chẳng hạn, về kinh tế, Việt Nam đang ngập ngụa trong nợ nần; về xã hội, mọi giá trị đều đảo lộn; về giáo dục, đầy dẫy những sai lầm; về giới lãnh đạo, vừa tham nhũng vừa bất lực; bất lực trên nhiều phương diện, nhưng nguy hiểm nhất là bất lực trong việc đối đầu với âm mưu bành trường của Trung Quốc. Họ biết hết. Nhưng tất cả đều chọn thái độ thụ động và bất động, thậm chí, mặc kệ. Lý do? Thứ nhất, họ cho đó là chuyện chính trị, mà chính trị thì thuộc về chính phủ, chứ không phải bổn phận của họ. Thứ hai, nếu họ lên tiếng phản đối thì cũng chẳng thay đổi được gì. Và thứ ba, nếu họ có thể gây áp lực lên chính phủ Việt Nam thì chính phủ cũng không thay đổi được gì, vì, một là, tình hình Việt Nam rất bế tắc; và hai, không ai có thể chống lại được Trung Quốc.

Nghe những ý kiến như vậy, từ nhiều người, tôi vừa ngạc nhiên vừa buồn rầu. Ngạc nhiên vì không hiểu tại sao nhận thức của họ lại hời hợt và thái độ của họ lại vô cảm đến như vậy. Buồn rầu vì tôi cho đó là một sự sa đoạ về trí thức, một sự từ khước tư cách trí thức, bởi bản chất của trí thức là luôn luôn nghi vấn và phản biện, nếu không muốn nói là phản kháng.

Trước hết, quan niệm cho rằng người dân không nên dính líu đến chính trị vì đó là chuyện của nhà nước hẳn nhiên là sai. Xưa, ở Việt Nam đã phổ biến câu nói: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Thời hiện đại, Tổng thống Charles de Gaulle của Pháp có lần nói: “Tôi nhận thấy chính trị là một vấn đề quá phức tạp không thể giao khoán cho đám chính khách”. Chính khách giỏi và có nhiệt tâm không đáng tin cậy hoàn toàn, huống gì chính khách kém cỏi như giới lãnh đạo Việt Nam: Hầu như làm cái gì cũng sai. Nếu những cái sai ấy không bị phản đối, chúng sẽ kéo dài và lặp đi lặp lại mãi, và nạn nhân của những chính sách sai lầm ấy không ai khác hơn là dân chúng. Chấp nhận những cái sai ấy là chấp nhận sự bế tắc, hơn nữa, chấp nhận số phận nạn nhân vĩnh viễn. Điều đó không những phản ánh một thái độ thụ động mà còn là một sự dại dột.

Trong chính trị, đã đành ý kiến của một người, nhất là khi người đó chỉ là dân thường, không làm thay đổi được gì. Nhưng với ý kiến của một ngàn, hoặc vài chục ngàn người thì khác. Khi ý kiến thuộc về đám đông, nó sẽ trở thành một sức mạnh. Điều này càng đúng trong xu hướng dân chủ hoá. Gần đây, nhiều người hay nói đến dân chủ, nhưng người ta lại quên một trong những đặc điểm nổi bật nhất của dân chủ là: nó là một cuộc vận động từ dưới lên trên. Những người cầm quyền không bao giờ tự động hạn chế quyền lực của mình để công nhận quyền của người khác. Họ chỉ làm thế khi bị bắt buộc. Sự bắt buộc ấy, thỉnh thoảng xuất phát từ bên ngoài, từ áp lực của một cường quốc hay siêu cường quốc nào đó (như trường hợp của Nhật Bản sau đệ nhị thế chiến), nhưng nhiều hơn, là xuất phát từ những sự tranh đấu của dân chúng, những người thấp cổ bé miệng. Nói cách khác, dân chủ chỉ khởi sự từ sự đòi hỏi của dân chúng. Nói cách khác nữa, dân chủ là kết quả của cuộc tranh chấp giữa tham vọng quyền lực của giới lãnh đạo và quyết tâm giành lại những cái quyền căn bản của người dân. Vấn đề quan trọng nhất ở đây là tương quan quyền lực.

Nói đến tương quan quyền lực, không thể không ghi nhận điều này: chính phủ Việt Nam hiện nay không quá mạnh như nhiều người tưởng nhầm. Trên bình diện quốc tế, họ không mạnh, nếu không nói là quá yếu; không những yếu trước Trung Quốc mà còn yếu trước mọi quốc gia khác, kể cả các quốc gia trong khối Đông Nam Á. Trong phạm vi đối nội, họ cũng yếu. Yếu, trước hết, vì nội bộ của họ chia rẽ và càng ngày càng chia rẽ ; sau đó, vì họ không còn nhận được sự ủng hộ của quần chúng cũng như của lịch sử: Họ chỉ là một lực lượng cản trở của tiến trình phát triển và dân chủ hoá, hay nói theo ngôn ngữ của chính họ, họ là lực cản của một xu thế tất yếu.

Chính sự yếu kém của chính quyền Việt Nam hiện nay là một cơ hội tốt để dân chủ có thể nảy nở. Dĩ nhiên sự nảy nở ấy chỉ có thể xảy ra với một điều kiện: người dân dám đứng lên tranh đấu.

Về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, ai cũng biết là một vấn đề vô cùng phức tạp, nhưng không thể hoá giải tính chất phức tạp ấy bằng sự đầu hàng hoặc nhượng bộ liên tục như những điều giới lãnh đạo Việt Nam vẫn làm lâu nay. Một trong những bài học quan trọng nhất là Miến Điện, một nước, cũng giống Việt Nam, giáp giới với Trung Quốc và trong nhiều thập niên, lệ thuộc khá nhiều vào Trung Quốc. Thế nhưng mấy năm gần đây, họ đã quyết định thoát ly ra khỏi ánh hưởng của Trung Quốc và ngả hẳn về phía Tây phương bằng quyết định dân chủ hoá nước họ. Có thể nói sống ngay sát nách một nước lớn và tham lam như Trung Quốc là một số phận không thể thay đổi được nhưng quyết định lệ thuộc hoặc độc lập với Trung Quốc lại là một lựa chọn; và trong lựa chọn ấy, trong quá khứ, Việt Nam đã từng chiến thắng nhiều lần.

Ý nghĩ cho rằng không thể chống lại Trung Quốc là một dấu hiệu của chủ nghĩa đầu hàng. Chủ nghĩa vô cảm và chủ nghĩa đầu hàng, thật ra, là một. Đó là những thứ tư tưởng mà bộ máy cầm quyền hiện nay muốn gieo rắc. Để đấu tranh cho dân chủ và độc lập cũng như toàn vẹn lãnh thổ, đấu tranh chống độc tài cần đi liền với việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa vô cảm và chủ nghĩa đầu hàng của dân chúng, trước hết, của thành phần trí thức.

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Việt Nam không chỉ là một màn kịch chính trị

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Việt Nam không chỉ là một màn kịch chính trị

Martin Petty

Vũ Thị Phương Anh (dịch)

clip_image002

(Reuters) – Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của quốc hội đối với các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam dường như là một việc làm vô nghĩa, vì các đại biểu tham gia bỏ phiếu hầu hết đều là đảng viên Cộng sản, và trong các lựa chọn để bỏ phiếu không có lựa chọn nào là “không tín nhiệm”.

Mặc dù sẽ chẳng có ai bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cuộc bỏ phiếu hôm thứ Bảy nhằm đánh giá hoạt động của của khoảng 50 quan chức hàng đầu cũng bắt đầu cho thấy trách nhiệm giải trình, đồng thời hé lộ chút thông tin hiếm hoi về những động thái bên trong của một đảng đang tự tìm lại chính mình sau gần bốn thập niên kiểm soát chặt chẽ.

Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng, và người ta đang đồn rằng có sự chia rẽ nội bộ trong quan điểm phải làm gì trong tình hình hiện nay để vẫn giữ nguyên thể chế. Theo các nhà phân tích, sự chia rẽ này tồn tại giữa một bên là phe giáo điều bảo thủ và bên kia là những cán bộ nghiêng về tư bản và tự do hơn, trong nội bộ của một đảng vốn có truyền thống đồng thuận.

“Cuộc bỏ phiếu này tạo ra một sự cởi mở nhằm giảm bớt căng thẳng, nhưng rốt cuộc nó chỉ làm cho ta thấy có sự đấu đá nội bộ giữa các phe phái khác nhau”, nhà phân tích chính trị nổi tiếng Nguyễn Quang A nhận định.

Dân chúng lâu nay đã âm ỉ bất bình về nạn tham nhũng, chiếm đoạt đất đai và một nền kinh tế nhà nước là chủ đạo nhưng kém hiệu quả. Những vấn đề này đã trở thành cố hữu trong nền kinh tế của Việt Nam sau một thời kỳ tăng trưởng bùng nổ, và giờ đây đang mưng mủ như muốn vỡ ra trên diện rộng, đòi hỏi phải có các biện pháp cấp thiết nhằm khắc phục chúng.

Các chuyên gia cho rằng không có thách thức nào đối với quyền lực của đảng Cộng sản trong tương lai gần. Quỹ đạo của nền kinh tế có quy mô 178 tỷ đô la này, cùng khả năng nó hiện thực hóa được tiềm năng trở thành một ngôi sao thị trường mới nổi, hoàn toàn phụ thuộc vào phe nào sẽ nắm thế thượng phong.

Cuộc bỏ phiếu diễn ra chỉ hơn một năm trước một đại hội được tổ chức năm năm một lần, khi đảng Cộng sản lựa chọn người sẽ lãnh đạo bộ máy trong giai đoạn Việt Nam đang theo đuổi việc tham gia sâu hơn với thế giới phương Tây thông qua một loạt các hiệp định thương mại có tiềm năng làm thay đổi luật chơi, và đòi hỏi những nhượng bộ có thể sẽ không làm hài lòng các nhóm lợi ích khác nhau.

“Tôi không nghĩ có bất kỳ sự bất đồng nào trong việc theo đuổi các thỏa thuận thương mại lớn”, ông Nguyễn Quang A nói. “Sự bất đồng chủ yếu liên quan đến việc các thỏa thuận này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích của các cá nhân và các nhóm đang nắm quyền mà thôi”.

Sự chia rẽ trong Quốc hội

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm lần đầu tiên diễn ra vào năm trước có thể đã phản tác dụng, vì kết quả của cuộc bỏ phiếu này càng củng cố những đồn đoán về sự cạnh tranh ngấm ngầm giữa Chủ tịch nước và Thủ tướng.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ giành được sự ủng hộ của 42% tổng số các đại biểu quốc hội và bị gần 1/3 tổng số đại biểu chọn mức “tín nhiệm thấp”. Kết quả này trái ngược với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người giành được 330 phiếu tín nhiệm cao trên tổng số 498 đại biểu và chỉ nhận có 28 phiếu tín nhiệm thấp.

Các nhà phân tích tin rằng ông Dũng sẽ tìm cách đưa ra một người kế nhiệm trước khi nghỉ hưu trước đại hội năm 2016, và có lẽ tăng cường ảnh hưởng của mình trong năm nay bằng việc thúc đẩy cải cách ngành ngân hàng đang gặp khó khăn vì nợ xấu, đồng thời tư nhân hóa một phần hàng trăm doanh nghiệp nhà nước đang thua lỗ trầm trọng.

“Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm năm nay diễn ra trong bối cảnh đang có tranh cãi nặng nề trong giới lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam trước Đại hội Đảng sắp đến … như vậy, kết quả sẽ làm sáng tỏ ít nhiều về tình hình hiện nay của nền chính trị phe phái này”, Phương Nguyễn, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế Washington cho biết.

“Người ta tin rằng Thủ tướng đã hồi phục từ cú đánh của năm ngoái, nếu không phải là đã củng cố được quyền lực của mình. Chúng tôi sẽ chờ xem kết quả bỏ phiếu tín nhiệm có phản ánh điều đó hay không”.

Ông Dũng vừa gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama hôm thứ Năm, và có thể đã đạt được một số đòn bẩy quan trọng trong kế hoạch theo đuổi một mối quan hệ mạnh mẽ hơn với Mỹ và thách thức Trung Quốc trong cuộc tranh chấp về chủ quyền hàng hải gần đây.

Bế tắc với Trung Quốc có vẻ đã làm sâu sắc thêm cuộc tranh luận trong nội bộ đảng về sự phụ thuộc vào nước láng giềng Trung Quốc. Điều này đã bộc lộ ra trong tháng Sáu vừa qua, khi 61 đảng viên và cựu đảng viên đã gửi một bức thư ngỏ đến Trung ương đảng Cộng sản và cho rằng sự thất bại trong việc thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc sẽ là “một tội ác đối với đất nước “.

(Editing by Robert Birsel)

Nguồn:http://www.ijavn.org/2014/11/cuoc-bo-phieu-tin-nhiem-tai-viet-nam.html

Bảo Nguyễn thắng cử thị trưởng Garden Grove

Bảo Nguyễn thắng cử thị trưởng Garden Grove

Nguoi-viet.com
Đỗ Dzũng/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV)Lần đầu tiên, cộng đồng người Việt tại thành phố Garden Grove tạo nên lịch sử vào lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy, 15 Tháng Mười Một. Đó là, ông Bảo Nguyễn về nhất trong cuộc đua ba người tranh chức thị trưởng thành phố có 175,000 dân, qua một cuộc bầu cử và đếm phiếu kéo dài 11 ngày.

Ông Bảo Nguyễn (giữa), thị trưởng đắc cử, trả lời phỏng vấn của báo giới,
ngay trước tòa thị chính Garden Grove. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

“Cuộc bầu cử năm nay cho thấy cộng đồng Việt Nam chúng ta lại tạo nên lịch sử. Sau chiến thắng của Giám Sát Viên Janet Nguyễn vào Thượng Viện California, hôm nay, tôi hân hạnh được đồng hương và cử tri Garden Grove bầu vào chức vụ thị trưởng. Một lần nữa, cuộc bầu cử này chứng minh sức mạnh lá phiếu của cộng đồng chúng ta. Cộng đồng Việt Nam chúng ta tiếp tục tạo nên lịch sử ở Hoa Kỳ.”

Như vậy, sau 58 năm chính thức thành lập, Garden Grove có một thị trưởng gốc thiểu số, mà lại là người Việt Nam.

Ngoài ra, vào năm tới, lần đầu trong lịch sử Garden Grove, có ba người gốc Việt trong Hội Đồng Thành Phố.

Đó là ông Bảo Nguyễn, Luật Sư Chris Phan, và ông Phát Bùi.

Ông Chris Phan đắc cử nghị viên năm 2012 và ông Phát Bùi đắc cử hôm 4 Tháng Mười Một.

Trở lại cuộc bầu cử thị trưởng, ông Bảo chỉ hơn người về nhì đúng 15 phiếu!

Bên Kia Sự Chết

Bên Kia Sự Chết

Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời… Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy.

Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Ðức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.

Ðể giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”.

Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Ðồng viết như sau: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha…”. Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết… Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.

Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống… Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.

Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Ðó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Ðức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.

Trích sách Lẽ Sống

Luật Báo chí không thực thi tự do báo chí

Luật Báo chí không thực thi tự do báo chí

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-11-14

  • RFA

namnguyen111414.mp3

000_Hkg7508717-600.jpg

Một sạp báo vỉa hè Hà Nội chụp hôm 26/6/2012

AFP photo

Hiến pháp Việt Nam 2013 cũng như các bản hiến pháp trước đó đều bảo đảm người dân có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận. Nhưng Luật Báo chí ban hành năm 1989 sửa đổi 1999 trên thực tế chỉ là một bộ Luật quản lý hoạt động báo chí vốn dĩ là trực thuộc nhà nước. Luật Báo chí sẽ được sửa đổi vào năm 2015, nhưng thông tin cho thấy Dự Luật này cũng không thực thi quyền tự do báo chí theo Hiến pháp qui định, mà thực tế là để kiểm soát sự xé rào của truyền thông đa phương tiện.

Sửa đổi để kiểm soát?

Đáp câu hỏi phải chăng các nhà báo công dân ở Việt Nam đang tự thực hiện quyền tự do báo chí qua blog, facebook và các mạng xã hội khác. Ông Nguyễn Quốc Thái, nguyên Tổng Thư Ký báo Doanh Nghiệp từ Sài Gòn nhận định:

Ở những thể chế cộng sản nói chung và Việt Nam nói riêng thì chuyện tự do báo chí là một điều cấm kỵ. Tại sao thế, rất nhiều người đồng ý với tôi rằng những thể chế độc tài thì bao giờ cũng sợ sự thật.
-Nhà báo Võ Văn Tạo

“Hiến pháp qui định mọi người công dân được quyền tự do ngôn luận, họ dùng chính phương tiện họ có trong tay để nói điều họ suy nghĩ, họ nhận định về một vấn đề gì đó. Nếu anh lên tiếng cấm cản điều đó… anh biết bây giờ là vấn đề này là vấn đề toàn cầu không còn của riêng quốc gia nào hay của khu vực nữa rồi. Vấn đề là chúng ta nhìn nhận nhau, hiểu nhau, thông cảm nhau, lắng nghe được nhau đó là điều căn bản điều chính. Còn dùng bạo lực để trấn áp thì tôi nghĩ rằng sẽ đưa đến hậu quả không hay.”

Theo báo điện tử VnMedia, Tại Hội nghị tổng kết 15 năm thi hành Luật Báo chí tổ chức ngày 12/11/2014 tại Hà Nội, ông Nguyễn Bắc Son Bộ trưởng Bộ Thông tin Truyền Thông báo động về hiện tượng “tư nhân hóa báo chí”, “thương mại hóa báo chí”. Ông Bộ trưởng nhấn mạnh phát triển báo chí đi đôi với quản lý báo chí và phải thể chế hóa một cách chi tiết và cụ thể quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác báo chí đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.

Qua lời Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, có thể hiểu rằng dù Việt Nam không chấp nhận báo chí tư nhân, nhưng Nhà nước hiện nay vẫn không yên tâm đối với hoạt động báo chí truyền thông của chính nhà nước. Việt Nam hiện có 838 cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh truyền hình với đội ngũ nhà báo lên tới 40.000 người.

Nhà báo Võ Văn Tạo từng có hơn chục năm làm báo chuyên nghiệp trong hệ thống báo chí nhà nước từ Nha Trang phát biểu:

“Một trong những biểu hiện của tự do báo chí là có báo chí tư nhân, không nói thì nhân dân cũng biết, lực lượng báo chí của nhà nước cũng biết và quốc tế cũng biết. Ở những thể chế cộng sản nói chung và Việt Nam nói riêng thì chuyện tự do báo chí là một điều cấm kỵ. Tại sao thế, rất nhiều người đồng ý với tôi rằng những thể chế độc tài thì bao giờ cũng sợ sự thật.”

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam dự hội nghị tổng kết Luật Báo chí được Báo Xây Dựng và Đời sống Pháp luật trích lời nói rằng, sửa đổi Luật Báo chí lần này phải có tầm nhìn xa vì thế giới đã thay đổi rất nhanh và báo chí là lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất. Ông Đam nhấn mạnh rằng, sự phát triển của công nghệ thời gian qua diễn ra đặc biệt nhanh chóng, do vậy khi xây dựng Luật phải tính được những thay đổi này.

_MG_1652-250.jpg

Một sạp báo ở Saigon. RFA photo

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tỏ ra có chút phóng khoáng về hoạt động truyền thông. Nếu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son chỉ đạo phải thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng phủ trùm hoạt động truyền thông báo chí và đề phòng tư nhân hóa báo chí, thì ông Vũ Đức Đam quan niệm không nên đóng sập cánh cửa, bịt hết mọi thứ  trong nhu cầu phát triển báo chí chỉ vì một vài biểu hiện tiêu cực. Ông Đam nêu ra ví dụ trong phát triển của Hệ thống Truyền hình Việt Nam VTV có sự liên kết, xã hội hóa một số chương trình cũng như nội dung. Điều này đặt ra yêu cầu mới và theo Phó Thủ tướng khi xây dựng Luật cần tính đến nhu cầu phát triển chính đáng của cơ quan báo chí tương lai.

Những điều Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nêu ra có lẽ là khá mới mẻ đối với các cán bộ phụ trách văn hóa tư tưởng. Xã hội hóa theo cách nói ở Việt Nam ngày nay có nghĩa có sự tham gia của mọi tầng lớp trong xã hội vào một lĩnh vực nào đó và tất nhiên trong trường này hợp được hiểu là có sự tham gia của tư nhân trong hoạt động truyền thông báo chí.

Không thể cấm phương tiện thông tin toàn cầu

Bên cạnh 838 cơ quan báo chí 67 đài phát thanh truyền hình, Việt Nam hiện có 90 báo điện tử, 207 trang thông tin điện tử tổng hợp của các báo in. Mặc dù tất cả các lĩnh vực báo chí dù truyến thống hay đa phương tiện, đa truyền thông đều chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Nhưng rõ ràng Luật Báo chí sửa đổi lần cuối vào năm 1999 chỉ mới đề cập xơ sài về lãnh vực báo chí điện tử đa phương tiện. Dự luật báo chí 2015 được cho là sẽ kiến tạo khung pháp lý chặt chẽ hơn nữa để Nhà nước quản chặt hơn những đứa con của chính mình.

Theo nhà báo Nguyễn Quốc Thái hiện nghỉ hưu ở Sài Gòn, Internet và các ứng dụng tuyệt vời của nó phát triển rất mạnh trong báo chí truyền thông lề phải. Nhưng đồng thời cũng là phương tiện để các nhà báo công dân thực hiện quyền tự do báo chí. Ông nói:

Phương tiện thông tin đa truyền thông không thể cấm được, muốn cấm cũng không được bởi vì đây là phương tiện thông tin toàn cầu. Trên tất cả các hệ thống mạng phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới có những mạng nhà nước không thể kiểm soát được.
-Nhà báo Nguyễn Quốc Thái

“Phương tiện thông tin đa truyền thông không thể cấm được, muốn cấm cũng không được bởi vì đây là phương tiện thông tin toàn cầu. Trên tất cả các hệ thống mạng phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới có những mạng nhà nước không thể kiểm soát được. Vì thế thông tin trên mạng là chuyện đương nhiên không thể ngăn cản nổi. Ở Việt Nam ngay cả chuyện sử dụng điện thoại di động có nhiều trẻ mục đồng vừa chăn trâu vừa gọi điện thoại di động. Huống hồ là với các phương tiện thông tin đa truyền thông thì làm sao cấm cản được nhất là ở thành thị.”

Tuy nhà nước không thể cấm các trang mạng có máy chủ ở nước ngoài nhưng công an có thể trấn áp bắt giữ những nhà báo công dân đang sống trong nước và truyền tải thông tin lên các trang mạng đó. Một danh sách dài những tên tuổi như  Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Phạm Bá Hải, Phạm Viết Đào, Trương Duy Nhất, Lê Quốc Quân, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy là những thí dụ điển hình.

Trả lời Hải Ninh trên TV Online Đài RFA, nhà báo cũng là blogger Đoan Trang một nghiên cứu sinh tại Hoa Kỳ nhận định:

“Cái hay của trang web anh Ba Sàm là anh đã tạo được một cộng đồng gần như một gia đình trên blog của anh ấy. Từ khi anh chưa bị bắt thì trang web của anh ấy liên tục bị tấn công. Rất nhiều đợt tấn công đã xoá bỏ dữ liệu luôn, đóng cả trang luôn. Mỗi lần như vậy bà con độc giả lo lắng lắm. Họ mong chờ anh, họ làm thơ về anh rằng bao giờ anh trở lại chúng đánh anh chết rồi. Mọi người rất quan tâm, quý vị cũng có thể hình dung được là sau khi anh Ba Sàm bị bắt thì nó gây làn sóng cảm xúc như thế nào ở trong cộng đồng blogger việt Nam. Người ta phẫn nộ, người ta lo lắng mà thực sự là cũng có nỗi sợ. Người ta sợ rằng bắt quá dễ, mà bắt chỉ vì việc đã post bài lên mạng hoặc là chỉ vì đã làm chủ cái blog nổi tiếng như vậy mà cũng bị bắt được. Thế thì chúng ta đều là các tù nhân dự khuyết cả.”

Luật Báo chí 1989 được Quốc hội sửa đổi năm 1999 có đoạn mở đầu rất đặc biệt: “Để bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của nhân dân…Luật này qui định chế độ báo chí.” Từ đó đến nay công dân Việt Nam chưa bao giờ có quyền tự do báo chí, cũng không có báo chí tư nhân.

Dự luật Báo chí sửa đổi để thực thi Hiến pháp 2013 đang được góp ý để Quốc Hội xem xét thông qua vào nghị trình 2015. Nếu như Bộ trưởng Thông tin Truyền Thông Nguyễn Bắc Son cương quyết với thể chế hóa sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong hoạt động báo chí do nhà nước quản lý và đề phòng chặt mọi manh nha tư nhân hóa báo chí, thì giấc mơ tự do báo chí ở Việt Nam vẫn còn xa vời vợi.

” Dạo này dân Việt hình như đang “phiêu” với món cao lương mỹ vị của xứ mình: món tự do. Vô mạng, ra mạng, chuột chạy lung tung chỗ nào cũng đụng tự do báo chí. Tình hình “phiêu” đến mức ông phó thủ tướng Vũ Đức Đam đăng đàn diễn thuyết, nói rằng: Không nên đóng sập cửa báo chí, bịt hết mọi thứ trong nhu cầu phát triển báo chí… Quý vị đừng có mà vội hí hửng nhé, “nói zậy mà không phải zậy” đâu nhé. Quý vị đã bao giờ thấy một nước xã hội chủ nghĩa có tự do báo chí chưa? Cu Ba? Bắc Triều Tiên? Trung Quốc? Liên Xô? Đông Đức?… Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Tất nhiên quý vị có thể mơ mộng chút đỉnh nhưng giấc mơ của quý vị chẳng bao giờ biến thành hiện thực nếu…

Việt Nam bao giờ thì có tự do báo chí?

Điều này bạn phải hỏi chính bạn, sau đó hỏi ông Tập Cận Bình rồi hỏi thêm ông Obama. Nhưng mà khí sắc ông Tập nhìn còn “vượng” lắm. Ông mà cứ “vượng” mãi như thế thì thật đáng buồn cho chúng ta. Thời mồ ma ông Tônxtôi, ông Sê khốp, có lần ông Tôn hỏi ông Sê:

– Nhà bác rất am hiểu đàn bà, vậy bác hãy nói cho nhà em nghe đàn bà nó là như thế nào?

Ông Tôn cười tủm tỉm đáp:

– Chú hãy rán sống mà đợi, lúc nào mỗ đây “sắp đi gặp cụ Các Mác”, mỗ sẽ đặt một chân trong quan tài, một chân ngoài quan tài, lúc đó mỗ sẽ cho chú em biết thế nào là đàn bà. Nói xong mỗ nhảy luôn vào quan tài, đóng sập nắp lại. Đến lúc đó đám đàn bà có muốn làm gì mỗ thì cũng chịu.

Bắt chước nhà bác Tôn, nếu quý vị có hỏi xem Đảng ta đối xử với cái vụ tự do báo chí như thế nào, em xin kiếu, đợi khi nào em trăm tuổi một chân đặt trong quan tài, một chân ngoài quan tài, em sẽ nói Đảng ta coi tự do báo chí là cái chi chi. Nói xong, em sẽ đóng nắp quan tài cái rụp.

Bauxite Việt Nam”

Lắng nghe tiếng Chúa

Lắng nghe tiếng Chúa

Chuacuuthe.com

VRNs (16.11.2014) – Sài Gòn – Thiên Chúa luôn nói với bạn, nhưng bạn có lắng nghe và vâng lời Ngài? Thiên Chúa nói với chúng ta bằng cách nào? Đây là 5 cách Ngài nói với chúng ta:

1. Kinh Thánh

Một đoạn Kinh Thánh có thể là câu trả lời mà chúng ta đã tìm kiếm từ lâu. Câu Kinh Thánh đó khuyến khích, bổ sung, và hướng dẫn chúng ta trong việc theo Chúa hằng ngày. Khi Ngài nói với chúng ta qua Lời Chúa, Ngài hướng dẫn chúng ta cách sống công chính, cách phát triển đức tin, cách vâng lời và yêu mến Ngài.

2. Hoàn cảnh

Các tình huống có thể cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Một bài học cần học, hoặc đức tin của chúng ta được trắc nghiệm. Có thể chúng ta đã làm ngơ các câu trả lời và sự cảnh báo của Ngài, tình huống xảy ra nào đó là để “mở mắt” và “mở tai” của chúng ta.

Sau khi vượt qua tính huống đó, chúng ta có thể vui mừng biết rằng Thiên Chúa đã đưa chúng ta vượt qua tình huống đó để chúng ta kết hiệp với Ngài nhiều hơn.

3. Tha nhân

Thiên Chúa có thể nói với chúng ta qua người khác để “chạm” vào tâm hồn chúng ta. Đó có thể là một lời nói tử tế, một chứng cớ, một lời cảnh báo, hoặc một lời chúc lành. Chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, việc lắng nghe người khác có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.

4. Tiếng nói nhỏ

Thiên Chúa không cần nói lớn như sấm sét. Đôi khi chỉ là âm thanh vừa đủ nghe, có thể “chạm” vào trái tim chúng ta và chúng ta có thể nhận biết. Kinh Thánh cho biết: “Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:12-13).

5. Đáp lại lời cầu

Lời cầu nguyện của chúng ta thường là xin điều gì đó, nhưng chúng ta quên rằng lời cầu nguyện phải là cuộc đối thoại với những lời tâm sự chân thành. Nghĩa là chúng ta phải giao tiếp với Thiên Chúa: nói chuyện, lắng nghe, và thấu hiểu.

Mọi lời cầu nguyện đều được Thiên Chúa lắng nghe. Đôi khi Ngài trả lời là “không” hoặc là “được”. Câu trả lời của Ngài phưc tạp hơn chúng ta tưởng, nhưng rõ ràng. Hãy sẵn sàng là lắng nghe tiếng Chúa mọi nơi và mọi lúc. Vì Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Lực lượng nào sẽ làm thay đổi Việt Nam?

Lực lượng nào sẽ làm thay đổi Việt Nam?

Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội, ngày 13/5/2014.

Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội, ngày 13/5/2014.

Nguyễn Hưng Quốc

14.11.2014

Rất nhiều người có chung một nỗi băn khoăn: Bao giờ thì Việt Nam được dân chủ hoá? Để trả lời câu hỏi ấy, hầu như ai cũng biết một cuộc cách mạng dân chủ ở Việt Nam chỉ có thể xảy ra với một trong hai tình huống: Một, từ trên xuống; và hai, từ dưới lên.

Dân chủ hoá từ trên xuống là một cuộc cách mạng lý tưởng nhất bởi nó nhanh nhất và ít bị trả giá nhất: Đó là các cuộc cách mạng đã diễn ra tại Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, khi giới lãnh đạo ý thức là không thể kéo dài nguyên trạng và chấp nhận thay đổi chế độ ngay cả khi biết với sự thay đổi ấy họ sẽ mất tất cả quyền lực.

Theo tôi, một cuộc cách mạng loại này rất khó xảy ra ở Việt Nam. Có hai lý do chính.

Thứ nhất, ở Việt Nam không có, và sẽ không có một nhà lãnh đạo nào, dù sáng suốt đến đâu, có quyền lực để tự mình quyết định những sự thay đổi lớn lao liên quan đến số phận của cả chế độ. Kết cấu quyền lực ở Việt Nam khác hẳn ở các quốc gia cộng sản khác trước đây cũng như hiện nay: Ở các nước ấy, chủ tịch đảng cũng đồng thời là chủ tịch nước. Khi nắm trong tay cả hai chức vụ ấy, người ta dễ dàng trở thành kẻ quyết định cuối cùng. Ở Việt Nam, ngược lại, người lãnh đạo đảng và người lãnh đạo nhà nước và chính phủ khác nhau, do đó, không ai thực sự có quyền quyết định những vấn đề lớn cả. Tất cả đều phải thông qua ý kiến tập thể, ít nhất của Bộ Chính trị. Để cả tập thể ấy thống nhất với nhau về việc thay đổi chế độ để dân chủ hoá là một không tưởng.

Thứ hai, chắc chắn Trung Quốc sẽ không thể chấp nhận Việt Nam được dân chủ hoá trước. Khi thấy Việt Nam có dấu hiệu rục rịch từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, chắc chắn Trung Quốc sẽ can thiệp ngay. Trong tình hình hiện nay, khi Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc trong rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế đến chính trị, những sự can thiệp ấy rất dễ thực hiện.

Bởi vậy, triển vọng lớn nhất của xu hướng dân chủ hoá ở Việt Nam là từ dưới lên. Tuy nhiên, ở đây lại có một vấn đề lớn: Lực lượng nào sẽ đảm nhiệm công việc thay đổi theo chiều hướng dân chủ ấy? Để trả lời câu hỏi ấy, các nhà bình luận chính trị và xã hội có thói quen nhìn vấn đề từ góc độ kinh tế – xã hội với những thành phần giai cấp khác nhau.

Trước hết, đông đảo nhất ở Việt Nam là các nông dân. Trong nhiều năm qua, những kẻ bị áp bức và bóc lột nhiều nhất ở Việt Nam cũng là các nông dân. Những cuộc biểu tình đông đảo và gây chú ý trong dư luận nhất cũng gắn liền với nông dân. Lý do dễ hiểu: một trong những yếu tố quan trọng nhất bị giới lãnh đạo Việt Nam khai thác để làm giàu và phân phối lợi nhuận để mua chuộc sự trung thành của các đảng viên chính là đất đai. Việc cướp đất ấy dẫn đến sự bất mãn của nông dân ở nhiều địa phương khác nhau. Lâu nay, rải rác đây đó, có các cuộc biểu tình của nông dân nhằm chống lại lệnh cưỡng chế của chính quyền.

Nhưng những sự bất mãn và các cuộc biểu tình ấy có thể dẫn đến việc làm thay đổi chế độ hay không? Câu trả lời hầu như chắc chắn: Không. Lý do đầu tiên là hầu hết nông dân thường chỉ nghĩ đến những cái lợi cụ thể trước mắt: khi chính quyền cướp đất của mình thì mình vùng lên tranh đấu, nhưng khi chính quyền cướp đất của người khác thì người ta dễ khoanh tay đứng ngó, hoặc, khi tình hình căng thẳng quá, chính quyền chỉ cần nhân nhượng một tí, họ cũng dễ dàng thoả mãn và từ bỏ mọi toan tính chống đối. Lý do thứ hai là tuy nông dân chiếm một phần lớn dân số nhưng họ bị cô lập về phương diện địa lý: làng này xuống đường tranh đấu, làng khách chưa chắc đã biết. Từ việc cô lập về địa lý dẫn đến sự cô lập về truyền thông và hậu quả là không có nhiều người biết. Điều này dẫn đến hai hậu quả khác: Một, ít người ủng hộ; và hai, khó phát triển thành những cuộc xuống đường rầm rộ để có thể uy hiếp được chính quyền.

Còn lực lượng công nhân? Ở Việt Nam, giai cấp công nhân càng ngày càng lớn và đời sống kinh tế của họ cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, sự bất mãn của họ, nếu có, thường nhắm vào chủ nhân của xí nghiệp hơn là vào chính quyền. Chủ nhân của các công ty lớn lại thường gắn liền với người ngoại quốc, do đó, thù hận của họ cũng hướng ra bên ngoài. Đó là lý do tại sao cho đến nay, hầu hết các cuộc đình công hay biểu tình thường diễn ra trong các xí nghiệp và công ty do người ngoại quốc làm chủ.

Giới thanh niên và trí thức Việt Nam hiện nay có thể được xem là thành phần “tiến bộ” nhất: Nhiều người trong họ thấy được những sự bất lực và bế tắc của nhà cầm quyền cũng như có khát vọng được tự do. Tuy nhiên, “nhiều” không có nghĩa là đa số. Khác với ở Ai Cập và các quốc gia Trung Đông trong cách mạng mùa xuân đầu năm 2011, nơi tỉ lệ thanh niên, dù đã tốt nghiệp đại học, thất nghiệp rất cao, ở Việt Nam, về phương diện kinh tế, thanh niên không đến nổi quá khó khăn, do đó, rất khó hy vọng họ sẽ kết tập lại thành một trận chung để đấu tranh cho dân chủ.

Một thành phần khác có khả năng đương đầu với chính quyền là các tôn giáo. Ở tôn giáo nào cũng có những người phản kháng, nổi bật nhất là Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo và Công giáo. Hai tôn giáo đầu chỉ giới hạn ở các tỉnh phía Nam; Phật giáo thì bị quá phân tán; chỉ có Công giáo là tương đối thống nhất, và do đó, khá mạnh, nhưng dù mạnh đến mấy thì, một mặt, Công giáo cũng chỉ chiếm khoảng 10 phần trăm dân số; mặt khác, do chỉ là một thiểu số, họ khó trở thành những nhà lãnh đạo cho phong trào dân chủ trong cả nước.

Nói tóm lại, từ góc độ kinh tế và xã hội, sẽ không có lực lượng nào đủ sức để chống lại chính quyền, thậm chí, gây sức ép để chính quyền phải thay đổi chế độ.

Một vấn đề có thể được đặt ra: Tại sao tất cả các thành phần trên không thể kết hợp lại với nhau để thành một lực lượng duy nhất và mạnh mẽ? Dĩ nhiên, điều đó có thể xảy ra, và trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, đó là niềm hy vọng duy nhất để có dân chủ. Có điều: khi nào, và với điều kiện nào, tất cả các thành phần trên có thể đứng lại được với nhau? Câu trả lời: Tinh thần dân tộc hay chủ nghĩa quốc gia (nationalism). Người Việt Nam, bất kể thành phần kinh tế, xã hội và tôn giáo, sẽ đoàn kết lại khi đất nước bị uy hiếp và khi chính quyền bất lực, thậm chí, đầu hàng trước những sự uy hiếp ấy. Tất cả những sự uy hiếp ấy chỉ đến từ một nguồn: Trung Quốc.

Nói cách khác, theo tôi, lực lượng đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam chỉ đoàn kết và trở thành mạnh mẽ khi Trung Quốc gia tăng mức độ lấn chiếm biển đảo và khi chính quyền Việt Nam càng lộ rõ bản chất nhu nhược của họ trong thế trận đối đầu với tham vọng bành trướng ấy.

Không biết cám ơn

Không biết cám ơn

Bùi Bảo Trúc

Hôm 1 Tháng Mười Một vừa qua, trong cuộc thi tuyển người mẫu ở Việt Nam, một thí sinh sau khi nhận được điểm khá cao của ban giám khảo để thi tiếp cuộc thi, đã đi thẳng vào trong hậu trường thật nhanh. Ngay lập tức, cô bị Adam Williams, một giám khảo người Úc, gọi trở lại và thông báo quyết định của ông. Ông đổi ý và không muốn để cho cô tiếp tục thi vòng sau nữa.

Lý do ông cho biết là vì cô đã không biết chào và cám ơn ban giám khảo. Cả ba giám khảo kia cũng đồng ý với chuyên gia về trình diễn thời trang người Úc.

thank
Các bản tin trên báo đều không cho biết khi được thông báo quyết định đó, cô thí sinh này có nói gì không. Nếu cô trở ra, đến trước các giám khảo, nói một câu, một câu ngắn thôi, đại khái cô xin lỗi, nói là vì cô quá hồi hộp, lo sợ, mất bình tĩnh bởi thế nên đã quên cám ơn giám khảo. Cô xin lỗi và xin cám ơn số điểm cô nhận được từ ban giám khảo để có thể thi tiếp.

Tôi tin chắc những người ngồi ghế giám khảo nếu nghe cô giải thích như thế sẽ đổi ý và cô sẽ được cho thi tiếp. Nhưng hình như cô không nói gì nên các giám khảo phải cho cô về nhà. Cô đã đánh mất cơ hội cô đã gần như đã chắc nắm trong tay để bị loại, không được cho tiếp tục cuộc thi chỉ vì không biết nói lời cám ơn khi nhận được điểm tốt của những người chấm thi.

Sau khi bản tin về cô xuất hiện trên báo thì đã có nhiều độc giả gửi thư cho tòa báo, cho ý kiến về quyết định của ban giám khảo. Một số đồng ý với việc cô bị loại, nhưng nhiều ý kiến cho rằng cô dự thi làm kiểu mẫu thì nếu đủ tiêu chuẩn làm kiểu mẫu thì cô phải được cho tiếp tục. Cuộc thi không tuyển người lễ phép, lịch sự thì tại sao đánh hỏng cô. Đó là ý kiến của khá đông người.

Và chi tiết đó là điều đáng nói ở đây.

Những câu chào hỏi thường ngày, những câu cám ơn đã biến mất trên miệng của (đa số) người Việt Nam từ bao giờ? Người đàn ông Úc ngồi ghế giám khảo đã phải mấy lần quay sang hỏi các giám khảo người Việt rằng tại sao họ (các thí sinh) không biết chào và cám ơn ban giám khảo. Như vậy không phải chỉ một thí sinh không biết nói câu cám ơn, mà còn cả những người khác nữa. Nhưng có thể những người kia không được điểm cao nên không thèm cám ơn ban giám khảo. Đến cô thí sinh được cho điểm cao để tiếp tục thi thì cũng đi thẳng vào trong hậu trường nên Adam Williams mới gọi lại và loại cô khỏi cuộc thi.

Chuyện không biết những phép lịch sự tối thiểu trong cuộc sống hàng ngày đã được nói tới rất nhiều lần. Những người hành xử thiếu văn hóa đó thuộc đủ mọi thành phần ở Việt Nam. Đa số là người ở miền Bắc, nhưng nay, hình như cách hành xử thiếu văn hóa đó đang đi tới nhiều nơi khác nữa. Những người Việt sống ở nước ngoài khi về Việt Nam thường bị nhận ra ngay khi mở miệng ra là cám ơn và xin lỗi lia lịa. Trong nước, những cách ăn nói lịch sự đó không còn thấy nhiều nữa. Nhưng thực ra, lối hành xử văn minh, lịch sự cũng đang dần biến mất ở cả những người Việt sống ở ngoài Việt Nam nữa chứ không phải chỉ riêng tại Việt Nam.

Lái xe trên đường mà nhường đường cho đồng hương rất ít khi nhận được một nụ cười, một cái khoát tay, vẫy tay. Mở cửa nép sang một bên nhường cho đồng hương đi trước cũng không một cái nhếch mép làm như thể vừa giúp kiếm cho việc mở cửa cho mình không bằng. Lúc ấy chỉ muốn làm như ông Bá Dương, tác giả cuốn Người Trung Quốc Xấu Xí, là buông tay ra, cho cánh cửa sập lại cho vỡ mặt cái thằng cha hay cái con mẹ nghiêm và buồn vời vợi (?) cho bõ ghét. Những chuyện như thế ngày nào tôi cũng gặp hai ba lần ở đây.

Chỉ khi nào những câu cám ơn, những lời xin lỗi đó trở thành những phản xạ, những hành động tự nhiên, một thứ “second nature” tự động bật ra thì may ra những cách hành xử như cô thí sinh thi làm người mẫu mới không xảy ra nữa.

Tiếng Anh có cả chục cách nói cám ơn. Hay nhờ đó, rất ít khi xảy ra chuyện như cô thí sinh nọ. “Thank you…thanks a million…thanks a lot…much obliged…I do appreciate it…thank you very much indeed… thanks a whole lot…from the bottom of my heart…I can’t thank you enough…what would I do without you…you are an angel…you are too kind… you are the best…thanks a bunch…I don’t know how to thank you, but thank you so much…”

Cô thí sinh bị loại thực ra cũng lại không là người chim sa cá lặn gì cho cam. Cô chưa là “top model” mà đã như vậy. Thử hỏi nếu cô thắng cuộc thi và trở thành người mẫu hàng đầu thì cô còn thiếu văn hóa như thế nào nữa.

Có một câu không biết của ai, nhưng nếu cô cư xử được như thế này thì hay biết bao: “It is nice to be important but it is important to be nice” (Là người quan trọng thì cũng hay đấy, nhưng chuyện quan trọng là phải tử tế với mọi người).

Cô chưa là cái gì mà đã như thế thì khi cô trở thành “top model” thì cô còn thế nào nữa? Cháu ngoan của bác mà thiếu văn hóa vậy sao? Cái nết đánh chết cái đẹp. Nhưng cái đẹp cũng không có được bao nhiêu, lại thêm không có nết thì bị đuổi là phải.

Tiếng chào cao hơn mâm cỗ.

Hơn Cả Tiền Tài và Tuổi Thọ

Hơn Cả Tiền Tài và Tuổi Thọ

Phạm Thị Quang Ninh

Hơn 2300 nghìn năm về trước, nhà bác học Aristotle đã cho rằng hạnh phúc là cái gì mà cuối cùng nhiều người phải chọn lựa. Có nghĩa, khi ta có rất nhiều thứ trên đời mà thiếu hạnh phúc, cuộc đời cũng vô nghĩa
Người Việt ta hay dùng ba chữ chữ Phúc, Lộc, Thọ để chỉ ba điều căn bản của cuộc sống để chúc tụng lẫn nhau. Có lẽ điều chúng ta mong mỏi nhất vẫn là hạnh phúc, nên chữ Phúc đã được xếp trên cả hai chữ Lộc và Thọ.

image

Một thi sĩ đã viết “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” vì danh từ “tình yêu” rất khó giải cho đúng nghĩa. Hai chữ “hạnh phúc” cũng tương tự như vậy. Đó là một danh từ trừu tượng mà ta tự cảm thấy mà thôi. Hạnh phúc không như tiền tài. Tiền đếm được nhưng hạnh phúc thì không. Hạnh phúc cũng không giống tuổi thọ dù ta không biết bao nhiêu tuổi là già, nhưng ta vẫn có quan niệm chung như đến một tuổi giới hạn nào đó, ta mới được mừng thượng thọ.

Hạnh phúc quả thật khó cắt nghĩa. Hạnh phúc khi ẩn khi hiện, khi có, khi không, tuỳ theo từng chỗ đứng và chỉ chính mình mới biết được. Khi ta gặp một người nhà giàu, tiền bạc xum xuê, xe cộ bóng láng ta nói “Người ấy sung sướng quá. có phước quá” thì chưa chắc đã đúng. Khi ta thấy một người làm việc lam lũ vất vả để nuôi một đàn con, ta hay nói “tội nghiệp”. Nhưng nếu có dịp nói chuyện với người nghèo này chưa chắc ta đã nghe những lời than van như người nhà giàu nọ. Và biết đâu người lam lũ kia chẳng hạnh phúc hơn người giàu có.

image

Theo nhiều cuộc khảo cứu cho thấy những người không có hạnh phúc là những người luôn luôn chú trọng đến chính mình, hay lo nghĩ, thường bất đồng và không chấp nhận ý kiến của người khác. Trái lại, người hạnh phúc luôn hoà đồng với người chung quanh, biết uyển chuyển và có thể chấp nhận những chuyện không vừa ý một cách dễ dàng. Và điều quan trọng, như trong Thánh kinh, người hạnh phúc luôn có lòng thương yêu và tha thứ.
Khi ta được hưởng một điều gì vui, ta vẫn nói “Trời cho” nhưng theo đức Đạt Lai Lạt Ma trong cuốn Nghệ thuật của Hạnh Phúc (The Art of Happiness) thì Hạnh phúc tự ta có thể tìm được bằng cách điều khiển ý nghĩ trong đầu mình. Nếu mình nghĩ mình có hạnh phúc tức là mình đã có hạnh phúc.

Một trong những điều làm mất hạnh phúc là sự so sánh những gì mình có với những gì mình muốn mà không thể có, hay mình có mà không thấy. Người ta vẫn thường nói “cỏ nhà hàng xóm bao giờ cũng xanh hơn cỏ nhà mình”. Như vậy những gì ta ước muốn và có được cũng chưa chắc đã thoả mãn như ý và suốt đời mệt nhoài vì đuổi bắt. Theo tôi, khi ta có căn nhà để che nắng che mưa, có quần áo mặc khi nóng khi lạnh, có cơm ăn no đủ hàng ngày, không bị bệnh tật ốm đau và không bị hành hạ về tinh thần và thể chất, là chúng ta đã có căn bản hạnh phúc. Ta đã có cuộc sống an bình. Chẳng thế mà trong buổi lễ ở các nhà thờ người ta vẫn chúc bình an cho nhau mà không chúc nhiều tiền, nhiều bạc, nhiều của cải. Nếu được hơn những điều căn bản trên, hãy tự cho mình có hạnh phúc hơn nhiều người khác.

Một độc giả trong tờ Los Angeles Times đã hỏi trong mục “gỡ rối tơ lòng” là gia đình bà hay lục đục vì chung quanh bạn bè đều mua nhà mới mà bà không có khả năng. Mỗi khi người có nhà mới dẫn “đi tour” để khoe những cái phòng ngủ tráng lệ, những cái nhà tắm tối tân là bà về nhà gây chuyện với chồng. Bà khổ lắm và chồng bà cũng không hạnh phúc, tuy đời sồng của bà rất thoải mái, không nợ nần gì nhiều.

Người “gỡ rối” trả lời rằng nếu bà cứ so sánh với những gì người khác có thì không bao giờ bà được sung sướng. Giả thử bà được những thứ ấy thì người khác lại có nhiều hơn. Cứ vậy bà sẽ chạy mệt nhoài. Hãy cảm thấy hạnh phúc với những gì mình có và tự nhủ rằng, người ở nhà to là người nợ như chúa chổm, mất việc là mất nhà ngay. Nghĩ như vậy, bà sẽ thấy sung sướng hơn người kia nhiều.

Cũng vẫn nói về hạnh phúc, một nhóm người được thí nghiệm tại đại học New york bằng cách cho viết tiếp theo một câu “Tôi ước muốn tôi là…” Ý viết thêm của những người trong nhóm cho thấy họ cảm thấy không hài lòng với cuộc sống. Cái “ước muốn” nó không có giới hạn và không có điểm ngừng. Nếu ta theo nó, ta sẽ đi tới vô tận.

Có những cái “ước muốn quá đáng” của người vợ mà người chồng phải đi làm hai ba việc vẫn chưa thỏa mãn nhu cầu của vợ. Có cái “ước muốn mọi sự phải hoàn hảo” của người chồng mà người vợ quay như chong chóng vẫn chưa vừa ý chồng mình. Ước muốn có thể làm thăng hoa cuộc sống nhưng những cái ước muốn quá sức, không chính đáng sẽ làm mất đi cái hạnh phúc gia đình mà mình đã có.
Và thật mâu thuẫn, một trong những điều làm ta hạnh phúc cũng là so sánh. Trong một cuộc khảo cứu của các bà ở University of Wisconsin tại Milwaukee, một nhà khảo cứu trình bày hình ảnh cuộc sống khó khăn của phụ nữ ở Milwaukee vào đầu thế kỷ trước. Khi xem xong, so sánh với thời đó các phụ nữ bây giờ cảm thấy hạnh phúc vì cuộc sống hiện tại thoải mái hơn nhiều.

Các nhà khảo cứu làm một thí nghiệm khác tại University of New York ở Buffalo, những người tham dự được đề nghị nối tiếp để hoàn tất một câu “Tôi sung sướng vì tôi không phải là….”. Sau năm lần góp thêm ý vào cùng một câu trên, những ý viết thêm của nhóm này cho ta biết cuộc sống của họ rất thoải mái. Nhiều khi tôi bực mình và nóng nẩy khi trên xa lộ bị kẹt xe vì có một tai nạn. Nhưng chợt nghĩ, tôi không phải là người nằm trên xe cứu thương kia. Sự so sánh đó làm tôi cảm thấy may mắn và nỗi bực bội đã tan biến trong khoảnh khắc.
Khi ta nhìn những nạn nhân bão lụt, màn trời chiếu đất, đói rét tả tơi, hay những người vô gia cư nằm lề đường trong những ngày đêm băng giá, ta sẽ thấy trời đã cho ta nhiều quá. Do vậy mà ta sẽ không mong muốn gì hơn. Ta đã có hạnh phúc.

Tục ngữ ta có câu “Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống thì chẳng ai bằng mình”. Đó cũng là cái quan niệm sống hạnh phúc, “an nhiên tự tại” của người xưa đã để lại cho hậu thế.
Ngoài những hạnh phúc vật chất còn có những hạnh phúc về tinh thần như tình người với nhau. Tình yêu thương đồng loại, tình gia đình, tình bè bạn… biết bao thứ tình mà chúng ta trân quý để tạo cho chính ta và mọi người chung quanh hạnh phúc.

Đức Đạt Lat Lạt Ma trong cuốn “Nghệ thuật của hạnh phúc: “cho chúng ta một thông điệp về hạnh phúc “Chúng ta không cần thêm tiền, chúng ta không cần thành công hơn nữa, chúng ta không cần có một thân hình hoàn hảo, và ngay cả chúng ta không cần phải có một người bạn đường hoàn hảo”, cho ta thấy của cải, ham muốn ở thế gian không là yếu tố duy nhất làm nên hạnh phúc Trong quan niệm trên chứa đựng một triết lý đông phương rất thâm sâu về Tham, Sân, Si của nhà Phật.

Triết lý đông tây nhiều khi không giống nhau, nhưng quan niệm về hạnh phúc thì hình như cùng gặp nhau ở một điểm. Đó là hạnh phúc là cái gì quí nhất ở trên đời. Như trên, nhà xã hội học Aristotie viết rằng “hạnh phúc là cái đích cuối cùng mà con người mong muốn”.
Các nhà khảo cứu chuyên môn ngày nay cho rằng hạnh phúc gồm hai yếu tố: thứ nhất là do bộ óc của từng người, có thể điều khiển hạnh phúc của mình. Thứ hai là tập thói quen thích thú, lấy sự làm việc, tiêu khiển, liên hệ với mọi người, cùng các hoạt động hữu ích là có ý nghĩa.

Một bác sĩ tâm lý khác, bà Joyce Brothers đang cộng tác với tờ Los Angeles Times cũng nói: Khi một người hoạt động và thích thú với những gì chung quanh mình, cơ thể, trí óc và tinh thần người ấy sẽ càng ngày càng trở nên tốt hơn.“Tâm bình thì thế giới bình”. Khi ta điều khiển được tâm ta cho không xao động, thì ta luôn luôn đạt được tình trạng thái hòa. Khi ta điều khiển được trí óc để có tư tưởng hạnh phúc trong đầu, xã hội sẽ tránh được rất nhiều những thảm cảnh nhiễu loạn và chính ta cũng tránh được bệnh khủng hoảng tâm thần. Hậu quả của loạn tâm nơi chính mình thường rất tai hại cho những người sống chung quanh.
Theo báo cáo mới về bệnh thần kinh mà ông bộ trưởng y tế của Hoa Kỳ mới đưa ra vào tháng 12 năm qua, cho biết 7.1% người Mỹ từ tuổi 18 tới 54 tâm thần không được bình thường và cần chữa bệnh bằng thuốc và tâm lý trị liệu. Tuy nhiên cũng có những ý kiến khác của các nhà tâm lý học thuộc phái Darwin tin rằng cảm xúc là sản phẩm thiên nhiên từ hàng triệu năm qua nên không cần phải chữa trị. Các nhà tâm lý này cảnh cáo rằng chúng ta chưa đủ dữ kiện để chữa bệnh bằng thuốc. Dù sao đi nữa, hiện nay hai loại thuốc thông thường chữa bệnh khủng hoảng tâm thần là Prozac và Zoloft vẫn bán chạy trên thị trường.
Trong cuốn “The Science of happiness, Unlocking the Mysteries of Mood” của tác giả John
Willey & Sons, 2000, nhà khoa học Stepphen Brawn đã phải đánh dấu hỏi về việc số người đã dùng thuốc để trị bệnh tâm thần lên rất cao.Như trên ta thấy khủng hoảng tâm thần cũng là một bệnh như các bệnh trong cơ thể khác. Bệnh này có thể gây tử thương cho chính bệnh nhân và cả người chung quanh, trực tiếp hay gián tiếp. Mà nguyên nhân của bệnh này là do con người không có hạnh phúc mà ra. Nếu trị tận gốc có thể chỉ có một giải pháp là tự tìm lấy hạnh phúc trong ý nghĩ của mình.

Khi chúng ta đói mà được bữa cơm thanh đạm ta vẫn thấy ngon hơn khi được thưởng thức cao lương mỹ vị khi đã no. Chúng ta làm việc mệt nhọc cả tuần, đợi đến ngày cuối tuần để nghỉ ngơi. Vậy mà cái ngày Chủ nhật nhàn nhã lại không vui hơn ngày thứ Sáu vất vả, vì ta không biết thưởng thức cái vui hiện tại và hay lo lắng cho những ngày tương lai. Người Hoa Kỳ chơi chữ bằng một câu “Present is present”, hiện tại là quà tặng, hay có thể nói, hãy hưởng những gì mình đang có bây giờ. Vậy thì, ngoại trừ những điều kiện tối thiểu như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, hạnh phúc cũng chỉ là những điều trong tâm ta mà thôi.

Xem thế, không có cái vui nào trên đời mà hoàn hảo cả trừ khi ta biết bắt lấy và thưởng thức khi nó vào tay mình. Không có cái buồn nào là bất hạnh nếu ta cho đó là chuyện bình thường trong cuộc sống, rồi nó sẽ qua đi. Đời có thể không có bất hạnh nếu ta quan niệm như các cụ ngày xưa “Sông có khúc, người có lúc”. Hạnh phúc quả là một cảm giác chủ quan tự mình trong khách quan tương đối ở những hiện tượng thực tế chung quanh.
Một nhà tư tưởng vô danh đã định nghĩa, Hạnh Phúc là tất cả những cái thần diệu của cuộc sống: Sự sung sướng, niềm đau khổ, giọt nước mắt, những nụ cười. Hãy rút kinh nghiệm để mang thêm cho mình lòng yêu thương và trải rộng đến tha nhân trong quãng đời chúng ta đang sống.Chấp nhận quan niệm trên, có lẽ ta đã tìm ra chân lý hạnh phúc.

Phạm Thị Quang Ninh

Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng

Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Cứ như thế, chuyến đi của chúng tôi gặp từ người nghèo này sang người khốn khổ khác, một hành trình dài toàn những mảnh đời lang bạt, không tấc đất cắm dùi và gặp nhiều tai bay vạ gió. Và tất cả câu chuyện của họ đầu có liên quan đến chính sách quản lý nhà nước từ nhà đất cho đến giải tỏa, đền bù cũng như thuế và chính sách trợ giúp người nghèo đầy tính bất minh.”

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam

Những Mảnh Đời Lang Bạt Ở Bình Dương” là tựa của một bài phóng sự, đọc được qua RFA, do nhóm phóng viên Việt Nam thực hiện:

“Họ là những người tứ xứ lang bạt về Bình Dương để kiếm sống. Có người làm thuê đủ các công việc để kiếm cơm độ nhật, có người đi buôn rau hành dạo, trái cậy dạo, cũng có người đạp con ngựa sắt cũ kĩ dong ruổi khắp thị thành, ngoại ô để mua ve chai, đồng nát… Cuộc sống của họ khó khăn, bấp bênh, không có ngày mai. Và họ cũng chẳng biết bám víu vào đâu ngoài chút sức tàn lực kiệt lúc tuổi già.

Ông Hoan, một người quê gốc Thái Bình, di cư vào miền Nam sau năm 1975 kể với chúng tôi rằng ông di cư không theo diện nào cả, chỉ đơn thuần lúc đó miền Bắc quê hương của ông nghèo khổ quá, quanh năm suốt tháng chẳng biết làm gì ngoài mấy đám ruộng nhỏ, vài bao lúa mỗi năm cộng với vài chục ký sắn mỗi năm, không tài nào sống nổi, ông khăn gói lên đường hành phương Nam với hy vọng đổi đời…

Vào đất Bình Dương hai chục năm nay, ông đạt được chút thành tựu là nuôi hai đứa con học lên tới đại học, còn lại, hầu như ông chẳng có gì, nhà cũng ở thuê, xe máy không có, bà con ruột thịt không có nốt ở xứ sở xa lạ này. Gần 80 tuổi, ông Hoan vẫn luôn đối diện với nguy cơ đói khổ, bị đuổi ra khỏi phòng trọ nếu như không kiếm đủ tiền trả thuê phòng…

Đồng số phận với ông Hoan, Bà Nga, trôi dạt từ Bến Tre lên thành phố Sài Gòn với nghề bán vé số, rửa chén bát thuê, làm việc phụ giúp ở các quán và giặt giũ thuê. Những công việc này chỉ đủ giúp bà mua gạo, muối, thức ăn cho gia đình hằng ngay. Một thân nuôi ba người con nhỏ, chồng bỏ đi. Cuộc đời bà nghèo khổ, chật vật mãi cho đến khi con bà trưởng thành, đi làm công nhân, bà vẫn chưa hết khổ, vẫn phải đi bán vé số kiếm sống qua ngày.

Ngoài bà Hoa và ông Hoan, còn rất nhiều người, nhiều mảnh đời trắc ẩn, bể khổ đang lang bạt khắp Bình Dương nói riêng và khắp các thành phố trên cả nước nói chung. Mặc dù họ vẫn rất siêng năng, chăm chỉ làm ăn, cố vượt thoát cái nghèo nhưng không tài nào thoát được bởi cơ chế nhà nước đã đẩy họ đi từ khốn khổ này sang khốn khổ khác…

Cứ như thế, chuyến đi của chúng tôi gặp từ người nghèo này sang người khốn khổ khác, một hành trình dài toàn những mảnh đời lang bạt, không tấc đất cắm dùi và gặp nhiều tai bay vạ gió. Và tất cả câu chuyện của họ đầu có liên quan đến chính sách quản lý nhà nước từ nhà đất cho đến giải tỏa, đền bù cũng như thuế và chính sách trợ giúp người nghèo đầy tính bất minh.”

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam

Có lẽ vì không phải là ký giả, phóng viên, nhà văn hay nhà báo gì ráo trọi (giới người thường  chỉ nhìn thấy mặt trái của cuộc đời) nên chuyến đi của tôi – xem ra – lạc quan và vui vẻ hơn nhiều. Ớ Geyleng tôi cũng gặp những người Việt không tấc đất cắm dùi, những mảnh đời lang bạt, những kẻ cũng “bị cơ chế nhà nước đẩy đi từ khốn khổ này sang khốn khổ khác” nhưng (cuối cùng) họ đã tìm ra sinh lộ – dù chưa biết là chuyện mưu sinh (rồi ra) sẽ kéo dài được bao lâu?

Ảnh: VDF

Geyleng là một con lộ dài, cắt ngang bởi vài chục con hẻm lớn, ở Singapore. Nó được mệnh danh là Phố Đèn Đỏ Quốc Tế, với hàng ngàn người hành nghề bán dâm thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Riêng hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) hiện nay thì gần như là giang sơn của những cô gái Việt.

Đúng cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhận xét: “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Họ tươi tắn và xinh xắn nếu không hơn thì cũng chả hề kém các bạn đồng nghiệp Thái, Phi, Tầu, Nhật, Đại Hàn … đang biệt cư ở những con hẻm khác. Các cháu không chỉ là một “món hàng” mới lạ đối với người ngoại quốc mà giá cả, xem ra, cũng nhẹ nhàng hơn.

Ở Geyleng (chắc) không ai ngủ. Đường phố tấp nập ngày đêm. Giữa đám người đang chen chúc hưởng thụ hay mưu sinh trong những quán ăn lộ thiên, rực rỡ ánh đèn nơi khu phố đèn đỏ này, tôi chợt nhận ra những người phụ nữ Việt Nam (qua những chiếc áo bà ba sờn cũ) đang đi loanh quanh chào mời thực khách mua giấy chùi miệng.

Họ chào hàng bằng tay, bằng ánh mắt van nài, cùng với nụ cười rất hiền lành và hơi buồn bã.  Tôi không dấu được sự ngạc nhiên:

  • Chị người Việt Nam phải hông?
  • Chú cũng người Việt luôn sao?
  • Dạ.
  • Chèn ơi, vậy mà tui tưởng người Sing.
  • Chú mua dùm mấy tệp khăn giấy này nha. Có một đô la thôi hà.
  • Được chớ mà chị ngồi chơi nói chuyện chút xíu cho vui đi. Gấp gáp khỉ gì. Chị dùng chi tui kêu luôn?
  • Chú cho uống được rồi, tui mỏi chân và khát nước quá. Đi từ hồi bốn giờ chiều tới giờ đó.
  • Vậy thì ăn luôn đi.
  • Dạ, cũng được.
  • Rồi mấy giờ chị mới về nhà? Gần sáng tới nơi rồi.
  • Phải đi tới cỡ tám giờ mới đủ sở hụi.
  • Sở hụi gì cà? Chị bán mấy cái tệp giấy này có vốn liếng gì bao nhiêu đâu, không bán nay thì mai chớ hư hỏng lỗ lã gì mà sợ.
  • Tui mua một bịch hai chục tệp giá năm đô, bán hết cả bịch thì lời được 15 đồng.
  • Mỗi ngày chị bán mấy bịch?
  • Cũng còn tùy. Bữa nào khoẻ, chịu khó đi, chịu khó mời thì được ba bịch, còn không thì hai. Có bữa hên bán một bịch thôi cũng đủ tiền rồi.
  • Sao kỳ vậy?
  • Nhiều người khách họ chỉ lấy một tệp giấy thôi, lấy cho mình thấy đỡ kỳ vậy mà nhưng cho tới năm sáu đô la lận. Họ cũng thường cho ăn luôn nữa. Nhiều người tử tế và vui vẻ lắm nhưng ngặt là mình không biết tiếng nên cúi đầu ăn thôi, chớ có biết nói chuyện gì đâu.

Tôi tính nhẩm một đô la của Singpore tương đương với 80 xu của Mỹ nên suy ra là bà đồng hương này cũng kiếm được từ 30 đến 50 Mỹ Kim mỗi ngày.

  • Như vậy bữa nào hên là chị về sớm, ngủ khoẻ re há?
  • Ý đâu có được chú. Ngày hên cũng phải ráng đi để bù ngày xui chớ. Với lại tui ở “ghép” với bà Ba. Phải để bả ngủ cho đủ giấc. Khi nào tui về chui vô ngủ là đến phiên bả đi bán. Ghép như vậy mà một ngày cũng phải trả 12 đô tiền nhà lận đó.

Tôi chưa kịp hiểu sự khác biệt giữa chuyện “ghép phòng” và “ghép giường” nhưng chưa kịp hỏi kỹ thì đã có thêm người nhập cuộc:

  • Út à, ngồi chơi mảy. Chú này là “người mình” chớ không phải Sing đâu nha.
  • Vậy hả. Con chào chú.
  • Chú chào em, ngồi nghỉ chút đi. Ăn gì chú kêu luôn nha.
  • Dạ, con thích ăn cháo cá.

Người mới đến trẻ hơn nhiều (chắc mới ngoài bốn mươi) trông cũng tươm tất hơn hẳn dù trên người vẫn chỉ mong manh có mỗi chiếc áo bà ba và cái quần đen quê mùa giản dị, như cách phục sức thường thấy ở những phụ nữ Việt Nam ở quê nhà. Chỉ vài phút sau, lại thêm một “người mình” nữa hồn nhiên ngồi vào bàn góp chuyện:

  • Chèn ơi, ở đây gần tháng rồi tui mới thấy có chú là người Việt ở Thành Phố qua chơi đó nha. Còn toàn là tụi nhỏ làm gái, với đám bà già tụi tui không hà.
  • Không phải ở Thành Phố đâu. Ổng là Việt Kiều ở tuốt luốt bên Mỹ lận.
  • Ủy Trời, xa dữ thần vậy sao?
  • Ảnh: VDF
  • Tha hương ngộ cố tri. Câu chuyện của chúng tôi dù rất lan man nhưng đều nổ ròn như bắp. Tôi không có gì để nói nhiều nên chỉ ngồi nghe, và được nghe về một phương cách mưu sinh của đồng bào mình nơi đất lạ.
  • Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở – trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn ngàn Mỹ Kim.
  • Ảnh: VDF
  • Đây là một số tiền lớn lao ngoài sự ước mơ của rất nhiều người dân Việt. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến “thần tình” khi mà nước Việt không còn đủ chỗ chen chân cho những người bị đẩy đến bước đường cùng – mỗi lúc một đông – như tường trình của  thông tín viên RFA:
  • “Chỉ riêng thành phố Sài Gòn, lượng người bán vé số đông lên cả vài ngàn người, họ đến từ thập phương, cũng có người xuất thân là công nhân nhà máy, xí nghiệp, vì tai nạn lao động hoặc vì mất sức lao động, bệnh tật, phải nghỉ việc và chuyển sang bán vé số kiếm cơm độ nhật. Ngồi quán cà phê vỉa hè 58 – Trần Quốc Thảo, quận 1, trong vòng nửa giờ đồng hồ, đã đếm được 16 người bán vé số đến mời, già có, trẻ có, bệnh tật có, nhưng xót xa nhất vẫn là những em bé tuổi chưa đầy 15, học hành dở dang hoặc vừa đi học vừa bán vé số kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.”

Singapre một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm ($53,000) cao nhất nhì thế giới. Người dân bản xứ không ai phải đi bán hàng rong hoặc đi xin ăn. Họ không chỉ giầu có, hào phóng mà còn vô cùng cởi mở nữa. Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.

Thực khách ở Singapore không ai cần đến giấy chùi miệng nhưng họ vẫn sẵn sàng chia sẻ  vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua một hình thức mua bán (tương đối) lịch sự và tế nhị. Thiệt là một vùng đất láng giềng bao dung, và trù phú, nơi lý tưởng cho những mảnh đời cùng quẫn và lang bạt đến tự xứ mình.

Khi còn tại chức, ông Chủ Tịch Nước  Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…” Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 vừa qua) cũng phát biểu gần tương tự:“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Trong số những “cường quốc” và “bạn bè quốc tế ngưỡng mộ” này (hẳn) không có người dân ở Singapore đâu. Xin mọi người cứ yên tâm, và đừng ai cảm thấy bị tự ái (vặt) làm chi cho má nó khi.

Theo lời một vị lãnh đạo cao cấp khác, (ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng) thì chuyện “xây dựng CNXH còn lâu dài lắm.” Nghĩa là sẽ còn nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng để bán thân, hay bán giấy – nếu họ vẫn còn có thể tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.

Kính chúc các chị, các em, các cháu luôn buôn may và bán đắt.

Ô nhục này dành cho ai?

Ô nhục này dành cho ai?

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Ngày 9 Tháng Mười Một mỗi năm, kể từ năm 1989, cả thế giới chào mừng ngày Bức Tường Berlin sụp đổ. Không phải chỉ là những phiên bản, mà bức tường này được cắt từng mảnh, vận chuyển đến nhiều nơi trên thế giới, lắp đặt lại xem như một di tích cần ghi nhớ, bài học của một giai đoạn ô nhục của chế độ Cộng Sản. Một đoạn của bức tường này được để tại Thư Viện Tổng Thống Ronald Reagan ở Simi Valley, California.

Tác giả đứng bên một đoạn Bức Tường Berlin hồi năm 2000.
(Hình: Huy Phương cung cấp)

Sau khi Thế Chiến 2 kết thúc, Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức) được thành lập tại vùng quản lý của quân đội Liên Xô tại Đức ngày 7 Tháng Mười, 1949, sau khi Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) ra đời tại phần phía Tây trong khu vực Pháp, Anh và Hoa Kỳ quản lý. Vì lý do còn sự chiếm đóng của quân đội Liên Xô, mặc dù thành lập từ 1949, mãi đến năm 1955, Đông Đức mới tuyên bố đầy đủ quyền tự trị của một quốc gia. Sau gần nửa thế kỷ theo đuổi một nền kinh tế lạc hậu, với một không khí chính trị nô lệ, áp bức, khi nước Đức thống nhất, tổng sản lượng quốc gia (GDP) của Đông Đức chỉ góp được 7% của cả nước Đức so với 93% của Tây Đức dù dân Tây Đức chỉ chiếm 1/3 dân số cả nước. Suốt một thời gian dài sau khi thống nhất, Tây Đức đã hy sinh, chia sẻ để cả hai miền đều no ấm, thịnh vượng bằng nhau.

Tại sao phía Cộng Sản phải dựng lên Bức Tường Berlin? Ông Mikhail Pervukhin, Đại Sứ Liên Xô tại Đông Đức, đã trả lời câu hỏi này, “Nếu không có bức tường người dân sẽ thấy được sự yếu kém của phía Đông so với phía Tây.” Bức tường Berlin phải được dựng lên, nếu không một ngày kia, không còn một người dân nào ở lại với chế độ Cộng Sản, kể cả binh lính. Chỉ trong vòng sáu năm, từ năm 1945 đến 1961, sau khi rơi vào tay Cộng Sản, 20% dân số Đông Đức (3 triệu rưỡi người) đã vượt thoát sang Tây Đức.

Image result for picture of berlin wallImage result for picture of berlin wall

Bức tường Berlin còn được gọi là “Bức Tường Ô Nhục” do chính phủ Đông Đức dựng nên từ ngày 13 Tháng Tám, 1961 được gọi là “tường thành bảo vệ chống Phát Xít,” nhưng rõ ràng không thấy một người Phát Xít nào leo ngược bức tường đi tìm hạnh phúc trong thế giới Cộng Sản. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của Chiến Tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức.

Mặc dù với hàng rào bê tông, cốt sắt có hệ thống báo động tự động, chó săn, 12,000 công an lùng sục ngày đêm, tháp canh, roi điện, hố sâu cản xe tăng và cơ giới, cho đến ngày bức tường sụp đổ đã có hơn 5,000 người dân Đông Đức bất chấp hiểm nguy vượt qua bức tường này thành công đến Tây Đức. Ngoài ra, cũng có 200 người dân Đông Đức bị bắn hạ khi tìm cách vượt qua vùng tự do.

Bài học của Bức Tường Berlin chưa đủ để thức tỉnh lương tri của những chế độ Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Việt Nam. Sau Hiệp Định Geneva 1954, sông Bến Hải được làm ranh giới chia cắt hai miền Việt Nam, một triệu người miền Bắc không chờ “bộ đội cụ Hồ” vào tiếp thu Hà Nội đã khăn gói di cư vào Nam. Sau đó hơn 20 năm, cũng chưa thấy ai ở miền Nam bơi qua sông để ra Bắc tìm tự do, no ấm mà chỉ thấy những người bến Bắc, dưới mạng lưới công an dày đặc, tìm đường vào Nam.

Sau Tháng Tư, 1975, khi Bắc Việt lấp được sông Bến Hải thì hơn một triệu người không muốn “được giải phóng” đã bồng bế nhau ra đi, và sau đó, hơn nửa triệu người lại tìm đường vượt biên, vượt biển và cứ hai người tìm cách ra đi thì có một người thiệt mạng. Giá như có một cây cầu có thể nối liền Việt Nam với các nước tự do, hay có tàu bè đến cảng Sài Gòn hay Hải Phòng rước người ra đi vô thời hạn, thì Việt Nam không còn lại được một cái cột đèn để soi sáng “lăng Bác âm u.”

Cho đến 39 năm sau ngày “giải phóng,” vì sao còn cảnh người Việt đóng tàu vượt biển sang Úc, và chuyện đi lấy chồng ngoại, chuyện cầm cố nhà đất để được đi lao động nước ngoài, chuyện cho con du học mà mong con đừng nghĩ chuyện về, chuyện chuyển vốn ra ngoại quốc để lập “đầu cầu” cho mai hậu, phải chăng tất cả điều đó đã nói lên sự “ưu việt” của chế độ Cộng Sản, một chế độ bị chán ghét, đã xô đẩy mọi người phải rời bỏ quê hương, đất nước ra đi.

Nếu Cuba, Bắc Hàn mở cổng biên giới, việc gì sẽ xảy ra.

Nếu biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico bỏ ngỏ thì nước Mỹ sẽ tràn ngập di dân Nam Mỹ bất hợp pháp.

Chính phủ Mỹ đã bỏ ra hàng tỷ đô la để xây vài nghìn cây số tường cao tại biên giới hai nước không phải để ngăn người Mỹ chạy sang lập nghiệp bên đất Mexico. Trước đây, Hoa Kỳ đã không tiên liệu được chuyện hằng năm có khoảng 600,000 dân gốc Hispanic vượt biên vào Hoa Kỳ.

Đông Đức xây bức tường để ngăn dân của họ chạy ra, Hoa Kỳ xây hàng rào biên giới để ngăn dân ở ngoài nước chạy vào. Tị nạn chính trị hay kinh tế thì cũng là do sự lỗi lầm, ngu dốt của một chế độ.

Lúc 11 giờ 30 phút đêm 9 Tháng Mười Một, 1989, một trung tá công an biên phòng Đông Đức, ông Harald Jager, đã khóc sau khi ra lệnh mở cửa Tường Berlin, trong đêm hàng nghìn người đã ồ ạt chạy sang phía Tây. Một năm sau, nước Đức thống nhất trong tự do mà không đổ một giọt máu. Việt Nam “thống nhất” trong một hoàn cảnh khốn nạn nhất, tù đày, kỳ thị, chia lìa, đói nghèo, oan khuất, thù hận ngút trời, mà “đống xương vô định đã cao bằng đầu!”

Bây giờ có một bức tường, không phải xây bằng xi măng cốt sắt nhưng 40 năm nay vẫn còn tồn tại giữa những con người Việt Nam, mà phần ô nhục dành cho phía Cộng Sản.