Sự Im Lặng Ngọt Ngào

Sự Im Lặng Ngọt Ngào

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa của thành phố New York để trở về nhà.

Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ, theo truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đang đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để truyện trò với nhau.

Wendy hiểu được “tiếng nói” ra dấu bằng tay, vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật, nên cô đã học được cách ra dấu tay, để trò truyện với những người câm điếc.

Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã khá thông thạo “tiếng nói” này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm xe, Wendy đã “nghe lóm” được câu chuyện của hai người.  Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì “trả lời” là anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực này, nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái.  Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay, để “nói” trong câu chuyện của họ.

Khi xe lửa đến trạm, thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ e-mail cho nhau.  Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò truyện dùng tin nhắn của điện thoại cầm tay, rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau.
Chàng trai tên là Jack và cô gái tên là Debbie.  Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập cảng, và ở cách nhà Wendy không xa.

Từ những tin nhắn điện thoại, e-mail thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chỗ trở thành bạn thân lúc nào không hay.  Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong công viên, nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ ngơi.

Tuy phải ra dấu để trò truyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện, mà cô lại có dịp trau dồi “tiếng nói bằng tay”, để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn. Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu “I Love You”, thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.

Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào “phòng trò truyện” (chatroom) đấu láo với bạn bè. Mỗi khi Wendy đặt câu hỏi, “Bạn có thể có tình yêu với một người câm điếc hay không?”, thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát.  Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.

Vào dịp lễ Tạ Ơn năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu, “Wendy có chịu làm bạn gái của mình không?” Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc, nhưng tiếp theo đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân.

Quả nhiên, cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái “lầm đường lạc lối” trở về.  Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ cô vận động tới để thuyết phục cô.

Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack. Cô cho mọi người biết là thái độ lạc quan cùng đầu óc thực tế và tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi anh hơn là với những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.

Gia đình sau khi nghe cô giải bày đã không còn quá khắt khe phê bình nữa.  Mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người.

Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12, sau khi mọi người đã hưởng được một đêm Giáng sinh bình yên cho tâm tư lắng đọng.   Wendy đã có quyết định trong đầu là nếu như cha mẹ và anh chị của cô có những cử chỉ cùng hành động khinh miệt Jack, thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để xin ơn và sự chúc lành của Thiên Chúa.

Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack.  Chàng mỉm cười ra dấu cho nàng:

– Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.

Đó là lần đầu tiên trong đời, cô sinh viên Trường Dược rơi những giọt lệ cảm động.  Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ.  Nàng nói:

– Thưa ba mẹ, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc đến.

Câu nói của nàng vừa thốt ra, thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất.  Chàng nhào tới ôm nàng trong vòng tay khỏe mạnh của chàng.

Một điều mà Wendy không thể ngờ được, là nàng bỗng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ miệng của Jack:

-Trời đất, em biết nói à?

Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.

Mọi người ngoài cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên, trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm, thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến, mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt, vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian

“…Thượng Đế của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm qua…Dành cho những ai yêu, nhưng chưa dám thổ lộ cùng người mình yêu.”

Anh chị Thụ Mai gởi

ÁNH-SÁNG TẠ-ƠN

ÁNH-SÁNG TẠ-ƠN

Nguyễn Văn Thông

Đối với người lành và nhạy-cảm thì chuyện tạ-ơn là chuyện mỗi ngày vì họ lúc nào cũng đầy lòng khiêm-tốn nhận ra mọi khía-cạnh trong đời sống đều có sự liên-quan rộng-lớn, đều là sự cống-hiến của nhiều người. Cơm ăn, áo mặc, phương-tiện đi lại, truyền-thông, mạng nối toàn cầu, bài ca, điệu nhạc, những bức tranh đẹp, những sự-kiện lịch-sử, gia-đình, bạn-hữu, tình thân-ái…. tất cả đều đóng một vai-trò làm cho cuộc đời thêm phong-phú, tươi-đẹp. Cho nên ngày lễ Tạ Ơn mỗi năm đối với họ chỉ là một dịp đặc-biệt để bày-tỏ và tôn-vinh tấm lòng biết cảm-nhận mỗi người cần phải có đối với người và thế-giới quanh mình.

Thế nhưng ta không thể phủ-nhận rằng có những người và hoàn-cảnh đáng thương đến độ khó làm cho người ta nghĩ đến sự tạ-ơn cho được. Họ là những người bị bệnh nan-y, bị bỏ quên, cô-độc, hay tàn-phế… Tôi thường nghe người ta an-ủi nhau bằng lời nói rằng, “Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống thì chẳng ai bằng mình” mà đôi khi thấy lòng bất nhẫn. Thế những người không bằng ai, ở đáy của sự cùng-cực thì làm sao? Họ so-sánh với ai được để thấy mình đỡ khổ? Thế hóa ra ta an-ủi mình bằng sự ganh-tị, nghĩa là ta cần có người kém mình để thấy mình đỡ khổ hay sao? Tại sao ta đánh lừa mình như thế? Thực ra câu tục-ngữ trên cũng đúng ở khía-cạnh bảo cho ta rằng, ta chưa khổ lắm đâu, ta đang hưởng nhiều điều hay mà ta không chịu nhìn-nhận. Có thể ta đứng núi này trông núi kia cao.

Dầu sao, cả hai mặt, ta khó có thể phủ-nhận. Trong khi ta đang được hưởng bao ơn lành, có thể còn lẫn-lộn những khổ-đau thì có những người đau-khổ cùng-cực mà không ai có thể thông-cảm được, sự đau-khổ của họ vượt ra ngoài kinh-nghiệm và tầm hiểu-biết của ta.

Năm vừa qua mẹ tôi qua đời sau 21 năm bị tai-biến mạch máu não, trong đó có 10 năm nằm liệt giường. Bố tôi là người chăm-sóc hầu-hết thời-gian ấy một cách tuyệt-vời thì bỗng khám-phá ra bị ung-thư gan. Từ lúc khám-phá ra đến lúc ra đi chỉ có sáu tháng. Mẹ tôi mất sau bố tôi ba năm. Tôi là con trai cả nhưng chưa gặp mặt bố mẹ suốt 32 năm. Khi bố tôi nằm bệnh, tôi gọi về bằng Skype, bố con nhìn thấy nhau. Bố cười bảo vợ chồng tôi nom còn đẹp đôi lắm. Tôi quan-sát bố nằm trên võng từ đầu tới chân. Hai gót chân của bố tôi nhẵn-nhụi và trắng hồng. Tôi bảo, “Gót chân thầy đẹp quá, con chưa bao giờ thấy. Hồi xưa chỉ thấy gót chân thầy nứt-nẻ vì cả đời lội ruộng rau muống và gánh nước tưới rau. Gót chân thầy bây giờ đẹp hơn gót chân con, hơn 30 năm ở Mỹ mà vẫn sần-sùi nứt-nẻ.” Tôi cảm thấy vui, coi như được đánh đổi chút gì với bố. Tôi ngập-ngừng nói, “Con không về được…” Bố tôi bảo, “Khỏi về. Bố con mình hẹn nhau trên Thiên Đàng.” Tôi gạt ngấn nước mắt tràn mi trong nỗi buồn vui lẫn-lộn.

Bố tôi mất được vài năm thì tôi theo được thằng con trong quân-đội đi công-tác ghé vào Việt Nam. Cháu báo cho tòa đại-sứ Mỹ dòm chừng cho tôi về thăm mẹ. 32 năm vật đổi sao dời, cái ngõ cũ nhà tôi không còn như xưa, người quen lối xóm nhìn kỹ mới nhận ra được vài người, nhiều thế-hệ lớn lên ngơ-ngác. Tôi gạt đi trăm thứ chuyện để chỉ chú ý đến mẹ, chị và các em. Mẹ  bây giờ nặng tai, nói chuyện thật khó. Tôi xắp-xếp gường cho mẹ; vợ tôi đi giặt màn, chăn, gối, rồi chúng tôi lau chùi quanh phòng, quanh nhà. Tới ngày về, chúng tôi không biết Sàigòn có món ăn nào ngon nhưng cảm thấy ấm lòng.

Về Mỹ, trong cộng-đoàn nhà thờ của tôi, Cô Lan có bố ruột và bố chồng vừa vào nhà thương vì bệnh ung-thư gan hay phổi. Các bác đều đã lớn tuổi nên việc khám-phá ra bệnh cũng là lúc đáng lo. Thế là trong gia-đình có tới ba người bệnh nặng. Cô Lan mới bốn mấy mà đã chiến-đấu với bệnh ung-thư của cô đã năm năm, từ khi mang bầu đứa con út, bác-sĩ khám thai tìm ra. Thằng nhỏ lớn mấy tuổi là từng đó năm Cô Lan mang bệnh. Mái tóc dài mượt rụng dần cho tới khi cô phải đội khăn như một bà già trầu. Cả cộng-đoàn Mỹ cũng như Việt coi cô như người thân. Thấy vắng cô một ngày lễ là hỏi-han. Thấy cô đến được nhà thờ là túm lại thăm-hỏi. Tôi nhìn chồng cô và ba đứa con mà xót-xa.

Ngày tháng trôi đi lúc nhanh lúc chậm. Tôi quen nhiều với bố Cô Lan hơn bố chồng cô. Bác hay đến với ca-đoàn chúng tôi xin cầu-nguyện, khi thì ý này, lúc thì ý nọ. Bác nhìn gầy và da mặt xám hơn nhưng vẫn còn nhanh-nhẹn, vẫn giữ nụ cười tươi khi nói chuyện. Hè vừa rồi bác quyết-định về Việt Nam thăm gia-đình đứa con còn lại và các cháu, bảo là lần cuối. Khi trở lại, nhìn thấy bác vẫn bình-thường. Hỏi thăm, câu trước câu sau, bác bảo, “Xin anh chị cầu-nguyện cho em Lan.” Bây giờ Bác không còn lái xe được nữa nên rủ tôi đi thăm một người bệnh trong hospice (nơi an-dưỡng chờ chết) sau thánh lễ buổi sáng ngày thường.

Người bệnh trong hospice qua đời sau đó vài tuần, là một cựu quân-nhân VNCH, chẳng có thân-nhân, bộ xương bọc da nằm dưới lớp chăn nhìn như không, không có bề dầy nào nổi lên. Vài tuần sau, bác và bác thông-gia vắng bóng ở nhà thờ. Những buổi đọc kinh Lòng Chúa Thương Xót không còn bác quay xuống nói ý-chỉ cầu-nguyện. Ít tuần sau, bác thông-gia qua đời.  Bãi đậu xe của nhà quàn đầy xe vào buổi chiều viếng xác. Hình như bà con ra về vì cần nhường chỗ cho người đến sau.

Sau một tuần, bố Cô Lan qua đời. Mấy ngày trước đó, tôi tới thăm và đọc kinh. Niềm tin của bác vững-vàng, bác sẵn-sàng ra đi, nhưng đôi mắt bác ướt long-lanh. Tôi đoán bác đang nghĩ tới con gái và ba đứa cháu. Tôi không biết cuộc đối-thoại của bác với Chúa có những gì. Bác gởi-gấm hay năn-nỉ Chúa điều gì? Bác gái lúc nào cũng như một chiếc bóng can-trường, và dính chặt với bác trai khi bác trai ra đi. Tôi thấy Cô Lan ngồi trên xe lăn do chồng cô đẩy trước cửa nhà quàn ngày viếng xác bố, đầu cúi xuống. Đôi vai cô chỉ còn xương lồi-lõm trong bàn tay tôi. Bạn-bè và người thân cố mỉm một nụ cười với cô. Vài người Mỹ già lẩm-bẩm, “God has to do something!” (Chúa phải làm gì chứ!)

Đấy là lần cuối cùng tôi thấy cô còn sức sống. Hơn một tuần sau, buổi sáng sớm ở sân trước nhà nguyện đông người nhưng im-lặng khác thường. Có tiếng thì-thào, “Lan vừa qua đời sáng nay.” Rồi chỉ còn những ánh mắt, mọi âm-thanh khác mất hút vào chân-không. Chuyển-động còn đó chậm-chập trong không-gian nhưng câm-lặng. Tôi không thể cảm được sự đổ-vỡ nào trong lòng người ở lại – chồng Cô Lan và các con, và tấm lòng của người bà đối với các cháu.

Lễ an-táng Cô Lan đầy người, Việt và Mỹ. Ca-đoàn trang-trọng hát bài Cô Lan đã chọn cho mình từ mấy tháng trước cho lễ an-táng của mình: “All I Ask Of You”. Con chỉ xin Chúa một điều là nhớ đến con là người yêu Chúa. Dù ở chân trời góc biển nào trong đời, trong niềm vui hay nỗi đau, nơi tim con có Chúa hiện-diện. Chúa là ơn-huệ cho con cho tới ngày thân con rã-tan trong tro bụi…

Cô Lan ơi, cảm ơn cô cho tôi một ánh-sáng tạ-ơn. Trong những năm tháng đau thương, cô có bao giờ nhìn lên hay nhìn xuống để thấy mình “chưa đến nỗi nào” để nói lên được lời tạ-ơn không nhỉ? Tôi nghĩ cô đã khám-phá ra nguồn tạ-ơn trong đau-khổ sâu-xa hơn sự so-sánh đánh lừa mình khi khám-phá ra tình-yêu Chúa, Đấng cứu-chuộc nhân-loại qua đau-khổ, Đấng thánh-hóa đau-khổ, Đấng mời gọi những con người quảng-đại mang trong cuộc đời mình những đau-khổ, biến chúng thành phương-tiện cảm-thông, tương-thân tương-trợ, biết xót thương, biết tìm-tòi để xoa-dịu nỗi đau của tha-nhân.

Cảm-tạ Chúa đã chịu đau-khổ. Tạ-ơn Chúa cho con cảm-nhận được giá-trị của khổ-đau.

Nguyễn Văn Thông

Thanksgiving 2014

Anh chị Thụ Mai gởi

Hãy luôn tỉnh thức!

Hãy luôn tỉnh thức!

Chuacuuthe.com

VRNs (29.11.2014) – Tin Mừng CN I Mùa Vọng – Năm B (Mc 13, 33-37)

Ở Việt Nam, thỉnh thoảng nơi công cộng, nơi nhà ở chúng ta thấy những bảng cảnh báo “coi chừng móc túi”, “coi chừng mất xe”, “coi chừng chó dữ”, … xem ra đáng xấu hổ cho người Việt mình quá! Nhưng đó lại là những lời nhắc nhớ chúng ta đề phòng, cảnh giác để khỏi phải “tiền mất tật mang”, “hao tài tản mạng” rất đáng để lưu ý.

Mở đầu Năm Phụng vụ, chuẩn bị đón mừng Đại lễ Giáng Sinh, cũng tương tự thế, Giáo hội cho chúng ta nghe lại những lời cảnh báo của Chúa Giêsu. Nhưng không phải nghe chỉ để khỏi bị hao tài tản mạng, mà hơn thế nhiều, quan trọng hơn nhiều, lời cảnh báo của Chúa liên quan đến “phần rỗi” của mỗi người chúng ta!

“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến!”(Mc 13, 33).

Phải coi chừng! Phải tỉnh thức!

Chúa không bảo “hãy” coi chừng, “hãy” tỉnh thức! Đó chỉ là một lời kêu gọi, nhắc nhớ. Nhưng Ngài bảo “phải” coi chừng, “phải” tỉnh thức. Như một đòi buộc gắt gao cho tất cả mọi người chúng ta, bất kể là ai.

Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã nói rõ ràng: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!(Mc 13, 37).

Mừng Chúa Giáng sinh trong những ngày sắp đến đây, chúng ta nhớ lại một kỷ niệm trọng đại ngày Con Chúa Giáng Trần, không chỉ vậy thôi! Nhưng “phải coi chừng, phải tỉnh thức” “vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến”(Mc 13, 35b), mới thật là quan trọng!

Chủ nhà là Thiên Chúa chúng ta sẽ đến cách vinh quang sáng láng, trong ngày tận cùng của vũ trụ để phán xét kẻ lành người gian. Chủ nhà là Thiên Chúa chúng ta cũng sẽ đến với riêng từng người, trong ngày cuối cùng của một kiếp làm người.

Cả hai cách đến của Chủ Nhà thì không ai biết được:

Khi các môn đệ hỏi về ngày giờ của cách đến thứ nhất, Chúa Giêsu đã trả lời rõ ràng: “Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi”(Mt 24, 36).

Rõ rồi nhé!

Còn cách đến thứ hai cho riêng mỗi người chúng ta, thì ôi thôi “thiên hình vạn trạng”! Ngày giờ thì chẳng biết đâu mà lần, như chúng ta đã quá biết về những cái chết bất ngờ cho tất cả mọi người thuộc mọi lứa tuổi, mọi kiểu mọi cách, mọi nơi mọi chốn, …!

Nói tóm lại là tất tần tật, đủ cách đủ kiểu … chết!

Chắc chúng ta không thể nào quên được sự kiện thảm khốc 11/9/2001 tại Mỹ, trong chốc lát đã làm chết 2.974 người, 24 người mất tích! Và trận động đất sóng thần Tohoku kinh hoàng ngày 11/3/2011 tại Nhật, con số còn khủng khiếp hơn: 15.854 người chết, 3.155 người mất tích, 9.677 người phải thương tật!

Theo thống kê hiện nay, trên thế giới trong vòng một phút thì có khoảng 200 người được “thần chết” đến thăm! Tại Việt Nam hiện nay, chỉ tính riêng vì tai nạn giao thông không thôi, một ngày đã có khoảng 26 người phải “chầu diêm vương”!

Thế đó, chẳng biết lúc nào đến lượt Bạn và tôi – chúng ta được “chủ nhà đến”? Do vậy Chúa đã bảo chúng ta phải coi chừng, phải tỉnh thức. Đó là điều đương nhiên với tấm lòng một Người Cha, luôn lo lắng để nhắc nhớ con cái mình.

Vậy thì, Bạn và tôi – chúng ta phải coi chừng, phải tỉnh thức như thế nào đây?

Không có gì to tát, phải lo lắng lắm đâu! Không cần phải thức suốt đêm với súng ống để canh giữ, đừng cho “thần chết” vào nhà mình đâu! Không cần phải mua thật nhiều nến, đến nhờ ông cha làm phép, để đề phòng “tối 3 ngày 3 đêm” đâu! …

Đơn giản thôi!

Bạn và tôi hãy cố gắng, luôn sống trong Ơn Thánh Chúa với tâm hồn đơn sơ tốt lành, tốt lành với Chúa và với mọi anh em. Trong mọi chức vụ, công việc, bổn phận của hôm nay, của hiện tại, hãy lo chu toàn cách tốt lành với hết trách nhiệm và lòng yêu mến. Để bất cứ lúc nào “chủ nhà đến”, chúng ta cũng đều “vô tư” thoải mái trả lời như Thánh Đôminicô Saviô sau đây:

Một hôm đang trong giờ chơi thể thao với các bạn, bất ngờ Thánh Gioan Boscô gọi cậu Saviô ra và hỏi:

  • Nếu ít phút nữa Chúa gọi con về với Ngài, thì con sẽ làm gì?
  • Thưa cha, thì con vẫn tiếp tục chơi – Saviô đơn sơ mau mắn đáp.
  • Thế con không vào Nhà nguyện cầu nguyện hay đi xưng tội sao? – Thánh

Boscô tiếp tục.

Vẫn thái độ bình thản, Saviô vui vẻ trả lời Cha Boscô:

  • Thưa cha, bây giờ là giờ thể thao, mọi người phải chơi cho thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ làm như vậy là đẹp ý Chúa nhất. Vả lại, tâm hồn con lúc nào cũng trong tình trạng sẵn sàng để về với Chúa mà!

Thật tuyệt vời phải không Bạn?

Cũng thái độ tích cực, luôn sẵn sàng như thế trong mọi bổn phận Chúa đã trao, Đức Hồng y Fx Nguyễn Văn Thuận cũng đã viết: “Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn Chúa, là tìm Nước Chúa, là tin ở tình yêu vô bờ của Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người ngay trong giây phút này(ĐHV 26).

Với sự hèn kém của mình, chắc chắn chúng ta khó có thể sống được như các Thánh. Nhưng trông cậy vào Ơn Chúa, chúng ta cố gắng tập tành ngay từ hôm nay, luôn biết chuẩn bị, tỉnh thức, sẵn sàng để “khi nào chủ nhà đến, lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”(Mc 13, 35b) đều không “bắt gặp anh em đang ngủ”(36 b).

Nếu cố gắng được như thế, thì không lẽ gì mà Ông Chủ không ban thưởng cho chúng ta lúc Ông về nhà, đúng không?

Còn nếu không cố gắng, không chuẩn bị sẵn sàng, mà Ông Chủ về bất ngờ, lúc tâm hồn chúng ta đang mãi mê trong tội, thì sao đây? Cánh cửa nào sẽ mở cho chúng ta đây?

Chắc chỉ có 2 cửa thôi: hoặc là Hỏa ngục, nơi phải xa cách Chúa đời đời; hoặc là may mắn hơn, nơi Luyện hình để chờ đợi ngày về với Chúa!

Ước mong Bạn và tôi – chúng ta bước vào Mùa Vọng với một tâm hồn chuẩn bị chu đáo. Luôn luôn tỉnh thức, sẵn sàng để chào đón ngày Con Chúa ra đời và một Mùa Giáng Sinh sắp tới trong hoan lạc, an bình!

Micae Hữu Liên

THÊM BẠN – BỚT THÙ

THÊM BẠN – BỚT THÙ

Tác giả: Luật sư Đoàn Thanh Liêm

Tôi thật tâm đắc với câu khuyên nhủ chỉ gồm có 4 chữ rất là thông dụng trong dân gian. Đó là câu : “Thêm Bạn – Bớt Thù”. Và tôi luôn cố gắng noi theo lời khuyên bảo chí tình đó. Tôi xin chia sẻ với bạn đọc cái kinh nghiệm bản thân mình đã trải qua, đại khái như sau.

Chữ Bạn luôn đi kèm với một chữ hay vài chữ nữa như là : Bạn bè, Bạn hữu, Bạn quý, Bạn hiền; Bạn thân thiết, Bạn tâm giao, Bạn vong niên, Bạn đồng môn, Bạn đồng nghiệp, Bạn đồng cảnh v.v…

Cũng tương tự như vậy, chữ Thù thường đi kèm với một hay vài chữ nữa, như : Thù nghịch, Thù óan, Thù hằn, Thù ghét; Thù truyền kiếp, Thù dai dẳng, Thù ân óan, Thù hận chồng chất; “Lòng hận thù ngất trời” như trong bài hát “Giải Phóng Miền Nam” của tác giả Hùynh Minh Siêng (tên thật là Lưu Hữu Phước) v.v…

Nói chung, thì bạn hữu là những người có mối tình cảm thuận thảo tốt đẹp với ta, luôn gắn bó chia sẻ với ta trong lúc vui cũng như trong lúc buồn  – chia vui với ta lúc ta gặp may mắn thành công thắng lợi – cũng như thăm viếng an ủi ta khi ta gặp chuyện xui xẻo đau buồn họan nạn.

Ngược lại, kẻ thù thường gây cho ta cái cảm giác bất an, không thỏai mái vì ta luôn phải đề phòng trước những sự việc, tình huống mà họ sẵn sàng gây ra cho ta – như gây tranh cãi, gây hấn, nói xấu, phao tin thất thiệt về cuộc sống riêng tư của ta. Họ thường tìm cách gây thiệt hại, gây khó chịu cho ta cách này cách khác – do sự óan thù, tỵ hiềm, ghét bỏ vốn tích lũy từ lâu ngày …

1 – Như tôi đã có dịp viết là mình có hai niềm say mê vui thích, đó là vui thú với sách vở, báo chí và vui thích gắn bó thân thiết với bạn bè. Bạn thân thiết từ hồi còn học chung với nhau trong lớp bậc Tiểu học trước năm 1945 và sau này ở bậc Trung học trước năm 1954. Bạn đồng nghiệp trong công sở, trong Luật sư đòan. Bạn đồng đội trong quân ngũ. Bạn chung với nhau trong họat động xã hội trước năm 1975. Và nhất là bạn cùng bị giam giữ trong nhà tù cộng sản sau năm 1975 v.v…

Tôi đã có được niềm vui thật trong sáng, tươi đẹp với cả ngàn các bạn mình có duyên được quen biết, sát cánh bên nhau trong nhiều năm tháng của cuộc đời mình. Và các bạn đó luôn quí mến bao bọc nâng đỡ cho tôi mỗi khi tôi gặp tai nạn hay đau bệnh gì – trong đó phải kể đến khá đông các bạn là người ngọai quốc nữa. Hơn thế nữa, tôi còn học hỏi được từ nơi các bạn ấy nhiều điều quý báu, ích lợi cho bản thân mình – thật đúng như câu nói trong ca dao tục ngữ từ xưa là : “Học Thầy chẳng tầy học Bạn” vậy.

2 – Còn về mặt Thù nghịch, Ân óan với ai trong xã hội, thì quả thật là tôi không có bất kỳ sự kình địch, oán hận, thù hằn đối với riêng một ai cả. Có người nói xấu về tôi, nhưng tôi cố gắng không bao giờ đối đáp, hay ra tay đôi co hạch hỏi đối với họ. Tôi coi là mình đã gặp được nhiều cái may lành ở trên đời rồi, do đó mà sẵn sàng chịu thua thiệt chút đỉnh, chịu tỏ ra hèn kém đối với họ. Nhờ vậy mà bản thân mình tránh được chuyện cãi lộn, lời qua tiếng lại khiến cho mối liên hệ giao tiếp giữa hai bên trở thành trầm trọng căng thẳng, tệ hại hơn nữa. Đàng khác, sự chê bai, chỉ trích đó tuy có làm cho ta khó chịu, bực bội đấy – nhưng nó cũng giúp cho ta tránh bớt được thái độ ngông nghênh tự phụ, mà người trí thức thường hay mắc phải.

Cụ thể như chuyện này đây : Cha tôi bị cộng sản Việt minh bắt đi mất tích từ năm 1948 lúc tôi mới có 14 tuổi. Và chính bản thân tôi cũng bị cộng sản bắt giam từ năm 1990 và xử phạt tôi 12 năm tù giam. Nhưng tôi không hề thù oán đối với cá nhân một người cộng sản nào cả. Xưa nay, tôi vẫn kiên quyết chống đối cái chế độ cực kỳ bất nhân, ác đức, vô nhân đạo do đảng cộng sản áp đặt trên đất nước ta từ 70 năm nay – mà không lúc nào giữ lòng hận thù óan ghét đối với riêng một người nào cả.

Tôi làm như vậy, đó là áp dụng theo lời khuyên bảo của cha ông ta từ xưa là “Lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng. Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan”.

Có người chê bai tôi là “ngây thơ gàn dở”, “quân tử tàu”, là “cù lần, hèn nhát”, mơ mộng, lãng mạn, hão huyền thế này, thế khác v.v… Tôi nghe biết vậy, nhưng mà tôi vẫn một mực sống theo tôn chỉ như thế này là : “ Nhất quyết không để cho mình vướng mắc chuyện hận thù, không để tâm mà oán ghét đối với bất kỳ người nào trên cõi đời này”.

Tóm lại là tôi chỉ có tình cảm thân thương quí mến nhiều hay ít với mức độ khác nhau đối với người này, người khác. Chứ tuyệt nhiên tôi không coi mình là kẻ thù nghịch của một người nào cả.

Nhờ vậy, mà tôi luôn sống thanh thản, an nhiên tự tại trong tuổi xế chiều hiện nay trên đất Mỹ. Và có thể nói : Dù đã phải trải qua bao nhiêu thử thách nghịch cảnh éo le bi đát vì chiến tranh, vì tù đày – tôi vẫn tìm cách tạo cho cuộc sống mình có ý nghĩa lương hảo, có phẩm chất tốt đẹp, cao quý vậy./

Westminster California Tháng 11 Năm 2014.

Đoàn Thanh Liêm

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?

Trung Quốc phản công, Mỹ sẵn sàng chưa?

2014-11-27

fiery-cross-reef

Không ảnh chụp hoạt động tân tạo của Trung Quốc ở Đá Chữ Thập

Courtesy of IHS

Phía nam, chỉ xâm lấn Việt Nam, vì sao?

Hôm thứ ba Philippines bất chấp  lời kêu gọi của Trung Quốc, đã đưa ra toà xét xử 9 ngư dân Trung Quốc đánh bắt rùa biển trong hải phận tranh chấp, tuyên phạt mỗi người 102 ngàn đô la hoặc phải chịu 6 tháng tù.  Hình như Việt Nam chưa làm như vậy bao giờ, trong khi Trung Quốc vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc. Lý do vì sao?

Có thể là vì giữa Việt Nam với Trung Quốc còn có mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản cầm quyền. Hai nước đã nỗ lực giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải dựa trên mối quan hệ đó hơn là trên căn bản mối quan hệ ngoại giao thông thường. Khi đã giải quyết một cách khác thường như vậy thì cũng có thể có những cam kết khác thường mà ngoài hai đảng Cộng sản ra không ai được biết.

Nhưng giả sử có sự cam kết như vậy thì vì sao phía Trung Quốc vẫn bắt giữ tàu cá và ngư dân Việt Nam để đòi tiền chuộc mà không cần một phán quyết tư pháp nào, và Việt Nam phải đóng tiền mới chuộc được dân của mình về?

Thực ra, không thể đoan chắc hai bên có cam kết điều gì và cam kết ra sao; nhưng hành động độc đoán như vậy của Trung Quốc mới cho thấy rõ bản chất hiếp bức nước nhỏ của một xứ chuyên hành xử theo kiểu bá quyền nước lớn. Và qua đó người ta cũng thấy cái thế khó xử của Việt Nam, ở vị thế một nước nhỏ yếu hơn nhiều mà lại nằm vào vị trí “môi hở răng lạnh”, luôn luôn hứng chịu mọi sự áp chế từ hằng ngàn năm nay.

Tuy nhiên, nhìn lại, Miến Điện cũng ở vào vị trí sát cạnh nước lớn Trung Quốc không khác gì Việt Nam, nhưng tại sao Bắc Kinh không hiếp bức được như đối với Việt Nam?

Vị trí địa lý và mối quan hệ giữa Miến Điện với Trung Quốc, so ra có những điểm khác biệt rất căn bản. Trước hết về yếu tố địa chính trị,
Miến Điện không nằm ở vị trí chắn đường thuỷ lộ và vùng biển phía nam của Trung Quốc.  Địa thế biên giới Miến-Hoa rất hiểm trở, không dễ tiến quân xâm chiếm. Miến Điện vốn là một vương quốc hùng mạnh, nhiều lần có chiến tranh với Thái Lan. Cho đến thế kỷ trước Trung Quốc cũng chưa phát triển được như ngày nay, nên mãi đến nay Trung Quốc mới nhắm vào Miến Điện vì cần đầu tư vào những đập thủy điện ở Miến, và muốn có những căn cứ nhìn ra Ấn Độ Dương.

Trong khi đó giữa Việt Nam với Trung Quốc, ngày nay thì mang nặng mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản, và từ xưa đã có những đặc tính văn hoá, xã hội, văn minh, chủng tộc gần gũi. Dân tộc Lạc Việt vốn thuộc giòng Bách Việt, là chủng tộc phát xuất từ chủng Nam Á từng chiếm hữu từ Indonesia đến  bờ nam sông Dương tử. Chủng Nam Á hình thành từ sự hoà nhập cách nay 5 ngàn năm giữa chủng Cổ Mã Lai và Đại chủng Á từ phía bắc sông Dương Tử tràn xuống. Vì thế dân tộc Việt và dân tộc Nam Trung Hoa có nguồn gốc chủng tộc rất gần gũi, cho nên  người Trung Hoa luôn luôn muốn thu phục chủng tộc Việt mà họ coi là cùng nguồn gốc với họ. Ngược lại, người Việt, vào những thời kỳ hưng thịnh và chiến thắng như trong triều đại ngắn ngủi của vua Quang Trung, nhà vua cũng từng ngỏ ý muốn chiếm lại lãnh thổ cổ xưa của Việt tộc từ Lưỡng Quảng rồi lấn dần tới bắc Hồ Nam, vì cổ sử của Việt Nam ghi rõ Động Đình Hồ trên sông Dương tử là nơi phát xuât truyền thuyết Lạc Long Quân.

Như vậy ta mới thấy mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rất tế nhị và cũng rất phức tạp, vừa thân thiết như cùng huyết thống vừa hận thù nhau truyền kiếp, khiến Việt Nam luôn luôn phải chịu cái ách và phải giải cái ách bành trướng xâm lấn của Trung Quốc từ ngày lập nước Văn Lang cách nay mấy ngàn năm.

Không thể chung đường

Dù sao chăng nữa, đó cũng không phải lý do Trung Quốc đòi cưỡng chiếm cả biển Đông, và không phải chỉ biển Đông mà còn cả thị trường châu Á và xa hơn nữa, theo con đường tơ lụa thế kỷ 21 mà Bắc Kinh đang quảng bá.

Muốn thế, Trung Quốc phải tìm mọi cách không chế Nhật Bản và đẩy bật ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ ra khỏi châu Á. Có phải nhân lúc Hoa Kỳ vướng bận ở Trung Đông và Ukraine, mà Chủ tịch Tập Cận Bình vừa khai mào cuộc phản công ở hai hội nghị thượng đỉnh APEC và G-20?  Trong khi Hoa Kỳ còn “mắc cạn” với Hiệp định TPP cho thị trường tự do châu Á Thái Bình Dương thì ông Tập Cận Bình tung ra đề nghị về FTAAP tạo thị trường tự do cho cả 21 quốc gia APEC. Sau đó ở Brisbane, Australia, hai nhà lãnh đạo Úc-Hoa hân hoan công bố hiệp ước thị trường tự do song phương, trong ý đồ rõ ràng của Bắc Kinh nhằm lôi kéo châu Đại dương ra khỏi mối quan hệ với Hoa Kỳ cùng liên minh quân sự Mỹ-Nhật-Úc-Ấn được cho là đang manh nha hình thành.

Tử những hành động của Trung Quốc, khung cảnh thế giới ngày nay tựa như tình hình thế giới hồi gần giữa thế kỷ 20  khi các thế lực quân sự kinh tế hùng mạnh đi đến chỗ đối đầu nhau, tranh giành thuộc địa, giành thị trường, nguồn nguyên liệu, khởi phát chiến tranh…

Nhưng vẫn còn mối hy vọng rằng ngày nay thế giới đã học được nhiều bài học lớn về chiến tranh trong thế kỷ 20, con người cũng lãnh hội được bài học về tinh thần thực tế, không đặt nặng lý tưởng về chủ nghĩa, hay quốc gia, chủng tộc, tôn giáo. Tinh thần thực tế là ý hướng theo đuổi cuộc sống hoà bình, thịnh vượng, hạnh phúc bằng mọi cách, mọi giá, không đặt nặng tự ái dân tộc, quốc gia, chỉ nhắm tới phúc lợi kinh tế và cuộc sống hưng vượng. Ngoại trừ những khu vực ở Trung Đông và Phi châu còn bị kích động và ép buộc bởi những kẻ hoạt đầu chính trị, tôn giáo cực đoan, còn hầu hết Âu Á Mỹ chỉ nhắm đến cạnh tranh kinh tế trong hoà bình như mục tiêu hàng đầu.

Tuy vậy, trở lại vấn đề biển Đông, người ta thấy có nhiều điều kém lạc quan vì chính sách bành trướng ngang nhiên của Trung Quốc.

Tuần qua Philippines đã hành động rất tế nhị và khôn khéo. Khi đưa ngư dân Trung Quốc ra tòa xử, Philippines đã giữ được thể diện quốc gia và cho Trung Quốc thấy rõ lập trường bảo vệ chủ quyền, đồng thời khi tuyên phán một bản án để có thể thả ngay các bị cáo, Manila vẫn tỏ ra chấp thuận và thi hành yêu cầu của Bắc Kinh đòi trả tự do vô điều kiện cho ngư dân của họ.

Tuy nhiên, nói đến cạnh tranh hoà bình, người ta thấy những hành động nhằm giải quyết hoà bình của Philippines và Việt Nam không hề ngăn được Trung Quốc trong sách lược vươn cánh tay dài ra tới Trường Sa, nằm trong chiến lược bành trướng xa hơn nữa để thực hiện con đường tơ lụa thế kỷ 21. Trung Quốc đang bồi đắp đá Chữ Thập mà họ chiếm của Việt Nam ở Trường Sa thành căn cứ có sân bay và hải cảng, cùng lúc cũng tân tạo nhiều cồn đá thành đảo lớn và những căn cứ kiên cố ở giữa Trường Sa, sau khi Đài Loan tái tạo đảo Ba Bình thành căn cứ quân sự có đường băng cho máy bay lên xuống.
Cùng lúc, tại Diễn đàn Hương Sơn ở Bắc Kinh, Trung Quốc cao giọng quảng bá cho cái gọi là cấu trúc an ninh mới dựa trên quan niệm “người châu Á lo việc an ninh cho châu Á”.

Mùi khói súng?

Song song với màn khai pháo kinh tế thương mại ở thượng đỉnh APEC và G-20, có phải Bắc Kinh đang mở màn trận phản công chiến lược và quyết đẩy Hoa Kỳ ra khỏi châu Á?

Hoa Kỳ dường như đã dự phòng tình huống nay từ khi thực thi chiến lược chuyển trục sang châu Á. Nhưng Bộ trưởng quốc phòng Chuck Hagel lại vừa từ chức sau những trì trệ về an ninh quốc phòng ở Iraq, Afghanistan, giữa lúc Liên Bang Nga quyết tâm giành chiếm Crimea và đông Ukraine. Bộ trưởng Hagel là người thay mặt cho Hoa Kỳ khẳng định chính sách chuyển trục sang châu Á trong những lúc hành pháp Mỹ không rảnh tay để khẳng định lập trường ở những hội nghị liên quan đến an ninh quốc phòng châu Á. Sự ra đi của ông khiến dậy lên mối lo ngại Hoa Kỳ lơ là vói châu Á vì tình hình Trung Đông và Ukraine.

Tuy nhiên, xét lại, chính sách chuyển trục ấy đã được hình thành từ trước nhiệm kỳ của Tổng thống Obama, nhưng chỉ được chính thức công bố cách nay ba năm. Bộ trưởng Hagel từng thay mặt hành pháp Mỹ khẳng định chính sách chuyển trục, chính điều đó đã nói lên rằng Hoa Kỳ không lúc nào lơ là với châu Á.

Vậy phải chăng nay là lúc Hoa Kỳ điều chỉnh, củng cố chiến lược an ninh quốc phòng để hỗ trợ chính sách kinh tế thương mại nhằm giành thị trường ở châu Á, đối đầu với Trung Quốc, đồng thời củng cố phòng thủ châu Âu?

Mùi khói súng dường như phảng phất đâu đây. Trung Quốc phát triển hùng mạnh và nhanh chóng không khác Đức, Nhật thời xưa, gợi lại ký ức rất mới của loài người về những cuộc chiến tranh giành chiếm thuộc địa và thị trường từ cuối thập niên 1930.  Đức vươn nhanh như Phù Đổng chỉ trong hơn hai thập niên sau thể chiến thứ nhất, rồi khai chiến ở châu Âu, sau đó Nhật tung quân chiếm các thuộc địa của Anh-Pháp-Mỹ ở Đông Nam Á, các hạm đội hàng không mẫu hạm dưới bóng cờ Mặt Trời tung hoành khắp Thái Bình Dương… Cho đến năm 1945 thì khởi đầu cuộc chiến tranh lạnh, mà Việt Nam là một xứ sở nạn nhân, mãi đến 1975 mới tắt đi mồi lửa nồi da xáo thịt. Nhưng người Việt lại tiếp tục đổ máu vì Trung Quốc, do hậu quả của những sai lầm tồn tại từ thời chiến tranh lạnh, trong khi mối thương đau của dân tộc chưa hề có dấu hiệu ngưng lành.

ĐTC: Chán nản và hy vọng

ĐTC: Chán nản và hy vọng

Chuacuuthe.com

VRNs (28.11.2014) -Sài Gòn-  theo news.va- Sẽ có những điều tồi tệ, nhưng bất chấp đau khổ, sự thối nát và dửng dưng trong thế giới ngày nay là Kitô hữu chúng ta phải ngẫng cao niềm hy vọng. Đó là ý chính trong bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô vào thánh lễ sáng thứ Năm, 27,11 tại nguyện đường Santa Marta.

0

Dựa trên các bài đọc trong ngày (x.Kh 18, 21-23; Lc 21, 20-28), Đức Thánh Cha Phanxicô nói về số phận của hai thành phố Babylon và Jerusalem. ĐTC nói rằng cả hai bài đọc từ sách ​​Khải Huyền và bài Tin Mừng của Thánh Luca đều đề cập đến thời kỳ cuối của thế giới này.

ĐTC lưu ý rằng các  bài đọc nói về sự sụp đổ của hai thành phố vì đã từ chối đón nhận Chúa và dạt xa Ngài. Sự sụp đổ của hai thành phố vì những lý do khác nhau. Babylon là “biểu tượng của sự dữ, của tội lỗi” và Jerusalem “rơi vào sự thối nát”. Cả hai thành phố tự hào mình là “kinh thành của thế giới”. Khi “tội lỗi chất chứa thì người ta sẽ mất khả năng chống trả và đưa đến sụp đổ”. Điều này đã xảy ra với Jerusalem nơi “những kẻ thối nát, những người không còn sức mạnh để chống trả”.

Bởi vì sự thối nát cho người ta hoan lạc. Nó quyến rũ con người làm cho họ cảm thấy hài lòng với chính mình. Nhưng nó không còn chỗ cho Chúa, cho sự ăn năn hoán cải. Thành phố này đã trở nên thối nát … Từ “thối nát’ nói với chúng ta rất nhiều điều. Không chỉ thối nát trong tham nhũng về kinh tế, nhưng còn thối nát với nhiều tội khác nhau, thối nát của tinh thần vô đạo, tinh thần thế gian!

Nền “văn hóa thối nát” làm cho người ta cảm thấy như thể đang ở trên thiên đường tại thế” nhưng “bên trong đã ra hôi thối”. Babylon là biểu tượng cho “một xã hội, một nền văn hóa mà người ta tách mình ta khỏi Thiên Chúa. Họ tách ra khỏi tình yêu của tha nhân và hậu quả đưa đến thối nát đổ vỡ”.

Còn sự sụp đổ của Jerusalem lại “vì lý do khác”. Jerusalem là hôn thê của Thiên Chúa, nhưng lại không đón nhận Đấng Phu Quân của mình”.

Babylon sụp đổ vì ra thối nát.. Jerusalem vì mất đi căn tính của mình, đã không tiếp rước Chúa, Đấng đến để giải thoát mình. Nàng dâu này không thấy cần đến ơn cứu độ. Jerusalem chỉ dựa vào luật của Mosê và lấy thế làm đủ. Nhưng chính thái độ nệ luật ấy đã đưa Jerusalem đến chỗ tự mãn, không cần đến ơn cứu độ. Họ đã đóng cửa lòng không để Chúa đến. Ngài đã đến gõ cửa nhà nhưng người nhà đã không tiếp nhận Ngài. Họ đã  không lắng nghe tiếng Ngài hầu được cứu sống. Và vì vậy Jerusalem bị sụp đổ.

Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng sự sụp đổ của hai thành này giúp chúng ta suy nghĩ về thái độ sống của chính chúng ta. Chúng ta có “thối nát như Babylon và tự mãn như Jerusalem” không?

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “các sự điệp Lời Chúa trong những ngày này không kết thúc với sự hủy diệt. Trong cả hai bài đọc, có lời hứa của  niềm hy vọng”. Chúa Giêsu giúp sức cho ta để không phải “sợ hãi trước những kẻ vô đạo.” Đồng thời ban cho ta sức mạnh để chịu đựng trong sự kiên nhẫn, như Chúa đã phải chịu đựng cuộc khổ nạn của Ngài.

Khi chúng ta nghĩ về điểm kết thúc của thời gian, với tất cả những tội lỗi của chúng ta, lịch sử của chúng ta, chúng ta hãy nghĩ đến bàn tiệc đang chuẩn bị cho chúng ta và chúng ta hãy ngẫng đầu lên vì sắp được cứu độ. Đừng để cho sự lo âu xâm chiếm tâm hồn! Đừng đánh mất niềm hy vọng! Thực tế sẽ có những tai họa: có rất nhiều, xảy đến cho nhiều người, nơi các thành phố và dân chúng, rất nhiều người sẽ phải chịu cảnh đau khổ, có nhiều cuộc chiến tranh xảy ra, rất nhiều thù hận, rất nhiều ghen tị, rất nhiều tinh thần thế gian và rất nhiều sự thối nát. Vâng, đó là sự thật! Tất cả những điều này sẽ xảy ra! Chúng ta hãy nài xin Chúa ban ơn để biết sẵn sàng chuẩn bị bàn tiệc đang đón đợi chúng ta. Và luôn luôn biết ngẫng cao đầu và đứng thẳng lên vì chúng ta sắp được cứu chuộc.

Hoàng Minh

“Vào buổi xế chiều của cuộc sống, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu”

“Vào buổi xế chiều của cuộc sống, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu

WHĐ (24.11.2014) – Sáng Chúa nhật 23-11 vừa qua tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ trọng thể mừng Chúa Kitô Vua Vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ,. Trong phần đầu Thánh lễ, trước khoảng 50.000 giáo dân, Đức Thánh Cha đã tuyên thánh cho sáu Chân phước người Ấn Độ và người Ý.

Nguyên tắc sống: gần gũi và dịu dàng

Trong bài giảng lễ, Đức Thánh Cha nêu ra nguyên tắc sống của người Kitô hữu: “Cũng như Chúa Giêsu thiết lập Triều đại của Người bằng ‘sự gần gũi và sự dịu dàng’, thì đó cũng phải là ‘nguyên tắc sống’ của các Kitô hữu. Ơn cứu độ không bắt đầu bằng việc tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô, mà bằng hành động noi theo lòng thương xót của Người”.

“Vào cuối đời, chúng ta sẽ chịu xét xử về tình yêu thương, sự gần gũi và dịu dàng đối với người anh em của chúng ta. Chúng ta được vào Nước Trời hay không tùy thuộc vào những điểm này”. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên nhủ: “Đừng để những quyến rũ trần thế và chóng qua làm phân tâm chúng ta”.

Trên con đường này, người Kitô hữu đã may mắn có sẵn chiếc la bàn hướng dẫn trong dụ ngôn ở chương 25 của Thánh Mathêu mời gọi chúng ta “trở nên gần gũi với người anh em một cách cụ thể, khi họ cần bánh ăn, cần áo mặc, cần được tiếp đón, cần tình liên đới”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Chúa Giêsu đã mở ra Vương quốc của Người, nhưng để được vào Vương quốc ấy, chúng ta phải bắt đầu ngay từ cuộc sống này, bằng cách thực thi những công việc trên. Và tình yêu thương dành cho người anh em thúc đẩy chúng ta chia sẻ với họ những gì quý giá nhất, nghĩa là chính Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người”.

Tình yêu có sức sáng tạo vô song

Đức Thánh Cha cũng nhắc đến 6 vị thánh mới được tôn phong vào đầu Thánh lễ:

2 vị người Ấn Độ: Cha Kuriakose Elias Chavara Thánh gia (1805-1871), linh mục Dòng Cát Minh, sáng lập Dòng Cát Minh Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội và Chân phước Euphrasie Eluvathingal Thánh Tâm Chúa Giêsu (1877-1952), Dòng Chị em Đức Bà Cát Minh; và 4 vị người Ý: Đức giám mục Giovanni Antonio Farina (1803-1888), giám mục giáo phận Vicenza (Italia), sáng lập Dòng Chị em “Thánh Đôrôthêa Hai Thánh Tâm”; cha Ludovico de Casoria (1814-1885), Dòng Phanxicô, sáng lập Dòng Nữ tu Phanxicô Êlisabeth; thầy Nicola de Longobardi (1650-1709), Dòng Anh em hèn mọn thánh Phanxicô  Paola; Amato Ronconi (1226-1292), Dòng ba Phanxicô, thành lập Dưỡng đường dành cho Người hành hương nghèo ở Saludecio (Rimini).

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng 6 vị thánh mới của chúng ta “đã thực thi điều răn mến Chúa yêu người một cách hết sức sáng tạo. Các ngài đã hiến dâng cả đời mình chẳng so đo tính toán cho những người rốt hết, khi giúp đỡ người nghèo khổ, người đau ốm, người già cả, người lữ hành. Các ngài đã chọn lựa sống phục vụ người bé mọn và người nghèo túng, và đó chính là phản ánh và là thước đo tình yêu của các ngài dành cho Thiên Chúa”.

An Phú Sĩ

Nhận biết Ý Chúa

Nhận biết Ý Chúa

Chuacuuthe.com

VRNs (28.11.2014) – Sài Gòn – Nhận biết Ý Chúa là điều không dễ. Mà nhận biết rồi có vui vẻ chấp nhận hay không là việc khó, vì chúng ta thường không bằng lòng với những gì không hợp ý mình. Lời “xin vâng” của Đức Maria xem chừng dễ dàng quá, nhưng thực ra không phải vậy. Đức Mẹ mau mắn “xin vâng” vì Đức Mẹ yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vậy Thiên Chúa có cách chọn lựa đúng trong điều tôi quyết định?

141126005

Khi chúng ta xin ơn khôn ngoan để nhận biết Ý Chúa để chọn người bạn đời, nghề nghiệp, công việc, trường học, bạn bè,… hoặc bất kỳ điều gì, dù lớn hay nhỏ, khi đó có hai con đường khác nhau trước mắt chúng ta và chúng ta phải chọn lựa, Thiên Chúa có luôn là một con đường cho chúng ta? Nếu vậy, làm sao nhận biết?

Nhiều Kitô hữu “vật lộn” với vấn đề này vì không biết rằng các Kitô hữu ngày xưa có thể giúp chúng ta bằng kinh nghiệm của họ. Sự khôn ngoan Kitô giáo thể hiện qua đời sống và giáo huấn của các thánh cho chúng ta biết hai điều thích hợp với vấn đề này.

Thứ nhất, họ cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa không chỉ biết và yêu thương chúng ta mà còn quan tâm từng chi tiết trong cuộc đời chúng ta, và chúng ta tìm theo Ý Chúa trong mọi sự, dù lớn hay nhỏ. Thứ hai, họ cho chúng ta biết rằng Ngài ban cho chúng ta sự tự do và lý luận vì Ngài muốn chúng ta dùng để quyết định. Truyền thống này được minh họa qua câu châm ngôn nổi tiếng của Thánh Augustinô: “Hãy yêu mến Chúa, rồi cứ làm những gì bạn muốn”. Nói cách khác, nếu bạn thực sự yêu mến Ngài và theo ý Ngài, bạn có thể làm bất cứ điều gì, vì đó là làm theo Ý Chúa.

Làm theo hai lời khuyên này sẽ đưa mình vào hai hướng trái chiều hoặc chỉ có vẻ như thế? Có sự thật trong cả hai, điều mà chúng ta nhấn mạnh để giải quyết vấn đề xem Chúa có muốn cho chúng ta hay không?

Tôi nghĩ về cách thứ nhất và câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này là còn tùy vào người yêu cầu. Chúng ta có xu hướng nhấn mạnh một nửa sự thật, và chúng ta có thể làm điều đó trong hai cách. Mọi tà thuyết trong lịch sử thần học đều hợp với kiểu này. Chẳng hạn, nhấn mạnh thần tính của Đức Kitô hơn nhân tính hoặc ngược lại; hoặc nhấn mạnh quyền tối cao của Chúa hơn ý muốn tự do hoặc ngược lại.

Đây là 5 nguyên tắc chung để nhận biết Ý Chúa về mọi vấn đề:

1. Luôn bắt đầu với các dữ liệu, những gì chúng ta biết chắc. Nhờ cái đã biết mà đoán cái chưa biết, nhờ cái chắc chắn mà đoán cái không chắc. Ađam và Eva đã coi thường nguyên tắc này ở Vườn Địa Đàng, làm ngơ lệnh truyền của Thiên Chúa và lời cảnh báo về lời hứa hảo huyền của ma quỷ.

2. Hãy để con tim điều khiển cái đầu. Hãy để lòng yêu mến Thiên Chúa hướng dẫn lý lẽ trong việc tìm Ý Ngài. Chúa Giêsu đã dạy người Pharisêu về nguyên tắc này: Họ hỏi Chúa Giêsu về cách hiểu lời Ngài, và Ngài đưa ra nguyên tắc đầu tiên về khoa chú giải (hermeneutics): “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. Ai muốn làm theo ý của Người thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy. Ai tự mình giảng dạy thì tìm vinh quang cho chính mình. Còn ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy không có gì là bất chính” (Ga 7:16-18). Các thánh hiểu Kinh Thánh hơn các thần học gia, vì họ biết tác giả Kinh Thánh là chính Thiên Chúa, bằng cách yêu mến Ngài bằng cả linh hồn và trí khôn.

3. Hãy mềm lòng chứ đừng cứng lòng. Chúng ta nên “khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu”, tinh thông như con cáo về tư tưởng trung thành như con chó trong ý muốn và hành động. Mềm lòng không có nghĩa là nhẹ dạ, và cứng đầu không có nghĩa là cứng lòng. Lòng chúng ta nên sẵn sàng “rỉ máu” và đầu chúng ta nên “giữ vững lập trường”.

4. Các dấu chỉ của Chúa theo dạng lượng giác học (trigonometry). Có ít là bảy dấu chỉ: (1) Kinh Thánh, (2) Giáo huấn của Giáo hội, (3) Lý lẽ của con người (do Thiên Chúa tạo nên), (4) Tình huống thích hợp (mà Ngài kiểm soát bằng sự quan phòng), (5) Lương tâm, biết đúng hay sai, (6) Ước muốn, bản năng hoặc xu hướng cá nhân, và (7) cầu nguyện.

Hãy trắc nghiệm sự chọn lựa bằng cách đặt mình trước mặt Chúa. Nếu một trong bảy điều nói KHÔNG thì đừng làm, nếu không điều nào nói KHÔNG thì cứ làm theo.

5. Hãy tìm kiếm hoa trái của Thánh Thần, nhất là ba điều này: Yêu thích, vui mừng, và bình an. Nếu chúng ta bực tức và lo lắng, không thích, không vui và không bình an, chúng ta không có quyền nói rằng chúng ta chắc chắn an toàn theo Ý Chúa. Sự nhận thức không nên cứng ngắc (nhắc), nông nổi, nóng vội, nhưng phải cảm thấy yêu thích, vui mừng và bình an – vì đó là một phần Ý Chúa đối với chúng ta, giống như trò chơi hơn là cuộc chiến, giống như viết thư tình hơn là thi tốt nghiệp.

Bây giờ đối với vấn đề của chúng ta. Thiên Chúa có chọn lựa đúng cho tôi? Nếu đúng, tôi phải tìm kiếm. Nếu không, tôi nên thoải mái hơn và chịu thiệt một chút.

Đây là 5 gợi ý trả lời: Câu trả lời tùy theo bạn là loại người nào. Tôi cho rằng nhiều dạng: (1) Công giáo, (2) những người chính thống và trung tín với các giáo huấn của Giáo hội, (3) những người bảo thủ, và (4) những người bị lôi cuốn. Tôi có nhiều người bạn – bạn tình cờ, bạn thân, và bạn rất thân – về dạng này trong nhiều năm. Thật vậy, tôi hợp với cách của tôi. Vì thế tôi nói theo kinh nghiệm khi tôi cho rằng những người thuộc dạng này có xu hướng mạnh về dạng tính cách nào đó – không tốt cũng không xấu – cần được nuôi dưỡng bằng một cách nhấn mạnh hơn cách khác. Dạng tính cách đối lập cần sự nhấn mạnh đối lập.

Dựa vào việc quan sát riêng về loại người này, gợi ý đầu tiên của tôi là chúng ta thường có xu hướng định hình theo ước muốn tốt để tìm Ý Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta đưa ra chứng cớ khủng khiếp đối với người không là Kitô hữu; chúng ta có vẻ không thoải mái để dừng lại ngửi những bông hồng của Chúa, để tận hưởng cuộc sống theo như Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta thường sợ hãi, bực bội, quan trọng hóa, thiếu khôi hài, và dễ tức giận. Tóm lại, đó là dạng “tiếp thị” không tốt cho Đức Tin của chúng ta.

Tôi không đề nghị chúng ta thỏa hiệp một chút đức tin để hấp dẫn những người không có đức tin. Tôi chỉ đề nghị chúng ta làm người. Cứ đi xem bóng đá. Cứ nhậu một chút, nếu biết uống. Đôi khi cũng cứ ngớ ngẩn một chút. Cứ thọc lét con cái và cùng vui vẻ. Hãy kể chuyện cười. Nói chung là cứ sống bình thường.

Đây là gợi ý thứ hai. Đa số các Kitô hữu, kể cả những người đạo đức, không biết những gì cần biết, đó là biết Ý Chúa qua từng cách chọn lựa của chúng ta. Hiếm lắm. Có thể điều gì đó quan trọng hơn là hiếm chăng? Có thể Thiên Chúa đã bỏ mặc chúng ta mà không gợi ý chăng?

Gợi ý thứ ba là Kinh Thánh. Trong đó có mọi tấm gương – đa số kỳ diệu, nhiều gương ngoạn mục – về việc Thiên Chúa mặc khải Thánh Ý Ngài. Nhưng các điều này được kể là mầu nhiệm: điều gì đó phi thường, chứ không chung chung.

Bóng tối và sự không chắc chắn thường xảy ra trong cuộc đời các thánh, kể cả đau khổ và nghèo nàn. Điều duy nhất phổ biến đối với nhân loại là Phúc Âm bảo đảm giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi (hậu quả của tội lỗi là chết chóc, sai lầm, sợ hãi), khỏi đau khổ và khỏi sự bất trắc. Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta biết rõ ràng và không sai lầm, chắc chắn Ngài sẽ nói với chúng ta một cách rõ ràng và dứt khoát.

Gợi ý thứ tư là điều Thiên Chúa ban cho chúng ta: Sự tự do. Tại sao? Có một số lý do chính đáng. Chẳng hạn, để tình yêu của chúng ta có thể có giá trị hơn so với tình yêu theo bản năng, cảm xúc động vật không tự do. Nhưng tôi nghĩ có lý do khác. Là một giáo viên, tôi biết thi thoảng tôi cũng nên từ chối trả lời học sinh để chúng cố gắng tự tìm đáp án, như vậy chúng mới có thể ghi nhớ và tự đánh giá tốt hơn, đồng thời chúng cũng biết cách tập phán đoán khi tìm câu trả lời. Cho ai con cá thì rồi bạn phải nuôi họ suốt đời, cho ai cần câu và dạy họ câu cá là bạn nuôi họ cả đời rồi. Thiên Chúa ban cho chúng ta một số cá lớn, nhưng Ngài cũng ban cho chúng ta quyền tự do bắt cá nhiều hoặc ít.

Lý lẽ và tự do luôn đi đôi với nhau. Thiên Chúa tạo dựng cả hai giống như Ngài. Ngài mặc khải cho cả hai: dự đoán đối với lý lẽ và mệnh lệnh đối với ý chí. Nhưng khi Ngài không cho chúng ta câu trả lời, dù chỉ là lý thuyết, khi áp dụng cách dự đoán hoặc suy luận, như vậy Ngài cũng không cho chúng ta câu trả lời về luân lý hoặc hướng dẫn cụ thể, khi áp dụng mệnh lệnh hoặc kết luận. Ngài ban cho chúng ta lý trí và luân lý để thực hiện, và chắc chắn Ngài không vui khi chúng ta chôn giấu “nén tài năng” mà không “đầu tư” để Ngài thấy chúng ta sinh lời khi Ngài trở lại.

Về giáo dục, tôi biết luôn có hai thái cực. Bạn có thể quá tân thời, quá thực nghiệm, quá triết lý, quá nguyên tắc hoặc quá dễ dãi. Nhưng bạn cũng có thể quá cổ hoặc quá cứng rắn. Học sinh cũng cần sáng kiến, sáng tạo và nền bản. Luật Chúa rất ngắn gọn. Ngài ban cho chúng ta Mười Điều Răn, chứ không trăm hoặc ngàn điều răn. Tại sao? Vì Ngài muốn sự tự do và sự biến đổi. Tại sao bạn nghĩ Ngài tạo dựng quá nhiều người? Tại sao không dựng một vài người? Vì Ngài thích các tính cách khác nhau. Ngài muốn ca đoàn của Ngài đồng ca chứ không hợp xướng (but not in unison).

Tôi biết các Kitô hữu muốn tự biết mình nhiều để có thể quyết định xem cái nào chính xác là Ý Chúa muốn đối với họ. Tôi nghĩ như vậy tốt hơn là nghĩ về Thiên Chúa và người lân cận nhiều, còn chỉ ít nghĩ hoặc không nghĩ về mình, theo bản năng mà không muốn biết gì thêm. Nếu bạn yêu mến Chúa và hành động theo Luật Chúa, tôi nghĩ Ngài muốn chúng ta thư giãn một chút đấy.

Tôi rất ấn tượng với hình ảnh hàng rào quanh sân chơi của Chesterton ở trên núi, trẻ em trong đó có thể chơi đùa mà không sợ rơi xuống vực thẳm. Đó là lý do Thiên Chúa ban Lề Luật cho chúng ta: Không làm chúng ta âu lo nhưng giữ an toàn cho chúng ta để chúng ta có thể thoải mái với những trò-chơi-cuộc-đời, vui vẻ và yêu thương.

Mỗi chúng ta đều có những năng khiếu và ước muốn khác nhau, nhưng đã bị nhiễm tội – nhiễm cả vào lý luận và cơ thể của chúng ta. Chúng ta thường theo bản năng thể lý (như sự đói khát và phản xạ tự vệ) và bản năng trí tuệ (như tính tò mò và lý luận). Tôi nghĩ Ngài muốn chúng ta theo con tim. Chắc chắn là vậy, nếu Thành yêu Tâm hơn yêu Mai, anh ta có lý để nghĩ rằng Thiên Chúa đang muốn anh ta kết hôn với Tâm hơn là với Mai. Tại sao chúng ta không xử lý các chọn lựa khác theo quy luật tương tự?

Dĩ nhiên tôi không nói rằng chúng ta hoàn toàn không sai lầm. Tôi cũng không nói rằng chúng ta chỉ có thể theo lý lẽ của con tim. Trên đây tôi đã đưa ra 7 hướng dẫn. Nhưng chắc rằng chính Thiên Chúa đã “thiết kế” trái tim chúng ta – trái tim tinh thần với ước muốn và ý hướng nhiều hơn trái tim thể lý với động mạch chủ và các van bơm. Cha mẹ chúng ta phạm tội và hướng dẫn sai lầm, nhưng Thiên Chúa ban họ cho chúng ta để chúng ta theo. Như vậy, trái tim cũng đáng theo mặc dù nó cũng đầy tội lỗi và sai lầm. Nếu trái tim chúng ta yêu mến Chúa thì đáng theo lắm. Nếu nó không yêu mến Chúa thì bạn đừng quan tâm vấn đề nhận biết Ý Chúa.

Đây là gợi ý thứ năm. Khi chúng ta theo lời khuyên của Thánh tiến sĩ Augustinô là “cứ yêu mến Chúa đi, rồi cứ làm những gì bạn muốn”, chúng ta thường có kinh nghiệm về nỗi buồn và sự bình an. Bình an là dấu ấn của Chúa Thánh Thần.

Tôi biết có vài người rời bỏ Kitô giáo vì họ thiếu sự bình an. Họ cố gắng trở thành “siêu Kitô hữu” về mọi thứ, và họ phải chịu áp lực. Họ nên đọc thư của Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Ga-lát.

Đây là gợi ý thứ sáu. Nếu Thiên Chúa có cách chọn đúng trong mọi điều bạn làm, bạn có thể rút kinh nghiệm. Nghĩa là Thiên Chúa muốn bạn biết căn phòng nào sạch nhất, phòng bếp hay phòng ngủ, và nên lấy cái dĩa nào trước, dĩa thịt hay dĩa nước chấm. Bạn thấy đó, nếu bạn thực hiện ẩn ý hợp lý của nguyên tắc này, điều đó sẽ buồn cười, không ổn, và không biết Chúa muốn chúng ta sống cách nào – cách được diễn tả trong Kinh Thánh và cuộc đời của các thánh.

Gợi ý thứ sáu là nguyên tắc có nhiều điều tốt. Nhưng đối với người nào đó, vẫn thường có vài cách chọn lựa đều tốt. Cái tốt là kính vạn hoa (kaleidoscopic), đa sắc biến đổi. Có nhiều con đường đúng. Con đường dẫn tới biển là đúng và con đường dẫn tới núi cũng đúng, vì Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi chúng ta ở cả hai nơi. Sự thiện có nhiều màu sắc. Chỉ có điều ác mới thiếu màu sắc và biến ảo. Trong Hỏa ngục không có màu sắc, không có tính cách cá nhân. Các linh hồn tan chảy như chì, hoặc bị nhai nghiến trong miệng của Quỷ vương. Hai nơi giống nhau trên thế gian là nhà tù và nơi thù hận, không như nhà thờ.

Có những cách chọn lựa đều tốt như nhau. Ví dụ, tình dục trong hôn nhân. Khi bạn sống trong Luật Chúa – không ngoại tình, không độc ác, không ích kỷ, không hành động bất thường (kế hoạch, dùng biện pháp ngừa thai) – thì mọi thứ đều “suôn sẻ”. Bạn thử tưởng tượng đi. Có phải Chúa muốn bạn ân ái với người bạn đời không? Đúng là một câu hỏi ngớ ngẩn! Thế nhưng ân ái với người bạn đời là điều tuyệt vời, là Ý Chúa đấy. Ngài muốn bạn làm những gì bạn muốn để người bạn đời biết đó là bạn chứ không phải ai khác.

Gợi ý thứ bảy là chính kinh nghiệm của tôi. Lần đầu tiên tôi viết tiểu thuyết, tôi biết cách viết. Đầu tiên, tôi trao phó cho Chúa, tôi nói với Ngài rằng tôi muốn viết về Nước Trời, và tôi tin Ngài hướng dẫn tôi. Sau đó, tôi theo sự hứng thú của tôi, cả bản năng và tiềm thức. Tôi cứ để mạch truyện chảy đi và các nhân vật cứ là chính họ. Thiên Chúa không khởi đầu hoặc kết thúc cho tôi. Ngài không làm gì cho tôi. Nhưng Ngài vẫn ở đó, giống như người cha hoặc người mẹ tốt.

Tôi nghĩ rằng cuộc đời chúng ta như một cuốn truyện. Chúng ta viết truyện về chính cuộc đời mình và chính mình (vì chúng ta tự định hình bằng cách chọn lựa, giống như bức tượng là chủ của điêu khắc gia vậy). Dĩ nhiên, Thiên Chúa là tác giả thứ nhất, là điêu khắc gia thứ nhất. Nhưng Ngài dùng những con người khác nhau để có những tác phẩm khác nhau. Ngài là tác giả từng cuốn trong bộ Kinh Thánh, nhưng tính cách của mỗi tác giả phàm nhân diễn tả theo văn chương phàm tục.

Thiên Chúa là người kể chuyện hoàn vũ. Ngài muốn các câu chuyện khác nhau. Ngài muốn bạn biết ơn Ngài về câu chuyện duy nhất từ ý muốn tự do và sự quyết định của bạn. Vì ý muốn tự do của bạn và kế hoạch đời đời của Ngài không là hai điều cạnh tranh, mà là hai phương diện của một vấn đề. Chúng ta không thể hiểu hết mầu nhiệm này trong cuộc đời mình, vì chúng ta chỉ thấy mặt dưới của tấm thảm. Nhưng tôi nghĩ rằng, một trong những điều ở trên trời là chúng ta sẽ chúc tụng và cảm tạ Chúa vì Ngài đã không để chúng ta nắm vô-lăng cuộc đời của mình – giống như cha mẹ dạy con cái lái xe vậy. Nếu không thì…! Thì sao? Bạn thấy Ý Chúa tuyệt vời không nào?

Khi cho chúng ta tự do, Thiên Chúa nói: “Mong ý con được trọn vẹn”. Một số người trong chúng ta quay lại và nói với Ngài: “Con muốn ý con sẽ được trọn vẹn”. Đó là vâng lời lệnh truyền thứ nhất và là lệnh truyền quan trọng. Rồi khi chúng ta làm vậy, Ngài nói với chúng ta: “Bây giờ, ý con được trọn vẹn”. Rồi Ngài viết câu chuyện về cuộc đời chúng ta bằng những nét tự do của chúng ta.

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo IntegratedCatholicLife.org)

Mùa Vọng: Tỉnh thức và Cầu nguyện

Mùa Vọng: Tỉnh thức và Cầu nguyện

Chuacuuthe.com

VRNs (28.11.2014) – Sài Gòn – Cộng đoàn Taizé (Pháp) nổi tiếng về cách cầu nguyện, khuyến khích suy niệm Kinh Thánh, với các bài thánh ca diễn tả lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Dầu trước khi chịu khổ nạn. Ca từ lặp đi lặp lại: “Hãy ở lại với Thầy, hãy ở lại đây với Thầy, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, hãy tỉnh thức và cầu nguyện…”.

Lời động viên này của Chúa Giêsu cũng giống như Mùa Vọng bắt đầu bằng lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào Chúa của anh em đến” (Mt 24:42; Mc 13:33).

141126004

Mùa Vọng là thời gian mong đợi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần – và ngày Ngài tái lâm. Chúng ta hát nguyện: “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội. Maranatha! Lạy Chúa, xin hãy đến! Lạy Đấng Emmanuel, xin mau đến!”. Đấng mà chúng ta mong đợi là Thiên Chúa, là Đấng Mêsia. Ngài đến để bảo vệ chân lý, bảo vệ công lý, chứ Ngài không làm chính trị hoặc quân sự. Ngài khiêm nhường, tự hạ đến nỗi sinh làm một Hài Nhi nơi hang chiên lừa ngoài đồng hoang. Ngài vô gia cư! Còn chúng ta? Bạn làm gì trong Mùa Vọng này để chuẩn bị đón mừng Chúa giáng sinh? Đây là vài gợi ý:

TUẦN CẦU NGUYỆN GIÁNG SINH

Chúa Nhật I Mùa Vọng năm nay nhằm ngày 30 tháng Mười Một, lễ Thánh Anrê Tông Đồ. Nhiều người làm Tuần Cầu Nguyện từ ngày lễ Thánh Anrê, và cứ tiếp tục làm Tuần Cầu Nguyện vài lần cho tới lễ Giáng Sinh.

Việc cầu nguyện này giúp chúng ta chuẩn bị và hiểu biết về lễ Giáng Sinh. Mùa Vọng có lời cầu nguyện này: “Thật là hồng phúc trong giây phút Đức Trinh Nữ Maria sinh Con Thiên Chúa tại Belem vào nửa đêm, trong tiết trời giá lạnh. Lạy Thiên Chúa, xin chiếu cố chúng con, xin lắng nghe lời chúng con cầu nguyện, và ban cho chúng con trọn niềm mơ ước. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ, Con Thánh Mẫu Đồng Trinh Maria. Amen”.

KINH TRUYỀN TIN

Mỗi lần đọc Kinh Truyền Tin là chúng ta sống trong Mùa Vọng, giúp chúng ta tỉnh thức và mong chờ Con Chúa giáng sinh. Khi đọc Kinh Truyền Tin, chúng ta lặp lại lời Sứ thần Gáp-ri-en chào mừng Đức Maria, và đắm chìm vào Mầu nhiệp Nhập thể.

“Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta…”. Trong phụng vụ lễ Giáng Sinh, chúng ta quỳ gối khi đọc đến câu: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần…”. Việc quỳ gối để thể hiện lòng tôn thờ Ngôi Hai trong Mầu nhiệm Nhập thể. Đức Mẹ đã chịu cực khổ khi mong đợi Con Thiên Chúa ra đời suốt hơn 9 tháng. Cùng với Đức Mẹ, chúng ta đọc Kinh Truyền Tin để tỉnh thức với Đức Mẹ để hạnh phúc thấy Bình Minh Cứu Độ.

KINH MÂN CÔI

Đọc Kinh Mân Côi để mong đợi Chúa giáng sinh, đặc biệt là Mùa Vui: “Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá. Xin cho con biết sống khó nghèo”. Kinh Mân Côi là kinh truyền thống lâu đời, mỗi khi suy niệm mầu nhiệm thứ Nhất và thứ Hai của Mùa Vui, chúng ta sống trong Mùa Vọng. Mỗi khi suy niệm mầu nhiệm thứ Ba của Mùa Vui, chúng ta sống trong lễ Giáng Sinh.

XƯNG TỘI

Xưng tội là việc cần thiết, không thể thiếu trong Mùa Vọng, vì đó là cách chúng ta giao hòa với Thiên Chúa, dọn lường cho Chúa Giêsu đến. Linh hồn sạch tội mới xứng đáng là “hang đá” cho Con Thiên Chúa ngự vào: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Đồng thời chúng ta cùng Đức Mẹ tôn vinh Thiên Chúa qua bài Magnificat: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người…” (Lc 1:46-55). Ngoài ra, chúng ta nên có một cuốn sách để đọc trong Mùa Vọng, gọi là đọc sách thiêng liêng.

Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. Xin cho con được thấy tỏ tường phần phúc lộc dành cho những người được Chúa chọn, để chúng con được vui niềm vui dân Chúa và cùng hiên ngang với gia nghiệp của Ngài” (Tv 106:4-5).

TRẦM THIÊN THU (Viết theo IgnitumToday.com)

Lý do bệnh nhân ung thư ở Việt Nam nhiều nhất thế giới.

Lý do bệnh nhân ung thư ở Việt Nam nhiều nhất thế giới.

Mỗi năm, số bệnh nhân mới mắc ung thư ở Việt Nam là 150.000 người, trong đó có 75.000 người tử vong, con số này có xu hướng tăng trong những năm tiếp theo.

Nguyên nhân chủ yếu do các loại hóa chất độc hại có trong thức ăn hàng ngày, theo báo cáo của Viện nghiên cứu phòng chống ung thư Việt Nam.

Điều này làm cho Việt Nam là nước có bệnh nhân ung thư nhiều nhất trên thế giới.

Theo kết quả khảo sát năm 2011, tỷ lệ tử vong do ung thư dạ dày tại Việt Nam cao gấp 5 lần so với Lào, Philipines, Thái Lan và các nước trong khu vực.

 

Nước mắt lăn tròn trên má người mẹ có con bị ung thư.
Nước mắt lăn tròn trên má người mẹ có con bị ung thư.

Cũng báo cáo, trong cả nước, Hà Nội và TP.HCM có tỷ lệ người mắc bệnh ung thư vú cao nhất với tỷ lệ 30/100.000 người tại Hà Nội và 20/100.000 người tại TP.HCM (năm 2010).

Ung thư vú hiện đang trở thành loại bệnh thường gặp nhất ở nữ giới và được dự báo có xu hướng tiếp tục tăng. Lý do là mỗi ngày họ phải sử dụng những chiếc áo ngực Trung Quốc có chứa đủ thứ hóa chất gây bệnh mà không hề hay biết.

Hiện tại, cả nước có từ 240.000 – 250.000 người mắc bệnh ung thư. Trong đó, chủ yếu là ung thư phổi, dạ dày, đại tràng, ung thư gan, ung thư vú và cổ tử cung (đối với nữ).

Mỗi năm, số bệnh nhân mới mắc ung thư là 150.000 người, trong đó có 75.000 người tử vong. Theo dự báo, con số này có xu hướng tăng trong những năm tiếp theo.

Nguyên nhân gây bệnh thì có nhiều, song chủ yếu là do nguồn nước ô nhiễm và nguồn thực phẩm có chứa chất bảo quản độc hại.

Một bệnh nhi ung thư mắt tại Bệnh viện Ung bướu TP.HCM
Một bệnh nhi ung thư mắt tại Bệnh viện Ung bướu TP.HCM

Hàng ngày, người dân phải ăn những loại thực phẩm bị tẩm độc bởi những loại hóa chất độc hại từ Trung Quốc. Chỉ tính trong năm 2012 đã có hàng ngàn vụ việc liên quan đến thực phẩm bẩn có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc trong nước bị phát hiện và bắt giữ. Trong đó, hầu hết đều có chứa các chất bảo quản gây nguy cơ mắc bệnh ung thư cho người tiêu dùng: táo, khoai tây, lê…

Người tiêu dùng tẩy chay hàng Trung Quốc và lựa chọn thực phẩm trong nước nhưng cũng chẳng được an toàn hơn khi hàng loạt các thực phẩm, hoa quả trong nước được tẩm ướp và chế biến, bảo quản bằng hóa chất như giá đỗ, chuối, đu đủ, cà chua, mít…

Ngay cả những thứ quà vặt cho trẻ em như bim bim, bánh kẹo hay những thứ đồ chơi cho trẻ như thú nhún, cây thông Noel cũng trở nên nguy hiểm đổi với con người bởi bên trong đó là những loại hóa chất trở thành tác nhân gây ra bệnh ung thư.

Chính vậy, tỷ lệ mắc ung thư ở trẻ em của Việt Nam vào loại cao nhất thế giới trong những năm qua và sẽ tiếp tục tăng.

TIN LIÊN QUAN

Thầy Uông Đại Bằng gởi

Tại sao giá xăng dầu giảm?

Tại sao giá xăng dầu giảm?

Vũ khí chiến lược dầu hỏa
Nguyễn Đình Phùng

Nhưng Trung Hoa không thể so sánh với Hoa Kỳ về phương diện tiến bộ kỹ thuật, chỉ biết học lén, ăn cắp và lường gạt các nhà đầu tư ngoại quốc. Nên hiện nay kinh tế Trung Hoa đã chậm lại và nhiều phần sẽ đi vào suy thoái nặng trong tương lai.
Tóm lại Hoa Kỳ vẫn là quốc gia hàng đầu của thế giới với những phát minh và tiến bộ kỹ thuật mới mẻ. Chỉ với một phương cách đào dầu tân tiến, Hoa Kỳ đã làm thay đổi hẳn những thế tính toán chiến lược địa dư trên toàn cầu. Tất cả nhờ vào vũ khí dầu hỏa nay đã trở thành ưu thế chiến lược cho Hoa Kỳ để chống lại các kẻ thù cũ như Iran, Nga. Cũng như đối với kẻ thù mới trong tương lai chính là Trung Hoa vậy!
– N.Đ.P.

Vâng, Hoa Kỳ trong hiện tại và tương lai vẫn là siêu cường số 1, đó là một may mắn cho một nước như Việt Nam đã đến lúc phải tìm mọi cách trục ra khỏi cơ thể kiệt quệ của mình loại virus nguy hiểm bậc nhất thế giới ở thế kỷ XX Là CNCS với hai chiếc vòi bạo lựcchuyên chính đang cắm sâu vào cốt tủy mình – và trục ngay từ chính cái nguồn cung cấp virus hiểm ác nhất từ hơn 100 năm qua: Đảng CS TQ, sau này trở thành tên đế quốc Trung Cộng.

Bauxite Việt Nam

Trong vòng ba năm nay, những tính toán về thế chiến lược địa dư toàn cầu đã bị một vũ khí chiến lược mới của Hoa Kỳ làm thay đổi hẳn cục diện. Đó là vũ khí dầu hỏa, một thứ vũ khí trước giờ làm Hoa Kỳ khốn đốn và bị lệ thuộc vào những quốc gia không mấy gì thân thiện với Hoa Kỳ nắm giữ, như những xứ vùng Trung Đông, Venezuela và Nga. Nhưng thế cờ hiện nay đã bị lật ngược và Hoa Kỳ đã nắm thượng phong để có thể dùng dầu hỏa như một vũ khí chiến lược cho những tính toán mới cho chính trị địa dư toàn cầu.

Điều này xảy ra được hoàn toàn nhờ vào một kỹ thuật mới về đào dầu. Đây là phương cách tân tiến nhất dùng vệ tinh satellite để điều khiển mũi khoan dầu, đào sâu xuống nhiều dặm dưới lòng đất rồi tùy theo vị trí có thể quay ngang và đào bên cạnh gọi là horizontal drilling, tiến tới mục tiêu chính xác có thể chỉ nhỏ như một chiếc bánh xe! Trước kia việc đào dầu thường chỉ dùng những dữ kiện do địa chấn đem lại để tìm mỏ dầu và đào thử hàng chục lần mới được một lần trúng. Những lần đào hụt gọi là dry holes, tốn tiền nhiều và mất nhiều thì giờ để đào trúng mỏ dầu. Với những dữ kiện về địa chất do satellite technology và cách đào ngang horizontal drilling, việc đào hụt gặp dry holes không xảy ra nữa!

clip_image001

Nhưng việc sản xuất dầu hiện nay tại Hoa Kỳ thay đổi nhiều hơn cả là do việc lấy dầu từ đá gọi là shale oil. Dưới đáy của những mỏ dầu đã bơm ra gần cạn từ đầu thế kỷ 20 đến giờ, là những mỏ đá shale oil chứa dầu nằm lẫn trong đá. Dầu hỏa nằm trong đá này trước giờ không lấy ra được vì không chảy và không bơm lên được, gọi là dầu chặt, tight oils. Dung lượng của những mỏ dầu nằm trong shale oil còn nhiều hơn những mỏ dầu bơm lên dễ dàng trước kia, nhưng nay đã bơm cạn.

Kỹ thuật mới hiện tại là dùng cách đào như diễn tả trong đoạn trước và đào ngang horizontal drilling để tiến sâu vào những mỏ đá shale oil. Sau đó hàng ngàn gallons nước được bơm thẳng vào những vết nứt của mỏ đá shale oil này với áp suất cực mạnh. Dầu và khí đốt nằm trong đá được hút ra sau khi được nước bơm vào giải tỏa và được bơm thẳng lên trên mặt đất. Kỹ thuật này gọi là hydraulic fracturing, thường gọi tắt là fracking và hiện đang được áp dụng tại ba vùng có mỏ dầu shale oil lớn nhất Hoa Kỳ. Đó là vùng Bakken tại tiểu bang North Dakota, vùng Permian Basin gần Midland, Texas và vùng Eagle Ford tại phía Nam Texas.

clip_image002

Nhờ vào số lượng dầu bơm từ ba vùng này với kỹ thuật mới, mức sản xuất dầu của Hoa Kỳ đã tăng vọt từ 5 năm trở lại, nhưng tăng nhiều nhất là ba năm nay. Trong thập niên 60’s mức sản xuất dầu của Hoa Kỳ lên đến mức cao nhất và sau đó đi xuống dần. Năm 1970 là mức tột đỉnh với sản xuất dầu nội địa là 9.6 triệu thùng dầu một ngày. Sau đó các mỏ dầu nhất là tại vùng Texas cạn dần, cho đến năm 2008 chỉ còn sản xuất được 5 triệu thùng dầu một ngày. Nhưng từ năm 2011 đến 2014, mức sản xuất dầu hỏa nhờ vào kỹ thuật fracking đã làm tăng lên được 46%, chưa bao giờ tăng nhanh lên được như vậy kể từ giai đoạn 1921-1924, đúng 90 năm trước, lúc mới bắt đầu việc đào dầu tại Hoa Kỳ tạo ra các nhà tỷ phú như Rockefeller thời đó!

Năm 2013 mức sản xuất dầu của Hoa Kỳ là 7.5 triệu thùng dầu một ngày, với ước tính cho năm 2014 sẽ là 8.3 triệu thùng dầu sản xuất mỗi ngày. Với đà sản xuất này, theo cơ quan năng lượng quốc tế International Energy Agency, đến năm 2020, Hoa Kỳ sẽ qua mặt Saudi Arabia để sản xuất lên đến mức 11.6 triệu thùng dầu một ngày!

clip_image003

Như vậy điều rõ ràng nhất là Hoa Kỳ sẽ không cần đến Saudi Arabia như trước nữa! Xứ này từ trước đến nay nắm giữ quyền lực về dầu hỏa vì được coi là swing producer, tức có khả năng để ấn định giá cả cho dầu hỏa. Với mức bơm dầu nhiều nhất thế giới, Saudi Arabia chỉ việc bơm nhiều hơn hay ít hơn để xác định giá cả cho dầu hỏa và Hoa Kỳ lệ thuộc vào xứ này trên phương diện chiến lược. Như việc phải bảo vệ cho Saudi Arabia với các căn cứ quân sự tại đây cũng như đặt Đệ Ngũ hạm đội tại vùng Bahrain và tuần tiễu trên Vùng Vịnh để giữ cho đường thủy chở dầu được lưu thông.

Trong chiến lược ngăn chặn Iran không cho quốc gia này chế tạo bom nguyên tử, ngoài việc bảo vệ Do Thái, Hoa Kỳ còn bị áp lực của Saudi Arabia. Lý do là hai xứ Iran và Saudi Arabia là hai kẻ thù không đội trời chung. Iran được coi như cầm đầu các xứ theo Shiite, trong khi Saudi Arabia là quán quân cho phe Sunni của Hồi Giáo. Thế chiến lược địa dư hiện nay tại vùng Trung Đông có thể coi như một cuộc tranh chấp đẫm máu giữa hai giáo phái Sunni và Shiite của Hồi giáo. Hiện nay cuộc nội chiến tại Syria đã biến thể để thành chiến tranh giữa Shiite với phe của Assad và Iran ủng hộ, với phe Sunni của đa số dân Syria được Saudi Arabia và các vương quốc vùng Vịnh yểm trợ. Đây chính là lý do Saudi Arabia đã bất mãn đến cùng cực khi Tổng thống Obama chùn chân không chịu cho tấn công Assad năm ngoái sau vụ thảm sát dân lành bằng vũ khí hóa học. Quốc vương Abdullah của Saudi Arabia đã coi đây là một sự phản thùng của Obama, không chịu tiến tới trong việc yểm trợ phe Sunni để lật đổ Assad như Saudi Arabia đã mong muốn.

clip_image004

Tuy nhiên việc Obama trở mặt vào phút chót đối với Saudi Arabia đã cho thấy một điều rõ ràng. Là ảnh hưởng của Saudi Arabia đối với Hoa Kỳ đã không còn được như trước. Obama đã tính toán là vùng Trung Đông không còn giữ vai trò quan trọng như khi Hoa Kỳ bị lệ thuộc vào Saudi Arabia về dầu hỏa và cần phải giữ cho Saudi Arabia hài lòng bằng mọi giá, kể cả việc gây ra thêm một cuộc chiến tranh khác như tại Syria. Với mức dầu hỏa sản xuất tại Hoa Kỳ chỉ trong thời gian ngắn sắp đến sẽ làm Hoa Kỳ độc lập về dầu hỏa, Saudi Arabia đã mất đi thế đòn bẩy để áp lực Hoa Kỳ bằng dầu. Nên việc Obama trở mặt với vua Abdullah của Saudi Arabia trong vụ Syria vừa qua có thể coi như bước đầu trong thế chiến lược thay đổi của Hoa Kỳ tại vùng Trung Đông, khi Hoa Kỳ đã nắm được thế thượng phong với vũ khí chiến lược dầu hỏa.

Cũng thế, lý do để Iran phải chịu vào bàn thương thuyết với Hoa Kỳ về việc tinh luyện nhiên liệu uranium cho bom nguyên tử, cũng do Hoa Kỳ đã trên chân về vũ khí dầu hỏa. Iran trước giờ đe dọa sẽ cho phong tỏa eo biển Hormuz để chặn đường biển chở dầu hỏa từ các xứ vùng Vịnh, kể cả Saudi Arabia. Nhưng với Hoa Kỳ gia tăng mức sản xuất dầu do fracking, thế đòn bẫy này của Iran không còn nữa. Hoa Kỳ trong những năm của thời George Bush hay Clinton đã không thể dùng những biện pháp chế tài kinh tế khắt khe với Iran chỉ vì sợ Iran làm thật để phong tỏa eo biển Hormuz và làm rối loạn kinh tế toàn cầu khi giá dầu lên vài trăm Mỹ Kim một thùng.

clip_image005

Nhưng khi áp lực đòn bẫy này của Iran không còn nữa, Obama đã có thể cho áp dụng các biện pháp chế tài kinh tế khắt khe nhất mà không sợ Iran phản ứng lại. Điều làm cho Iran phải qui hàng và chịu vào bàn thương thuyết chính là đòn cô lập Iran về ngân hàng và tín dụng. Các ngân hàng trên toàn cầu không thể giao dịch với Iran nên xứ này bị loại ra khỏi hệ thống ngân hàng và tín dụng, không thể bán dầu lấy dollar được, chỉ có thể trao đổi hàng hóa với Trung Hoa, Ấn Độ… nên đã bị thiệt hại nặng và sụp đổ kinh tế. Như thế một khi Hoa Kỳ chiếm thế thượng phong trong vũ khí chiến lược dầu hỏa, các bài tính chiến lược của vùng Trung Đông đã phải thay đổi hết và đem lại những giải quyết cho vấn đề Iran [vốn] nhức đầu cho Hoa Kỳ hàng bao nhiêu năm nay.

Trong cuộc khủng hoảng mới nhất hiện nay tại Ukraine, vũ khí chiến lược dầu hỏa và khí đốt cũng đã trở thành thế lực mạnh nhất cho các tính toán của Putin và Obama trong việc đối chọi giữa Nga và thế giới Tây Phương hiện nay. Hoa Kỳ và Âu Châu gần như đã chấp nhận cho Putin chiếm Crimea, nhưng muốn ngăn chặn những tham vọng kế tiếp của Putin là chiếm luôn miền phía Đông và Nam Ukraine, phân chia xứ này ra làm hai, nửa theo Nga, nửa theo Tây Âu. Putin có thế đòn bẫy là cung cấp khí đốt cho Âu Châu bằng các ống dẫn khí đốt này chạy ngang qua lãnh thổ Ukraine. Nếu Hoa Kỳ và Tây Âu làm dữ, nhất định trừng phạt Nga nặng nề hơn bằng các biện pháp kinh tế và loại Nga ra khỏi hệ thống ngân hàng và tín dụng, Putin có thể phản ứng lại bằng cách cho khóa các ống dẫn khí đốt này và 60% nhà cửa của Tây Âu sẽ lạnh cóng vì thiếu hơi đốt!

clip_image006

Ngoài ra Nga cũng là xứ sản xuất dầu và cung cấp cho Âu Châu nên ngoài khí đốt, dầu hỏa sẽ bị khan hiếm với giá tăng vọt cho dân chúng Âu Châu. Hoa Kỳ có thể cho xuất cảng hơi đốt sang Âu Châu bằng cách cho đông lạnh liquefied natural gas và dùng tầu tanker chở băng ngang qua Đại Tây Dương cung cấp khí đốt cho Âu Châu. Nhưng những cơ sở để làm đông lạnh hơi đốt tại Hoa Kỳ và các cơ cấu hạ tầng chưa có sẵn tại Hoa Kỳ và sẽ mất hai ba năm để có thể thay thế toàn bộ lượng khí đốt Âu Châu nhập cảng từ Nga.

Cũng thế tuy Hoa Kỳ trong tương lai có thể dư thừa dầu hỏa để xuất cảng sang Âu Châu. Nhưng hiện nay Hoa Kỳ vẫn còn lệnh cấm xuất cảng dầu do Quốc hội Hoa Kỳ ban hành luật này từ đầu thập niên 70’s khi dân chúng Hoa Kỳ phải xếp hàng để mua xăng! Muốn xuất cảng dầu, Hoa Kỳ phải bỏ luật cấm này. Nhưng hiện vẫn còn bị kỹ nghệ lọc dầu chống đối và chưa ra luật được! Lý do là các nhà máy lọc dầu hưởng lợi do việc mua dầu sản xuất tại Hoa Kỳ giá rẻ, cho lọc dầu và bán với giá của thị trường toàn cầu cao hơn nhiều. Nếu bỏ luật cấm xuất cảng dầu, các nhà máy lọc dầu sẽ phải mua dầu sản xuất nội địa với giá cao hơn nên không còn lời nữa! Vì sự chống đối của các kỹ nghệ lọc dầu, đạo luật cấm xuất cảng dầu vẫn chưa bỏ được!

clip_image007

Tuy nhiên nếu tình hình tại Ukraine trở thành tồi tệ hơn và Putin cho chiếm thêm đất xứ này, dĩ nhiên Quốc hội Hoa Kỳ sẽ phải bỏ luật cấm xuất cảng làm lợi cho thiểu số lọc dầu để bảo vệ cho chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ chống lại Nga!

Tuy vậy chỉ cần đe dọa là Hoa Kỳ sẽ thực hiện việc cung cấp khí đốt đông lạnh cho Âu Châu và sẽ cho xuất cảng dầu hỏa sang, dù phải mất hai ba năm nữa, cũng đủ để cho Putin phải chùn chân và tính toán lại nếu không muốn thấy kinh tế Nga đi vào chỗ sụp đổ như Iran hiện nay.

Đây là thế đòn bẫy quan trọng vì Nga hiện nay có thể được coi như một thứ Saudi Arabia thứ hai, gần như hoàn toàn chỉ sống bằng việc xuất cảng dầu hỏa và khí đốt. Kinh tế của Nga được coi là lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn lợi thiên nhiên. Putin có mua chuộc được giới quân sự và được nhiều nhóm dân chúng ủng hộ, thực ra cũng nhờ vào các nguồn lợi do xuất cảng năng lượng này. Nên khi Hoa Kỳ có lợi thế hơn về vũ khí chiến lược dầu hỏa, thế đòn bẫy này của Nga đã giảm đi nhiều hiệu quả.

Và trong sự tính toán của Putin hiện nay, liệu việc chiếm thêm đất của Ukraine sẽ phải trả giá quá đắt do việc Hoa Kỳ và Âu Châu loại Nga ra khỏi hệ thống ngân hàng và tín dụng, cũng như trong hai ba năm đến sẽ ngưng mua dầu hỏa và khí đốt từ Nga. Lúc đó chắc chắn kinh tế Nga sẽ xuống dốc không phanh và sụp đổ dễ dàng. Putin dĩ nhiên sẽ tính toán lợi hại với các giả sử và bài tính khác nhau để chọn con đường đi tới trong vài tháng sắp đến. Việc Putin gọi điện thoại thẳng nói chuyện với Obama trong hai tiếng đồng hồ và cho Ngoại trưởng Lavrov gặp Ngoại trưởng John Kerry tuần qua là dấu hiệu Putin có thể cũng đã chùn chân và lạnh cẳng trước những đe dọa của Hoa Kỳ về năng lượng và phải tính lại hết các bài tính chiến lược mới!

Như vậy chỉ với một tiến bộ kỹ thuật mới về đào dầu, Hoa Kỳ đã làm thay đổi hẳn cục diện cho các thế chiến lược và chính trị địa dư của toàn cầu. Chỉ trong vòng ba năm, Hoa Kỳ đã chiếm thế thượng phong đối với vũ khí chiến lược dầu hỏa và nhờ đó thay đổi hẳn các tính toán cho vùng Trung Đông cũng như cho Âu Châu hiện tại. Kẻ thù tương lai và nguy hiểm nhất cho Hoa Kỳ hiện nay là Trung Hoa cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ vì ưu thế mới này của Hoa Kỳ đối với vấn đề năng lượng.

Điều đầu tiên là những kỹ nghệ sản xuất về solar panels, chế các tấm bảng đổi ánh sáng mặt trời ra điện của Trung Hoa hiện nay đã bắt đầu bị phá sản. Trong mấy năm trước, Trung Hoa đã chiếm đến 80% thị trường về kỹ nghệ này. Nhưng với giá dầu đi xuống, mức sản xuất dầu nội địa Hoa Kỳ đi lên, các kỹ nghệ về năng lượng mặt trời đều bị phá sản hết! Và Trung Hoa đầu tư nặng về các ngành này sẽ bị ảnh hưởng nặng! Đây chỉ là một điểm nhỏ trong những chiều hướng thay đổi lớn trên toàn cầu do các tiến bộ về kỹ thuật đem lại.

clip_image008

Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế của Trung Hoa trong vài thập niên qua, thực sự chỉ do Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật sai lầm đầu tư quá trớn vào Trung Hoa và thiếu suy nghĩ cho các hậu quả tương lai. Nhưng Trung Hoa không thể so sánh với Hoa Kỳ về phương diện tiến bộ kỹ thuật, chỉ biết học lén, ăn cắp và lường gạt các nhà đầu tư ngoại quốc. Nên hiện nay kinh tế Trung Hoa đã chậm lại và nhiều phần sẽ đi vào suy thoái nặng trong tương lai.

Tóm lại Hoa Kỳ vẫn là quốc gia hàng đầu của thế giới với những phát minh và tiến bộ kỹ thuật mới mẻ. Chỉ với một phương cách đào dầu tân tiến, Hoa Kỳ đã làm thay đổi hẳn những thế tính toán chiến lược địa dư trên toàn cầu. Tất cả nhờ vào vũ khí dầu hỏa nay đã trở thành ưu thế chiến lược cho Hoa Kỳ để chống lại các kẻ thù cũ như Iran, Nga. Cũng như đối với kẻ thù mới trong tương lai chính là Trung Hoa vậy!

N.Đ.P.

Nguồn: http://hoangsaparacels.blogspot.com/2014/11/tai-sao-gia-xang-dau-giam-vu-khi-chien.html