Hôm qua làm chó không nhà, hôm nay làm chó gác cửa: Cái nhìn đúng về cơn sốt Khổng Tử hiện nay ở Trung Quốc

Hôm qua làm chó không nhà, hôm nay làm chó gác cửa: Cái nhìn đúng về cơn sốt Khổng Tử hiện nay ở Trung Quốc

Lưu Hiểu Ba

Người Trung Quốc đang đẩy mạnh sự trỗi dậy của một siêu cường. Sự đi lên của nền kinh tế dẫn tới sự đi lên văn hóa, với túi tiền to mang đi rải khắp toàn cầu kèm theo việc xuất khẩu sức mạnh mềm. Trong nước thì sau khi người ta tiếp tục cơn sốt đọc kinh thư, thờ Khổng Tử, thờ Nho Giáo, bây giờ CCTV qua chương trình “Bách gia giảng đường” khơi ra cơn sốt đọc lại các tác phẩm của Khổng Tử nhằm phục hồi lại hệ thống đạo đức truyền thống; ở hải ngoại, Trung Cộng bỏ ra khoản tiền khổng lồ xây dựng hệ thống các học viện Khổng Tử nhằm quảng bá sức mạnh mềm ra thế giới. Tâm lí muốn làm bá chủ thiên hạ sau khi bị đè nén hơn trăm năm nay lại được dịp phát tiết ra ngoài, Khổng thánh nhân ở trong nước lẫn hải ngoại hợp lại làm một trận tuyến, cơn sốt Khổng Tử càng lúc càng nóng.

clip_image002

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Đằng sau cơn sốt này, tôi không cho rằng đó là sự phục hưng của văn hóa truyền thống, mà là làm sống lại truyền thống sung bái thánh nhân, là một phần trong kế hoạch nhằm đẩy mạnh làn sóng dân tộc cực đoan trong nước. Nguyên nhân là từ sau vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6/1989, nhà nước một mặt chống lại xu hướng tự do hóa và chống “diễn biến hòa bình”, một mặt khác thì châm ngòi, chổng mông thổi bùng lên làn sóng dân tộc cực đoan. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã trở thành một trong những rường cột chính của chính quyền Trung Cộng về mặt ý thức hệ, phối hợp với “ngày hội của tầng lớp trung lưu” đã đẩy chủ nghĩa dân tộc dâng cao một cách tràn lan. Ví dụ, trong đoạn kết của “Khổng Tử đại điển tế văn” ở liên hoan văn hóa quốc tế Khúc Phụ năm 2005 có viết như sau: “Tiểu khang sơ thành, đại đồng tại mộng. Hân phùng thịnh hội, cường quốc uy phong” tạm dịch là “Việc xây dựng xã hội trung lưu bước đầu có thành quả, giấc mộng thế giới đại đồng đang được nuôi dưỡng. Vui mừng hân hoan vì gặp thời thế, thể hiện được uy phong nước lớn”. Đây chính là bản hợp tấu điển hình của chủ nghĩa dân tộc cực đoan với bản phúc âm của thời thịnh vượng.

clip_image003

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Trong năm vừa rồi, việc quảng bá văn hóa truyền thống trên chương trình “Bách gia giảng đường” của CCTV đã tạo nên “cơn sốt Vu Đan” trên toàn quốc. Một mặt thì CCTV đã thành công trong việc đem Khổng Tử biến thành một món hàng thương mại thời thượng có sức hút cao (dùng theo từ ngữ của Lỗ Tấn là Modern Khổng Tử), cũng giống như việc đem Mao Trạch Đông biến thành một món hàng thương mại thời thượng mấy năm trước đây. Những sách vở, thư tịch có liên quan tới Khổng Tử đã trở thành những món hàng bán rất chạy, trên khắp cả nước cũng rộ lên phong trào mở ra những lớp học văn hóa truyền thống với lợi nhuận cao chót vót (tỉ như các “lớp quốc học” ở Đại học Thanh Hoa thu học phí là 26000 RMB/ học viên, Đại học Phúc Đán thu 38000 RMB/ học viên, những lớp dạy cho trẻ con lại càng có giá ở trên trời).

Một mặt khác thì Vu Đan đã trở thành hiện tượng với việc bán những lời giảng về Khổng Tử trên cơ sở sự kết hợp giữa lời của cổ nhân với ca từ của dòng nhạc thị trường hiện nay, cô ta diễn giải những lời của Khổng Tử một cách tùy tiện và nông cạn, như đang bơm một liều doping tinh thần cho việc thông tục hóa cơn sốt “phục hưng Nho Giáo”. Theo như những tinh hoa trong sự lý giải về Khổng Tử ở “Luận ngữ tâm đắc” của Vu Đan mà nói, ai ai cũng có thể có một tâm thái sống thoải mái cho dù có gặp chuyện gì đi nữa, chỉ cần không ôm hận trong lòng mà hãy bao dung yêu thương, biết thuận theo hoàn cảnh thì có thể chuyển nguy thành an, tìm được hạnh phúc.

Trong cơn sốt học tập theo Khổng Tử đang tăng nhiệt từng ngày thì giáo sư Lý Linh của Đại học Bắc Kinh xuất bản cuốn “Chó nhà có tang: tôi đọc Luận ngữ” với sự khảo cứu nghiêm túc về Khổng Tử, đã bóc tách những thứ huyễn hoặc và trả lại một Khổng Tử chân thực. Ông ở trong lời mở đầu có viết về thái độ của bản thân khi đọc Luận ngữ: “Sách của tôi được viết theo góc nhìn của bản thân tôi, tôi cũng không dựa theo người khác theo kiểu “quan một cũng ừ, quan tư cũng vậy”. Tôi cũng mặc xác cái gì là nhị thánh nhân, tam thánh nhân rao giảng cái gì. Cũng mặc kệ đại sư, tiểu sư nói cái gì, chỉ cần là không phải nguyên tác, tôi đều bỏ qua một bên. Tôi đọc “Luận ngữ” là tìm tới cái nguyên bản của nó. Muốn biết Khổng Tử nghĩ như thế nào thì phải xem nguyên bản. Tất cả những kết luận của tôi đề là từ những lời nói từ bản thân Khổng Tử, không tranh cãi cùng với giới trí thức, cũng không bợ đỡ, vỗ mông ngựa của đại đa số người đọc. “Sau khi đọc sách của Khổng Tử, không nên nâng bi, cũng không nên dìm hàng, nói một cách kĩ càng thì ông ta là một Don Quixote”.

Với thái độ thực sự cầu thị, không sung bái thánh nhân cũng không mị dân như vậy. Lý Linh đã phá thủng bức màn che của chủ nghĩa sùng bái đức thánh Khổng trong hơn 2000 năm qua. Ông viết: “Trong cuốn sách này, tôi muốn nói với mọi người rằng Khổng Tử không phải là thánh nhân. Khổng Tử mà đời đời nay các hoàng đế tôn sùng, phong thánh không phải là Khổng Tử thật, đó là một “Khổng tử do người ta tạo nên” mà thôi. Khổng Tử thật sống ngoài đời thực không phải là một vị thánh, cũng không phải là vương hầu gì cả, càng không đáng để nói tới cái gì mà “nội thánh ngoại vương” cả. “Khổng Tử chỉ là một con người, một người có xuất thân bần tiện, lại là tiêu chuẩn lập thân dựng sự nghiệp của giới quý tộc thời cổ đại (chân thiên tử); một người yêu chuộng tìm tòi những gì từ cổ xưa, học hành chăm chỉ, không nản chí, không mệt mỏi truyền đạt văn hóa truyền thống của người xưa và một người khích lệ học trò học tập kinh sách cổ; một người có đạo đức lẫn học vấn lại là một người không có chức có quyền, dám phê phán đám quý tộc đương thời; một người lang bạt tứ xứ du thuyết, lao tâm thay cho kẻ cai trị, liều mình khuyến dụ tầng lớp cai trị cải tà quy chính; một người nhiệt tình, ước mơ khôi phục xã hội theo lối cai trị của nhà Chu để thiên hạ thái bình; một người luôn bị giằng xé, hoang mang vô lực khi du thuyết tới rã bọt mép mà không ai nghe, nay đây mai đó không nhà cửa, giống hành trạng của một con chó vô chủ, lang bạt. Đó mới là Khổng Tử thật.”

Những nhận xét của Lý Linh về “Luận ngữ” trên phương diện khảo chứng hay là giải thích đều hơn xa những hiểu biết hời hợt nông cạn của Vu Đan. Càng quan trọng hơn, với tư cách là một phần tử trí thức đương đại, góc nhìn của ông có nhiều sự đồng cảm sâu sắc đối với một phần tử trí thức từ hơn 2000 năm trước là Khổng Tử. Lý Linh viết: “Khổng Tử tự nhận mình chính là một con chó nhà có tang. Ông ta tuyệt vọng với chính tổ quốc của mình, cùng đám đồ đệ phiêu bạt khắp nơi, gặp gỡ với tất cả đám chư hầu nhưng lại không có chút thành tựu nào, cuối cùng ông ta cũng quay về cố hương. Vào những năm cuối đời, sống trong cô độc và đau thương. Con chết, học trò yêu của ông cũng chết đã làm ông khóc cạn nước mắt. Ông đã nói tới sự đau thương của Kỳ Lân vốn ám chỉ ông ấy. Ông đã chết ở nhà mình nhưng ông lại không cảm thấy nơi nào là nhà cả. Cho dù tư tưởng của ông đúng hay sai thì chúng ta cũng có thể qua đó nhìn thấy được vận mệnh thu nhỏ của giới tri thức đương thời”.

clip_image005

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Cuốn sách bình luận về chó nhà có tang của Lý Linh ra mắt, đã phê phán cơn sốt học tập khổng tử và cơn sốt học lại giá trị truyền thống giống như việc ném một tảng đá lớn vào mặt nước hồ đang lên, gGây nên những cơn sóng phản đối dữ dội từ những kẻ bảo vệ đạo Nho. Bọn họ hợp công xúm vào chửi bới, nhục mạ Lý Linh tới nỗi nước miếng văn tung tóe khắp bốn phía. Ông bị tố cáo là người phao tin đồn nhảm về ngày tận thế, bị gọi là “phẫn thanh”, nhiều người chưa đọc qua sách của ông còn mạnh miệng cho đó là rác rưởi. Tất cả những chuyện này là do Lý Linh đã đặt tên cho cuốn sách bàn về Khổng Tử với cái tên “chó nhà có tang” . Từ đây có thể thấy được sự sùng bái của tầng lớp nhà nho mới đối với “Khổng thánh nhân” đã tới mức không ai có thể chạm tới. Chỉ tiếc là trong tay đám nhà nho mới nổi này trong tay không có bao nhiêu quyền thế, nếu không thì xã hội lại quay về cái thời đại “mở mồm ra mỗi câu đều là chân lý, một câu của lãnh tụ bằng ngàn vạn câu của kẻ khác” (thời Mao với tệ sùng bái cá nhân).

Lý Linh là một nhà lịch sử học nghiêm túc, ông đọc “Luận ngữ” không phải xem sách của thánh hiền, mà là để nghiên cứu lịch sử; từ lịch sử ông tìm ra một Khổng Tử không phải là thánh nhân mà là một phần tử trí thức không có nhà để quay về. Giống như trong lời tự bạch của tác giả: “Tôi đem “Luận Ngữ” để làm nghiên cứu lịch sử chứ không phải là công cụ để tôn sùng. “Thực ra cái mà Lý Linh nói trong “chó nhà có tang” là trả lại sự thật khi cho thấy tầng lớp trí thức sống trong nỗi bất an tinh thần triền mien khi không được sử dụng trong thời Xuân Thu. Ông đã đem chó nhà có tang biến thành chó lang thang không nhà, “bất cứ kẻ nào ôm hoài bão, trong đời thực không tìm được nơi chốn cho tinh thần của mình, đều là chó nhà có tang”. “Theo góc nhìn của tôi, dùng “mất đi quê hương tinh thần” để đánh giá Khổng Tử là hơi quá đề cao ông ta rồi. Trên thực tế thì Khổng Tử du thuyết thiên hạ không phải là để tìm kiếm quê hương tinh thần mà là để tìm một nơi cho ông ta thể hiện quyền lực của mình. Ông ta một lòng muốn làm quân sư cho các bậc đế vương mà không được, là một con chó lang thang không tìm được nơi chốn. Nếu như lúc đó có bậc đế vương nào dùng ông ta thì có lẽ ông đã sớm trở thành con chó gác cửa rồi.

Người đưa ra cái tên gọi “chó nhà có tang” để dành cho Khổng Tử cũng không phải là Lý Linh, mà cổ nhân từ xưa đã đánh giá như vậy. Bản thân Khổng Tử cũng tự nhận xét mình như vậy. Đi du thuyết khắp thiên hạ mong kiếm được chức quan, đến năm hơn 40 tuổi mà vẫn không có thành quả nào, lúc thất vọng tới cực độ, ông ta nói “Ta cùng đường rồi! Trong thiên hạ không có chỗ dung thân”. Chính từ việc này mà sau này hậu thế mới đánh giá ông ta là con chó nhà có tang. Nhưng đối với đám nhà nho vệ đạo đương thời mà nói, việc Khổng Tử tự nhận mình là chó nhà có tang chính là lời dặn dò của thánh nhân, bao hàm trong đó là bao nhiêu lời lẽ huyền diệu để trị quốc và giáo dục quốc nhân; mà Lý Linh gọi Khổng thánh nhân của họ là con chó nhà có tang chính là đại nghịch bất đạo, là một thứ rác rưởi không đáng để đọc. Thậm chí còn có những nhà nho phẫn nộ nói “Thầy Lý Linh điên rồi!”.

Bất kể cho bao nhiêu lời lẽ lăng mạ Lý Linh của đám nhà nho mới vì cuốn “Chó nhà có tang” thì tôi vẫn cho rằng cuốn sách mà ông viết, nhất là đoạn văn mở đầu rất chân thực mà xuất sắc, đã hơn hẳn rất nhiều những thứ nói về Khổng Tử của đám nhà nho mới như Tưởng Khánh… vậy nên có một số học giả nổi tiếng đánh giá rất cao cuốn sách này.

Nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Tư trong bài viết “Tính khả thi của nhân nghĩa – bình luận về cuốn “Chó nhà có tang – tôi đọc Luận ngữ” của Lý Linh” có viết: “Tôi cho rằng Lý Linh đã làm một nghiên cứu tốt, không kể sau này chúng ta xây dựng nền văn hóa như thế nào, đều phải dựa trên những phiên bản thật đáng tin cậy. Với phiên bản Lý Linh thì tôi cho rằng nó còn lợi hại hơn cả của Chu Hy.”

Giáo sư Tiền Lý Quần ở khoa Trung văn Đại học Bắc Kinh trong bài viết “Phải làm gì với truyền thống từ Khổng Tử cho tới Lỗ Tấn – đọc “Chó nhà có tang – tôi đọc Luận ngữ” của Lý Linh” có nói: “Dưới góc nhìn của tôi, Lý Linh với tâm thế nghiên cứu từ trái tim tới trái tim và sự đồng cảm sâu sắc chính là đặc điểm lớn nhất của ông khi nói về “Luận ngữ”, cũng là một cống hiến của ông. Kết quả của quá trình này chính là tìm ra một Khổng Tử “là chó nhà có tang”… khi tôi đọc từ này, cảm giác có một chút châm biếm trong đó, nhưng càng có một cảm giác suy tư, một sự bi thương bao hàm ở bên trong.”

Trong một cuộc phỏng vấn ông Lưu Mộng Khê, giám đốc trung tâm nghiên cứu văn hóa Trung Quốc thuộc Viện Nghiên cứu nghệ thuật Trung Quốc đã tán dương Lý Linh đã có nghiên cứu công phu với lập luận vững chắc về Luận ngữ, đã trừ bỏ đi những thần thoại hóa cũng như tinh thần phê phán.

Giáo sư Tần Huy của Đại học Thanh Hoa trong bài viết “Luận ngữ – con đường trở thành kinh điển” đăng trên báo “Phương Nam cuối tuần” số ngày 12/07/2007 có đoạn viết: “Ngày nay có một bộ phận muốn đem “Luận ngữ” trở thành “Nho gia thánh kinh”, cũng giống như việc mấy mươi năm trước đem cuốn “Bản ghi chép những lời nói của Mao Chủ tịch (tức Mao tuyển) mỏng dính trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa Mác. Ngày nay cuốn “Luận ngữ” cũng đang là món hàng bán chạy của Nho gia, so với việc tung hứng “Mao tuyển” thì kết quả thế nào? Là quảng bá hay là dẫm lên chủ nghĩa Mác?”

Với một Trung Hoa vốn có truyền thống sùng bái thánh nhân từ lâu, tự cổ chí kim trong mắt các nhà nho vệ đạo thì Khổng Tử là một thánh nhân không cần phải có chút hoài nghi bàn cãi nào cả, là người thầy đời đời của các đế vương, là đấng chí tôn với danh hiệu “Tố Vương”, là người mà mọi đế vương đều phải bái lạy với cái tên “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương”. Với Khang Hữu Vi (1858-1927, lãnh tụ phái duy tân ở Trung Quốc cuối thế kỷ 19) và giáo hội Khổng Giáo của ông ta thì Khổng Tử được tôn là giáo chủ vừa được tôn là thần thánh đầy quyền uy, ngày nay được tầng lớp nhà nho mới tôn làm biểu tượng văn hóa mới của Trung Hoa. Mỗi lời nói của Khổng Tử đều là những lời vàng trị nước cứu dân huyền diệu thâm thúy, cũng là đường lối tu thân dưỡng tính với mọi người. Lối bốc thơm phét lác nhất, ở thời cổ đại thì có câu “nửa bộ Luận ngữ cũng có thể trị được cả thiên hạ”. Ngày nay lại có thuyết “đạo lý của đức thánh Khổng trước quản cả 5000 năm, sau này cũng quản thêm 5000 năm nữa”. Lại có thuyết “không đọc sách Khổng Tử, không làm người nổi”. Đám học giả Nho Giáo đương thời còn không tiếc công sức bày ra tin vịt : vào năm 1988 có 75 người từng đoạt giải Nobel trên khắp thế giới tề tựu tại Pais, cùng bầu chọn Khổng Tử là nhà tư tưởng số một thế giới. Vãi quá!!!

Đối diện với những kẻ sùng bái thần thánh đã tẩu hỏa nhập ma như thế này, tôi chỉ muốn hỏi các nhà nho đương đại một câu phàm tục: “Trong mắt các vị thì Khổng Tử là thánh nhân, vậy lúc ngài đánh rắm thì có nhẹ nhàng êm đềm, mùi vị thơm ngát không? Những kẻ sùng bái thánh nhân đã mê muội tới mức không còn phân biệt nổi sự khác biệt giữa những câu nói hàng ngày và những lời đại nhân đại nghĩa nữa. Họ mang những câu nói thường ngày trong Luận ngữ trở thành những lời dạy tinh diệu của thánh nhân. Ví dụ trong Luận ngữ phần mở đầu: “子曰: 学而时习之,不亦悅乎?有朋自远方来,不亦乐乎?” “Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?” “Khổng tử nói: Học thì phải luyện tập, chẳng vui lắm sao? Có bạn hữu nơi xa đến thăm, chẳng mừng lắm sao?” Đây là những câu trong đời sống hàng ngày, có gì gọi là lời lẽ huyền diệu thâm ảo trong đó? Để mà lãng phí cả hơn 2000 năm với bao nhiêu trí tuệ để tìm hiểu, giải thích. Cho đến tận bây giờ còn đi giải thích sao? Giống như Chu Tác Nhân trong “Luận ngữ tiểu kí” đã nói: “Những cái Luận ngữ nói đa phần là đạo lý để con người tập làm người, hòa nhập vào xã hội… có thể giúp cho người đi sau có được những kinh nghiệm, nhưng không bao giờ được xem đó là những đạo lý kinh thiên nghĩa địa không bao giờ thay đổi giáo điều cả, càng không được xem đó là tinh hoa triết học chính trị có thể trị quốc bình thiên hạ được cả”. G.W.F. Hegel, triết gia lớn của Đức (được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức) cũng chỉ xem Luận ngữ như một cuốn sách ghi chép những đạo lý thường thức mà thôi.

clip_image006

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Nếu như nói rằng vận mệnh của Khổng Tử trong thời Xuân Thu, giống như một con chó nhà có tang không đạt được tí quyền lực nào phải ngủ vùi thì chính Hán Vũ Đế với quyết định độc tôn Nho gia đã biến Khổng Lão Nhị thành Khổng Phu Tử, biến một bộ xương khô của chó nhà có tang thành con chó giữ cửa bảo vệ hoàng quyền cho chế độ độc tài chuyên chế phong kiến. Do Nho Giáo có lợi cho sự thống trị của giới cầm quyền, do nên địa vị của con chó giữ cửa cũng được tính là vững chắc, ngồi một mạch hơn 2000 năm. Được giới đọc sách tôn làm thần tượng, tung hô lên tận mây xanh, thậm chí làm bức tượng dát vàng trong tổ miếu hoàng gia. Đó cũng là lúc mà những trí thức và tư tưởng gia Trung Quốc khác rơi xuống địa ngục, biến thành nô tỳ của quyền lực. Giống như sử gia Tư Mã Thiên sau khi bị Hán Vũ Đế hoạn đã bi thống thốt lên: “Cha ta không lập công lao gì cũng được hoàng thượng ban cho phẫu phù và đan thư miễn tội. Chức quan quản lí sử sách và xem thiên văn, lịch pháp, cũng giống bọn thầy cúng tế trong cung, vốn là để hoàng thượng vui đùa, giống như bọn nhạc sư trong cung vậy, là nghề nghiệp mà ngay cả người thế tục cũng còn coi thường”.

Cho tới tận khi các cường quốc phương Tây mở ra cánh cửa Trung Quốc ra, thì những chế độ và hình thái ý thức truyền thống nhanh chóng bị vứt bỏ và suy vong. Các mạng Tân Hợi 1911 đã kết thúc thời đại phong kiến chuyên chế tập quyền, Nho gia cũng mất đi chỗ dựa chính trị. Từ đây chó giữ cửa lại quay lại làm chó nhà có tang. Cho dù cũng có một Viên Thế Khải cũng định mộng tưởng xưng đế với vở kịch tôn Khổng Giáo làm đầu, nhưng cũng chỉ là vở kịch ồn ào sớm chốc tan thành mây khói, bởi vì sự sụp đổ của chế độ phong kiến truyền thống và hình thái ý thức cũ là không thể tránh khỏi.

Theo tôi thì khi mất đi chỗ dựa quyền lực là một bất hạnh cho tầng lớp Nho gia truyền thống, từ con chó giữ cửa cho hoàng quyền lại quay về làm con chó lang thang. Tuy nhiên đối với quá trình chuyển hóa từ người đọc sách để trở thành tầng lớp trí thức mà nói thì đó lại là một vận may lớn cho giới trí thức Trung Quốc. Bởi vì khi không còn được nâng đỡ bởi quyền lực chuyên chế, cho dù là bị ép buộc hay tự nguyện thì họ càng có cơ hội nuôi dưỡng hình thành tinh thần phê phán độc lập. Điều đáng tiếc là số phận làm con chó lang thang của giới trí thức Trung Quốc chỉ kéo dài có nửa thế kỷ mà thôi. Với sự nắm quyền của chính quyền chuyên chế cộng sản ở Trung Hoa Đại Lục, giới trí thức đến làm chó lang thang còn không được. Đại bộ phận bị đàn áp, truy đuổi, đánh đập thành những con chó rơi xuống mương, một số may mắn hơn thì trở thành con chó giữ cửa trong chính quyền Mao Trạch Đông. Ví như Quách Mạt Nhược, ông ta thời Dân Quốc còn dám chửi cả Tưởng Giới Thạch, thế mà từ sau 1949 thì lại thành con chi chi trong tay Mao.

clip_image008

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Khổng Tử trong lịch sử cận đại, hiện đại của Trung Quốc có một số phận hết sức quỷ dị bất thường, trước sau có hai phong trào “đánh đổ miếu nhà họ Khổng”. Lần đầu là phong trào Ngũ Tứ vào năm 1919, lần sau là phong trào phê Lâm phê Khổng vào năm 1974. Sau sự kiện 4/6/1989 thì giới trí thức Trung Quốc diễn ra phong trào tránh tiếp thu cái mới, họ xem hai phong trào Ngũ Tứ và phê Lâm phê Khổng đều là phản truyền thống và chối bỏ chúng, tuy nhiên thực tế thì hai phong trào này hoàn toàn khác nhau.

Đầu tiên, hai phong trào này có người phát động phong trào hoàn toàn khác nhau. Cuộc vận động Ngũ Tứ là được tiến hành từ dưới lên với sự vận động tự phát của văn hóa xã hội, nhất là đa phần người khởi xướng là tầng lớp trí thức mới hình thành, bọn họ tiếp thu những giá trị quan mới, tư duy mới, cách làm mới từ phương Tây, họ dùng những giá trị của Phương Tây để bàn thảo ngược trở lại những nguyên nhân làm cho xã hội Trung Quốc tụt hậu xa như thế. Bọn họ bất mãn với phái Dương Vụ cho rằng chỉ có sự tụt hậu về kĩ thuật cũng như phái Duy Tân với quan điểm chênh lệch về thể chế tụt hậu, họ cho rằng sự tụt hậu này do văn hóa gây ra. Ngược lại thì phong trào phê Lâm phê Khổng đượct tiến hành từ trên xuống nhằm khống chế các phong trào chính trị trong chế độ độc tài chuyên quyền. Nhất là người phát động ra nó là Mao không những dùng nó để nắm chắc tuyệt đối quyền lực, mà còn dùng tư tưởng Mao Trạch Đông đưa lên vị trí độc tôn thay thế tất cả những luồng tư tưởng khác, cho dù chúng đến từ bên ngoài hay từ chính nội tại Trung Quốc trước đây.

Thứ hai, trong hai cuộc vận động này thì tính chất phản Khổng cũng không giống nhau. Phong trào Ngũ Tứ với tầng lớp trí thức mới hình thành muốn đánh đổ miếu nhà họ Khổng, phát động một cuộc cách mạng văn hóa, đối tượng không phải là Khổng Tử thời Tiên Tần với âm thanh của trăm nhà đua tiếng, mà là Khổng Thánh Nhân đã độc tôn Nho học kể từ thời Hán Vũ Đế, muốn đánh đổ học thuyết độc quyền của con chó canh cửa cho hoàng quyền. Trong khi đó Mao Trạch Đông phát động phong trào “phê Lâm phê Khổng” lại không hề có tí gì gọi là động cơ cải cách văn hóa gì cả, mà hoàn toàn là một cuộc chiến tranh giành quyền lực chính trị. Ông ta đem việc đánh đổ Khổng Tử làm công cụ tranh giành chính trị trong nội bộ đảng. Ngoài việc triệt hạ triệt để Lâm Bưu, còn để cảnh cáo “nhà nho lớn trong nội bộ đảng” là Chu Ân Lai.

Nói một cách khác, hai cuộc vận động này về bản chất có sự khác biệt nhau rõ rệt: giai cấp trí thức mới trong tay không có tí quyền lực nào và lại quyền uy tuyệt đối trong tay như thời Tần Thủy Hoàng; cuộc vận động cách mạng tự phát và bàn tay khống chế phong trào cách mạng; cách mạng để tìm một lối thoát cho văn hóa Trung Hoa và một phong trào cách mạng để củng cố quyền lực tuyệt đối.

Cho nên đến nay, tôi vẫn tán thành chủ trương từ thời phong trào vận động Ngũ Tứ “đánh đổ miếu nhà họ Khổng” nhưng tôi cũng kiên quyết phản đối phong trào chính trị đánh đổ Khổng Tử trong thời kỳ Văn Cách.

Trong bài văn “Khổng Phu Tử ở Trung Quốc hiện đại” Lỗ Tấn có gọi Khổng Tử là Modern Khổng Tử, cũng là phê phán thói sùng bái thánh nhân trong chế độ phong kiến tập quyền truyền thống Trung Quốc. Ông viết: “Khổng Phu Tử ở Trung Quốc là kẻ được quyền thế nâng đỡ dậy, là thánh nhân của đám người cầm quyền hay đám đang muốn lên nắm quyền, giữa họ và dân chúng bình thường không có một chút quan hệ nào.” Với tôi mà nói, truyền thống tôn sùng thánh nhân ở Trung Quốc có thế nói là công trình văn hóa giả mạo lớn nhất từ trước tới nay, được các hoàng đế từ bao đời nay cùng đám văn nhân dưới trướng nhất tề dựng lên. Lại được đám đế vương cùng các nhà nho phong thánh cho Khổng Tử, một Khổng Tử đã sớm không còn là Khổng Tử thật, thậm chí còn được xem là món hàng giả mạo kém chất lượng nhất từ trước tới nay.

clip_image009

Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa

Kỳ thật, nếu chậm rãi đọc kỹ các tác phẩm của những triết gia thời Tiên Tần thì có thể thấy, học thuyết của thánh nhân Khổng Tử cũng chỉ là những lời rao giảng đạo đức bình thường nhất. So với Trang Tử thì Khổng Tử không có được cái tính nhẹ nhàng siêu thoát, phiêu diêu cũng như trí tưởng tượng kỳ vĩ đẹp đẽ, ngôn ngữ cũng không trôi chảy thanh thoát, một trí tuệ triết học và văn học chưa thoát tục. Càng không thể có chuyện nhắc nhở ý thức thanh tỉnh để thoát khỏi bi kịch của nhân loại. So với Mạnh Tử thì Khổng Tử thiếu mất cái khí độ của trang nam tử, khoáng đạt mà hoành tráng, lại càng thiếu thái độ tự tôn trước quyền lực, thiếu mất sự quan tâm, coi trọng dân chúng “Lấy dân làm đầu, xã tắc làm thứ, quân vương xếp cuối cùng”. So sánh với Hàn Phi Tử, Khổng Từ là kẻ hư ngụy, xảo trá, không có được cái tính thẳng thắn, tài hoa châm biếm sắc bén như vậy. So với Mặc Tử thì Khổng Tử không có một hệ thống tư tưởng đạo đức nào hướng tới sự bình đẳng của người dân và đám sỹ tốt, không có một lối logic cụ thể nào. Tất cả những gì Khổng Tử nói đều thể hiện sự thiếu sót một trí tuệ lớn mà chỉ có những lối tư duy khôn vặt, lại toàn hướng tới danh lợi công trạng, hết sức gian xảo, lại thiếu mất tính thẩm mỹ và sâu sắc của triết học, cũng không có cái nhân cách cao quý và bụng dạ khoáng đạt. Ông ta đi khắp thiên hạ để mong tìm được chức quan, sau khi thất bại không được gì bèn trở thành giáo chủ đi rao giảng đạo đức, cái đạo người thầy tốt, dạy người không mệ mỏi của ông ta là xuất phán từ nhân cách con người cuồng vọng và thiển cận. Cái đạo “thịnh thế tắc nhập, loạn thế tắc ẩn – thời thịnh trị thì dấn thân với đời, thời loạn lạc thì lùi về quy ẩn” chính là điển hình của chủ nghĩa cơ hội, thể hiện sự vô trách nhiệm.

Càng đáng buồn hơn là Khổng Tử với tinh thần hết sức giảo hoạt, vô trách nhiệm và hết sức hám danh lợi này lại trở thành nền tảng, hình mẫu cho cả dân tộc Trung Hoa trong mấy nghìn năm qua. Dân tộc nào thì sẽ có thánh nhân đó, thánh nhân như thế nào thì sẽ nhào nặn ra dân tộc đó, đây chính là căn nguyên nô tính của người Trung Quốc bắt đầu từ đây, di sản văn hóa này từ khi sinh ra đã truyền lại cho đám con cháu tới tận ngày nay.

Ý nghĩa của Lý Linh khi bàn về Luận ngữ, một là nhắm đến những phần tử dân tộc chủ nghĩa cực đoan đang trỗi dậy. Cuốn sách này tuy là một tác phẩm nghiêm cứu học thuật nhằm trả lại chân diện cho Khổng Tử, bóc tách những điều giả dối hư ảo mà đời đời các nhà nho đã thần thánh hóa, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm của ông tới hiện thực xã hội thông qua những nghi vấn trực tiếp về cơn sốt học tập kinh sách cổ, sùng bái Khổng Tử, gián tiếp nghi ngờ cái gọi là “sự trỗi dậy của nước lớn”. Khổng Tử trong con mắt Lý Linh chỉ là “một con chó nhà có tang không tim được ngôi nhà tinh thần trong thế giới thực” mà thôi, ông phê phán lũ nhà nho rởm đời đem Khổng Tử biến thành cứu tinh của nhân loại. Giống như lời tự bạch của tác giả: “Giương cao ngọn cờ Khổng Tử đem ra khắp thế giới ư, tôi không quan tâm” “Khổng Tử không thể cứu rỗi được Trung Quốc, cũng không thể cứu cả thế giới”.

Thứ hai là phê phán truyền thống bợ đỡ quyền lực của giới trí thức Trung Quốc, hiện tại đám nhà nho mới đang câu kết với chính quyền, bọn họ muốn độc tôn Khổng học, hô hào Nho Giáo, lại không chú trọng tới ảnh hưởng của Nho Giáo trong việc xây dựng lại hệ thống đạo đức vốn đã tan rã từ lâu, mà chỉ chăm chăm vào bốn công năng chính trị của Nho Giáo là “tu tề trị bình (tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ), để thực hiện vương đạo là hợp nhất tôn giáo và chính trị; bọn họ muốn đẩy cho Khổng Tử cái địa vị “Đế vương sư” hay “Quốc sư”, hô hào đem Nho giáo trở thành Quốc giáo, họ hi vọng chính phủ có những chính sách đặc biệt để hỗ trợ nền quốc học, thực tế thì đám nhà nho này đang muốn làm quân sư của chính quyền đương đại, muốn được như Platon với quyền lực nằm trong tay nhà hiền triết vĩ đại. Thế là đám nhà Nho này nhào nặn lại Khổng Tử giống như thời Hán Vũ Đế, muốn một lần nữa thực hiện mô hình “Vứt bỏ tư tưởng trăm nhà, độc tôn Nho gia”, hết sức hà hơi tiếp sức cho hình thái ý thức hóa kiểu Khổng Tử, muốn đưa một người bình thường biến thành thần thánh kiểu truyền thống.

Lý Linh cho rằng, trong lịch sử Trung Quốc thì đám thành phần trí thức với nhiều tư tưởng kiểu Utopia chỉ thực sự hữu dụng khi trở thành một bộ phận độc lập với quyền lực và trở thành lực lượng đối lập với chức năng phê phán. Một khi những phần tử này nắm quyền lực trong tay thì lại trở thành mối nguy hiểm của quốc gia, thậm chí là thảm họa. Lý Linh viết: “Tầng lớp trí thức với đầu óc nhanh nhạy, tầm mắt sáng, họ chuyên chế hơn bất cứ ai. Nếu như trong tay họ có thanh kiếm thì những người mất mạng đầu tiên chính là những trí thức khác.” Nguyên nhân vì giới trí thức Trung Quốc đều rất cuồng vọng, tự cho bản thân là “có trí tuệ nhất, có đạo đức nhất, có lí tưởng nhất”. Tự cho phép bản thân “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” . “Có thể cứu cả thiên hạ thoát khỏi cái họa binh đao thiên tai, xây dựng thiên đường nơi hạ giới. “Nho gia đời Tống là Trương Tải có bốn câu nói: “Vì trời đất xây dựng tấm lòng, vì dân chúng lập mệnh, vì đức thánh nhân tiếp tục học tập, vì nghìn vạn thế hệ sau tạo dựng thái bình.” Đến tận ngày nay vẫn còn rất nhiều phần tử trí thức Trung Quốc khắc cốt ghi tâm điều này, cho thấy truyền thống cuồng vọng của tầng lớp sỹ phu Trung Quốc còn thâm căn cố đế.

Từ những cơ sở này, Lý Linh muốn cảnh cáo tới tầng lớp trí thức Trung Quốc đương đại hãy rút ra bài học từ những giáo huấn lịch sử trên, cần phải biết giữ khoảng cách với nhà cầm quyền, từ bỏ dã tâm “Đế vương sư”, chấm dứt việc chính trị hóa mớ kinh sách cổ điển, cần phải duy trì tính độc lập của kiến thức, tư tưởng và học thuật, kích thích tính sáng tạo của giới trí thức. Như trong lời mở đầu, Lý Linh có nói: “Đọc Luận ngữ thì tâm tình phải ôn hòa, một khi đã chính trị hóa, đạo đức hóa, tôn giáo hóa thì không còn là nó nguyên bản. Chúng ta cần tìm là một Khổng Tử thật, nhất là trong một thế giới mà lễ giáo băng hoại”. Nếu không thì giới trí thức Trung Quốc ngày nay sẽ giống như tầng lớp trí thức ngày xưa, không thể thoát khỏi vận mệnh cam tâm làm con chó săn cho kẻ khác. Sự khác biệt chỉ nằm ở chỗ khi không còn được sự sủng ái thì lại giống như con chó nhà có tang, khi được coi trọng thì lại giống con chó giữ cửa trúng xổ số vậy.

Tôi cho rằng bi kịch lớn nhất mà nền văn hóa Trung Quốc gặp phải không phải là việc Tần Thủy Hoàng đốt sách và chôn sống các nhà nho, mà là việc Hán Vũ Đế thi hành “cấm cửa trăm nhà đua tiếng, độc tôn Nho giáo”, sau khi được Đổng Trọng Thư sửa đổi học thuyết Nho gia, đã đưa một hệ thống được xây dựng dựa trên bạo lực của chế độ phong kiến chuyên chế miêu tả thành thiên đạo, “Thiên bất biến đạo diệc bất biến – Trời không đổi thì đạo lý cũng không thay đổi” đã trở thành lý luận căn bản nhằm hợp pháp hóa thể chế phong kiến tập quyền chuyên chế, cung cấp cho chế độ hoàng quyền ở nhân gian một vũ trụ luận tồn tại vĩnh hằng, khoác một tấm áo nhân nghĩa mềm mại lên tấm thân trần truồng của thể chế chuyên chế. Tất nhiên đám đế vương đã nhận ra tác dụng mị dân lừa bịp của tấm áo khoác ngoài này, dần dần xác lập nên hình thái ý thức độc nhất của giới quan chức, trở thành “con đường truyền thống” của đám học trò với mong ước an thân lập mệnh, cũng chính là truyền thống làm thế nào để biến thành “hảo nô tài” . Chính như Mao Trạch Đông đã có câu nói định vị giới trí thức: “Khi da không còn, long báo vào đâu? – Khi giới cầm quyền không còn, lũ trí thức dựa vào cái gì đây ? “

Đối với giới trí thức Trung Quốc đương đại, việc quan trọng đầu tiên cần làm không phải là bảo vệ một nền văn hóa sùng bái thánh nhân truyền thống dưới sự nâng đỡ của thể chế độc tài cầm quyền, mà là thoát khỏi vị trí phục dịch cho quyền lực, kế thừa truyền thống mới từ phong trào Ngũ Tứ: “Tự do về tư tưởng, độc lập về nhân cách”.

Nguồn: FB Hu Zi (1)Hu Zi (2)

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Tác giả: Phùng văn Phụng

Nhân đi tham dự Thánh lễ tạ ơn của anh Dương và chị Trâm mừng 25 năm thành hôn, tôi có cảm nghiệm rằng vợ chồng sống với nhau được 25 năm, 30 năm hay 50 năm hay hơn nữa không phải dễ nhất là thời đại ngày nay thường nghĩ đến cá nhân nhiều hơn, một chút bực mình, dễ gây tự ái, rồi không nhường nhịn nhau được, đành chia tay, chưa kể một trong hai người vợ hay chồng ra đi sớm vì bịnh hoạn, tai nạn v.v. . .

Chia sẻ trong Thánh lễ tạ ơn này đa số người đến tham dự đều công nhận vì “cái tôi” của mình,  tự ái quá lớn của mình, làm cho gia đình xào xáo, bất an, tích lũy lâu dần đưa đến tình trạng ly thân, ly dị.

Tôi đã có nghe Đức Cha Khảm nói chuyện, có hai vợ chồng đến thăm Cha than thở rằng “Con nói thật với Cha con giàu lắm chủ 4, 5 tiệm ăn. Không hiểu sao mỗi lần ngồi ăn cơm là vợ chồng con cứ cải nhau.”

Cha hỏi: Con cải nhau vì vấn đề gì?

Dạ, con cải nhau vì vấn đề tiền.”

Linh mục Nguyễn tầm Thường cũng có kể chuyện:

Hai  vợ chồng ở Việt Nam nhà nghèo, đi vùng kinh tế mới, có hai con còn nhỏ. Chỉ độc nhất có một chiếc xe đạp, đi đâu cũng đèo nhau, còn chở thêm hai con mà sao họ sống thật hạnh phúc.

Nhưng khi vượt biên đi được qua Mỹ, nhờ hai vợ chồng đều học giỏi, trình độ Đại học ở Việt nam, nên khi đi qua đây hai vợ chồng hội nhập vào xã hôi Mỹ rất nhanh và làm ăn trở nên giàu có. Mỗi người có xe BMW, Mercedes riêng đều là giám đốc, nhưng hai vợ chồng không chịu được nhau vì người nào cũng quá giỏi. Sau đó, họ đành phải thôi nhau. Tại sao?

Có vài người không chịu nổi bà vợ thứ nhất vì hay cằn nhằn thích chỉ huy mọi chuyện. Ông chồng lái xe nhưng bà vợ ngồi bên cạnh lại điều khiển, chỉ huy ông chồng. Không chịu nổi hoàn cảnh ” bị chỉ huy” mọi chuyện lớn nhỏ như vậy, anh bỏ vợ này và kiếm người vợ khác. Nhưng rồi mặc dầu người vợ sau này rất phục tùng chồng, nhưng anh vẫn không hài lòng. Rồi lại thay đổi tìm người mới và anh nêu lý do là “không hợp nhau”.

Mới đây, gặp lại người khách hàng cũ, hai vợ chồng qua đây theo diện HO, mặc dầu trên dưới 70 tuổi rồi, nhưng người vợ cho biết: “ Tôi đã ly thân rồi, sống với con trai chứ không còn sống với ông chồng tôi nữa”. Tôi thắc mắc tại sao vậy? Nếu không qua Mỹ sống ở Việt Nam, dầu nghèo nhưng có bà con thân nhân, gần gũi chia sẻ ngọt bùi, thì tình trạng ly thân, ly dị có bớt chăng? Lúc nghèo khổ cùng nhau chia sẻ, sao khi khá giả dư ăn, dư mặc lai chia tay?

Trong khi tuổi già vợ chồng lại rất cần nhau để săn sóc, lo lắng cho nhau nhất là khi đau ốm. Lời thề lúc thành hôn: “Giữ lòng chung thủy với anh(em), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc đau yếu để yêu thương và tôn trọng anh (em) mọi ngày suốt đời anh(em).” hai vợ chồng đã quên hết rồi chăng? Tại sao vậy?

Cha Chu Quang Minh, dòng tên, sáng lập “Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia đình” có khuyến khích, nên thường xuyên đọc kinh Hôn Nhân Gia Đình, trong đó có câu:

Gia đình chúng con sóng gió ba đào. Xin ban ơn CAN ĐẢM và KIÊN TRÌ của Chúa Thánh Linh.

Gia đình chúng con trẻ già xung khắc, xin ban ơn QUẢNG ĐẠI và THỨ THA để chúng con AN VUI CHẤP NHẬN LẪN NHAU”

Nếu đọc kinh này thường xuyên mỗi tối, nhờ ơn Chúa, chắc chắn gia đình sẽ được bền vững hơn.

Tôi cứ hay suy nghĩ lan man, phải chăng con người đến tuổi già thường có hai khuynh hướng?:

*  Hướng thượng : làm việc thiện, đi nhà thờ, giúp cho tha nhân mưu cầu hạnh phúc cho người khác để lo phần hồn sau này khi mình ra đi, vì trên 60 hay trên 70 tổi thì đâu biết ngày giờ nào mình ra đi. Nếu tin có đời sau thường ráng tu thân, tích đức nhiều hơn, cầu nguyện Chúa nhiều hơn , cố gắng làm nhiều việc thiện hơn nữa.

*  Hướng hạ: Biết mình sắp ra đi, quỹ thời gian còn ngắn quá, con người dễ sống vội, sống gấp rút. Ăn chơi cho thỏa mãn, vì sợ già rồi làm sao còn ăn chơi được nữa. Nhiều người thích ăn uống, nhậu nhẹt nhiều hơn vì sợ không còn thì giờ ăn nhậu được nữa hay tìm kiếm người yêu mới trước khi đi về lòng đất.

Thánh Phao lô viết: ” Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.” 1Cor 13 (4-7)

Làm sao đem thực hành, áp dụng  những điều thánh Phao lô hướng dẫn tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả vì tương lai con cháu bỏ “cái tôi” của mình đi có lẽ mọi sự đều giải quyết ổn thỏa được chăng?

Tin tức mới nhất từ báo Người-việt,  ở Edmonton (Canada) hôm thứ hai (29-12) sáng thứ ba (30-12-2014) vừa qua, tổng cộng 9 người Việt thiệt mạng bao gồm hung thủ.  Cảnh Sát Trưởng Knecht nói : “có vẻ đây là sự xung đột trong gia đình chứ không liên quan đến băng đảng thanh toán nhau.” Chín người Việt chết trong án mạng ở Canada , vượt qua nửa vòng trái đất, đến một nước văn minh, cuộc sống trở nên sung túc gấp mấy lần còn ở quê nhà, tại sao lại giết người thân kể cả trẻ con rổi tự tử. Tại sao vậy?

Đọc trong trang Web của Dòng Chúa Cứu Thế ngày 28-12 -2014 có hai bài viết:

Điều gì xác định một gia đình?

Lễ Thánh Gia: tôn vinh đời sống gia đình Trong bài này, Lm. Giuse Trương Hoàng Vũ, DCCT viết:

Thể hiện vẻ đẹp gia đình qua đời sống chung thủy để chống lại khuynh hướng coi hôn nhân như hình thức thỏa mãn tình cảm đơn thuần và có thể thay đổi tùy ý; thể hiện vẻ đẹp hôn nhân qua việc đón nhận con cái Chúa ban như là những quà tặng cao quý của sự sống; trân trọng và chăm sóc người già như di sản của đức tin và được thụ hưởng đức tin từ những chứng nhân sống động ấy; đón nhận và thăng hoa đời sống nghèo trong gia đình bằng việc tuân giữ và thi hành thánh ý Chúa. Sống được tất cả điều này chính là chúng ta tôn vinh ngày lễ Thánh Gia hôm nay.”

Đời sống tâm linh rất là quan trọng.

Giữ được bình an, vui tươi trong gia đình là ưu tiên, là mong muốn của mọi người, mọi gia đình để sống được hạnh phúc.

Nguyễn Hiến Lê nhà văn nổi tiếng trước năm 1975 đã viết trong hồi ký của ông như sau: “Đề cao  nếp sống giản dị, đừng để hình hài làm hại cái tâm, đời sống vât chất thì nên dưới mức trung bình, đời sống tinh thần thì trên mức ấy”. Đời sống tinh thần là gì? Đó chính là đời sống nghiêng về chữ tâm, nghĩ đến phần linh hồn, đời sống tâm linh, ưu tiên cho linh hồn hướng thượng của mình. Có nghĩa là linh hồn mình luôn luôn dành cho Chúa và vì Chúa, mà kính Chúa thì phải yêu người, giúp đỡ cho tha nhân, nhờ thế đời sống chúng ta sẽ thấy vui hơn, hạnh phúc, bình an hơn vì luôn luôn có Chúa ở cùng, mà sau này, khi chết còn được hưởng hạnh phúc đời đời nữa.

Có phải chũ Tâm là quan trọng, là hàng đầu để chúng ta sống, đối xử với nhau từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội nên Nguyễn Du mới viết:

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài ?

12 giờ Đêm Giao thừa

cuối năm, 31-12-2014

đầu năm 01-01-2015

Tác giả: Phùng văn Phụng

Chín người Việt chết trong án mạng ở Canada

Chín người Việt chết trong án mạng ở Canada

Nguoi-viet.com

EDMONTON, Canada (NV) Một án mạng xảy ra trong cộng đồng Việt Nam ở Edmonton, Canada, hôm Thứ Hai và sáng Thứ Ba, là tổng cộng chín người Việt Nam thiệt mạng, bao gồm cả hung thủ, bị tình nghi bắn chết tám người, trước khi tự kết liễu đời mình, theo tin đài truyền hình CBC ở Canada.

Những người bị bắn chết bao gồm sáu người lớn và hai trẻ em, và nghi can bắn các nạn nhân bằng một khẩu súng 9 mm lấy của người khác, theo cảnh sát trưởng Edmonton, ông Rod Knecht cho biết tại cuộc họp báo tối Thứ Ba.



Xác một nạn nhân Việt Nam được đưa ra khỏi một căn nhà. (Hình: AP Photo/The Canadian Press, Jason Franson)

Các nạn nhân, đều là người Việt, được tìm thấy tại hai căn nhà khác nhau tối Thứ Hai.

Người đàn ông, mà cảnh sát tình nghi bắn chết các nạn nhân, sau đó được tìm thấy tự sát trong nhà hàng VN Express Vietnamese and Chinese Food ở thành phố Fort Saskatchewan kế cận, vào sáng Thứ Ba.

Cảnh Sát Trưởng Knecht nói rằng nghi can có tiền án từ năm 1987.

Ông nói: “Có vẻ như vụ này là xung đột gia đình dẫn đến án mạng, và không có dấu hiệu băng đảng thanh toán nhau.”

Ông cũng nói án mạng này được dự định trước và nghi can hành động có chủ ý.

Cảnh sát cho biết, ban đầu họ đến một căn nhà, khám phá xác của một nạn nhân, bị nghi can bắn chết.

Sau đó, họ đến căn nhà khác, phát hiện thêm bảy người bị bắn chết.

Cảnh sát phát hiện nghi can trong nhà hàng ở Fort Saskatchewan. Khi cảnh sát bao vây, nghi can tự sát.

Ông Knecht cũng cho biết, theo gia đình, nghi can có vẻ bấn loạn trong mấy ngày qua, và họ lo là ông sẽ tự tử.

Các nạn nhân bị bắn chết có độ tuổi từ 6 đến 50.

Theo báo Edmonton Journal, tại một căn nhà nơi xảy ra án mạng, chủ nhà là hai vợ chồng ông David Lưu và bà Cyndi Dương, sống với ba đứa con, từ 6 đến 13 tuổi, và một phụ nữ, tên Hương Lam, có thể là bà ngoại của các em.

Căn nhà hai tầng này nằm trong một con đường cụt, trong khu Haddow, ở phía Tây Nam Edmonton.

Hồi Tháng Sáu, 2009, hai vợ chồng ông David và bà Cyndi có mượn của ngân hàng $655,000.

Bà Heather Ratsoy, chủ của trung tâm giữ trẻ It’s All About Kids Daycare ở trung tâm Edmonton, kể rằng tất cả ba đứa con của bà Cyndi, hai trai và một gái, có đến học ở đây từ năm 2002 đến năm 2011.

Bà nghĩ rằng cả hai ông bà David và Cyndi làm việc cho thành phố.

Ở một căn nhà khác, ở khu Klarvatten, ông Phú Lâm, 53 tuổi, và cũng là nghi can bắn chết tám người, là đồng chủ nhân với bà Thủy Tiên Trương, vẫn theo Edmonton Journal.

Cảnh sát từng được gọi đến căn nhà này hai lần, hồi Tháng Mười Một, 2012, và một lần hồi năm 2013, vì những vụ xung đột gia đình.

Theo hồ sơ, căn nhà này trị giá $400,000, và hồi Tháng Bảy, 2012, ông Phú và bà Thủy Tiên có mượn ngân hàng Royal Bank $365,000.

Ông Thanh Nguyễn, một người bạn của gia đình được Edmonton Journal trích lời nói ông Phú là một người “rất dễ thương,” nhưng cũng cho biết gia đình này “có vấn đề.”

Hồ sơ tòa cho thấy bà Thủy Tiên, 35 tuổi, từng bị phạt $32,000, sau khi bị ngân hành Royal Bank kiện hồi năm 2013. Còn ông Phú từng khai phá sản vào Tháng Hai, 2013.

Ông Phú đã nghỉ hưu, theo ông Thanh cho biết, còn vợ cũ của ông là chủ nhà hàng VN Express Vietnamese and Chinese Food.

Cảnh sát nói rằng, có tổng cộng bảy người, bao gồm ba phụ nữ, hai đàn ông, và hai trẻ em, chết trong căn nhà ở khu Klarvatten.

Còn bà Cyndi Dương, 29 tuổi, bị bắn chết tại nhà.

Cảnh sát vẫn chưa biết quan hệ thực sự giữa các nạn nhân và nghi can.

Cảnh Sát Trưởng Knetch cho hay công chúng không bị đe dọa gì trong vụ thảm sát mà ông gọi là “hoàn toàn vô nghĩa” này.

“Tất cả những gì xảy ra không liên hệ gì tới băng đảng nhưng là kết quả thê thảm của bạo hành gia đình,” ông nói.

Cảnh Sát Trưởng Knecht cho hay đây là vụ thảm sát lớn nhất ở thành phố Edmonton từ trước tới nay.

Năm 1956 có sáu người thiệt mạng trong một vụ giết người khác.

Edmonton là thành phố lớn nhất của tiểu bang Alberta, Canada, và có dân số hơn 800,000, trong đó nhiều người Việt Nam cư ngụ. (Ð.D., V.Giang)

Baby sit

Baby sit

Nguyễn thị Thanh Dương

“Cần người baby sit ở tại nhà ,trông 3 đứa trẻ 7, 6, và 5 tuổi, làm vài công việc vặt. Có phòng riêng, lương hậu hỉ . Xin mời ”

Đọc hàng loạt mục cần người đến nhà giữ trẻ, tôi dừng lại ở đây, sao mà thích hợp với tôi đến thế, tôi đang tìm một nhà có đông trẻ con để đến giúp việc, vì tôi cô đơn quá đổi. Cái nghề baby sit này tôi đã nghĩ tới với rất nhiều hứng thú sau những tháng năm dài mấy lần vấp ngã trong cuộc đời.

Tôi gọi phone ngay:

– Hello, chào chị, tôi có đủ điều kiện để xin làm baby sit cho nhà chị đây.

Giọng hớn hở bên kia đầu dây :

– Chị trẻ không? khoẻ không? Em có 3 thằng con trai quậy dữ lắm, đến nỗi bác Ba hiện thời đang baby sit tụi nó chịu không thấu, bác quá mệt đòi thôi việc nên em mới đăng báo kiếm người thế vô, bác Ba làm nốt 2 tuần nữa cho tròn tháng rồi mới ra…

Chị ta nói dài quá tôi phải ngắt lời :

– Tôi hiểu rồi, năm nay tôi 40 tuổi, sức khoẻ tốt. Được không?

– Vậy thì tốt quá, coi như em nhận lời mướn chị, bữa nào mời chị đến nhà, coi những công việc bác Ba làm sao chị làm vậy.

Tôi đồng ý, hai tuần nữa tôi lại có một cuộc sống khác.

Một cuốn tiểu thuyết có bao nhiêu trang buồn vui thì cuộc đời tôi cũng có bấy nhiêu trang. Tôi là một đứa trẻ không có cha ngay từ trong bụng mẹ, nghèo khổ và lam lũ tôi sống với mẹ bữa đói bữa no trong một xóm lao động ở Việt Nam, năm tôi 12 tuổi mẹ tôi bị bệnh chết, không thân bằng quyến thuộc. Tôi bơ vơ.

Tôi được một bà hàng xóm tốt bụng mang tôi đến một gia đình họ hàng của bà. Đó là chủ hãng nước mắm ở bến Chương Dương, Sài Gòn, để tôi làm việc vặt gì thì làm, mục đích chính là họ nuôi tôi làm phước.

Ông bà chủ có hai người con gái tuổi mười tám đôi mươi, đa số tôi làm việc vặt cho hai cô. Biết thân phận mình tôi làm việc rất chăm và ngoan ngoãn nên cả ông bà và hai cô đều thương. Được sống ở thành phố, bên cạnh hai cô chủ, tôi phổng phao khoẻ mạnh và đầu óc khôn ra, những sinh hoạt của họ cũng cho tôi nhiều kiến thức. Lúc nào rảnh hai cô thay phiên nhau dạy tôi học chữ.

Tôi quý mến ông bà chủ hãng nước mắm lắm, tôi hay nói với ông bà con mong mau lớn con sẽ khuân nước mắm từ kho ra xe, ông bà đỡ phải mướn người ta. Nhưng chưa đến cái ngày tôi được làm công việc đó để đền ơn đáp nghĩa chủ, thì năm 1980 cả nhà ông bà tổ chức vượt biên, và tôi nghiễm nhiên đã là một thành viên của gia đình họ nên cũng được đi theo. Năm đó tôi 18 tuổi.

Sang đến Mỹ tôi vẫn tiếp tục làm người giúp việc cho họ. Vài năm sau hai cô học hành xong và lập gia đình, cuộc sống của tôi vẫn êm đềm theo gia đình chủ, nhưng hai cô nói tôi không thể suốt đời làm thuê làm mướn cho nhà cô mãi được, tôi đã trưởng thành cấn có một cuộc sống riêng, có vợ có chồng như người ta. Hai cô thương tôi mà nói thế, chia tay hai cô tôi buồn lắm và không tự tin chút nào, vừa xấu vừa không trình độ thì ai dám lấy tôi?

Thế mà có người thương tôi, lấy tôi, làm tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, anh quê ở Long Đất, Vũng Tàu, làm tài công chở người vượt biên từ ghe nhỏ ra ghe lớn, một hôm anh liều mình lên ghe lớn đi luôn, qua đây tứ cố vô thân. Anh cũng bơ vơ.

Gia đình ông chủ hãng nước mắm ở California, còn tôi và chồng rủ nhau về tiểu bang Texas, nghe nói cũng đông người Việt Nam và nhà cửa thì rất rẻ so với Cali.

Sau này tôi hỏi chồng tôi với vẻ cảm động và vô vàn biết ơn rằng em xấu, em quê mùa thế tại sao anh lấy em, anh yêu em ở điểm nào ?? Anh đáp thản nhiên thời điểm đó ít người Việt Nam, đàn ông thì thừa , đàn bà thì thiếu, thà lấy em còn hơn ở giá, chứ có yêu thương gì đâu !

Sự thật mất lòng, nhưng chứng tỏ là anh thành thật, thôi thì “ bèo dạt mây trôi” gặp nhau, cho đời bớt buồn, bớt khổ. Chúng tôi an phận sống bên nhau và mong muốn có một đứa con, nhưng chờ hoài hết năm nọ, năm kia, hai vợ chồng tôi mới đi bác sĩ để biết một sự thật đau lòng tôi không có khả năng sinh con. Chồng tôi thất vọng, chán nản sinh ra nhậu nhẹt say sưa, một hôm tôi biết được anh đã ăn ở với một cô gái, và cô đang mang bầu, tôi hiểu phận mình thua thiệt, tự nguyện rút lui, trả anh cho cuộc đời mới đang mở ra cho anh.

Vài năm sau tôi lập gia đình với một ông lớn tuổi, bị vợ bỏ, ông chấp nhận hoàn cảnh tôi, không cần con cái, hình như ông dị ứng với vấn đề này, ông nói con cái ở Mỹ chỉ là một lũ mất dạy. Tôi an lòng sống với ông, tưởng sẽ được hạnh phúc cho đến tuổi già. Nhưng ông bị chết đột ngột vì bệnh tim, không kịp một lời trăn trối, nhưng cũng kịp để lại cho tôi một món tiền khá lớn…phải trả nợ cho credit card, không biết ông đã vay mượn từ lúc nào, mang tên hai vợ chồng, chỉ để đánh cá football (sau này tôi mới biết đó chính là nguyên nhân ông bị vợ bỏ, con khinh, và vất va vất vưởng như lục bình trôi sông rồi tấp vào đời tôi, để tôi phải trả một giá rất đắt cho cái hạnh phúc mà tôi chưa hề được hưởng). Tôi đã cần cù đi làm lương vài đồng một giờ trong vài năm để trả món nợ đó, tôi suy luận theo thuyết nhà Phật, có lẽ kiếp trước mình mắc nợ ông ta ? Bây giờ nợ trả hết rồi, tôi không oán hận gì ông đâu, ông hãy thanh thản an giấc ngàn thu, chỉ mong rằng kiếp sau nếu có tái sinh , dù lấy ai cũng xin ông chừa thói cờ bạc, chừa đánh cá football cho vợ con ông nhờ.

Vừa xấu người, vừa xấu số, qua hai đời chồng mà chẳng được gì ngoài thất vọng khổ đau.Tôi quyết tâm an hưởng cuộc sống độc thân, tưởng rằng sẽ thanh thản mà sao buồn thế! đơn độc thế! Đôi lúc tôi muốn quay về tìm hai cô chủ cũ đang sống ở California, nhưng lại tự ái, và phụ lòng tin tưởng của người ta nên đành thôi. Tôi cũng là một người đàn bà như bao nhiêu người đàn bà khác, cũng thèm khát một mái gia đình, những đứa trẻ thơ, để được săn sóc chúng, thương yêu chúng. Thế là tôi nghĩ đến nghề baby sit, tôi muốn được ở tại nhà chủ, sống hàng ngày với họ, để hưởng lây không khí gia đình, để gần gũi những đứa trẻ mà đáng lẽ tôi cũng có.

***

Tôi đã đến nhà cô chủ mới để quan sát tình hình, vợ chồng chú An giới thiệu tôi với bà Ba và 3 đứa trẻ rồi họ vội vã rời khỏi nhà, họ đang kinh doanh một nhà hàng lớn rất đông khách nên bận túi bụi, việc nhà cửa, con cái giao phó hết cho người baby sit.

Lần đầu nhìn 3 thằng ranh tôi đã thích, còn chúng nhìn tôi với vẻ tò mò .Hôm nay ngày nghỉ nên chúng ở nhà đủ, bà Ba vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi, bà hơn 65 tuổi, nhưng chưa có quốc tịch nên chưa được hưởng tiền già. Ôi, ở cái tuổi này mà phải quản lý 3 thằng vừa ăn khoẻ vừa nghịch ngợm như thế kia thì mệt thật ! Tôi bỗng thấy mình còn trẻ quá, sẽ đủ sức làm nữ tướng điều khiển 3 thằng lính quèn đó.

Tôi tiếp tục công việc của bà Ba không khó khăn gì, sáng dậy lo cho 3 đứa đi học, trưa lần lượt đón về, chiều nấu cơm, tắm rửa cho chúng, rồi dọn dẹp nhà cửa…Tôi vừa nghiêm vừa thân thiện để chúng không ăn hiếp và không quá sợ tôi. Ai như bà Ba muốn làm cái gì cũng phải năn nỉ nào ăn cơm đi, nào tắm đi, nào thay đồ đi…v..v..rồi bà thương, chúng nó đâu cần cái tình thương hứa hẹn của bà để phải đánh đổi những trò chơi hứng thú của chúng. Mỗi lần cho lũ trẻ tắm là một cuộc chơi “trốn tìm” và “đuổi bắt” đầy ngoạn mục, quần áo dơ thay ra, chúng không để vào rổ trong phòng tắm mà cố tình quẳng vào kẹt tủ, gầm giường, hay góc bếp cho bà Ba tìm mệt nghỉ, bà Ba đi khắp nhà tìm quần áo dơ của chúng như tìm chiến lợi phẩm sau một cuộc giao tranh. Xong, thì 3 thằng lại xổng mất, bà phải chạy từ phòng nọ đến phòng kia, từ tầng lầu xuống tầng dưới, và ngược từ tầng dưới lên tầng lầu để tóm chúng lôi vào phòng tắm…Bà mệt và căng thẳng đến nỗi có đêm bà thấy ác mộng, 3 đứa chạy nhảy bừa bộn trong phòng tắm, nước văng tung toé, nước tràn lan lênh láng, trôi bà đi khắp nhà…Giật mình tỉnh dậy người bà còn đẫm mồ hôi, bà không tin là mình vừa ngủ mê, lò dò bật đèn ra phòng tắm, thấy mọi sự yên tịnh bình thường bà mới yên tâm vào ngủ tiếp.

Khi bố mẹ chúng ra khỏi nhà, căn nhà rộng 4,000 sqft, đẹp đẽ sang trọng, trên khu đất rộng, vườn tược xinh tươi, hàng tháng có người đến làm vườn cắt cỏ này là của tôi, tôi tha hồ ra mà đi trên cỏ non xanh mướt, ngắm hoa lá, nhìn chim bay…Những giây phút thú vị đó, tôi tin chắc rằng vợ chồng cô chủ chưa bao giờ biết đến.

Vào nhà tủ lạnh đầy ngập đồ ăn, tôi muốn ăn, muốn bày món gì có mà trời biết.Tôi đã làm những món ăn, bánh trái khiến lũ trẻ thích mê, tôi kể cho chúng nghe những đứa trẻ bằng tuổi chúng đang ở Việt Nam, đang thiếu ăn, thiếu mặc, hay không được học hành gì cả…tôi kể về tuổi thơ nghèo khổ của tôi, chúng cảm động nghe tôi kể như nghe chuyện cổ tích, tôi dạy chúng phải biết quan tâm và giúp đỡ người khác, biết nhường nhịn thương yêu nhau. Dần dần 3 đứa đều quý mến tôi, ngoan ngoãn nghe lời tôi, chúng không nghịch phá nữa, tự mình làm những gì có thể được, tôi không phải hầu hạ chúng như bà Ba, trái lại tôi còn sai chúng làm được khối việc vặt, khi quần áo đã sấy khô, chúng gấp lại, của đứa nào đứa nấy mang về phòng, chúng vui thích vì được tự tay xếp quần áo vào tủ theo ý mình, tôi sai chúng nó lấy báo cho tôi đọc hay rót nước cho tôi uống là chuyện thường tình ở nhà, không biết bố mẹ chúng nhìn thấy có xót ruột không? chứ chúng làm với tất cả lòng hăng hái, mà tôi cũng thương yêu chúng biết bao nhiêu, không phải là nhiệm vụ của một baby sit đâu, mà bằng tấm lòng của một người mẹ.

Tôi và 3 đứa trẻ đã có những ngày êm đềm hạnh phúc, những bữa cơm chiều đầm ấm, những buổi trưa 3 đứa thì ngủ, còn tôi nằm khểnh nghe nhạc, thảnh thơi như một kẻ vô công rỗi nghề, tôi mở máy nghe Chế Linh và Tuấn Vũ, hai giọng ca mùi mẫn là thần tượng của tôi, họ hát bài gì tôi cũng thuộc dù tôi không nhớ tên tác giả, nhưng chắc chắn là không có nhạc Trịnh công Sơn, dù ai cũng khen nhạc ông ta, có nhiều câu nhạc của Trịnh công Sơn nghe “mơ hồ” quá tôi không hiểu nổi: “tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống thành hồ nước lênh đênh.” Hay “ Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…” thà cứ cụ thể, huỵch toẹt như “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn…” hay “Đêm đêm một mùi hưong, mùi hoa sứ nhà nàng…” nghe mà thấm tới tim tới phổi, nghe mà rơi lệ.

Nằm nghe nhạc đã, tôi ngủ thiếp đi, tỉnh dậy 3 đứa trẻ vẫn nằm ngủ bên tôi trong căn nhà sạch sẽ thơm tho, chẳng có chuyện gì phải làm, tôi vẩn vơ nghĩ tới vợ chồng cô An, không biết ngay giây phút này họ đang làm gì nhỉ ? Tội nghiệp ! chắc chú An đang bù đầu trong khói bếp mịt mù, trước kia chú có thuê đầu bếp, nhưng đứa thì làm mình làm mẩy, đi trễ về sớm, đứa thì chuyên môn ăn cắp mang về nhà toàn những món đồ biển đắt tiền .Thế là chú vừa là ông chủ vừa kiêm luôn chức đầu bếp cho chắc ăn, khỏi phải trả tiền công đầu bếp mà lại quản lý được cả đám nhân viên dưới bếp, không thất thoát hao phí đồ ăn, thực phẩm. Còn cô An cũng bù đầu không kém, như tất cả những người Châu Á làm kinh doanh, khâu tiền nong thì chỉ có ngưòi nhà hay chính chủ nhân quản lý, cô An ngồi trong quầy thu tiền, mỗi ngày phải mỉm cuời không biết bao nhiêu lần, phải Hello, Thank you với không biết bao nhiêu người, kể cả những người có bộ mặt đáng ghét nhất.

Chín mười giớ tối cô chú An mới về tới nhà, tắm rửa và hỏi thăm con cái qua loa xong là lăn vào phòng ngủ, nếu có động đất hay trời sập chắc họ cũng không biết.

Làm gì cô chú An dám mơ tới một giấc ngủ trưa thanh bình nhàn hạ như tôi? nằm nghe nhạc lâm ly sướt mướt như tôi?

Làm chủ nhà hàng, khách tới ăn tấp nập, nhưng cô chú An thường không ăn nổi những món ăn của mình, ngày nào cũng ngửi, cũng nhìn thấy, họ ngán quá rồi, cô An thường mang đồ ăn do tôi nấu ở nhà , tôi làm món dưa cải muối chua với củ hành đỏ thật thơm ngon, cô An rất thích.

Từ ngày làm baby sit, ăn, ở, chủ bao nên đồng lương tôi hầu như không dùng tới, dư được bộn tiền, tôi không có họ hàng gần xa ở Việt Nam để mà giúp họ. Tôi nghĩ đến những đứa trẻ nghèo-như tôi ngày xưa- và muốn đồng tiền của tôi được hữu ích tôi liên lạc với một ngôi chùa ở Việt Nam, thông qua đó, hàng tháng tôi gởi tiền về để chùa mang đến những cô nhi viện, những nhà nuôi trẻ em khuyết tật, cho các em được thêm manh áo mới, thêm miếng ăn ngon. Nếu quả thật kiếp này làm điều lành kiếp sau được hưởng thì tôi mong sẽ có một mái gia đình và những đứa con như 3 thằng mà tôi đang baby sit là đủ rồi, chẳng mong giàu có sang trọng gì.

Một hôm cô An mang về một tờ báo xuất bản ở Việt Nam, do người bạn cô mới đi chơi Việt Nam và mang về. Cô An chỉ cho tôi bài viết về một bà người Việt sống ở Mỹ có lòng từ tâm, hàng tháng gởi cả ngàn đô về Việt Nam để giúp các trẻ em nghèo.

Cô An chặc lưỡi:

– Làm điều thiện mà dấu tên, ngu thật. Người ta đâu biết mình là ai, thì hãnh diện với ai đây?

Rồi cô so sánh, nửa đùa nửa thật:

– Chắc bà này giàu lắm mới chi ra như thế. Mà có giàu hơn tôi được không?

Mỗi ngày nhìn vợ chồng cô An ra đi, lao vào cuộc sống, tôi biết họ kiếm ra rất nhiều tiền, bằng sức lực mồ hôi và bằng cả sự khôn ngoan sống ở đời như cô An đã từng hãnh diện khoe với tôi, chị biết không, buôn bán kiếm lời là chuyện dĩ nhiên, ngoài ra phải biết kiếm thêm, mỗi bill tính tiền ăn của khách đều cộng thuế, nhưng tôi đâu có ngu mà khai thật lợi tức của mình với sở thuế, nên hầu hết tiền lời, tiền thuế của người ta trả đều vô túi mình.

Còn tôi, lương tháng 1,200 đồng, không kiếm thêm được đồng nào như vợ chồng cô chủ. Nhưng nếu so sánh giữa tôi và họ ai giàu hơn ? Thì …tôi chứ ai! Vì tôi còn có tiền phân phát cho người khác.Và ai sướng hơn? Thì….cũng tôi chứ ai ! vì tôi có niềm vui khi đã mang lại niềm vui cho người khác…

Nguyễn thị Thanh Dương

Anh Trần Minh gởi

Kiêng Mỡ, đúng hay sai?

Kiêng Mỡ, đúng hay sai?

Ăn thiếu chất béo (dầu và mỡ) hại sức khoẻ và nguy hiểm đến tính mạng.

Đầu tháng Chín năm nay (2014), trên mục Sức Khoẻ của một nhật báo lớn ở Mỹ, The New York Times, ký giả Anahad O’Connor đã viết một bài với nhan đề Lời Kêu Gọi Cho Cách Ẩm Thực Ít Chất Đường Thêm Chất Béo (A Call for a Low-Carb Diet That Embraces Fat).

http://www.nytimes.com/2014/09/02/health/low-carb-vs-low-fat-diet.html?_r=0

Bài báo này đánh dấu một sự chuyển hướng quan trọng trong dư luận và truyền thông Mỹ về vấn đề dinh dưỡng từ kỵ-chất-béo qua thêm-chất-béo trong thực phẩm. O’Connor muốn thông tin cho độc giả về các bằng chứng khoa học vững chắc cho thấy khi con người ăn bớt đường bột và ăn thêm chất béo (ngoại trừ trans fat), nguy cơ cuả bệnh tim mạch được giảm đi nhiều. Không những thế nó còn giảm lượng mỡ trong cơ thể và xuống ký rõ rệt nhờ ăn thêm chất béo thay vì chất đường. Kết quả khảo cứu mới nhất từ Đại Học Tulane, tài trợ bởi Viện Nghiên Cứu Y Học Quốc Gia Hoa Kỳ (NIH- National Institute of Health), đăng trên Nguyệt san Y học Annals of Internal Medicine trước đó, cho thấy sự khác biệt rõ ràng, như đã nói ở trên, giữa nhóm tiêu-thụ-bớt-đường-thêm-chất-béo và nhóm ăn-thực-phẩm-có-lượng-chất-béo-thấp như Chính phủ Liên bang và Hội Chuyên gia Bệnh Tim Hoa Kỳ vẫn đang khuyến khích hiện nay.

Điểm đáng chú ý là cả hai nhóm đều không phải giới hạn lượng calorie tiêu thụ mỗi ngày như các chương trình dinh dưỡng khác. Kết quả của cuộc thí nghiệm này chứng tỏ rằng phong trào bài trừ chất béo trong thực phẩm trên hơn ba mươi năm qua ở Hoa Kỳ là sai lầm.

Vì đâu nên nỗi: Từ thập niên 1950, Y học Hoa Kỳ đã biết rằng lượng mỡ cholesterol cao trong máu có liên hệ đến bệnh tim mạch nhưng nguồn gốc của cholesterol gia tăng trong máu thì vẫn rất mơ hồ. Cholesterol đóng vai trò quan trọng cho sinh hoạt của mỗi tế bào, đồng thời cũng là nguồn cội trong việc sản xuất các kích tố steroids và vitamin D rất quan trọng cho cơ thể.

Trong suốt thập niên 1960, các nhà nghiên cứu y khoa xác định một vài chứng bệnh di truyền hiếm (đề nghị bỏ chữ hoi) có thể gây lượng mỡ cao trong máu, nhưng trong đa số bệnh nhân tim mạch, lượng cholesterol đến từ thói quen ăn uống. Một cuộc tranh luận gay gắt xảy ra giữa hai nhóm khoa học gia: Một nhóm tin rằng lượng cholesterol cao trong bệnh nhân là đến từ chất đường trong khi nhóm kia quả quyết rằng cao cholesterol là đến từ chất béo trong thực phẩm.

Qua thập niên 1970, Giáo Sư Ancel Keys, thuộc ngành Dinh Dưỡng cuả Đại Học Minnesota, đưa ra kết quả của một cuộc nghiên cứu quan trọng trên bảy quốc gia Âu Mỹ cho thấy rằng tiêu thụ nhiều chất béo bão hoà từ mỡ động vật là nguyên do của cholesterol cao và bệnh tim mạch. Các khoa học gia khác đã nhanh chóng ủng hộ GS Keys và các hội chuyên khoa về tim cùng chính phủ Hoa Kỳ khuyến cáo người Mỹ nên ăn ít chất béo, nhất là mỡ động vật, và các công ty sản xuất thực phẩm nên giảm thiểu chất béo trước khi bày bán trên thị trường.

Hậu quả bi đát với vài “nghịch lý”: Dân Mỹ vào siêu thị mua thực phẩm với các quảng cáo Ít Mỡ (Low Fat) hoặc Không Mỡ (No Fat) to tướng trên nhãn hiệu. Để thay thế bơ mà người Mỹ ưa quẹt vào bánh mì, khoa học gia lại tìm cách làm rắn mỡ thực vật lỏng bằng cách thay thế dạng Cis của axít béo với hydro qua gạch nối dạng Trans gọi là Trans Fat, một chất béo thực vật mới hoàn toàn nhân tạo không có trong thiên nhiên để thay thế bơ (margarine with trans fat).

Trong các thập niên kế tiếp, từ 1980 cho đến bây giờ, Hoa Kỳ rồi các nước giàu có trên thế giới bị hoành hành với chứng mập phì và nạn dịch Tiểu Đường loại 2 ngày càng thêm nặng, vì đại đa số người dân nhiễm Hội Chứng Biến Dưỡng do sự kháng insulin trong cơ thể làm mập phì, tăng cholesterol và chất triglyceride trong máu, tăng huyết áp và chứng Tiểu Đường.

Cho đến 7-8 năm trở lại đây, nguyên do của nạn dịch này mới được xác định là người Mỹ đã dùng  đường và bột ngày thêm nhiều để bù đắp cho số calorie bị mất đi khi họ ăn ít chất béo; chất đường ngọt, nhất là đường fructose, là nguyên nhân của sự tích tụ mỡ trong gan, bụng và cả bắp thịt gây ra chứng kháng insulin (sau khi kháng insulin đã xảy ra thì cả đường glucose cũng trở thành nguy hại).

Khách hàng đã phải trả một giá quá đắt về sức khoẻ và sinh mạng vì tiêu thụ các thực phẩm Ít Mỡ và Không Mỡ nhan nhản trên thị trường, trong lúc các bác sĩ của họ tiếp tục khuyến khích dinh duỡng kỵ chất béo, nhất là mỡ động vật, một cách sai lầm trong suốt 40 năm.

Một vài chuyện nghịch lý (paradox) phát hiện trong thời gian này, nhưng khoa học và chính phủ Hoa Kỳ vẫn không quan tâm và suy diễn đúng, vì vẫn còn bị mê hoặc với chính sách giảm chất béo:

1.    Nghịch lý người Pháp. Dân Pháp thích ăn uống ngon miệng nên họ nhất định không ăn giảm chất béo nhất là mỡ động vật, vì làm như thế thức ăn sẽ mất mùi vị. Họ tiếp tục ăn bơ, phó mát, thịt bò, gà vịt ngỗng, heo, trứng….như thường lệ, nhưng tỷ số mập phì, tiểu đường loại 2 và bệnh tim mạch tại Pháp lại thấp hơn Hoa Kỳ và các nước Tây Âu lân cận. Nghịch lý này được giải thích vì người Pháp uống nhiều rượu vang đỏ có chất kháng ốc-xy và nhất là resveratrol.

2.    Nghịch lý về thuốc chống cholesterol. Có hơn 6 nhóm thuốc làm hạ cholesterol trong máu được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho bán ở dược phòng, nhưng chỉ có nhóm thuốc statin đã chứng tỏ giúp bệnh nhân ngừa khỏi biến chứng tim mạch và sống lâu. Các nhóm thuốc kia, mặc dù hạ thấp cholesterol nhưng không ngăn ngừa được bệnh tim mạch. Hoá ra thuốc statin còn có tác dụng chống viêm, làm thành mạch máu trơn láng hơn, và có thể tăng thêm tuổi thọ với tác dụng trên tế bào.

3.    Nghịch lý về biến chứng của Tiểu Đường loại 2. Mặc dù Hoa Kỳ đã và đang trải qua cơn dịch Tiểu Đường loại 2 với tiềm năng gây biến chứng tim mạch, trên thực tế số luợng tim đột quỵ (heart attack) và tai biến mạch máu não cùng tỷ số tử vong đã giảm đi từ 15 năm nay. Lý do là thuốc statin và các thuốc chống áp huyết cao đã được dùng rất phổ thông cho người Mỹ.

Nhờ cuộc khảo cứu của Đại Học Tulane và bài báo cảnh tỉnh của ký giả O’Connor mà hôm nay chúng ta biết rằng các “nghịch lý” kể trên không phải là nghịch lý gì cả. Y học và Chính phủ Hoa Kỳ đã sai lầm khi cổ võ và áp dụng cách dinh dưỡng thiếu chất béo. Cuộc khảo cứu 7 quốc gia cuả GS Keys đã bị các khoa học gia đương thời duyệt lại và cho thấy ông đã phạm nhiều sơ xuất dẫn đến kết quả không đúng với sự thật.

Ăn ít chất béo còn có hại cho sức khoẻ tổng quát vì cơ thể sẽ bị thiếu các sinh tố quan trọng hoà tan trong chất béo như sinh tố A, sinh tố D và sinh tố K.

Ăn thiếu chất béo, nhất là chất béo động vật, gây ra chứng xuất huyết não sau 45 tuổi với số tử vong cao như đã tường trình từ các nghiên cứu trên nữ điều dưỡng Mỹ (2001), người Nhật (2003) và người Ấn Độ (2012). Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị xuất huyết não gần đây có lẽ vì tuổi cao và thiếu chất béo động vật như đã chứng tỏ qua các khảo cứu kể trên?

Ngoài ra, nhiều chứng ung thư thường xảy ra trên người có lượng cholesterol trong máu rất thấp, nhưng cho đến nay Y học vẫn chưa chứng minh được là ung thư làm hạ cholesterol hay thiếu cholesterol gây ra ung thư?

Kết Luận: Hiện nay người Mỹ vẫn còn theo tiêu chuẩn ăn bớt chất béo cổ động bởi chính phủ Hoa Kỳ với lượng dầu mỡ dưới 30% của tổng số calorie tiêu thụ, và vì thế đã ăn quá nhiều đường bột để bù đắp với hậu quả tai hại. Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama buộc các em học sinh trường công lập Mỹ ăn trưa với thực phẩm ít béo ít đường từ quầy ăn nhà trường làm thức ăn tồi tàn và dở ẹc như nhai giấy bìa; tội nghiệp các em đang sức lớn mà đói meo.

Các chuyên gia về bệnh tim còn sai lầm khi họ muốn giảm chất béo xuống đến 10% mổi ngày, mặc dù làm như vậy sẽ tăng hiểm nguy của xuất huyết não. Theo nghiên cứu mới nhất đã nói ở đầu bài, nhóm tiêu thụ hơn 40% chất béo cho tổng số calorie từ thực phẩm đã xuống ký vì ăn mau no, ăn bớt đường bột, nên giảm nguy cơ của bệnh tim mạch. Chúng ta nên ăn uống thoải mái, thêm thịt cá gà vịt trứng tôm cua… với nhiều chất đạm và chất béo; không phải kiêng khem gì ngoài việc ăn bớt đường bột cơm gạo, và ăn thêm rau quả. Vào siêu thị chúng ta không mua thực phẩm Low Fat và No Fat và nhất quyết không tiêu thụ thực phẩm có chứa trans fat.

Trans fat thực vật là chất béo xấu duy nhất cho con người hiện nay.

Chất béo tốt là mono-unsaturated fat và omega-3-fatty acid có tác dụng chống viêm và ngừa bệnh tim mạch. Thực phẩm với chất béo tốt gồm có dầu olive, dầu canola, dầu gan cá, trái bơ (avocado), mỡ vịt, dầu dừa, dầu đậu phụng, lòng đỏ trứng, và còn nhiều nữa. Chất béo bão hoà từ mỡ bò, heo, hay chất béo poly-unsaturated từ dầu đậu nành, dầu bắp, v.v., cũng không độc hại gì nếu ăn vừa phải. Người ăn nhiều cá hay gà vịt rất ít khi bị tai biến mạch máu não, trong khi người ăn thiếu mỡ bị xuất huyết não nhiều hơn như chúng ta đã biết.

Pham H. Liem, MD

Former Jackson T. Stephens Professor and Vice-Chairman of the Donald W. Reynolds Department of Geriatrics, UAMS

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Nguyễn Ngọc Già vượt lằn ranh đỏ

Nguyễn Ngọc Già vượt lằn ranh đỏ

Lê Diễn Đức

RFA

Blogger Nguyễn Ngọc Già bị công an bắt giữ hình sự hôm 27 tháng 12 năm 2014. Đây không phải là một vấn đề gì lạ, mà chỉ là động thái của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trong việc ngăn chặn, bẻ gãy các cây viết tự do.

Việc bắt giữ này được thực hiện liên tiếp sau khi đã cho “nhập kho” các bloggers “Anh Ba Sàm” Nguyễn Hữu Vinh, “Người Lót Gạch” Hồng Lê Ngọc và “Quê Choa” Nguyễn Quang lập.

Các trang báo lề trái đưa tin trong sự cẩn trọng chừng mực về việc khẳng định bút danh Nguyễn Ngọc Già và tên thật của blogger là Nguyễn Đình Ngọc.

Tôi biết tác giả Nguyễn Ngọc Già từ lâu, qua các bài viết của ông. Thoạt đầu tôi cho rằng, đây là một cây bút sống ở trong nước, vì sử dụng bút danh nên mới có cách viết mạnh bạo như thế.

Các bài viết của Nguyễn Ngọc Già cho thấy ông là một con người chính trực và can đảm. Ông viết bằng cái tâm và ý thức mong muốn đất nước thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn.

Nói rằng ông sử dụng bút danh giấu tên thật là không phải. Ông từng tự thuật về thân nhân của mình, ít nhất qua bài “Tôi cám ơn Việt Nam Cộng Hoà“, trong đó ông kể cha ông là “Việt Cộng nằm vùng”, là gia đình “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản. Và “Ba tôi đã chết dưới tay người cộng sản. Tôi có căm thù không? Có. Có muốn báo thù không? Đã từng. Điều mỉa mai, ba tôi chết không phải vì người cộng sản trả oán hay trù dập mà cái chết của ba tôi đến từ sự “ân sủng” dành cho ông – một người chưa bao giờ cầm một đồng tiền bất chính nào, cũng như chưa bao giờ nhận bất kỳ sự “ban ơn” nào từ người cộng sản. Một cái chết khá đặc biệt trong muôn vàn cái chết, do người cộng sản gây ra”.

Vào tháng 12 năm 2014, nhân ngày Quốc tế Nhân quyền, trong bài “Tôi thách thức dư luận viên” thì ông đã công khai trước công luận khi viết trên Dân Làm Báo: “Tôi – Nguyễn Ngọc (bút danh Nguyễn Ngọc Già) – tuyên bố thách thức…”

Các bài viết của ông thường bám vào những sự kiện thời sự diễn ra trên đất nước liên quan đến dân chủ, nhân quyền và sự phát triển của đất nước, được thể hiện trung thực với những phân tích có lý lẽ.

Ông nói thẳng, trực diện, đôi khi quyết liệt công kích vào những bất công của chế độ cộng sản, vào sự đán áp những tiếng nói dân chủ, sự nguỵ biện dối trá của bộ máy tuyên truyền, về vấn nạn tham nhũng hà hiếp dân của quan chức…

Ông nhìn nhận trách nhiệm và lương tri của một người cầm bút trong xã hội:

“Vẫn biết chì chiết càng làm đau lòng thêm cho những ai cầm bàn phím như cầm chén cơm! Phải vậy thôi! Nhưng lương tri đâu? Lòng trắc ẩn trước đồng bào đau khổ đâu?”

Có thể nghiêm túc khẳng định rằng, Nguyễn Ngọc Già là một cây bút đối lập, một người bất đồng chính kiến. Ngôn ngữ trong các bài viết của ông tuy thận trọng nhưng có tính phản kháng mãnh liệt, ít ai trong nước dám thể hiện như vậy.

Ông Nguyễn Ngọc Già là người sinh ra trong thể chế Việt Nam Cộng Hoà, gắn bó với nó và ông thẳng thắn phê phán chế độ cộng sản:

“Tôi cám ơn Việt Nam Cộng Hòa, không chỉ vì tôi được sống trong một xã hội – có thể chưa phải là tốt đẹp nhất – nhưng tốt đẹp hơn chế độ cộng sản 39 năm qua, mà tôi còn biết ơn vì tôi đã hấp thụ được nền giáo dục, có thể nói, cho đến nay 39 năm, dù VNCH không còn, dù CHXHCNVN cố gắng “cải cách” giáo dục nhiều lần rất tốn kém nhưng không hề mang lại chút tiến bộ nào khả dĩ. Và nói cho công bằng, giáo dục hiện nay tính về chất lượng, vẫn không thể nào đạt được như trước 1975 của miền Nam”.

Nguyễn Ngọc Già đã chính xác khi nhìn nhận chế độ cộng sản thực chất là một chế độ nguỵ quyền, duy trì sự cai trị bằng tuyên truyền giả dối:

“Chữ “ngụy” là một từ Hán – Việt, nó phản ánh những cái gì giả trá nhưng mang dáng vẻ của Sự Thật. Để thoát khỏi tình trạng Việt Nam lệ thuộc nhiều mặt đối với chế độ toàn trị tại Trung Quốc cũng như hiện trạng bi đát và bế tắc của Việt Nam hiện nay, thay vì “Thoát Trung”, có lẽ người Việt Nam cần phải gọi đích danh: THOÁT NGỤY. Khởi đầu của quá trình “Thoát Ngụy”, nhất định phải do giới cầm quyền Việt Nam hiện nay, bởi họ phải chịu “trách nhiệm toàn diện” dựa trên sự “lãnh đạo toàn diện” của ĐCSVN, suốt 70 năm qua”.

Trong một chế độ chuyên quyền, độc ác, làm sao một cây bút như vậy tung hoành trên lề trái, vươn tay ra các diễn đàn truyền thông quốc tế như VOA hay RFA, có thể tiếp tục tồn tại?

Cho nên bắt giam Nguyễn Ngọc Già là sự việc hiển nhiên, chẳng liên quan gì đến đấu đá nội bộ hay chính sách đối ngoại.

Tranh giành quyền lực nội bộ gay gắt bao nhiêu chăng nữa thì chế độ vẫn phải được bảo vệ để duy trì lợi ích chung. Các phe nhóm bao giờ cũng tìm ra thoả hiệp để tiếp tục sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông Nguyễn Ngọc Già là người đã bất chấp nguy hiểm, đã vượt qua lằn ranh đỏ của chính sách kiểm soát thông tin của Nhà nước Cộng sản Việt Nam.

Trong năm 2015 có nhiều kỷ niệm các ngày lễ lớn, tình hình đàn áp nhân quyền chắc chắn sẽ gia tăng hơn. Rất nhiều những tù nhân dự khuyết khác chắc đang nằm trong vòng ngắm, vấn đề chỉ là khi nào trở thành chính thức mà thôi. Trong mọi sự bắt bớ đề họ đều có toan tính.

Nhà cầm quyền thả nổi Internet cho bàn dân thiên hạ có cơ hội ca thán, thậm chí chửi rủa trên mạng, xả bớt tức giận cũng chỉ nhằm mục đích theo dõi. Nhưng hơn ai hết, vì không có báo chí tự do nên họ coi thông tin là mặt trận. Trên mặt trận ấy cuộc chiến diễn ra không ngừng nghỉ với lực lượng 80 ngàn dư luận viên ăn lương và một bộ máy đàn áp khổng lồ. Khi thấy ai đó có hại cho chế độ và gây ảnh hưởng lớn quần chúng, họ sẽ ra tay.

Bản chất của chế độ cộng sản là bạo lực. Họ tồn tại nhờ bằng bạo lực và sử dụng bạo lực tới cùng, thậm chí cả trước khi chết.

© Lê Diễn Đức

Vài lời bàn về Khổng Tử và Viện Khổng Tử

Vài lời bàn về Khổng Tử và Viện Khổng Tử

Chuacuuthe.com

VRNs (31.12.2014) – Sài Gòn – Hai hôm nay, nhiều bạn facebook tag tôi vào những stt xoay quanh việc Học viện Khổng Tử đầu tiên được đặt tại một trường đại học của Việt Nam. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ việc này. Bởi như nhiều người đã tìm hiểu, Học viện Khổng Tử không đơn thuần nhằm “quảng bá tiếng Trung Quốc”. Ở Âu Mỹ, các học viện này đã có những hoạt động như đả phá Pháp luân công, kỳ thị tín ngưỡng (Đại học McMaster, Canada), cổ động sinh viên ủng hộ Trung Quốc trấn áp Tây Tạng (Đại học Waterloo, Canada), không cho sinh viên talk về vấn đề Tây Tạng, hạn chế ngôn luận (Đại học Chicago, Mỹ) v.v. Đó cũng chính là nguyên nhân chính khiến một loạt các nước Âu Mỹ tẩy chay học viện này.

Hiện nay, xét riêng số HVKT đặt tại các trường đại học trong khu vực, Hàn Quốc có 17 viện, Nhật Bản có 13, Thái Lan có 12, Indonesia có 7, Philipine có 3, Singapore có 2. Đây là lần đầu tiên, HVKT đặt tại Việt Nam. Mặc cho những phản ứng muôn hình muôn vẻ của trí thức, trí ngủ trong ngoài nước, đây là câu chuyện đã rồi, và là câu chuyện trên bàn tròn của những người anh em cộng sản hai nước. Việc thiết thực có thể làm hiện nay là theo dõi sát sao động tĩnh của học viện này, và phản ứng kịp thời khi nó có những hoạt động can thiệp nằm ngoài bổn phận.

Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý mấy điểm dưới đây, hầu mong những người phản đối HVKT hiểu rõ hơn mình đang phản đối thứ gì, tư tưởng gì.

14123000

1. Khổng Tử của đời thật và Khổng Tử sau khi bị các chính thể lợi dụng

Bản thân Khổng Tử là người chính trực, nghiêm túc, kiên trì đến độ đáng thương, “biết đạo không thể thi hành mà vẫn làm”. Ông ta không được trọng dụng ngay khi còn sống. Trong bối cảnh văn hóa suy đồi, chính trị băng hoại thời Xuân Thu, tinh thần chấn hưng lễ nghĩa, quảng bá học thuật của Khổng đã khiến ông nửa đời lang bạt các nước như ‘con chó mất nhà’ theo cách ví của Tư Mã Thiên. Vào thời Hán, lần đầu tiên, đạo Khổng được trọng dụng. Nhưng tư tưởng nguyên sơ của Khổng đã bị uốn bẻ theo những cách thức khác nhau, trải qua các triều đại khác nhau. Hán Nho khác Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho… Tương tự, tư tưởng Nho giáo trải qua các triều Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn tại Việt Nam cũng không đồng nhất. Có một Khổng Tử của đời thật, nhưng có nhiều Khổng Tử của các chính thể lợi dụng. Tư tưởng của Khổng có nhiều điều hay, cũng có nhiều hạn chế. Nhưng trước khi hiểu rõ con người, tư tưởng Khổng thì đừng vì phản đối HVKT mà vội quy chụp tư tưởng đó là thứ “bốc mùi”, gọi Khổng Tử là “thằng Confucius”!

Chính quyền Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa vào những năm 1966. Trong thời kỳ này, tư tưởng Khổng bị lên án gay gắt. Tượng Khổng trong Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ THẰNG KHỐN NẠN HÀNG ĐẦU, rồi bị kéo đổ, đập nát. Hồng vệ binh định đào mả Khổng, nhưng nhanh chóng bị can ngăn. Và giờ đây, khi nền chính trị, tư tưởng của Trung Cộng không đủ sức hút đối với thế giới, càng không phải giá trị phổ quát. Họ bám víu và giương chiêu bài quảng bá văn hóa; họ dùng Khổng Tử làm công cụ chính trị. Bởi vậy đừng nghĩ đơn giản rằng, HVKT là nơi truyền bá đạo Khổng. Trung Cộng không có tư cách đó.

2. Văn hóa Trung Hoa và chính quyền Trung Quốc

Không thể phủ nhận sức ảnh hưởng lan tỏa của văn hóa Trung Hoa trong quá khứ đối với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tạm không bàn đến bản quyền của các thành tố văn hóa tương đồng giữa Trung – Hàn – Việt. Bằng vào những tư liệu hiện có, có thể thấy các chính thể quân chủ Việt Nam đã từng chủ động sử dụng Hán văn làm ngôn ngữ hành chính, thi cử, sáng tác văn học, từng châm chước chế độ lễ nghi, áo mũ, phong tục của các triều đại Trung Hoa; từng tự phụ là ‘cõi văn hiến không kém Trung Quốc’; và khi Trung Quốc bị cai trị bởi những tộc người Mãn, Mông, lại tự nhận là quốc gia gìn giữ văn minh Hoa Hạ chính thống. Bất kỳ thứ văn hóa ngoại lai nào khi được du nhập vào dị vực đều bị bản địa hóa, bởi vậy khi văn hóa Hán đã hòa vào văn hóa Việt, trở thành một phần của văn hóa Việt thì đừng vì ghét Trung Cộng mà quay lại cầm dao tự xẻo thịt mình!

Sau Cách mạng văn hóa, văn hóa Trung Quốc đã xuống dốc. Trí thức Trung Quốc đương đại lưu truyền câu nói “sau Tống không còn Trung Quốc, sau Minh không còn Hoa Hạ, sau Mãn không còn Hán tộc, sau Cách mạng văn hóa không còn đạo đức”. Và trong mắt tôi, văn hóa Trung Quốc đương đại là một sản phẩm què quặt. Bởi vậy, hãy nhìn nhận cho rõ thứ văn hóa Trung Cộng quảng bá là văn hóa gì, tư tưởng gì, đừng tóm tất cả mọi thứ vào một khái niệm đơn nhất là ‘văn hóa Tàu’!

3. Tiếng phổ thông Trung Quốc và ngữ văn Hán Nôm

Hiển nhiên, nội dung quảng bá của HVKT là tiếng phổ thông Trung Quốc, tức thứ ngôn ngữ sống, lấy ngữ âm phương Bắc làm chuẩn, sử dụng bộ văn tự đã được giản lược sau năm 1949. Còn ngữ văn Hán Nôm là một thứ ngôn ngữ chết (tử ngữ), được người Việt Nam sử dụng để ghi chép, thi cử v.v. trước thế kỷ 20.

Chữ Hán được sử dụng tại Việt Nam ngót 2000 năm. Trong quá trình du nhập, truyền bá, cho đến ngày hôm nay, người Việt có một hệ thống cách đọc chữ Hán riêng biệt (thiên địa, nhật nguyệt v.v. thay vì /tian di/, /ri yue/). Nhiều chữ Hán được người Việt viết theo lối riêng, có những kết cấu, hình thể riêng, tương tự như trường hợp chữ Hán của Nhật Bản. Vào khoảng thời Lý Trần, người Việt mượn cách đọc của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, tạo ra một hệ thống chữ mới gọi là chữ Nôm. Về ngữ pháp, người Việt cũng như người Trung, Hàn, Nhật trước đây sử dụng ngữ pháp Hán văn cổ đại (một thứ tử ngữ) để ghi chép, sáng tác văn học. Văn tự Hán Nôm được diên dụng ở miền Bắc đến năm 1956 trước khi Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành cải cách giáo dục, và tại miền Nam đến năm 1975 trước khi Việt Nam cộng hòa diệt quốc.

Học tiếng Trung hiện đại chắc chắn không thể đọc hiểu hoành phi, câu đối, sách vở do người Việt trước thời Nguyễn viết. Còn trong bối cảnh hiện đại, nếu học một lượng chữ Hán Nôm cơ bản, có thể hiểu sâu hơn về tiếng Việt. Bởi vậy, khi phản đối HVKT thì đừng bài xích văn tự Hán Nôm, đừng coi nó là thứ chữ lạ, và đừng nâng cao quan điểm rằng, một ngàn năm Bắc thuộc mới sắp bắt đầu, Việt Nam sẽ quay trở lại dùng chữ Hán. Cần phải hiểu rõ, chữ Hán là chữ Hán nào. Hán của người Việt hay Hán của Trung Cộng.
Việc thoát Trung là thoát ở sự lệ thuộc chính trị, kinh tế, ở những thứ văn hóa thô bỉ, quê mùa tập nhiễm từ Trung Quốc đương đại, chứ không phải tẩy chay bất kỳ nét văn hóa hay đẹp nào chỉ cần biết nó có nguồn gốc Tàu!

Trần Quang Đức

Chú thích ảnh (từ trên xuống dưới, trái qua phải):
1. Hình tượng Khổng Tử của Trung Quốc thời Minh.
2. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam thời Lê.
3. Hình tượng Khổng Tử của Hàn Quốc thời Joseon.
4. Hình tượng Khổng Tử của Nhật Bản thời Edo.
5. Hình tượng Khổng Tử của Việt Nam cộng hòa đặt tại Miếu Khổng Thánh (chụp năm 1969), nay là đền Hùng trong Thảo cầm viên, Sài gòn. Pho tượng đã bị di dời.
6. Tượng Khổng Tử tại Khổng Miếu Sơn Đông bị dán lên dòng chữ Thằng khốn nạn hàng đầu, trong thời Cách mạng Văn hóa (1966 – 1976).
7. Tượng Khổng Tử đặt tại Thiên An môn năm 2011, bị di dời chỉ sau 100 ngày.
8. Biếm họa chân dung Khổng Tử sau khi bị chính quyền Trung Cộng lợi dụng để dựng lên Học viện Khổng Tử.

Lãnh đạo CSVN tiếp tục dùng Internet để ‘đâm’ nhau

Lãnh đạo CSVN tiếp tục dùng Internet để ‘đâm’ nhau

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV)Tại cuộc họp định kỳ giữa chính phủ Việt Nam với lãnh đạo 63 tỉnh, thành phố, cả bộ trưởng Công An lẫn bộ trưởng Quốc Phòng của Việt Nam cùng nhấn mạnh đến việc phải “kiểm soát thông tin bôi nhọ lãnh đạo.”

“Kiểm soát thông tin” được viên tướng là bộ trưởng Công An nhấn mạnh là cần thiết vì việc xuyên tạc trên mạng Internet đang “gây chia rẽ, tác động vào nội bộ,” thành ra phải đặc biệt quan tâm đến việc “bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ an ninh thông tin, bí mật nhà nước.”


Trang Blog Chân Dung Quyền Lực. (Hình: NV chụp qua màn hình)

Viên tướng là bộ trưởng Quốc Phòng cũng khẳng định, năm tới, phải “quản lý chặt chẽ lĩnh vực an ninh mạng” và “không thể thả nổi như thế này”! Nhất là khi giới lãnh đạo CSVN đang “chuẩn bị quy hoạch cán bộ, tổ chức đại hội đảng, lấy phiếu tín nhiệm.” Những thông tin bôi nhọ lãnh tụ, cán bộ đang “gây phân tâm, mất niềm tin trong nhân dân.”

Thời gian vừa qua, trên Internet, có hàng loạt bằng chứng được trưng ra để chứng minh ông Trần Ðại Quang – Bộ trưởng Công An đương nhiệm, gian lận về tuổi tác nhằm tránh bị buộc về hưu, để trở thành thành viên Bộ Chính Trị.

Trên Internet, ông Quang cũng bị cáo buộc vừa trực tiếp tham nhũng, vừa để vợ dựa hơi, sử dụng quyền lực của ông để trục lợi.

Ông Phùng Quang Thanh – Bộ trưởng Quốc Phòng đương nhiệm, kiêm ủy viên Bộ Chính Trị thì bị tố cáo là “Phùng Quang Múc,” bởi đặt ra nhiều chủ trương, chính sách (chẳng hạn đem tiền được cấp để mua trang bị quốc phòng gửi ngân hàng) nhằm chia chác các nguồn lợi mà thuộc cấp kiếm được.
Ông Thanh cũng bị cáo buộc là đã cất nhắc, dung dưỡng con trai – một sĩ quan bất tài để chuẩn bị hậu cứ cho gia đình.

Vào thời điểm này, ngoài bộ trưởng Công An, bộ trưởng Quốc Phòng, nhiều nhân vật là lãnh đạo Ðảng CSVN cũng đang trở thành mục tiêu của một đợt công kích trên Internet. Trong đó, ông Nguyễn Xuân Phúc – Phó Thủ tướng Việt Nam bị chỉ trích dữ dội nhất.

Theo những tố cáo này thì ông Phúc là một kẻ “thượng đội hạ đạp, phản thầy.” Nhân vật này bị cáo buộc đã dùng nhiều thủ đoạn “thâm hiểm” để loại bỏ ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng, đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh – Trưởng Ban Kiểm Tra Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng. Ông Phúc cũng bị tố cáo là tham nhũng, sở hữu một khối tài sản khổng lồ, cả ở Việt Nam lẫn Hoa Kỳ.

Blog ‘Chân Dung Quyền Lực’

Gần đây, những thông tin về đời tư, tính cách của một số nhân vật lãnh đạo Ðảng CSVN, đang nắm giữ các vị trí trọng yếu của Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam được tập hợp và giới thiệu trên một blog có tên là “Chân Dung Quyền Lực” (http://chandungquyenluc.blogspot.com/).

“Chân Dung Quyền Lực” xuất hiện trên Internet vào khoảng tháng 10, trước khi các thành viên Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN khóa 11 họp Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN lần thứ 10 (Hội Nghị Trung Ương 10) để bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo Ðảng CSVN lần đầu tiên và chuẩn bị nhân sự cho Ðại Hội Ðảng khóa 12 sẽ diễn ra vào đầu năm 2016.



Ảnh chụp bằng lái xe của con ông Nguyễn Xuân Phúc khi du học tại Hoa Kỳ. Khả năng thu thập những “tài liệu” có tính chất riêng tư như thế này khiến người ta tin rằng giới lãnh đạo CSVN lại “đâm” nhau. (Hình: Blog “Chân Dung Quyền Lực”)

Theo dự kiến, Hội Nghị Trung Ương 10 sẽ diễn ra trong tháng 12 nhưng nay vẫn chưa được tổ chức và cũng chưa rõ sẽ dời lại đến khi nào.

Trên blog “Chân Dung Quyền Lực,” ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư đương nhiệm được xem là “kẻ phản bội, bất nhân, bất nghĩa.”

Ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch Nhà nước đương nhiệm được nhận định là “kẻ phá nát Ðảng CSVN,” nhân vật thực hiện “cú lừa dân chủ” để tìm sự hậu thuẫn của quần chúng.

Ông Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc Hội đương nhiệm bị ví như thủ lĩnh của một “gánh chèo,” kẻ vừa dùng “Quốc Hội tấn công Chính phủ,” vừa bán quyền lực để tham nhũng.

Có một điểm đáng chú ý là “Chân Dung Quyền Lực” lại dành sự trân trọng đặc biệt cho ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng đương nhiệm.

Không những không chỉ trích, “Chân Dung Quyền Lực” còn lựa chọn – giới thiệu thông tin về ông Dũng nhằm khắc họa ông như “một nhân tố nổi bật,” khác hẳn với thời điểm giữa năm 2012, trước khi Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN khóa 11 họp Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN lần thứ 6 (hội nghị được coi là dịp để xem xét trách nhiệm và xử lý ông Nguyễn Tấn Dũng, bởi đã phạm hàng loạt sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế và xã hội).

Lúc đó, trên Internet xuất hiện blog “Quan Làm Báo” (http://quanlambao.blogspot.com/). Qua blog “Quan Làm Báo,” ông Dũng được mô tả như một kẻ ngu dốt, tham lam, phạm nhiều đại tội, không thể khoan hồng.

‘Bí mật cung đình’

Tuy khác nhau về việc lựa chọn đối tượng để chỉ trích hoặc ủng hộ, song “Chân Dung Quyền Lực” và “Quan Làm Báo” có nhiều điểm tương đồng: Cả hai đều xuất hiện trên Internet vào thời điểm mà giới lãnh đạo Ðảng CSVN chuẩn bị đưa ra những quyết định quan trọng về nhân sự lãnh đạo. Cả hai đều thu thập-trưng dẫn nhiều tài liệu (đa số là đơn tố cáo), hình ảnh, minh họa cho những thông tin vốn thuộc loại riêng tư, thuộc phạm vi “bí mật cung đình” nên thu hút rất đông người xem. Thậm chí không ít người tin rằng những thông tin này xác thực bởi thường dân hay các “thế lực thù địch” không thể thu thập.

Trong quá khứ, việc dùng thông tin để bôi nhọ, triệt hạ đối thủ, chiếm đoạt – củng cố quyền lực đã từng được giới lãnh đạo CSVN sử dụng nhiều lần.

“Scandal” lớn nhất và đến giờ vẫn chưa được giải quyết dù gây nhiều bất bình trong nội bộ Ðảng CSVN là vụ Tổng Cục Tình Báo Quân Ðội (Tổng Cục 2) sử dụng vừa đơn tố cáo, nhân chứng giả, vừa báo cáo chính thức của Tổng Cục 2 để giúp ông Lê Ðức Anh củng cố quyền lực, loại bỏ vĩnh viễn ông Võ Nguyên Giáp khỏi chính trường, lật đổ ông Lê Khả Phiêu – một tổng bí thư, vu cáo nhiều ứng cử viên cho các vị trí lãnh đạo là… “đặc tình” của CIA, kể cả ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch Nhà nước đương nhiệm.

Từ khi dịch vụ Internet được cung cấp tại Việt Nam, các đơn tố cáo, tài liệu bạch hóa đời tư, tính cách của nhiều nhân vật là lãnh đạo Ðảng CSVN được đưa lên mạng toàn cầu ngày một nhiều. “Quan Làm Báo” hay “Chân Dung Quyền Lực” có dáng dấp của một loại nỗ lực mới để giới lãnh đạo CSVN “đâm” nhau.

Không may cho giới lãnh đạo CSVN là nỗ lực mang dấu ấn băng nhóm này lại đạt hiệu quả rất cao. Vì cần đám đông nên họ chủ động gạt bỏ chính sách “kiểm soát thông tin” và tất nhiên là không thể tránh được chuyện “nhân dân mất niềm tin.”

Khi quản trị quốc gia thiếu sự minh bạch, những blog như “Quan Làm Báo,” “Chân Dung Quyền Lực” là sự bổ sung cho nhau nhằm “điền vào chỗ trống” theo kiểu nửa hư, nửa thực.

Tác dụng mà có thể những người thực hiện các blog này không mong muốn, song lại rất tích cực là trong mắt công chúng, tất cả các nhân vật lãnh đạo của Ðảng CSVN – không trừ ai đều vừa ngu dốt, tham lam, vừa đê tiện, tàn bạo.

Và rằng, chẳng có lý do nào đủ sức thuyết phục để chấp nhận những cá nhân như thế tiếp tục định đoạt vận mệnh quốc gia, dân tộc. (G.Ð)

Việt Nam đang xét lại chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc

Việt Nam đang xét lại chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc

Chuacưuthe.com

VRNs (30.12.2014) – Melbourne, Úc Đại Lợi – Năm 1989, trước tình trạng Khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô khủng hỏang tòan diện, đảng Cộng sản giao nhiệm vụ tìm hiểu về “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?” cho Ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách.

Qua nghiên cứu thực tế ông Bách đã kết luận Việt Nam cần phải tìm một hướng đi riêng và cần nhịp nhàng đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị: “Hai lãnh vực này phải nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.”

Đáng tiếc, đảng Cộng sản đã không chấp nhận còn trù dập ông, rồi quay sang Trung Quốc vay mượn Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc nước này.

Thiếu tư tưởng hướng dẫn đảng Cộng sản càng ngày càng đưa đất nước vào ngõ cụt…

141230002

… đi mà không rõ đi đâu

Ngày 22-12-2014 vừa qua tại cuộc hội thảo do Ngân hàng Thế giới và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương tổ chức, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thú nhận: “Tôi cứ suy nghĩ mãi một điều, nếu chúng ta đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao giờ đến… thì không bao giờ chúng ta đi nhanh và bền vững được…”

Chắc bạn đọc vẫn nhớ ngày 23-10-2013 trước Quốc Hội, Nguyễn Phú Trọng đã cho biết: ”… xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.”

Và vào cuối năm 2013, tại Học viện Chính trị quốc gia, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết: “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.

Mô hình mà ông Vinh nhắc đến là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là bản sao của mô hình Trung Quốc.

… Việt – Trung đi đúng hướng

Là mô hình đảng trị với 4 trụ cột căn bản là: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xã hội xã hội chủ nghĩa và văn hóa theo bản sắc Trung Quốc.

Tạp Chí Cộng Sản Online, ngày 28-11-2014, vừa qua đã đăng bài “Góp phần tìm hiểu lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc”, bài viết đã giải thích lý do đảng Cộng sản đeo đuổi mô hình như sau:

“…do cả Việt Nam và Trung Quốc đều chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, đều lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng lý luận.

Ngoài ra, thời gian qua do quan hệ hợp tác và giao lưu giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều thuận lợi nên, lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc được các học giả Việt Nam rất quan tâm và về cơ bản những nội dung quan trọng nhất của hệ thống lý luận này được các học giả Việt Nam nắm bắt kịp thời.

Mặt khác, công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc và đổi mới, mở cửa của Việt Nam gần 30 năm qua có nhiều điểm giống nhau nên nghiên cứu lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc để rút ra những bài học kinh nghiệm, tham khảo cho xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một việc làm cần thiết…”.

Điều lý thú là bài viết lại nhìn ra thực tế:

“… xã hội Trung Quốc hiện nay cũng đang đứng trước vô vàn vấn đề gay gắt với nhiều thách thức và nguy cơ. Đó là sự phân hóa xã hội, sự phân hóa vùng miền, sự ô nhiễm môi trường, sự suy thoái về đạo đức, lối sống, bạo lực xã hội, các hành động cực đoan, chia rẽ, ly khai, sự tham nhũng, cửa quyền, sự bất ổn xã hội, vi phạm dân chủ,… Sự ổn định của kinh tế – xã hội của Trung Quốc hiện nay đang chất chứa trong nó nhiều mâu thuẫn xã hội gay gắt…”

Từ thực trạng xã hội tại Trung Quốc (và Việt Nam) như trên, bài viết đã biểu lộ nghi ngờ và đặt ra nhiều câu hỏi như: “Lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có thực sự đưa Trung Quốc lên chủ nghĩa xã hội hay không, hay sẽ dẫn dắt Trung Quốc tới đâu?”

Bài viết đã được phổ biến trên Cơ Quan Lý Luận và Chính Trị của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, lại phổ biến trước Hội Nghị 10 để sửa sọan cho Đại hội XII cho thấy quan điểm xét lại Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc đã xuất hiện từ phía bên trên đảng Cộng sản Việt Nam.

Đến ngày 25-12, Ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc Du Chính Thanh sang Việt Nam gặp hầu hết giới cầm quyền bao gồm: Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Hồng Anh và Nguyễn Thiện Nhân.

Tại Đại học Hà Nội, Du Chính Thanh đã chính thức khai trương Viện Khổng tử với một mục đích truyền bá Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc, để củng cố và phát triển quan hệ Việt – Trung.

Được Tân Hoa xã phỏng vấn Du Chính Thanh cho biết: “Chuyến thăm của tôi, do Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản và Tổng bí thư Tập Cận Bình yêu cầu, nhằm mục đích nâng cao hiểu biết song phương, xây dựng đồng thuận và thúc đẩy tiến bộ trong các quan hệ Trung – Việt theo đúng hướng.

… đi Chệch Hướng?

Việt Nam đang muốn ký kết các hiệp định như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Các hiệp định này đòi hỏi Việt Nam phải chuyển đổi để thính hợp với các quốc gia cùng ký kết.

Cụ thể Việt Nam phải xây dựng Nhà nước thượng tôn pháp luật với 4 cột trụ chính là: kinh tế thị trường, chính trị tự do, xã hội dân sự và văn hóa nhân bản tôn trọng con người.

Gần đây giới chức và truyền thông Việt Nam có nói đến các điều kiện để Việt Nam hội nhập với các quốc gia dân chủ, nhưng rất mập mờ khi nói đến mô hình dân chủ tự do. Trong một bài khác người viết sẽ trình bày một cách cụ thể và rõ ràng mô hình này.

Nếu năm 1989, ý kiến ông Trần Xuân Bách được đảng Cộng sản lắng nghe và tôn trọng thì ít nhất Việt Nam cũng đi được một phần của con đường hội nhập. Nhưng vì đi theo Trung Quốc, Việt Nam vẫn chỉ là một bản sao tồi của Chủ Nghĩa (và Mô Hình) Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc.

Vì thế hiện nay trong nội bộ đảng Cộng sản không phải chỉ xảy ra những tranh giành nhân sự. Mà còn xẩy ra những tranh chấp về tư tưởng và đường lối như vấn đề Biển Đông, đảng hay nhà nước nắm quân đội, tiếp tục theo hay từ bỏ Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc…

Kết

Trong guồng máy nhà nước đến Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng mà phải còn buộc miệng than rằng: “… đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao giờ đến…”.

Còn dân vẫn tiếp tục bị bịt miệng. Ba bloggers Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập và Nguyễn ngọc Già vừa bị bắt. Bài cuối cùng ông Nguyễn Quang Lập đăng trên blog Quê Choa là bài: “Vì sao cần cảnh giác với Viện Khổng Tử”.

Không màng đến nguy cơ mất nước, đến thực trạng khủng hỏang tòan diện, đến nguyện vọng của người dân, tương lai Việt Nam vẫn chỉ do một nhóm người hay ngọai bang Trung Quốc quyết định.

Để thóat khỏi Chủ Nghĩa Xã Hội mang Bản Sắc Trung Quốc chỉ còn con đường duy nhất là cả nước phải vùng lên giành lại quyền tự quyết dân tộc.

Nguyễn Quang Duy

Gia đình 5 người Việt thiệt mạng trong tai nạn giao thông ở Indiana

Gia đình 5 người Việt thiệt mạng trong tai nạn giao thông ở Indiana

Nguoi-viet.com

TIPTON COUNTY, India (NV) – Một gia đình năm người Việt vừa bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi xảy ra trên xa lộ 31 thuộc Tipton County, cách Indianapolis, Indiana, chừng 30 dặm về phía Bắc hôm Thứ Sáu, theo tin đài truyền hình WTHR 13, một chi nhánh địa phương của đài NBC.

(Hình minh họa: David Ryder/Getty Images)
Theo bản tin, chiếc xe Jaguar màu đỏ đời 2001 chở năm người chạy trên xa lộ 31 về Nam, khi gần đến Indianapolis, thì bị lạc tay lái về bên phải.

Ngay lập tức, ông Dennis Nguyễn, người lái xe, tìm cách bẻ lại bên trái, nhưng quá lố, và chiếc xe vượt qua vạch giữa đường, chạy về hướng ngược chiều giao thông, đụng vào một chiếc xe tải Peterbilt chở hàng đang chạy về hướng Bắc, theo cảnh sát cho biết.

Chiếc xe bị bẹp dúm, ông Dennis Nguyễn, 43 tuổi; người vợ Cao Thị Thu Hà, 44 tuổi; con trai Hùng Vinh Nguyễn, 9 tuổi; và con gái Lindsay Cao Vân Nguyễn, 7 tuổi, chết tại chỗ.

Riêng cô con gái Linda Hà Vy Nguyễn, 14 tuổi, bị thương nặng, được trực thăng đưa vào bệnh viện Eskenazi Health ở Indianapolis, nhưng sau đó qua đời.

Cảnh sát tin rằng, cả gia đình ông Dennis, cư ngụ ở tiểu bang Arkansas, đều có đeo dây an toàn khi ngồi trong xe.

“Chúng tôi đang điều tra nhiều tai nạn trong khu vực đang bị thời tiết lạnh đóng băng, nhưng tai nạn này có phải do đường trơn trượt gây ra hay không thì chưa biết,” cảnh sát viên Paul Daugherty trả lời phỏng vấn của đài truyền hình địa phương qua điện thoại cho biết.
Tài xế xe tải cũng bị đau, được đưa vào bệnh viện, nhưng sau đó được về nhà.

Sau khi tai nạn xảy ra, cả hai hướng lưu thông của xa lộ 31 đều bị đóng để dọn dẹp và di chuyển thi hài người quá cố.

Cảnh sát tiểu bang Indiana vẫn đang điều tra nguyên nhân tai nạn. (Đ.D.)