Hai vụ bắt con tin đầy kịch tính đang diễn ra tại Pháp

Hai vụ bắt con tin đầy kịch tính đang diễn ra tại Pháp

Thành viên trong lực lượng đặc nhiệm Pháp GIPN canh gác một khu vực ở đông bắc Paris.

Thành viên trong lực lượng đặc nhiệm Pháp GIPN canh gác một khu vực ở đông bắc Paris.

09.01.2015

Một tay súng đang cầm giữ nhiều con tin tại một siêu thị Kosher ở Paris, trong lúc các lực lượng an ninh Pháp đang bao vây một thị trấn nằm về hướng Bắc thủ đô Paris, nơi hai nghi phạm chính trong vụ thảm sát tại tòa soạn tuần báo Charlie Hebdo đang ẩn náu và đang bắt giữ một con tin.

Một giới chức cảnh sát cho hay tay súng trong vụ bắt con tin ở siêu thị được tin là người đàn ông đã bắn chết một nữ nhân viên cảnh sát ở phía Nam Paris hôm qua.

Các nguồn tin cảnh sát đã liên kết nghi phạm này với Cherif và Said Kouachi, hai anh em là nghi can đã sát hại 12 người trong cuộc tấn công vào toà soạn báo Charlie hôm thứ Tư.

Các lực lượng an ninh Pháp nói họ đã liên lạc với hai anh em Kouachi đang cầm giữ ít nhất một con tin.

Hai anh em can phạm vụ thảm sát Chérif Kouachi (trái) và Said Kouachi.

Hai anh em can phạm vụ thảm sát Chérif Kouachi (trái) và Said Kouachi.

Hai nghi can này dang ẩn náu tại một nhà kho ở thị trấn Dammartin-en-Geole, nằm cách Paris khoảng 40 km về hướng đông bắc.

Cherif và Said Kouachi lặp đi lặp lại với các nhà thương thuyết của cảnh sát rằng họ sẵn sàng “tử vì đạo”.

Trong khi các máy bay trực thăng bay trên không, các xe van của cảnh sát và xe chữa lửa ùa tới hiện trường. Thị trưởng địa phương cảnh báo cư dân hãy ở trong nhà. Thị trấn này nằm cách sân bay quốc tế Charles DeGaulle không xa.

Bộ trưởng Nội vụ Pháp Bernard Cazeneuve xác nhận là chính quyền Pháp đang được xúc tiến một chiến dịch để bắt giữ các nghi phạm. Ông phát biểu ngay sau một cuộc họp khẩn cấp với tổng thống, thủ tướng và các giới chức cảnh sát.

Hơn 88.000 cảnh sát và lực lượng an ninh đang tìm kiếm hai anh em nghi phạm.

Một nghi can thứ ba, là Hamyd Mourad, 18 tuổi, đã ra đầu hàng hôm thứ tư. Hiện vẫn chưa rõ sự liên hệ giữa nghi can này với hai kẻ vũ trang.

Lực lượng vũ trang trên máy bay trực thăng quân sự ở thị trấn Dammartin-en-Goële, đông bắc Paris, ngày 9/1/2015.

Lực lượng vũ trang trên máy bay trực thăng quân sự ở thị trấn Dammartin-en-Goële, đông bắc Paris, ngày 9/1/2015.

9 người đã bị bắt giam để thẩm vấn về những thông tin mà họ có thể có về cuộc tấn công chết người vừa rồi.

Trong khi đó, thế giới đang để tang 12 người thiệt mạng trong vụ giết người hàng loạt xảy ra hôm thứ tư tại tờ tuần báo trào phúng nổi tiếng là hay chế nhạo tất cả các tôn giáo, trong đó có Hồi giáo. Trong số những người chết, có 2 nhân viên cảnh sát.

Cư dân Paris đã dành một phút mặc niệm dưới cơn mưa lạnh buốt hôm Thứ năm, tay cầm bút và bút chì như một biểu tượng của quyền tự do ngôn luận. Tháp Eiffel đã tắt đèn để tưởng niệm các nạn nhân.

Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã im lặng một lúc trước cuộc họp hôm thứ năm.

Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã ký vào sổ tang tại Đại sứ quán Pháp ở Washington. Ông gọi những vụ giết người này là ‘tàn ác và hèn nhát’.

Hai vụ giết người tàn độc xảy ra trong một ngày

Hai vụ giết người tàn độc xảy ra trong một ngày

Nguoi-viet.com

ÐỒNG NAI (NV) Chỉ vì những mâu thuẫn bình thường trong đời sống hàng ngày mà các hung thủ đã ra tay sát hại người thân, người quen một cách tàn độc.

Tờ Tuổi Trẻ cho biết, đến sáng ngày 8 tháng 1, công an tỉnh Ðồng Nai hoàn tất việc khám nghiệm hiện trường vụ án mạng xảy ra giữa đêm khuya tại nhà ông Trần Văn Hùng (42 tuổi), ngụ ấp Cáp Rang, xã Suối Tre, thị xã Long Khánh, khiến chị Trần Thị Ngọc Hậu (18 tuổi), con gái ông Hùng chết tại chỗ và con chị Hậu là cháu Ð.P.L. (16 tháng tuổi) phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch.



Lương Vĩnh Phúc, người giết ông Bảo một cách tàn độc. (Hình: Tuổi Trẻ)

Nghi can gây ra vụ án mạng ban đầu được xác định là chồng chị Hậu, ông Ðoàn Huy Hoàng (32 tuổi).

Khoảng 1 giờ cùng ngày, vợ chồng ông Hùng đi cạo mủ cao su về đến nhà thì tá hỏa vì cửa nhà bị khóa trái bên trong. Khi vào được trong nhà, ông Hùng thấy một gói thuốc lá xếp hình một quan tài và một chai thuốc trừ sâu để ở giữa nhà.

Ông Hùng tiếp tục chạy vào giường con mình nằm ngủ thấy máu chảy lênh láng và thấy chị Hậu nằm gục trên giường, còn cháu Long đang nằm thoi thóp với vết đâm ở ngực. Ông Hùng đã đưa hai mẹ con đi bệnh viện cấp cứu. Tuy nhiên, chị Hậu đã chết trước đó.

Qua xác minh trong đêm, công an phát hiện ông Hoàng nằm bất tỉnh tại nhà mình, cách hiện trường khoảng 500m có mùi thuốc trừ sâu nồng nặc và nhanh chóng đưa ra bệnh viện Suối Tre cấp cứu. Còn cháu L. chuyển lên bệnh viện Chợ Rẫy.

Theo ông Hùng, vợ chồng chị Hậu lấy nhau được hai năm và sống bên nội. Hàng ngày, chị Hậu gởi con cho ông bà nội trông coi, đi làm công nhân tại khu công nghiệp Trảng Bom. Còn ông Hoàng không có việc làm, ở bên nội nhưng thường xuyên qua nhà ông Hùng kiếm chị Hậu gây gổ. Thời gian gần đây giữa chị Hậu và Hoàng thường có mâu thuẫn.

Cũng theo Tuổi Trẻ, cùng thời điểm trên, khoảng 0g ngày 8 tháng 1, Lương Vĩnh Phúc (29 tuổi) ở thôn 12, xã Ðắk Sin, huyện Ðắk R’lấp, tỉnh Ðăk Nông đã đến công an huyện Ðắk R’lấp để đầu thú, tự khai nhận hành vi giết người, đồng thời giao nộp con dao là hung khí gây án cho cơ quan điều tra.

Trước đó một ngày, hôm 7 tháng 1, khi vào thăm rẫy ở xã Ðắk Sin, huyện Ðắk R’lấp, Ðắk Nông, người dân tìm thấy ông Phạm Văn Bảo (35 tuổi), trú tại thôn Quảng Trung, xã Nghĩa Thắng, huyện Ðắk R’lấp, đã chết trong tư thế đang nằm trên võng, với hàng chục nhát, trong đó có một nhát chém đứt đầu nạn nhân rất tàn độc.

Theo lời tự thú của ông Phúc, vào trưa ngày 7 tháng 1, trong lúc đang cùng người nhà xay cà phê thì ông Bảo đi xe máy tới. Vừa tới nơi, ông Bảo không nói gì với ông Phúc mà dựng xe máy trước sân và đi thẳng vào võng nhà ông Phúc nằm.

Khoảng 30 phút sau, ông Phúc vào nhà để uống nước và lấy dụng cụ sửa máy xay thì thấy ông Bảo mở mắt nhìn mình nhưng không nói gì.

Do trước đây đã có mâu thuẫn, thấy vậy ông Phúc nghĩ ông Bảo có ý định thách thức mình nên nảy sinh ý định giết chết. Thế là liền lấy dao phát dưới gầm giường chém liên tiếp khiến ông Bảo chết tại chỗ.

Nguyên nhân hai vụ án đang được công an tiếp tục điều tra làm rõ. (Tr.N)

Thủy điện VN là món nợ lớn với dân’

Thủy điện VN là món nợ lớn với dân’

Giải quyết hậu quả của các dự án thủy điện với nông nghiệp, nông dân và nông thôn đang là ‘món nợ’ của nhà nước với dân, theo chuyên gia chính sách từ Việt Nam.

Trao đổi với BBC hôm 09/01/2015, nhà nghiên cứu chính sách công Phạm Quý Thọ từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng Việt Nam hiện đang phải ‘trả giá’ trong lĩnh vực năng lượng do việc ‘tăng trưởng nóng’ từ phát triển ‘tùy tiện’ các dự án thủy điện, thủy lợi trong cả nước nhiều năm qua.

Phó Giáo sư Thọ cho rằng có ba cơ quan phải chịu trách nhiệm chính đối với các dự án vốn gây xáo trộn dân sinh, phá hoại môi trường và để lại nhiều hậu quả kinh tế, xã hội nghiêm trọng.

PGS Phạm Quý Thọ nói việc giải quyết hậu quả các dự án thủy điện đang là một ‘món nợ’ với dân.

Đó là các Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Ủy ban Nhân dân các cấp.

Nhà nghiên cứu cho rằng nạn phát triển tràn lan thủy điện ‘bằng mọi giá’ xuất phát một phần từ bệnh thành tích, từ cơn đua xin dự án mà trong đó có nhiều liên hệ tới các lợi ích nhóm.

Trong cuộc trao đổi với BBC hôm 09/01/2015, PGS. TS. Phạm Quý Thọ cũng bình luận về các bài học về hoạch định, thực hiện chính sách mà trước mắt để giải quyết hậu quả và về lâu dài là để tránh lặp lại các cách làm không tốt.

Nhà nghiên cứu cũng đề cập tới một số vấn đề liên quan tới có nên làm hay không ‘năng lượng nguyên tử’ ở Việt Nam và nhìn chung cần quan tâm điều gì nhất khi ra các quyết định chính sách trong lĩnh vực năng lượng và phát triển này.

‘Cái nhìn hạn hẹp’

Tạp chí The Economist của Anh vào hôm 9/01 có bài bàn về thủy điện ở Việt Nam. Bài báo cho hay vào năm 2013 Quốc hội nói có 268 dự án thủy điện đang được vận hành với 205 dự án nữa dự kiến sẽ hoạt động vào năm 2017.

“Tuy nhiên cơn sốt thủy điện có cái giá phải trả. Sông và rừng già đã bị tàn phá, và hàng chục ngàn dân làng, thường là người dân tộc thiểu số phải di dời. Nhiều người đã được tái định cư trên đất nghèo. Những người ở lại có nguy cơ lũ quét gây ra bởi công nghệ đập yếu kémi và giám sát không đầy đủ. Trung tâm Phát triển Tái tạo Năng lượng Xanh, một nhóm môi trường tại thủ đô Hà Nội, cho biết việc xây dựng đập kém chất lượng không phải là hiếm và các nhà thi công xây dựng không đếm xỉa gì tới câu hỏi liệu dự án của họ có thể gây tác động dẫn tới động đất hay không.

Khi mưa lớn vào mùa hè và mùa thu, nước lũ tràn tường đập mà không hề có cảnh báo hoặc cảnh báo rất ít

Bài báo cho biết nhiều công ty thủy điện này được sở hữu bởi hoặc liên kết với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), doanh nghiệp nhà nước thua lỗ nhưng làm ăn độc quyền.

“Bởi vì thủy điện là nguồn điện rẻ nhất của Việt Nam, EVN quả quyết rằng đầu tư vào những đánh giá cho biện pháp an toàn cho đập sẽ tiếp tục làm yếu vị thế tài chính của mình. Thực tế là, mặc dù đánh giá ảnh hưởng môi trường có tác động đối với các dự án thủy điện là việc bắt buộc, việc đánh giá này không bao giờ được công bố, theo Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP).

“Một vấn đề là khi các quan chức có quyền lợi trong các dự án thủy điện là họ đặt công suất phát điện lên trên nhu cầu quản lý nước vì lợi ích và sự an toàn của người dân địa phương. Các công ty thủy điện muốn giữ hồ trữ nước của họ càng đầy càng tốt để tạo ra càng nhiều điện trong bối cảnh sông ngòi của Việt Nam cho phép.

“Nhưng cái nhìn hạn hẹp đó có thể làm nông dân mất nước tưới tiêu trong mùa khô. Và khi mưa lớn vào mùa hè và mùa thu, nước lũ tràn tường đập mà không hề có cảnh báo hoặc cảnh báo rất ít. Khi đập bị vỡ vào tháng Tám ở tỉnh Gia Lai, một dân làng nói với báo Thanh Niên rằng tiếng ồn và sự hoảng loạn chẳng khác gì những đợt ném bom từ thời chiến tranh”, báo The Economist cho hay.

KẺ XẤU ĐÃ THẮNG TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM

KẺ XẤU ĐÃ THẮNG TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM

Tác giả: Uwe Siemon-Netto

(http://www.legion.org/magazine/217890/wrong-side-won)

Người dịch: Trần Văn Minh

01-12-2013

clip_image002

Một phụ nữ Việt đang than khóc bên cạnh xác chồng, được tìm thấy trong số 47 người khác tại một ngôi mộ tập thể gần Huế. Ảnh Corbis

Vào lúc cao điểm của chiến tranh Việt Nam, Ralph White đã tìm cách gia nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nhưng bị từ chối vì mắt bị chấn thương khi chơi tennis trước đó. Tuy nhiên, khi cuộc chiến đầy biến động gần tới hồi kết thúc hồi tháng 4 năm 1975, ông White khi ấy 27 tuổi, đang ở Sài Gòn, đã làm đúng với phương châm người lính thủy quân lục chiến “luôn luôn trung thành” – chỉ với phương cách dân sự.

Bằng cách khuyến dụ, thuyết phục và khéo léo qua mặt các thủ tục hành chánh, White đã tìm được một phương cách tuyệt vời để cứu thoát 112 nhân viên Việt Nam của Ngân hàng Chase National Bank và những người gia đình của họ: ông chỉ đơn giản nhận bảo trợ tất cả những người đó, trước sự chứng kiến của các thẩm phán Mỹ đang làm nhiệm vụ khẩn cấp tại sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Trong khi đối mặt với thất bại sắp xảy ra của đồng minh Hoa Kỳ là người Việt ở miền Nam, người công dân Mỹ này đã đạt được một chiến thắng tuy nhỏ bé nhưng thật nổi bật.

Bốn ngày sau đó, vào ngày 30 tháng 4, xe tăng T-54 của Liên Xô đã hoàn tất cuộc chinh phục của cộng sản đối với miền Nam Việt Nam bằng cách cán qua cổng rào của dinh tổng thống ở Sài Gòn. Ở bên trong, Tổng thống miền Nam, Việt Nam là ông Dương Văn Minh (Big Minh) đề nghị chuyển giao quyền hành. Đại tá Bắc Việt Bùi Tín trả lời: “Không có chuyện chuyển giao quyền lực… Ông không thể chuyển giao cái mà ông không có”.

Đối với tôi, một người Đức, những lời này nghe có vẻ giống các điều khoản của Đồng Minh áp đặt lên đất nước chúng tôi năm 1945, khi tôi còn là một đứa trẻ: đầu hàng vô điều kiện. Sự trớ trêu là trong khi vào cuối Đệ Nhị Thế chiến, một chính phủ rõ ràng là độc ác đã bị buộc phải đầu hàng theo cách này, điều trái ngược lại xảy ra 30 năm sau ở Sài Gòn: một chế độ độc tài toàn trị với các đặc điểm vô nhân đạo đến tận cùng uy hiếp một đối thủ nhân đạo hơn nhiều – mặc dù có những khuyết điểm – vào tình thế đầu hàng vô điều kiện, và được thế giới hoan hô.

Sau thời gian tường thuật về Việt Nam cho một nhà xuất bản lớn nhất của Tây Đức trong khoảng thời gian 5 năm, tôi kết luận rằng: kẻ xấu đã thắng. Không có lý do gì để vui mừng. Tuy nhiên, khi Tổng thống Gerald Ford tuyên bố tại Đại học Tulane ở New Orleans rằng chiến tranh Việt Nam “đã chấm dứt, ít nhất là đối với Hoa Kỳ”, một tuần trước khi miền Nam, Việt Nam cuối cùng đã bị tiêu diệt, ông đã nhận được sự hoan hô nồng nhiệt.

Đáng lẽ ra các phản ứng này nên được kềm lại trước số phận tăm tối của số lượng lớn những người Việt bị chuyển giao. Đối với họ, hành trình tử nạn thực sự chỉ mới bắt đầu với chiến thắng của cộng sản. Khoảng từ 200.000 tới 400.000 người đã bị chết chìm trong khi chạy trốn khỏi đất nước của họ trên những chiếc thuyền đánh cá và thuyền chắp vá tạm bợ, theo Cao ủy LHQ về người tị nạn. Khoảng 65.000 người đã bị hành quyết. Một triệu người bị đẩy vào các trại tập trung, ở đó, 165.000 người bị tra tấn hay bị bỏ đói đến chết. Trong số những người bị giết gồm có 30.000 người trong danh sách tình báo viên của CIA bị sót lại tại tòa đại sứ, theo tường trình của National Review.

Tính theo tỷ lệ, Ralph White thành công vượt trội so với chính phủ Hoa Kỳ: anh đã đem được tất cả người của mình ra, như đã dự tính khi anh tình nguyện chuyển từ Bangkok đến Sài Gòn để làm quyền tổng giám đốc cho chi nhánh Chase ở Việt Nam hai tuần trước khi Sài Gòn thất thủ. Trong báo cáo với cấp trên của mình tại Chase sau này, ông viết rằng “việc duy trì mối liên lạc giữa ngân hàng Mỹ và tòa đại sứ để bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ trong kế hoạch di tản” là “mục đích duy nhất” cho sứ mạng của anh.

“Đọc lại báo cáo của mình làm cho tôi khá tự hào về người đàn ông 27 tuổi này,” Ông White, người bây giờ là một nhà văn ở Litchfield, Connecticut cho biết.

Gần bốn thập niên sau sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, tôi gặp một câu chuyện cảm động về một công dân Mỹ dũng cảm và trung thành với những giá trị của mình như bất cứ người lính nghiêm chỉnh nào. Patricia Palermo là một cô gái tiếp viên hàng không tóc vàng của hãng máy bay Pan Am từ Nebraska, tình nguyện làm tiếp viên trưởng cho các chuyến bay liên tục từ Guam đến Sài Gòn, đưa “những chàng trai trẻ má hồng và tinh thần phấn khởi” ra mặt trận, như cô nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn gần đây. “Khi tôi thấy họ một lần nữa 12 tháng sau đó, họ trông giống như những người đàn ông 50 tuổi. Nhiều người bị thương và tàn phế, một số bị đánh thuốc mê. Họ không được phép lên máy bay cho đến khi sau những ‘người trở về’ khác đã được xếp vào khoang hàng hóa – những người nằm trong quan tài kẽm”.

Palermo hiện đang sống ở New York, cho biết trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại rằng bà bị tác động tình cảm dữ dội về các chuyến bay này đến nỗi bà đã loại ra khỏi tâm trí của mình cho đến năm 1980, khi bà xem trên truyền hình về tường thuật trực tiếp cuộc diễu hành đầu tiên vinh danh các cựu chiến binh Việt Nam. “Tôi lập tức lao ra khỏi nhà và cùng tham gia”, bà nhớ lại.

Phần đáng ghi nhớ nhất trong sự nghiệp hàng không của mình trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi Pan Am đem ít nhất 2.000 trẻ sơ sinh, hầu hết là người Mỹ gốc Á đang chờ được nhận làm con nuôi ở Hoa Kỳ, ra khỏi Sài Gòn. “Chúng tôi không được phép rời khỏi máy bay vì hỏa lực địch, nhưng chúng tôi có thể thấy một số bà mẹ tuyệt vọng ném con em của họ qua hàng rào tại Tân Sơn Nhất để được phi hành đoàn chúng tôi đưa đến nơi an toàn. Tôi nhớ một ai đó đưa cho tôi hai em bé giấu trong một cái giỏ. Một lần tôi đếm được hơn 400 trẻ sơ sinh trên chiếc máy bay Boeing 747 của chúng tôi. Trẻ sơ sinh ở khắp mọi nơi, ngay cả trong các ngăn để hành lý phía trên chỗ ngồi, và chúng nó rất yên lặng, luôn luôn yên lặng…. “

Tôi đã chứng kiến sự sụp đổ của Sài Gòn trên truyền hình trong căn chung cư của tôi ở Paris với nỗi đau buồn và tức giận vô cùng. Tôi ngạc nhiên trước việc thi hành hoàn hảo Chiến dịch Gió lốc, đã di tản 1.373 người Mỹ cuối cùng, cộng với 5.595 người Việt Nam và người các nước khác, chủ yếu bằng máy bay trực thăng từ một bãi đáp trên nóc nhà của văn phòng tùy viên quân sự ở Tòa Đại sứ Mỹ ngày 29 và 30 tháng 4. Tôi đã ở đó bảy năm trước trong dịp Tết Mậu Thân và theo dõi từ bên kia đường cuộc tấn công bị đánh bại của cộng sản vào Tòa Đại sứ. Bây giờ họ sắp sửa chiến thắng; vì thế tôi đau buồn.

Tuy nhiên, cơn giận của tôi chủ yếu hướng về các sinh viên và trí thức, những người cổ vũ chiến thắng của cộng sản là một hành động giải phóng. Họ hành xử như thế ở khắp mọi nơi: bên kia sông Seine ở Bờ trái; ở đất nước của tôi, Tây Đức; và ở Hoa Kỳ. Chứng kiến một biển cờ Việt Cộng màu xanh đỏ trên TV làm cho tôi cảm thấy muốn mửa, bởi vì đối với tôi, những màu sắc này tiêu biểu cho các vụ thảm sát tàn khốc mà tôi đã chứng kiến ở Việt Nam.

Chẳng hạn như, một đêm ở Tây Nguyên, tôi đã tình cờ gặp những xác chết bị chặt chân tay của một ông xã trưởng, vợ ông và 12 đứa con của họ, tất cả đã bị các tay sai cộng sản tra tấn. Theo như những người dân làng nói với tôi, gia đình đó đã bị giết chết bởi vì ông xã trưởng vẫn trung thành với chính quyền Sài Gòn. Đó là vào năm 1965. Trong năm 1967 là năm bầu cử, Việt Cộng đã thi hành ít nhất 100.000 hành vi khủng bố như thế chống lại dân thường để ngăn cản họ không đi bỏ phiếu.

Khi xướng ngôn viên Pháp thông báo sự kết thúc của miền Nam Việt Nam, tự nhiên tôi với lấy một cuốn sách nằm trên bàn cạnh giường ngủ của tôi ở khách sạn Continental Palace ở Sài Gòn và tôi mang theo tới Paris: “Hai nước Việt Nam”. Tôi đã từng gặp tác giả cuốn sách, nhà khoa học chính trị Pháp Bernard B. Fall, nhiều lần ở Sài Gòn và Washington trước khi ông bị giết bởi một quả mìn Việt Cộng. Đối với tôi, ông là một trong những chuyên gia sắc bén nhất về Đông Dương. Một đoạn trong cuốn sách của ông đã ám ảnh tôi từ đó đến giờ. Fall trích lời một chiến lược gia chủ yếu của Bắc Việt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã qua đời ngày 4 tháng 10 [năm 2013] ở tuổi 102, nói với các chính ủy của một trong những sư đoàn của ông: “Kẻ thù (có nghĩa là phương Tây) … không có… các phương tiện tâm lý và chính trị để chống lại một cuộc chiến tranh kéo dài”.

Giáp chưa bao giờ nghi ngờ khả năng quân sự của Mỹ, nhưng tin rằng ông đã tìm thấy gót chân Asin của hệ thống dân chủ, như Fall giải thích: “Trong tất cả các khả năng, Giáp kết luận, công luận trong các nền dân chủ sẽ đòi hỏi chấm dứt sự ‘đổ máu vô ích’, hay cơ quan lập pháp của họ sẽ yêu cầu được biết trong bao lâu nữa họ sẽ phải bỏ phiếu gia tăng không ngừng tín dụng khi không có một chiến thắng rõ ràng trước mặt. Đây là những điều luôn luôn bắt ép các nhà lãnh đạo quân sự của các quân đội dân chủ phải hứa hẹn một kết thúc nhanh chóng cho cuộc chiến – để ‘đưa các chàng trai về nhà vào dịp Giáng sinh’ – hoặc buộc các chính trị gia dân chủ phải đồng ý với hầu hết các loại thỏa hiệp nhục nhã, thay vì chấp nhận ý tưởng về chiến dịch chống du kích bán thường trực”.

Phải chăng sự thể thảm khốc này nảy sinh từ thất bại của Washington trong việc đáp trả, như đã hứa, “với lực lượng quân sự đáng kể” đối với bất kỳ vi phạm nào của Bắc Việt trong việc thi hành Hiệp Định Paris 1973, tôi tự hỏi? Hiệp định đã cho phép Hà Nội giữ lại 80.000 quân chính quy ở miền Nam, nhưng không có gì xảy ra khi con số đó tăng lên đến 200.000. Khi thảm kịch Việt Nam diễn ra quá tàn khốc, tôi cũng tự hỏi làm thế nào chúng tôi trong giới truyền thông, bao gồm đại đa số trong chúng tôi không đứng về phía Việt Cộng (một cách công khai hay âm thầm), đã không làm cho độc giả của chúng tôi nhận ra những bằng chứng không thể chối cãi nhất, rằng hầu hết người dân miền Nam không bao giờ ủng hộ cộng sản: từ đầu, chúng tôi, các phóng viên, đã nhìn thấy họ chạy trốn Việt Cộng.

Họ chạy trốn không phải vượt qua sông Bến Hải vào Bắc Việt, cũng không vào cái gọi là vùng giải phóng – “giải phóng” bởi những người cộng sản. Cho đến cuối cùng, những người tị nạn đổ xô về phần thu hẹp của đất nước dưới quyền kiểm soát của Sài Gòn; 2 triệu người đổ vào thành phố Đà Nẵng. Những con đường về Sài Gòn đã quá đông đúc với những gia đình chạy trốn đến nỗi làm chậm lại bước tiến quân của Bắc Việt, và khi mọi chuyện lắng dịu, “thuyền nhân” không những ra đi từ phía Nam với số lượng khổng lồ mà còn từ các cửa khẩu phía Bắc. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam có một cuộc di cư hàng loạt khỏi đất nước như vậy – không phải trong những ngày dưới quyền Trung Hoa, Pháp hay Mỹ. Và điều này được cho là giải phóng? Bằng cách nào đó, lúc đó tôi nghi ngờ và bây giờ đã tin, lối lập luận đó là một trong những thiệt hại của chiến tranh Việt Nam. Và cũng như sự trung thực trí thức.

Một hình ảnh lóe sáng trên màn hình TV ở Paris đã ghi khắc trong tôi nhiều thập niên vì đã đâm sâu vào suy tư của tôi. Hình ảnh cho thấy Phó Tổng thống Miền Nam Nguyễn Cao Kỳ đang cầm lái chiếc trực thăng UH-1A (Huey) hạ cánh trên boong của hàng không mẫu hạm USS Midway. Tôi đã được biết ông Kỳ khá rõ và thích ông. Đúng thế, ông là tướng lãnh hào nhoáng của Không lực Việt Nam, một con công như nhiều nhà quân sự trong suốt lịch sử. Nhưng ông không phải là anh hề quanh co như thường được mô tả.

Sáu năm trước, tháng 5 năm 1969, Kỳ và tôi đã đi du lịch với nhau từ Paris đến vào Sài Gòn, nơi tôi làm phóng sự về các cuộc đàm phán hòa bình của Việt Nam và ông dẫn đầu đoàn đại biểu Sài Gòn. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi lủng củng một cách bất thường, có lẽ bởi vì cả hai chúng tôi biết rằng mọi chuyện đã không diễn ra tốt đẹp ở Paris cho phía của ông; rõ ràng là một nhận thức sai lầm ở Hoa Kỳ và các nơi khác về Tết Mậu Thân năm 1968 đã phá vỡ ý chí của Mỹ để mang cuộc xung đột này đến một kết luận chiến thắng.

“Nhưng chúng tôi đã thắng vào dịp Tết!” Kỳ nổi giận. “Tại sao người Mỹ nghĩ khác đi?”

Tôi trả lời: “Tôi biết, thưa Thiếu tướng, tôi ở Huế trong thời gian ông giành chiến thắng. Nhưng công chúng tại Hoa Kỳ và Âu châu đã nhận được thông tin khác nhau”.

Tại Huế, tôi đã đứng bên mép một ngôi mộ tập thể, chứa thi thể của ít nhất 1.000 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị những người cộng sản tàn sát. Một nhóm truyền hình Mỹ lảng vảng quanh hiện trường một cách vô định. “Tại sao bạn không quay phim cảnh này?” Đồng nghiệp của tôi, Peter Braestrup, báo The Washington Post, hỏi họ. Người quay phim của họ trả lời: “Chúng tôi đến đây không phải để tuyên truyền chống cộng sản”.

Tôi đã nói với Kỳ điều này, và ông ta đã không bình luận. Ông ta biết tôi biết rằng chiến thắng quân sự của Mỹ và VNCH vào dịp Tết đã bị biến thành một thất bại chính trị khi Walter Cronkite tuyên bố chiến tranh không thể thắng trên CBS trong một chuyến thăm ngắn sau Tết. Điều này trái ngược hẳn với những gì nhiều người trong chúng tôi, phóng viên chiến trường, đã chứng kiến và tường thuật từ Huế. “Nếu tôi mất Cronkite, tôi mất Trung Mỹ”, Tổng thống Lyndon B. Johnson được cho là đã nói như thế. Tôi chia sẻ cảm giác mất mát của Tổng thống và không bao giờ tha thứ thần tượng Cronkite về hành động bất cẩn báo chí của ông.

Ông Kỳ nhìn chằm chằm vào cánh cửa dẫn đến buồng lái của chiếc máy bay Air France.

“Tại sao ông cứ nhìn vào đó?” Tôi hỏi ông.

“Tôi chỉ muốn trở lại làm một phi công,” ông nói khẽ.

Cuộc chạy thoát của ông đến Midway bằng chiếc Huey đánh dấu sự nghiệp bay của ông kết thúc.

Một vài năm trước đây, tôi dạy một lớp báo chí cao cấp tại Đại học Concordia, Irvine, California. Chúng tôi tập trung vào cộng đồng tị nạn người Việt lớn mạnh và thành công tại Quận Cam. Sinh viên Kellie Kotraba, bây giờ là một nhà báo thành công ở Missouri, đã xem qua nghiên cứu của một nhóm gồm tám nhà nghiên cứu nổi tiếng dẫn đầu bởi bác sĩ tâm thần Richard F. Mollica của đại học Harvard, có tiêu đề “Sự bất thường cơ cấu não bộ và di chứng sức khỏe tâm thần nơi những cựu tù nhân chính trị miền Nam Việt Nam, những người đã sống sót sau chấn thương đầu và tra tấn”.

Nghiên cứu, được Hiệp hội Y khoa Mỹ công bố, cho thấy hàng ngàn tù nhân chính trị trước đây hiện đang sống tại Hoa Kỳ vẫn phải chịu đựng nặng nề từ hậu quả của tra tấn gây ra cho họ trong thời gian bị giam cầm nhiều thập niên trước đây. “Phải trên 100.000 người như họ,” Mollica nói với Kotraba, người sau đó đã yêu cầu Tòa Đại sứ Việt Nam tại Washington bình luận. Cô nhận được một lời từ chối qua điện thư từ tùy viên báo chí của Tòa Đại sứ, Tùng Phạm, với lời lẽ: “Thông tin nói rằng các tù nhân của trại cải tạo (sic) đã (sic) bị tra tấn là hoàn toàn không đúng sự thật”.

Chuyện này chẳng có gì lạ. Đáng ngạc nhiên hơn là một thực tế rằng các nghiên cứu của Mollica ít được chú ý trong giới truyền thông Mỹ khi nghiên cứu được công bố năm 2009, và khi tôi cung cấp những câu chuyện hấp dẫn của Kotraba cho nhiều nhà xuất bản, các biên tập viên của họ không mấy thích thú.

Tôi tự hỏi: tại sao các biên tập viên Mỹ làm ngơ trước thông tin về sự khổ đau ở quy mô lớn như vậy đang xảy ra, hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam? Có một sự tương đồng mạnh mẽ giữa những gì đã xảy ra ở một số trong 300 ngục tù cộng sản ở Việt Nam với các trại tập trung ở vùng chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Âu châu. Tôi vừa đọc xong một bản dịch tiếng Pháp về trường hợp của Cha Andrew Nguyễn Hữu Lễ, một linh mục Công giáo hiện đang sống ở New Zealand, về 13 năm của cha trong điều kiện giam giữ của cộng sản, 2.020 ngày cha trải qua trong cùm sắt – gây ra những vết thương mưng mủ với giòi bọ nảy nở.

Trong “Je dois vivre” (“Tôi phải sống”), Lễ mô tả chi tiết khủng khiếp như thế nào về bạn tù Đặng Văn Tiếp, một cựu đại úy quân đội VNCH và là thành viên của Quốc hội, đã bị giết chết trong sự vui mừng của đám đông quan chức cộng sản và vợ con họ hò hét đầy phấn khích. Ông bị bắt buộc phải uống một lượng lớn nước. Sau đó, tù nhân tay sai Bùi Đình Thi, cai tù tàn bạo nhất trong trại tù Thanh Cẩm, nhảy lên bụng của Tiệp cho đến khi nổ tung và ruột đổ ra ngoài. Tiệp chết.

Thi từng là một đại úy trong quân đội VNCH. Kẻ bị giam cầm tại Thanh Cam gọi ông là “Kapo”, một thuật ngữ được sử dụng cho những “kẻ được tin dùng” trong các trại tập trung của Đức Quốc xã. Giống như một số cựu Kapo Đức Quốc xã, ông đã tới Hoa Kỳ. Ông đã bị phát hiện tại Garden Grove, California, bị bắt giữ và bị trục xuất. Theo tin tức sau cùng, ông sống ở quần đảo Marshall.

Trong cuốn sách của mình, Lễ mô tả các nỗi ám ảnh thường xuyên của ông, trong đó gồm đau bụng dữ dội. Nỗi ám ảnh là một triệu chứng mà nhiều cựu chiến binh Mỹ biết quá rõ. Khi tôi làm việc với vai trò tuyên úy tập sự trong số những người này tại các trung tâm y tế Cựu Chiến binh ở St. Cloud, Minnesota, Tôi đã gặp một người làm bánh từ St. Paul, ông có cơn ác mộng cứ tái diễn. Mỗi ngày, ông mơ màng về một sự kiện gần Đà Nẵng. Ông đang ngồi ở ghế sau của một chiếc xe tải quân sự và thấy một cậu bé kéo chốt một quả lựu đạn, sẵn sàng liệng vào xe tải, có lẽ sẽ giết chết toàn bộ tiểu đội.

Người lính đã giết đứa trẻ. Nhưng rồi, đêm đêm, ông nhìn thấy khuôn mặt méo mó của cậu bé đã chết. “Đứa bé ấy khoảng 8 tuổi,” người cựu chiến binh nói, “bây giờ tôi có con sinh đôi và trong giấc mơ của tôi, khuôn mặt của đứa trẻ khoác lên hình ảnh con tôi”. Đây là một trong những câu chuyện buồn nhất tôi được nghe trong thời gian tập sự của tôi, đó là một phần của giáo dục thần học mà tôi đã bắt đầu vào khoảng giữa đời, có lẽ để trả lời cho những kinh nghiệm làm phóng viên ở Việt Nam.

Nhưng có điều gì đó tồi tệ hơn mà tôi tìm thấy trong số những cựu chiến binh Việt Nam: hầu hết mỗi thành viên của ba nhóm chăm sóc mục vụ mà tôi hướng dẫn, cùng với một nhà tâm lý học, đã bị xem là một kẻ sát hại trẻ em trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi từ giã chiến tranh. Một người thậm chí còn được yêu cầu không trở lại nhà thờ cho đến khi tóc của ông mọc trở lại, và xin xuất hiện trong bộ quần áo dân sự.

Hầu hết những người trong nhóm của tôi tin vào Thiên Chúa, nhưng nghĩ rằng Chúa đã bỏ rơi họ ở Việt Nam. Vì vậy, họ đã “quẳng Chúa đi”, theo kiểu họ gọi. Tôi đã viết một luận án thần học cho các cựu chiến binh Việt Nam với tựa đề “Sự tha thứ của Chúa”, nhắc nhở họ về cái nhìn sâu sắc của nhà thần học tử đạo người Đức Dietrich Bonhoeffer. Ông nói rằng loài người được kêu gọi để “chịu đau khổ với Chúa trong một thế giới vô thần”, mà trong trường hợp của họ hàm ý Chúa đang đau khổ với họ và luôn hiện diện với họ trong đau khổ – cả ở Việt Nam và sau khi họ trở về. Vì vậy, Chúa không bỏ rơi họ nhưng là người cùng chịu đau khổ với họ. Nhiều người trong số bệnh nhân tìm thấy ý nghĩ này hấp dẫn.

Cho đến hôm nay, tôi nghe các cựu chiến binh Việt Nam hỏi: “Phải chăng sự hy sinh của chúng ta vô ích?” Là một phóng viên chiến trường lớn tuổi, tôi không thể trả lời câu hỏi này một cách sáng tỏ. Nhưng là một nhà thần học tôi có câu trả lời. Trong bài tiểu luận nổi tiếng, “Ngay cả binh lính cũng có thể được giải thoát”, Martin Luther so sánh công việc của binh sĩ với bác sĩ giải phẫu, có thể phải cắt bỏ chân tay của bệnh nhân để cứu các phần còn lại của cơ thể. Thông thường bệnh nhân chết trong vài ngày hoặc vài tháng sau khi phẫu thuật. Nhưng liệu điều này có nghĩa là ca giải phẫu vô ích?

Là một phóng viên chiến trường, tôi thấy đại đa số các binh sĩ Mỹ và Việt Nam tận tình với công việc phục vụ người khác. Kẻ xấu đã thắng; điều này là sự thật. Là một nhà thần học, tôi phải nói thêm: con người không phải là chủ thể của lịch sử, và lịch sử luôn luôn rộng mở cho tương lai. Có thể sẽ mất nhiều thập niên nữa cho đến khi chúng ta nhìn thấy sự hy sinh của những người lính ở Việt Nam (thời xưa) đơm hoa kết trái và chế độ cộng sản biến mất, như các chế độ độc tài khác đã từng biến mất trong quá khứ. Có lẽ tới khi đó, thế giới sẽ khám phá ra rằng máu của người Mỹ và các đồng minh đổ ra ở Việt Nam trở thành hạt giống của một chiến thắng đặc biệt hơn chiến thắng mà họ đã bị từ chối ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tác phẩm mới nhất của Uwe Siemon-Netto là “Đức: Thâm tình của một phóng viên với thương binh Việt Nam”.

https://anhbasam.wordpress.com/2015/01/07/3257-ke-xau-da-thang-trong-cuoc-chien-viet-nam/

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Đất nước của những kẻ Lười Biếng

Photo: paraflyer

Bạn có biết lý do chính dẫn tới việc nước Việt ngày càng sa sút? Câu trả lời là: LƯỜI!

Người ta cứ đang kéo cố gắng đất nước này đi lên. Hàng loạt bài báo được viết nên. Trong đó chỉ ra rằng đất nước này đang bị ô nhiễm hóa, đang bị bóc lột hóa, đang bị bất công hóa, và đang bị căng thẳng hóa… Nhưng rồi các bạn biết được điều gì là quan trọng? Ừ, CHẲNG AI THÈM ĐỌC NHỮNG BÀI BÁO ĐÓ. Nghĩa là người ta không biết chuyện gì đang xảy ra chung quanh họ, không biết được mức độ căng thẳng leo thang của thế giới xung quanh. Tóm lại là, người viết thì cứ viết, người chơi thì cứ chơi, không ai thèm đọc. Dĩ nhiên là ta đang nói đến số đông thôi.

Vậy ra, người ta đang cố gắng thay đổi mọi thứ ở phần ngọn. Nghĩa là kêu gọi những con người đã góp sức gây nên hiện trạng này, hãy thôi đừng phá hủy đất nước nữa, hãy thôi xả rác, hãy thôi chém giết. Đó là một ý tưởng điên rồ. Kêu gọi người từng sát hại đất nước này hãy suy nghĩ lại, rũ chút lòng thương, đừng phá hoại nữa.

Bạn biết vì sao mà đất nước này cứ thụt lùi, thậm chí bây giờ thua cả Lào và Campuchia không? Nếu bạn định trả lời là chính phủ thì hãy tạm gác lại cái ý nghĩ đó. Bởi vì vấn đề là dân chúng ở đây mang một căn bệnh nan y không thể chữa nỗi: LƯỜI!

Lười vận động, tập thể dục

So với số người tập thể dục, thì số người không tập chiếm gấp nhiều lần, nếu không muốn nói là áp đảo hoàn toàn. Bạn không tin? Sáng thức dậy 4h sáng chạy bộ. Rất nhiều ông cụ, bà già sẽ chạy cùng bạn. Số trung niên cũng rất nhiều. Còn số thanh niên thì chiếm trên đầu ngón tay thôi nhé.

Mà không tập thể dục thì chẳng đào đâu ra sức khỏe, không có sức khỏe thì làm cái gì cũng mau mệt, mau mệt thì sẽ nhanh chán, mà nhanh chán thì sẽ sớm bỏ cuộc. Những người có sức khỏe yếu thường làm mọi việc qua loa. Tin tôi đi. Họ không chịu đựng nỗi bất cứ chuyện gì hết. Đó là khi chúng ta nên nói tiếp các kiểu lười khác là hệ lụy của lười vận động.

Lười học

Cái này thì khỏi nói rồi. Trừ các học sinh trường chuyên và công lập, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười. Khoan hãy nói đến việc kiến thức có hàn lâm hay không, có khó nuốt hay không, có kém thực tiễn hay không. Mà hãy tự hỏi, tại sao lại như vậy? Không ai chịu đựng nỗi 2 3 tiếng học bài ở nhà. Nói trắng ra là họ quá lười chịu đựng. Alan Phan đã từng nói rằng ông không hiểu tại sao một đất nước dân số vàng như Việt Nam lại có vẻ lù khù như các cụ già đến vậy.

Bạn hỏi tại sao? Hãy tạm trách Internet, Smartphone, Karaoke, Nhậu nhẹt, Lotte, Starbuck và các loại ăn chơi thời hiện đại nhé. Bạn lại hỏi tại sao nữa à? Bởi vì đó là thách thức của thời đại này. Thú vui hưởng thụ bao vây xung quanh, nhan nhãn đông tây nam bắc hướng nào cũng có. Tại sao phải chịu đựng học bài khi tụi bạn đi nhậu, đi hẹn hò, đi Lotte? À, quên nữa, đừng ai nói với tôi một câu mà đứa trẻ trâu nào cũng biết: Cái nào cũng có mặt lợi, quan trọng là đừng dùng quá liều lượng. Bởi vì, không có mấy ai biết kiểm soát chính họ ở cái vùng đất này đâu.

Lười làm

Tất cả những người chủ ở Việt Nam đều khó tính, họ thường đốc thúc công nhân của mình. Bởi vì họ biết, không đốc thúc, bọn công nhân chỉ ngồi chơi, và làm kiểu đối phó, chủ tới thì luôn tay luôn chân, chủ đi thì phì phèo điếu thuốc, thậm chí là lướt facebook chat chit nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ bạn là người trả tiền cho công nhân, chắc bạn sẽ rõ điều đó hơn cả.

Bạn hỏi vì sao họ lười làm, họ bắt đầu lười từ khi nào? Vì sao? Vì họ chẳng có thích thú gì với công việc. Bởi vì họ từ cái giây phút họ lười học, họ chẳng có kiến thức gì để giải quyết vấn đề nên họ chẳng muốn xảy ra thêm vấn đề gì nữa. Mà đấy, cách hay nhất để không có vấn đề gì để giải quyết là ngồi chơi. Làm việc thì tạo nên vấn đề, giải quyết vấn đề chính là một bước thăng tiến. Nhưng họ lại sợ gặp vấn đề biết bao. Không giải quyết được lại bị chửi, lại bị sỉ nhục, lại quê với người khác. Nên họ thà làm người nhàn rỗi tay chân, áo sạch đồ đẹp, không một vết bẩn còn hơn lấm lem mồ hôi, nhếch nhác không ai thèm dòm.

Lười suy nghĩ

Lướt dạo hết vòng facebook là điều bạn có thể làm ngay. Nếu facebook bạn không có gì đáng để xem, không có gì để làm bạn cảm động, làm bạn thấy phải nhìn lại bản thân mình thì bạn chính là một ví dụ. Còn nếu có thông tin gì đó hay, viết về thực trạng của đất nước, về ô nhiễm môi trường, về động vật tuyệt chủng, hay các bài viết học thuật, hãy xem nó được bao nhiêu người like? À, thường thì không có bao nhiêu người like đâu. Không tin lướt ngay facebook là biết.

Chúng ta không có gì để học sao? Hay chúng ta chỉ quan tâm về tự sướng, em nào đẹp, em nào xài camera 360, anh nào GAY, chỗ nào chơi tốt, khu nào ăn ngon, quần áo chỗ nào bán đẹp? Nếu facebook của bạn không có bất cứ cái gì liên quan tới học thuật, kiến thức, thay vào đó là 90% ảnh girl xinh, trai đẹp, hãy yên tâm một cách chắc nịch rằng bạn là một trong những đứa lười suy nghĩ bậc nhất thế giới.

Lười tranh đấu

Cái này thì khỏi phải nói luôn rồi. Cha chung chả ai khóc mà. Đất nước ngày càng đi xuống thì cũng mặc. Nói thật, chả ai quan tâm cả. Những người có tâm, những người làm báo cứ như những kẻ thui thủi một mình tự kỷ vậy. Bài nào họ viết ra, họ tự đọc, chả mấy ai đọc nói chi đến like và comment. Đi chơi noel xong rác thải đầy đường để phải viết lên báo, cũng chả cần thấy nhục mặt cho bản thân hay cho đất nước này, cứ thế năm nào cũng vậy, cũng lên báo, rồi cũng thôi, vì chẳng ai còn hơi sức để nói nữa.

Thờ ơ là căn bệnh của người Việt. Nếu không tin, search bài báo: “Người Việt vô cảm thứ 13 thế giới” là biết. Họ chẳng muốn tranh đấu. Họ chẳng muốn gì cả ngoài việc hưởng thụ những gì đang có. Tài nguyên chúng ta bán, cây rừng chúng ta cưa, voi rừng chúng ta giết, thú rừng chúng ta ăn, chả còn gì mà chúng ta “tha” cả. Khai thác triệt để cho thế hệ này tận hưởng, có thể đoán là trong vòng 10 năm tới sẽ cạn sạch. Nhưng mọi người thì cứ thờ ơ để mọi thứ ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Miễn là họ không ở những vùng hiểm trở, thiên tai; miễn là họ không bị gì hết. Càng ngày, người ta càng rút về thành thị, co cụm, bạn thấy không? Cả đám ăn chơi phè phỡn với nhau, rồi chuốc độc nhau trong từng thớ thịt, dĩa cơm… Nhưng không ai muốn tranh đấu! Chẳng ai muốn cả, vì họ bận phải hưởng thụ sự hiện đại này.

Đấy là những thế hệ đã được đào tạo. Việt Nam thuộc loại khủng của thế giới trong việc chi ngân sách cho giáo dục. Họ đã làm gì, và chúng ta đã tôi luyện bản thân như thế nào? Có khi nào chúng ta thấy nhục nhã, chẳng cần gì cao siêu, mà chỉ bởi vì chúng ta vừa quăng một cục rác xuống đường. Ai đó nhắc nhở, và chúng ta phản bác: TRƯỚC SAU CŨNG CÓ NGƯỜI QUÉT THÔI. Liệu có bao giờ chúng ta thấy nhục mặt vì cái độ lười nó ghê tởm đến nỗi những con chó thông minh, biết đi ị đúng chỗ cũng phải khinh thường?

Những thế hệ đi qua, và những bài học của các bậc mẹ cha ngày càng thực dụng. Bạn không thấy xã hội này quá co cụm từ khi bạn chuẩn bị cắp đồ lên thành phố học? 99,9% tôi đảm bảo sẽ được nhắc: Giữ tiền cẩn thận nha con, trộm cắp dữ lắm; Ở ký túc xá coi chừng nhà con, trộm cắp phức tạp lắm; ở Sài Gòn cẩn thận nha con, dân tứ xứ chẳng biết ai là ai đâu… Bạn đã từng nghe, chắc chắn như vậy, và hãy thừa nhận là lũ người xung quanh bạn thật gớm ghiếc. Và bạn, tôi chỉ đích danh bạn đó, cũng chưa chắc là một trường hợp đặc biệt gì ngoài lũ gớm ghiếc đó đâu. Một lũ tệ hại, cười với nhau những nụ cười giả tạo, đôi tay vịn chắc túi tiền và trôi vào dòng cuộc sống. Chúng ta chắp vá đất nước này, rách chỗ nào vá chỗ đó, nhưng đúng như Lưu Quang Vũ nói:

“Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá, gượng ép chỉ càng sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc làm đúng khác.”

Nhưng chúng ta chẳng quan tâm lời dạy này. Chúng ta chắp vá nhiều hơn là đằng khác. Ai đó đút lót, chúng ta đút lót nhiều hơn. Ai đó đối phó để được điểm cao, chúng ta quyết tâm biết được đề thầy sắp ra giờ kiểm tra. Ai đó quăng rác bừa bãi, chúng ta quăng rác một cách tinh vi. Ai đó lừa đảo ta, ta học cách đó để lừa đảo lại người khác. Và chúng ta có một xã hội như ngày hôm nay. Chẳng ra một cái gì cả.

Một dân tộc ghê tởm nhau, đề phòng nhau đến những chuyện nhỏ nhặt đến như vậy thì làm sao còn đầu óc để đầu tư vào những thứ tiến bộ khác hơn? Một xã hội co cụm, những ánh mắt đầy hoài nghi, ghê tởm thay cho chúng ta!

Chúng ta lười mọi thứ. Chúng ta lười vận động, rồi thì sức khỏe chúng ta kém, sức chịu đựng không có nên chúng ta nhác học, lười làm, buồn ngủ khi phải nghĩ và chán ngán khi phải chịu đựng. Tất cả những gì chúng ta có là đối phó, từ trong ra ngoài. Không đối phó bằng cách hối lộ tiền, thì đối phó bằng cách mua bằng cấp giả, nếu không được thì học đại cho xong, và trong lúc học cũng đối phó với thầy cô. Vâng, chúng ta đối phó n+1 các loại. Nhưng điều làm tôi ghê tởm hơn cả tật đối phó, chính là không thèm đối phó nữa mà sẵn sàng thải rác ra đường như không giữa ban ngày ban mặt, buông lời tục tĩu, dâm dục giữa thiên hạ. Số đó không hề ít, xin chớ coi thường.

Chịu đựng! Những người đi ra từ chiến tranh với sức chịu đựng ghê gớm lại nuôi dạy con họ một cách đầy nuông chiều. Quá nhiều người đi ra từ chiến tranh, quá nghèo khổ để nói đến đức hạnh, tất cả những gì họ lo lắng là tiền, là mưu sinh. Đó là lý do chúng ta ở đây. Cả một lũ không được giáo dục tốt. Cả một lũ đang làm đất nước này đi xuống. Đó không phải là lỗi của họ, hãy thông cảm vì điều đó. Họ đã cố phải xây dựng lại mọi thứ từ đống tro tàn. Nhưng còn chúng ta thì sao? Được nuông chiều từ nhỏ tới lớn, chẳng phải chịu đựng bất cứ cái gì, và giờ thì sẵn sàng ngồi quán cafe chém gió suốt ngày.

Bạn biết bọn nhậu nhẹt và ngồi quán cafe chém gió thường nói gì khi gặp nhau? Tao mới xin làm chỗ kia, lương 4 triệu mà toàn ngồi chơi. Liền lập tức, thằng đối diện sẽ bảo: NGON VẬY!

Cái tư duy ở xứ này là: Ngồi chơi và “khỏe”! Nhưng yên tâm đi, vũ trụ rất công bằng. Cái chỏm nhỏ ở chỗ này trước sau gì cũng bị trừng phạt nếu tiếp tục tồn tại theo kiểu đó.

Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai. Đừng uống cạn tài nguyên này, đừng ăn mặn để con cháu khát nước. Đừng để thế hệ nối tiếp thế hệ sống cuộc sống như thế này. Và xin cũng đừng, đừng xấu xa cho đã để rồi sau này bắt con mình trở thành một người tốt. Con nít học qua hình ảnh, nó bắt chước tất cả những gì nó thấy. Đừng bao giờ cho phép bản thân tệ hại, và dạy con bằng cái lối nói rằng bạn dù có xấu xa thế nào cũng là hi sinh cho tương lai của nó. Bởi vì, cách đó nhàm quá rồi, một lời biện hộ không có nghĩa gì hết.

Tôi biết là Việt Nam vẫn chưa đến lúc có một cuộc cách mạng cải tổ lại tư duy người Việt. Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hi vọng tôi có thể giúp ai đó hiểu rằng, hãy luyện tập, hãy chịu đựng để bước đi những ngày tháng trưởng thành. Bạn không thể lớn thêm nếu không chịu đựng. Nếu bạn muốn đi lên, bạn phải chịu đựng, dù xung quanh không có ai hỗ trợ bạn, dù xung quanh mọi người đang say ngủ…

NẾU BẠN MUỐN TRƯỞNG THÀNH, HÃY CHỊU ĐỰNG

Trong nghĩa của từ chịu đựng, không có lười biếng. Trong nghĩa của tử chịu đựng là sức mạnh. Mỗi một cá nhân có sức mạnh, khỏi cần phải bàn tới chuyện đất nước có đi lên hay không, vì đôi tay của họ thậm chí có thể nhấc bổng cả bầu trời…

(Nếu bạn nào đặt một dấu chấm hỏi vì sao bài trước tôi viết là chẳng có ai lười thì bài này tôi lại đỗ lỗi cho việc người ta lười, thì xin hãy hiểu rõ là trong 2 bài tôi đang đề cập đến 2 chuyện khác nhau. Bài trước là cảm thông với những người chưa tìm ra họ là ai trong cuộc đời. Bài này nói về những con người xung quanh tôi mà đầu óc bị mụ mẫm hóa hết rồi, không còn biết gì ngoài những lạc thú tầm thường nữa.)

Cảnh báo: Người Cơ đốc giáo bị tiêu diệt ở các nước Hồi giáo

Cảnh báo: Người Cơ đốc giáo bị tiêu diệt ở các nước Hồi giáo

Hầu hết những mối đe dọa đối với người Cơ đốc giáo xuất phát từ một hình thức cực đoan của đạo Hồi.

Jerome Socolovsky

08.01.2015

Một tổ chức truyền giáo quốc tế vừa công bố bản phúc trình hàng năm về nạn bách hại người Cơ đốc giáo trên thế giới. Và cũng giống như những năm trước, Bắc Triều Tiên đứng đầu danh sách những nước mà người theo đạo Cơ đốc bị đàn áp dữ dội nhất. Tuy nhiên, theo tường thuật của thông tín viên Jerome Socolovski của đài VOA, hầu hết những mối đe dọa đối với người Cơ đốc giáo phát xuất từ một hình thức cực đoan của đạo Hồi.

Khi họ đang trên đường về nhà, ông ấy gặp những người thuộc nhóm Boko Haram.

Bà Damaris Atsen, một phụ nữ người Nigeria, đã thuật lại việc chồng bà bị nhóm hiếu chiến Hồi giáo Boko Haram đâm chết. Câu chuyện của người phụ nữ bất hạnh này là một trong những câu chuyện được nêu ra trong bản phúc trình hàng năm của tổ chức truyền giáo Mở Cửa (Open Doors), nói về những nước mà người theo đạo Cơ Đốc gặp phải nhiều mối nguy hiểm nhất.

Ông David Curry, Chủ tịch Phân bộ Hoa Kỳ của tổ chức Mở Cửa, cho biết chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo là mối đe dọa chính của người Cơ đốc giáo ở Nigeria và hầu hết 50 quốc gia khác trong danh sách năm nay.

“Thế giới vẫn chưa nhận thức được tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Sự bách hại người Cơ đốc giáo là có thực và thường có tính chất bạo động khủng khiếp.”

Ông Curry giải thích thêm như sau.

“Trong số những nước thuộc danh sách này có một số nước vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhất thế giới. Và thực tế này làm phát sinh câu hỏi là phải chăng nạn bách hại người Cơ đốc giáo nên được phân ra thành một hạng mục riêng biệt.”

Ông Curry cho rằng sự đàn áp những người theo Cơ Đốc có thể là một chiếc phong vũ biểu của tình hình nhân quyền của một nước.

“Sự bách hại người Cơ đốc giáo là một chỉ dấu hàng đầu về những vấn đề khác trong lãnh vực nhân quyền. Khi người ta bắt đầu tấn công những người khác vì sự bày tỏ tín ngưỡng của họ, chúng ta có thể thấy những vấn đề xã hội khác bắt đầu xuất hiện.”

Tại Iraq, những phần tử hiếu chiến cũng tấn công những người theo đạo Hồi – cả Hồi giáo Sunni lẫn Hồi giáo Shia. Nhưng bà Nina Shea của Trung tâm Tự do Tôn giáo cho rằng những người theo đạo Cơ đốc đối mặt với một nguy cơ khác với những người theo đạo Hồi.

“Chúng ta có thể biết chắc là sẽ có sự hiện diện của người Sunni và sự hiện diện của người Shia khi hòa bình được vãn hồi ở Iraq. Nhưng chúng ta không biết chắc là sẽ có sự hiện diện của người Cơ đốc giáo hay không.”

Tổ chức Mở Cửa được thành lập vào thập niên 1950 với hoạt động chính là bí mật đưa Kinh Thánh vào những nước theo chủ nghĩa Cộng Sản. Bắc Triều Tiên, một nước theo chủ nghĩa Cộng Sản và là nơi lãnh tụ Kim Jong Un được thần thánh hóa, đứng đầu danh sách các nước đàn áp Cơ đốc giáo dữ dội nhất trong 13 năm liên tiếp.

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-01-07

hoaai01072015.mp3

dasua3-622.jpg

Bố mẹ và con gái của Anh Nguyễn Văn Chưởng kêu oan cho Anh.

Một kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam của các tổ chức dân sự độc lập đồng ký tên vừa được phổ biến rộng rãi trong và ngoài nước, kêu gọi người Việt khắp nơi cùng tham gia.

Góp tiếng nói cứu mạng người

Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam của nhiều tổ chức dân sự độc lập trong nước đồng ký tên lần đầu tiên được công bố trong bối cảnh dư luận xôn xao về 2 án tử hình của tử tù Nguyễn Văn Chưởng ở Hải Dương và tử tù Hồ Duy Hải ở Long An. Theo thông tin từ gia đình và luật sư cho biết đây là 2 vụ án oan sai. Cả 2 tử tù bị giam 7, 8 năm trong tù và gia đình đã khiếu kiện trong ngần ấy năm nhưng không được giải quyết. Những ngày cuối năm 2014 và đầu năm 2015, hình ảnh kêu oan ngưng thi hành án tử hình của người thân gia đình 2 tử tù được truyền đi khắp các trang mạng xã hội với kỳ vọng công luận cùng góp một tiếng nói để cứu một mạng người.

Chúng tôi thấy rằng án tử hình là vô nhân đạo, không văn minh, không giải quyết được gì cả và nhất là ở Việt Nam thì án tử hình đã được thực thi từ rất lâu.
-LM Phan Văn Lợi

Kháng thư ra đời không những kêu gọi các cơ quan chức năng có thẩm quyền xét xử lại 2 án tử hình này mà còn lên tiếng về việc chính quyền Hà Nội vẫn áp dụng án lệnh tử hình tại Việt Nam. Linh mục Phan Văn Lợi, một trong những người khởi xướng cho biết nguyên nhân hình thành của kháng thư:

“Chúng tôi thấy rằng án tử hình là vô nhân đạo, không văn minh, không giải quyết được gì cả và nhất là ở Việt Nam thì án tử hình đã được thực thi từ rất lâu, đặc biệt sau năm 1975 với việc đã tử hình rất nhiều người trong quân dân cán chính VNCH bị đưa vào trong các trại cải tạo, cũng như là những tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị đã bị xử bắn và từ năm 1975 cho đến hôm nay có rất nhiều tù nhân hình sự có án tử chịu hành hình… Chính đó là một vấn đề làm nhức nhối lương tâm của con người và là một thách thức trước nền văn minh nhân loại cho nên chúng tôi nghĩ rằng cần phải lên tiếng để yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam phải học theo văn minh của loài người hủy bỏ án tử hình”.

Việt Nam có trên 500 tử tù

ho-duy-hai-622

Hồ Duy Hải trước tòa (trên) và bà Nguyễn Thị Loan mẹ của tử tù Hồ Duy Hải (hình phía dưới).

Theo số liệu của Tổ chức Ân xá Quốc tế, Việt Nam có trên 500 tù nhân bị kêu án tử hình vào thời điểm cuối năm 2012. Và theo thống kê của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam thì hiện tại con số này lên đến hơn 700 tử tù. Trong năm 2014, khoảng 50 tù nhân đã bị hành hình. Thế nhưng con số những tử tội xấu số bị thiệt mạng do oan sai như Hồ Duy Hải hay Nguyễn Văn Chưởng là bao nhiêu thì vẫn còn là ẩn số.

Cựu tù nhân lương tâm-Nguyễn Bắc Truyển, thành viên của Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam, ký tên trong “Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam” chia sẻ rằng trong thời gian thụ án tù ông gặp rất nhiều người bị án oan sai do bị ép cung, bị đánh đập, bị tra tấn để làm sao cho bản kết luận điều tra của công an được lô-gíc theo sự mớm cung. Do không chịu nổi sự bức cung trong trại giam nên nhiều người phải khai nhận theo sự hướng dẫn của công an.

Đại diện các tổ chức dân sự độc lập đồng ký tên trong kháng thư cho rằng vì án tử hình tước đi quyền căn bản được sống của con người nên việc tiến tới bãi bỏ án tử hình là xu hướng tiến bộ chung của thế giới. Họ cho rằng Việt Nam có tăng án tử hình nhiều hơn thì cũng không hạn chế được vấn đề tội phạm. Dù án tử hình ở con số cao nhưng các vụ án nghiêm trọng vẫn xảy ra, tội ác không được ngăn chặn. Ông Nguyễn Bắc Truyển chia sẻ thêm quan điểm của mình trong việc lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam nên bãi bỏ án tử hình:

Xu hướng tiến tới bãi bỏ án tử hình là điều cần nên làm và do đó chúng ta phải đi từ cái gốc là giáo dục con người để cho họ đừng phạm tội đến đến mức độ phải dẫn đến án tử hình hay dẫn đến án chung thân.
-Ông Nguyễn Bắc Truyển

“Xu hướng tiến tới bãi bỏ án tử hình là điều cần nên làm và do đó chúng ta phải đi từ cái gốc là giáo dục con người để cho họ đừng phạm tội đến đến mức độ phải dẫn đến án tử hình hay dẫn đến án chung thân. Nếu chúng ta làm được điều đó thì mới giải quyết được phần gốc và phần căn bản chứ còn nếu như chỉ đem những người phạm tội nghiêm trọng giết người rồi tử hình thì không giải quyết được phần gốc mà chỉ giải quyết phần ngọn. Con người ta thì vẫn do không được giáo dục, không được trang bị một tấm lòng nhân bản thì họ tiếp tục dễ dẫn đến hành vi giết người. Tôi cho rằng cái gốc căn bản vẫn là giáo dục”.

Hằng năm, các hội nghị quốc tế ủng hộ bãi bỏ án tử hình còn tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới do Tổ chức Ân xá Quốc tế cùng các tổ chức nhân quyền chủ trì. Tổ chức Ân xá Quốc tế vẫn kêu gọi chính quyền Hà Nội ân xá các án lệnh tử hình dù trong thời gian qua Việt Nam đã cải thiện cách thức thi hành án bằng phương pháp nhân đạo hơn là tiêm thuốc độc đối với tử tù thay vì xử bắn. Trường hợp mới nhất được ghi nhận là Viện KSND Tối cao của Việt Nam cho phép lập tổ liên ngành xem xét lại vụ án tử tù Hồ Duy Hải để làm rõ có bị kết án oan sai hay không.

Hiện Hoa Kỳ và Việt Nam nằm trong danh sách 58 quốc gia trên thế giới còn đang áp dụng án tử hình. Tuy nhiên, số liệu này ở Hòa Kỳ đang ở mức thấp trong vòng 20 năm qua. Năm 2014 chỉ có 35 người bị hành quyết ở 7 tiểu bang của Mỹ. Vào ngày 31/12/2014, Thống đốc tiểu bang Maryland, là người đang cân nhắc ra tranh cử Tổng thống năm 2016, ông Martin O’Malley tuyên bố sẽ giảm án tử hình đối với 4 tử tội thành án chung thân trước khi kết thúc 2 nhiệm kỳ vào tháng tới.

Tại Việt Nam, một trong những lời tuyên bố chính yếu trong kháng thư của các tổ chức dân sự độc lập vừa công bố nêu rõ “yêu cầu các cơ quan hữu trách Việt Nam ngưng ngay việc thi hành mọi án tử đã tuyên, bỏ ngay một số tội tử hình như buôn bán ma túy, in tiền giả (trong số 22 tội) và sớm sửa đổi Bộ luật Hình sự để án ‘tử hình’ hoàn toàn bị bãi bỏ”. Qua một cuộc trao đổi giữa Hòa Ái với TS. Xã hội học Trịnh Hòa Bình liên quan đến án tử hình ở Việt Nam hồi tháng 6/2013, ông cho rằng sớm hay muộn thì VN cũng sẽ theo xu hướng chung sẽ bỏ án tử hình nhưng chắc chắn không phải ngay lập tức. Câu hỏi đặt ra trong thời điểm này là Chính phủ Việt Nam sẽ có quyết định như thế nào khi “Kháng thư phản đối án tử hình tại Việt Nam” được đặt trên bàn nghị sự?

Giá xăng và gas giảm, sự bất ổn lại gia tăng

Giá xăng và gas giảm, sự bất ổn lại gia tăng

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-01-07

01072015-pric-gas-down-unstab-up.mp3

Một tram xăng của Petrolimex ở Saigon

Một trạm xăng của Petrolimex ở Saigon

RFA

Your browser does not support the audio element.

Sài Gòn với hàng triệu xe máy túa ra đường mỗi sớm mai và ùn ùn kéo về nhà mỗi chiều tối, tắt đường, kẹt xe, ngập nước, khói bụi… tất cả những hiện tượng này làm nên bộ mặt Sài Gòn mỗi ngày và giá xăng trước đây tăng vọt đã khiến cho lưu lượng xe trên đường phố giảm đáng kể. Tuy nhiên, vài tuần trở lại đây, khi giá xăng giảm, vấn đề giao thông Sài Gòn lại một lần nữa đối mặt với hàng loạt khó khăn, rối rắm. Đặc biệt, khi giá xăng và giá gas giảm ngay trước thềm năm mới 2015 đã khiến cho Sài Gòn rơi vào cơn phấn khích tai hại trong giới lao động phổ thông.

Niềm vui ảo…

Một người tên Hội, sống tại quận 1, Sài Gòn, cho biết:“Mình thì không đi đâu ra ngoài. Nói chung là người Việt Nam mình thì phù du, bèo bọt, không thiết tha lắm!”

Theo ông Hội, Tết dương lịch 2015 ở Sài Gòn có thể nói là một cái Tết hoành tráng nếu nhìn từ bên ngoài. Lượng người kéo ra đường đón Tết cũng như các chương trình pháo hoa, sân khấu biểu diễn đón Tết diễn ra ở khắp mọi nơi trong thành phố với mật độ khá dày. Đương nhiên là người dân có nhiều lý do để vui, vì chí ít thì cũng từ tháng Giêng năm 2015, họ bớt đi gánh nặng về chi phí xăng, gas và hy vọng một ngày nào đó, giá điện cũng xuống thấp, xem như đời sống tạm ổn.

Người dân kéo nhiều ra đường đón Tết vì ít nhất, trong quĩ tiết kiệm của họ cũng dư ra một khoản nhỏ tiền bù giá xăng, gas trước đây, bây giờ họ dành để đón Tết. Đó là về mặt hình thức, vẻ bề ngoài. Nhưng thật sự, những cuộc vui tại Sài Gòn hiện nay có vẻ hình tướng và bất ổn, mối nguy rình rập nhiều hơn là sự ổn định lâu dài.

Dẫn chứng cho luận điểm vừa nêu, ông Hội nói rằng ông theo dõi, trước đây một năm, người dân nước Nga cũng đón Tết rất vui vẻ, hoành tráng và rầm rộ. Nhưng sau đó một năm, mọi sự thay đổi hoàn toàn, ngay cả cái ăn cũng thiếu hụt. Nước Nga rơi vào tình trạng như hiện nay bởi chính phủ Nga, nhà nước Nga đã tự tin thái quá hay nói cách khác là tự mãn trên những giá trị ảo. Bởi họ không đoán được những động thái chính trị của họ về Crime, Ukraina vô tình đã chạm đến ngưỡng chịu đựng của phương Tây và những đòn chí tử giáng vào nước Nga đang khởi động.

Trong lúc nước Nga tự tin về sức mạnh quân sự, tiềm năng vũ khí của mình thì họ quên mất rằng sức mạnh kinh tế đảm bảo dân sống và duy trì nền công nghiệp vũ khí lại nằm trong ngành dầu khí. Khi dầu khí rớt giá thì mọi tai biến dồn lên đầu cả dân tộc Nga.

Giới lao động nghèo không mặn mà gì với chuyện giá xăng - giá gas giảm, lương tăng..

Giới lao động nghèo không mặn mà gì với chuyện giá xăng – giá gas giảm, lương tăng..RFA

Bối cảnh Việt Nam cũng có nhiều nét tương đồng, cũng có dạng chính phủ quyền lực tập trung giống như Nga tuy khác nhau về thể chế chính trị, cũng dựa vào tiềm năng kinh tế dầu khí, điện lực, tài nguyên. Hiện tại, sau khi giá dầu bị rớt, công nghiệp khai thác dầu thô của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, cộng thêm hai mỏ vàng Bồng Miêu và Phước Sơn ở Quảng Nam có nguy cơ đóng cửa vì nợ thuế, các mỏ quặng khai thác Bauxite cũng hoạt động cầm chừng và chưa sinh ra lợi tức.

Trong khi đó, kinh tế biển Việt Nam bị cạn kiệt trong ba năm trở lại đây bởi sự mất an ninh trên biển Đông, ngư dân bỏ nghề vì không có vùng đánh bắt, tài nguyên rừng cũng cạn kiệt, ngành thủy điện gặp nhiều trục trặc bởi công nghệ lạc hậu và sự tàn phá môi trường kéo theo… Tất cả những tín hiệu trên giống như một chỉ dấu không tốt cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian sắp tới. Đặc biệt là sự trượt giá không đúng lúc của đồng tiền Việt Nam hiện tại càng tỏ ra nguy hiểm hơn trong tương lai.

Tăng mức lương tối thiểu – tín hiệu vui?

Một người tên Thuận, nhân viên công ty chứng khoán Sài Gòn, chia sẻ:“Khi mà tỷ giá tăng thì mặt hàng sẽ kéo lên tăng. Ăn thua lương của mình được chừng nào. Coi như tăng lương tối thiểu lương lên đi, như khi thu nhập được năm triệu giờ lên sáu triệu, thì mục đích là để dễ sống thôi!”

Theo ông Thuận, động thái tăng mức lương tối thiểu cho cán bộ công chức cũng là một tín hiệu nối tiếp của việc trượt giá đồng tiền. Ông Thuận khẳng định rằng nếu như từ nay cho đến cuối năm 2015, đồng tiền Việt không bị tụt giá so với đô la Mỹ thì mọi chuyện xem như ổn định. Ngược lại, nếu như đồng Việt tiếp tục trượt giá thì việc xăng, gas hạ giá tại Việt Nam chỉ có tính chất tạm thời bởi đồng Việt lúc đó lại rớt giá và giá gas, xăng phải căn cứ theo mức giá quốc tế. Việc tăng lương chỉ có tính chất đắp đổi vào khoảng rớt của đồng tiền Việt. Đời sống người lao động vẫn không có gì thay đổi nếu không nói là xấu đi.

Cảm giác này e rằng khó mà kéo dài được khi nợ công của Việt Nam đã lên quá cao, trong khi đó mọi tiềm năng, mũi nhọn kinh tế của Việt Nam đều trong tình trạng tê liệt, mất hết hiệu năng. Nền kinh tế rơi vào tình trạng ba rọi, sản xuất cũng không tới đâu mà dịch vụ cũng không ra hồn

Một người tên Thuận

Và cũng theo ông Thuận dự đoán, vấn đề đời sống của người dân từ nay cho đến Tết Nguyên Đán sẽ tương đối vui, tuy tai nạn giao thông xãy ra nhiều hơn bởi lượng xe lưu thông tăng vọt… Nhưng bù vào đó, người ta sẽ vui vì sắp được tăng lương, vui vì hàng hóa chưa tăng giá, vui vì gánh nặng chi phí hàng ngày nhẹ bớt, thoải mái hơn.

Nhưng cũng theo ông Thuận, những cảm giác này e rằng khó mà kéo dài được khi nợ công của Việt Nam đã lên quá cao, trong khi đó mọi tiềm năng, mũi nhọn kinh tế của Việt Nam đều trong tình trạng tê liệt, mất hết hiệu năng. Nền kinh tế rơi vào tình trạng ba rọi, sản xuất cũng không tới đâu mà dịch vụ cũng không ra hồn.

Ông Thuận đưa ra kết luận: Một nền kinh tế ổn định, vững chãi phải là nền kinh tế có đặc trưng rõ nét, hoặc là nền công nghiệp sản xuất, hoặc là công nghiệp dịch vụ. Nếu không có được hai đặc trưng này thì đương nhiên nền kinh tế đó chỉ dựa vào tài nguyên và nông nghiệp. Nhưng với Việt Nam, có vẻ như nông nghiệp quá lạc hậu, bất cập, tài nguyên đã cạn kiệt. Nếu năm tới, đồng Việt Nam rớt giá so với đô la Mỹ thì mọi chuyện sẽ khó mà lường trước được.

Dù sao đi nữa, một cái Tết cũng đang chờ, và nếu vui được thì hãy cứ vui mà sống. Vì niềm vui là thứ cần thiết nhất để tạo ra sức mạnh mới cho tương lai. Ông Thuận đã nói như thế trước khi chia tay với chúng tôi.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Một đại biểu Quốc hội VN bị bắt

Một đại biểu Quốc hội VN bị bắt

BBC

Bà Châu Thị Thu Nga bị mất quyền miễn trừ của đại biểu Quốc hội

Một đại biểu Quốc hội Việt Nam bị Bộ Công an bắt giam tối 7/1 vì cáo buộc lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Sinh năm 1965, bà Châu Thị Thu Nga là một doanh nhân nổi tiếng, đã giữ các chức vụ như Phó Chủ tịch Hội doanh nghiệp trẻ TP Hà Nội, Phó trưởng ban điều hành mạng các sàn giao dịch BĐS miền Bắc – Cục Quản lý nhà và thị trường Bất động sản – Bộ Xây dựng.

Trong vai trò doanh nhân, bà là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn đầu tư Xây dựng nhà đất.

Nhưng thời gian qua, bà bị nhiều người gửi đơn tố cáo lợi dụng vốn, không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng.

Hồi đầu năm 2014, bà bị tố bán những ‘căn nhà ảo’ và trốn chạy khách hàng.

Khi đó, theo đơn tố cáo BBC nhận được, công ty mà Đại biểu Quốc hội Châu Thị Thu Nga làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị đã nhận hàng trăm tỷ đồng của khách hàng từ vài năm nay với lời hứa sẽ giao cho họ những căn hộ tại công trình mang tên B5 Cầu Diễn vào năm 2015.

Tuy nhiên dự án khi đó chỉ là một bãi đất trống và một số khách hàng cũng tố cáo chủ dự án bán cả những căn nhà ở tầng 20 hoặc cao hơn trong khi B5 Cầu Diễn chỉ có giấy phép xây cao tới 13 tầng.

Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh và những điều còn lại

Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh và những điều còn lại

Blog RFA

JB Nguyễn Hữu Vinh

Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương ĐCSVN

Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương ĐCSVN

Có lẽ, một trong những đề tài được bàn tán sôi nổi những ngày gần đây trên các diễn đàn mạng xã hội gây chú ý là sức khỏe và tính mạng ông Nguyễn Bá Thanh – một quan chức cao cấp của Cộng sản Việt Nam đang tại vị ở một vị trí quyền lực.

Cũng có lẽ phải coi Nguyễn Bá Thanh như một hiện tượng trong thời kỳ sản mạt ngày nay. Ít khi có một nhân vật được nhiều người ưa nhưng cũng bị lắm kẻ ghét như Nguyễn Bá Thanh.

Khi lên voi và sự say máu quyền lực

Trong nhiều vị trí của mình, từ anh Chủ nhiệm HTX đến Chủ tịch, Bí thư Tỉnh ủy Đà Nẵng, Nguyễn Bá Thanh đã ghi nhiều dấu ấn lên đất Đà Nẵng cho đến ngày ra Hà Nội nhận công việc ở Trung ương. Nếu ai có điều kiện đi qua các thành phố, các tỉnh của Việt Nam rồi ghé qua Đà Nẵng, hẳn phải thừa nhận điều này: Đà Nẵng là một trong những thành phố đẹp về quy hoạch và phát triển, nhiều mặt của đô thị được cải thiện hơn hẳn Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác.

Sự khác biệt của Đà Nẵng hẳn nhiên là do nhiều yếu tố, tuy nhiên người ta không thể không nhớ đến vai trò của một nhân vật gắn liền với Đà Nẵng một thời gian dài: Nguyễn Bá Thanh. Thậm chí, ở đó ông làm mưa, làm gió một thời và đã để lại những câu ca, đặc trưng: “Cắt nửa Hải Châu, cắt nửa Hành Sơn ta làm đô thị nhỏ. Chặt đôi Thanh Khê, bẻ đôi Thanh Khê ta làm khu đô thị mới, đưa em về, đưa em về Cẩm Lệ chiều nay… Để cùng cướp đất phân lô bán nền…” . Vì khi đó “Trời của Thanh, đất của Thanh, con chim trên cành là của Bá Thanh…”.

Chỉ nghe những câu ca dân gian nói trên, người ta cũng đã đủ thấy vai trò và dấu ấn Nguyễn Bá Thanh in đậm ra sao trên đất Đà Nẵng này. Trong thời gian ông ở Đà Nẵng, nhiều thay đổi tại Thành phố Đà Nẵng để lại dấu ấn trong lòng du khách qua đây.

Bên Sông Hàn Đà Nẵng vê đêm. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Bên Sông Hàn Đà Nẵng vê đêm. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Những lời đồn đoán, những hình ảnh, hoạt động của Nguyễn Bá Thanh, có đặc tính chung của quan chức cộng sản: “Lám láo, báo cáo hay”, hoặc “nổ tung trời”… Người ta còn nhớ, trong một hội nghị, ông ta lên án mạnh mẽ việc “con ông cháu cha” trong bộ máy nhà nước ở một Công ty về đô thị ở Đà Nẵng, thì không lâu sau đó, em trai, con trai ông ta được đặt vào những vị trí chỉ dành cho “con ông cháu cha”. Người ta cũng nhớ, ông càng kêu gào to lớn bao nhiêu về chống tham nhũng, về sự trong sạch, dưỡng liêm, về tinh thần đảng viên cộng sản, thì những vụ án như Cầu Sông Hàn, ông ta bị tố ăn hối lộ hàng tỷ đồng. Rồi sau đó xảy ra vụ án Tướng Công an Trần Văn Thanh bị điều chuyển công tác khỏi Đà Nẵng và cuối cùng là nằm trên cáng với đầy đủ dây truyền dịch để ra Tòa trong một vụ án nổi tiếng dư luận – ông này là người ký quyết định bắt chủ thầu xây dựng, người bị tố đã hối lộ Nguyễn Bá Thanh qua vụ xây cầu.

Đó chỉ là một tảng băng nổi đáng chú ý trong hàng loạt các hoạt động của Nguyễn Bá Thanh thời kỳ “trị vì Đà Nẵng”.

Người ta cũng nhớ, ông ta đưa ra nhiều câu nói “để đời” mà ít người dám mạnh miệng như: “Không ít cán bộ có cái thói vừa ăn vừa phá, phá tàn canh nền kinh tế”. Hoặc ông tuyên bố: “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”.

Dù vậy, thì ông vẫn có những nét khác biệt của riêng mình khó trộn lẫn vào đám quan chức Cộng sản. Đó là dám lăn lộn, dám đối mặt, và đối mặt với ngay cả sự bất nhân không thèm che đậy.

Người ta có thể nghe trên mạng những cuộc nói chuyện điện thoại của ông với những người bình thường gọi đến phỏng hỏi han, chất vấn. Người ta cũng thấy ông ta sẵn sàng rời bỏ tư cách “chính trị gia” hoặc quan chức cộng sản để ra sân đá bóng với thanh niên. Thậm chí, người ta còn thấy ông đến thăm hoặc đối thoại với chính nạn nhân của ông ta như vụ Cồn Dầu… Và tất cả, vẫn chỉ là sự áp đặt trắng trợn và những lời dối trá.

Cũng là một trong những đặc tính của quan chức cộng sản ở Nguyễn Bá Thanh, đó là bệnh “máu tham, hễ thấy hơi đồng là mê”. Điều này chúng tôi có kinh nghiệm với ông ta và bộ máy dưới quyền ông ta trong vụ Cồn Dầu. Ở đó, giáo dân Cồn Dầu và các làng xung quanh bỗng dưng bị đuổi ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn của mình đã sống hàng trăm năm, để lấy đất cho một nhóm có tiền làm giàu trên chính mảnh đất bao đời của gia đình họ. Chính vì sự bất chấp pháp luật này, mà giáo dân Cồn Dầu đã kiên trì đấu tranh hàng mấy năm trời nhưng không thể có một quy định luật pháp nào khả dĩ để thuyết phục họ. Nhưng Nguyễn Bá Thanh vẫn thể hiện bằng được vai trò của một “ông Trời con” tại đây bất chấp luật pháp và lương tri. Ông dồn đuổi, đàn áp họ bằng những biện pháp bất nhân nhất có thể thấy: Trấn áp, bao vây, đánh đập, giết người, cướp xác, đào mồ mả… có lẽ không thiếu. Người dân Cồn Dầu còn cho chúng tôi biết, ông tuyên bố rằng: “Nếu không lấy được Cồn Dầu, ông ta sẽ nhảy sông Cẩm Lệ tự vẫn” để nói lên quyết tâm cướp đoạt đất Cồn Dầu.

Tan hoang Xứ đạo Cồn Dầu. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Tan hoang Xứ đạo Cồn Dầu. Ảnh: JB Nguyễn Hữu Vinh

Hàng mấy ngàn con người ở Cồn Dầu đã tan cửa nát nhà, mất đất đai vườn ruộng, chạy bán sống bán chết khỏi quê hương, đất nước bởi bàn tay Nguyễn Bá Thanh và đồng bọn của ông ta. Hàng ngàn ngôi mộ bị đào bới, di chuyển, hàng loạt giáo dân, người dân bị đánh đập và đánh đập đến chết. Những điều đó, dù đã xảy ra nhiều nơi, nhưng có hệ thống và quy mô lớn lao, thì có lẽ Cồn Dầu là một trong những địa điểm còn được nhắc đến lâu dài.

Và, hình ảnh Nguyễn Bá Thanh đã gây dấu ấn cá nhân mình trong tội ác lớn lao tại đó.

Và, ở đó, khi người ta say máu quyền lực và bạc tiền, họ không nhận ra mình đã và đang gây tội ác ra sao.

Khi xuống chó và những bước suy vi

Có lẽ, Nguyễn Bá Thanh đã đúng khi nói đại ý rằng: Ông ta chỉ có thể bơi được ở Sông Hàn mà không thể bơi được ở Sông Hồng – Một cách bóng gió là chỉ có thể làm “trời con” ở Đà Nẵng mà không thể ngoi ra Trung ương. Thế nhưng, cuộc sống không phải khi nào cũng chiều theo ý người, hoặc nhiều khi sự kiềm chế tham vọng không phải khi nào cũng có thể chiến thắng.

Nguyễn Bá Thanh nhậm chức Trưởng ban Nội chính trung ương

Nguyễn Bá Thanh nhậm chức Trưởng ban Nội chính trung ương

Trước hiện tượng đảng xuống cấp trầm trọng, mục ruỗng và bất lực, hèn nhược và không còn sinh khí, Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư ĐCS muốn giành lại chút quyền lực cuối cùng cho đảng bằng cách dựng lại cái gọi là Ban Nội chính và gom về tay đảng. Để nhằm vừa đá bóng, lẫn thổi còi trong con bài quyền lực, Nguyễn Bá Thanh được điều động ra Trung ương với chức danh Trưởng ban Nội chính.

Ra Hà Nội, chân ướt, chân ráo chưa ngồi ấm chỗ, ông ta nổ ngay “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, không nói nhiều”. Câu nói này như một lời tuyên chiến mạnh mẽ với cả bộ máy tham nhũng khổng lồ đã ăn sâu thành nếp, đã kết thành bè, thành mảng trong hệ thống Cộng sản Việt Nam, làm nhiều kẻ giật mình.

Và hẳn nhiên, khi đụng chạm lợi ích phe nhóm, quyền lợi sinh tử của mình, thì đảng chẳng là gì và lý tưởng cũng vứt đi. Cũng từ đó, trong nội bộ nhân dân âm ỉ tin tức về những cuộc đấu đá nội bộ.

Có thể nói, việc Nguyễn Bá Thanh bị ngã ngựa ngay sau khi ra Hà Nội làm Trưởng Ban Nội chính Trung ương nhưng bị đánh trượt khỏi ghế Ủy viên Bộ Chính trị được sắp xếp theo ý đảng từ trước, là một dấu ấn khó phai về những cuộc “đấu tranh nội bộ” rất rõ nét của Đảng. Và như vậy, Sông Hồng không đủ chỗ cho Nguyễn Bá Thanh vùng vẫy thi bơi.

Thế rồi, Nguyễn Bá Thanh trở thành cái bóng, âm thầm cho đến ngày sang Mỹ chữa bệnh ung thư với muôn ngàn lời đồn đoán rằng bị suy tủy, bị đầu độc, bị trả thù, bị ám hại… và đi sang Mỹ chữa bệnh vào ngày 16/8/2014.

Và hôm nay, khi “nền y học tư bản giãy chết” bó tay sau gần nửa năm chữa bệnh với chi phí mỗi ngày hàng chục ngàn đola, ông đang chờ ngày trở về để hưởng nền y tế “Hoàn toàn Việt Nam”.

Những điều còn lại sau Nguyễn Bá Thanh

Khi cái chết là điều khó tránh đối với Nguyễn Bá Thanh, khi đó mới lộ ra một điều bao năm ông che đậy: Nguyễn Bá Thanh, một đảng viên Cộng sản theo Chủ nghĩa Mác – Lenin vô thần vô thánh, lại là một “phật tử” có pháp danh hẳn hoi. Thậm chí, một số người đã cầu an cho ông vượt qua cái chết. Như vậy, sức mạnh vật chất đã không thể cứu vớt được ông và giờ đây người ta hi vọng nương nhờ vào thần thánh.

Điều này, đặt ra những câu hỏi khó có ai trả lời nổi ngoài chính ông ta.

Ông Nguyễn Bá Thanh khi điều trị ở bệnh viện UW Medical Center – Hoa Kỳ.

Ông Nguyễn Bá Thanh khi điều trị ở bệnh viện UW Medical Center – Hoa Kỳ.

Khi hành xử trên đỉnh cao quyền lực của một “ông trời con”, xua tay chân ép dân, đánh đập đến chết người, tra tấn, đàn áp, đào mồ động mả của người dân, ông ta có nghĩ mình cũng có một “pháp danh”?

Khi chung tay với những nhóm lợi ích, cướp đất đai, tài sản, nhà cửa của dân lành, đẩy họ đến chốn thảm cảnh… ông có khi nào nghĩ rằng những đồng tiền có được từ đó, sẽ dành để trả cho những bệnh viện với mỗi ngày hàng chục ngàn đola và khi đã hết hàng triệu đola thì ra về trong thất vọng để chờ đợi trong vô vọng cái chết nặng nề đang đến với mình?

Có lẽ, những điều đó chỉ có ý nghĩa đối với người sống, nhất là những quan chức cộng sản còn lại đang tiếp tục say máu quyền lực và bạo tàn đối với đồng loại, đối với nhân dân.

Và những cái mả

H1

Thông thường, trên đời ai cũng có một con đường từ khi sinh ra với điểm cuối là cái chết. Cuối cùng, thì con đường đi của mỗi người đều đến một đích chung: Cái mả. Một nhân vật của Nam Cao đã nói rằng: “Có giàu có sang, có làm nên ông cả bà lớn nữa, chết cũng không ai gọi là cụ lớn mả! Lão sống có đến hơn năm mươi năm rồi mà chưa thấy một cụ lớn mả nào sốt! Chỉ có cái mả, cái mả đất…?

Khi những ngôi mộ ở Cồn Dầu bị đập phá, bị cướp xác, đằng sau là những tin đồn, những sự cảnh báo. Nhưng chẳng ai thèm nghe.

Từng nghe, một viên tướng CS sau khi chết đã được đưa về quê, khu mộ được xây và sau khi đặt xác, phía trên đổ bằng xe bê tông tươi thành một khối bê tông khổng lồ cho chắc chắn, xung quanh xây hàng rào có người canh.

Chợt nhớ, trước khi chết, Tào Tháo buộc phải xây 72 cái mả giống nhau ở ngoại thành, không cho bất cứ ai biết cái nào có xác của ông ta thật. Việc này nhằm chống bị trả thù bằng việc đào bới mồ mả sau khi ông ta chết. Hẳn là ông ta đã biết thân phận mình và thái độ của người đời đối với ông ta ngay khi còn sống.

Đội quân đất nung bảo vệ lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Ảnh: Internet.

Đội quân đất nung bảo vệ lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Ảnh: Internet.

Chợt nghĩ, ngày mai lại có những ngôi mộ đổ nhiều lớp bê tông, lại có những ngôi mộ có người bảo vệ, lại có những con người chưa chết đã biết mình vẫn tiếp tục là tội nhân ngay cả khi không còn quyền lực, thậm chí đã đi “theo cụ Các mác, cụ Lenin”.

Thì ra: Đó là những cái chết, mà người chết biết trước rằng: “Chết chưa phải là đã hết”.

Những cái mả càng được làm chắc chắn, càng được canh gác cẩn mật, thì điều người đời hiểu rất rõ sau những hàng lính canh, bảo vệ hẳn là người nằm trong đó càng lắm nợ với đời và người chết nằm trong đó vẫn không hề được yên.

Lám sao có thể yên, khi chính họ đã gây cho lòng dân cuộn sóng và người đời phải nguyền rủa.

Chợt nhớ, bộ phim Tam Quốc diễn nghĩa, khi hình ảnh Tào Tháo hiện lên là khi có bài thơ sau đây:

Trường Giang cuồn cuộn chảy về đâu
Bạc đầu ngọn sóng cuộn anh hùng
Thị phi, thành bại theo dòng nước
Sừng sững cơ đồ, bỗng tay không…

(Tam Quốc diễn nghĩa).

Hà Nội, Ngày 7/1/2015

J.B Nguyễn Hữu Vinh

Những Hứa Hẹn Đầu Năm

Những Hứa Hẹn Đầu Năm

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Năm 2015 sẽ có một Vinashin mới.

Nguyễn Sinh Hùng

Tôi nhớ là mình có mua được tập truyện ngắn The Daring Young Man on the Flying Trapeze (Chàng Tuổi Trẻ Gan Dạ Trên Chiếc Đu Bay) của William Saroyan, do Kinh Thi xuất bản – và Huy Tưởng chuyển ngữ – vào Mùa Hè Đỏ Lửa, năm 1972. Mới đọc được vài chục trang thì bất ngờ nhận được lệnh tổng động viên nên tôi phải rời nhà.

Nhiều năm sau – sau thời gian ở quân trường, chiến trường, và vài ba cái trại cải tạo không còn nhớ được hết tên – tôi trở về nhưng không còn tìm thấy cuốn sách của William Saroyan đâu nữa. Sau cái biến động khiến cả chục triệu người buồn (vào tháng 4 năm 1975) thì nhiều bạn bè và thân nhân của tôi còn biến mất luôn, nói chi là sách vở.

Bữa rồi, tình cờ thấy Amazon có bán The Daring Young Man on the Flying Trapeze and Other Stories (với giá rất bèo) tôi đã định mua nhưng trù trừ chút xíu rồi thôi. Tuổi đời, cùng với  những cảnh sống hãi hùng mà mình đã chứng kiến, khiến tôi không còn thấy cái thái độ (tưng tưng) của chàng tuổi trẻ trên chiếc đu bay có gì là “gan dạ” nữa.

Thiếu gì người dân Việt can đảm hơn nhiều và đã cùng nhau đâm xầm ra biển cả bao la, bằng những chiếc thuyền gỗ mong manh. Kẻ ở lại cũng liều lĩnh không kém khi hàng ngày vẫn lò dò trên những cái cầu bấp bênh, và mục nát, đang treo (chênh vênh) khắp nước.

Cầu qua sông Mã, Lai Châu. Ảnh: Tuấn Nam

Cầu qua sông Chò, Khánh Hoà. Ảnh:Nguyễn Thành Chung

Nhưng có cầu, dù là cầu treo lắc lẻo – nói nào ngay – vẫn còn hơn không. Phải đu dây qua sông mới thiệt là rùng rợn.

Ảnh: HÀ BÌNH – TRUNG TÂN

Ảnh: Trùng Dương

Tôi đưa em sang sông không bằng xe hoa, cũng không bằng con thuyền mà bằng sợi dây cáp nhỏ xíu xiu (thế này) nhưng cả hai vẫn còn sống sót mới là chuyện lạ, chớ chúng ta đều bị trọng thương hay tử thương thì là “việc vẫn xẩy ra như cơm bữa” – theo như (nguyên văn) tường thuật của phóng viên Trùng Dương:

Không ít trường hợp người dân khi đang đu dây qua sông thì cáp bị đứt, tuột ròng rọc rơi xuống sông, suối tử vong, hoặc bị thương nặng…

Ngày 26/10, ông Nguyễn Chua (53 tuổi, trú thôn 6, xã Hòa Lễ, Krông Bông cùng em trai là Nguyễn Chát (47 tuổi) lắp ròng ròng chuyển phân qua hệ thống dây cáp treo tự chế qua sông Krông Ana.

Sau khi chuyển hết số bao phân qua sông, ông Chua lắp ròng rọc đu người qua đi làm. Qua gần hết bờ, chiếc ròng rọc bất ngờ tuột ốc, trật khỏi dây cáp khiến ông Chua rơi tự do từ độ cao hơn 5m xuống mép sông chết ngay tại chỗ.

Trước đó, vào ngày 15/8 cũng tại khúc sông này, vợ ông Chua là bà Trần Thị Tho (52 tuổi), trong lúc đu mình qua sông bằng cáp treo tự chế cũng bị tuột cáp rơi xuống mép sông bị đa chấn thương suýt mất mạng…

Việc dây cáp bị đứt hay tuột chân rơi xuống suối xảy ra như cơm bữa, người dân vẫn phải chấp nhận ‘đùa’ với tử thần bởi tình thế… không qua không được! Không đu…lấy gì mà ăn!

Sau hàng loạt những tai nạn do đu dây cáp treo qua sông xảy ra, các ngành chức năng tỉnh Đắk Lắk cũng đã có những khảo sát, tìm phương kế nhưng đến nay vẫn chưa có một phương án khả thi nào để chấm dứt tình trạng đu dây.”

Muốn qua sông thì phải bắc cầu thôi, chớ còn “phương kế” hay  “phương án khả thi” (mẹ rượt) nào khác nữa đâu – mấy cha? Bởi vậy, theo thông tin của Tuổi Trẻ Online: “…  trong phiên chất vấn chiều 18-11, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng ‘hứa’ trong ba năm nữa sẽ xây xong 7.811 cầu treo qua suối, người dân không phải chui túi nilông, đu dây vượt lũ… Đây là một trong những lời hứa có mốc thời gian, có số liệu cụ thể ở 50 tỉnh trên cả nước mà Bộ trưởng Đinh La Thăng quả quyết: ‘Đã không hứa thì thôi, hứa rồi thì phải làm.”

Được lời như cởi tấm lòng! Cả nước đều mừng hết lớn luôn. Còn mừng hơn hồi năm 2010, khi nghe lời hứa hẹn (cũng có mốc thời gian) của một vị quan chức khác – ông Nguyễn Sinh Hùng : “Năm 2015 sẽ có một Vinashin mới.”

Năm 2015 đã đến nơi rồi nhưng (may quá) chưa thấy cái bóng dáng Vinashin (mới) này đâu cả. Thiệt là phước đức. Nếu không, sang năm, nợ công sẽ tăng gấp đôi là … giá chót.

Hứa hẹn là cái “bệnh” chung của giới lãnh đạo cộng sản, chứ không riêng chi hai ông Đinh La Thăng hay Nguyễn Sinh Hùng.

Ông Nguyễn Tấn Dũng cũng vừa mới “hứa” xong: “Nợ xấu ngân hàng sẽ về mức bình thường trong năm tới.” Ông Trương Văn Sang cũng đâu chịu kém: “… đến năm 2000 xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu.”

Trước khi chuyển qua từ trần, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đâu có quên hứa hẹn: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”

Tiếc là thằng chả không nói rõ “xây dựng” cái gì nên chỉ những nơi các quan cách mạng làm việc, và nhà riêng của cán bộ là phình to quá cỡ thôi; còn nhà thương, trường học, hoặc cầu đường, và (tất tần tật) mọi thứ tiện nghi công ích khác thì không, và mỗi lúc một thêm xuống cấp.

Sau khi thắng giặc Mỹ xong, dân Việt lại được nghe người kế nhiệm ông Hồ  “ban” cho một lời hứa khác : “Mười năm nữa mỗi nhà ở VN sẽ có một cái tủ lạnh.”

Người kỳ vọng, và thất vọng, nhiều nhất vào lời hứa này (dám) là blogger Nguyễn Văn Tuấn. Nghe ổng tâm sự mà muốn ứa nước mắt luôn:

“Những năm sau thống nhất (tôi không thể dùng chữ ‘giải phóng’) ông Lê Duẩn nổi như cồn. Đi đâu cũng gặp hình của ông ấy lúc thì trên tivi, lúc thì qua báo chí, lúc thì qua đài phát thanh. Sau này tôi mới biết ông là một người nắm quyền uy gần như tuyệt đối thời đó. Mỗi lời nói của ông là một mệnh lệnh, một chỉ thị, chắc cũng chẳng khác với quyền uy của ông gì đó bên Bắc Hàn hiện nay.

Mãi đến bây giờ, nhắc đến tên ông là tôi rùng mình nhớ ngay đến thời bao cấp, hợp tác xã, và đặc biệt là thời ăn bo bo và thuốc xuyên tâm liên. Như một cơn ác mộng. Nói chung là một thời kinh hoàng.

Trong cái thời kinh hoàng đó chợt loé lên một tia hi vọng. Tôi nhớ hoài cái tia hi vọng đó trong một buổi tối ngồi xem tivi trắng đen. Trong một bài diễn văn dài lắm, nhưng có câu tôi nhớ mãi (có lẽ đến cuối đời): 10 năm nữa mỗi nhà ở VN sẽ có một cái tủ lạnh…”

Thành ra, tôi đón nhận lời hứa ‘10 năm sẽ có tủ lạnh’ của ông Lê Duẩn như ruộng khô mong chờ cơn mưa hạ. Dĩ nhiên là chỉ là ước mơ âm thầm thôi, chứ nói ra thì cả nhà mắng cho là ‘đồ ngu tiền đâu mà mua thứ đó’. Đêm về nằm ngủ tôi vẫn mơ cái tủ lạnh trong nhà …

Mãi đến năm 1992 làng tôi mới có điện về. Mà, lúc đó làng tôi cũng chỉ có vài gia đình có điện thôi. Phải 2 năm sau có điện, ba má tôi mới đám mua cái tủ lạnh dưới ‘sức ép’ của đứa em gái…

Vậy mà cho đến nay, dù điện đã về gần 100% làng, nhưng số gia đình có tủ lạnh tôi đoán là chưa đầy 1/5. Tôi có con số đó vì chỉ đếm những nhà bà con chòm xóm ven sông mà tôi quen biết. Nhà nào cũng có tivi và radio, nhưng tủ lạnh thì vẫn là một thứ gì khá xa xỉ mà không phải ai cũng có khả năng mua một cái.

Lí do chính là người dân không có tiền để mua. Đời sống nông dân ngày nay khổ còn hơn thời trước 1975. Đầu mùa lúa là phải vay ngân hàng hay tư nhân để mua phân bón, thuốc trừ sâu cho mùa vụ. Khi gặt lúa xong thì bị cái tập đoàn VINAFOOD (có khi được xem là một tập đoàn phản dân hại nước) và con buôn ép giá.

Người nghèo thì phải bán lúa với giá bèo để có tiền trả nợ. Như tôi từng phản ảnh giá lúa còn thấp hơn cả giá ốc bưu vàng! Trả nợ xong thì chỉ còn vài triệu vừa đủ sống. Mùa vụ kế tiếp, chu trình “vay nợ – làm ruộng – bán giá bèo – trả nợ” lại tiếp diễn. Cuộc sống nhứ thế thì lấy tiền đâu để mua tủ lạnh?

Từ ngày ông Lê Duẩn hứa ‘10 năm nữa mỗi gia đình sẽ có tủ lạnh’ đến nay đã gần 40 năm. Thế giới đã bước vào thể kỉ 21 gần 15 năm. Trong khi nông dân bên Thái Lan chạy xe hơi Toyota đi chợ và nhà nào cũng có tủ lạnh, thì nông dân Việt Nam vẫn còn mơ một chiếc xe Honda và cái tủ lạnh.”

Nếu kết luận rằng bác Lê Duẩn là “một thằng cha nổ sảng” thì cái vụ nổ này cũng chưa đến nỗi nào, so với mấy nhiều vụ (vang trời) khác nữa – sau này:

  • TTXVN: “… đến năm 2010 (sẽ) xóa hết hộ đói, cơ bản không còn hộ nghèo!”
  • Qua tới thập niên 2030 hay 2040 thì viễn tượng mới thực là huy hoàng, theo như lời của  TS. Nguyễn Xuân Kiên, Viện Trưởng Viện Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế – Xã Hội Việt Nam và Đông Nam Á: “Với tiềm năng sẵn có của các doanh nghiệp hiện nay, chỉ 20 -30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. 40 năm nữa, Việt Nam sẽ đứng trong top 15 nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Ảnh & chú thích: Tiêu Phong

Nói tóm lại, theo lời của ông cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết “là chưa bao giờ mình lại cất cao tiếng nói như thế.” Người kế vị, đương kim chủ tịch nước Trương Tấn Sang (vào ngày 19 tháng 8 năm rồi) cũng “cất cao” không kém:“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Trong khi bạn bè quốc tế đang “ngưỡng mộ” tùm lum, và “ngưỡng mộ” quá trời, quá đất (như vậy) mà ông Bộ Trưởng Giao Thông nước ta vẫn chỉ đưa ra một lời hứa hẹn vô cùng khiêm tốn: “Trong ba năm nữa sẽ xây xong 7.811 cầu treo qua suối, người dân không phải chui túi nilông, đu dây vượt lũ…”

Nghe thiệt thấy thương hết sức!

Tuy ông Đinh La Thăng đã nhũn nhặn (thấy rõ) nhưng dư luận, xem ra, vẫn còn có điều tiếng eo xèo và nghi ngại: Tiền đâu mà xây? Thằng chả chỉ hứa (đại) cho đã miệng và cho qua chuyện vậy thôi.

Cho dù thiệt vậy chăng nữa thì cũng đã chết ai đâu? Bác Hồ, bác Hùng, bác Duẩn đều hứa (lèo) ráo trọi thì tại sao chú Thăng lại phải giữ lời cà? Hơn nữa, thử nghĩ lại coi: chớ hai phần ba thế kỷ qua dânViệt sống bằng cái gì, ngoài những lời hứa hẹn!