Đường em về, mong tuyết phủ khắp nơi

“Đường em về, mong tuyết phủ khắp nơi”

Và giông tố, xin đừng rời em nhé
Hạnh phúc tuyệt vời giờ em hiển lộ
Sợi xích vàng khóa tim chặt với nhau
Đừng tách ra sẽ mang đến thương đau!

(Dẫn nhập từ thơ Tân Văn)

Mc 1: 29-39

Mai Tá lược dịch

Tuyết phủ khắp, con đường em về. Có phải là, nhà thơ nay muốn giữ chân người tình? Sợi xích vàng, khoá chặt tim nhau. Phải chăng đây, là trạng huống của nhà Đạo? Tâm trạng này, được diễn tả nơi trình thuật thánh Máccô. Có nối kết với sách Gióp, trong Cựu Ước.

Sách Gióp, nay có giòng chảy kể về sự mong mỏi đợi chờ: “Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: ‘Khi nào trời sáng, đây?’ Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: ‘Khi nào trời lại tối?” (Jb 7: 4). Dù viết từ hơn 2000 năm trước, tâm tình trên vẫn còn mới mẻ, đến hôm nay.

Tâm tình nói ở đây, là sự bận rộn trong cuộc sống. Cuộc sống, có những công việc cật lực. Sống, để kiếm kế sinh nhai, như lời ông Giób nói: “Một ngày đời tôi, thấm thoát hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng.” (Jb 7: 6). Thật ra, cuộc đời con người, xưa cũng như nay, đâu chỉ là như thế.

Xưa và nay, con người vẫn sống trong tâm thức chuẩn bị cho tương lai, ngày một sáng. Nhưng sao mãi ngày ấy không thấy đến. Có những người người vẫn lam lũ tạo cuộc sống, nhưng chưa vững bụng. Lam lũ, để vui hưởng kết quả lao động. Chỉ vững bụng, khi ta biết sống tháng ngày của hiện tại, rất đơn giản.

Trình thuật hôm nay, thánh Máccô đưa ra một ảnh hình, thật rất khác. Ảnh hình Đức Kitô đang làm việc, đầy ý nghĩa. Năng lượng Ngài sử dụng, là để chữa lành và tạo hạnh phúc cho mọi người. Và, khác biệt ở đây, chính là điều: Chúa đến để phục vụ. Để cho đi. Và san sẻ. Ngài không tuyệt vọng hoặc ta thán như ông Gióp:“Cuộc sống con người nơi dương thế, chẳng là thời khổ dịch sao?” (Jb 7: 1).

Cuộc sống nơi dương thế, thật ra có mệt nhọc, luỵ khổ; nhưng cứ thử sống một ngày không có sinh hoạt vây quanh/nhộn nhịp cùng xã hội, chắc cũng nản? Cứ thử sinh hoạt tách rời khỏi xã hội, khỏi chòm xóm láng giềng, rồi sẽ thấy. Sống trên đời và với đời, là biết sống san sẻ những gì mình, như Chúa từng làm. Sống làm sao, để trở nên một người sống vì mọi và mỗi người.

Sống như thế, là sống mà cho đi. Sống, đem lại giá trị và ý nghĩa của cuộc sống. Và, giả như việc ta làm không mang dáng dấp của một đóng góp vào của chung, có lẽ cũng nên thay đổi lối sống, là vừa.

Sống, như Đức Giê-su từng sống, là biết san sẻ với người khác. Biết làm mọi thứ, giống như Ngài. Ở chốn thị thành nơi ta sống, đã có đủ mọi thứ mà vào thời của Chúa, Ngài chẳng có. Cũng thế, Chúa phải là người giàu lắm mới đi đây đi đó, khắp mọi vùng. Ngài lại còn lo cho mọi người được ấm no, đầy đủ.

Nhưng, nếu sống thời hôm nay, Ngài đâu lái những Mercedes, BMW bóng láng. Và, cũng chẳng có điện thoại di động, cầm đi khắp phố phường. Nhưng Ngài là Đấng làm cho mọi người nên giàu có, phong phú. Và, Ngài lo lắng cho mọi người có đủ thực phẩm để độ thân. Có mái ấm che phủ đầu, như mọi người.

Tin Mừng hôm nay, đem đến cho ta một bài học, là: hãy sống cho ra sống. Sống, giống những người được Chúa chữa lành. Và phục vụ. Đầu trình thuật, thánh Máccô mô tả Chúa chữa lành bà mẹ vợ ông Simôn, đang cơn sốt. Khi khỏi bệnh, cụ bà không ngồi nghỉ nghơi, mà dậy “phục vụ các ngài”.

Được lành bệnh, là được tháp nhập đi vào cùng sống với cộng đoàn. Cùng san sẻ công việc dựng xây cộng đoàn, qua phục vụ. Và, bài học hôm nay muốn nói: phục vụ là tình thương yêu đang hoạt động.

Bài đọc 2, thánh Phao-lô cũng san sẻ một kinh nghiệm, để tự hào. Thánh nhân nói: “đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr (: 16)

Và, thánh nhân còn tự hào về chính mình: “tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người”(1Cr 9: 19). Và, thánh nhân cũng vang vọng Lời của Chúa, khi Ngài nói: “Ta đến không phải được phục vụ, mà là phục vụ người khác.”

Phục vụ, vì tình thương. Phục vụ, là hạnh phúc. Phục vụ, để san sẻ tình thương, lẫn hạnh phúc. Như Lm Tony de Mello từng biểu lộ, một khi đã phục vụ, ta sẽ thành công trong tác tạo những gì mình cần có. Cần, để tạo dựng nỗi niềm hạnh phúc, ở đây. Trong tay mình. Bởi lẽ, hạnh phúc và sự tràn đầy không ở bất cứ nơi nào khác, nhưng ngay tại đây. Bây giờ.

Tuy nhiên, phục vụ không có nghĩa vô chừng mực. Đức Giê-su cũng thế. Ngài không là người tham công tiếc việc, vượt nhu cầu. Để rồi, cuối cùng cuộc đời, Ngài lại phải lên núi đồi, mà hồi hưu. Không phải thế. Ngài lên chốn hoang vu, không để lẩn tránh áp lực của cuộc sống, nhưng tìm nơi vắng vẻ để tìm đến Cha, mà nguyện cầu. Tìm Cha, để tạo thêm công lực. Thêm ân huệ, rồi tiếp tục phục vụ cho tốt hơn.

Bởi lẽ, có đi xa Ngài cũng không tài nào tránh khỏi các khuôn mặt đang kiếm tìm Ngài, nhờ chữa lành. Ngài không là người phục vụ, bất đắc dĩ. Nhưng rất công tâm, tình nguyện.

Gặp môn đệ, Ngài bác bỏ đề nghị của các thánh yêu cầu trở về quê quán cũ, vẫn thành công. Ngài không tìm đến chốn thị thành nhiều người biết. Lắm người hâm mộ. Ngài không màng trở thành trung tâm thu hút mọi người. Cũng chẳng muốn đạt tiếng tăm, thành quả.

Nhưng, Ngài chỉ đến nơi nào, dân chúng thực sự có nhu cầu. Và cứ thế, Ngài đi khắp nơi chỉ để phục vụ, hết mọi người. Những ai được Ngài phục vụ, rồi cũng sẽ học được bài học ấy, mà phục vụ người khác.

Sống phục vụ, là sống có ý nghĩa. Sống phục vụ, là có giờ để nguyện cầu, suy tư, và đến gần với Chúa. Trong cuộc sống như thế, mới có giờ để san sẻ với người khác bằng lời nói và hành động. Sống như thế, mới bỏ giờ ra mà dựng xây, chữa lành và hoà giải.

Thực tế, không ai là không biết học hỏi cách sống đích thực, như thế. Sống đích thực, là sống như ông Gióp hay như Đức Giê-su? Và, câu hỏi đặt ra cho mọi ngưòi, vẫn là: ta có giống như ông Gióp không? Có giống ông ta, khi cuộc sống của mình trở nên ngán ngẫm, trì trệ, sống như cái máy…? Sống đích thực, phải là sống giống như Đức Giê-su.

Sống có ý nghĩa. Có định hướng. Sống để rồi, sẽ cảm thấy hạnh phúc tràn đầy khi gia nhập làm thành viên cộng đoàn. Quyết tập trung tạo cho cuộc sống nên tốt đẹp. Ở đây. Bây giờ.

Trong quyết tâm sống đời hạnh phúc có phục vụ, ta hân hoan cất tiếng hát mừng một hành động:

“Một đoàn trai đi khi xuân tới

Hẹn rằng gieo tình thương khắp nơi

Non nước tuy xa vời

Ta đã yêu thương đời

Đừng e nắng gió sương bạn ơi . Bạn ời!”

(Văn Phụng – Vó câu muôn dặm)

Hãy quyết tâm mà ra đi. Ra đi, để phục vụ. Và để, “gieo tình thương khắp nơi”. Bởi, một khi đã rắc gieo yêu thương và phục vụ, ta sẽ nhận ra được rằng: “Hạnh phúc tuyệt vời, giờ em hiển lộ” và “Sợi xích vàng khóa tim, chặt với nhau”. Xích vàng cho nhau yêu thương hạnh phúc. Suốt đời.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

LỜI CẦU XIN CỦA NGƯỜI PHÀM

LỜI CẦU XIN CỦA NGƯỜI PHÀM

Trích EPHATA 639

Cho con xin ít tiền tiêu,

Bởi con cần phải xài nhiều, Chúa​ ơi !

Con mua miếng đất trên T​rời​,

Mai sau nếu có di dời khỏi lo.

Con xây một cái nhà kho,

Chứa bao khốn khó âu lo khổ sầu.

Con xây một cái nhà lầu,

Đựng chút nhân đức ngõ hầu thảnh thơi.

Con mua một cái xe hơi,

Chở quà đem đến những nơi nào cần.

Đường xa cũng hóa nên gần,

Nếu đem tiền đổi cái sân phi trường.

Trần gian đâu​ phải​ dễ lường,

Giá vàng lên xuống thất thường lắm cơ,

Con mua mấy chục ký lô.

Khi nào C​húa​ gọi ô tô chở vàng,

Con mang lên tận Thiên Đàng,

Tặng cho các T​hánh ​cả làng cùng vui.

KIM QUY, 2015

PAPA GIOAN PHAOLÔ 2 VÀ NGƯỜI HÀNH KHẤT LINH MỤC

PAPA GIOAN PHAOLÔ 2 VÀ
NGƯỜI HÀNH KHẤT LINH MỤC

Trích EPHATA 639

lẽ nhiều người đã có nghe nhắc đến tên Tiến Sĩ Scott Hahn ( Ảnh chụp ). Ông là người Hoa Kỳ, sinh ngày 28.10.1957, là một học giả Kinh Thánh và Mục Sư của phái Trưởng Lão ( Presbyterian ) thuộc Giáo Hội Cải Cách ( Reform Church ), sau này đã gia nhập Công Giáo. Ông và người vợ Kimberly Hahn, là đồng tác giả cuốn sách nổi tiếng “Rome Sweet Home”. Scott Hahn có một người bạn là Linh Mục, vị Linh Mục đó đến viếng thăm Giáo Đô Roma. Và dưới đây là câu chuyện có thật vị Linh Mục ấy đã thuật lại…

“Hôm ấy, tôi sắp được gặp gỡ Papa Gioan Phaolô 2. Vào ngày hẹn, tôi có nhiều thời gian rảnh rỗi. Giống như mọi du khách, tôi quyết định đi tới một Nhà Thờ Chính Toà để kính viếng thăm và cầu nguyện. Trên những bậc thềm của Nhà Thờ thường hay có những người hành khất, cảnh này rất quen thuộc ở Roma.

Nhưng thật tình cờ và bất ngờ, tôi đã nhận ra một người có gương mặt rất quen trong số những người hành khất. Sau khi vào Đền Thánh cầu nguyện, khuôn mặt người hành khất đó cứ luẩn quẩn trong tâm trí tôi. Tôi cố nhớ lại xem mình đã gặp người hành khất đó ở đâu đó. Cuối cùng, tôi đã nhớ ra, chạy vội đến người hành khất đang ngồi ở ngoài Vương Cung Thánh Đường và hỏi: “Tôi biết anh. Hình như chúng ta đã học chung ở Chủng Viện phải không ?”

Người hành khất ấy gật đầu xác nhận. Tôi lại nói với người hành khất: “Như vậy anh là một Linh Mục !” Người hành khất trả lời: “Tôi không còn là một Linh Mục nữa. Tôi đã sa ngã và mọi sự đã kết thúc rồi. Làm ơn để cho tôi yên !”

Tôi chợt nhớ cuộc hẹn sắp tới của mình với Papa Gioan Phaolô, tôi bảo: “Tôi đi đây và tôi sẽ cầu nguyện cho anh…” Sau đó, tôi đành bỏ lại người hành khất trên bậc thềm và đi dự buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha.

Những cuộc tiếp kiến với Papa Gioan Phaolô 2 thường thì rất long trọng nhưng ngắn ngủi. Ví dụ bạn được đặc ân gặp gỡ riêng, khi Đức Thánh Cha tiến về phía bạn, vị thư ký sẽ trao cho ngài một cỗ tràng hạt đã thánh hóa và ngài sẽ tận tay trao cho bạn. Vào lúc này, bạn có thể hôn nhẫn của Đức Thánh Cha và nói điều gì đó cách chân thành, chẳng hạn xin ngài cầu nguyện cho bạn, nói rằng bạn đang cầu nguyện cho ngài, hay cám ơn ngài về sự phục vụ cho Giáo Hội v.v…

Tuy nhiên lần này, với tôi, khi Đức Thánh Cha đến gần, tôi đã không cầm được lòng và bộc phát: “Xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho bạn con.” Không chỉ thế, tôi đã vắn tắt kể toàn bộ câu chuyện. Papa Gioan Phaolô có vẻ đăm chiêu và ngài hứa sẽ cầu nguyện cho người hành khất đó. Khi ra khỏi phòng, ngài thì thầm điều gì đó với một người trợ tá ở lối đi.

Chiều tối hôm đó, tôi nhận được cú điện thoại từ một nhân viên của Toà Thánh Vatican. Họ nói với tôi rằng tôi và người hành khất được mời tới để dùng bữa tối với Papa Gioan Phaolô. Phấn khởi và bồn chồn, tôi chạy vội tới Nhà Thờ nơi tôi đã gặp người bạn học của mình. Chỉ còn lại vài người ăn xin, thật là may mắn, đúng hơn, do ơn Chúa, người bạn tu học năm xưa của tôi vẫn còn đó.

Tôi tới gần bạn mình và nói: “Tôi đã gặp Đức Thánh Cha và ngài nói sẽ cầu nguyện cho anh. Nhưng còn hơn thế nữa, ngài đã mời cả hai chúng ta tới gặp gỡ riêng để ăn tối với ngài.” Người hành khất nói: “Không thể nào, nhìn kỹ tôi đi. Tôi chỉ là đổng giẻ rách. Tôi đã không tắm gội từ lâu rồi… Rồi quần áo cùa tôi… ”

Nhận ra sự nghiêm trọng của tình huống, tôi nói: “Tôi đang mướn một phòng ở khách sạn gần đây, ở đó anh có thể tắm rửa và cạo râu, và tôi có quần áo vừa vặn cho anh.” Một lần nữa, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, người hành khất đồng ý. Sau đó, chúng tôi cùng tới dùng bữa tối với Papa Gioan Phaolô…

Vào lúc bữa ăn kết thúc, trước khi ăn tráng miệng, Đức Thánh Cha đi về phía tôi nhưng tôi không hiểu ngài đang có ý gì. Cuối cùng, vị thư ký của Đức Thánh Cha phải đến nói nhỏ với tôi: “Ngài muốn chúng ta ra khỏi phòng”. Và Đức Thánh Cha đã ở lại một mình với người hành khất.

Một lúc sau, người hành khất rưng rưng nước mắt bước ra khỏi phòng. Tôi hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra vậy ?” Người ăn xin nức nở: “Đức Thánh Cha xin tôi giải tội cho ngài”.

Sau khi lấy lại bình tĩnh, người hành khất nói tiếp:

“Tôi nói với ngài: Thưa Đức Thánh Cha, hãy nhìn con đi. Con chỉ là đứa ăn xin. Con không còn là một Linh Mục. Ngài nhìn tôi và nói rằng: Con ơi, một lần là Linh Mục thì suốt đời là Linh Mục, và con nhớ, không phải chỉ có con là kẻ ăn xin. Trước mặt Chúa, ta cũng là một kẻ ăn xin, ta cầu xin Chúa tha thứ tội lỗi cho ta”. Tôi nói với ngài tôi không xứng đáng ở trong Giáo Hội, nhưng ngài bảo đảm với tôi rằng với tư cách là Giám Mục Rôma, ngài có quyền phục chức cho tôi ngay lúc đó và tại đó… Đã lâu lắm rồi tôi đã không giải tội đến độ Đức Thánh Cha đã phải giúp tôi đọc lời xá giải.

Tôi tiếp tục hỏi bạn tôi: “Nhưng anh ở trong đó khá lâu. Chắc chắn việc xưng tội của Đức Thánh Cha đâu có lâu như vậy ?” Người Linh Mục hành khất mới nói: “Không, việc xưng tội của Đức Thánh Cha không có lâu như vậy đâu, nhưng sau khi tôi đã giải tội cho ngài xong, đến phiên chính tôi đã quỳ xuống xin ngài giải tội cho tôi”.

Những lời nói cuối cùng của Papa Gioan Phaolô với người con hoang đàng này là một mệnh lệnh. Ngài đã giao cho vị Linh Mục mới được hoà giải, nhiệm vụ đầu tiên: “Con hãy đi và làm mục vụ cho những người vô gia cư và ăn xin trên bậc thềm ở chính ngôi Thánh Đường mà con đã ở đó…”

Lm. Giuse LÊ QUANG UY, biên tập lại từ một bản dịch
theo catholicmom.com/pope-john-paul-ii-and-the-beggar-priest

Luật hóa chạy chức: Ngộ nhận mơ hồ?

Luật hóa chạy chức: Ngộ nhận mơ hồ?

Nguyễn Duy Xuân

Chức nhỏ chạy nhỏ, chức to chạy to. Cái “giá trị” kiểu chạy chức chạy quyền mà PGS.TS nói ở trên được đo bằng tiền chứ không phải bằng tài năng.

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, bỗng nhớ lại cách đây đúng một năm, trả lời phỏng vấn của báo chí về chuyện chạy chức mà bây giỡ vẫn nóng bỏng tính thời sự, ông Nguyễn Hữu Tri, PGS.TS, Viện phó phụ trách Viện Xã hội học và Khoa học quản lý, đã đề xuất ý tưởng “luật hóa” cho phép chạy chức chạy quyền công khai. (’Cần luật hóa cho phép chạy chức, chạy quyền’). Lập luận mà ông PGS.TS đưa ra trong bài trả lời phỏng vấn của mình là:

– Thứ nhất: Chạy chức chạy quyền không riêng gì ở Việt Nam mà thế giới cũng đã chạy nhiều ví như “Obama phải ‘chạy’ vào Nhà Trắng, Putin phải ‘chạy’ vào nhà đỏ”.

– Thứ hai: Chạy chức chạy quyền không có gì là xấu, đó là cơ hội để người chạy “đóng góp được nhiều hơn”. Ông thừa nhận: “Bản thân tôi cũng từng nói với nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng tôi cũng muốn chạy để có chức.”

– Thứ ba: Kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có cung cầu, có cạnh tranh, có giá trị thì công tác tổ chức cán bộ lẽ nào lại không vận hành theo, điều đó cũng không có gì là xấu vì nó vẫn là quan hệ cung cầu.

– Thứ 4: Nếu thiết lập theo luật định chuyện chạy chức chạy quyền thì tiền sẽ nổi lên, Nhà nước quản lý được, không chảy vào túi của riêng ai.

– Thứ 5: Tất cả những điều trên: Chạy chức chạy quyền là đương nhiên, cần luật hóa để thu tiền cho nhà nước.

Thoạt đọc, lí lẽ mà PGS.TS đưa ra có vẻ rất thuyết phục, nhưng ngẫm nghĩ lại thì thấy có một số điều cần bàn lại:

Thứ nhất, PGS.TS ngộ nhận việc “chạy” vào Nhà trắng của tổng thống Mỹ hay Nhà đỏ của tổng thống Nga cũng giống như việc chạy chức ở ta. Nhưng chuyện “chạy” vào Nhà trắng của ông Obama như thế nào cả thế giới đều biết, khác với “chạy” chức chạy quyền ở ta.

Thứ hai, chạy chức chạy quyền ở ta là có thật nhưng xưa nay đều dấm dúi giữa một nhóm người có tiền, có quyền với nhau hòng giành ghế mưu lợi cho cá nhân. Chạy như thế mà “không có gì xấu” ư, thưa PGS.TS? Vô hình chung, ông lại khuyến khích cho việc chạy chức – một vấn nạn đang làm nhức nhối xã hội hiện nay?

Thứ ba, không phải cứ vin vào cơ chế thị trường để rồi áp đặt mọi hoạt động trong xã hội cũng phải theo cơ chế này trong đó có công tác tổ chức nhân sự. Từ khi xã hội loài người có thể chế, có nhà nước, chưa thấy chế độ nào đồng tình với việc chạy chức chạy quyền cả. Thời phong kiến tuy cũng có chuyện mua bán quan tước, nhưng quan tước do mua bán chỉ là phẩm hàm mà không được trao chức vụ, nghĩa là hữu danh vô thực. Còn bây giờ, chức vụ gắn với quyền lực và bổng lộc. Chức càng to thì quyền càng lớn, lộc càng nhiều và tất nhiên, để “đấu thầu” được phải bỏ ra cả một núi tiền. Cứ làm theo đề xuất của ông thì xã hội sẽ vận hành ra sao?

Thứ tư, PGS.TS nói luật hóa chạy chức để thu tiền cho nhà nước. Ý tưởng của PGS.TS khiến tôi bỗng nhớ đến một câu nói của ông Hoài Thanh, nhà phê bình văn học nổi tiếng khi bàn về cái xã hội bị chi phối bởi đồng tiền trong truyện Kiều: “Cả một xã hội chạy theo đồng tiền”. Chả nhẽ điều đó sẽ thành hiện thực trong nay mai nếu thực hiện theo ý tưởng của PGS.TS Tri? Lúc ấy chỉ có tiền là trên hết. Hiền tài – nguyên khí quốc gia sẽ bị triệt tiêu nếu không có tiền để “chạy”?

Trong bài trả lời phỏng vấn, PGS.TS có nói đại ý: ông đã từng nhiều lần đặt câu hỏi khi giảng bài cho các học trò rằng tại sao lại phê phán việc chạy chức chạy quyền. Thế giới “chạy” được thì Việt Nam cũng “chạy” được, chẳng có gì là xấu. Và ông cũng thừa nhận chính ông cũng từng muốn chạy để có chức, có quyền. Thưa PGS.TS! nghĩ đến đã có bao nhiêu thế hệ cán bộ quản lí ông “gieo mầm” tư tưởng chạy chức chạy quyền? Nghĩ thế, bỗng thấy rùng mình. Thiện tai! Thiện tai!

Chạy chức chạy quyền đang là vấn nạn của xã hội và là một trong những nguyên nhân sâu xa của quốc nạn tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang ra sức phòng chốnghiện nay. Chức nhỏ chạy nhỏ, chức to chạy to. Cái “giá trị” kiểu chạy chức chạy quyền mà PGS.TS nói ở trên được đo bằng tiền chứ không phải bằng tài năng. Chẳng ai dại gì bỏ tiền túi ra đấu giá chức quyền, mà lại không tính đến chuyện thu hồi cả vốn lẫn lãi trong tương lai. Nguồn thu hồi vốn và lãi ấy ở đâu chẳng nói thì ai cũng biết. Và, cái ý tưởng khác người “luật hóa cho phép chạy chức chạy quyền” như trên “rằng hay thì thật là hay” nhưng xem ra… không ổn lắm cho sự tiến bộ của xã hội.

Bàn về “Nhân Duyên” trong nạn tham nhũng

Bàn về “Nhân Duyên” trong nạn tham nhũng

(Trao đổi với tác giả Nguyễn Duy Vinh)

Nguyễn Đình Cống

Tôi vừa đọc bài “Giải trình vấn nạn tham nhũng VN qua lăng kính nhân duyên” của Nguyễn Duy Vinh đăng trên Bauxite ngày 29/1/2015. Ông đã dựa vào cách đặt liên tiếp các câu hỏi “tại sao?” và thuyết “Duyên khởi” với 4 duyên quan trọng để tìm nguồn gốc sâu xa của tham nhũng và đã chỉ ra 10 duyên (tóm tắt : 1- Lòng tham; 2 – Pháp luật lỏng lẻo; 3 – Đảng độc quyền; 4 – Người có quyền được bảo vệ; 5 – Báo chí không tự do; 6; 7; 8; 9; 10 – Tham nhũng lan rộng). Tôi tán thành cách làm đó, chỉ xin thảo luận và bổ sung vài ý.

Thông thường để giải thich một hiện tượng người ta hay tìm nguyên nhân. Có nguyên nhân gần, (trực tiếp), nguyên nhân xa (gián tiếp), nguyên nhân gốc(cơ bản). Theo “Duy thức luận” thì để có một kết quả cần có cả NHÂN và DUYÊN. Trong bài “Nguyên nhân gốc của những tệ nạn” ( đã đăng trên Bauxite VN ngày 27/1/2015) tôi đã trình bày vấn đề này và cho rằng “Nguyên nhân gốc của nhiều tệ nạn ở VN hiện nay là sự kết hợp, sự cộng hưởng giữa một số tính xấu của người Việt và những phần độc hại của Chủ nghĩa Mác Lênin”. Đó cũng là nguyên nhân gốc của nạn tham nhũng.

Xem xét 10 “duyên” do ông Vinh đưa ra tôi thấy trừ duyên 1 ( tham lam ) có tính độc lập, các duyên còn lại ( từ 2 đến 10 ) là có cùng một nguồn gốc, đó là sự độc quyền toàn trị của Đảng CS, mà sự này là do Chủ nghĩa Mác Lênin mang lại. Các duyên từ 2 đến 10 thực ra đều là những nguyên nhân gần, trực tiếp và nếu tìm thì còn phát hiện ra một số nữa, đó chưa phải là nguyên nhân gốc, cơ bản. Cái duyên 1(tham lam) không nằm trong Chủ nghĩa Mác, nó thuộc tính xấu của người Việt nói riêng và của nhân loại nói chung. Tính xấu đó, cái NHÂN đó gặp được cái DUYÊN là những phần độc hại trong Chủ nghĩa Mác thì phát triển nhanh chóng và rộng rãi. Tính xấu đó là từ trong phần yếu kém của nền văn hóa dân tộc. Những yếu tố độc hại của Chủ nghĩa Mác gặp được sự yếu kém này càng phát huy tác hại mạnh mẽ.

Sự tham nhũng cũng xẩy ra ở một số nơi khác trên thế giới vì có cái nhân tham lam, còn cái duyên thì mỗi nơi một khác. Lòng tham lam trong mỗi con người, trong mỗi dân tộc đều có nhiều hay ít, tuy vậy tham nhũng như ở Việt Nam hiện nay thì hiếm khi gặp.

Khi có nền chính trị trong sáng, nghiêm minh, dân chủ thì lòng tham bị ngăn ngừa, bị hạn chế, được giảm bớt. Nó chỉ bùng phát khi gặp DUYÊN thuận lợi.

Chủ nghĩa Mác Lênin mang một số mầm mống độc hại về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản. Những mầm đó khi chưa có điều kiện thuận lợi, khi Đảng Cộng sản chưa giành được chính quyền, thì còn nằm im, chưa phát huy tác hại. Khi ĐCS đã có chính quyền thì những mầm mống độc hại bắt đầu nẩy nở, nhưng nếu không gặp môi trường thích hợp (dân trí thấp, người cầm quyền tham lam và đểu cáng) thì nó cũng chỉ gây tác hại vừa phải. Cũng là chịu thống trị của Chủ nghĩa Mác Lênin nhưng ở Cu ba, các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây nạn tham nhũng tuy cũng có nhưng không trầm trọng như ở Việt Nam hiện nay.

Cuối bài của mình, ông Nguyễn Duy Vinh có đề nghị thảo luận và viết là sẽ chuẩn bị đề tài cho lần tới. Có một vài ý kiến trao đổi, hy vọng sẽ được đọc tiếp những ý kiến sâu sắc của ông.

N.Đ.C.

Người Thượng từ Tây Nguyên tiếp tục trốn sang Campuchia

Người Thượng từ Tây Nguyên tiếp tục trốn sang Campuchia

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-01-29

01292015-more-vn-mongt-cross-bord.mp3

Sáu trong số 18 người Thượng mới tới, trong đó có 2 phụ nữ, đều  thuộc sắc tộc J’rai vùng  Tây Nguyên Việt Nam

Sáu trong số 18 người Thượng mới tới, trong đó có 2 phụ nữ, đều thuộc sắc tộc J’rai vùng Tây Nguyên Việt Nam

Photos Ratha Visal, RFA

Your browser does not support the audio element.

Thêm một nhóm 18 người Thượng từ Tây Nguyên, chạy sang Kampuchia hôm thứ Tư, hiện đang ẩn náu trong khu rừng rậm mạn Đông Bắc tỉnh Rattanakiri của Xứ Chùa Tháp.

Hôm thứ Tư một số dân Kampuchia ở tỉnh Rattanakiri gần biên giới Việt Nam loan báo họ thấy có thêm một toán người Thượng chạy từ Việt Nam sang và hiện đang trốn ở trong khu rừng ở mạn Đông Bắc tỉnh này.

Người sắc tộc J’rai vùng Tây Nguyên

Sang ngày thứ Năm, thông tín viên Ratha Visal của ban Khmer ngữ đài Á Châu Tự Do gởi về bài tường trình cho biết tất cả 18 người Thượng mới tới, trong đó có 2 phụ nữ, đều thuộc sắc tộc J’rai vùng Tây Nguyên Việt Nam.

Một người J’rai trong nhóm, không muốn tiết lộ tên vì sợ bị công an Việt Nam phát hiện, nói với đài Á Châu Tự Do:

Anh ta và những người trong nhóm được dân làng giúp đỡ và che dấu trong rừng để khỏi bị cảnh sát bắt.

Đây là nhóm người Thượng thứ ba vượt biên từ Việt Nam và đến Rattanakiri của Kampuchia nội trong tháng Giêng này. Từ đầu thang Giêng, 5 người Thượng Tây Nguyên chạy sang và ẩn náu trong rừng rậm. Đến ngày 17 tây, lại một nhóm 9 người Thượng khác tiếp tục đến Rattanakiri. Trong số tất cả 14 người thuộc hai nhóm đến trước có hai em nhỏ và một trẻ sơ sinh.

Như vậy, cùng với 18 người thuộc nhóm thứ ba, tổng số người Thượng đang trốn trong rừng Kampuchia nay lên tới 32 người.

“Trước nay người Thượng từ Tây Nguyên Việt Nam đi qua Kampuchia đều nói họ bỏ chạy vì không muốn bị bắt và bị kết tội chống đối hay phản động, thứ hai là nhờ Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ở Kampuchia giúp cho họ qui chế tị nạn.”

Khi đó, ông Chhay Thy thuộc tổ chức bảo vệ nhân quyền ADHOC của Kampuchia, mô tả với báo chí về tình cảnh người Thượng trong rừng là khốn khổ, lo sợ, thiếu ăn, thiếu thuốc men và rất cần sự trợ giúp.

Về nhóm thứ ba vừa đến Rattanakiri hôm thứ Tư, ông Chhay Thy xác nhận đã báo cho Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ở Phnom Penh về trường hợp mới nhất này.

Vẫn theo lời ông, họ cũng đã được ADHOC giúp đỡ hầu có thể ẩn náu, được tạm thời cung cấp thực phẩm và một số vật dụng cần thiết.

Phần đông người dân tộc vùng cao Việt Nam theo đạo Tín Lành, thường tổ chức những buổi nhóm cầu nguyện tại nhà, điều mà chính quyền địa phương và công an không cho phép.

Với lý do bị bắt giữ và bị cấm tụ tập cầu nguyện, người Thượng rủ nhau băng rừng sang Kampuchia, nói là họ bị phân biệt đối xử, bị cấm đạo, bị công an đánh đập không cho nhóm họp để thờ phượng Chúa.

Nhờ sự giúp đỡ của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, một số người dân tộc theo đạo Tin Lành được cấp qui chế tị nạn rồi sau đó được sắp xếp cho đi định cư ở một nước thứ ba.

Tuy nhiên đa phần còn lại lớp thì bị từ chối qui chế tị nạn, lớp bị bắt trở lại, lớp phải trốn chui trốn nhũi vì sợ bị gởi trả về hoặc sợ bị chính công an Việt Nam bắt giải về nguyên quán.

Nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới, điển hình như Freedom Now hoặc Human Rights Watch của Hoa Kỳ, BPSOS ở Washington, nhiều lần lên tiếng kêu gọi chính phủ Việt Nam tôn trọng nhân quyền và quyền tự do tôn giáo của người sắc tộc Tây Nguyên.

Kết tội nặng nề

Phía nhà nước Việt Nam thường cáo buộc rằng người Thượng Tây Nguyên bỏ nước ra đi là vì những phần tử xấu và các thế lực thù địch bên ngoài xúi dục họ.

Điều cần biết trên thực tế người Thượng bỏ chạy khỏi nước phần vì sợ hãi nhưng mặt khác một số không ý thức rõ ràng về nguyên nhân cũng như hậu quả từ hành động gọi là vượt biên của họ.

Nhóm 18  người Thượng từ Tây Nguyên, chạy sang Kampuchia hôm thứ Tư, hiện đang ẩn náu trong rừng Rattanakiri

Nhóm 18 người Thượng từ Tây Nguyên, chạy sang Kampuchia hôm thứ Tư, hiện đang ẩn náu trong rừng Rattanakiri

Trong một lần nói chuyện với đài Á Châu Tự Do, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cựu tù chính trị từng bị giam chung với những người Thượng bị bắt tại trại giam An Điềm, cho biết:

Có 4 anh em thanh niên người J’rai, một người ở Dak Nông, bị kết tội vượt biên nhằm chống chính quyền nhân dân, người thì hoạt động nhắm chống chính quyền nhân dân. Quả thực không thể nói rằng họ phạm tội như vậy. Có một người vượt biên chỉ mỗi mục tiêu là thấy người vượt biên sang bên Kampuchia rồi sau đó sang Mỹ được hai năm thì anh ta gởi một số tiền về cho gia đình, thì nghèo quá thành anh ta cũng muốn đi theo.

” Tôi rất phẩn nộ về chuyện ấy, nói thật người tù nhân còn trẻ ấy không có một suy nghĩ gì, không có một hiểu biết gì về tình hình chính trị cũng như căm ghét chề độ hoặc có một ý định chống chính quyền gì cả. Anh áy chỉ muốn vượt biên sang bên ấy để làm kinh tế thôi mà bị kết án những 10 năm

nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa”

Hậu quả của quyết định trốn đi này, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa nói tiếp, là người thanh niên Thượng ấy bị bắt tại biên giới, bị kết tội vượt biên nhằm chống chính quyền nhân dân với bản án 10 năm tù:

Tôi rất phẩn nộ về chuyện ấy, nói thật người tù nhân còn trẻ ấy không có một suy nghĩ gì, không có một hiểu biết gì về tình hình chính trị cũng như căm ghét chề độ hoặc có một ý định chống chính quyền gì cả. Anh áy chỉ muốn vượt biên sang bên ấy để làm kinh tế thôi mà bị kết án những 10 năm.

Thế rồi đa phần còn lại là họ theo đạo Tin Lành, họ rất khốn khổ. Họ kể theo đạo Tin Lành thì họ tập trung hai ba người vào những buổi cầu nguyện thì công an rồi dân quân , đa số là dân quân trong làng bản còn công an phần đông là người Kinh lên, đến đập phá rồi bắt. Một số người bị nhốt hai ba lần, bị đưa lên đồn lên xã làm kiểm điểm. Còn những người nào cố tình vẫn cứ tập trung năm sáu lần trở lên thì họ kết án người 5 năm người 10 năm, có anh bị kết án những 18 năm bởi vì họ đã cảnh cáo là không được cho mượn nhà để tập trung những người đến cầu nguyện. Nhưng anh vẫn cứ cho và còn rủ hàng xóm đến cầu nguyện. Cuối cùng họ bắt và kết án anh những 18 năm.

Hôm thứ Năm, nói chuyện với đài Á Châu Tự Do, ông Chhay Thy của tổ chức nhân quyền ADHOC đang giúp đỡ bước đầu cho 18 người Thượng mới đến Kampuchia một ngày trước đó, cho biết theo tin tức ông nghe ngóng được thì có thể sẽ còn nhiều người Thượng từ Việt Nam vượt biên sang Kampuchia trong thời gian tới.

Về quê ăn Tết, Việt kiều Mỹ bị chém trọng thương

Về quê ăn Tết, Việt kiều Mỹ bị chém trọng thương

Nguoi-viet.com

HUẾ (NV) Không gây thù chuốc oán với ai, nhưng một Việt kiều Mỹ về quê đón Tết ở thị trấn Lăng Cô đã vô cớ bị côn đồ chém ngay trước nhà mang thương tích trầm trọng.



Khi chuẩn bị mở cổng vào nhà thì ông Quýt bị hai thanh niên cầm mã tấu chém tới tấp. (Hình: Người Lao Ðộng)

Theo Người Lao Ðộng, chiều 28 tháng 1, 2015, công an đang điều tra sau khi tiếp nhận đơn cầu cứu của gia đình ông Dương Quang Quýt (62 tuổi),Việt kiều Mỹ, ở thôn An Cư Ðông 1, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, vô cớ bị 2 thanh niên chém trọng thương phải chuyển vào bệnh viện đa khoa thành phố Ðà Nẵng cấp cứu.

Trước đó, ngày 19 tháng 1, ông Quýt từ Hoa Kỳ trở về quê nhà để đón Tết Nguyên Ðán. Khoảng 19 giờ cùng ngày, vừa đi chơi về và trong lúc đang mở cửa nhà thì ông Quýt liền bị 2 thanh niên lạ mặt lao vào dùng mã tấu chém nhiều nhát vào người rồi lên xe máy tẩu thoát.

Ông Quýt bị thương nặng trong tình trạng vùng mặt bị chém với vết thương dài gần 20cm; đứt 3 ngón tay trái; vỡ xương hàm; đứt gân tay phía trên khuỷu tay trái và gãy 10 cái răng. Người nhà lập tức đưa ông vào cấp cứu tại bệnh viện Ðà Nẵng và hiện đã qua khỏi cơn nguy kịch.

Người nhà ông Quýt cho biết, mỗi năm ông đều về quê đón Tết cổ truyền và không hề có mâu thuẫn với ai. Những lý do như tiền bạc, đòi nợ thuê, tình ái… thì ông Quýt không liên quan tới. Ðây là lần đầu tiên ở thị trấn Lăng Cô xảy ra vụ việc lớn như thế này. (Tr.N)

Người Lính Chết Trẻ

Người Lính Chết Trẻ

Phùng Annie Kim

Câu chuyện thật – rất hay!

Với 14 bài viết trong năm, trong đó có bài “Chú Lính Mỹ” tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà là một nhà giáo, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện là cư dân Westminster, California. Bài viết mới nhất của Phùng Annie Kim là câu chuyện hơn 40 năm sau của chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi trong cuộc hành quân Hạ Lào năm 1971. Sự việc, khung cảnh  chuyện kể là có thật nhưng danh tính nhân vật trong truyện do tác giả hư cấu.

1.
Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm ấm, thân thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với cái tuổi tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới xảy ra như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết liệt không chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng nay, có một chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng cháu nội bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp lễ Giáng sinh.

Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào. Bà cầm quyển lịch trong tay đếm từng ngày. Còn hơn một tháng nữa. Sao mà lâu quá! Bà bảo Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa soạn nhà cửa để đón thằng nhỏ.

Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ vanh vách các chuyện gia đình xa xưa thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện xưa, bà kể lan man hàng giờ không dứt và không sót chi tiết nào. Bà thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành đi cúng chùa, bà đếm chính xác và biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn cô con gái may cái túi lớn phía trước trong áo lót, bà cất tiền và gài kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển, bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà không cần đánh thức các con, tự đi restroom trong căn phòng lớn gần giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi ngày trong khu townhouse. Bà còn xỏ kim được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà còn nghe rõ người khác chuyện trò. Mỗi đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Thì giờ của bà hầu hết là những thời công phu sớm tối trước bàn thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, thì thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn vàng trong căn phòng ngủ chung quanh trang trí toàn là hình, tượng Phật.

Hơn mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc màu lam. Các con gọi bà bằng “Cô Diệu” thay vì gọi bằng “Má”.

Trong bốn cái cửa “sinh, lão, bệnh, tử” của cuộc đời ai cũng phải trải qua, bà Tư đã vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai hỏi bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh gì ngoài bệnh của người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày  một yếu đi như ngọn đèn dầu, hết dầu thì đèn tắt.

Còn cái cửa “tử” cuối cùng? Bà đang chuẩn bị đấy thôi. Ngoài tám mươi rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt giường khổ cho cái thân già và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói với các con bà chuẩn bị sẵn cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại thằng cháu nội sau bốn mươi năm trăn trở vì nó, bà như được hồi sinh. Bà vui nên càng ngày trông bà càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ chồng thằng Quyền lấy nhau bốn mươi năm không có con, thằng cháu nội đích tôn lưu lạc này như cục vàng quý đối với bà, mang đến tuổi già của bà cả một mùa xuân.

Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời khổ cực của bà trong sáu mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo cục Quân nhu thuộc bộ Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con ăn học, cả nhà sống nhờ vào lò bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy sớm làm bún. Ông Tư và các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm, vừa chạy Honda bỏ mối bún ở chợ và các quán ăn ở Sài gòn. Thời chiến tranh leo thang, luật tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một chiến thuật ngành quân vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà nẵng nộp đơn vào sư đoàn một không quân phục vụ ngành an ninh và phòng thủ phi trường. Đêm đêm, bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con đi lính xa nhà thoát khỏi cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.

Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe của Quyền rơi vào ổ phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân, được xếp vào loại tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng vì Quyền vừa thoát được bàn tay tử thần, được chuyển vào Sài gòn cũng là lúc một nỗi lo khác lại đến. Quang tình nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở thành xạ thủ trực thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu Phượng, cô y tá nổi tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối tình này đã đơm hoa kết trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.

Sáng ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ Lào, gia đình bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi hành đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể tìm được xác..

Tin con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính thức và tiền tử tuất của Quang, lòng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi niềm hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang còn sống sót và sẽ trở về. Quang là một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra khỏi máy bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó còn sống và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết đâu chừng nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không tìm được đường về với gia đình. Bà đi tìm người giúp bà câu trả lời. Bà đi xem bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang còn sống. Số nó đào hoa nếu lấy vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và hy vọng mỏi mòn với ba chữ “biết đâu chừng”…

Sau khi mất nước, bà Tư nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Hòa được chính phủ Hà nội thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù binh. Quyền nói với bà Tư làm gì có chuyện thả tù binh trong khi hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, các viên chức chế độ cũ gọi chung là “ngụy quân”, “ngụy quyền” bị kẹt lại, phải ra trình diện và bị giam giữ ở các trại tập trung để “học tập cải tạo”. Quyền may mắn là hạ sĩ quan đã giải ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư lại phải lê lết trong các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.

Tin đứa con tử trận chưa làm ráo nước mắt bà mẹ thì hai năm sau ông Tư mất vì tai biến mạch máu não. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và lớn lên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một chín bảy tám, mặc dù có hai anh đi lính và tử trận dưới chế độ “Mỹ ngụy”, nhà nước Cộng sản vẫn bắt con “ngụy” không đủ tiêu chuẩn vào đại học được “ưu tiên” thi hành nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia. Bà khóc hết nước mắt. Bà tính đường lui, trở về quê ở Gò công cho thằng Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ mạng lưới công an ở các xã, huyện còn dầy đặc hơn thành phố. Bà bị công an địa phương bắt giam trong trại tù cải tạo lao động thời hạn hai năm vì tội không thi hành luật pháp và cố tình bao che cho tội phạm.

Nếu bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh cái mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra trình diện. Thời đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết gì về súng ống trận mạc, không biết gì về chiến tranh, không có chút lý tưởng gì về tổ quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học nhưng thất bại, bà mẹ đang ở tù, Quốc chấp nhận trình diện, lên đường ra trận để bà mẹ già được tha về sớm.

Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị thương về phép, kể lại cho gia đình bà Tư về cái chết của Quốc. Trong một chuyến vượt sông Mekong qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong Cham, chưa kịp tiến vào Phnom Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7 của Quốc đã đụng độ một trận lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn sống sót một người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn được chôn cất ở nghĩa trang liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử gửi về. Cuối năm giấy chứng nhận là gia đình liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư được ủy ban nhân dân truy tặng là “mẹ chiến sĩ”, “mẹ anh hùng”.

Hàng năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân dân đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đình liệt sĩ như bà. Bà treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ hình cờ đỏ sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ như thế cho đến ngày bà qua Mỹ.

Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những giọt nước mắt vì mất mát. Bà chỉ là một bà mẹ Việt nam bình thường, nghèo khổ, ít học. Bà không biết gì về các từ ngữ chính trị dao to búa lớn như lý tưởng, tổ quốc, ý thức hệ, cộng sản, tư bản, cộng hòa xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc, liệt sĩ, anh hùng, hy sinh… Bà chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn nhân chịu nhiều nỗi đau thương trong chiến tranh. Chiến tranh đã làm một đứa con bà bị tàn phế, tật nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà, một đứa gửi nắm xương tàn trên chiến trường Hạ Lào xa xôi còn một đứa được vinh danh là liệt sĩ.

Trước khi đi Mỹ, Long đưa gia đình bà đã đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây Ninh thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội, ướt át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh nhau thành một vòng tròn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng, xây cùng một kiểu. Dòng chữ màu vàng khắc trên mộ bia “Nơi an nghỉ của liệt sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm một chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia”.

Năm một ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đình bên vợ bảo lãnh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lãnh cho bà Tư và Quyên. Quyền muốn bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:

-Thôi con ơi, thằng Quốc đã nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hãy để nó yên nghỉ ở quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo nhưng nó vẫn gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.

Rồi bà ngậm ngùi:

– Cô chỉ còn một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một dấu tích gì về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt thì làm sao biết được. Không chừng nó còn sống, không chừng gì đắp cho nó một nấm mộ.

2.
Sau một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó khăn phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô “care giver” đến chăm sóc sức khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một cô khác đến làm vật lý trị liệu cho cái chân bên phải đã hồi phục dần. Căn nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đã dọn về Cali từ lâu. Bà mẹ Phượng mất đã năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly dị vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm ngoái, lễ Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau, không về được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào dịp lễ Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không còn bao nhiêu năm nữa.

Từ ngày tìm được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với gia đình bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà cháu nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi nhờ sống gần bà ngoại từ bé.

Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ. Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong một buổi tiệc của sư đoàn hai không quân tổ chức tại câu lạc bộ trong phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau. Quang vừa đẹp trai lại tài hoa, biết chơi đàn guitar, hát rất hay những bản nhạc về lính của nhạc sĩ Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào Sài Gòn ra mắt gia đình Quang. Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn súng và trở thành người xạ thủ gan lì và dũng mãnh của không đoàn 41, phi đòan 213. Những cuộc hẹn hò ở bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo tàng Chàm ở Mỹ Sơn…đưa đến kết quả là Phượng có thai.

Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang thì một hôm, người bạn trong phi đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719 Lam Sơn tại Hạ Lào ngày mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt, chiếc trực thăng U-H1 Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong chuyến bay gồm hai vị sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ, một phóng viên Nhật, một phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành đoàn trong đó có trung sĩ thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một người đều tử trận.

Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ tung trước mắt Phượng. Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng bầu ba tháng. Không có một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức gì liên quan với gia đình Quang ở Sài gòn. Quang chết thật bất ngờ. Quang chết ở lứa tuổi đôi mươi. Quang chết không để lại một dấu tích gì ngay cả một hạt bụi. Phượng chỉ còn giữ lại những kỷ niệm đẹp của một thời yêu nhau còn lưu lại trong ký ức và qua những bức hình hẹn hò xưa cũ.

Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ mình không còn sức để giữ cái thai, “giọt máu rơi của người lính chết trẻ”. Quang đi qua cuộc đời Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo Quang nhưng nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong bụng mình, Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có lúc Phượng muốn bỏ cái thai vì dư luận xã hội, vì tương lai của người mẹ trẻ nhưng đứa bé kia có tội tình gì. Nó là mật ngọt của hương vị tình yêu đã đơm hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa trẻ mồ côi mất tình thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, vì con.

Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai chờ đến ngày sinh nở. Kinh tế gia đình trông mong vào cửa hàng bán thực phẩm lấy từ các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đã có bà ngoại. Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà ngoại và dì Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống Quang. Phượng đặt tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người Chàm, một thắng cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba ngày phép với Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng hình trong bụng Phượng.

Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi con cho bà ngoại để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn liếng sinh ngữ khá và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới thiệu vào làm tại bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh Mỹ từ chiến trường chuyển về.

Những ngày đầu tiên chứng kiến những chiếc trực thăng đậu ở sân trước bệnh viện, những nhân viên tải thương vội vã chuyển những chiếc cáng phủ lá cờ Mỹ từ trên trực thăng xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào vĩnh biệt, Phượng không cầm được nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng hay cho những người vợ, những ông bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một ngày nào đó sẽ nhận những chiếc quan tài phủ lá cờ Mỹ?

Còn Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có “hạt bụi nào…” hay chiếc “…hòm gỗ cài hoa” nào cho anh?

Phượng quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và căng thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học hỏi, Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc biệt lưu ý và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông. Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của mình. Phượng biết thêm về đời tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết vì tai nạn xe hơi, ông tình nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ vì hết hợp đồng. Với chính sách “Việt nam hóa chiến tranh” và Hiệp Định Paris sắp ký kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.

Vào một đêm trực chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đã suýt bật khóc vì cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác sĩ này thố lộ đã để ý đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền hòa này trong những ca mổ. Ông tình cờ chứng kiến hình ảnh Phượng chăm sóc những người thương binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn thành công việc mà thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái tim của mình. Cô chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ trong từng mũi kim nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an ủi dịu dàng, từng cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ trong bệnh viện Hải Quân này đều quý mến cô y tá người Việt có cái tên Mỹ Sophie dễ thương này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng Phượng cũng là lính. Cô thương những người lính như thương Quang, thương bản thân và thương cuộc đời bất hạnh của mình.

Phượng chấp nhận lời cầu hôn của Daniel với một điều kiện Daniel bảo lãnh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm phòng ở đường North Smith, Minnesota là tổ ấm của gia đình Phượng. Chị Phương vừa đi học vừa đi làm một thời gian, sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm ăn với người yêu cũ. Phượng đi học lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn càng lớn càng quấn quít Daniel. Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui tính. Daniel rất thương thằng con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương học tập và chỉ dạy của ông bố dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm trôi qua, cái chết thảm khốc của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng dần dần phôi pha theo thời gian nhờ vào tình yêu, sự bao dung và lòng tử tế của người chồng Mỹ tốt bụng đã cưu mang gia đình Phượng, mang đến cho Phượng một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc.

Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:

– Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy bình tĩnh nghe đừng có xỉu nghen. Tao vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi xửa hồi xưa. Có tấm hình thằng Quang chụp hồi còn trẻ. Mày tin không, má thằng Quang còn sống. Gia đình thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài dòng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai mầy nhận được. Bình tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu còn đó. Khoan nói cho thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi mình tính.

Suốt đêm qua Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành của bưu điện. Người đưa thư trao bì thư hình con én màu xanh và yêu cầu Phượng ký tên.Tay Phượng run run khi cầm cây viết.Cầm tờ báo trong tay, Phượng lật tới, lật lui, tìm mãi mới thấy cột báo. Tấm hình Quang hồi hai mươi tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai vệ trong bộ treillis, túi áo trái có in tên “Quang” màu trắng. Bài báo viết chi tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng chưa hề gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở Washington D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.

Phượng nói với Shawn Phượng về Cali thăm dì Phương. Hai chị em đến tòa soạn gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu tiên, cả nhà bà Tư nhìn Phượng với cặp mắt tò mò, xa lạ và nghi ngờ. Bà Tư, vợ chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn bốn mươi năm đến gia đình bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang có một đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi qua trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Khi Phượng đem tất cả hình ảnh của Quang và Phượng chụp hồi còn trẻ ở Đà nẵng, hình thằng Sơn hồi còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp ra trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm hình Quyền cung cấp cho người phóng viên đăng trên báo so với tấm hình ố vàng Phượng cầm trong tay là một, bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh phúc dâng trào trong lòng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường xuyên gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về giới thiệu thằng cháu đích tôn của dòng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về Cali. Năm nay, thằng Shawn về một mình thăm bà nội

3.
Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.

Tôi tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên “Shawn” có nghĩa là “God is gracious “. Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy. “Shawn” nghe giống như tên “Sơn”, Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói “Mỹ” có nghĩa là đẹp, “Sơn”có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói Daddy chỉ là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi còn trong bụng mẹ. Daddy đưa mẹ, bà ngoại, dì Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn lớn. Tôi theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi học nghề này để sau này chữa tim cho mọi người.

Sau chuyến đi Cali thăm dì Phương, mẹ kể rằng mẹ đã gặp gia đình bà nội ở Cali qua một tờ báo Việt ngữ. Trong chương trình POW (prisoners of war) và MIA (missing in action) tìm hài cốt của những người Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt nam, họ đã tìm được những dấu tích về cái chết của ba tôi. Hiện nay, chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D.C. Mẹ đọc bài báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ, tôi hiểu rằng tôi phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội, người đàn bà đã khóc nhiều về cái chết của ba tôi.

Từ Cali về, tôi tìm đọc những tài liệu về POW, MIA, những bài viết của các ký giả trong chuyến đào bới tìm dấu tích của chiếc trực thăng lâm nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng niệm và vinh danh những người bị mất tích tổ chức ngày mười tháng tám năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng Newseum.

Bài viết của ký giả Richard Pyle viết về buổi lễ và những người tham dự. Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những đứa con đến từ Việt nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm “plaque”, đầm đìa những giọt nước mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh những người thân của họ đã hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được nhắc đến. Gia đình bà nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức buổi tưởng niệm này đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đình trung sĩ xạ thủ Trần Vinh Quang đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ thủ Trần Vinh Quang là một công dân Mỹ, tìm được tông tích của bà nội và ba tôi năm ngoái trong một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?

Sau khi thăm bà nội ở Cali, tôi đã đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người ký giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đã đọc thấy tên tuổi và hình ảnh họ được gắn trên bức tường kính gọi là “Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam War”. Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh những ký giả Mỹ và những ký giả quốc tế đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Điều gì đã khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có “big shot” là những tấm hình ý nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đã làm công việc đầy tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ và thầm lặng này.

Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể về ba tôi. Bà có tài kể chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không ngờ bà nhớ nhiều kỷ niệm về ba tôi đến thế. Hình như trong ba người con trai, ba tôi là đứa con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng cũng là đứa con bà thương nhất. Ba tình nguyện chuyển ngành an ninh sang học bắn súng để ra tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn lựa kinh khủng và ngu xuẩn làm bà đau lòng. Bà không muốn mất con.

Điều gì khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhã ở hậu phương với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lý tưởng? Tổ quốc ? Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đã cho tôi nguồn cảm hứng muốn tìm hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lãng. Tôi lớn lên ở xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và ước mơ.

Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ quân sự thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín năm mươi lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi mất, lúc đó tôi còn trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng làm sao! Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp tìm hiểu về chiến tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm. Ở miền nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bên kia dòng sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà là một: Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Trải qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là “chiến tranh đặc biệt” (1960-1965) “chiến tranh cục bộ” (1965-1968) “Việt nam hóa chiến tranh” (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

“Việt nam hóa chiến tranh” có thể hiểu đây là cuộc chiến của người Việt nam.Có người nói người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và đồng minh. Họ rút lui, không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự. Họ chỉ viện trợ vũ khí. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực chiến đấu. Theo lời mẹ kể, với lý tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và lòng yêu nước chân thành, ba tôi tình nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm nguy này và biết rằng sự ra đi không hẹn ngày về.

Vào thời điểm đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuyển mục tiêu sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa làm bàn đạp tấn công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày tám tháng hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay trực thăng H- U1 Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng võ trang có bọc thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực thăng vận tải vỏ thép mỏng, võ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba tôi là tay súng giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới phòng không mạnh và dầy đặc của địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc cháy.

Năm 1992, những người trong chương trình POW và MIA có nhiệm vụ tìm kiếm những người Mỹ mất tích đã đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm 1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 còn sống ở Mỹ, họ đã định vị đúng tọa độ và đã tìm được những mảnh kính của máy chụp hình, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đã sàng lọc những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đình nào, nó thuộc về lịch sử của nước Mỹ.

Món quà tôi mang về cho bà nội lần này là những hình ảnh của Viện Bảo Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội ba tôi đã được an nghỉ ở một ngôi nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu, mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành lang và hàng ngày có hàng chục ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hãy yên lòng. Con trai cứng đầu của bà được an nghỉ ở một trong những nơi danh dự nhất của nước Mỹ. Còn một điều nữa, bà nội hãy tin rằng với tất cả chứng cứ về liên hệ huyết thống và hình ảnh, với sự công bằng và trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có một buổi lễ tưởng niệm cho ba tôi. Người cuối cùng phải là người đặc biệt. “The last but not the least”. Bà nội hãy giữ sức khỏe để một ngày không xa, gia đình bà nội, mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự buổi lễ vinh danh trung sĩ Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và mẹ sau bốn mươi năm phải được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.

Tôi sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa danh lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống đó là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ “Vietnam War Memorial” ở Westminster. Hai người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt, Mỹ vẫn là hình ảnh đẹp, oai hùng và ý nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy lên chút tình cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đó cũng chính là hình ảnh của ba tôi ngày xưa. Ba tôi chiến đấu vì lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đã chiến đấu vì nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối tự do.

Năm nay tôi đã bốn mươi ba tuổi. Đã hơn nửa đời người. Không quá muộn màng cho tôi khi tôi tìm về với cội nguồn của gia đình, quê hương và dân tộc mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu mợ Quyền, dì Quyên những thân tộc đã nối lại sợi dây huyết thống thiêng liêng của dòng họ Trần. Tôi cảm nhận được tình thương quá bao la và đặc biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ giã cõi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, bình yên vì theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc hình của bà trong ngày tang lễ.

Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và dì Phương đã chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành. Những chai sữa ngọt đầu đời là những ngày dì Phương dãi dầu mưa nắng ngoài chợ trời đem về cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ những buổi hai bà cháu cùng ngồi rù rì học với nhau ngoài vườn và từ những câu chuyện cổ tích tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ tuyệt vời, tôi không có lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đã mạnh mẽ đứng lên vượt lên trên nổi khổ đau giữ lại cho tôi hình hài này.

Từ trong đáy lòng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đình tôi nương dựa bốn mươi năm qua. Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, tình thương tôi có được ngày hôm nay phát xuất từ tấm lòng nhân hậu và bao dung của ông.

Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.

Hơn bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đã quên tôi còn một người cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm gì trong ký ức về ông vì ông đã ra đi trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho hình ảnh Ba như sống dậy trong lòng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung hình ảnh ông hiện ra rõ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy tình yêu thương.

Tôi rất hãnh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng, kiêu hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong lòng tôi, giọt máu rơi của ông, người lính chết trẻ.

Phùng Annie Kim

QUÊN

QUÊN

Một buổi tối, tôi đi thăm người bạn từng bị vu cáo hãm hại. Lúc ăn cơm, anh nhận được một cuộc điện thoại, người đó muốn nói cho anh biết ai đã hãm hại anh.

Nhưng anh bạn tôi đã từ chối nghe. Nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, anh nói “Biết rồi thì sao chứ? Cuộc sống có những chuyện không cần biết và có những thứ cần phải quên đi”.

Sự rộng lượng của anh khiến tôi rất cảm kích. Đời người không phải lúc nào cũng được như ý, muốn bản thân vui vẻ, đôi khi việc giảm áp lực cho chính mình là điều cần thiết và cách để giảm áp lực tốt nhất chính là học cách quên, bởi trong cuộc sống này có những thứ cần nhặt lên và bỏ xuống đúng lúc.

Trong kinh Phật có một câu chuyện kể rằng: tiểu hòa thượng và lão hòa thượng cùng đi hóa duyên, tiểu hòa thượng lễ độ cung kính, việc gì cũng đều nhìn theo sư phụ. Khi tới bờ sông, một cô gái muốn qua sông, lão hòa thượng đã cõng cô gái qua sông, cô gái sau khi cảm ơn thì đi mất, tiểu hòa thượng trong lòng cứ thắc mắc “ Sư phụ sao có thể cõng một cô gái qua sông như thế?”. Nhưng cậu ta không dám hỏi, cứ thế đi mãi được 20 dặm, cậu ta thực sự không kìm được đành hỏi sư phụ: “Chúng ta là người xuất gia, sao thầy có thể cõng một cô gái qua sông?” Sư phụ điềm đạm nói: “Ta cõng cô gái qua sông thì bỏ cô ấy xuống, còn ngươi thì đã cõng cô gái ấy 20 dặm rồi vẫn chưa bỏ xuống.”

Lời nói của lão hòa thượng đầy thiền ý, hàm chứa trong nó chính là nghệ thuật nhân sinh. Cuộc đời con người giống như một cuộc hành trình dài, không ngừng bước đi, ven đường nhìn thấy vô vàn phong cảnh, trải qua biết bao những gập ghềnh, nếu như đem tất cả những nơi đã đi qua đã nhìn thấy ghi nhớ hết trong lòng thì sẽ khiến cho bản thân mình chất chứa thêm rất nhiều gánh nặng không cần thiết. Sự từng trải càng phong phú, áp lực càng lớn, chẳng bằng đi một chặng đường quên một chặng đường, mãi mãi mang một hành trang gọn nhẹ trên đường. Quá khứ đã qua, thời gian cũng không thể quay ngược trở lại, ngoài việc ghi nhớ lấy những bài học kinh nghiệm, còn lại không cần thiết để cho lòng phải vướng bận thêm.

Sẵn sàng quên đi là một cách cân bằng tâm lý, cần phải chân thành và thản nhiên đối mặt với cuộc sống. Có một câu nói rất hay rằng tức giận là lấy sai lầm của người khác để trừng phạt chính mình, cứ mãi nhớ và không quên khuyết điểm của người khác thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bản thân mình, bởi lẽ đó để có được niềm vui và cuộc sống thanh thản ta không nên truy cứu lỗi lầm cũ của người khác.

Rất nhiều người thích câu thơ :

“Xuân có hoa bách hợp, thu có trăng. Hạ có gió mát, đông có tuyết”.

Trong lòng không có việc phải phiền lo mới chính là mùa đẹp của nhân gian. Nhớ những cái cần nhớ, quên những cái nên quên, sống cuộc sống cởi mở, trong lòng không vướng mắc thì cuộc sống này sẽ thật tươi đẹp.

Giang Nhất Yến

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc

Đaminh Nguyễn Đức Thông

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc của cha Đaminh Nguyễn Đức Thông trong Thánh lễ nhậm chức Tân Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam của Linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Bích

Lúc 10 giờ ngày 15.01.2015, tại Nhà nguyện tỉnh dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích đã chủ tế Thánh lễ Nhậm chức Tân Giám Tỉnh và ra mắt Hội đồng Cố vấn của ngài.
Cha Đaminh Nguyễn Đức Thông, Phó Giám tỉnh chia sẻ Lời Chúa trong thánh lễ. Ngài nhắc lại nội dung lá thư của ĐTC Phanxicô gửi trong dịp khai mạc Năm Thánh Hiến cho những người sống đời thánh hiến, trong đó có 5 điều mơ ước mong đợi:

– Nhìn vào quá khứ để tạ ơn Chúa, để biết mình là ai, để củng cố sự hiệp nhất, củng cố cảm thức được thuộc về, và nhìn lại quá khứ để tạ tội.

Sống giây phút hiện tại với niềm hăng say, sống được điều đó hãy theo Chúa Giêsu sát Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu làm lý tưởng, lấy Tin mừng của Ngài làm quy luật tuyệt đối, tìm mọi cách gắn kết với Ngài và luôn luôn trăn trở tự hỏi Chúa Giêsu có còn là mối tình đầu duy nhất của tôi không.

Ấp ủ tương lai với niềm hy vọng, xây dựng trên niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Ngài cũng mong đợi chúng ta năm điều:

+ Ở đâu có tu sĩ ở đó có niềm vui.
+ Hãy trở thành các tiên tri để thức tỉnh thế gian.
+ Các con là chuyên gia của sự hiệp thông, hãy biến tu viện của các con thành ngôi nhà hiệp thông, trở thành môi trường dẫn đến sự hiệp thông.
+ Đi ra khỏi vùng trung tâm đến các vùng ngoại biên.
+ Hãy tự hỏi mình, Hội Thánh và con người đang đòi hỏi gì nơi tôi.

Chắc chắn hôm nay, khi khai mạc nhiệm kỳ chúng ta cũng có nhiều mục tiêu, những mong đợi khác nhau. Cha Giám tỉnh Giuse chắc chắn cũng có những mục tiêu những định hướng cho 4 năm trong nhiệm kỳ của mình, ngài chọn bài Tin mừng hôm nay. Chắc chắn khi chọn bài Tin mừng này, chắc chắn ngài sẽ tránh những gì mà Giacôbê và Gioan chạm phải, ở trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe sẽ không tìm kiếm mình, tìm kiếm quyền lợi dành cho mình như Gioan và Giacôbê. Trong bài Tin Mừng này Chúa Giêsu nói: “ Những thủ lãnh thế gian thì dùng quyền mà thống trị, còn giữa anh em những người làm lớn hãy làm người phục vụ, người làm đầu hãy làm đầy tớ .” Chắc chắn cha Giuse cũng mong ước điều đó.

Khi Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ công khai Ngài cũng chịu nhiều áp lực, nhiều thách thức, áp lực từ phía lãnh đạo Do thái họ muốn kéo Ngài về phía họ để làm cuộc cách mạng lật đổ đế quốc Rôma đưa dân Israel lên làm thống trị muôn dân nước. Không phải chỉ giới lãnh đạo Do Thái mà cả các môn đệ cũng đợi chờ Ngài điều này. Nên khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại các môn đệ đã hỏi Chúa Giêsu: thưa Thầy đây có phải là lúc Thầy khôi phục nước Israel không. Chúa Giêsu sống lại các tông đồ vẫn mong ước một cuộc cách mạng theo kiểu chính trị, còn Chúa Giêsu vẫn trung thành với sứ vụ Cha ủy thác . Chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã đưa ra những nấc thang giá trị trái với ước mơ của con người .

Người ta đi tìm sang trọng, phú quý, Chúa bảo phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Người ta đi tìm lạc thú, Chúa bảo phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch. Người ta hiếu chiến, thì Chúa bảo phúc cho những người hiền lành, phúc cho người tác tạo hòa bình.

Người ta đi tìm sự yên ổn, Chúa bảo phúc cho những ai chịu bách hại vì Tôi và vì Tin Mừng. Hơn nữa Chúa đưa ra một logic khác hẳn logic của người phàm. Chúa bảo ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ai tìm kiếm mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng thì sẽ tìm lại được cho mình sự sống.
Chúng ta không thể đi một con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã mở ra. Đi con đường nào khác chúng ta tự đánh mất chính mình, đi lạc, làm hỏng sứ vụ đã được ủy thác cho tất cả chúng ta. Ta cầu xin Chúa cho tất cả anh em, đặc biệt cho cha Giám tỉnh và Ban Quản trị đi con đường Chúa Giêsu vạch ra và đi cho đến cùng, mặc dù gặp những khó khăn thử thách.
Thế nhưng, phục vụ theo cung cách thế nào? Trong bài đọc thứ nhất, trích thứ nhất của thánh Phêrô nói rằng:

“Anh em thân mến, cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai . (1 Pr 5,1)

“ Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. (1 Pr 5,2)

“ Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên . (1 Pr 5,3)

“ Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát. ” (1 Pr 5,4)

Nhưng trong Văn thư chuẩn nhận cha Bề trên Tổng quyền nói với cha Tân Giám tỉnh, với tư cách là người mục tử, người lãnh đạo, điều phối viên của mọi cộng đoàn và mọi thành viên trong tỉnh dòng, tôi xin cha hãy sẵn sàng với mọi anh em, hãy khuyến khích anh em sống đúng với ơn kêu gọi giúp đảm nhận và hoàn thành ơn kêu gọi. Ngài mong đợi nơi cha Giám Tỉnh là khích lệ anh em giúp anh em chu toàn ơn gọi và sứ mạng. Ơn gọi này được nói rõ trong Hiến pháp 23: tu sĩ DCCT được mời gọi tiếp nối sự hiện diện của Chúa Giêsu trên trần gian, chọn Đức Kitô là trung tâm bản vị của đời mình. Hay như ĐTC Phanxicô nói với chúng ta: “ Ta hãy chọn Đức Kitô làm lý tưởng, lấy Tin Mừng của Ngài làm giá trị tuyệt đối, gắn bó mật thiết với Ngài và tự hỏi Đức Kitô có còn là mối tình đầu của ta không, duy nhất của ta không.” Còn Thánh bộ Tu sĩ trong năm nay cũng nói với chúng ta phải mang lấy, phải biến các giá trị và những logic có vẻ gây kinh ngạc của Chúa Giêsu thành của mình, nghĩa là mang lấy những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong Bài giảng trên núi nghĩa là mang lấy nỗi lòng của Chúa Giêsu tâm sự của Chúa Giêsu để sống cuộc đời, sống ơn gọi của mình. Chắc chắn đây không phải là chuyện dễ đối với anh em, đối với Ban Quản Trị Tỉnh.

Vì vậy mà Thánh Phê-rô trong bài đọc chúng ta vừa nghe nói với chúng ta: “ Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để người cất nhắc anh em khi đến thời người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự .”

Vì vậy hôm nay khai mạc nhiệm kỳ mới, cha Giám tỉnh đã chọn “phục vụ” và phục vụ không phải vì miễn cưỡng vì lợi lộc thấp hèn, nhưng phục vụ vì lời kêu gọi Chúa và phục vụ là giúp cho anh em chúng ta từng người một sống ơn gọi trở thành những người tiếp nối sự hiện diện của Thiên Chúa giữa trần gian. Muốn như thế ta phải có đời sống cầu nguyện, phải khiêm tốn với nhau, khiêm tốn dưới bàn tay của Thiên Chúa. Cần tỉnh thức và tiết độ vì ma quỷ tìm cách làm cho ta xa lìa nhiệm vụ và sứ mạng mà Chúa ủy thác. Xin Chúa ở với chúng ta ban Thánh Thần cho chúng ta, để chúng ta có đủ can đảm mang lấy giá trị của Chúa Giêsu, mang lấy logic đáng kinh ngạc của Ngài hầu chúng ta xứng đáng là những tiên tri cảnh tỉnh, thức tỉnh thế gian hôm nay.
Amen

Đaminh Nguyễn Đức Thông

MÙI CỌP

MÙI CỌP

QÚY THỂ

Anh ơi!

Tôi giả vờ ngủ.

Chúng tôi còn giận nhau. Thực ra tôi biết nàng trở về nhà vào lúc 12 giờ khuya. Nàng cởi bộ áo lấp lánh kim tuyến treo lên móc. Nàng vào phòng tắm. Tôi nghe tiếng chiếc gương xen nước chảy rào rào. Tôi nghe cả tiếng cửa phòng tắm mở. Nàng nhẹ nhàng lên giường nằm cạnh. Tôi nghe tất cả, nhưng tôi thấy lúc chưa phải để giải hòa. Chúng tôi đã giận nhau hơn một tuần nay.

– Anh đi ngủ gì sớm thế? – Nàng khẽ chạm vào vai tôi rồi nói nghe như một lời mời mọc.

– Mình ơi em vừa tắm xong – Nói xong nàng đột ngột lôi hẳn tôi quay lại. Nàng nói:

– Hôm nay em sẽ dành cho anh một sự ngạc nhiên !

Nàng ôm lấy tôi, mùi hương rất lạ thôi thúc tôi. Đó là mùi hoa hồng tôi chưa thấy nàng dùng đến bao giờ. Tôi tỉnh ngủ hẳn. Trong lòng tôi hiện tại là một cô gái mềm mại, dịu dàng và đặc biệt khác mọi lần là một mùi hương vô cùng quyến rũ. Mùi thơm đánh thức mọi giác quan. Nàng biến thành một phụ nữ hoàn toàn mới đối với tôi, và có lẽ đối với cả nàng. Tôi thấy trong cử chỉ của nàng một niềm vui thầm kín. Mấy ngày hờn trách nhau trước đây như tan biến đi cả.

Cuộc làm lành diễn ra như thế. Luôn luôn nàng tỏ ra là kẻ biết điều, còn tôi bao giờ cũng vẫn là một người cố chấp. Một tuần nay  chúng tôi giận hờn nhau. Sự việc khá đơn giản.

Tôi bảo nàng bỏ nghề. Nàng không chịu. Tôi là giáo sư dạy toán tại một trường đại học danh tiếng. Còn nàng là một diễn viên và là  người dạy thú. Nàng chuyên huấn luyện và biểu diễn với cọp. Kể về tiếng tăm nàng lừng lẫy hơn tôi rất nhiều. Thu nhập của nàng cũng gấp bội tôi. Nhưng tôi không chịu nổi cái nghề kỳ dị của nàng. Nàng nói: “Em yêu lũ cọp. Chúng nó yêu em và em yêu nghề. Bỏ nghề này ra em biết làm gì? Thư ký hay bán hàng ư? Tìm một chỗ làm khó lắm. Nhưng còn tìm một thư ký thì dễ, còn tìm một người dạy thú như em thì rất khó. Em yêu cái không khí của gánh xiếc. Em sống quen trong cái khung cảnh này rồi”. Nàng nói gì thì nói, tôi vẫn thấy cái nghề này nó kỳ quái thế nào.

Kể cũng lạ cho cuộc hôn nhân này. Chúng tôi có nghề nghiệp và tính cách hoàn toàn khác hẳn nhau. Trước khi thành hôn, đã có người bảo chúng tôi không làm sao được hạnh phúc bên nhau lâu dài được đâu. Lúc đó cả tôi và nàng bất chấp mọi lời khuyên. Nàng có một ý tưởng ngộ nghĩnh mà khi đó tôi cũng cho rằng vô cùng thú vị. Nàng nói con chúng ta sẽ dũng mãnh như hổ và thông tuệ như anh!

Tôi xin kể lại buổi đầu gặp nhau. Lúc đó tôi chếnh choáng men say vì mấy cốc rượu của sinh viên trong buổi lễ phát thưởng cuối năm học. Có một sinh viên đưa ý kiến và được các bạn tán thành ngay: hay là chúng ta kéo nhau đi xem xiếc. Lần cuối cùng trong đời tôi đến rạp xiếc là lúc tôi lên chín. Từ đó đến nay tôi không để ý gì về loại hoạt động này.

Chúng tôi bước vào rạp xiếc vừa đúng lúc một tràng pháo to hào hứng nổi lên. Nhiều người đứng lên tặng hoa cho một cô gái đang rực sáng trong bộ áo xiếc đầy kim tuyến. Một ngọn đèn rất sáng từ trên cao chiếu thẳng vào nụ cười rạng rỡ của nàng. Cạnh nàng là ba con cọp to lớn nằm phủ phục. Thú thật cả đời tôi chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng hùng tráng đến thế. Một cô gái nhỏ nhắn khuất phục được ba chúa sơn lâm! Bỗng một sinh viên ấn vào tay tôi bó hoa cẩm chướng màu huyết dụ nó đẩy tôi: lên tặng hoa người đẹp đi thầy. Lúc đó thực tình tôi như một cái máy. Lần đầu tiên trong đời tôi lên sân khấu tặng hoa cho một diễn viên, mà lại là diễn viên dạy thú.

Có lẽ nàng thấy bộ mặt ngờ nghệch và cặp mắt kính cận thị quá dày của tôi hoàn toàn lạc lõng giữa một khung cảnh ồn ào đầy sự kích động nên nàng tặng cho tôi một nụ cười: “ Chắc đây là lần đầu tiên ông đến xem chúng tôi biểu diễn?” Lại gần, tôi thấy nàng rất đẹp. Một khuôn mặt thanh tú, mái tóc mềm óng ả như tơ. Có một điều mà tôi cho là khác thường là khuôn mặt nàng rất tươi nhưng hoàn toàn không một chút phấn son. Có lẽ nàng còn ánh lên trong ánh hào quang rực rỡ của sự thành công. Phải thú nhận rằng nghề nghiệp của tôi dù thành công đến mấy tôi cũng không bao giờ hy vọng có những giây phút được nhiều người ngưỡng mộ như thế này. Định mệnh đã xui khiến tôi nói với nàng một câu mà từ trước đến nay tôi chưa bao giờ thốt ra với một người phụ nữ nào. “Tôi vô cùng hâm mộ tài nghệ của cô. Sau buổi diễn, nếu cô vui lòng, – chúng ta sẽ gặp nhau tại…”. Nàng nói rất khẽ: “Xin hân hạnh”.

Sau đó chúng tôi còn gặp nhiều lần. Chúng tôi thích nhau vì cảm thấy trong việc này có cái gì là lạ. Theo cách nói của nàng thì đấy là một cuộc kết hợp vô tiền khoáng hậu giữa sức mạnh và trí tuệ. Cuối cùng chúng tôi quyết định đi tới hôn nhân. Lễ kết hôn của chúng tôi thật đáng nên kể lại. Bạn phía tôi gồm toàn thượng lưu trí thức. Mấy ông bà này rất tiết kiệm nụ cười và lời nói đùa. Trái lại phía nàng là cả một rừng náo nhiệt. Họ uống rượu, nói cười và phá phách như điên. Tôi bắt đầu yêu mến cái thế giới xiếc từ buổi gặp gỡ này. Anh chàng làm hề tung hứng lấy bốn chiếc đũa biểu diễn ngay trên bàn tiệc. Anh chàng ảo thuật lấy chiếc khăn ăn đậy lên tô xúp rồi hô: biến. Chẳng có cái gì biến ra cả. Chỉ có biến ra một trận cười hào hứng. Mấy chàng hề tha hồ chọc cười. Quý vị giáo sư lần hồi cũng trút bỏ bộ áo đạo mạo tham gia vào cuộc vui. Rượu chảy như suối. Một ông giáo sư cao hứng đứng lên hát tặng cô dâu và chú rể một bài. Bài hát Người đẹp và quái vật. Ông này muốn ám chỉ quái vật là tôi? Tôi thật xấu trai và có thể bảo quê mùa. Một phụ nữ chuyên diễn màn nhào lộn hát thực to: “Đêm động phòng ông giáo coi chừng bị hổ vồ!” Anh chàng biểu diễn trên lưng ngựa cũng gào to: “Cô dâu nhớ mang roi dạy hổ và phòng. Nếu “nó” làm ăn bôi bác thì quất cho mấy roi!”.

Đêm tân hôn cũng không bị hổ vồ cũng không bị quất roi nào. Nàng cao lớn và hùng dũng trên sàn diễn bao nhiêu, lại nhỏ nhắn và mềm mại trong lòng tôi bấy nhiêu. Tôi cũng không ngờ rằng tính tình nàng lại dịu dàng đến thế. Nàng bảo: “Người dạy thú cần nhất là phải yêu thương và dịu ngọt với chúng”. Có lẽ tôi hiện là một con thú được nàng yêu thương chiều chuộng đây.

Có một điều mãi mãi còn lại trong tôi sau đêm tân hôn là từ thân thể nàng và rõ nhất là trong mái tóc nàng có một mùi nồng hăng hắc. Sau này tôi mới biết đó là mùi cọp. Một mùi không thể nào quên được.

Thời kỳ trăng mật và những năm tháng qua đi. Chúng tôi sống với nhau khá hạnh phúc. Chúng tôi có rất ít thời gian gần nhau. Mùa đông nàng lưu diễn. Tôi thường đi đây đó dự hội nghị, hội thảo, có khi ở nước ngoài. Vì thế giây phút gặp nhau trong ngày đối với chúng tôi hết sức quý giá. Còn nghề của nàng không bao giờ hết những chuyện lý thú. Có hôm nàng kể chuyện con gấu Tô Tô không chịu ra diễn. Chẳng ai hiểu vì lẽ gì. Sau mới biết hôm đó đúng là ngày loài gấu ngủ đông. Chuyện con Đác Lắc, một con cọp cái dài hơn hai mét và nặng hơn một tạ rưỡi mà theo nàng là một con vật duyên dáng nhất là vừa sinh lứa con đầu lòng. Có hôm nàng kể một chuyện cảm động. Một con ngỗng trong khi trình diễn rủi ro bị con ngựa dẫm phải. Trước lúc chết nó dang đôi cánh rộng ôm lấy chủ nó. Chủ nó khóc sướt mướt thề rằng suốt đời không bao giờ huấn luyện một con ngỗng nào nữa. Có hôm nàng trao cho tôi xem một bức thư tỏ tình của một anh chàng nào đó giấu trong bó hoa trao tặng nàng…

Không biết các bạn đồng diễn có ai chế nhạo nàng về việc chọn một ông giáo làm chồng hay không. Còn tôi thì bị không ít lời chế diễu. Cô thư ký trẻ đẹp và chưa chồng ở trường tôi hỏi rằng có bị vợ bắt nhảy qua vòng lửa hay không? Có cô càng sỗ sàng thách thức hỏi tôi con cọp cái đó mỗi khi lên giường ngủ nó có cào xé và kêu gào hay không. Đôi khi chúng tôi ra phố, thiên hạ nhìn vợ chồng chúng tôi với cặp mắt tò mò. Tôi rất khó chịu. Về sau tôi không đi đâu với nàng nữa.

Chỉ có một lần tôi thấy nàng tỏ ra khổ sở, lúng túng về cái nghề đặc biệt của mình. Đó là lần chúng tôi đi dự sinh nhật một người bạn. Con chó của nhà chủ tỏ ra thân thiện với mọi người  chỉ trừ có nàng. Nó sủa vang và còn muốn cắn xé. Quý bà nhìn nhau như thầm bảo: kìa xé mãnh hổ đang địch quân hổ! Lần đó tôi thấy nàng rất khó chịu và giục tôi về sớm.

Đến nhà nàng nói: “Chắc anh khổ vì cái mùi cọp của em lắm phải không?” Đây là lần đầu tiên tôi nghe đến đúng tên cái mùi hăng hắc này. Tôi trả lời để an ủi nhưng chắc không thực với lòng mình. “Không, hoàn toàn không, anh yêu em và yêu luôn cái mùi cọp này”. Nàng cười bảo: “Anh nói dối. Em biết anh không thích. Tháng trước anh viện cớ giường chật đòi ngủ riêng. Mọi người đàn bà được phép thơm tho còn em thì không”. Tôi hỏi tại sao, nàng nói “Con vật, nhất là cọp, nó không nhận biết bằng mắt mà bằng mũi. Một mùi lạ có nghĩa là một kẻ thù!”. Nàng nói với một giọng ân hận và buồn buồn: “Em biết anh rất khó chịu vì em đem cái mùi của ác thú vào tận phòng ngủ…”

Đêm hôm sau cái đêm nàng làm lành với tôi, nàng gặp nạn. Tôi đến nơi thì nàng đã qua đời. Tôi đau đớn cùng cực ôm lấy nàng. Trong làn tóc nhung mượt và đen thẫm, tôi còn nghe thoang thoảng một mùi hương hoa hồng mà nàng đã tắm hôm qua! Dưới ánh đèn thật sáng và trong bộ áo xiếc thấm đầy máu, khuôn mặt nàng yên tĩnh như đang trong một giấc mơ. Tôi khóc. Cả đời tôi không bao giờ khóc như hôm nay. Tôi thét lên thật to: “Tại sao em biết rõ hơn ai hết mà em vẫn làm thế? Vì sự ích kỷ của tôi đấy ư?”. Tôi muốn gieo mình xuống chín tầng địa ngục để ăn năn.

Ngày hôm sau ông chủ gánh xiếc cho tôi biết tất cả sự việc diễn ra trong cái đêm hãi hùng ấy: “Con cọp Đác Lắc mấy ngày qua nó bệnh hoạn và trở tính hung dữ. Hình như nó thấy chồng nó bị đem nhốt qua chuồng một con cọp cái khác. Tôi có một linh cảm về một chuyện gì đó nên dặn cô ấy: hay là tối nay bỏ tiết mục xiếc cọp. Nhưng cô ấy cương quyết và rất tự tin nói với tôi: “Không, nhất định không. Người dạy thú không cho phép mình nhút nhát!” Rồi nàng kiêu hãnh tiến ra sàn diễn trong một tràng pháo tay cỗ vũ nồng nhiệt. Ba con thú tỏ ra phục tùng tuyệt đối dưới làn roi điều khiển của nàng. Theo đúng kịch bản. Con Đác Lắc chuẩn bị nhảy qua vòng lửa. Nàng đứng trước mặt nó và quất một roi vào không khí, con thú nhảy lên chiếc ghế cao. Nàng bước tới giơ cao vòng lửa. Bỗng nhiên tôi thấy con thú thu mình lại. Nó nhìn nàng bằng cặp mắt kỳ lạ. Tôi cho tay vào cây súng dưới áo mở nắp bao da. Thật là nhạy bén và bình tĩnh đến rợn người. Cô ấy nhận ra tất cả. Cô ấy biết con thú sắp sửa tấn công mình. Cô ấy cũng đã nhận ra việc tôi định dùng súng giết con thú. Cô thét lên: “Đừng bắn!…” Cũng là lúc con Đác Lắc lao vào người cô như một khối đá. Trễ rồi, cô ấy đỗ xuống sàn diễn. Con ác thú say máu quay lại. Tôi nổ súng. Tôi nhào đến. Chiếc áo trắng lấp lánh kim tuyến loang máu. Cả rạp như đông cứng lại trong sự hãi hùng, tôi chỉ kịp nghe cô ta thì thào rất yếu: “Con Đác Lắc chết rồi sao? Tội nghiệp nó, nó còn bốn con dại. Không phải lỗi tại nó. Lỗi tại tôi…”

Qua giây phút hãi hùng đó, ban nhạc sực tỉnh, chơi một khúc quân hành rời rạc. Theo truyền thống nghề xiếc, bất cứ lâm vào tình trạng nào vẫn tiếp tục trình diễn. Nhưng không còn ai muốn xem, không còn ai muốn diễn. Cuối cùng ban nhạc cũng ngừng. Rồi thì cả rạp yên lặng như một nhà mồ. Mọi người đều trông tin từ bệnh viện. Một giờ sau nàng qua đời. Tôi lê ra sàn diễn nghẹn ngào báo tin. Khán giả không ai chịu ra về. Bao nhiêu là hoa đặt vào nơi nàng đã ngã xuống. Mấy anh hề hai mắt đỏ hoe thất thểu ra sân…

Chị Helen Hương Nguyễn gởi