Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc

05.02.2015

Kẻ thù của dân chủ ở Việt Nam, trước hết, là chế độ độc tài. Nhưng tại sao chế độ độc tài ấy vẫn cứ vững mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên không phải vì cái chế độ ấy…vững mạnh. Vấn đề, bởi vậy, cần được đẩy xa hơn: Tại sao chế độ ấy vẫn vững mạnh, tiếp tục vững mạnh; và dù bị dân chúng căm ghét, không có dấu hiệu gì lung lay và yếu ớt cả? Nói cách khác, cần tìm các kẻ thù của dân chủ ở ngoài chế độ độc tài.

Nhìn vấn đề như vậy, theo tôi, có hai kẻ thù chính: Một là óc tư lợi và hai là chủ nghĩa thực tiễn (realism).

Trước hết, về tư lợi, xin lưu ý là có nhiều hình thức độc tài khác nhau, từ độc tài quân chủ đến độc tài quân phiệt, độc tài cá nhân và độc tài đảng trị. Về bản chất, các hình thức độc tài ấy giống nhau: thâu tóm quyền lực và quyền lợi vào trong tay của một người hoặc một nhóm người cùng lúc với việc tước bỏ mọi thứ quyền (rights) căn bản của đại đa số quần chúng. Về mức độ độc ác, chà đạp lên quyền làm người, chúng cũng không khác nhau mấy: số nạn nhân bị giết chết dưới chế độ độc tài đảng trị của Stalin, Mao Trạch Đông và Pol Pot không hề thua kém số nạn nhân do độc tài cá nhân của Hitler sát hại. Có điều đáng buồn là, về tuổi thọ, trong thời kỳ hiện đại, loại độc tài đảng trị tồn tại lâu và khó đánh gục nhất. Lý do đơn giản: dưới chế độ đảng trị, quyền lực và quyền lợi được san sẻ cho nhiều người, do đó, lực lượng của họ rất đông và vì đông, nên cũng vững mạnh. Ví dụ ở Việt Nam, quyền lực tối cao nằm trong tay mười mấy người trong Bộ Chính trị, tuy nhiên, dưới Bộ Chính trị, có mấy trăm người trong Trung ương đảng cũng có rất nhiều quyền lực; xuống nữa, thấp hơn, tận các địa phương nhỏ, mấy triệu đảng viên cũng có những quyền lực và quyền lợi hơn hẳn dân chúng: Chính mấy triệu đảng viên ấy , vì tư lợi của họ, hay nói theo lời đại tá Trần Đăng Thanh, vì những cuốn sổ hưu của họ, trở thành những nguồn hỗ trợ cho chính quyền độc tài, làm cho chính quyền, ít nhất, cho tới nay, hầu như bất khả xâm phạm.

Nhưng kẻ thù ấy, thật ra, chưa phải là kẻ thù chính. Số lượng đảng viên đông thì đông thật nhưng dù sao cũng không nhằm nhò gì so với 90 triệu dân. Nếu tất cả dân chúng, hay chỉ cần vài trăm ngàn người dân đổ ra đường biểu tình chống lại độc tài thì, trước sức ép của thế giới, cả mấy triệu đảng viên cũng chịu bó tay. Kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, cụ thể hơn hết, những năm gần đây tại Trung Đông và Bắc Phi, cho thấy điều đó. Độc tài có thể ra lệnh cho quân đội xả súng vào cả hàng ngàn người, thậm chí, hàng chục ngàn người, nhưng không có ai dám ra lệnh bắn cả hàng trăm ngàn người, đặc biệt trong thời hiện đại, khi, với hệ thống truyền thông đại chúng vừa tinh vi vừa nhanh chóng, việc tàn sát ấy dễ dàng lan rộng khiến cả thế giới lên án và can thiệp.

Thế thì tại sao trong một quốc gia có gần 100 triệu người không thể hoặc chưa thể có mấy trăm ngàn người xuống đường biểu tình đòi tự do và dân chủ? Câu trả lời đầu tiên, dễ hiện ra nhất, là vì sợ. Nhưng theo tôi, câu trả lời ấy chưa phải là vấn đề căn bản. Chỉ cần theo dõi dân tình tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay vấn đề chính của đại đa số quần chúng không phải là sự sợ hãi mà chủ yếu là người ta không thực sự quan tâm đến xu hướng dân chủ hoá. Họ không đoái hoài đến chính trị. Họ vô cảm trước hoạ độc tài. Với họ, Việt Nam do ai cai trị và cai trị thế nào không quan trọng. Điều quan trọng nhất, với họ, là họ có thể làm ăn, mua sắm xe cộ và nhà cửa. Bởi vậy, điều họ cần nhất là sự ổn định về chính trị và những cơ hội để làm giàu hoặc ít nhất, kiếm sống. Lâu nay, chúng ta thường gọi đó là tâm lý vô cảm hay chủ nghĩa mặc-kệ-nó, tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau sự vô cảm ấy chính là óc tư lợi, chỉ nghĩ đến những lợi ích của bản thân mình và gia đình mình hơn là quyền lợi chung cho cả đất nước.

Bên cạnh óc tư lợi của các đảng viên cũng như của dân chúng nói chung, tiến trình dân chủ hóa còn có một kẻ thù khác nữa: chủ nghĩa thực tiễn (realism) của các cường quốc trên thế giới.

Trong chính trị học, khái niệm chủ nghĩa thực tiễn được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Nói một cách vắn tắt, chủ nghĩa thực tiễn chủ trương, một, trong quan hệ quốc tế, không có một quyền lực nào bên ngoài hay ở trên có khả năng chi phối cách hành xử giữa các quốc gia với nhau; hai, yếu tố chính quyết định sự lựa chọn của mỗi quốc gia là quyền lợi của chính nước ấy; và ba, quan hệ quốc tế, do đó, thay đổi theo từng lợi ích cụ thể chứ không phải là một ý thức hệ nào cố định cả. Trong ý nghĩa ấy, có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính sách ngoại giao của Tây phương đều xuất phát từ quan điểm thực tiễn luận. Trên lý thuyết, họ hay nói đến vấn đề nhân quyền như một nền tảng ngoại giao, nhưng trên thực tế, mọi quyết định của họ đều tùy thuộc vào quyền lợi của quốc gia họ. Trong lịch sử, kể cả lịch sử rất gần, hơn nữa, kéo dài đến tận ngày nay, Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia Tây phương đều duy trì quan hệ mật thiết với nhiều quốc gia còn chìm đắm dưới họa độc tài. Như với Ai Cập dưới thời Hosni Mubarak hay Pakistan và Saudi Arabia hiện nay.

Từ những kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể đặt vấn đề: Liệu Mỹ và Tây phương có đẩy mạnh sự hợp tác chiến lược với Việt Nam trong khi Việt Nam vẫn còn độc tài và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền hay không? Theo cách trả lời phỏng vấn của một số quan chức trong guồng máy chính trị ở Mỹ và Tây phương nói chung thì dường như là không. Họ lớn tiếng tuyên bố việc cải thiện nhân quyền là một trong những điều kiện căn bản của mọi sự hợp tác có tầm chiến lược. Với họ, dường như đó là một nguyên tắc. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên bố. Khi việc hợp tác thực sự có lợi, người ta sẽ bất chấp tất cả những nguyên tắc và các điều kiện ấy như điều họ vẫn làm đối với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông từ trước đến nay. Nói cách khác, trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng như với các quốc gia Tây phương hiện nay không phải vấn đề dân chủ hay nhân quyền mà thực ra là vấn đề tin cậy: chính quyền Việt Nam phải làm sao cho thế giới thấy là họ có một chiến lược rõ ràng, đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự tin cậy chỉ có thể đạt được khi người ta chia sẻ một bảng giá trị chung; trong bảng giá trị ấy, nhân quyền lại là một trung tâm. Do đó, mặc dù bị chìm phía dưới, nhân quyền vẫn là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một liên minh nào với Tây phương. Yếu tố trung tâm này chỉ bị gạt qua một bên trong trường hợp sự liên minh trở thành thiết yếu, không thể không có.

Dĩ nhiên, người Việt, nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn nên và cần tiếp tục vận động để Mỹ và Tây phương tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam để cải thiện nhân quyền, nhưng cũng không nên quên tất cả những nhà lãnh đạo Tây phương đều là những nhà thực tiễn luận (realist): Cuối cùng, điều họ làm là những gì có lợi nhất cho đất nước họ.

Chứ không phải là ý thức hệ hay ý tưởng. Kể cả các ý tưởng về dân chủ và nhân quyền.

Kiếp khổ

Kiếp khổ

TRẦM THIÊN THU

Chuacưuthe.com

VRNs (06.02.2015) – Sài Gòn – Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng cất tiếng khóc chào đời. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài? Chúa Giêsu cũng đã nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Ông Thích Ca Mâu Ni vốn là một hoàng tử, sống sung sướng an nhàn, nhưng sau khi tham quan bốn cửa thành, ông đã nhìn thấy dân chúng đau khổ, rồi “giác ngộ” và nhận định : “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ”. Phật giáo bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế): Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).

Quả thật, cái khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu sự kìm kẹp của đau khổ. Ở đâu cũng có đau khổ: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi nắng. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó”, tức là coi nó như không có, chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23). Đau khổ là mầu nhiệm. Dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn PHẢI chịu đau khổ (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; Lc 17:25). Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại.

150205008

Đau khổ như ma quỷ, nó cứ “ám” chúng ta suốt ngày đêm. William Arthur Ward (1921-1994, ký giả và thi sĩ Mỹ) rút ra kinh nghiệm: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm” (Wise are they who have learned these truths: Trouble is temporary, time is tonic, tribulation is a test tube). Dù sao thì cũng phải ráng thôi!

Đau khổ xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc, từ khi Nguyên Tổ nghe lời xúi dại của Con Rắn. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu (St 6 :5-6). Thiên Chúa không gây ra điều ác, vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết (x. Gc 1:13-15). Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này.

Trong dịp ĐGH Phanxicô tông du Phi Luật Tân hồi trung tuần tháng 1-2015, bé gái mồ côi Glyzelle đã khiến ngài và cả thế giới mủi lòng khi em hỏi trong niếng nấc nghẹn ngào: “Tại sao Thiên Chúa cho phép chuyện này xảy ra? Trẻ em không có lỗi chi. Tại sao chúng con chỉ được một số ít người giúp đỡ?”. Một câu hỏi hóc búa quá! ĐGH Phanxicô cũng không biết phải nói gì hơn là ôm chặt em trong vòng tay yêu thương và cảm thông.

Ông Gióp là hiện thân của đau khổ, dù ông sống tốt lành. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4). Cả cuộc đời hầu như phàm nhân không được ngơi nghỉ, lo rồi sợ, sợ rồi hoang mang. Cứ thế, kiếp người bị đày đọa trong kiếp khổ triền miên, cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng!

Thất vọng rồi hầu như tuyệt vọng. Ông Gióp tha thiết cầu xin: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:6-7). Buồn quá! Não nề quá! Thế nhưng bị đau khổ có khi lại là cái may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, lúc đó còn nguy hại hơn là chịu đau khổ.

Cái mình bảo là hên nhưng lại có thể là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như chuyện Tái Ông mất ngựa vậy. Nhưng tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Vậy thì chúng ta lại phải tạ ơn Ngài mà thôi, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Ítraen tản lạc về” (Tv 147:1-2).

Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ (Lc 11:35). Kinh Thánh cho biết: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 147:3-6). Thiên Chúa của chúng ta luôn trắc ẩn, đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Chính người đời còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra”. Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc không lối thoát giữa những nỗi đau khổ hằng ngày trên đường lữ hành trần gian.

Dù chịu bao gian khổ, nhưng Thánh Phaolô vẫn kiên trì và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Thánh Phaolô lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1 Cr 9:15-19). Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Ngược đời thế đấy!

Thánh Phaolô nói và làm thật, không nói suông: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).

Sinh, lão, bệnh, tử là bốn “mũi nhọn” chĩa vào con người. Đánh vần chữ KHỔ là “ca hát ô khô hỏi Khổ”, “ca hát” thì vui, thế mà chả vui tí ti nào. Khổ thật! Có lẽ vì thế mà ngày nay người ta đánh vần là “khờ ô khô hỏi Khổ”, khổ quá nên “khờ” phải rồi! Và Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn cái khổ đó.

Một hôm, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đây là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm các môn đệ đầu tiên. Lúc đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

Tin lành hoặc tin dữ luôn được người ta đồn rất nhanh. Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa”. Thế thì đông lắm, đông như kiến, vì ai cũng muốn tận mắt chứng kiến “sự lạ” nhãn tiền. Hôm đó, Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì “giờ của Ngài chưa đến”.

Hôm sau, mới sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là điều vô cùng cần thiết, nhất là khi mới thức dậy. Không thấy Sư Phụ Giêsu đâu, ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Cà phê cà pháo chi sớm rứa? Ăn sáng thì càng phải từ từ chứ!

Nghe mấy đệ tử nói vậy, Ngài lại bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và làm việc. Sau đó, Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ – tức là diệt khổ cho những người đang phải chịu đau khổ.

Sai lầm dẫn tới phạm tội, tội lỗi sinh ra đau khổ. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em” (Cn 6:16-19). Tránh được những điều đó thì chúng ta khả dĩ tránh được sai lầm, tránh sai lầm thì tránh được tội lỗi, tránh tội lỗi thì tránh được đau khổ.

Đau khổ có giá trị đặc biệt. Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng các ngài đều đã từng đau khổ nhiều – đau khổ tinh thần, đau khổ thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận giá trị của đau khổ mà không than thân trách phận. Chúng con không dám xin Ngài kéo chúng con ra khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc chúng con trong đau khổ. Tất cả xin vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219

40 năm Người Việt tại Canada và dự luật S-219

Mặc Lâm – RFA
2015-02-06

senator-ngo

Nghị sĩ Ngô Thanh Hải

RFA photo

Mặc Lâm: Thưa TNS Ngô Thanh Hải, xin ông cho biết mục đích mà ông soạn thảo Dự luật S-219 ban đầu có tên là Tháng Tư đen, sau đổi lại là “Ngày hành trình tới tự do” nhằm nói lên điểu gì thưa ông?

TNS Ngô Thanh Hải: Đó là dự luật để tưởng nhớ tới hơn hai triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi với tư cách là tị nạn, là thuyền nhân. Thứ hai là để tưởng nhớ 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển cả hoặc là bị cướp, bị bão hay điều gì đó. Thứ ba nữa dự luật này nhằm cám ơn chính phủ Canada đã nhận một trăm hai chục ngàn người Việt Nam tỵ nạn vào cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 rồi sau này lên tới 300 ngàn người. Đồng thời cũng là cám ơn chính phủ Canada đã mở rộng vòng tay để đón nhận thuyền nhân tỵ nạn của chúng ta tại đây. Thứ tư nữa là cám ơn chính phủ, nhân dân Canada đã sponsor từ cá nhân, nhà thờ đến các cơ quan thiện nguyện đã bảo trợ giúp đỡ cho chúng ta. Thứ năm là Canada là một quốc gia mà trong thập niên đó, cuối 70 đầu 80 thì Canada là quốc gia đầu tiên trên thế giới đã nhận người tỵ nạn do đó mà Cao Ủy Tỵ Nạn (UNHCR) Canada đã trao giải Nansen cho Canada. Đạo luật này dựa trên 5 điều đó thôi.

Mặc Lâm: Thưa, ông là một dân cử gốc Việt tại Canada với chức vụ Thượng Nghị Sĩ liên bang, đời sống của người Việt nam hôm nay vừa đúng 40 năm kỷ niệm ngày ra đi của họ thì ông thấy có sự thành tựu nào đáng kể nơi xứ tạm dung mà bây giờ đã trở thành quê hương thứ hai của họ hay không?

TNS Ngô Thanh Hải: Thưa bây giờ thì mình thấy rằng cộng đồngViệt Nam mình tại Canada sau 40 năm thì phát triển rất mạnh. Tôi thấy Việt Nam mình đóng góp

” … tại Montreal thì đa số người Việt mình là bác sĩ, dược sĩ ở Montreal. Tại vùng Ontario thì bác sĩ, kỹ sư đủ hết mọi ngành chuyên môn, luật sư bây giờ cũng đông lắm. Vùng Calgary thì kỹ sư rất nhiều vì tỉnh bang đó có rất nhiều dầu mỏ thành ra Việt Nam mình ở trên xứ Cadana này thành công rất nhiều. Không những như thế…

TNS Ngô Thanh Hải”

cho xứ sở, xã hội Canada rất nhiều, chính phủ Canada cũng đã công nhận sự đóng góp của người Việt tại đây và họ đã để ý rất nhiều chẳng hạn như cách đây ba năm chính phủ Canada của Đảng Bảo thủ đã nhận hết những người tỵ nạn tại Phi Luật Tân còn lại, khoảng hai trăm mấy chục người đã nhận rồi và đồng thời mới đây cũng hai năm rồi chính phủ đã chính thức chấp nhận tất cả người Việt tỵ nạn còn lại tại Thái Lan và Cao Miên (Campuchia). Trong tháng vừa rối bốn mươi mấy gần năm chục người tỵ nạn tại Thái đã qua tới Canada. Hy vọng cuối năm nay hết một trăm mấy chục người đó sẽ đến Canada để chấm dứt giai đoạn chót của người tỵ nạn chúng ta đã ra đi hơn mấy chục năm nay.

Mặc Lâm: Thưa ông nhìn chung vấn đề người Việt tỵ nạn khắp nơi được chính phủ Canada mở rộng vòng tay để đón họ và ông là người đại diện cho người Việt ở đó ông có cảm thấy sự thành tựu của họ trên lĩnh vực kinh tế, kiến thức hay khoa học thì lĩnh vực nào thành công nhất thưa ông?

TNS Ngô Thanh Hải: Cộng đồng của mình thì anh thấy chẳng hạn như tại Montreal thì đa số người Việt mình là bác sĩ, dược sĩ ở Montreal. Tại vùng Ontario thì bác sĩ, kỹ sư đủ hết mọi ngành chuyên môn, luật sư bây giờ cũng đông lắm. Vùng Calgary thì kỹ sư rất nhiều vì tỉnh bang đó có rất nhiều dầu mỏ thành ra Việt Nam mình ở trên xứ Cadana này thành công rất nhiều. Không những như thế mà cộng đồng người Việt mình cũng đã đứng ra để nhận lãnh nếu kể ra thì hai trăm mười mấy người bên Phi Luật Tân và một trăm mấy chục người bên Thái và Cao Miên. Chính cộng đồng bỏ tiền ra đóng góp mua vé máy bay, bảo hiểm sức khỏe cho khoảng 400 người tỵ nạn cuối cùng của cái lớp đã bỏ đi từ 75 tới giờ.

Không những như thế mà cộng đồng còn đứng ra bảo lãnh những người đó qua để mà tiếp tay với chính phủ đã từng làm cho chúng ta nên bây giờ phải đáp lại bằng cách yễm trợ và bảo trợ người Việt Nam tỵ nạn còn lại của chúng ta. Đa số những người này bị kẹt từ hai tới ba mươi năm ở Phi và Thái Lan.

Mặc Lâm: Vâng, thưa ông bên cạnh những thành tựu nhất định đó thì chắc chắn bất cứ một cộng đồng nào cũng đều có những trở ngại khó khăn. Ông có thể cho biết cộng đồng Việt Nam tại Canada thì những trở ngại khó khăn ấy cụ thể là gì?

TNS Ngô Thanh Hải: Tôi thấy thì những trở ngại của cộng đồng không có gì lắm bởi vì đa số thế hệ thứ nhất cũng đã thành công rồi còn thế hệ thứ hai, thứ ba thế hệ con cháu chúng ta đã hội nhập vào xã hội Canada từ nhỏ cho tới lớn. Thành ra theo tôi nghĩ, tôi không biết chỗ nào khác nhưng riêng Canada này thì những trở ngại của cộng đồng nếu mà có thì cũng nho nhỏ thôi, chẳng hạn như con cái của chúng ta lớn lên thì vấn đề tiếng Việt của mình nó hơi khó khăn. Trường học dù có mở lớp tiếng Việt dạy cho con em của chúng ta nhưng chắc con em mình nó đã thấm nhuần xã hội Canada nói tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt thành ra đó là cái mà tôi lo ngại nhất. Tôi hy vọng văn hóa Việt Nam mình sẽ tồn tại tới thế hệ thứ ba, thứ tư và ngay cả về sau này nữa. Đó là điểu mà tôi lo ngại thôi chứ ngoài ra thì tôi thấy cộng đồng người Việt riêng tại Canada thành công rất nhiều. Trở ngại thì văn hóa và tiếng mẹ đẻ của con em chúng ta lớn lên ở đây thì nó hơi khó khăn trong vấn để đó

Mặc Lâm: Xin cám ơn TNS Ngô Thanh Hải.

Thứ trưởng Quốc phòng VN gặp cố vấn Ngoại trưởng Mỹ

Thứ trưởng Quốc phòng VN gặp cố vấn Ngoại trưởng Mỹ

Quan chức cấp cao của quân đội Việt Nam cũng nói rằng nhiều lĩnh vực hợp tác, trong đó bao gồm an ninh biển, “đã có bước phát triển mới”.

Quan chức cấp cao của quân đội Việt Nam cũng nói rằng nhiều lĩnh vực hợp tác, trong đó bao gồm an ninh biển, “đã có bước phát triển mới”.

06.02.2015

Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh hôm qua (5/2) đã gặp ông Thomas Shannon, cố vấn Ngoại trưởng Mỹ trong chuyến công du tới Việt Nam.

Theo báo chí trong nước, ông Vịnh đã “đánh giá cao việc Hoa Kỳ dỡ bỏ một phần cấm vận vũ khí với Việt Nam và đề nghị sớm dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận này”.

Ngoài ra, quan chức cấp cao của quân đội Việt Nam cũng nói rằng nhiều lĩnh vực hợp tác, trong đó bao gồm an ninh biển, “đã có bước phát triển mới”.

Ông Vịnh cũng bày tỏ hy vọng rằng quan hệ Việt – Mỹ “ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả”.

Chuyến thăm của ông  Shannon diễn ra ít lâu sau khi hai quốc gia cựu thù tổ chức cuộc đối thoại thường niên về quốc phòng, an ninh và chính trị.

Ông Puneet Talwar, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề quân sự và chính trị, dẫn đầu phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ tham gia sự kiện này.

Trong cuộc trả lời phỏng vấn VOA Việt Ngữ sau cuộc đối thoại, ông Talwar cho biết rằng an ninh biển, nhất là vấn đề tự do hàng hải, là một trong các vấn đề quan trọng trong cuộc họp song phương.

Ông cũng cho biết thêm rằng Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ củng cố lực lượng tuần duyên mà Việt Nam gọi là cảnh sát biển.

Ông nói: “Chúng tôi đã và đang tăng cường hợp tác để giúp đỡ Việt Nam phát triển lực lượng tuần duyên. Chúng tôi rất tự hào về điều đó, và chúng tôi cũng hy vọng rằng phía đối tác Việt Nam sẽ đánh giá như vậy.  Đúng, chúng tôi đã cung cấp cho Việt Nam tàu tuần tra và chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện điều đó để giúp lực lượng tuần duyên của Việt Nam cải thiện khả năng”.

Cuộc đối thoại tiếp theo về quốc phòng, an ninh và chính trị Việt – Mỹ tiếp theo sẽ diễn ra ở thủ đô Washington của Hoa Kỳ vào năm 2016.

2015 được coi là năm quan trọng trong mối bang giao Hà Nội – Washington khi hai nước kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao.

Thời gian qua đã có nhiều hoạt động hướng tới ngày lễ này. Hồi cuối tháng Một vừa qua đã diễn ra một buổi hội thảo nhìn lại hai thập kỷ quan hệ giữa hai quốc gia cựu thù với sự tham gia của nhiều học giả và quan chức của cả hai phía.

Ông Ted Osius, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, phát biểu: “Mục tiêu của Hoa Kỳ rất rõ ràng: chúng tôi muốn giúp Việt Nam trở thành một quốc gia lớn mạnh, giàu có và độc lập, tôn trọng luật pháp và nhân quyền.”

Theo VNA, VOA

CHÚA CHỮA LÀNH ĐỐT XƯƠNG SỐNG BỊ TRẬT VÌ TAI NẠN XE.

CHÚA CHỮA LÀNH ĐỐT XƯƠNG SỐNG BỊ TRẬT VÌ TAI NẠN XE.

MARIA Vũ Kỳ.

Vào tháng 10 năm 2014 , tôi đã tham dự tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo tại nhà thờ St. Christopher, Houston , Texas. Buổi tĩnh tâm này do Cha Đinh thanh Sơn từ Canada đến hướng dẫn và Cha Lê Thu, Quản Nhiệm giáo xứ bảo trợ.

Ngay từ đầu , tôi đã được ơn đặc biệt của Chúa. Nhìn thấy tấm băng rôn lớn treo ở hội trường , nơi tổ chức tĩnh tâm , với hàng chữ : “ Hãy tha thứ để được thứ tha” , thì lòng tôi chùng xuống , tôi tự nhủ lòng , sau tĩnh tâm mình sẽ gọi ” phôn” xin lỗi ông Anh, vì hai Anh Em giận nhau dễ đến hai năm không hề nói chuyện với nhau. Tôi sẽ dùng món quà này để xin Chúa đụng chạm và đổi mới tôi.

Quả đúng như lòng tôi mong ước , Chúa đã ghé mắt nhìn đến linh hồn tôi, khi đang hát ca ngợi Chúa thì tôi được ơn trọng là cảm thấy yêu mến Chúa và muốn từ bỏ các đam mê xấu làm cho mình xa cách Chúa , ngay lập tức một niềm bình an mênh mông bao phủ tôi, và tôi chợt phát nói một thứ tiếng lạ nào đó và tôi dùng tiếng nói mới này mà ca khen Chúa , Kinh Thánh qua Thánh Phao lô đã giải thích ơn “cầu nguyện bằng tiếng lạ” với Chúa nhờ vào sự linh ứng , của Chúa Thánh Thần. Cùng với cả cộng đoàn , chúng tôi ca ngợi Chúa một cách hăng say,  trong niềm vui phấn khích vì cảm được tình yêu của Chúa và sự hy sinh cao cả của Người. Chúng tôi , mỗi người thắp lên một ngọn nến và hứa nguyện sẽ để cho ánh sáng Lời Chúa hướng dẫn đời mình mãi mãi. Rồi khi hôn chân thánh giá , tôi cảm được sự hy sinh của Chúa, cảm biết là Ngài sẽ không từ một hy sinh nào nếu có thể cứu được các linh hồn đang hư mất. Tâm hồn tôi thật là bình an , nó như đang an nghỉ trong sự bảo bọc của Chúa . Tôi đã quên đi những băn khoăn lo lắng , dù cả gia đình tôi vừa dọn nhà từ California về Houston, dù hai vợ chồng đều chưa có việc làm , nhà cửa thì đang ở thuê apartment , rất bề bộn, thùng dọn nhà còn bừa bãi khắp nơi, cho dù hai cháu nhỏ của chúng tôi thì còn bé xíu,  đang ở  tuổi bú sữa… Chúng tôi dâng hết cho Chúa những khó khăn, ưu tư chồng chất của mình.

Như thông lệ , kỳ tĩnh tâm sẽ kéo dài ba ngày , từ chiều tối thứ sáu đến ngày Chúa Nhật, vào tối thứ Bảy tôi được ơn ca ngợi Chúa bằng tiếng lạ, hết buổi tĩnh tâm đã là 9 giờ đêm , chúng tôi đi về khu chung cư của gia đình mình, sau khi cho con ngủ , tôi lại tiếp tục cầu nguyện và ngỡ ngàng thay , tiếng lạ lại cất lên , không ngưng nghỉ ca khen Chúa trong suốt một tiếng đồng hồ cho đến khi chồng tôi ngại ngần nói tôi ngưng lại, kẻo các con thức giấc. Chồng của tôi,  là người mới biết Chúa nhưng qua ngày tháng, đức Tin của anh đã có cơ hội lớn lên và càng được củng cố qua các biến cố mà tôi xin làm chứng sau đây.

Sau kỳ tĩnh tâm , tôi chợt nhớ là ngoài việc xin làm hòa với ông Anh ra  thì mình phải gọi điện thoại cho gia đình, thăm hỏi Ba Mẹ tôi, vốn vẫn còn đang sinh sống ở Việt Nam .

Khi gọi cho Ba tôi, thì Mẹ đang đi chợ . Ba nằm một mình,  rất âu sầu Cha cho tôi biết hung tin, số là cách nay ba tuần trong lúc đang cỡi xe đạp đi công chuyện thì một kẻ đi honda , phóng chạy rất nhanh đã không thắng kịp và lao thẳng vào người Ba, Ông té lăn nhào xuống đất , bị bầm dập tím , rách chảy máu trên khắp người, nguy hiểm nhất là một đốt xương sống bung khớp, ra khỏi vị trí đứng của nó. Ông được đưa đi cấp cứu, các Bác sĩ đã cứu chữa  các vết thương khác nhưng riêng tình trạng của đốt sống thì hầu như bó tay, có thể là bị bán thân bất toại , tê liệt  nửa người trong suốt quảng đời còn lại. Ba tôi rất đau, và tuyệt vọng, mỗi một cử chỉ dù là nhẹ , ông cũng cảm thấy đau buốt , chết lịm .

Gia đình tôi vốn lại quá nghèo ở Việt Nam , rất khó có thể lo chữa trị cho Ba tôi,  khi mang Ba Tôi về nhà, Má tôi đặt cáng băng ca giữa căn nhà bé nhỏ , ngay tại chỗ , cho Ba ăn , ngay tại chỗ rửa ráy cho Ba tôi, cũng ngay tại chỗ Ba tôi nằm mê man,  tiểu tiện ra trên giường. Tình cảnh thê thảm và khổ sở khó tả cho hết…

Trên phôn, Ba rên rỉ , con cầu nguyện cho Ba , kỳ này Ba đã thành người tàn phế hết cuộc đời và còn làm khổ cho Mẹ con nhiều… Ba ngâm ngùi khóc , …. Không nản chí khi nghe Ba tôi kể tình cảnh, tôi nhẹ nhàng nói:

–          Xin Ba hết lòng phó thác , tin cậy nơi Chúa . Ba và Con cùng cầu nguyện với Chúa nhe, nếu có thể được xin Ba giơ tay lên để cùng với con xin ơn Chúa.

Cách xa nửa vòng trái đất , tôi ở bên này đường dây phôn, Ba tôi ở bên kia , qua đường kết nối chúng tôi như đang ở sát kề bên nhau và cùng tha thiết cầu nguyện.

Đang khi lòng tôi khẩn thiết dâng hoàn cảnh của Ba lên Chúa Giê Su thì miệng tôi bật lên lời cầu nguyện bằng tiếng lạ. Trong gần 10 phút đồng hồ , hồn tôi hết lòng trông cậy Chúa , hy vọng nơi danh thánh của Chúa có quyền năng trên hết mọi sự kể cả trên cái xương sống đang trật trìa trong thân hình quằn quại của Cha cũng phải tuân theo quyền năng đó. Tôi tán dương danh rất nhân ái, hay thương xót của Chúa rồi theo sự chỉ dậy của Cha Đinh Thanh Sơn trong kỳ tĩnh tâm vừa mới rồi, tôi nhân danh Tên Cực Thánh của Chúa Giê Su, tôi ra lệnh cho mọi  , gân cốt , mọi đốt xương dập trật , mọi tế bào trong cơ thể của Ba,  phải quay trỏ lại tình trạng tốt đẹp , hoạt động bình thường để làm ích cho con cái Đức Chúa Trời. Cầu nguyện xong , thì Ba tôi cho biết , khi tôi còn đang cầu nguyện tiếng lạ thì có một làn điện nóng chạy rần rật trong người Cha, ngay chỗ sống lưng, và rồi,  Ông biết là Chúa đang làm một cái gì đó cho mình. Ba tôi, thì thầm tôn vinh và cảm ơn Chúa khi các cơn đau chợt bỗng nhiên im bặt.

Khi đã cầu nguyện xong, tôi nói xin Ba thử cử động người vì trước đó ông không thể xê dịch người mà không có người nhà vực đỡ và chỉ một đụng chạm cũng làm cho Ông đau điếng người. Ba tôi đã không những cử động thử mà còn đòi tự mình ngồi lên, ông luôn miệng nói “ Chúa chữa cho Ba hết đau rồi”, “ Chúa chữa cho Ba lành rồi”. Rồi ông từ từ đi lại trong nhà. Ngay khi đó má tôi đi chợ về , bà la toáng lên : “ Trời ơi, sao ông dám cử động và ra khỏi chỗ, ông muốn bị tê liệt và té chết hả” . Ba ôn tồn giải thích cho Mẹ hiểu nguồn cơn sự tình, tôi cũng hùa vào công nhận đã có sự chữa lành xảy ra,  thế là Bà đổi ái ngại thành vui mừng, từ thảng thốt thành phấn khích và cũng đòi cùng với Ba và tôi tạ ơn Chúa rồi xin Chúa chữa lành cho cả Bà nữa. Đó là những giây phút đáng ghi nhớ khi chúng tôi cùng đồng lòng trong sự tạ ơn và ca khen Chúa.

Kỳ tích lớn nhất Chúa làm cho tôi là thay cho tôi một đời sống thiêng liêng hoàn toàn mới, tôi líu lo như chim sơn ca tíu tít ca ngợi Chúa và làm chứng về vị Chúa rất sống động và nhân từ , mỗi khi ca ngợi Chúa lòng tôi lâng lâng , nhẹ nhõm , cảm thấy hạnh phúc vì biết có Đấng rất yêu thương tôi , luôn che chở cho gia đình tôi. Nó chính là một chút xíu vị ngọt Thiên Đàng mà Chúa muốn hé mở cho tôi được cảm nghiệm dù là không thể so sánh với niềm vui vô cùng tận, trong bầu khí viên mãn trọn vẹn của Thiên Đàng khi mà thần thánh, cùng họp nhau ca khen Chúa trong một gia đình rất lớn. Ngày xưa , nếu có ai nói về niềm vui này thì có lẽ tôi đã cho rằng họ bị “cảm tính thiên lệch” rồi , nhưng nay thì tôi biết về một niềm vui rạng rỡ trong sự Ca Ngợi Chúa, tôi biết niềm vui Thiên Đàng này không phải là điều xa vời , mơ hồ. Khi nhớ lại bao nhiêu lần phản bội Chúa và giới luật của Chúa, tôi thì thầm:

–          Chúa Giê Su ơi! Ngài thật dịu dàng với con lắm, tội lỗi con có lớn đến mấy mà con chịu chấp nhận và chạy đến, thực lòng xin lỗi Chúa , thì Người sẵn lòng tha thứ hết dù là vào giây phút cuối của cuộc đời, tưởng như không thể vớt vát được . Con thờ lậy và ca ngợi Đáng rất thánh khiết của con. Đấng rất đáng kính , Đáng rất yêu thương của con…

Tôi may mắn, đã được hưởng một kỳ tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo rất tuyệt vời , nó đã làm mới đời sống tôi và cứu sống cuộc đời của Ba tôi. Từ dạo đó, mỗi tuần , vào sáng ngày Chúa Nhật chúng tôi dậy sớm đi lễ,  rồi mau mắn đến một nhóm Thánh Linh nọ, tại giáo xứ Đức Kito Ngôi Lời Nhập Thể, trên đường Kirkwood , Houston,  để ca tụng Chúa, tôn vinh Chúa và nghe Lời Chúa dậy dỗ cho cả gia đình gồm Hai vợ chồng và hai cháu nhỏ. Cuối buổi nhóm, thì rồi chúng tôi chia sẻ với nhau một miếng bánh mì , một nhúm xôi điểm tâm muộn màng … mọi người thật là thân ái như trong gia đình.

Tại Việt Nam đã hơn ba tháng qua,  Ba tôi lại ngày ngày , đạp xe đi đó đây và đến thăm viếng Chúa , dự lễ Misa mỗi ngày,  Chúa cho Cha thanh thản và an hòa quá !

Cám ơn Cha Sơn và các Bác đã tổ chức kỳ tĩnh tâm tại nhà thờ St Christopher , Houston.

Cám đội ơn vị Bác Sĩ rất tuyệt vời là Chúa Giê Su.

Tôi muốn kết thúc bài làm chứng này , bằng cách cùng với Mẹ Maria ca khen Chúa:

–          Hồn tôi tôn dương Chúa và thần khí tôi nhảy mừng Thiên Chúa,

Cứu Chúa của tôi.

(Luca 1: 46-47)

LỖI VÀ PHẢI: không phải lỗi tại tôi.

LỖI VÀ PHẢI: không phải lỗi tại tôi.

Không phải lỗi tại tôi. Đây là chuyện có thật, xảy ra tại tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ.

Tại một nhà thương nọ, các bác sĩ đã giải phẫu một người đàn ông bị bệnh mập phì, gắn vào một cái vòng thắt bao tử để giúp ông bớt ăn nhiều.  Sau cuộc giải phẫu vài ngày và bắt đầu lại sức, ông đứng dậy đi lang thang trong hành lang của nhà thương để tìm nhà bếp. Khi  thấy được nhà bếp thì ông đi thẳng tới cái tủ lạnh to tướng, mở ra và ăn ngấu nghiến tất cả đồ ăn để trong đó. Vì ăn quá mức nên cái vòng thắt bao tử của ông tét ra, làm chảy máu nội thương. Thế là bác sĩ phải mổ lại lần thứ nhì cứu ông thoát chết. Nhưng ai ngờ sau đó ông quay ngược lại kiện nhà  thương và bác sĩ. Ông nói: “Tôi bị mổ lần thứ nhì không phải lỗi tại tôi mà là lỗi của nhà thương và bác sĩ đã không biết khóa cái tủ lạnh lại”.

Khi nghe câu chuyện trên chắc bạn sẽ tức cười vì quá vô lý. Người đàn ông mập phì kia đã không biết  lỗi mình tham ăn thì chớ,  nay lại quay sang đổ  lỗi cho người khác. Nhưng nếu  nhìn kỹ một chút thì đa số chúng ta cũng thường mắc  phải lỗi  tương tự.

Mỗi khi gặp đau khổ, phải chăng chúng ta hay nói:” Tôi buồn là vì ông A mắng chửi  tôi; hoặc tôi khổ  là tại bà B giựt  tài sản của  tôi v.v…”?

Ông A co’ mắng chửi  tôi hay không, đó là vấn  đề của  ông A, vì tôi không thể  làm chủ ý nghĩ và lời  nói của ông ấy. Nhưng tôi có buồn giận hay không, đó là vấn  đề của  tôi, vì tôi có  thể làm chủ  tâm ý và tình cảm của mình. Nếu  tôi buồn vì bị  ông A mắng chửi, đó tức là tôi đã vô tình cho phép ông ấy  điều khiển  tình cảm của  tôi. Nói cách khác, tôi là một người nộm  để cho người khác giựt dây. Khi bị người mắng thì tôi buồn, được người khen thì tôi vui. Như  vậy sự vui, buồn của  tôi hoàn toàn tùy thuộc  vào kẻ khác.

Nếu  bà B giựt tài sản  của tôi một cách bất lương thì điều  mà tôi có thể  làm là nhờ luật pháp can thiệp, và không cần phải  “buồn khổ”. “Buồn  khổ” là một  cảm xúc thừa  và vô ích (hay vô minh). Nếu  tôi buồn khổ,  tức là tôi đã dại dột cho phép bà B hại tôi tới hai lần, một lần về  tài sản, và một  lần về  tinh thần.

Tóm lại, người khác co’ thể làm bất cứ chuyện gì đối với ta, đó là việc của họ, vì họ đang tạo nghiệp. Chuyện quan trọng là phản ứng của ta đối với hành động của họ. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào ta, và ta là người chịu trách nhiệm về ý nghĩ, tình cảm của mình.
Đừng đổ lỗi cho kẻ khác.
————————————

NHÌN LỖI  NGƯỜI

Có một nhóm thuyền chài gồm năm sáu chiếc cùng ra khơi đánh cá. Chẳng may xế chiều, mây đen ở đâu bất ngờ kéo đến che phủ bầu trời, bão tố, sấm sét nổi lên ầm ầm, các
thuyền đều chao đảo, và rồi có thuyền bị gẫy buồm, có thuyền bị thủng lỗ, có thuyền bị gẫy bánh lái, v.v… không có thuyền nào còn nguyên vẹn. Trên mỗi thuyền, ai nấy đều hoảng hốt lo cứu chữa thuyền của mình. Duy có một thuyền cũng bị gẫy buồm, thủng lỗ, nước tràn vào

sắp chìm mà anh chủ tàu không để ý lấp lỗ, tát nước mà cứ đứng trên khoang tàu nhìn sang thuyền kẻ khác la ó, chỉ trỏ bảo họ phải làm thế này thế nọ. Vì mải say mê chỉ bảo người khác mà không lo cứu thuyền mình nên thuyền của anh chìm trước tiên.

Tất cả chúng ta đều là những người đang lênh đênh trên biển khổ sinh tử luân hồi, bị gió nghiệp thổi, bị bão phiền não làm thất điên bát đảo. Người nào ý thức được sự nguy hiểm thì lo tu hành, tu tâm  sửa tánh của mình để chuyển nghiệp và phiền não. Nhưng cũng có người thay vì lo tu tâm sửa tánh của mình thì lại đi tu sửa người khác, thích để ý bắt lỗi, dòm ngó kẻ khác, chẳng khác gì anh chủ tàu chết chìm trên.

Thích Trí  Siêu

——————————————-

CHUYỆN NHỮNG CỦ  KHOAI TÂY

Vào một buổi học, thầy giáo chúng tôi mang vào lớp rất nhiều túi nhựa và một bao khoai tây thật to. Thầy chậm rãi giải thích với mọi người rằng, mỗi khi cảm thấy oán giận hoặc không muốn tha thứ lỗi lầm cho ai, hãy viết tên người đó lên một củ khoai tây rồi cho vào túi nhựa.
Chúng tôi thích thú viết tên những người không ưa hay ghét hận rồi cho vào túi. Chỉ một lúc sau, chiếc túi nào của chúng tôi… cũng đã căng nặng, đầy khoai tây. Thậm chí có người một túi không chứa hết khoai, phải thêm một túi nhỏ kèm theo.

Sau đó, thầy yêu cầu chúng tôi hãy mang theo bên mình túi khoai tây đó bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào trong thời gian một tuần lễ. Đến lớp thì mang vào chỗ ngồi, về nhà thì mang vào tận giường ngủ, thậm chí khi vui chơi với bạn bè cũng phải đem theo.

Chỉ sau một thời gian ngắn, chúng tôi đã bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và phiền toái vì lúc nào cũng có một túi khoai tây nặng nề kè kè bên cạnh.

Tình trạng này còn tệ hơn nữa khi những củ khoai tây bắt đầu thối rữa, rỉ nước.
Cuối cùng, chúng tôi quyết định xin thầy cho quẳng hết số khoai tây ấy đi và cảm thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái trong lòng. Lúc ấy, thầy giáo của chúng tôi mới từ tốn nói:

“Các em thấy không, lòng oán giận hay thù ghét người khác đã làm cho chúng ta thật nặng nề và khổ sở!

Càng oán ghét và không tha thứ cho người khác, ta càng giữ lấy gánh nặng khó chịu ấy mãi trong lòng.

Lòng vị  tha, sự cảm thông với những lỗi lầm của người khác không chỉ là món quà quý giá để ta trao tặng mọi người, mà đó còn là món quà tốt đẹp mỗi chúng ta dành tặng cho bản thân mình”.Thế mới biết trong cuộc sống có những điều không  nên giữ trong lòng. Cái gì bỏ qua được nên bỏ qua bạn  nhé!

Trọng Nghiã & Cha (lượm lặt).

Chị Xuân Lang gởi

Tại sao khó tự hào là người Việt Nam?

Tại sao khó tự hào là người Việt Nam?

Chuacuuthe.com

VRNs (04.02.2015) – Sydney, Úc – Tác giả bài được trích sau đây mang ra những nhận xét chân thực về nét sinh hoạt của người Việt hiện nay, mà phần chính là những nhận xét về ngưòi Việt trong nước, nhưng thiếu một điều. Đó là nguyên nhân nào mà người Việt lại có những cách cư xử không đáng tự hào như vậy? Ai là người chịu  trách nhiệm cho sự suy đồi về đạo đức, nhân phẩm, cách sống, phong thái sống, và sự lãnh cảm của đa số dân chúng đối với chính họ, với người khác, dân tộc khác?

Chúng ta vẫn còn cảm phục đối với những bà mẹ Việt hy sinh mạng sống để cho con ăn học, vẫn còn cảm phục những người tranh đấu cho tự do dân chủ của người dân, và khi người dân có phương tiện để phát triển về tri thức (trong khi CSVN đã và đang thực hiện nền giáo dục và chính sách ngu dân), thì từ từ, nền tự hào về dân tộc Việt sẽ trở lại.

Một dân tộc không có nền giáo dục hướng thượng và nhân bản thì không có phương tiện cần thiết để nâng cao “nhân phẩm của dân tộc ấy”. Còn là người Việt, chúng ta không thể không tiếp tay đóng góp vào sự phát triển tri thức của dân tộc, dù chỉ là sự đóng góp nhỏ nhoi, dù chỉ giúp một người hiểu được chính sách ngu dân của CSVN, và tìm cách thoát khỏi sự kìm kẹp trí não đó.

15020300

Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?

Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói “tôi không tự hào là người Việt” thì chắc chắn sẽ bị “ném đá” như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình.

Một cuốn sách có tựa đề là “Tôi tự hào là người Việt Nam” mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lý do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một “devil advocate” về đề tài này.

Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc?

Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima.

Riêng tôi muốn bổ sung những yếu tố trên và nghĩ đến 6 yếu tố sau đây: truyền thống và văn hoá, kinh tế, giáo dục & khoa học, xã hội ổn định, phong cảnh thiên nhiên, và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Phải nói ngay rằng xét đến 6 yếu tố này thì chúng ta rất khó mà tự hào là người Việt.

Truyền thống và văn hoá nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực

Thật khó chỉ ra một nét văn hoá đặc thù nào mang tính Việt Nam. Hỏi một người Việt Nam bình thường chỉ ra một nét văn hoá định hình Việt Nam, chắc chắn người đó sẽ lúng túng. Điều này dễ hiểu vì chúng ta khởi đầu từ một nền văn minh nông nghiệp (lúa nước) nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi văn hoá Tàu cả ngàn năm. Hệ quả của sự ảnh hưởng đó để lại cho VN những đặc điểm mà chúng ta đều có thể nhận ra như tính vọng ngoại, chuộng bạo lực, tính vị kỉ, tính khoa trương bề ngoài và thiếu thực chất bên trong, v.v. Một nhà văn hoá xuất sắc là Đào Duy Anh từng nhận xét về người Việt Nam (trong “Việt Nam văn hoá sử cương”) như sau:

“Về trí tuệ thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi thường; sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, thích văn chương phù hoa hơn là thực học; Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm; Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp; Cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục; Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng; Hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa thích hư danh; Thích chơi bời cờ bạc; Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài; Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo”.

Nói tóm lại những đặc tính về người Việt trên đây chẳng làm cho chúng ta tự hào. Những nét văn hoá đó càng lộ ra khi người Việt bắt đầu hội nhập quốc tế hay định cư ở nước ngoài. Chúng ta đã từng đọc và nghe những câu chuyện người Việt ăn cắp trong các siêu thị ở Nhật, Singapore, Úc, v.v. Chúng ta cũng từng nghe biết người Việt hám ăn và phung phí ra sao. Nhiều người biện minh rằng đó chỉ là số ít và chỉ tập trung vào một nhóm người ít học. Nhưng biện minh đó không thuyết phục, khi chúng ta biết rằng những người Việt ăn cắp ở nước ngoài là những người có học, là quan chức đang làm việc trong cơ quan công quyền, thậm chí đang hành nghề giảng dạy về đạo đức sống! Chúng ta cũng biết rằng sự hám ăn của người Việt nổi tiếng đến nỗi nhà hàng Thái Lan và Nhật phải để những tấm biển viết bằng tiếng Việt cảnh cáo. Phải nhìn nhận những thực tế đó, chứ không nên trốn tránh.

Ngay cả người Việt định cư ở nước ngoài cả vài chục năm vẫn giữ những bản sắc chẳng có gì đáng tự hào. Ở Úc, người Việt là một sắc dân có nhiều thanh thiếu niên ngồi tù. Cộng đồng người Việt ở Mĩ được xem là khá thành công, nhưng thực tế vẫn cho thấy đó là một cộng đồng nghèo và họ thường sống co cụm với nhau và thiếu khả năng hội nhập như cộng đồng người Nhật, Phi Luật Tân hay Hàn Quốc. Vì sống co cụm với nhau nên chúng ta dễ thấy bản sắc văn hoá của người Việt được duy trì như thế nào. Hãy đến những khu thương mại của người Việt ở Sydney, chúng ta dễ dàng thấy đó là những khu tấp nập buôn bán, nhưng nhìn kĩ thì sẽ thấy sự dơ bẩn, ồn ào, mất trật tự, và chen chúc chật hẹp. Nhìn kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy hàng quán người Việt chỉ là ăn uống chứ không có những sinh hoạt mang tính văn hoá nào cả.

Về chính trị, VN cũng chẳng có gì đáng tự hào. Nền tảng chính trị VN trước đây (ở miền Bắc) và sau này (cả nước) lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô. VN vẫn theo một chủ nghĩa lỗi thời và đã hết sức sống, một chủ nghĩa mà nơi khai sinh ra nó đã khai tử nó hơn 20 năm trước đây. Người Việt chẳng phát kiến được một chủ thuyết chính trị nào, mà chỉ rập khuôn theo chủ nghĩa Mao – Stalin. Không thể nào tự hào khi mà chính quyền ra rả mỗi ngày bảo người dân phải làm gì và giảng giải rằng yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội!

Người Úc tự hào vì họ có nền chính trị dân chủ, mà trong đó người dân có tự do thực hiện hoài bảo của mình, và chính phủ không lên lớp dạy bảo người dân phải làm gì hay làm ra sao. Người Mĩ tự hào vì họ có một nền dân chủ ổn định và hào hiệp giúp đỡ nhiều nước khác trên thế giới. Người Việt chúng ta khó mà tự hào như người Úc hay người Mĩ về tiêu chí chính trị.

Nhiều người Việt Nam rất tự hào rằng VN đã đánh thắng các đế quốc sừng sỏ nhất như Tàu, Pháp, và Mĩ. Chiến tranh là giải pháp của người thích cơ bắp chứ đâu phải là biện pháp của người thông minh. Vả lại, chiến tranh nhân danh chủ nghĩa và đánh thuê hay đánh dùm cho kẻ khác thì càng chẳng có gì để tự hào. Nhưng để thắng Pháp, thắng Mĩ, thì hàng triệu người Việt phải hi sinh, và đất nước nghèo mạt cho đến ngày hôm nay. Đằng sau những cái vinh quang chiến thắng là biết bao sai lầm và tội các đã bị che dấu. Người Thái Lan tự hào vì họ tránh được chiến tranh và giữ được hoà bình. Người Nhật chấp nhận đầu hàng trong cuộc chiến quân sự nhưng lại thắng trên trận chiến kinh tế, và họ tự hào điều đó. Tôi nghĩ nếu VN tránh được chiến tranh mới là điều đáng tự hào, chứ chiến tranh –- bất kể thắng hay thua –- thì chẳng có gì đáng tự hào. Làm người hùng vài phút để sau này mang tật suốt đời và rách nát thì rất khó xem đó là niềm tự hào.

Thất bại về kinh tế

Cho đến nay, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm, VN vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. VN không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành công; tất cả những “VINA” hoặc là đã thất bại thê thảm, hoặc đang trong tình trạng thoi thóp. Nói đến Hàn Quốc người ta nghĩ đến Samsung, Kia, Hyundai; nói đến Nhật người ta nghĩ đến Toyota, Honda, Mazda, Sony, Panasonic, và vô số các thương hiệu khác; còn nói đến VN chúng ta không có bất cứ một thương hiệu nào trên thế giới. Đến một cây kim, vít ốc, VN vẫn chưa sản xuất đạt chất lượng.

Trước 1975 ở miền Bắc cuộc Cải cách ruộng đất đã để lại nhiều “di sản” tiêu cực cho nền kinh tế nông nghiệp. Trước 1975, có thể nói kinh tế miền Bắc không đáng kể, trong khi kinh tế miền Nam phát triển khá, tuy chưa bằng Hàn Quốc nhưng cũng tương đương hay xấp xỉ các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng sau 1975, với chính sách cải tạo công thương và hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng suy sụp kinh tế, sản lượng nông nghiệp suy giảm thê thảm, và đời sống người dân vô cùng khốn khó một thời gian dài. Gần đây, một loạt tạp đoàn kinh tế bị sụp đỗ đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế nước nhà. Ngay cả hiện nay, mỗi năm có gần 50 ngàn doanh nghiệp đóng cửa. Có thể nói không ngoa rằng trong suốt 70 năm qua, kinh tế VN đi từ thất bại này đến thất bại khác.

Bất cứ so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng cần phải nhắc lại yếu tố thời gian rằng nước Nhật chỉ cần 20 năm là đạt được trình độ phát triển của các nước Âu Mĩ, Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để vươn mình thành một quốc gia tiên tiến, và gần nhất là Singapore cũng chỉ mất khoảng thời gian đó đến đưa thu nhập bình quân đầu người lên con số 55182 USD. Còn ở VN, thu nhập đầu người đến nay vẫn chưa đạt con số 2000 USD.

VN cơ bản vẫn là một nước nghèo. Theo World Bank, tỉ lệ nghèo ở VN tuy có cản tiến, nhưng vẫn ở mức ~21%. Ấy thế mà chính quyền VN thì tuyên bố rằng tỉ lệ nghèo chỉ 7%! Cái nghèo ở VN phải nói thật là thê thảm. Báo chí hôm qua mới đưa tin một em bé học sinh vì quá đói nên đã chết trên đường từ trường về nhà. Trước đó, một bà mẹ và 3 con đã vào rừng treo cổ tự tử vì nghèo đói. Ở miền Tây Nam bộ, một bà mẹ tự tử chết để người đi phúng điếu và lấy tiền đó nuôi con ăn học. Chưa bao giờ trong lịch sử VN có những trường hợp thương tâm như thế. Trong khi đó, có những đại gia bỏ ra hàng tỉ đồng để xây nhà cho chó mèo ở, có những người “đày tớ của nhân dân” sẵn tay vung tiền xây lâu đài, biệt thự cá nhân. Người Việt nào có thể nào tự hào khi đất nước có quá nhiều người nghèo như thế?

Giáo dục và khoa học làng nhàng

Những con số thống kê cho thấy người Việt Nam thiếu tính sáng tạo. Số bằng sáng chế đăng kí mỗi năm chỉ đếm đầu ngón tay và cũng chủ yếu do các công ti nước ngoài làm. Có năm VN chẳng có bằng sáng chế nào được đăng kí với nước ngoài. Số bài báo khoa học của VN trên các tập san ISI hiện nay chỉ khoảng 2000, chưa bằng số bài báo của một đại học lớn ở Singapore, Mã Lai, Thái Lan. Phần lớn (~80%) những bài báo khoa học của VN là do các nhà khoa học nước ngoài chủ trì hay giúp đỡ.

Người VN thường hay tự hào rằng VN có những người thợ khéo tay. Nhưng trong thực tế thì không phải vậy. Sự tinh xảo của người Việt chúng ta rất kém. Một người Pháp tên là Henri Oger(3) từng nhận xét về người Việt vào đầu thế kỉ 20 như sau:

“Thợ thủ công An Nam cũng bị nhận xét là kĩ thuật sơ sài, không được giảng dạy đầy đủ về nghề nghiệp, thiếu sáng tạo, không có những phẩm chất đã khiến cho người thợ ở châu Âu trở thành nghệ sĩ.”

Làm ẩu. Kĩ thuật sơ sài. Thiếu huấn luyện. Thiếu sáng tạo. Tất cả những nhận xét đó đều đúng. Không khó khăn gì để có thể đi tìm những bằng chứng thực tế làm cơ sở cho những nhận xét đó. Gần đây khi công ti thời trang Hermes muốn làm một cái cổng cho cửa hàng ở Hà Nội mà hết 5 đợt thợ VN làm đều không đạt, và cuối cùng họ phải nhờ đến một nhóm thợ từ Pháp sang để làm. Tôi đi qua cây cầu Nhơn Hội nhìn từ xa rất hoành tráng ở Qui Nhơn, nhưng đi trên cầu mới thấy họ làm rất ẩu, thô, và có khi nguy hiểm. Ngay cả cây cầu Rạch Miễu mới rầm rộ khánh thành cũng có nhiều vấn đề kĩ thuật, và cũng rất thô. Nhìn gần những tấm hình kí giả chụp trên cầu Rạch Miễu mới thấy cách làm của ta rất … hỡi ôi. Hình như người mình không có thói quen xem xét đến chi tiết, mà chỉ làm chung chung hay làm cho có mà thôi. Nhiều công trình của Việt Nam chỉ làm hình như nhằm mục tiêu khoe là “ta làm được”, rồi dừng ở đó, chứ không đi xa hơn. Thật ra, ngay cả “ta làm được” cũng không hẳn là làm được. Điều này rất tương phản với người Tây phương, những người mà khi làm cái gì họ cũng tính toán cẩn thận, xem xét từng chi tiết nhỏ, đánh giá lợi và hại một cách khách quan, v.v., cho nên khi công trình hoàn tất nó thường có chất lượng cao và lâu bền.

Việt Nam ta nổi tiếng làm gia công quần áo cho các công ti Tây phương. Quần áo họ gia công đẹp, và khi ra ngoài này, thường bán với giá rất cao. Nhưng còn hàng trong nước cũng do những công ti gia công đó làm với nhãn hiệu “chất lượng cao” thì sao? Nói ngắn gọn là chất lượng thấp thì đúng hơn. Họ cũng bắt chước may những cái cáo sơ mi hiệu Polo, Nautica, v.v., nhưng nhìn kĩ thì họ bắt chước rất kém. Chỉ nhìn qua đường chỉ là thấy họ làm ẩu. Nhìn qua cách họ làm logo cũng dễ dàng thấy đây là đồ dỏm, bắt chước. Người Tàu cũng làm hàng nhái, nhưng họ nhái giỏi hơn người Việt. Hàng nhái của Tàu lợi hại đến nổi chúng ta khó nhận ra thật và giả. Còn hàng nhái của Việt Nam thì còn quá kém. Làm hàng nhái mà còn làm không xong thì chúng ta khó mà nói đến chuyện lớn được.

Do đó, có thể nói rằng người Việt thiếu tính sáng tạo, không tinh xảo và không khéo tay. Chẳng có gì đáng tự hào về giáo dục và khoa học. Có người lấy những tấm huy chương Olympic ra để tự hào rằng người Việt cũng thông minh chẳng kém ai, nhưng họ quên rằng đó chỉ là những con “gà chọi” chứ không hề đại diện cho đám đông dân số VN. Lại có người thấy người Việt thành công ở nước ngoài và nhận bừa đó là minh chứng cho sự thông minh của người Việt, nhưng họ quên rằng những người đó do nước ngoài đào tạo, chứ chẳng dính dáng gì đến VN. Kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ” như thế và kiểu lấy những tấm huy chương đó để tự hào là một sự ấu trĩ.

Xã hội bất an

Sẽ không quá đáng nếu nói rằng VN ngày nay là một xã hội bất an. Ở trên, tôi có nói người Việt chuộng bạo lực, và sự “ưa chuộng” đó thể hiện rất rõ trong thời bình. Tôi không rõ thống kê về tội phạm ở VN so với các nước khác ra sao (vì VN không công bố tỉ lệ này), nhưng vài số liệu gần đây cho thấy tình hình tội phạm càng ngày càng gia tăng. Trong thời gian 1992-1994, mỗi năm trung bình có 26344 vụ án hình sự được đưa ra xét xử ở toà; đến năm 2006-2008 thì con số này là 65761 vụ (4), một tỉ lệ tăng gần 2.5 lần!

Đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm giết người. Mỗi năm số vụ tội phạm giết người là hơn 1000 vụ và đang có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở VN: chỉ một cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết! Vẫn theo thống kê, trong các vụ án giết người, giết người do nguyên nhân xã hội chiếm 90%, phần còn lại là chiếm đoạt tài sản (10%).

Một trong những tội phạm đang kinh tởm nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em, và VN đứng khá cao trong loại tội phạm này. Số liệu thống kê từ năm 1998 đến 2006 cho thấy lực lượng chức năng đã phát hiện khoảng 5000 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán!

Chưa hết, tội phạm cưỡng hiếp phụ nữ ở Việt Nam cũng có hạng trên thế giới. Theo một thống kê gần đây, VN ở hạng thứ 9 về tỉ lệ tội phạm và nạn nhân bị cưỡng hiếp thấp (5). Singapore đứng đầu bảng về an toàn cho phụ nữ. Việt Nam là nước tìm kiếm “sex” trên Google nhiều nhất thế giới (6). Thử hỏi, chúng ta có thể tự hào với thứ hạng như thế?

Đó là chưa kể một loại buôn bán phụ nữ khác được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái VN được cho đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại ngắm nghía và trả giá! Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang bị suy đồi về đạo đức xã hội.

Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao thông ở VN đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn ở du khách. Năm 2013 cả nước xảy ra 31266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9805 người và bị thương 32266 người (7). Con số này tăng hàng năm. Số tử vong vì tai nạn giao thông thậm chí còn cao hơn số tử vong trong thời chiến!

Phong cảnh thiên nhiên và môi trường xuống cấp trầm trọng

Một trong những yếu tố làm cho người Nhật tự hào và người Úc cảm thấy may mắn là đất nước của họ có môi trường sạch sẽ và cảnh quang thiên nhiên xinh đẹp. Còn Việt Nam, khách quan mà nói không có những cảnh quang thiên nhiên hùng vĩ như Mĩ hay Úc, không có một môi trường xanh tươi và vệ sinh như Nhật. Ngoài ra, điều kiện khí hậu nhiệt đới rất khắc nghiệt, làm cho con người dễ bị mệt và đển buổi trưa thì uể oải, và ảnh hưởng đến năng suất làm việc.

Việt Nam là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Với sức ép của sự tăng trưởng dân số, môi sinh đang bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu chỉ tính những con sông dài hơn 10 km, VN có gần 2400 con sống, và đó là một tài sản quốc gia, một nguồn tài nguyên rất lớn. Nhưng hiện nay, phần lớn những con sông đó đang chết. Hầu hết những con sông chảy qua thành thị đều bị ô nhiễm nặng nề. Còn những con sông nhỏ ở vùng quê đang trở thành những thùng rác khổng lồ. Tất cả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sinh hoạt của người dân. Tình trạng ô nhiễm này đã tồn tại hơn 20 năm, thậm chí lâu hơn nữa, nhưng cho đến nay chính quyền vẫn chưa thấy có biện pháp gì để giải quyết.

Còn ở thành phố lớn (như Sài Gòn và Hà Nội) thì cũng chẳng có gì đáng tự hào. Môi trường sống và sinh hoạt ở thành phố có thể nói là rất xấu. Vi khuẩn, vi trùng, mầm móng bệnh tật gần như ở mọi ngóc ngách. Chỉ cần một trận mưa là thành phố bị ngập nước kinh hoàng. Kiến trúc nhà cửa thì lố nhố, trồi ra, thụt ào, chẳng ra cái thể thống gì. Những con hẻm ngóc ngách và ngoằn ngoèo, nhỏ xíu và dơ bẩn thấy phát ghê. Những con hẻm ở phố cổ Hà Nội phải nói là một nỗi ám ảnh kinh hoàng, giống như địa ngục trần gian. Hẻm ở Sài Gòn thì khá hơn Hà Nội một chút, nhờ thông thoáng hơn, nhưng vẫn thể hiện cái nét hỗn độn, vô trật tự của cái gọi là “thành phố”. Đường xá thì xe gắn máy và xe bốn bánh chạy loạn xa như chẳng có luật lệ gì, cực kì nguy hiểm cho người đi bộ. Còn đường dành cho người đi bộ thì bị chiếm dụng hết. Chẳng có thành phố nào, mới hay cũ, ở VN có thể nói là đáng tự hào cả.

Việt Nam cũng không có những đền đài lịch sử hoành tráng hay tinh tế như China, Ấn Độ, Nhật Bản, Kampuchea. Nhiều đền đài, chùa chiềng, bia miếu ở ngoài Bắc đã bị tiêu huỷ trong thời “Cải cách ruộng đất”, và sau này là chiến tranh. Ngay cả những đền đài còn “sống sót” cũng không được trùng tu và bảo trì nên càng ngày càng xuống cấp thê thảm. Người Kampuchea qua bao năm chiến tranh vẫn còn đền Angkor Thom, Angkor Wat để lấy đó làm niềm tự hào. Nhưng Việt Nam nói chung không có những công trình kiến trúc tinh tế và càng không có công trình hoành tráng để người dân có thể lấy đó làm tự hào.

Bủn xỉn với cộng đồng thế quốc tế

Một nhóm nghiên cứu ở Âu châu gần đây công bố bảng xếp hạng gọi là “Good Country Index” (GCI) đã cho thấy VN đội sổ trong số các nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số 124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức áp chót! VN không tham gia kí vào các công ước của Liên Hiệp Quốc; tuy nhiên kiểm soát được sự tăng trưởng của dân số. Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen (8). Làm sao người Việt Nam có thể tự hào khi đứng chung với những nước đó?

Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, Chính phủ VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo (9). So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “bủn xỉn” đó?

Nói tóm lại, đánh giá trên 6 tiêu chí (truyền thống và văn hoá, kinh tế, khoa học-giáo dục, xã hội, phong cảnh thiên nhiên, và sống tử tế với cộng đồng thế giới), VN đều không có gì để lấy làm tự hào. Truyền thống không có gì nổi bậc, văn hoá không có nét gì nổi trội và đáng chú ý, kinh tế thất bại và người dân sống trong nghèo nàn và lạc hậu, không có thành tích gì đáng kể trong khoa học và công nghệ, xã hội bất an, môi trường bị xuống cấp trầm trọng, và cư xử không đẹp với cộng đồng quốc tế.

Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói “Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày”. Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu.

Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54% (10), nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?) (11). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD. Có người biện minh rằng nợ như thế vẫn kém Mĩ, nước được xem là mắc nợ nhiều. Nhưng xin thưa rằng người giàu sản xuất ra máy bay (như Mĩ) mắc nợ rất khác với người nghèo không làm nổi cây kim và con ốc (như VN) mắc nợ.

Đã ăn xin và đi vay mà lại còn tham nhũng và hối lộ. Tham nhũng đã đến mức độ mà những người đứng đầu đảng và Nhà nước xem là “quốc nạn”, là đe doạ đến sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng hiện diện ở mọi cấp trong chính quyền. Hầu như đụng đến các cơ quan công quyền, không hối lộ là không làm được việc. Ngay cả quan chức cao cấp (bộ trưởng, thứ trưởng) khi cần làm việc nhà vẫn phải hối lộ. Bổ nhiệm vào các vị trí trong trường học, bệnh viện, cơ quan Nhà nước, v.v. tất cả đều phải hối lộ, phải “chạy”. Nói trắng ra là mua chức quyền. Hối lộ trở thành một văn hoá sống và làm việc ở VN. Tham nhũng đã trở thành một nguồn sống của quan chức và những kẻ có quyền. Không ngạc nhiên khi VN bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng tham nhũng hàng 116 trên 177 nước trên thế giới (12).

Còn trong quan hệ quốc tế thì nhiều quan chức nước ngoài nhận xét rằng các quan chức VN nói một đường làm một nẻo và có tính lươn lẹo. Điển hình gần đây nhất là vụ đặc phái viên Liên hiệp quốc về tôn giáo đã nói thẳng VN thiếu thành thật.

Do đó, không ngạc nhiên khi người VN cầm hộ chiếu VN ra nước ngoài không được chào đón thân thiện như người Nhật, Singapore, Hàn, Thái, Mã Lai, v.v. Một bản tin mới đây cho biết VN đứng hạng 81 về hộ chiếu được chấp nhận trên thế giới, tức miễn visa (13), và thứ hạng này còn thấp hơn cả Lào (80) và Campuchea (79). Tất cả những yếu tố đó cho thấy VN đang ở thế bất lợi trên trường quốc tế và không được cộng đồng quốc tế kính trọng.

Nhìn chung, Việt Nam như là một ông già nông dân nghèo khó nhưng thích trang hoàng bề ngoài, đầy sỉ diện nên thích làm anh hùng rơm, thiếu tính sáng tạo và tinh xảo nhưng lại hay khoa trương, và cư xử bủn xỉn hay quen nói láo với hàng xóm. Nếu phải tự hào là người Việt thì có lẽ đó là chuyện của tương lai.

GS Nguyễn Văn Tuấn

Nhộn nhịp chợ chạy chức quyền

Nhộn nhịp chợ chạy chức quyền

Nguoi-viet.com

Lê Diễn Đức

Trong Hội Nghị Cán Bộ toàn quốc về công tác tổ chức xây dựng đảng diễn ra tại Hà Nội vào sáng 29 tháng 1 năm 2015, ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) than “sốt cả ruột” vì nạn chạy chức, chạy quyền.

“Tôi cứ nghe bao nhiêu tỷ để vào chức nọ chức kia mà sốt cả ruột! Nếu có chúng ta phải tìm có ở đâu chứ để râm ran thế này mà không có thì oan…,” ông Trọng nói.

Quả thật, hoặc sống xa hoa ở trên cao, quan liêu quá mức, hoặc vừa mù vừa điếc, hoặc giả vờ, nên ông tổng bí thư mới “tâm tư” ngớ ngẩn như thế!

Nạn chạy chức, chạy quyền, theo tờ Thanh Niên Online ngày 29 tháng 1 năm 2015, được xếp thứ hai sau tệ nạn tham nhũng và là một trong những “vấn đề gây bức xúc dư luận nhất hiện nay.”

Nạn chạy chức, chạy quyền thực sự không phải mới xuất hiện gần đầy mà đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội Việt Nam, tăng dần lên tỉ lệ thuận với tệ nạn tham nhũng và tỉ lệ nghịch với sự xuống cấp đạo đức xã hội.

Cho rằng “không có lửa sao có khói,” tờ Người Lao Động trong ngày 30 tháng 1, 2015 viết rằng, “Từ lâu công luận đã lên tiếng về các đường dây tiêu cực, như chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy danh hiệu, chạy dự án, chạy kinh phí…”

Chạy chức, chạy quyền cũng trở thành đề tài nóng trong các kỳ họp của Quốc Hội. Tại phiên họp thứ 21 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội (khóa 13), Chủ Tịch Hội Đồng Dân Tộc Ksor Phước cũng nhìn nhận phản ánh dư luận về vấn đề chạy chức, chạy quyền, chạy việc, chạy ghế. Các kết luận thanh tra đều cho rằng có hiện tượng “chạy” song không phổ biến, nhưng đáng lo ngại và cần loại trừ.

Trong ngày 15 tháng 7 năm 2012 tờ Dân Luật ghi lại ý kiến của bạn đọc về tình trạng “chạy” này trước phát biểu của Bộ Trưởng Nội Vụ Nguyễn Thái Bình rằng ông có nghe nói “chạy việc” tốn nhiều tiền của.

Bạn Quỳnh Anh viết:

“Tôi nghĩ bộ trưởng nói la, ‘Tôi có nghe chạy việc tốn nhiều tiền…’ thì chắc là một lời nói không thật, vì chuyện đó ai mà chẳng rõ như ban ngày. Vấn đề là bộ trưởng nhìn nhận và giải quyết như thế nào thôi.”

Bạn Nguyễn Hiệp:

“Bộ trưởng Nội Vụ chả lẽ không biết chuyện chạy tiền để có việc sao? Nếu phải thi công chức thì 50% là phải chạy tiền, còn 40% là ‘con ông cháu cha’ nên không phải chạy, chỉ khoảng 10% là thi bằng khả năng.”

Vào ngày 10 tháng 11 năm 2003, bộ trưởng Công An lúc bấy giờ, ông Lê Hồng Anh, trả phỏng vấn tờ Việt Báo, Trung Tâm Báo Chí và Hợp Tác Truyền Thông Quốc Tế của Bộ Thông Tin và Truyền Thông, đã khẳng định, “Chắc chắn là có chuyện chạy chức chạy quyền.”

“Đúng là hiện nay có một thế lực ngầm, đường dây ngầm để chạy dự án, chạy chức, chạy tội. Đường dây này tồn tại lâu rồi, có điều là làm chưa ra được thôi nhưng có khi nó nằm ngay trong bộ máy nhà nước. Theo tôi nó vẫn tồn tại. Có những dự án này, dự án kia ngoài kế hoạch mà nó vẫn chạy được, tất nhiên không phải tất cả các dự án ngoài kế hoạch và ngoài qui hoạch đều thế, nhưng rõ ràng là có. Có những dự án chả có yêu cầu nhưng vẫn thấy chạy được,” ông Lê Hồng Anh nói. [2]

Có lẽ cũng đã đủ các dữ kiện để nói với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng rằng, chạy chức chạy quyền là hoàn toàn có thực, như đinh đóng cột! Dối trá là bản chất các vị, những người đã tạo nên và làm băng hoại kỷ cương, chuẩn mực của xã hội Việt Nam.

Hiện tượng chạy chức chạy quyền là hành vi tham nhũng của những người có chức có quyền. Cả guồng máy vận hành của ĐCSVN là hang ổ của tham nhũng, chức vụ càng cao càng có cơ hội đục khoét của công nhiều hơn. Người ta ra giá chức vụ như một món hàng. Cuộc mua bán được thực hiện kín đáo, tinh vi trong bóng tối, tại nhà riêng, qua các trung gian thân cận hay vợ, con trong gia đình, nên rất khó có bằng chứng.

Trần Văn Thuyết với biệt danh “Thuyết Buôn Vua” trong vụ án Năm Cam là bằng chứng của việc mua bán các chức vụ cao nhất không còn là những giao dịch bình thường mà trở thành tội phạm, ân oán của xã hội đen.

Nguyễn Thế Thảo, hiện là chủ tịch Hà Nội, trong một lần gặp gỡ với bạn bè cùng học ở Ba Lan đã tiết lộ ông ta phải mua cái ghế “chủ tịch” mất gần 40 tỷ. Một người khác (xin được giấu tên), bạn học cũ của tôi, vụ trưởng của Quốc Hội, cho hay, trong nội các của Nguyễn Tấn Dũng, giá cao nhất (50 tỷ) thuộc về bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải, cơ quan đảm trách nhiều dự án đầu tư công lớn nhất.

Dịch vụ mua quan bán chức tuân thủ đúng nguyên tắc cạnh tranh của thị trường: Nếu không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền.

Ông Phạm Quang Nghị, bí thư Thành Ủy Hà Nội, từng phát biểu, “500 ngàn đô la không hạ gục được sự liêm khiết của người lãnh đạo đó thì một triệu đô la. Nếu một triệu đôla không đủ mạnh để hạ gục thì nhiều đô la hơn nữa… Bức thành trì liêm khiết của con người cũng có lúc bền vững hơn dãy Trường Sơn nhưng nhiều khi chỉ yếu như tờ giấy bị thấm nước.” [3]

Mua quan bán chức được xem như một khoản đầu tư lấy lãi nhanh nhất. Vì thế đã có rất nhiều sai phạm xảy ra nhưng ít có ai chịu trách nhiệm, xin từ chức. Xả lũ đập thủy điện vô lối gây ra cái chết cho hàng chục người hay tiêm nhầm vác xin làm nhiều trẻ em tử vong, là những ví dụ gần. Cái ghế đã mua rồi, còn phải thu hồi vốn và kiếm lãi đã!

Vì lẽ không thể bỗng dưng bốc một anh nhà quê vô học đặt vào chức vụ cao, tiêu chuẩn học vị trở thành chất xúc tác cho các thương vụ. Hoặc khi đã có một chức vụ kha khá, ước mơ một vị trí cao hơn để có nhiều quyền lực hơn, cơ chế đòi hỏi phải có trình độ học vấn.

“Thế là một cuộc chạy đua để có bằng cấp bằng mọi giá. Bằng cấp càng cao, thì khả năng càng được cất nhắc ở vị trí cao. Không chỉ bằng cấp trong nước mà còn bằng cấp quốc tế rởm với giá 17 ngàn đôla và học trong 6 tháng.” [3]

Ông Phạm Minh Hạc, giáo sư của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, trong bài “Cán bộ xài bằng giả để kiếm cái ghế” nói (bee.net.vn):

“Tôi còn nhớ năm 2001, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo phát động phong trào thanh tra bằng giả, đưa nó thành chủ trương của ngành. Đến năm 2005, sau 4 năm, đã phát hiện được 10 ngàn bằng giả. Số bằng giả này chủ yếu tập trung ở công chức nhà nước trong đó có cả cán bộ cấp cơ quan trung ương.”

Tại cuộc họp của Hội Đồng Quốc Gia về giáo dục và phát triển nhân lực, ông Phạm Vũ Luận, bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đã nói, “Người học giả, bằng giả, học thật nhưng chất lượng giả chỉ có thể chui vào hệ thống công chức nhà nước, không vào được doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài.”

Tờ Đất Việt ngày 21 tháng 1 năm 2015 viết:

“Vì bằng giả mà dẫn đến lương tâm giả, nhân cách giả. Và rốt cục sản phẩm của những kẻ ấy làm ra là đường sá cầu cống vừa khánh thành đã hỏng, cầu vừa đi đã sập, đường trên cao chưa làm xong đã mấy lần gây họa chết người.

“Tại Hội Nghị Tổng Kết Công Tác Tư Pháp của Bộ Tư Pháp, bộ này cho biết trong 10 tháng của năm 2014, đã có đến 9,017 văn bản pháp luật vi hiến, trái pháp luật, chiếm 22% tổng số các văn bản đã ban hành.”

“Một con số thật đáng hãi hùng, cứ 10 văn bản pháp luật ban ra thì có đến hơn 2 văn bản vi hiến hoặc trái với các điều khoản đã được quy định trong luật pháp. Thử hỏi có nền tư pháp nào hoạt động với sai sót nhiều đến thế chăng?” [4]

Một lực lượng động đảo những kẻ cơ hội, giả trá và bất tín trong bộ máy quản lý xã hội của ĐCSVN là hệ quả tất yếu của hệ thống chính trị độc quyền không do dân lựa chọn qua bầu cử tự do.

Độc quyền kéo theo đặc quyền, đặc lợi và lạm quyền như là một đặc tính tự nhiên. Những người lãnh đạo nhà nước từ trung ương tới địa phương thao túng và dung dưỡng các tệ nạn, biến tài sản công cộng thành nguồn thu bất chính.

Dân chúng ai ai cũng biết nhưng chỉ bất lực kêu ca và cam phận “sống chung với lũ.” Đó là bi kịch của Việt Nam!

Chú thích:

[1]: http://danluat.thuvienphapluat.vn/chay-viec-chay-chuc-chay-quyen-73026.aspx
[2]: Trong bài “Chắc chắn là có chuyện chạy chức chạy quyền” – Tuổi Trẻ.
[3]: Trong bài “Chạy” chức để… đóng góp nhiều hơn? – Vietnamnet.vn.
[4]:
http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/bang-gia-9000-van-ban-sai-10-lan-vo-ong-nuoc-3227745/

H.O. và sự hãnh diện của thế hệ hậu duệ

H.O. và sự hãnh diện của thế hệ hậu duệ

Nguoi-viet.com

Thái Đinh & Thiện Giao

10 tháng 8, 1990 là “ngày đổi đời” của chàng thanh niên Lê Nguyên Phương.

Lê Nguyên Phương sinh năm 1962, đặt chân xuống nước Mỹ theo diện H.O. ngày 10 tháng 8, 1990, ở tuổi 28. Với $5 trong túi, ý nghĩ trong đầu ngày ấy vẫn còn nguyên vẹn sau hơn 20 năm: “Ði, và sẽ trở về, để thay đổi đất nước.”

Ngày 15 tháng 3, 1991, một chuyến bay khác, mang theo cậu bé Trần Ngọc Quỳnh 17 tuổi sang Mỹ, cũng theo diện H.O.

Quỳnh bắt đầu “ngày đổi đời” trong một tâm trạng không như Lê Nguyên Phương. Những ngày đầu, thiếu niên Trần Ngọc Quỳnh “sợ xuống Bolsa, sợ đi chợ bằng foodstamp, và sợ bị gọi là ‘con H.O.’”

Lê Nguyên Phương và Trần Ngọc Quỳnh mang hoàn cảnh tương tự hàng trăm ngàn thanh, thiếu niên H.O. khác, đại diện cho lớp tuổi trẻ con em tầng lớp tinh hoa một thời của Việt Nam. Ở độ tuổi vừa bước vào đời, mọi cơ hội khai mở trí tuệ của họ bị đóng kín. Họ là “con Ngụy.” Cha, mẹ họ ở tù Cộng Sản. Và họ phải “gánh” trên vai những khó khăn mà thế hệ đồng trang lứa không phải gánh chịu.

Chương trình H.O. ra đời năm 1989, theo lời một trong những người tham gia vận động chính giới Hoa Kỳ, “là kỷ niệm vui và niềm an ủi lớn nhất, được nhìn thấy anh em cựu tù nhân và con cái đến được bến bờ tự do, làm lại cuộc đời bị đổ vỡ sau chiến tranh, tìm lại được đời sống xứng đáng trong tự do và nhân phẩm sau khi họ chấp nhận rời bỏ quê hương thân yêu mà họ từng hy sinh chiến đấu để gìn giữ từng tấc đất.”
Chương Trình H.O.

Chương Trình H.O. là cuộc vận động dài hơi, và là “giai đoạn chót của quá trình vận động đòi tự do cho tù nhân chính trị Việt Nam.” Theo lời bà Khúc Minh Thơ, người sáng lập Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam.



Bà Khúc Minh Thơ, một trong những người đầu tiên vận động cho chương trình H.O.: “Tôi thấy vui khi thấy những người cựu tù tìm lại được đời sống xứng đáng trong tự do và nhân phẩm.” (Hình: Hà Giang)

Bà Khúc Minh Thơ kể lại những ngày đầu vận động: “Ngay từ lúc hội bắt đầu hoạt động, chúng tôi nhận được đáp ứng tích cực của cộng đồng, qua ‘Bữa Cơm Ðồng Tâm’ tổ chức tại Washington D.C. Cũng trong thời điểm này, qua sự liên hệ và hỗ trợ của Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị, Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị được thành lập gồm bốn khu hội đầu tiên là Houston, Nam California, Bắc California và Dallas. Ông Huỳnh Công Ánh là người lãnh đạo tổ chức này.”

Từ đó, Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị và Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị sát cánh với nhau trong các sinh hoạt và vận động tranh đấu cho tù nhân chính trị ở Việt Nam.

Ðến tháng 10, 2008, các nhân vật, gồm bà Khúc Minh Thơ, ông Huỳnh Công Ánh, ông Nguyễn Văn Sang và ông Thái Hóa Lộc quyết định tổ chức “Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam.” Sự kiện này nhằm ghi lại con đường đã đi qua của chương trình H.O. và khép lại hoạt động của Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị.

Nhắc đến chương trình H.O., vốn bắt đầu vào giai đoạn Tổng Thống Ronald Reagan lãnh đạo Tòa Bạch Ốc, không thể không kể đến cuộc vận động với chính giới Hoa Kỳ, trong đó có các nhân vật tối quan trọng, là Nghị Sĩ John McCain và Nghị Sĩ Edward Kennedy.

Bà Khúc Minh Thơ kể lại, cuộc vận động tại Quốc Hội cần có sự hỗ trợ của cả hai đảng, Cộng Hòa và Dân Chủ, của cả hai viện, Thượng Viện và Hạ Viện. “Tại Thượng Viện, Nghị Sĩ John McCain (Cộng Hòa) và Nghị Sĩ Edward Kennedy (Dân Chủ) tích cực hậu thuẫn. Ở Hạ Viện, có Dân Biểu Stephen Solarz (Dân Chủ) và Dân Biểu Frank Wolf (Cộng Hòa).”

“Về phía hành pháp, người giúp đỡ nhiều nhất là ông Robert Funseth, phụ tá thứ trưởng Ngoại Giao đặc trách về người tị nạn trên thế giới, đồng thời là người đại diện Tổng Thống Ronald Reagan thương thảo với chính quyền Hà Nội về tù nhân chính trị Việt Nam. Một người khác nữa là ông Shep Lowman, lúc bấy giờ là giám đốc Văn Phòng Việt-Miên-Lào, cũng tận tình giúp đỡ. Không có những trợ giúp này, thật khó mà có thỏa hiệp ngày 30 tháng 7, 1989.”

Chương trình H.O. bắt đầu từ đấy, cũng là thời điểm, theo tâm sự của bà Khúc Minh Thơ, thấy những người cựu tù tìm lại được đời sống xứng đáng trong tự do và nhân phẩm, và “con cái họ bắt đầu có cơ hội học hành để phát triển tài năng và có nghề nghiệp ổn định.”
Lê Nguyên Phương: “Tác động để chuyển hóa”

Lê Nguyên Phương là một trong những người con thuộc thế hệ ấy.

Kinh nghiệm cuộc sống những năm sau 1975 góp phần tạo nên ý thức dấn thân của một Lê Nguyên Phương sau này.



Tiến Sĩ Lê Nguyên Phương trong một lớp tập huấn về chánh niệm trong Ðiều Trị Tâm Lý. (Hình: Lê Nguyên Phương cung cấp)

Gốc Huế, xuất thân trong một đình nhà giáo, cuộc đời Lê Nguyên Phương thay đổi khi bước vào tuổi 13, ngày Sài Gòn sụp đổ. Thân phụ anh là nhà giáo, nhà báo Huy Phương, đi tù Cộng Sản hết bảy năm rưỡi. Lê Nguyên Phương ra đời rất sớm.

“Tôi đi làm từ năm 15 tuổi. Từng bán báo, đi bán thuốc tây chợ trời, làm thợ nhôm, thợ chụp hình,” Phương kể lại.

Gia đình lúc đó rất nghèo. “Tôi chỉ có một cái quần jean, loại quần phụ nữ, được người dì sửa lại. Mặc đi học sáu ngày mỗi tuần, đến Chủ Nhật mang giặt. Nếu Chủ Nhật mưa, quần không khô kịp, thì Thứ Hai… nghỉ học,” Lê Nguyên Phương kể, và cười ngất. “Nhưng tôi không mặc cảm. Ngược lại, tôi tự nhủ cần phải học giỏi, nhất là giỏi hơn con cán bộ, để tự hào là con sĩ quan chế độ cũ.”

Tới 18 tuổi, đến kỳ thi tốt nghiệp trung học, Lê Nguyên Phương bị nhà trường cấm thi, lý do: Nghỉ 64 ngày trong một năm trong khi luật của trường cho phép nghỉ tối đa 60 ngày. “Tôi biết tôi chỉ nghỉ có 24 ngày nhưng cô giáo chủ nhiệm và bà hiệu trưởng đã tự sửa lại thành 64 để tôi bị cấm thi. Ban giám hiệu và cô giáo nghi tôi ‘phản động,’ qua các phát biểu của tôi.”

Phải đợi đến năm năm sau, Lê Nguyên Phương mới lấy được bằng trung học, thông qua một kỳ thi “Bổ Túc Văn Hóa.”

Bước chân đến Hoa Kỳ, Phương vừa đi học vừa đi làm, có thời gian một ngày làm đến 3 “jobs.” Anh đi cắt cỏ, bán xe, làm assembler, đưa cơm, courier, thông dịch viên… Phương kể lại, “Ai cũng khuyên tôi qua Mỹ đã lớn tuổi, tiếng Anh làm sao bằng trẻ sinh ra ở đây, nên đi cắt cỏ, học Ðông y, hay có giỏi thì đi học sửa computer. Nhưng bao năm ở Việt Nam tôi đã không được đi học, nay qua Mỹ thì phải sống cho ước mơ của mình chứ.” Anh trở lại trường!

Năm 1999, anh tốt nghiệp Cử Nhân Tâm Lý tại đại học California State University, Fullerton; năm 2002 lấy bằng cao học Tâm Lý Giáo Dục tại California State University, Long Beach; rồi bảy năm sau lấy bằng Tiến Sĩ Giáo Dục tại đại học University of Southern California.

Ngành học và con đường đi học không phải là một tình cờ với người thanh niên này. “Hãy nhìn lại Việt Nam trong thời gian qua. Khi một quốc gia toàn trị bắt đầu mở cửa hội nhập với thế giới, đầu tiên họ sẽ chào mời giới khoa học kỹ thuật, rồi đến kinh tế. Sau cùng mới đến giới khoa học xã hội và nhân văn. Từ lúc rời Việt Nam, tôi biết sẽ không ‘về’ kịp các đợt đầu tiên nên đã chọn học ngành tâm lý giáo dục, đó cũng là ngành tôi yêu thích.” Anh chọn ngành khoa học xã hội này với tâm nguyện “tác động để chuyển hóa xã hội và đất nước.”

Từ năm 2009 đến nay, Tiến Sĩ Lê Nguyên Phương thực hiện nhiều chuyến trở về Việt Nam cùng các bạn là giáo sư và khoa trưởng từ nhiều đại học Hoa Kỳ – Cal State Long Beach, Chapman University, Loyola Marymount, Humboldt State University, the Chicago School of Professional Psychology… với mục tiêu xây dựng ngành và nghề Tâm Lý Học Ðường. Tổ chức do anh sáng lập với các bạn Hoa Kỳ, “Consortium to Advance School Psychology – International,” hiện có tám thành viên đại học Hoa Kỳ và sáu thành viên đại học Việt Nam.

Trong hội nghị và sau đó là lễ ký kết thành lập tổ chức này tại Việt Nam, đại sứ Hoa Kỳ lúc đó, ông Michael Michalak, đã đến tham dự và phát biểu: “Các anh chị đã đề ra kế hoạch, và ý tưởng tổ chức hội nghị này để đáp ứng với nhu cầu của hệ thống giáo dục [của Việt Nam] và trong đời sống của các em học sinh. Ở đây không ai bảo các anh chị phải làm, nhưng các anh chị tự thân muốn làm để cải thiện chất lượng đời sống của học sinh ở Việt Nam. Tôi ca ngợi anh chị đã sáng tạo và chủ động, vì đây là những hành động [tiêu biểu] của một xã hội hiện đại tôn trọng và quan tâm lẫn nhau, và tôi ủng hộ nỗ lực của các anh chị. Các anh chị đang làm một việc quan trọng tại đây.”

Trong 5 năm hoạt động, tổ chức của anh đã thực hiện bốn kỳ hội thảo quốc tế, năm khóa tập huấn, nhiều công trình nghiên cứu, và hiện đang xây dựng chương trình đào tạo ngành Tâm Lý Học Ðường cho bốn đại học tại Việt Nam. Vì những hoạt động này, anh nhận được giải thưởng Outstanding International School Psychology Practice của hiệp hội International School Psychology Association năm 2011. Và gần đây nhất, năm 2014, anh nhận tài trợ của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để về làm việc một tháng với Ðại Học Sư Phạm Huế trong tư cách chuyên gia Fulbright.

Tâm Lý Học Ðường là chuyên môn và là đam mê của Lê Nguyên Phương. Có thể nói, anh là người góp phần xây dựng những bước đầu của ngành này cho Việt Nam, chuyên ngành mà theo anh “rất quan trọng cho đời sống tâm lý và học tập của học sinh” vì nó chủ động, “phòng ngừa và can thiệp cho trẻ em-thanh thiếu niên trong các lãnh vực nhận thức, học tập, hành vi, cảm xúc hoặc xã hội trong môi trường học đường, gia đình và cộng đồng.” Tâm Lý Học Ðường vì vậy, theo anh, không phải chỉ dành cho trẻ khuyết tật mà là dịch vụ giúp trẻ phát triển toàn diện để trở thành công dân độc lập, bản lãnh và hữu dụng cho một xã hội dân chủ và nhân bản.

Lê Nguyên Phương không phải là tên tuổi xa lạ với cộng đồng Việt Nam tại Nam
California. Trước đây anh tham gia trong nhiều hoạt động xã hội, văn hóa, truyền thông với các cơ quan như VAALA, đài phát thanh VNCR, RFA… Hiện anh là chuyên gia Tâm Lý Học Ðường cho Học Khu Long Beach và giảng dạy trong chương trình Cao Học ngành Tâm Lý và Tham Vấn Học Ðường tại Ðại Học Chapman.

Anh kết luận cho những công việc đang thực hiện hiện nay: “Từ đầu đến cuối, tôi vẫn là người Việt Nam, mang văn hóa Việt Nam, sống và làm việc vì Việt Nam. Có người chọn công việc diệt cỏ dại, tôi đi trồng hoa. Mỗi học sinh được phát triển hài hòa toàn diện sẽ là đóa hoa trong vườn hoa Việt Nam tương lai.”
Trần Ngọc Quỳnh và ước mơ “được thấy quá khứ”

Trần Ngọc Quỳnh nhỏ hơn Lê Nguyên Phương đúng… một con Giáp. Thân phụ Quỳnh là nhà giáo nổi tiếng ở Quảng Nam, ông Trần Huỳnh Mính, nguyên hiệu trưởng Trung Học Trần Quý Cáp, Hội An.



Nha Sĩ Trần Ngọc Quỳnh tại phòng mạch của mình tại Nam California. (Hình: Trần Ngọc Quỳnh cung cấp)

Thân phụ Quỳnh đi tù Cộng Sản khi anh vừa tròn… một tuổi. Ý thức non nớt của đứa trẻ mới lớn những năm giao thời sau 1975 không để lại điều gì quá rõ nét nơi Trần Ngọc Quỳnh. Nhưng anh có thể “cảm” được những điều bất ổn, và cả những âu lo.

“Có một lần ở nhà, thấy ông nội lấy một tấm hình của bác, là anh của ba, lồng vào khung rồi để lên bàn thờ. Lúc ấy bác đang ở tù, năm đó là năm 1979. Còn nhỏ, không hiểu hết chuyện, nhưng biết là bác mất, lòng buồn lắm,” Quỳnh kể lại.

Quỳnh thăm cha trong tù lần đầu tiên khi anh mới ngoài… một tuổi. “Ông nội dắt đi.” Anh kể. Tôi nhớ “tù và thân nhân ngồi hai bên dãy bàn. Tôi còn nhỏ, chạy lăng quăng sang phía cha. Thế là ba bị quản giáo la một trận dữ lắm.”

Hội An, quê hương của Quỳnh, là một thành phố đặc biệt. Thành phố này đa số dân là công chức trước 1975. Do đó, sau 1975 nhiều người đi tù cải tạo. “Cứ đầu tháng, các cô, các dì có chồng đi tù lại tụ tập về nhà Quỳnh, để sáng hôm sau cùng mẹ đi thăm nuôi chồng. Ði mấy tiếng đồng hồ đến nơi, thăm được mấy tiếng thì về. Về là lại lo cho chuyến thăm tháng sau.”

Cuộc sống của người ở nhà cũng đã thay đổi. “Có sự kỳ thị,” Quỳnh kể. “Cứ họp tổ dân phố, họ lại mang chuyện gia đình mình ra nói. Có khi chuyện chẳng đáng gì cả. Ăn gì, mặc gì. Người khác thì không sao, nhưng mình thì bị mang ra nói.”

Rồi vào một buổi trưa, cánh cửa nhà mở toang ra, ba bước vào. Ba về! “Ba đi tù khi tôi một tuổi, ba về lúc tôi năm tuổi. Tôi phải bắt đầu “làm quen” với ba, và ngược lại.” Trong hoàn cảnh như thế, Quỳnh nói rằng anh “kính ba, nhưng gần mẹ.”

Gia đình Trần Ngọc Quỳnh là một gia đình lớn tại thành phố Hội An. Những xáo trộn thời cuộc sau 1975, cho đến quyết định đi H.O. năm 1991 tạo cho cha mẹ anh nhiều băn khoăn. “Trước 1975, gia đình có tư thế. Sau 1975, sụp đổ hoàn toàn. Ðến khi ba đi tù về, bắt đầu gượng trở lại. Ði sang Mỹ lại một lần nữa bỏ hết tất cả để bắt đầu từ đầu.” Anh kể lại tâm trạng gia đình lúc ấy.

Sang đến Mỹ lại gặp một lối “kỳ thị” mới. Quỳnh cười phì, kể lại: “Bị kỳ thị là con cái H.O. Nhớ những ngày đầu đi học, tụi trong lớp nói, ‘Thấy thằng nào khù khờ thì biết thằng đó là con H.O.’”

Quỳnh không thoải mái đến trường. Quỳnh sợ cả việc phải “xuống Bolsa,” sợ đi chợ, sợ dùng foodstamps. “Có những lúc, lòng đã định sẽ đi lính hoặc đi làm, vì đó là cách tốt nhất để lấy lại sự tự tin.”

Có lẽ đó là cách suy nghĩ của đứa trẻ mới lớn. Sự tự tin vô hình sau lưng Quỳnh chính là ba, mẹ của Quỳnh. Họ đứng phía sau, thúc đẩy việc học hành.

Quỳnh vào đại học USC, tốt nghiệp ngành Nha Khoa, đi làm và nay đã có một phòng nha riêng của mình.

Nhưng Quỳnh không thuộc hạng chỉ biết đi làm kiếm tiền. Lớn lên trong một gia đình nền nếp, anh biết dung hòa nền văn hóa rất Mỹ của mình với những suy nghĩ rất Việt Nam của thân, phụ mẫu. Và anh biết anh hãnh diện như thế nào về nguồn gốc mình.

“Trái cây có rụng thì rụng gần gốc,” Quỳnh nói. “Ông nội ngày xưa làm Hồng Thập Tự. Ðến ba mẹ làm từ thiện, nay tôi cũng học theo, làm một cách tự nhiên.” Quỳnh tham gia tổ chức từ thiện SAP-VN, giúp xem hồ sơ cho các gia đình nghèo Mexico để giúp họ được hưởng Medical. Mỗi tuần anh bỏ ra vài giờ làm miễn phí cho một số bệnh nhân nghèo.

Quỳnh kể, có lần anh làm răng cho một cựu chiến binh Mỹ từng bị bỏng nặng tại phi trường Ðà Nẵng trong chiến tranh Việt Nam. Khi xong, anh nói với người cựu chiến binh rằng anh xin phép không nhận tiền của ông. Quỳnh nói với người cựu binh, “Ông đã hy sinh thân thể trong một cuộc chiến không phải tại đất nước ông. Tôi chỉ xin làm một nghĩa cử rất nhỏ, để cám ơn ông.”

Quỳnh có một ước mơ và một niềm hãnh diện.

Ước mơ của anh là được nhìn thấy quá khứ, cái quá khứ cả trước lúc anh sinh ra, để “được biết rõ ngày xưa, trước 1975, cha ông mình đã sống ra sao, đã làm việc ra sao, và tư thế như thế nào.”

Còn niềm hãnh diện, “Ngày xưa ngại chữ H.O. Nay thì hãnh diện, rất hãnh diện là con H.O.”


Hai chữ HO không phải là viết tắt của “Humanitarian Operation,” cũng không phải là “mã số” của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Sau khi thỏa hiệp về việc di cư cựu tù nhân chính trị Việt Nam được ký ngày 30 tháng 7, 1989, tại Hà Nội, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chuẩn bị thi hành và nhận hồ sơ từ Việt Nam gửi sang với danh sách đầu tiên là H. O1. Khi ấy, những người vận động chương trình H.O. hỏi Văn Phòng Ðặc Trách người tị nạn thì được cho biết “mã số H.O.” là của Việt Nam chứ không phải của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Các bản văn chính thức của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khi nói đến chương trình này vẫn gọi là “Subprogram Vietnamese political prisoners,” hay “Former Re-Education Center Detainees.”

Khúc Minh Thơ

THẮNG TÀ THẦN NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

THẮNG TÀ THẦN NHỜ QUYỀN NĂNG CHÚA

Đnl 18,15-20; 1 Cr 7,32-35; Mc 1,21-28

Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa (x. St 2, 16-17). “Ma quỷ phạm tội ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 3,8); “nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).

Ma quỷ, hay còn gọi là satan, hay các thần dữ là những thiên thần sa ngã, tự chúng đã làm cho mình trở nên ác và nên xấu vì khước từ dứt khoát phục vụ Chúa và kế hoạch của Người. Satan hay quỷ luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa (x. St 3,5; 1 Ga 3,8; Ga 8,44), do ghen tương, nó cũng đã ra sức làm cho Chúa Giêsu đi lệch hướng khỏi sứ vụ của Người (x. Mt 4,1-11)

Trong các hậu quả của các việc làm của quỷ, nghiêm trọng nhất là sự quyến rũ dối trá dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa.

Với những lẽ đó, khi cử hành bí tích Thanh Tẩy, nghi thức đầu tiên mà ta đón nhận đó chính là nghi thức trừ tà.

Có lẽ không để ý, lời nguyện trừ tà như thế này :

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã sai Con Một Chúa đến giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi và cho sống trong tự do của con cái Chúa, chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tôi tớ Chúa đây, khi đã nghiệm thấy những quyến rũ của trần gian và mưu mô ma quỉ cám dỗ, biết nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa. Nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Con Chúa, xin Chúa cứu người này khỏi quyền lực tối tăm, và xin luôn luôn giữ gìn tôi tớ Chúa trên đường đời. Nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.

Lời nguyện ấy chính là lời nguyện trừ tà mà linh mục chủ sự nguyện xin Thiên Chúa khi bắt đầu nghi thức Thanh Tẩy.

Vì sao thế ? Vì con người sinh ra trong trần gian đã mang trong mình cái thân phận yếu đuối và tội tổ tông truyền để rồi xin ơn Chúa cứu con người ra khỏi quyền lực tối tăm.

Tiếp đến các phần trong nghi thức Thanh Tẩy, ta thấy có phần hết sức quan trọng là từ bỏ tà thần.

Linh mục chủ tế hỏi ta  Ðể sống trong tự do của con cái Thiên Chúa ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ tội lỗi không? Ðể khỏi làm nô lệ tội lỗi, ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ những quyến rũ bất chính không? Ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?

Đáp lại 3 lần hỏi đó là 3 lần thưa : Thưa từ bỏ.

Sau khi ta từ bỏ tội lỗi rồi ta bước vào phần tuyên xưng đức tin để lãnh bí tích Thanh Tẩy.

Chính Chúa Giêsu trong thân phận làm người Ngài cũng đã phải chịu ma quỷ cám dỗ 40 đêm ngày trong sa mạc. Và cũng chính Chúa Giêsu, ba lần Ngài gọi Satan là “thủ lãnh thế gian này” (Ga 12,27; 14,30,16,11), nghĩa là Ngài cũng đồng ý với Satan trong việc nhìn nhận rằng nó có ưu thế trên mọi nước ở trần gian.

Hơn một lần, thánh sử Luca thuật lại chuyện Chúa Giêsu chịu thử thách, chịu cám dỗ của ma quỷ như thế này “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi!”. Và ta nghe Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”.

Cũng chưa yên, ma quỷ lại đem Người lên nơi cao cho Người xem thấy tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông mọi quyền lực và vinh quang của các nước này, vì tất cả đều là của tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy thuộc về ông!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi!”.

Cũng chưa xong, ma quỷ lại đưa Người lên nóc đền thờ Giêrusalem và bảo Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: ‘Chúa sẽ cho Sứ Thần gìn giữ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá’”. Sau khi cám dỗ đủ cách, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.

Đúng như vậy bởi vì ma quỷ luôn luôn rình rập, chờ cơ hội để tấn công Chúa Giêsu. Không chỉ tấn công Chúa Giêsu nhưng còn tấn công tất cả mọi người khi có thể.

Trang Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại cho ta nghe câu chuyện khá hấp dẫn về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến thành Capharnaum vào ngày nghỉ lễ và Chúa Giêsu đã vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.

Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”.

Nghe như vậy, Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!”

Mọi người có mặt ngày hôm ấy hết sức ngạc nhiên và hỏi nhau rằng: “Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người”.

Họ suy nghĩ như thế cũng dễ hiểu bởi lẽ họ không tin vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu và hơn nữa họ không tin vào quyền năng Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tình con thảo của Người với Thiên Chúa Cha (x. Mc 3, 27, Mt 12, 28, Lc 8, 26-39).

Chúa Giêsu đến thế gian và để lật đổ sự thống trị của Satan. Thánh Gioan đã phải nói trong thư thứ nhất của ngài : “Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá huỷ những việc làm của ma quỷ” (1Ga 3,8).

Không phải thời ông bà nguyên tổ, thời Chúa Giêsu mới có ma quỷ nhưng ngay trong thời của chúng ta, ma quỷ xuất hiện nhiều hơn bao giờ hết.

Chúng xuất hiện trong những vẻ đẹp thật hoa mỹ, những lời mời rất bóng bẩy và những quyến rũ xem ra ta khó có thể từ chối được.

Rất giản đơn để nhận ra điều đó từ chuyện phim Tôn Ngộ Không.

Tác giả muốn cho ta thấy trong bản thân của con người có 4 hình ảnh của một con khỉ nghịch phá, một quỷ satan, một trư bát giới con heo ham mê ăn uống sắc dục và một Đường Tăng.

Thầy Trò lên Tây Trúc để thỉnh kinh. Trên đoạn đường dài đăng đẳng đi thỉnh kinh đó Đường Tăng không ít lần gặp rắc rối. Khi con quỷ nổi lên thì đủ những cám dỗ, khi con beo bát giới nổi lên thì ham mê ăn uống, khi con khỉ nổi lên thì nổi lên một con người ngông cuồng.

Tâm hồn, cõi lòng ta cũng thế như Thánh Phaolô nói : “Điều tôi biết là tốt tôi lại không làm mà điều tôi biết là không tốt tôi lại cứ làm”. Con quỷ làm điều không tốt ngày đêm ẩn trong mình ta để xui khiến ta làm những điều không tốt. Con quỷ ấy luôn luôn tìm cách lấn ác tâm thiện mà Chúa tạo dựng, Chúa trao ban cho cuộc đời ta.

Ta vẫn biết vật chất, danh vọng, tiền bạc … là phù vân nay còn mai mất đấy nhưng ta cứ mãi đi tìm và cứ mãi ôm khư khư thật chặt trong đời ta. Nhưng, ta quên rằng khi ta nằm xuống xuôi đôi bàn tay thì tất cả đều phải bỏ lại cho người khác hưởng dùng và ta ra đi mãi mãi.

Danh vọng, xác thịt, cái nóng nảy, cái hơn thua, cái tôi của ta nó chẳng là gì cả nhưng cơn cám dỗ đi tìm nó và ta khư khư ôm chầm lấy nó.

Kinh nghiệm, bí quyết để Chúa Giêsu vượt thắng các cơn cám dỗ đó chính là sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Nhờ kết hiệp với Cha, nhờ quyền năng của Cha mà Chúa Giêsu không chỉ thắng được ma quỷ mà còn trừ được ma quỷ nữa.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thật hay : Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.

Lời cầu xin đó như lời niệm khẩn thiết xin Chúa gìn giữ ta khỏi các cơn cám dỗ, để sống mật thiết với Chúa hơn. Ta hãy bám vào Chúa, hãy nài xin quyền năng Chúa tuôn đổ trên ta để gìn giữ ta khỏi sa chước cám dỗ và khỏi sự dữ. Amen.

Huệ Minh

Tác giả: Huệ Minh

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đi về đâu?

Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đi về đâu?

Binh sĩ đứng gác trước biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam trong lễ kỷ niệm 85 năm ngày thành lập tại Hà Nội, ngày 2/2/2015.

Binh sĩ đứng gác trước biểu tượng của đảng cộng sản Việt Nam trong lễ kỷ niệm 85 năm ngày thành lập tại Hà Nội, ngày 2/2/2015.

VOA Tiếng Việt

03.02.2015

Đảng cộng sản Việt Nam hôm nay kỷ niệm 85 năm ngày thành lập, trong bối cảnh có nhiều tiếng nói kêu gọi “đa nguyên, đa đảng” và “cạnh tranh bình đẳng”.

Phát biểu tại Hà Nội, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc tới điều mà ông gọi là “những kỳ tích” của Đảng trong thế kỷ XX và là “bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam”.

Ông cũng cho rằng, hiện nay, “ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng, nạn tham nhũng là vấn đề sống còn của chế độ”.

Blogger Lã Việt Dũng, người khởi xướng phong trào “Tôi không thích Đảng cộng sản” ở Việt Nam, nói với VOA Việt Ngữ rằng, ngày 3/2 từ lâu không còn ý nghĩ gì với nhiều người dân. Ông nói:

Blogger Lã Việt Dũng, người khởi xướng phong trào ‘Tôi không thích Đảng cộng sản’

“Nói thật là tôi thấy nó chỉ là một cái trò kịch cỡm trên truyền hình, khi mà người ta quá giả dối và người ta nói về những thành tựu mà đảng Cộng sản làm ra. Nhưng mà thực trạng xã hội như thế nào thì toàn dân đều biết. Dân ngày càng nghèo hơn, tham nhũng thì tràn lan mà chủ quyền quốc gia ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng.”

Ông Dũng cho rằng đảng luôn tìm cách “duy trì chế độ độc tài, độc đảng và bảo vệ sự tồn vong của đảng hơn là sự tồn vong của dân tộc”.

Trong khi đó, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nói tới việc “nhiều thế lực tìm mọi cách phá hoại Việt Nam bằng thông tin xuyên tạc, vu cáo đảng, nhà nước, kích động chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước”.

“ Tôi thấy chỉ là một trò kịch cỡm trên truyền hình, khi mà người ta quá giả dối và người ta nói về những thành tựu mà đảng Cộng sản làm ra. Nhưng mà thực trạng xã hội như thế nào thì toàn dân đều biết. Dân ngày càng nghèo hơn, tham nhũng thì tràn lan mà chủ quyền quốc gia ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng.

Blogger Lã Việt Dũng.”

Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến từng bị cầm tù, cho rằng tất cả những thách thức đối với Đảng cộng sản Việt Nam trong những năm gần đây “là hậu họa tồn dư lại của những đường lối sai lầm từ quá khứ”.

Ông Giang nói với VOA Việt Ngữ rằng để “sửa đổi được lỗi hệ thống thì phải thay đổi chế độ chính trị”.

“Hậu quả dẫn tới những bế tắc mà hiện bây giờ nhiều cái không có thể gỡ ra được, từ những cái lớn như tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế như thế nào để giữ lấy sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, cho đến việc chống tham nhũng, phát triển kinh tế để ngăn trở sự tụt hậu của đất nước, thì những cái đó đều do sai lầm ở tầm cỡ lớn, sai lầm ở cỡ đường lối, chính sách, chủ trương, chứ không chỉ là sai lầm ở bên thực thi của nhà nước hay là của chính phủ mà là sai lầm ở chủ trương, đường lối. Như vậy, muốn chữa được cái đó, muốn chống lại sự tan rã và sự rối loạn xã hội thì phải sửa đường lối chủ trương, tức là phải nhận thức được yêu cầu cốt lõi là phải thay đổi chế độ chính trị, chứ không thể nói như Nguyễn Phú Trọng là giữ nguyên bản chất, chế độ chính trị mà có thể vượt qua được nguy cơ của sự sụp đổ”.

Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tháng trước, ông Trọng nói rằng “đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của đảng, nhà nước mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia”.

Khi được hỏi về ý kiến của nhiều quan chức trong nước cho rằng đa đảng sẽ đồng nghĩa với bất ổn xã hội, blogger Lã Việt Dũng nói rằng ông không nghĩ như vậy.

Ông Dũng nói thêm rằng nếu muốn tồn tại thì Đảng Cộng sản Việt Nam “phải chấp nhận đa nguyên, đa đảng, cạnh tranh bình đẳng với các đảng phái khác”.

“ Muốn chống lại sự tan rã và sự rối loạn xã hội thì phải sửa đường lối chủ trương, tức là phải nhận thức được yêu cầu cốt lõi là phải thay đổi chế độ chính trị, chứ không thể nói như Nguyễn Phú Trọng là giữ nguyên bản chất, chế độ chính trị mà có thể vượt qua được nguy cơ của sự sụp đổ.

Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang.”

2015 được coi là năm bản lề cho Đảng cộng sản Việt Nam vì đầu năm sau sẽ diễn ra Đại hội đảng lần thứ 12 với việc bầu chọn ban lãnh đạo cấp cao nhất cho nhiệm kỳ mới.

Tờ Hoàn cầu Thời báo của đảng Cộng sản Trung quốc mới đây đưa ra nhận định cho rằng 2015 sẽ là “một năm sống còn cho cuộc chơi ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam”, và rằng trong năm nay, Trung Quốc “sẽ phải đối mặt với một tình thế còn căng thẳng hơn so với năm 2014” từ Việt Nam.

Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập, Đảng cộng sản Trung Quốc cũng gửi điện chúc mừng tới phía Việt Nam. Theo Tân Hoa Xã, phía Trung Quốc “sẵn sàng làm việc với Việt Nam để thúc đẩy hợp tác chiến lược đi đúng hướng”.

Cũng theo hãng tin này, Trung Quốc đã bày tỏ sự tin tưởng rằng phía Việt Nam “sẽ thực hiện được các mục tiêu cải cách và tiến hành Đại hội đảng 12 với thành công lớn hơn nữa”.

Trong khi đó, hãng tin KCNA của Bắc Hàn cho biết Chủ tịch nước này, ông Kim Jong Un, cũng đã gửi lời chúc mừng tới ông Nguyễn Phú Trọng nhân 85 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Houston, nơi ‘đất lành chim đậu’

Houston, nơi ‘đất lành chim đậu’

Nguoi-viet.com

Từ downtown đến Bellaire và sự lớn mạnh của cộng đồng Việt


Bài và hình: Khôi Nguyên & Ðông Nguyễn

HOUSTON, Texas Trần Hùng, có thể là người đàn ông hạnh phúc nhất mà chúng tôi gặp trong chuyến đến thăm Houston, thành phố phía Nam tiểu bang Texas. Trong buổi tham dự thánh lễ ở giáo xứ Ðức Mẹ La Vang vào ngày Thứ Bảy, bên người vợ trẻ cùng với cô con gái hai tuổi, gương mặt anh luôn nở nụ cười mãn nguyện.



Tượng đài Chiến Sĩ Việt Mỹ và tượng đài Thuyền Nhân trên đường Bellaire, nơi thường diễn các sinh hoạt chính trị của người Việt Houston.

Ít ai biết, bảy năm trước, khi còn ở San Jose, miền Bắc California, Trần Hùng vốn là một thợ lắp ráp điện tử, dù chăm chỉ làm việc và sống tằn tiện trong suốt 14 năm, mơ ước của anh là có một căn nhà nhỏ để lấy vợ, lập gia đình, vẫn cứ xa vời vợi.

Theo lời Trần Hùng, “Nhà cửa ở San Jose khi đó đắt đỏ quá, giá nhà trung bình sáu, bảy trăm ngàn một căn, mà lương mình làm thợ, biết bao giờ mới có cái che trên đầu, không lẽ suốt cuộc đời cứ vạ vật với kiếp ‘share phòng.’”

Thế là, theo lời bạn bè rủ rê, Hùng qua Houston tìm việc thợ tiện. Chỉ khoảng 5 năm sau, anh làm đám cưới với Tiên Nguyễn, cô gái quê Bà Rịa-Vũng Tàu, và với vốn liếng dành dụm, anh mua được một căn nhà nhỏ ba phòng ngủ, hai phòng tắm, giá $140 ngàn làm tổ ấm cho gia đình.

Trần Hùng bộc bạch, “21 năm ở Mỹ, từ hai bàn tay trắng, dù mình làm thợ, thu nhập không cao, nay cũng đã có nhà cửa, vợ con như người ta, mà chắc chỉ có ở thành phố này mới làm được như thế.”

Nhưng, Hùng không phải là người duy nhất cảm thấy hài lòng với cuộc sống ở đây. Còn có cả một cộng đồng người Việt đông đảo, trên 100 ngàn người đang lớn mạnh từng ngày, tại địa phương này.


Con đường Milam khu downtown, một thời là nơi buôn bán sầm uất của người Việt Houston.

Houston, lời mời gọi hấp dẫn

Ai có dịp đến Houston vào những ngày cuối năm, lái xe ở khu vực Tây Nam thành phố trên con đường chính Bellaire, sẽ nhận thấy cảnh xây dựng 24/24 để biến con đường ngày xưa chỉ bốn làn xe nay thành sáu làn xe với các ngã tư là các trụ đèn đường đẹp đẽ.

Kế hoạch của thành phố đang muốn biến đại lộ tập trung hầu hết các cơ sở thương mại của người gốc Việt, gốc Hoa, gốc Nam Hàn, gốc Ấn Ðộ,… thành khu Asian Town sầm uất, như lời cựu nghị viên thành phố Houston, ông Hoàng Duy Hùng, khẳng định, “Texas, đặc biệt là Houston, đang trở thành vùng đất hấp dẫn bậc nhất với người Việt Nam ở Mỹ.”



Ông Hoàng Duy Hùng, cựu nghị viên thành phố Houston.

Lái xe trên đại lộ Bellaire ngày nay, người ta liên tưởng đến con đường Bolsa sầm uất của Little Saigon ở Quận Cam, miền Nam California, với hàng trăm cửa hàng và các khu thương mại nối liền san sát, mới mẻ, cung cấp mọi thứ hàng hóa, dịch vụ mà người Việt muốn tìm.

Theo lời ông Hoàng Duy Hùng, “Thống kê của thành phố cho thấy, số người gốc Việt ở Houston và vùng phụ cận khoảng 100 ngàn nhưng hiện nay, trên thực tế, đã vào khoảng 200 ngàn.”

Không giống Little Saigon ở Nam California, người Việt Houston sống ở ba khu vực chính, là Tây Bắc, Tây Nam, và Ðông Nam thành phố, một số khác chọn các thành phố nhỏ lân cận, nhưng đông đúc và sầm uất nhất vẫn là khu Tây Nam.

Khoảng 10 năm trở lại đây, người Việt ở nhiều tiểu bang khác, đặc biệt California, ùn ùn đổ về đây vì giá nhà rẻ, vật giá không đắt đỏ và công việc dễ tìm.



Khu thương mại Hồng Kông 4, nơi buôn bán sầm uất nhất của người Việt ở Houston.

Có một thực tế, ông Hùng phân tích, chỉ cần bán một căn nhà ở Nam hay Bắc California, người ta có thể mang số tiền đó sang Houston mua được từ hai đến ba căn nhà. Một căn để ở, các căn kia cho thuê. Vì thế, mỗi khi kinh tế California biến động thì Houston thường là nơi mà người Việt nghĩ đến đầu tiên.

Lời của ông cựu nghị viên thành phố được bà Jean Nga Dung Nguyễn, chủ nhân văn phòng địa ốc Alpha Realtor trên đường Beechnut, khẳng định, “Chưa bao giờ nhà ở Houston bán chạy như hai năm gần đây. Hồi trước, những căn nhà mới, rộng khoảng 2,000 sqf, ba phòng ngủ, hai phòng tắm, có thể mua được với giá khoảng $150 ngàn, nay muốn mua phải vào khoảng $200 ngàn.”



Một khu thương mại trên đường Bellaire, nơi có tiệm của hệ thống bánh mì nổi tiếng Lee’s Sandwiches.

Theo bà Nga Dung, nhà cửa “hot” đến mức mỗi ngày văn phòng của bà phải giải quyết khoảng 20 hồ sơ cả mua lẫn bán mà vẫn không phục vụ nổi nhu cầu của khách.

“Chỉ với tiền lương thu nhập khoảng $40-$50 ngàn/năm, một gia đình 4-5 người có thể mua được căn nhà rộng rãi và sống thoải mái,” bà Nga Dung nói về “tiêu chuẩn” để có thể sống ở thành phố này.

“Nhà rẻ, giá sinh hoạt rẻ, dễ tìm công việc. Ðó là ba yếu tố hấp dẫn, không chỉ đối với người Việt, mà cả với người Mỹ, khi họ tìm đến thành phố này.

Ông Hà Ngọc Cư, giám đốc Ðiều Hành văn phòng CISS, chuyên về di dân và tị nạn tại khu downtown, cho biết, “Từ năm 2005 đến nay, Houston có thêm 600 ngàn việc làm, với ba điểm mạnh về kinh tế là kỹ nghệ dầu hỏa, y khoa và xây dựng.”

Ngoài ba ngành trên, người Việt đến đây còn làm nhiều ngành nghề khác như đánh cá, mở tiệm ăn, làm móng tay, hớt tóc.

Thế nhưng ngoại trừ những thế mạnh ấy, thời tiết ở đây vốn không chiều lòng người, vì bị coi là “khắc nghiệt.”

Theo ông Hà Ngọc Cư, “Mùa Ðông nhiệt độ xuống âm độ F, nhưng mùa Hè, cái nóng lại hơn 100 độ F.” Người đàn ông tuổi gần 80 này bật cười lớn, “Tôi ở Mỹ gần 40 năm, nhận thấy rằng, ở đâu có công việc thì ở đó có ‘thời tiết’ và cuộc sống tốt nhất, đúng không?”



Con đường Bellaire đang được mở rộng thành sáu làn xe.

Houston, nhất là khu Tây Nam, đang trở nên hấp dẫn khiến nhiều người gốc Việt ùn ùn đổ về, không phải ngày một ngày hai, mà là cả một quá trình kéo dài suốt hơn 30 năm. Ðặc biệt trong 15 năm qua, khi các cơ sở thương mại của người gốc Việt làm một cuộc dịch chuyển lớn từ khu downtown thành phố về khu Tây Nam, mà sầm uất nhất là đại lộ Bellaire.

Downtown “một thời cực thịnh”

Ngay sau biến cố 30 tháng 4, 1975, khi những người Việt đầu tiên di tản đến Mỹ thì đã có người đặt chân đến Houston.

Ông Hà Ngọc Cư, người có mặt tại Houston vào thời điểm này, nhớ lại, “Những năm đầu, từ 1975 đến 1982, người Việt còn thưa thớt lắm. Cả khu downtown chỉ duy nhất có một tiệm bán… nước mắm, ngay cả một quả ớt, loại mà người Việt thích ăn cũng quý… như vàng.”



Tiệm chăm sóc da hiếm hoi của người Việt còn sót lại trong khu downtown Houston.

Nhưng mà phải đến sau 1982 thì khu vực này mới bắt đầu trở thành nơi tập trung các cơ sở thương mại gốc Việt. Khi ấy, cả thành phố có đâu chừng 10 ngàn người.

Bồi hồi nhớ về quá khứ, người đàn ông có gần 40 năm gắn bó với mảnh đất này cho hay, “Thời cực thịnh và sầm uất nhất của khu vực downtown là những năm đầu 1990. Khi đó chỉ trên con đường Milam không thôi đã có 20 cơ sở thương mại Việt Nam, gồm bốn nhà hàng, sáu văn phòng bác sĩ, nhiều văn phòng bán bảo hiểm, tiệm vàng và một ngôi chợ nhỏ.”

“Hoạt động thương mại của người Việt Nam và người Mỹ hòa quyện với nhau và có cảm giác là chúng ta đã hòa nhập hẳn vào dòng chính.”

Người Việt hàng ngày hàng tuần tụ tập về đây mua bán, sinh hoạt, nhộn nhịp đến nỗi một số đường nhỏ ở khu vực này được đặt cho những cái tên Việt, như Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo,… như là nơi chỉ dành riêng cho người Việt.

Nhưng, vẫn ông Hà Ngọc Cư, cho đến năm 1995, “tình hình hoàn toàn thay đổi.”

Chủ trương của thành phố Houston khi đó là muốn biến khu vực downtown thành một “night city” (phố đêm) mang tính quốc tế. Giá thuê nhà, văn phòng đột ngột tăng lên quá sức chịu đựng của các chủ tiệm người Việt cộng với việc khu vực này trở nên quá chật chội so với sự đông đúc của cộng đồng Việt Nam. Thế là người ta đi tìm vùng đất mới và khu vực Tây Nam thành phố.

Ngày nay, nếu đến downtown tìm lại dấu tích một thời của người Việt tại đây, cả khu vực chỉ còn lại khoảng 10 cơ sở thương mại và dịch vụ của người Việt, mà đáng kể nhất là tiệm phở mang tên Sài Gòn.

Ông Trần Phượng, chủ nhân phở Sài Gòn, người gốc Bình Ðịnh và vượt biên đến Mỹ năm 1983, nhớ lại, “Khi đó người Việt mình ùn ùn đổ về khu Tây Nam, nhưng tôi chọn ở lại. Bởi phở là món ăn khá phổ biến với người Mỹ, và tiệm của mình đang ổn định thì cố giữ, dù giá cho thuê cơ sở đắt hơn trước rất nhiều.”



Ông Trần Phượng, chủ nhân phở Sài Gòn.

“Tiệm sạch sẽ, phẩm chất ngon, và giá phải chăng là bí quyết thành công của Phở Sài Gòn.”


“Cho đến nay, sau gần 20 năm, tôi thấy quyết định ở lại downtown là đúng. Hồi đó, mỗi ngày phục vụ chừng 200 đến 300 khách, hiện nay con số ấy đã là 600, doanh thu mỗi tháng từ $90-$110 ngàn, nuôi được 14 nhân viên.”

Bellaire, vùng đất mới trù phú

Nhưng ông Trần Phương chỉ là người hiếm hoi ở lại, hầu hết chủ nhân gốc Việt đều chọn Bellaire “thẳng tiến” đến vùng đất mới với khẩu hiệu “Location, Location, Location.”

“Người Việt Nam mình tiến đến đâu, tụ tập và sống quây quần lại với nhau, thì chúng tôi đến đó.” Bà Văn Bạch Lan, chủ nhân nhà sách Phương My, lớn bậc nhất Houston, nằm trong khu thương mại Hong Kong 4, giải thích về lý do chuyển cơ sở kinh doanh từ downtown về Bellaire.



Một văn phòng nha sĩ của người Việt trên đường Bellaire, Tây Nam Houston.

“Khi người Việt mình mua đất và xây dựng khu thương mại Hong Kong 4 lớn như cái sân vận động thì chúng tôi nghĩ rằng, thế nào khu vực này cũng sẽ sầm uất.”

Ðúng theo dự đoán, Hong Kong 4 nhanh chóng trở thành khu thương mại lớn nhất của người Việt Nam tọa lạc trên đường Bellaire, con đường chính của khu Tây Nam. Người Việt ở đây hay gọi cả khu Tây Nam này bằng cái tên quen thuộc là “khu Bellaire” mỗi khi có các sinh hoạt văn hóa, chính trị, lễ Tết.

Theo lời bà Văn Bạch Lan, 20 năm qua, cộng đồng gốc Việt ở đây lớn mạnh rất nhanh, người dân khá giả hơn nhờ giá nhà rẻ, vật giá tiêu dùng không đắt, vì thế “người dân mình có đời sống tinh thần mà sách báo, băng đĩa nhạc, phim ảnh,… là nhu cầu tinh thần không thể thiếu.”

Nếu nói về đời sống tinh thần và văn hóa, chỉ riêng về truyền thông của người Việt thôi, Houston cũng quá đa dạng và phong phú với gần 10 chương trình truyền hình, vài chương trình phát thanh và cả chục tờ báo tuần.

“Quá nhanh, và ngoài sức tưởng tượng.” Ðó là mô tả của cô Amada Phương Nguyễn, chủ văn phòng A&N Insurance, chuyên về bảo hiểm và kế toán, về sự phát triển của “khu Bellaire” trong 15 năm qua.

Theo lời Amanda, người Việt từ nhiều nơi, mua nhà cửa, mua đất xây cơ sở thương mại. “Con đường Bellaire 15 năm trước còn vắng vẻ lắm, nhưng giờ đây gần như chật hết rồi.” Hồi xưa, các cơ sở dịch vụ nhiều nhưng dân ít. “Bây giờ dân nhiều lên và các cơ sở dịch vụ cũng nhiều lên.”



Khu thương mại Saigon Houston, được xây dựng cách đây chín năm.

Nhận xét của Amanada Phương Nguyễn tương tự ông Hà Ngọc Cư, “Cả khu Tây Nam, ngoài khu thương mại Hong Kong 4, có gần 10 cái chợ Việt Nam, mà mỗi chợ phục vụ khách hàng bằng những nét rất riêng rất khác nhau, tha hồ cho người Việt chọn lựa.”

“California có là Houston có”

Ðó là câu nói quen thuộc của nhiều người Việt ở Houston khi so sánh thành phố này với Little Saigon ở Nam California và San Jose miền Bắc California.

Cô Amada Phương Nguyễn nói vui, “Mình là phụ nữ mà, hồi xưa thấy Cali có đồ ăn gì mình cũng thèm, muốn ăn phải bay qua tận bên đó. Giờ ở đây cái gì cũng có, từ khô bò, chè, bánh mì, cơm tấm,… Houston giờ cũng nhộn nhịp không thua gì Cali rồi nhé.”

Theo Amanda, như thế để biết rằng, người Việt từ California chuyển qua đây sống rất nhiều và mang theo cả những dịch vụ, nhà hàng, món ăn từ “bển” qua.

Bánh mì Lee’s Sandwiches, Phở Gà Ða Kao, Giò Chả Nguyên Hương, Cơm Tấm Thuận Kiều, đến nhiều cái tên, bảng hiệu quen thuộc của California mà người ta có thể thấy trên phố Bellaire và nhiều con đường khác ở khu vực này.



Ông Hà Ngọc Cư, giám đốc điều hành văn phòng CISS.

“Houston không thiếu những người Việt là triệu phú. Nhưng thành quả nổi bật nhất là 20% trong số sinh viên gốc Việt tốt nghiệp đại học là theo ngành y khoa và dược khoa.”


Các tiệm cung cấp thiết bị cho các ngành nail, tóc, gởi hàng hóa, về Việt Nam, cũng y chang như ở California.

Không có con số chính xác, nhưng theo Amanda, khách hàng mua bảo hiểm, khai thuế ở văn phòng của cô rất nhiều người từ California.

Còn theo bà Nga Dung Nguyễn, người Việt từ California về càng đông, thì cơ sở thương mại mọc lên càng nhiều, và tác động của người Việt từ California sang Houston là “điều có thật.”



Bà Jane Nga Dung Nguyễn, chủ văn phòng địa ốc Alpha Reators.

“Tôi từng ở California, tất nhiên đó là nơi lý tưởng, nhưng nay thì Houston cũng chẳng kém cạnh gì, ngoài yếu tố thời tiết.”


Nói như bà Văn Bạch Lan, chủ nhân nhà sách Phương My, phần lớn nguồn cung cấp các sản phẩm băng đĩa, sách báo đều từ California sang, “Chúng tôi phụ thuộc vào nguồn hàng từ California rất nhiều.”



Bà Văn Bạch Lan, chủ nhân nhà sách Phương My.


“Thật không ngờ khu Bellaire phát triển nhanh như vậy. Ði vào Bellaire người ta sẽ nghĩ đi lạc vào Việt Nam, y chang như đi vào Little Saigon ở California.”


“Ðất lành chim đậu”

Không chỉ thương mại, mà cả lãnh vực những người có chuyên môn cao như bác sĩ, luật sư, kỹ sư, cũng từ California sang hành nghề và tìm kiếm cơ hội thăng tiến. Bác Sĩ Phan Gia Quang, hiện có phòng mạch tại Sugar Land, thành phố kế cận Houston, là một trong số này.

Tốt nghiệp y khoa năm 1992, sau đó học nội trú chuyên ngành tiêu hóa và gan thêm sáu năm, Bác Sĩ Phan Gia Quang hành nghề ở Quận Cam, California thêm 5 năm nữa rồi chuyển sang Houston.

“Như bao nhiêu người khác, tôi đến Houston để thực hiện giấc mơ của mình: Mở một phòng mạch riêng, chủ động về thời gian để chăm sóc gia đình và con cái. Người Việt đông hơn, nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng gia tăng, mà đây được coi là vùng đất ‘mới’ nên cũng dễ cho mình thăng tiến.” Bác Sĩ Phan Gia Quang bày tỏ về quyết định của mình cách đây 11 năm.

“Tôi thích ăn đồ ăn Việt Nam, mà ở đây thì quá nhiều, nên nơi nào sống với người Việt thì đó là nơi tôi thích nhất.”

Ðiều mà Bác Sĩ Phan Gia Quang hài lòng nhất sau hơn 10 năm ở Houston là “con người ở đây hiền hòa và rất tốt bụng.” Có lẽ vì thế mà ông “rủ rê” và tụ tập các đồng nghiệp gốc Việt lập nên Hội Y Khoa Việt Mỹ Houston, nơi sinh hoạt của khoảng 60-70 bác sĩ, ngoài lĩnh vực chuyên môn, còn làm nhiều công tác xã hội và cộng đồng.



Bác Sĩ Phan Gia Quang.

“Houston đang rất cần bác sĩ gia đình, chuyên khoa về nội tiết và truyền nhiễm.”


Người Việt ở Houston hiền hòa, tốt bụng được cựu Nghị Viên Hoàng Duy Hùng làm cho rõ nét hơn: “Cuộc sống người Việt ở đây thoải mái hơn các nơi khác về mưu sinh. Bằng chứng là các chương trình gây quỹ cho chùa, nhà thờ, các tổ chức từ thiện, văn hóa, con số quyên được luôn xấp xỉ hoặc hơn $100 ngàn là chuyện bình thường.”

Rõ nét hơn, như lời Hòa Thượng Thích Huyền Việt, phó chủ tịch Văn Phòng 2 Viện Hóa Ðạo, GHPGVNTN, trụ trì chùa Liên Hoa: “Người Việt ở Houston rất giàu lòng từ bi và nhân hậu, ý thức xây dựng cộng đồng rất cao.”



Hòa Thượng Thích Huyền Việt, trụ trì chùa Liên Hoa, tọa lạc tại khu Tây Nam Houston.

“Người Việt ở Houston rất giàu lòng tư bi và nhân hậu, ý thức xây dựng cộng đồng rất cao.”


“Có cả chục ngôi chùa, nhà thờ, cơ sở tôn giáo của người Việt ở thành phố này đều do đồng bào mình đóng góp, và chùa Liên Hoa của chúng tôi đang xây dựng cũng là nhờ lòng hảo tâm của đồng hương Phật tử góp tay cùng làm.”

“Houston mà miền đất lành!” Hòa Thượng Huyền Việt kết luận sau câu chuyện rất dài về công cuộc xây dựng chùa Liên Hoa, cũng như sự phát triển của Phật Giáo tại đây trong gần 40 năm.

Mà “đất lành” thì chắc chắn là hàng trăm ngàn “cánh chim” di cư như người Việt Nam rời quê hương đã và đang tìm đến thành phố này.