Mai tôi đi….

Nhiều người không rõ tác giả của bài thơ “Mai Tôi Đi”, xin mời đọc:

Thưa anh Hòa
Tác giả bài ‘Mai Tôi Đi” là Phước Tuyền Ngô Quang Huynh , nguyên Trung Tá QLVNCH, hiện cư ngụ tại Campbell, CA , và là chú họ của tôi .
Bài nầy đã được chuyển dịch ra Anh Ngữ, Pháp Ngữ, và Tây Ban Nha, phổ biến trên nhiều diễn đàn, và luân lưu khắp thế giới …
Xin chuyễn anh Hòa những bản dịch ngoại ngữ dưới đây và kính chúc anh chị an vui, mạnh khỏe .
Vĩnh,


Mai tôi đi….

***
Mai tôi đi…chẳng có gì quan trọng,
Lẽ thường tình, như lá rụng công viên,
Như hoa rơi trước gió ở bên thềm,
Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn…

Trên giường bệnh,tử thần về thấp thoáng,
Xin miễn bàn, thăm hỏi hoặc cầu an,
Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn,
Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt.

Khoảnh khắc cuối… Đâu còn gì tha thiết…
Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian.
Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn,
Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi…

Sẽ dứt điểm đời phù du ngắn ngủi,
Để đi vào ranh giới của âm dương,
Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương,
Bên trần tục, bên vô hình cõi lạ…

Chỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả,
Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh,
Quên đàng sau những níu kéo giựt dành,
Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế…

Mắt nhắm rồi… Xin đừng thương rơi lệ,
Đừng vòng hoa,phúng điếu hoặc phân ưu,
Đừng quay phim, chụp ảnh để dành lưu.
Gây phiền toái,nợ thêm người còn sống…

Ngoảnh nhìn lại,đời người như giấc mộng,
Đến trần truồng và đi vẫn tay không.
Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng,
Nay rũ sạch…lên bờ, thuyền đến bến…

Nếu tưởng nhớ..Xin âm thầm cầu nguyện,
Nên xem như giải thoát một kiếp người,
Cứ bình tâm, thoải mái với vui tươi,
Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp…

Mai-tôi đi …..

Bài thơ hay quá,!!! Cuộc đời là thế !!!Còn chút thời gian, xin hãy đối xử với nhau cho thật tốt, đừng tranh dành chút danh lợi nhỏ nhoi, tất cả đều là phù vân, tạm bợ. Bạn còn nâng ly được xin cứ uống, còn gắp đuợc xin cứ ăn, còn vui được xin cứ vui, còn những người bạn tốt xin hãy gặp gỡ, liên-lạc tâm tình, kể chuyện xưa, nhắc cho nhau những kỷ niệm vui, buồn …. .

Bạn còn người phối ngẩu, xin hãy nâng niu, âu yếm vì có quá nhiều người đến tuổi mình đã không được như bạn mà phải lủi thủi một mình, sáng, trưa, chiều, tối nhìn quanh một mình ! Chỉ vì đời mình ” Đã tắt bình – minh ” . . . .

Vu duc Nghiem

Tomorrow I’ll go… it ‘s really of no importance
It happens normally like falling leaves in the park,
Or flowers stripped by wind on the landmark,
A rather insignificant story in the turbulent current of life.
Beside my sick bed, flickering Death appears,
Please no comments, no visitations and prayers for peace,
When exhausted body releases its last breaths to cease,
I will lie down in agony, waiting for the time to bid farewell..
At final moment, nothing is regrettable,
The days and the months cold or hot in this life worldly,
No matter I am wealthy or full of glory,
I must leave everything behind to return to dust and ashes.
To terminate completely my short and ephemeral life,
I am ready to step into the boundery of yin and yang,
No panic before the threshold of borderlands,
This side, earthly area, and other, invisible, unknown realm…
Only to wish my soul always at ease,
With empty baggage I can make a quick pace,
Forget totally behind the “pull and push” race,
To end forever my journey on this Planet.
When my eyes already closed, Please don’t shed tears for sympathy,
No flower wreaths, no donations and no need to send condolences,
No filming, no pictures taken to save them,
It causes not only inconveniences but also debts for living people.
Look back at the past, the human life like a dream,
I arrived naked and am leaving with empty hands
All ups and downs, happiness or unhappiness on lands,
Will be cleared up…to step on a shore, the boat reaches its port.

If I am missed, please silently pray for me,
Consider it as an emancipation of one human life,
Have a peace of mind, be relaxed and have a good time,
This one goes first, the other after, finally to meet together again.

Pray God by entrusting entirely to Him soul and body,
Living in this present situation with every minutes of heaven,
Day by day, to create a chain of peace even,
That’s my aspiration during my presence in this material world.

Phước Tuyền/NQH (Sep. 16, 2013)

Demain je vais aller

Demain j’irai…Ce n’est vraiment pas d’importance.
Çà arrive normalement comme des feuilles tombant dans le jardin,
Ou des fleurs détachées au vent sur le chemin,
Un conte plutôt insignifiant dans le courant turbulent de la vie…

À côté de mon lit de malade, vacillante, La Mort apparaît,
S’il vous plaît, pas de commentaire, pas de visite ni pour ma paix prier,
Quand mon corps épuisé libère ses derniers souffles pour cesser,
Je m’allonge dans l’agonie, attendant le temps de dire adieu…

Au final moment, rien n’est regrettable,
Les jours et les mois, froids ou chauds dans cette vie mondaine,
Peu importe, si je suis riche ou plein de gloire, tout est en vain,
Je dois tout quitter pour retourner à la poussière et cendres….

Afin de terminer complètement cette vie courte et éphémère,
Je suis prêt à marcher dans la frontière du yin et du yang,
Pas de panique devant le seuil de “borderlands”,
De ce côté, zone terrestre et d’autre part, domaine invisible et inconnu…

Je voudrais seulement mon âme toujours bien à l’aise,
Avec bagage vide, je peux faire un rapide pas,
Laisser derrière moi toutes les courses “tirer et pousser” en bas,
Pour achever éternellement mon voyage sur cette planète..

Quand mes yeux sont déjà fermés… Ne versez pas des larmes de sympathie,
Pas de couronnes de fleurs, de dons et de condoléances à envoyer..
Pas de tournage, de photos prises pour les dossiers.
Ceci provoquera des inconvénients et aussi des dettes pour les vivants..

Regardons en arrière sur le Passé, la vie humaine comme un rêve,
Je suis arrivé tout nu et je pars avec les mains vides,
Tous les hauts et les bas, bonheur ou malheur sur route aride,
Seront nettoyés…Marcher sur le rivage, bateau qui arrive à son port….

Si vous ne m’oubliez pas, Veuillez silencieusement prier pour moi,
Considérez-le comme l’ émancipation d’une vie humaine,
Ayez la tranquillité de l’esprit, soyez toujours détendu et sain,
Celui-ci va d’abord, l’autre après, enfin se réunir à nouveau…

Prions Dieu en tout confiant à Lui corps et âme,
Vivre en cette situation actuelle avec toutes les minutes de ciel,
Jour par jour, créer une chaine de la paix réelle,
C’est mon aspiration durant ma présence dans ce monde matériel..
Phước Tuyền/NQH (Oct. 24, 2013)

Ao Lua Ha Dong-Tho Nguyen Sa & Bài Không Tên Cuối Cùng -Vũ Thành An & Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ -Tho Nguyễn Tất Nhiên -Phạm Duy -Vũ Khanh

Ao Lua Ha Dong-Tho Nguyen Sa -NTM -Vu Khanh -VD (HD)

httpv://www.youtube.com/watch?v=3LZ2AlUDL68&index=6&list=PL65DDD21D34746068

Bài Không Tên Cuối Cùng -Vũ Thành An -Vũ Khanh -PDC

httpv://www.youtube.com/watch?v=UUw3JrzGNac&index=3&list=PL65DDD21D34746068

Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ -Tho Nguyễn Tất Nhiên -Phạm Duy -Vũ Khanh -NNS

httpv://www.youtube.com/watch?v=_xgjWLKK8TQ&list=PL65DDD21D34746068&index=17

“Ta như sương cao mà người như hoa sâu.”

“Ta như sương cao mà người như hoa sâu.”
“Ta dối gian nhau, nên nát nụ hôn đầu.
Tình đi từng bước, đi từng bước trên đầu gió.
Gieo xuống lòng nhau, ôi từng hạt thương đau”.

(Phạm Duy – Tình Sầu Du Tử Lê)

(2Cor 9: 1, 2, 3)

Trần Ngọc Mười Hai

Hôm nay, ngồi nặn óc tìm lời nhạc ở đây đó làm nguồn hứng viết “Phiếm”, bần đạo đây phải thú thật một điều, rằng: lời ca trên rất phù hợp với tâm trạng của bần đạo, vào lúc này, hơn bao giờ hết.

Này nhé, trong chuyến du-lịch nước Tây Tạng đầu năm nay 2015, bần đạo cũng “từng bước, đi từng bước” rất dọ dẫm ở độ cao lên đến 6,000m, chỉ để hướng về núi Everest chụp một tấm hình kỷ-niệm chứng tỏ mình đã có mặt ở nơi này. Nghĩ thế rồi, nay bần đạo lại nghe hát tiếp, những lời rằng:

“Người một phương, ta cũng một phương.
Phố cao ngày thấp, nên nắng mưa trùng trùng.
Mắt có sâu, để nhốt trời giông tố.
Ta là hồn câm, cho mưa bão lên.
Người ở đây, ta cũng ở đây.
Lòng không như mặt, mà lòng lệ tràn đầy.
Chân đi theo gió, sầu ba hướng.
Tay với một trời, trời mưa bay.”
(Phạm Duy – bđd)

Quả thật là thế. Đứng ở độ cao 6,000m tại xứ miền được mệnh danh là “Nóc nhà của thế giới”, thì: lại thấy mây trời chậm trôi rất gần kề, ra như thể: chỉ cần với tay lên cao, là ta nắm được chúng ngay thôi.

Và, không chỉ thế. Bần đạo đây, lại dám lên cao/xuống thấp rất từng chập, để cảm-nhận được cái hay/cái đẹp nơi lập-trường của người Tạng, không chỉ mỗi chuyện hành-hương lòng vòng rất nhiều giờ quanh lâu đài Potolas, như thế thôi.

Người Tạng đi như thế, không chỉ mỗi nhà đạo đức hoặc các thày dạy gọi là “Rinpochê” hoặc Đức “Đạt Lai Lạt ma” mới biết làm, mà: tất cả quần chúng từ vua quan, lãnh chúa đến thứ dân, lớp du-mục ít khi học hoặc đám nông dân bình thường ít bày tỏ tư-tưởng này nọ, vẫn cứ làm.

Người Tạng hành-hương Kora, không chỉ để chứng-tỏ cho người khác biết: mình cũng hành-hương/hương hành nhiều tình tiết; nhưng, còn để tưởng nhớ đến bậc thày dạy dỗ, đồng hành với mình, trong cuộc sống.

Đồng hành đây, không mang nghĩa cùng tiếp bước “quân-hành/dân chạy” vào chốn mông lung, nguyện cầu, siêu thoát. Nhưng, là để tuyên dương/trân trọng bậc đàn anh đi trước vẫn làm gương cho mình về đường lối sống nhẹ nhàng, an vui, bình-dị.

Quả thật, người Tạng vẫn chấp-nhận làm dân “bị trị”, sống hiền-hoà tuân-giữ luật-pháp và “hoằng pháp” của nhà Phật theo kiểu Tây Tạng. Nhưng, nói chung thì: người Tạng đã làm gương cho nhiều sắc tộc và dân nước khác, bằng việc gìn-giữ môi-trường-sống ở nguồn nước sinh sống của thế-giới.

Họ làm thế, có thể, cũng vì cảm-kích với lời thơ/ý nhạc của nghệ sĩ “già” mà họ từng nghe như sau:

“Người đã vì ta, tan ước mơ.
Phấn son chưa ngát, thịt da ngà.
Môi non đã lỡ, tình đau đớn.
Mộng vữa theo trời, hoa phượng xưa.
Người chôn đời, mà ta đắng cay.
Cây im lá, và khói sương bay.
Chim treo mỏ, cóng trơ xuơng mục.
Sống đã chẳng cùng, chết sao hay.

Người ở đâu, ôi người ở đâu?
Cỏ xanh còn áp má, những đêm sầu.
Dế giun còn tiếc, mùa ân ái.
Từng phiến trời, mang bao vết thương …”

(Phạm Duy – bđd)

Tâm trạng người Tạng và của những người “bị trị” những 55 năm trời, vẫn bất khuất; và đó còn là tâm-trạng của người Do-thái khi xưa được kể ở Lời vàng nơi Kinh Sách, rất như sau:

Về việc phục vụ các người trong dân thánh,

tôi có viết cho anh em thì kể cũng bằng thừa,

vì tôi biết lòng hăng hái của anh em…

(2Cor 9: 1-2a)

Và:

“Nhiệt tình của anh em đã khích lệ rất nhiều người”…

(2Cor 9: 3)

Lời vàng ở trên, cốt minh-hoạ một điều là: niềm tin của con người vào thần thánh, và tình thương-yêu rất mực, vẫn là niềm tin và tình thương-yêu chính con người mình nữa. Hôm nay, lại có thêm câu hỏi đặt ra hôm trước, vẫn bảo rằng: niềm tin đây, có là niềm tin chân-phương bất chấp mọi hoàn-cảnh và sự đời hay không?

Bần đạo đây, mỗi khi lai rai viết phiếm, thường không dám đi thẳng vào câu trả lời, nhưng chỉ đưa ra một vài sự việc hoặc sự kiện liên-quan đến sinh-hoạt sống của mình và của người, mà thôi.

Về sinh-hoạt của bần đạo, thì: chỉ lai rai phiếm “loạn xạ” đôi ba kinh nghiệm ở đời, nhân chuyến du-lịch qua xứ Tạng đầu năm 2015 thôi. Khi về, cũng đã viết lên được đôi giòng tư-tưởng về chuyện hành-hương của người Tạng, miền cực Bắc xa xôi, chốn ấy.

Mới đây, trên đường về với cộng-đoàn họ đạo nhỏ ở Sydney, bần đạo lại bắt chụp một giòng chảy khác từ vị lãnh-đạo Tổng giáo phận Sydney, những bảo rằng:

“Gm Anthony Fisher, OP đã từng nói sau ngày nhậm chức Tổng giám mục Sydney rằng: Hội-thánh ta sẽ không có chính-nghĩa, nếu cứ bai-bải chối cãi hoặc che-đậy mãi các  chuyện xấu của mình. Và, ai là nạn-nhân các vụ xách-nhiễu tình-dục phải đưa ra ánh-sáng, cách nào sớm nhất. Cụ thể là, hôm 18/9/2014 ở Sydney, Gm Anthony Fisher có nói: “Hội-thánh Chúa ở Úc phải tự-kiểm và để quần chúng phê-bình kiểm-điểm mình nữa. Bản thân tôi hy vọng rằng: bằng vào động-thái tách-bạch và khiêm-hạ như thế, Giáo-hội sẽ nảy-sinh ra tình-huống xót thương và ái-ngại đầy linh-đạo. Đặc biệt hơn, giới trẻ của ta, nay không chỉ là tương-lai Giáo-hội mà thôi, nhưng sẽ là và còn là thành-phần quan-trọng trong Giáo-hội, ngay lúc này.” (Gm Anthony Fisher, OP trả lời phóng viên AAP hôm 18/9/2014)

Trước đó 2 ngày, Đức Phanxicô cũng nhắc đến niềm hy-vọng của Giáo hội, bằng những lời lẽ rất thật như sau:

“Khi Chúa ghé thăm dân Ngài, Chúa đã tạo hy-vọng cho con người. Vâng. Bao giờ cũng thế. Từ xưa đến nay, Giáo-hội vẫn có nhiều bậc thày giảng dạy suốt giòng-chảy lịch sử. Nhưng, nếu các bậc thày ấy lại không gieo vãi hạt-giống hy-vọng, thì lời rao giảng của các ngài cũng trở-thành hư-luống. Những lời như thế chỉ là hư ảo, thôi.” (trích chia-sẻ Tin Mừng của Đức Phanxicô tại thánh đường Santa Maria hôm 16/9/2014).

Về với phiếm đạo lâu nay, bần đạo quyết tìm đến lời vàng của các bậc vĩ nhân hiển thánh ở đây đó, để tạo giòng chảy đầy những phiếm, mỗi khi cần. Bất chợt, bần đạo gặp được bài quan-điểm của một cây viết trẻ chuyên lo cho tờ The Australian Catholics rất hay như mọi ngày. Và, trong số báo The Australian Catholics mùa Giáng Sinh 2014 vừa rồi, khi bàn về “niềm tin và sự sống”, tác giả Michael McVeigh cũng đã viết:

Các bạn cũng như tôi, ta học được nhiều thứ từ các câu-lạc-bộ bóng bầu-dục luôn đấu-tranh giành lấy cho mình, nhiều thắng-lợi. Bạn cũng như tôi, ta đấu-tranh học đòi thưởng-thức mùi vị chiến-thắng dù nhỏ nhoi, còn hơn chỉ biết ghi những bàn thắng và thắng ở trận đấu.

Thêm vào đó, ta vẫn thầm-phục/cảm-kích những vị từng đấu-tranh giành lại cho mình động-thái lướt-thắng mọi hạn-chế, rất dễ nhận. Phần lớn thời-gian sống ở đời, ta học được cảm-giác khá lạ-kỳ khi nếm mùi thất bại, đó lại là hy-vọng cần có để tiến tới. Hy-vọng ấy, có  thể, sẽ hằn in trên giấy trắng mực đen và cả trên sân cỏ, hoặc có khi lại cũng bị quăng/ném đi nơi khác bằng những cú đá khởi đầu trận hoặc bằng bàn thắng vào phút cuối quyết tạo vinh-quang cho người chiến-thắng cả trận đấu. Và, ở các trận đấu tiếp theo đó, hoặc mùa bóng kéo dài ở năm sau, thì niềm hy-vọng sống động vẫn hiện-diện nơi mọi người, trong đời.

Điểm chính-yếu của niềm hy-vọng là ở chỗ: mức-độ tuyệt-vọng càng sâu, ta càng có nhiều sức để cảm-nhận và tùy thuộc vào nó, nhiều hơn nữa. Điều làm cho hy-vọng trở-thành quà-tặng lớn-lao từ Thiên-Chúa còn ở điểm: nó không nhắm vào người thắng trận cho bằng vào người thua cuộc, bại trận vẫn thấy đầy trên thế-giới.

Hy vọng rằng, là chủ-đề mà bạn và tôi thấy rõ ở trang kế-tiếp số báo này, kỳ thực là ‘điều tốt đẹp’ trong đời. Là, quà-tặng quí giá từ Chúa, gửi đến ta.” (x. Michael McVeigh, The Australian Catholics số Giáng Sinh 2014, tr. 5)

Người trẻ nào đó, nếu cậy nhờ bần-đạo diễn-tả thêm tư-tưởng của biên-tập-viên nói trên bằng lời-lẽ rất “tiếng Việt”, thì bần đạo đây xin diễn và tả bằng ý/lời của các cụ khi xưa vẫn cứ bảo: “Thất bại là mẹ thành công!” thôi.

Và, nếu có bạn trẻ nào khác lại cứ hỏi: chuyến tham-quan nước Tạng vừa qua, có đem lại cho bần đạo niềm hưng-phấn nào đó không? thì bần đạo đây lại xin nói theo và nói dựa một bạn viết khác cũng trên tờ The Australian Catholics số Giáng Sinh 2014 thêm một chuyện, theo dạng “Thư gửi diễn viên điện-ảnh Robin Williams” như sau:

“Robin thân mến,

Tôi thật rất buồn, khi hay tin bạn qua đời cách đột ngột, vào tháng 8/2014 vừa qua. Nhiều năm về trước, khi suy tính nên mời ai gọi ai đến dự tiệc do mình tổ-chức, tôi thường nghĩ đến bạn và ghi tên bạn lên đầu danh-sách khách mời của tôi.

Tôi quen tưởng-tượng rằng: nhiều lần, bạn cũng có dịp ngồi cạnh thi-hào lừng-danh thế giới là William Shakespeare, đến độ hai người đều đã hiểu rõ tâm-trạng nhau khi diễn-xuất hoặc diễn-đạt tính hài-hước, lập-dị và chộn-rộn đầy tính người, như cuộc đời.

Có lần, tôi còn tưởng tượng rằng: ngay tổng thống Nga Vladimir Putin cũng đã ngồi chung thân mật với bạn, tựa như thế. Tưởng tượng vậy, chỉ để xem bạn tuy kề-cận, nhưng chẳng ai biết là bạn có dám cười vào mặt ông ta không. Thật ra thì, theo kinh-nghiệm của riêng mình, tôi không thấy có gì lạ khi phải ngồi cạnh một người chẳng có tính hài-hước bao giờ hết.

Lúc bạn sinh thì, người hâm-mộ tài-nghệ của bạn gia tăng cũng rất nhiều, lại đã tung lên mạng một chi-tiết về thời-gian mình phải giáp mặt bạn bè hoặc đồng-nghiệp sừng sỏ, cứ tìm mình để hỏi những câu đại để như: sao tôi chẳng bao giờ thấy bộ mặt nghiêm-nghị của bạn bao giờ thế? Thoạt khi ấy, tôi thấy bạn trả lời  rất rõ, không sai một chữ: “Tôi cũng tự-hỏi: ông cũng thế, sao ông chẳng bao giờ có tính hài-hước vậy thế?” Theo tôi thì, cả hai câu hỏi cũng đều quan-trọng như nhau. Bởi, tất cả có hỏi han gì cũng chỉ để mọi người hiểu được rằng: đời người, vẫn có nhiều kiểu vui tươi/hài hước được các nghệ-sĩ hài như bạn đây mang đến cho mọi người. Cuối cùng thì, ai cũng có cảm giác rất buồn khi thấy ít khi nào bạn mang lại niềm vui cho chính mình, hết.

Có lần bọn trẻ nhà tôi say mê xem phim truyện Peter Pan, nhưng cứ quên bẵng nhiều chuyện rồi buột miệng nói chữ “Hook” nổi tiếng do bạn đặt ra. Bạn cũng còn biến-đổi bản-tính ác độc, bẩn thỉu của con người thành chuyện cười để cho vui một cách rất thành công. Giả như ta có thể cười thầm trong bụng khi gặp tay côn-đồ nào đó rất hung-ác, thì thế giới này sẽ thôi không trở thành chốn sống đầy đe-doạ nữa. Và theo tôi, giới trẻ ngày nay vẫn cần đến thứ quà tặng trời cho mà bạn vẫn trao tặng mọi người.

Tôi rất thích xem các phim do bạn đóng vai chính mang tên là “Mrs Doubtfire”, từ năm 1993 cứ chiếu đi chiếu lại suốt trên truyền hình, ở đây. Phim này diễn tả tâm-trạng của một người cha thương-yêu con mình đến buồn cười. Và, khi nhân vật chính trong phim là Daniel quyết ly-dị vợ để xem sự-thể trong nhà mình sẽ ra sao, anh bạn bèn trá-hình làm chị giúp trong nhà, để mỗi ngày còn được nhìn lũ con trong căn nhà mình từng sống. Ý của anh bạn, là cố tránh không cho người nào trong nhà biết chuyện mình giả-dạng làm chị giúp việc, để làm trò cười mua vui cho thiên hạ, mà thôi. Nhưng, bên cạnh đó, lại có yếu-tố rất cảm-động. Và, đó cũng là chủ-đích đóng giả vai người nào đó, cốt đánh bật tâm-tính tốt đẹp của người cha trong nhà tên Daniel, trong truyện. Truyện phim, đã gửi đi khắp thế-giới một thông-điệp mang ý-nghĩa thật rõ nét. Thông-điệp đó có nói: đôi lúc sống ở đời, người người cũng nên thay-đổi tận gốc rễ, nếu quả tình mình muốn duy-trì những gì cần thấy rõ nguyên hình, ngọn ngành như thế. Và, Daniel có lần nói: chìa khoá giúp cho hôn-nhân gia-đình được vui tươi, tốt-đẹp, chính là nụ cười…

Robin thân mến,

Tôi đây vẫn muốn sẻ san với bạn một yếu-tố từng cho thấy rõ rằng: niềm tin nơi Thiên Chúa cũng từng làm nhiều điều cho riêng tôi, giống như thế. Niềm tin vào Chúa, đã giúp tôi thấy được một thế-giới theo đường-lối ít rõ ràng như thể nó vẫn đem tôi ra khỏi con đường mòn trở thành ngõ hẻm rất chật hẹp do tầm nhìn của mình về sự sống. Tôi vẫn thường tin tưởng rằng: cuộc sống của mọi người là câu chuyện hài-hước rất buổn cười do Thiên Chúa kể để gia-đình nhân-loại được vui, mà thôi. Điều này đâu có nghĩa là ta phải đối xử với nhau sao cho nhẹ nhàng, êm ái. Ngược lại, cũng như bạn từng cố gắng diễn-hài theo mức độ tuyệt-hảo nhất, cuộc sống của ta luôn phải là chuổi ngày ta sống quyết giúp mọi người tìm được sự khôn ngoan hiểu đời, cho thấu. Mỗi thế thôi.

Chào bạn,

Michael McGirr

Viết tứ Úc.

Cũng thế, trong khi “nhoài người” trên bàn phím ví-tính để kiếm tìm giòng tư-tưởng hay-ho và kỳ lạ có mang ý-nghĩa của niềm hy-vọng cần có trong đời mình, bần đạo đây bắt gặp đôi tâm-tình đầy cảm tính của Anthony Trần viết về một cảm-nghiệm còn rớt lại đến bây giờ khi xem phim “Doctor Zhivago” vào dạo đó.

Nói khác đi, thì: vào lúc trích dẫn bài ‘Đi Tây – du ký viết cho riêng mình”, Anthony Trần cũng nhớ đến tâm-tình tràn ngập khi lưu lại ở nhà khách Château Richeux vùng Cancale, nước Pháp năm 2010. Và dư-âm của bài hát “Hỡi Người Tình Lara” cất lên trong đêm nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 17/11/2014 vẫn còn đọng lắng nơi tâm-tưởng mãi đến hôm nay, như sau:

“Riêng tôi, lúc lên phòng nghỉ ngơi thì lòng lại không khỏi nhớ đến bộ nến thắp soi trên bàn ăn của nhà hàng.  Nằm trằn trọc giữa canh khuya trong căn phòng tịch mịch, soi lại những thước phim từ quá khứ chầm chậm quay về, tôi bồi hồi nhớ lại hình ảnh những cây đèn cầy trong phim Bác sĩ Zhivago tôi đã xem từ thuở hoa niên, hàng mấy chục năm về trước.

Trước khi bộ phim kết thúc, tôi không bao giờ quên được cảnh bác sĩ Zhivago thắp lên hàng bạch lạp trong gian phòng lạnh lẽo cho người tình Lara kiều diễm, để rồi hai người sẽ mãi mãi cách xa nhau từ đó.  Nhìn những ngọn nến vẫn cháy như nhau, nhưng tâm sự người thắp nến biến đổi theo từng ánh nến.  Lúc thì muốn ‘thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt’, lúc thì muốn ‘le lói suốt trăm năm’.

Sự dằn vặt lựa chọn giữa cái ‘phút chốc’ và cái ‘trăm năm’ ấy chính là tấn bi kịch của một cuộc tình, và của cả một đời người.  Lúc ấy, nhạc phim “Hỡi người tình Lara” đột nhiên trỗi lên ray rứt trên màn ảnh, chiếu cảnh tuyết rơi phủ đầy chiếc xe ngựa đưa người yêu Lara xa khuất dần giữa trời đông bão tuyết.  Hình ảnh cuối cùng còn lưu lại là những ngọn nến cháy trên bàn, tàn tạ với thời gian.

Bộ phim đã khiến tôi tìm đọc cuốn tiểu thuyết của nhà văn Boris Pasternak đã được Nguyễn Hữu Hiệu chuyển dịch ra tiếng Việt vào năm 1973 với nhan đề “Vĩnh biệt tình em”.  So sánh tiểu thuyết với bộ phim, tôi vẫn thích bộ phim hơn, chỉ vì dịch giả đã bỏ hẳn những đoạn miêu tả ngọn nến đẹp não nùng như trong phim.  Có lẽ nhờ vào tài diễn xuất của tài tử Omar Sharif trong vai bác sĩ Zhivago, Julie Christie trong vai nàng Lara, và nhất là nhạc nền của Maurice Jarra.  Xem đi xem lại nhiều lần, tôi cố đoán xem ngọn nến cháy ấy tượng trưng cho điều gì.  Tình yêu vĩnh cửu?  Niềm hy vọng tràn trề?  Hay đấy chỉ là đôi mắt ráo hoảnh của Thượng Ðế?  Có phải Ngài thấy hết, biết hết nhưng Ngài vẫn im lặng, vô cảm như ngọn nến cháy trên bàn kia chăng?

Cuối cùng, tôi đã hiểu ra rằng tại sao vị bác sĩ đa tình và nàng Lara xinh đẹp kia, tuy chia tay nhau mà họ vẫn còn yêu nhau thắm thiết.  Ðó là nhờ họ đã biết thắp cho nhau những ngọn nến cháy mãi trong tim, để giúp nhau vượt qua những đêm đông của một đời người.  Với mỗi người chúng ta, dù cho cuộc sống có đầy chông gai khó khăn đi nữa, vẫn phải cố gắng phấn đấu vươn lên.  Vẫn phải sống vì chính bản thân mình, vì gia đình và vì xã hội loài người.  Hình ảnh ngọn nến bé nhỏ cháy trên bàn giữa cơn bão tuyết, chính là ngọn nến hy-vọng khích lệ cho chúng ta hãy sống cho có ích, dẫu kiếp đời còn lắm gian truân, thử thách.”

Phiếm Đạo hôm nay, lại có truyện kể để đọc cho vui và cũng để minh-hoạ cho những điều mình viết về hy-vọng cần có trong đời, bần đạo lại bắt gặp thêm một truyện kể lại để san sẻ với bạn đọc, cho hết ý.

Thật ra thì, phiếm-Đạo-giữa-đời không chỉ là tìm về với những lý-luận cứng ngắc về thần-học hay tu-đức, mà còn để phiếm lai rai hầu chuyện mọi người bằng truyện kể nhẹ như sau:

“Một nghệ sĩ xiếc tài danh đã tham gia một cuộc biểu diễn khó khăn nguy hiểm chưa từng thấy. Anh là nghệ sĩ thăng bằng chuyên đi trên dây.

Lần này, người ta căng ngang hai sườn núi đá một sợi giây thép. Phía dưới là vực thẳm. Lòng vực lởm chởm những đá tai mèo nhọn hoắt như cắm chông. Người biểu diễn phải đi từ sườn núi bên này sang sườn núi bên kia trên sợi dây thép.

Nghệ sĩ đã bước tới một đầu dây, ngước mắt nhìn sang phía đầu giây bên kia, chừng như ước lượng mục tiêu. Sau đó, anh giơ ngang hai cánh tay để lấy thăng bằng. Bàn chân đã đặt trên dây. Và rồi từng bước ngắn, từng bước ngắn một, anh đi trên dây, dần dần cách xa bờ núi.

– Tôi xin biểu diễn một lần nữa. Lần này tôi sẽ trói chặt hai tay lại và đi trên dây!

Nghệ sĩ tuyên bố cách thức đi trên dây với tòan thể khán giả. Thật lạ kỳ, chúng ta ai cũng hiểu rằng, đi trên dây cần phải dang hai tay để lấy thăng bằng, nhưng nghệ sĩ đã tuyên bố trói tay lại để không cần giữ thăng bằng bởi hai tay. Dây căng cao nhường kia. Vực thẳm với những mũi đá tai mèo nhọn hoắt đâm lên tua tủa. Trói tay lại, không cần lấy thăng bằng đi qua dây thì ai tin được! Nhưng vì nóng lòng muốn biết kết quả, cho nên khán giả đã đồng thanh gào lên:

-Hoan hô! Chúng tôi tin nghệ sĩ! Anh là người đại tài!

Chờ tiếng reo hò lắng xuống, nghệ sĩ dùng một sợi dây, nhờ người buộc chặt hai tay quặt ra sau lưng. Anh bước tới đầu dây, lặp lại những bước đi thận trọng như lần trước. Cuối cùng anh đã bước qua vực thẳm với hai tay trói chặt. Anh đã biểu diễn lần thứ hai thành công một cách không ai có thể ngờ được. Tiếng trầm trồ thán phục, tiếng vỗ tay cổ vũ lại vang lên.

Chợt tiếng loa lại vang lên và tiếng vỗ tay im bặt. Mọi người chú ý nghe nghệ sĩ nói:

-Tôi xin biểu diễn lần thứ ba. Lần này tôi cũng trói chặt hai tay, nhưng dùng vải đen bịt mắt và đi qua dây vượt sang sườn núi bên kia. Xin hỏi mọi người có tin tưởng rằng tôi sẽ làm được hay không?

Một rừng cánh tay giơ lên và tiếng trả lời:

-Chúng tôi tin anh! Chúng tôi tin anh! Anh là người đại tài. Nhất định anh sẽ làm được!
Sau những câu trả lời như hô khẩu hiệu của khán giả ở hai bên sườn núi là tiếng vỗ tay như pháo nổ.

Nghệ sĩ rút trong người một tấm khăn đen, nhờ người trói tay, bít mắt mình và dẫn tới đầu dây.

Cả không gian như lắng xuống. Không một tiếng động, không một tiếng nói. Mọi người như nín thở dõi theo từng bước chân nghệ sĩ đặt trên dây. Một bước, hai bước,… thận trọng và ổn định, cuối cùng anh cũng bước sang tới sườn núi bên kia. Anh đã thành công vượt trên mọi sự tưởng tượng của mọi người, không còn một lời nào đủ sức ngợi ca khả năng tài tình của người nghệ sĩ.

Cuộc biểu diễn có vẻ như còn chưa kết thúc. Người ta thấy nghệ sĩ chen lẫn vào đám đông, rồi trở ra với một chú bé con chừng năm tuổi đang chễm chệ trên vai. Chú bé xinh xắn bụ bẫm, một bàn tay xinh xắn ôm lấy trán nghệ sĩ, một tay giơ cao vẫy vẫy, miệng nở nụ cười tươi như hoa. Có vẻ như chú bé đã quen tiếp xúc với đám đông và muốn cùng mọi người chia sẻ những niềm vui. Tiếng hoan hô lại vang dậy. Rồi tiếng loa lại vang lên:

-Thưa quý vị! Đây là con trai yêu quý của tôi. Tôi sẽ kiệu con trai tôi trên vai để hai cha con cùng biểu diễn đi trên dây. Lần này tôi cũng trói chặt hai tay không cần giữ thăng bằng. Cũng dùng vải đen bịt mắt. Quý vị có tin rằng chúng tôi sẽ thành công hay không ?

-Tin tưởng! Tin tưởng!

Mọi người lại hô vang và cùng vỗ tay rầm rộ.

-Có tin tưởng thật không?

-Tin tưởng! Anh là một người đại tài! Nhất định anh sẽ thành công! – Mọi người đồng thanh trả lời.

-Xin hỏi lại một lần nữa. Mọi người có thật sự tin tưởng hay không?

-Thật sự tin tưởng! Chúng tôi tuyệt đối tin tưởng vào anh! Anh là một người đại tài.

Chúng tôi thực sự tin chắc anh sẽ thành công.

Tất cả mọi người đều đồng thanh trả lời và rồi tiếng vỗ tay lại vang lên hai bên sườn núi. Tiếng reo hò, cổ vũ, tiếng vỗ tay vang lên cùng với tiếng vọng của vách núi tưởng chừng không dứt, đến nỗi những đàn chim trong rừng cây trên hai dãy núi đều vụt bay lên, tán loạn như muốn trốn chạy.

Cuộc biểu diễn có một không hai trên đời còn chưa bắt đầu thì tiếng vỗ tay, tiếng reo hò cổ vũ lại nổi lên tưởng chừng như không dứt.

Tiếng loa lại vang lên làm cho mọi tiếng reo hò ngừng bặt:

-Tốt lắm! Mọi người đều đã thực sự tin tưởng tôi. Xin chân thành cám ơn.

Nghệ sĩ đặt chú bé xuống đất và nói tiếp:

-Bây giờ xin đổi một cháu bé khác, con của một ai đó trong các quý vị. Vậy ai bằng lòng cho tôi mượn một cháu bé, trai hay gái cũng được. Chúng tôi xin hứa nhất định sẽ thành công. Xin hỏi ai bằng lòng cho tôi mượn một cháu bé?

Lúc này cả núi rừng đều im bặt, chẳng thấy một ai dám hô lên lời tin tưởng nữa.” (Theo Triết Lý Cuộc Đời của Nguyễn Đình Cửu)

Thành ra, triết-lý đời người vẫn cứ lặp đi lặp lại niềm hy-vọng cần thiết để người người sống vui, sống khoẻ, sống thoải mái hầu tiến về phía trước, rất hăng say.

Cũng tựa như người nghệ sĩ hôm nào vẫn hát những ca-từ sau đây:

“Ta như sương cao mà người như hoa sâu.
Ta dối gian nhau, nên nát nụ hôn đầu.
Tình đi từng bước, đi từng bước trên đầu gió.
Gieo xuống lòng nhau, ôi từng hạt thương đau”.

(Phạm Duy – bđd)

Ca-từ đây, tuy mang chút “thương đau” của nghệ-sĩ nào đó từng cảm-nghiệm, nhưng cũng là giòng chảy dấy lên niềm hy-vọng gửi đến cho đời. Và cho người.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng từng thấm đậm

Hạt thương đau như thế

Nhưng vẫn thấy đời mình và đời người

đầy niềm vui hy vọng gửi đến với mọi người.

“Bên Em mỗi lúc trên đường cái”,

“Bên Em mỗi lúc trên đường cái”,

“Hóng mát cho lòng được thoả thuê.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 1: 12-15

Mai Tá lược dịch

“Sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.

Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

Vào chốn hoang vu/sa mạc, làm gì có chuyện “hóng mát, cho lòng được thoả thuê”! Thế nhưng, đi vào tuần đầu Mùa Chay, lại sẽ thấy thi-ca cũng như Phụng-vụ Đạo CHúa, vẫn cứ nhủ: “Bên Em, mỗi lúc trên đường cái”, còn có những cảnh tình, tựa như: “Anh thường gửi gắm mối tình quê.”

Tình quê ở nhà Đạo hôm nay, lại sẽ thấy ở nơi nơi, người người như đi vào chốn hoang vu/sa mạc này nọ, người người vẫn có sứ vụ rất khẩn cấp để có thể sống đời an vui, trầm lắng, chốn nợ đời.

Trình thuật Tin Mừng Marcô, ta nghe kể là Yêsu Đức Chúa đã trầm mình trong chốn hoang vu xa vắng, những bốn mươi ngày. Cả vào năm cuối cuộc đời trần thế, khi chấp nhận xả thân chịu chết cho nhân lọai, Ngài đã bước ra khỏi chốn thị thành, để vào nơi gian khổ ở đó có cái chết trơ trọi đang đợi Ngài trên khổ giá, nơi đồi cao, chốn vắng, một Gôngôtha sừng sững, rất khô cằn đến tận cùng mặt đất. Và, ở cả hai nơi, Yêsu Đức Chúa đều bị thách thức, gạ gẫm nhưng đã trỗi dậy: dậy lên trong yêu thương; vùng lên với chiến thắng.

Với Tin Mừng thánh Mar-cô, ta không thấy tác giả đề cập đến những gạ gẫm của Satan nơi hoang vu xa vắng một cách đậm nét. Nhưng, với thánh sử Lu-ca và Mat-thêu, hố sâu thiếu xót và cách biệt ấy đã được khỏa lấp, bù trừ. Và, thánh Mar-cô kể rằng: quần chúng nhiễu nhương dám hỗn xược khích bác, gạ gẫm Đức Chúa, dụ Ngài hãy rời bỏ thập giá trèo xuống, tự cứu lấy mình khỏi thứ “diệu đế” cuối cùng, đày đọa.

Nơi hoang địa đầu đời, Yêsu Đức Chúa được thần sứ phù trợ, đã ra khỏi tình huống suy sụp và Ngài đã trỗi dậy bằng câu tuyên sấm để đời rằng: “Nước Chúa đã gần kề”.  Tại đồi hoang vào phút cuối, Ngài đã được môn đệ, bạn hữu đỡ nâng để đi hết đọan đường gian khổ, hầu làm chứng cho Nước Trời mà Ngài hằng tuyên bố.

Rõ ràng, trong các trình thuật vừa kể, đồng hoang cỏ cháy và cơn gạ gẫm, khuyến dụ vẫn cứ đuổi đeo Yêsu Đức Chúa dọc suốt hành trình ở với trần gian. Đây là điểm son then chốt đã ủi an đoàn con thân thương vốn đã khổ đau, sầu thảm. Phần đông chúng ta có lẽ chẳng cần ra ngoài, tìm nơi hoang vu địa đạo để cảm nghiệm tình huống sầu khổ, đớn đau có những khích bác, khuyến dụ. Càng sống trong tình huống cụ thể, ta càng gặp nhiều cơn khích bác, gạ gẫm dẫn đưa ta đến nơi đổ vỡ, thất vọng.

Xét kỹ bản văn Kinh thánh, các truyện thần thoại, cũng như văn chương, nghệ thuật, phim ảnh trình chiếu, có hai yếu tố đã xuất hiện, thật rõ nét. Trước nhất, ai cũng thấy rằng: sa mạc hoang vắng có thể là nơi khuyến dụ điêu tàn, nhưng tiêu vong đã khiến nhiều đại anh hùng khi xưa cất bước lãng du mà không thấy có ngày trở về.

Thứ đến, theo truyền thống thiết thực, hành trình vào chốn vẫy gọi của nơi quạnh hiu, sa vắng đầy cát nóng với những gian truân nhưng cũng đã tạo nhiều thoả thuê, thoải mái vì ở nơi đó ta vẫn đón nhận nhiều mặc khải cũng như cải biến hoặc vui sướng, giải khuây. Cả hai yếu tố trên không nhất thiết đối chọi, xung khắc tiêu diệt lẫn nhau; nhưng đã bổ túc nhau một cách hài hòa.

Lấy trường hợp của Đức Chúa làm mẫu mực, ta thấy không nhất thiết phải buông xuôi, bỏ cuộc trước một gạ gẫm cho rằng chốn hoang vu sa mạc chỉ gồm những mất mát khổ đau, mà thôi. Mặc dầu là thế, ta vẫn cần tìm ra con đường thân thương đầy thuyết phục hầu có thể trỗi dậy, cất cao đầu lên mà thưởng ngọan những kinh nghiệm quý báu, tích tụ.

Điều quan trọng, là: ở nơi sa mạc rất riêng của mỗi người, không phải mọi gạ gẫm, khuyến dụ đều mang sắc mầu tội lỗi. Khi bị gạ gẫm, khuyến dụ không có nghĩa là ta đang thực hiện điều xấu do người nào xúi giục, bảo ban. Gạ gẫm là những quyến rũ, được tô vẽ cho thêm mầu rực sáng nhằm thúc đẩy người bị dẫn dụ có những quyết định nghiêng hẳn về mặt xấu.

Trên thực tế, rất nhiều điểm đã phát giác ra trong đời sống tu đức của các thánh, là: các ngài càng gần gũi với Đức Chúa của tình yêu bao nhiêu, thì những gạ gẫm, khuyến dụ đủ mọi lọai hình càng gia tăng bấy nhiêu. Tuy nhiên, có điều may là chúng ta vẫn được giáo huấn để biết cách đối phó với những tình huống gay go.

Cứ sự thường, gạ gẫm khuyến dụ thường có bối cảnh và huyền sử riêng. Các tình huống như thế chỉ xảy đến khi ta có cảm giác xa vắng, lạnh lẽo, dễ tổn thương. Và, các tình huống cám dỗ thường đánh mạnh vào yếu điểm của con người rất hay để lộ sơ hở trong cá tính rất thực của mình.

Muốn chống lại những tình huống như thế, cần đề cao cảnh giác về các mô hình kiểu mẫu của chúng, tức gạ gẫm, khuyến dụ thường dối gạt, đưa ta vào chốn mê hồn trận để ta tin tưởng rằng hành vi, thói tật mà ta say mê cũng “không đến nỗi quá tệ, chẳng tội lỗi gì đâu”, “chỉ một lần, thôi mà..”, hoặc “cũng chỉ là lần cuối, một lần cuối cùng, rồi thôi”…

Mặt khác, gạ gẫm, dẫn dụ còn có khả năng nhận ra các hiểm nguy hiện có trong đời mình hầu đánh vào điểm yếu của mỗi người, khiến ta trở tay không kịp. Mệt mỏi, chán chường, giận dữ, rượu chè, ma túy, mất cảnh giác, thiếu khả năng đối thọai cảm thông và niềm tự tin quá thấp, vv.. đều là thực tế phũ phàng đưa ta đến tình trạng dễ phơi bày bộc lộ, hay bị tổn thương hơn lúc bình thường.

Mùa chay năm nay, khi quyết tâm theo Chúa đi vào chốn hoang vu, xa vắng đầy ý nghĩa này, ta hãy làm những gì khả dĩ giúp mình trỗi dậy từ những tự ti, yếu mềm, thiếu trông cậy, thiếu tin tưởng… ngõ hầu ta có thể đối phó với cơn giận dữ, chán mệt. Hãy tự kiểm điểm xem, trong thời gian qua, ta có làm việc quá hăng say chẳng kể sống chết, hoặc có ăn uống quá độ chẳng hề cữ kiêng, tạo công ích. Hãy hạ quyết tâm sẽ bớt đi cho nhau những tình huống gây trầm tư, khổ não, hoặc cãi vã, đấu tranh, giành giựt.

Ngược lại, cương quyết thực hiện phương cách tốt đẹp nhất để đảm bảo rằng chúng ta sẽ trỗi dậy, rời khỏi chốn hoang vu, xa vắng hầu biến cải cuộc đời, cho tốt đẹp hơn. Ta sẽ không trầm mình trong chốn khổ đau, không tạo ra hoang địa, phân rẽ gửi đến cho nhau nữa.

Vào nơi hoang vu, xa vắng không phải để lòng mình được chay kiêng, tâm được tịnh mà thôi; nhưng, còn để ta trỗi dậy hòa nhập với cộng đồng người thân cũng một tâm trạng. Cộng đoàn đang ngóng chờ ta quay lại từng giây từng phút. Và, đấy chính là ý nghĩa của mùa sám hối, phục thiện. Hối cải những gì đã sơ xuất. Hồi phục những gì rất thiện. Thiện đây là tình thân thương không chỉ với Chúa, với Mẹ mà cả với người anh em cùng nhà, xa ngõ.

Cầu Chúa cho ta thực hiện cuộc sống trỗi dậy và dâng trào. Mong an bình sẽ lại đến với ta, với muôn người. Và, mọi người.

Trong nguyện cầu Chúa giúp ta thực hiện cuộc sống như thế, ta hãy cùng nhau ngâm lại lời thơ, rằng:

“Từ gió xuân đi, gió hạ về,

Anh thường gửi gắm mối tình quê.

Bên Em mỗi lúc trên đường cái”,

Hóng mát cho lòng được thoả thuê.”

(Hàn Mặc Tử – Âm Thầm)

Vâng. Quả cò thế. Trong đời người, mỗi lần có gío xu6an đi, gió hạ về, thiết tưởng cũng cứ nên gửi gắm “mối tình quê” đến với mọi người, ở mọi nơi, dù nơi đó có là chốn hoang vu, sa mạc rất cuộc đời, ở mọi thời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Ngày tình yêu thánh

Ngày tình yêu thánh

Chuacuuthe.com

VRNs (14.02.2015) – Sài Gòn – Ngày 14 tháng Hai hằng năm là Valentine’s Day – Ngày Tình Yêu hoặc Ngày Tình Nhân. Ngày này dành cho những người hẹn hò yêu đương với nhau. Nhưng ngày này nhắc nhở bạn về tình yêu tâm linh, tình yêu bạn dành cho Chúa Giêsu. Như vậy, Valentine’s Day phải là Ngày Tình Yêu Thánh đối với các Kitô hữu chúng ta.

150214001

Thánh nữ “bông hoa nhỏ” Têrêsa đã gọi Chúa Giêsu là Đức Tình Quân. Mỗi chúng ta đều có cuộc “hôn nhân mầu nhiệm” với Chúa Giêsu. Tại sao chúng ta phải yêu mến Ngài? Đây là 10 lý do xác định Chúa Giêsu là người yêu của bạn:

  1. NGÀI TRỢ GIÚP BẠN

“Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14:16-18). Chúa Giêsu không bỏ mặc bạn một mình, Ngài giúp đỡ bạn qua Chúa Thánh Thần, Đấng giữ bạn đi trên đường ngay nẻo chính.

  1. NGÀI BAN SỨC MẠNH

“Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4:13). Thánh Phaolô biết rằng ngài có sức mạnh nhờ Chúa Giêsu hoàn tất công việc của thánh nhân. Ơn Chúa đủ cho chúng ta, chỉ cần chúng ta mở lòng ra đón nhận!

  1. NGÀI THEO ĐUỔI BẠN

“Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Chúa Giêsu theo đuổi chúng ta mọi nơi, muốn chúng ta là con cái Thiên Chúa và được trường sinh trong Vương Quốc của Thiên Chúa.

  1. NGÀI CHIẾN THẮNG TỬ THẦN CHO BẠN

“Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2 Tm 1:10). Chúa Giêsu chết trên Thập Giá để ban sự sống dồi dào cho bạn. Ngài ghét tội lỗi, bệnh tật và bất công, ghét đến nỗi làm cho ách của chúng ta trở nên thoải mái và gánh nặng của chúng ta trở nên nhẹ nhàng.

  1. NGÀI CẦU NGUYỆN CHO BẠN

“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:20-21). Bạn là phần lớn trong đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài luôn luôn là Đấng trung gian biện hộ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha.

  1. NGÀI CỨU ĐỘ BẠN

“Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2:8-9). Chúa Giêsu cứu bạn thoát khỏi thung lũng tử thần và sự hủy diệt. Ngài đưa bạn vào Vương Quốc của Thiên Chúa bằng lòng thương xót của Ngài.

  1. NGÀI TUYỂN CHỌN BẠN

“Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2:9). Chúng ta được tuyển chọn để làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa Giêsu giáo dưỡng chúng ta suốt hành trình tâm linh và đưa chúng ta càng ngày càng lên cao.

  1. NGÀI BÊNH VỰC BẠN

“Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính?34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8:33-34). Chúa Giêsu là Đấng bảo vệ và biện hộ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha.

  1. NGÀI CHUẨN BỊ CHỖ Ở CHO BẠN

“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Ga 14:2). Chúa Giêsu không để chúng ta mồ côi, Ngài về trời chuẩn bị chỗ ở cho chúng ta, rồi Ngài sẽ trở lại để đón chúng ta về với Chúa Cha.

10. NGÀI YÊU THƯƠNG BẠN

“Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8). Đời đời Chúa Giêsu yêu thương bạn vô hạn, không chỉ trong ngày Valentine, mà Ngài làm cho bạn vui sống suốt 365 ngày.

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo Beliefnet.com)

HAPPY VALENTINE’S DAY

 

 

 

 

 

 

httpv://www.youtube.com/watch?v=Jqg1u4A29tw&index=8&list=PLfe9JTtbGcgVZvT3zQDDW0fWaNHXsGSZl

Hay Noi Voi Nhau -Valentine-DuyHan

httpv://www.youtube.com/watch?v=PS716dHotZs&index=10

Love Story -Minh Ngoc Piano -HAPPY VALENTINE-Loi Ngot Ngao Yeu Thuong-DuyHan

Đức Mẹ Tuyết

Đức Mẹ Tuyết

Kính chuyển đến  một tấm hình có ý nghĩa được chụp Department of Cancer tại bệnh viện Lòng Thương Xót (Hoa Kỳ).

Tuyết rơi bao phủ tượng Đức Mẹ.

Khi tuyết tan thì còn đọng lại nơi đầu, vòng cổ và tay của Đức Mẹ.

Nhìn giống như là Đức Mẹ đang “cõng” một bệnh nhân.

Mẹ là Nắng Ấm:

httpv://www.youtube.com/watch?v=I0btUPJoAhk

P.Trung

Although the snow is beginning to melt, we wanted to share this photo sent last week by our friend Dennis Shea of Council Bluffs. The photo is of the Blessed Virgin Mary statue at Mercy Hospital in Council Bluffs. With the snow covering the statue, it almost appears that Mary is carrying a young person on her back. Interestingly, the statue rests outside the hospital’s Cancer Treatment Center. God bless you all today!

Sứ mạng của người Việt tử tế

Sứ mạng của người Việt tử tế

Chuacuuthe.com

VRNs (13.02.2015) – California, USA – Thế nào là Người Việt Tử Tế?

Tử Tế có vài nghĩa chính: [a] có những gì phải có để được coi trọng; [b] hành động tinh-mật, rành rõi, cẩn mẫn, kỹ càng [Đào Duy Anh, Hán-Việt Từ-Điển]; [c] có lòng tốt trong cách đối xử đứng đắn, nhân đạo với nhau.

Vậy, ngay hai chữ “tử tế” tự nó có thể quy tụ những thành tố kết lực để định nghĩa Người Việt Tử Tế [NVTT]:

* Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;

* Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;

* Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một cách mạch lạch, chân chính;

* Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm tốn, quân bình, không thái quá.

150212001

Chúng ta cần khẳng định ngay, Người Việt Tử Tế không thể là người cộng sản, vì căn bản của người cộng sản đi ngược lại với tất cả các kết tố của NVTT. Hơn nữa cũng không thể chờ mong người cộng sản “biến hoá” thành NVTT, ngoại trừ trường hợp họ thực sự, thực tâm thoái đảng và bỏ hẳn lối sống và tư duy cộng sản.

Nhưng đồng thời, không phải bất cứ ai cứ “chống cộng” đương nhiên là NVTT. Giả thử người chống CSVN lại [a] ngoi theo chủ nghĩa phát-xít, độc tài quân phiệt hay [b] hùa theo đường lối khủng bố của bá đạo Cực-Hồi [ISIS/Islamic State of Iraq and Syria], hay [c] vẫn quen mui áp dụng thủ đoạn tố khổ, chụp mũ, vu khống của CSVN, thì rõ rệt, chống cộng như thế cũng chả hơn gì, vì vẫn đắm đuối trong vòng luẩn quẩn của tội ác triệt hạ đời sống và phẩm giá con người.

Trước đây, người Việt Quốc Gia đã có công mở đường tới ý niệm dân chủ tự do, trọng pháp, trọng nhân. Nhưng trong một giai đoạn quá ngắn và nhiều trở ngại binh đao bất ổn, người Quốc Gia qua hai nền Cộng Hoà đã không kịp vẹn toàn sứ mạng giao phó. Danh hiệu và chức năng “Quốc Gia” chỉ là hình ảnh ngón tay chỉ dẫn tới “Dân Chủ Tự Do Chân Chính Nhân Bản”, nếu ngón tay đó thực sự là một “mẫu mực” thẳng thắn, nghiêm chỉnh, nhân từ, chính đáng, đích thực dẫn đường tới “con người tử tế, chân chính”.

Nên ngón tay chưa phải là cái “đích tìm kiếm” hay ngưng lại tại đó. Chất Người Tử Tế Chân Chính của ý niệm “Quốc Gia/không Cộng Sản” mới là cứu cánh của cuộc hành trình tìm lẽ sống, lẽ phải.

Vậy, người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn Cộng Sản tại thế giới tư do tân tiến đã thực hiện được những gì, sau 40 năm sinh sống thoải mái với đầy đủ phương tiện an cư lập nghiệp, an sinh xã hội, với đầy đủ thời gian [gấp 2 lần nền Cộng Hoà 1 và 2] để hội nhập nền dân chủ chân chính trọng pháp, trọng nhân?

Người viết vẫn tin rằng, sau 40 năm hấp thụ nền nếp dân chủ tự do nhân bản nơi tá túc; sau 40 năm học hỏi kiến thức cởi mở, đa nguyên, đa dạng; sau 40 năm kinh nghiệm làm người Việt tự do, tử tế, tự tin, biết rõ quyền hành và trách nhiệm của mình, đa số công dân Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới đều cởi mở, thông minh và can trường hơn so với quá khứ đen tối trước đây.

Nhưng trong giai đoạn “chuyển tiếp” khá dài này, vẫn còn sót một thiểu số người Quốc Gia cực đoan, độc diễn với những thành tích không mấy rõ rệt, dẫm chân tại chỗ, tự mãn, không cần mở mang trí tuệ, bổ túc nhân cách; cùng không cần trau dồi kiến thức về mặt pháp lý và công lý nhân quyền, nên dễ trở thành độc đoán, độc tài, vô hình chung đã đi ngược lại với sứ mạng và đường lối Dân Chủ Tự Do Nhân Bản Chân Chính mà Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản thực sự muốn tìm kiếm và hoàn tất.

Người Việt Tử Tế Là Mẫu Số Chung

Trong 40 năm qua trên mặt công luân, qua báo sách, truyền thông trên mạng, người Việt chúng ta đã bỏ quá nhiều công sức “Chống Cộng”. Đó là điều cần để bác bỏ, khai trừ một căn bệnh văn hoá ý thức hệ điên cuồng, ác liệt, phá hoại nhân phẩm và đời sống con người hơn 80 năm qua tại Việt Nam. Nhưng nỗ lực kêu đau, gào thét, mắng chủi này chưa đủ, vì khiếm khuyết đường lối “Vượt Cộng”, “Chữa Cộng”.

Nếu chỉ chuẩn bệnh và hô hào thật to đó là bệnh “Cộng Sản” mà không tìm cách giúp con bệnh “thoát bệnh”, giúp đương sự khoẻ mạnh lại thì vô hình chung người “chống cộng xuông” chưa phải là một “lương y” hoàn tất trách nhiệm cứu người bị CSVN ám hại. Một lương y, một y sĩ giỏi phải cấp tốc cho đơn thuốc điều trị bệnh và chỉ dẫn những biện pháp cần thiết triệt bệnh và ngăn bệnh.

Nếu chúng ta muốn xóa đói giảm nghèo ngay trong gia đình chúng ta, thì:

* Hãy bớt thì giờ kêu gào, than thân trách phận hẩm hiu, đói nghèo;

* mà lập tức học hỏi; tìm hiểu thế nào là sung túc, là an khang, thịnh vượng; là hãnh diện gia đình, là hạnh phúc con người biết sống ra sống, biết ăn, biết mặc;

* và từ đó tìm cách giải đáp nhu cầu, chu toàn cấp bách giải pháp sinh sống căn bản/tạo nghiệp/đầu tư nhân sự/phát triển toàn diện /trao đổi/tích lũy cho tương lai v.v.

Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại hải ngoại, những vị cựu tù nhân chính trị/tù nhân lương tâm, những thành phần tranh đấu, bất đồng chính kiến trong nước đều có thể đảm nhận nghiệp vụ “lương y”, [a] một mặt xác định rõ thế nào là căn bệnh “cộng sản”, nhưng lập tức [b] phải điều nghiên, thử thách, phổ biến thuốc men và phương pháp trị bệnh, ngừa “bệnh cộng sản”.

Người Việt Tử Tế tại Hải ngoại và trong nước là hiện sinh của giới “lương y” chữa bệnh cộng sản, khi đối xử với mình và tha nhân, khi quản trị việc công cũng như tư nghiệp với những nhận định và tiêu chuẩn như sau:

* Tự trọng, Tự Quyết, Tự Chủ về tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế;

* Ưu đãi Dân Chủ Tự Do Chân Chính;

* Trọng Pháp, Trọng Nhân, Trọng Sinh một cách mạch lạch, chân chính;

* Êm thuận, hài hoà, sáng suốt, khiêm tốn, quân bình, không thái quá.

Chỉ những Công Dân Người Việt Tử Tế, những đồng bào, đồng hương “Chúng Ta” khi nghiêm nghị, cẩn mẫn, biết rõ quyền thế và trách nhiệm của mình; biết rõ gốc gác & sứ mạng nhân từ của chính mình; biết rõ cách sinh sống thuận hoà, khiêm tốn, quân bình mới thực sử đảm nhận cuộc sống đầy đủ ý nghĩa ngày hôm nay; đóng góp phúc lợi cho tương lai dân tộc, cho con cháu chúng ta.

Chúng ta hãy đặt trọng tâm vào giai đoạn Làm Người Tốt. Đó là một thứ Đạo-Việt “tân-ước” hay cập nhật thành một Cách-Sống nhân bản tự tin, nhân chủ và dân chủ; thành trạm tới của Người Việt Tử Tế, cái bến tạm dung, nhưng toàn mỹ, toàn bích, an lành, khả chấp và khả thi.

Đó sẽ là Không Gian Tử Tế, mở và bao dung, không quá khích, không miệt thị, không kỳ thị. Tất cả Người Việt chúng ta không cần làm thánh, làm siêu nhân; nhất là không cần làm “hung thần”, hung tướng, mà chỉ cần hoàn tất đúng và đủ vị thế của những con người tử tế, chân chính, mạch lạc; từ bi và hùng dũng. Thế đã là đủ.

Vậy chúng ta hãy níu kèo lại chúng ta theo hướng đi đó, từng bước ngắn, gọn, rõ rệt, chân thật, công minh. Không dối lòng. Không dối mình. Không dối người. Không dối đời.

Và trước tiên không thể tự bôi nhọ minh, bôi nhọ tha nhân, bôi nhọ cuộc đời còn lại hay sắp tới.

Chúng ta đều trách nhiệm như nhau, hay ít ra sẽ phải “đối mặt” với ngần ấy hậu quả, ngần ấy vận mệnh, ngay trong cuộc sống tập thể hay quan niệm sống từng người, dù chúng ta nhập cuộc hay không nhập cuộc cũng vậy. Điển hình, chúng ta đã một lần mất nước. Biết thế nào là mất tất cả, dù muốn, dù không.

Nhưng xin đừng mất nốt dân tộc chúng ta.

Vậy, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống! Ít ra khi nhắm mắt sẽ không tiếc nuối đã bỏ lỡ cơ hội làm Người Việt Tử Tế.

Trân Trọng.

Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM

(Trích bài Từ Quốc Hận 30 Tháng Tư Tới Sứ Mạng Chân Chính Của Người Việt Tử Tế)

TU TẠI GIA

TU TẠI GIA

Chuyện phiếm của Gã Siêu

Cách đây không lâu, gã có đọc được một câu chuyện đại khái như thế này:

Có ba người cùng tôn giáo, gồm một nhà truyền giáo, một anh tài xế lái xe đò và một bác nông dân có vợ và mười đứa con. Ba người đều thâm niên bốn mươi năm chức nghiệp, đã qua đời cùng một giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện Chúa để xin vào thiên đàng. Ba người cùng tới một lúc, nên Thánh Phêrô mới nói:

– Các anh hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước?

Nhà Truyền Giáo nói:

– Hai anh dành cho tôi vào trước được không?

Anh tài xế và bác nông dân đều kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có nhiều công lao, nên đồng thanh cất tiếng cùng một lúc:

– Chúng tôi xin nhường ngài vào trước.

Nhà truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh Phêrô và chững chạc tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ trước Thiên Nhan và tâu:

– Muôn lạy Chúa, con là nhà truyền giáo đã làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt bốn mươi năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con được vào Thiên đàng trước.

Chúa ngắm nhìn nhà truyền giáo với tấm lòng yêu thương dạt vào và rồi xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:

– Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha

Con giảng giáo dân ngủ gật gà

Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng

Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ Ta.

Nhà truyền giáo lủi thủi lui ra. Anh tài xế nói với bác nông dân:

– Bác nhường cho tui vào trước nhé vì tui thường chở bác đi đây đi đó.

Bác nông dân gật đầu chấp nhận vào sau chót. Anh tài nhanh nhảu cúi đầu chào thánh Phêrô và tiến vào cửa Thiên đàng, quỳ xuống, rồi ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Chúa và tâu:

– Muôn tâu lạy Chúa! Con làm tài xế xe đò, suốt bốn mươi năm con phục vụ đồng bào, chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với mọi người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên đàng sớm.

Chúa nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười:

– Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa kiện con vì bị thương dập mũi, trầy trán gì đó mà Cha chưa kịp xem hết.

Cũng xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:

– Xe đò chuyên chở khách đi xa

Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà

Đáng thưởng Thiên đàng nhờ lái giỏi!

Mỗi lần con thắng, chúng kêu Ta!

Anh tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ. Đến lượt bác nông dân, bác rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao gì, thì làm sao vào nổi Thiên đàng, nên rất hồi hộp lo âu! Anh trịnh trọng cúi đầu chào thánh Phêrô và nhỏ nhẹ thưa:

– Bẩm ngài, con được phép vào chưa?

Thánh Phêrô gật đầu và  nói:

– Con hãy vào trình diện Chúa đi.

Bác nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa Thiên đàng cả trăm mét, bác đã quỳ xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu và khúm núm tâu:

– Bẩm lạy Cha nhân từ! Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và mười đứa con, ban tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà thân yêu của Cha là con sung sướng lắm rồi. Cha muốn con làm bất cứ việc gì, con cũng xin vâng theo!

Chúa nhìn bác nông dân một cách trìu mến và Ngài phán:

– Con quả thực có công lớn.

Rồi Ngài đọc mấy vần thơ chợt nghĩ ra:

– Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay

Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thầy!

Suốt bốn mươi năm con chịu nổi

Thiên đàng, Cha thưởng bước vô ngay.

Từ hình ảnh bác nông dân âm thầm chu toàn những bổn phận của mình, gã bỗng nhớ tới mấy câu ca dao về đường tu, thì cũng có dăm bảy đường:

– Thứ nhất thì tu tại gia,

Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu…dòng.

Là con nhà có đạo, chúng ta thường hiểu chữ tu là dấn thân theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và người khác. Lý tưởng ấy được thực hiện bằng hai cách, đó là tu triều và tu dòng. Tu triều là dâng mình cho Chúa với mục đích làm công việc mục vụ, không bị ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo và đời sống chung, nhưng đoan hứa giữ sự độc thân và vâng phục Giám mục như bề trên trực tiếp của mình. Còn tu dòng là dâng mình cho Chúa, bằng cách theo đuổi sự hoàn thiện của Tin Mừng: khó nghèo, trong sạch và vâng phục, với đời sống chung của cộng đoàn, được biểu lộ qua việc tuyên khấn công khai vĩnh viễn hay tạm thời theo qui luật riêng của từng dòng.

Tuy nhiên, nếu hiểu chữ tu theo nghĩa rộng là sửa sang lại cho hoàn thiện, nhất là bằng cách uốn nắn những sai lỗi, để trở thành một con người tốt lành và thánh thiện hơn, thì đó phải là bổn phận đầu tiên của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đồng thời gia đình chính là môi trường thuận tiện để chúng ta thực hiện lý tưởng đời tu của mình.

Vì thế, ngoài tu triều và tu dòng, chúng ta còn có một cách tu khác nữa, đó là tu nhà hay tu tại gia, nghĩa là cứ ở tại nhà, cứ sống trong gia đình của mình mà tu bằng cách sửa đổi những khuyết điểm và chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình: Là con cái thì phải thảo kính và vâng lời cha mẹ; là vợ chồng thì phải yêu thương và trung thành với nhau; là anh chị em thì phải hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Các cụ ta ngày xưa đã từng nói: Phải tu thân trước đã, rồi sau mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Việc tu thân này tiên vàn phải được thực hiện ngay tại gia đình của mình, bởi vì nhiều khi chính những sai lỗi của chúng ta đã làm cho những người thân yêu buồn phiền, cuộc sống trở nên ngột ngạt và tình yêu đi dần tới chỗ rạn vỡ. Muốn được thương thì chúng ta cần phải trở nên một người thương được.

Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta giống như người mang hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì đựng những sai lỗi của mình. Bởi đó, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Đang khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực, để bào chữa. Chúng ta thường rộng rãi với bản thân mà nghiêm khắc với người khác. Đáng lý ra chúng ta phải rộng rãi với người khác mà nghiêm khắc với chính bản thân mình.

Ngoài ra, gia đình còn là một xã hội thu nhỏ, trong đó chúng ta có được những mối liên hệ với nhau. Vì thế, việc tu nhà hay tu tại gia đòi buộc chúng ta phải chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình, để làm cho gia đình thực sự trở thành một mái ấm ngập tràn hạnh phúc.

Trước hết, là vợ chồng chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận, trung thành và giúp đở lẫn nhau.

Hiện nay, nền tảng gia đình đang bị lung lay tận gốc rễ và hôn nhân đang rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Số những đôi vợ chồng lôi nhau ra toà để ly dị mỗi ngày một gia tăng. Vậy phải làm thế nào để cứu vãn tình trạng đen tối này?

Theo gã nghĩ: Cái qui luật muôn đời của tình yêu, chính là sự hy sinh. Thực vậy, thánh nữ Têrêsa đã bảo:  Tình yêu chân thật phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Hãy cho tình yêu vào máy mà cán, nếu nó tiết ra chất hy sinh, thì đó là tình yêu thứ thiệc, bằng không thì đó chỉ là một tình yêu dỏm mà thôi. Và tình yêu thứ thiệc này thì đáng giá bằng cả cuộc đời.

Nếu suy nghĩ, chúng ta thấy tình yêu và sự hy sinh luôn gắn bó mật thiết với nhau. Hy sinh mà không có tình yêu thì đó chỉ là những sự thừa thãi. Còn tình yêu mà vắng bóng hy sinh, thì đó chỉ là những lạm dụng và giả dối, như Tagore đã nói: Tại sao hoa kia lại tàn và suối kia lại cạn. Xin thưa, chỉ vì người ta đã hái hoa mà ép vào ngực, chỉ vì người ta đã đắp đập chặn suối. Nếu không biết vượt qua tính ích kỷ thì tình yêu cũng sẽ khô cạn và tàn héo như vậy.

Hy sinh càng lớn sẽ làm cho tình yêu càng thêm nồng thắm. Và với một tình yêu nồng thắm người lại càng dễ chấp nhận những hy sinh to lớn hơn cho nhau và vì nhau. Đỉnh cao của hy sinh cũng như của tình yêu đó là dám chết cho người mình yêu. Thế nhưng, chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau cũng không phải là việc dễ dàng.

Chuyện rằng: Một người đàn ông nọ đi xưng tội. Cha giải tội ra việc đền tội bằng cách hôn kính Thánh Giá ba lần. Ông ta bèn chạy về nhà, ôm chầm lấy bà xã và hôn lấy hôn để những ba lần, bởi vì ông ta thầm nghĩ: Bà xã chính là cây Thập Giá Chúa đã gửi vào cuộc đời của ông ta.

Tiếp đến là cha mẹ, chúng ta có bổn phận phải sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái.

Sống trong thời buổi “gạo châu củi quế”, vật giá leo thang đến chóng cả mặt, nên chu toàn được bổn phận sinh sản và nuôi dưỡng con cái không phải là chuyện dễ. Thảo nào mà nạn ngừa thai tràn lan khắp nơi và Việt Nam ta đứng hàng đầu về nạn phá thai.

Cùng với những tiến bộ về những phương tiện truyền thông: Nào điện thoại di động, nào nối mạng internet…Nhiều bậc làm cha làm mẹ đã không theo kịp con cái, thành thử việc giáo dục đã gặp phải không ít những khó khăn.

Tuy nhiên, đối với phần lớn người Việt Nam, con cái vẫn còn là một điều tốt lành đáng được mong ước. Trong những dịp đầu xuân năm mới, chúng ta thường cầu chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí, có nghĩa là lắm con, nhiều cháu, lắm tiền, nhiều bạc. Sở dĩ như vậy vì con cái sẽ làm cho bầu khí gia đình được đầm ấm, được tươi vui như tục ngữ đã bảo: Con đàn như tre ấm bụi.

Mặc dù vốn biết rằng: Con cái đôi lúc đã trở thành một gánh nặng, thế nhưng cha mẹ vẫn có thể tìm thấy niềm hạnh phúc trong lành và đơn giản nơi con cái. Thiếu con cái là thiếu ánh sáng nơi con mắt. Nhiều tiền mà không con thì vẫn chưa hẳn là giàu. Trái lại đông con mà ít tiền, thì vẫn chưa hẳn là nghèo. Hơn nữa, nhiều khi con cái chính là chiếc gạch nối, chính là nhịp cầu cảm thông giữa hai vợ chồng. Đáng lý ra hai vợ chồng đã cãi cọ, đánh lộn hay lôi nhau ra tòa xin ly dị, nhưng vì con cái, họ không nỡ làm như vậy. Vì con cái, họ quên đi và tha thứ cho nhau. Vì con cái, họ tìm cách hòa giải cùng nhau. Vì con cái, họ sẵn sàng chập nhận mọi hy sinh gian khổ. Bởi vì nhà không có tiếng cười của trẻ thơ, thì vắng lặng, buồn tẻ như một ngôi mộ chết.

Ngoài ra, là con cái, chúng ta có bổn phận phải yêu mến, trọng kính, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ.

Làm sao kể ra cho hết những khổ đau, những vất vả, những hy sinh cha mẹ đã phải chịu vì chúng ta suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nuôi dạy chúng ta nên người. Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh người mẹ đã phải thức trắng nhiều đêm để canh giữ giấc ngủ cho đứa con, khi nó đau ốm. Chúng ta hãy nghĩ đến những giọt mồ hôi chảy xuống trên khuôn mặt người cha trong những giờ lao động cực nhọc ngoài đồng ruộng nóng cháy, trong hầm đá mệt mỏi, hay tại nhà máy ồn ào đinh tai nhức óc….tất cả những việc ấy để làm gì nếu không phải là để kiếm tiền về nuôi sống chúng ta và gia đình.

Bởi đó, chúng ta mắc nợ cha mẹ nhiều lắm, không phải chỉ mắc nợ về tiền bạc vật chất, mà còn mắc nợ về tình yêu thương. Một khi đã mắc nợ về tình yêu thương thì chỉ có thể đáp trả lai bằng tình yêu thương mà thôi. Ca dao đã nhiều lần khuyên nhủ:

– Dạy con, con chớ quên lời,

Yêu cha mến mẹ suốt đời không quen.

Cũng trong chiều hướng ấy, ca dao còn xác quyết:

– Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Thuở xưa, có một anh chàng nghe nói về Phật, thì thích lắm, bèn quyết tâm đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp lên đường. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, và gian nguy hiểm trở, chàng ta vẫn chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả: Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng.

Ngày kia, tại một sườn núi nọ, anh chàng tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm. Mừng quá, anh chàng khẩn khoản:

– Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không? Xin chỉ dùm cho con với.

Ông lão mĩm cười:

– Ồ! Chỗ nào mà không có Phật. Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư?

– Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

– Cháu ngốc thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư?

– Thế thì Phật chết rồi sao?

– Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không?

– Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát mong.

– Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé. Con hãy quay trở về và trên đường, nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái, thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy.

Chàng trai hối hả quay trở về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa, bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa. Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào:

– Ôi Đức Phật yêu quí của con.

Sau cùng, là anh chị em với nhau, chúng ta có bổn phận phải yêu thương, hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Người ta thường bảo: Chuyến đò nên nghĩa, miếng trầu nên duyên. Trong cuộc sống, có những người chúng ta mới chỉ gặp nhau một vài lần, trao đổi với nhau đôi ba câu chuyện, thế mà tình nghĩa đã mặn nồng, huống nữa là đối với anh chị em ruột thịt, là những người cùng sống với chúng ta dưới một mái nhà, cùng chia sẻ với chúng ta những nỗi vui buồn, cũng như cùng có chung một dĩ vãng. Vì thế, chúng ta càng phải yêu thương nhau hơn.

Hơn thế nữa, anh chị em còn có chung một ngồn gốc,  được sinh ra bởi cùng một cha một mẹ, cùng mang trong mình cùng một dòng máu. Chính vì thế tục ngữ đã diễn tả: Một giọt máu đào còn hơn một ao nước lã. Nếu chúng ta không yêu thương những người cận kề với chúng ta, nếu chúng ta không yêu thương chính thân xác chúng ta, chính máu huyết chúng ta, thì làm sao có thể yêu thương những kẻ xa lạ.

Tuy nhiên, trong cuộc sống, chúng ta thấy không thiếu gì những người anh em với nhau, chỉ vì đồng tiền cắc bạc, hàng rào bờ dậu…đã đi tới chỗ giận hờn và thù oán, không còn thèm nhìn mặt nhau nữa.

– Anh em khinh trước, làng nước khinh sau.

Nếu anh em trong gia đình mà không bảo ban, đùm bọc được nhau, thì làm sao có thể khuyên nhủ và nêu gương cho những người chung quanh.

Ông bố nọ trên giường hấp hối, đã gọi những người con của mình đến và trao cho mỗi người một chiếc đũa và bảo:

– Các con hãy bẻ đi.

Ai nấy đều bẻ được chiếc đũa một cách dễ dàng. Sau đó, ông trao cho mỗi người một bó đũa và cũng bảo:

– Các con hãy bẻ đi.

Ai nấy đều cố gắng hết mình, nghiến răng trợn mắt, vận dụng hết mọi nội công, mà cũng chẳng tài nào bẻ nổi bó đũa. Từ sự việc trên, ông đã khuyên nhủ:

– Bố sắp sửa ra đi và trở về cùng ông bà tổ tiên, lời nói sau cùng bố muốn trối lại cho các con, đó là các con hãy yêu thương, đoàn kết và đùm bọc lẫn  nhau. Chính nhờ sự yêu thương, đoàn kết và đùm bọc ấy, các con sẽ tạo được sự hòa thuận giữa các con đã đành, mà hơn thế nữa, các con còn tạo được sức mạnh để không một ai có thể  chèn ép, bóc lột các con được.

Hình ảnh bó đũa cũng là hình ảnh mà mỗi người chúng ta cần phải khắc ghi. Nếu từ trước đến giờ, chúng ta đã có những tị hiềm, những giận hờn, thì hãy mau mắn xóa bỏ và làm hòa cùng nhau. Là những người anh chị em cùng một cha một mẹ, cùng một cội nguồn, chúng ta phải biết thực sự yêu thương, hoà thuận và giúp đở lẫn nhau, bởi vì :

– Khôn ngoan đối đáp người ngoài,

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Để kết luận, gã xin mượn lại câu chuyện về thánh Simon Cột. Ngài sống vào thế kỷ thứ 5 tại Syrie, nổi tiếng là một người thánh thiện và khổ hạnh. Ngài làm một cái chòi nhỏ trên đầu một cây cột và sống ở đó suốt 35 năm trời. Sau khi ngài chết, để nêu cao mẫu gương thánh thiện và khổ hạnh của ngài, Giáo Hội đã tôn phong ngài, và người ta thường gọi ngài với biệt danh là Simon Cột.

Nghe xong câu chuyện này, một em nhỏ như được thôi thúc muốn bắt chước sự thánh thiện và lối sống khắc khổ của ngài. Thế là khi về đến nhà, em chồng những chiếc ghế đẩu trên một cái bàn, rồi leo lên. Giữa lúc đang loay hoay như thế, thì mẹ em nhìn thấy, bà đã la mắng và cấm không cho em được leo lên và bà nói tiếp:

– Con ơi, làm thánh ở trong nhà cũng khó lắm con à.

Giáo sư Carl Thayer: VN cần ‘cải cách kinh tế’ để giảm phụ thuộc TQ

Giáo sư Carl Thayer: VN cần ‘cải cách kinh tế’ để giảm phụ thuộc TQ

Chuacuuthe.com

20150210_Carl_GUOI

VRNs (10.02.2015) – Đài tiếng nói Việt Nam dẫn lời Giáo sư Carl Thayer cho biết, Việt Nam cần ‘cải cách nền kinh tế, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước’ để giảm sự phụ thuộc quá lớn vào nền kinh tế Trung Quốc.

Vị chuyên gia chính trị Việt Nam nhận định trong cuộc phỏng vấn công bố hôm 9/2, Việt Nam không nên tính chuyện hoàn toàn “độc lập về kinh tế” với Trung Quốc vì đây ‘là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới’ và ‘kinh tế trên thế giới là nền kinh tế mở và phụ thuộc lẫn nhau.’

Tuy nhiên, để giảm sự phụ thuộc nền kinh tế Trung Quốc, ông Carl Thayer đưa ra nhiều đề nghị. Trong đó có việc ‘cải cách nền kinh tế bằng cách thúc đẩy các công ty nhà nước hoạt động hiệu quả’; cung cấp môi trường phù hợp cho các doanh nghiệp nước ngoài để thu hút đầu tư; và nên gia nhập TPP để tận dụng cơ hội trao dổi thương mại này với 40% nền kinh tế toàn cầu của các nước thành viên.

Bàn về vấn đề hàng hóa Trung Quốc tràn ngập Việt Nam, vị giáo sư đã về hưu cho rằng, Việt Nam cần phải dập tắt tình trạng tham nhũng của các quan chức biên giới và hải quan, để giảm lượng hàng hóa TQ vào VN bằng đường buôn lậu. Đồng thời, nên khuyển khích sản xuất hàng hóa có chất lượng.

Ông cũng nói, trong quan hệ Mỹ- Việt – Trung, dù quan hệ Việt –Mỹ được cải thiện đến đâu thì Mỹ vẫn không thay đổi trong chính sách với Biển Đông. Mỹ tiếp tục giữ vai trò trung lập và chỉ phản đối các yêu sách của Trung Quốc nếu những yêu sách này ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ.

Đức Thiện. VRNs tổng hợp

Bà Lê Hiền Đức kêu gọi bảo vệ tính mạng cho Bà.

Bà Lê Hiền Đức kêu gọi bảo vệ tính mạng cho Bà.

RFA

Ngày hôm nay, 9/2/2015, Bà Lê Hiền Đức, đã khẩn cấp ra lời kêu gọi bảo vệ tính mạng cho Bà.

Bà là Công dân chống tham nhũng, là 1 trong 2 người được Giải thưởng Liêm Chính của Tổ chức Minh bạch quốc tế năm 2007.

Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam, ông Rolf Bergman nói:

“Việt Nam cần tự hào vì có những công dân như bà Lê Hiền Đức, là người không những chỉ muốn Đảng và Nhà nước chấm dứt nạn tham nhũng, mà còn thể hiện quyết tâm mạnh mẽ, đóng góp cụ thể vào cuộc chiến chống tham nhũng… hy vọng là bà Lê Hiền Đức sẽ là tấm gương điển hình cho nhiều người Việt Nam khác”.

=====================

Tôi xin khẩn cấp kính gửi:

Các bạn bè trên thế giới, các đài, báo (đã có dịp gặp và phỏng vấn tôi ở nhiều nơi, tại Hà nội và trong các hội thảo ở các nước trên thế giới): BBC, RFA, RFI, đài Á châu tự do, Từ cánh đồng mây, Chân trời mới, báo Asahi Shimbun,Yomiuri Shimbun (Nhật bản), Truyền hình NHK (Nhật bản, tại Hà nội).

Hãng thông tấn AFP, báo Nikkei, Thomson Reuters,De Volskrant (Balan), Thông tấn: AP, Dpa, ANU, Tòa báo Carnets du Việt nam, Radio – Canada…

Kính thưa các bạn:

Tôi là Lê Hiền Đức (84 tuổi), công dân chống tham nhũng ở Việt nam (không có chức vụ, không có quyền hạn gì và cũng không có tiền ngoài số lương hưu của nhà giáo già: 3.200.000 đồng Việt nam, tương đương 150 đô la). Vì tôi căm ghét và kiên quyết chống tham nhũng đến cùng. Nhân dân ai cũng hiểu điều đó đối với tôi nên nhân dân khắp cả nước (63 tỉnh thành phố) đều thương, quý tôi, tìm đến tôi mong muốn chia sẻ nỗi bức xúc, nỗi oan ức và muốn tôi cùng đồng hành với mọi người Dân oan.

Gần đây vì quá bức xúc với tệ nạn tham nhũng ở Việt nam ngày càng trầm trọng

Dân oan ngày càng nhiều, tôi luôn luôn tìm hiểu và đưa lên công luận nhiều thông tin về những cán bộ tham nhũng vì họ đã gây nên nhiều oan khuất trong nhân dân, thậm chí có Người dân ở Thái bình (Đặng Ngọc Viết đã phải thẳng tay trừng trị bọn tham nhũng và sau đó anh đã tự sát.)

Gần đây, ngày 30/1/2015, cũng vì bức xúc trước cách giải quyết của 1 viên quan chức bà Nguyễn thị Tân (1 tiểu thương) đã tự thiêu ngay tại chợ Đại hiệp (Quảng nam)…

Tôi không thể ngồi yên trước nỗi đau của nhân dân Việt nam thân yêu của tôi. Tôi luôn tố cáo các quan chức tham nhũng. Chính vì vậy đã làm cho nhiều tên tham nhũng căm tức tôi và thuê bọn người thiếu Liêm xỉ “KHỦNG BỐ” tôi:

Tôi đã làm đơn trình báo với cơ quan công an từ ngày 29/1/2015 nhưng chưa được cấp nào kiểm tra, giải quyết.

Chính vì nguyên nhân đó mà hiện tại tôi bị kẻ gian đã nhắn tin qua face book, qua điện thoại, gọi điện trực tiếp ngày, đêm đe dọa tôi…

Tôi kính đề nghị các phóng viên của các Đài, Báo trên thế giới và bạn bè trong nước lên tiếng để các cơ quan chức năng phải có biện pháp cấp thiết TRỪNG TRỊ kẻ khủng bố tôi, BẢO VỆ AN TOÀN TÍNH MẠNG TÔI. Nếu xảy ra 1 việc gì không hay đối với tôi về sức khỏe, về cuộc sống thì các cơ quan chức năng hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật và công luận trên toàn thế giới.

Công dân Lê Hiền Đức xin Cấp báo và chân thành cảm ơn các quý vị .

* Gần đây, ngày 27/1/2015, nick facebook Nguyễn Hoàng Thế Đức gửi vào tin nhắn cho Bà Lê Hiền Đức với nội dung sau:

Kèm theo bức ảnh chụp màn hình, Bà Lê Hiền Đức viết:

“Xin mời các bạn xem một phần nhỏ của cái gọi là hệ thống tuyên giáo, công cụ tuyên truyền ở VN. Những con chó cắn càn sủa bậy như thế này chẳng mảy may ảnh hưởng gì đến con đường mà tôi đã chọn. Nhưng chắc chắn tên Thế Đức này tôi sẽ trừng trị để làm gương cho đám Quang, Lệ, Dũng, đừng dại dột mà ngăn cản những con người của chính nghĩa”.

Nguyễn Hoàng Thế Đức là người có mặt tại buổi tọa đàm “Cơ chế của Liên Hợp Quốc về bảo vệ Người bảo vệ Nhân quyền” tổ chức tại Nhà thờ Thái Hà ngày 26/11/2014. Trong cuộc tọa đàm này, khi anh em dân chủ nhận ra hắn, mời lên giao lưu thì  hắn bỏ chạy nhưng đã được anh em giữ lại nói chuyện và cư xử thân tình. Qua câu chuyện, hắn xác nhận những gì viết trên fb Nguyễn Hoàng Thế Đức. Ảnh:

Nguyễn Hoàng Thế Đức là người đeo kính  cận

Trong buổi nói chuyện, Nguyễn Hoàng Thế Đức cũng xác nhận là người xông vào định đánh tôi (Nguyễn Tường Thụy) ngày 15/10 khi chúng tôi đến Ban Dân nguyện của Quốc Hội trao bản “Yêu cầu Quốc hội bạch hóa Hội nghị Thành Đô”.

Nhiều người rất phẫn nộ trước những lời lẽ hỗn láo của Nguyễn Hoàng Thế Đức đối với Bà Lê Hiền Đức trong ảnh chụp màn hình trên đây.

Vấn đề đặt ra là, ai là kẻ dung dưỡng, khuyến khích Nguyễn Hoàng Thế Đức làm những chuyện như trên. Điều này sẽ rõ ràng hơn nếu cơ quan có thẩm quyền không xử lý tên Nguyễn Hoàng Thế Đức khi hắn bị Bà lê Hiền Đức kiện.

9/2/2015

Nguyễn Tường Thụy