Nạn đói nhân tạo ở Ukraine và tội ác diệt chủng của Stalin

Nạn đói nhân tạo ở Ukraine và tội ác diệt chủng của Stalin

nguyenthituhuy

RFA

Vào thời điểm Stalin chết, ở Việt Nam có vô số sáng tác khóc thương và xiển dương nhân vật này do các văn nhân thi sĩ cộng sản chủ nghĩa viết, trong số đó nhiều câu đã trở thành “bất hủ”, vì chúng điển hình cho loại hình văn học nô dịch, điển hình cho mức độ tụng ca và dối trá thượng thặng, đặc sản của chế độ toàn trị, một hình thái chính trị chưa từng có trong lịch sử trước thế kỷ XX. Người ta vẫn sẽ còn nhắc đến những câu như: “Yêu biết mấy nghe con tập nói / Tiếng đầu lòng con gọi Stalin” (Tố Hữu). “Đồng chí Stalin đã mất / Thế giới không cha nặng tiếng thở dài” (Chế Lan Viên)

Tôi muốn dùng đoạn thơ dưới đây của Xuân Diệu trong bài “Thương tiếc Đại nguyên soái Stalin”, câu thơ in đậm là do tôi nhấn mạnh, để dẫn vào một chủ đề mà tôi sẽ trình bày trong bài này:

Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh (Xuân Diệu)

Mấy chữ “bát cơm miếng bánh”, mà Xuân Diệu sử dụng như một thủ pháp để nhằm ca ngợi Stalin đem lại cuộc sống no ấm cho người dân, mới thật là một sự mỉa mai đối với sự thật: Stalin bị nhân loại kết án phạm tội diệt chủng, là kẻ đã gây ra cái chết của mấy triệu người dân Ukraine trong một nạn đói được gọi là “nạn đói nhân tạo”, nạn đói được tổ chức, nghĩa là nạn đói do Stalin cố tình tạo ra, trong khoảng thời gian 1932-1933. Theo ước tính của các sử gia, có khoảng từ 2.6 đến 5 triệu người đã bị buộc phải chết trong cuộc đại thảm sát đó, họ bị buộc phải chết đói.

Vì thế, cho dù khái niệm “toàn trị” gây tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học xã hội, nhưng về cơ bản người ta thống nhất trong nhận định rằng Stalin và Hitler là hai lãnh tụ toàn trị, hai kẻ gây nên tội ác diệt chủng, tội ác chống lại nhân loại, và những tội ác của hai lãnh tụ toàn trị này được thực hiện gần như trong cùng một thời điểm, thời điểm đại chiến thế giới lần thứ hai.

Hai tác giả Borys Martchenko và Okexa Woropay, trong cuốn Nạn đói – Nạn diệt chủng ở Ukraine 1932-1933 (La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, Publications de l’Est européen, Paris, 1983), đã mô tả cách thức tổ chức nạn đói. Họ cho biết rằng từ năm 1930, Stalin đã hoàn tất việc tập thể hóa toàn bộ tài sản nông nghiệp của nông dân ở Ukraine, toàn bộ nền xuất bản độc lập bị hủy bỏ, nhiều triệu người bị bắt trên khắp Ukraine.

Đầu 1932, chính phủ Stalin đề ra mức khổng lồ về lương thực phải giao nộp cho chính phủ, vượt quá mức thu hoạch của nông dân trong thực tế. Mùa đông 1931-1932, chính phủ trưng thu toàn bộ ngũ cốc cũng như những sản phẩm khác. Và như vậy, dĩ nhiên, người dân không còn gì để ăn. Từ mùa xuân năm 1932, nạn đói bắt đầu lan rộng, và đến hè số người chết càng ngày càng tăng lên.

Mùa thu năm đó, chính phủ ra một đạo luật nhằm cấm những người dân đói không được sử dụng ngũ cốc. Nghĩa là nạn đói được luật hóa một cách chính thức, người dân sẽ phải chết cho đúng luật. Tôi trích một đoạn trong cuốn sách của Borys Martchenko và Okexa Woropay:

“Một cuốn sách xuất bản chính thức viết về đạo luật này như sau: “Luật về bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, ban hành ngày 7 tháng 8 năm 1932, đã góp phần rất lớn trong việc củng cố chế độ nông trường tập thể. Theo quy định của luật này, các tài sản của nông trường tập thể được xếp vào hàng tài sản của Nhà nước. Tài sản của nông trường tập thể, cũng như tài sản của Nhà nước, không ai được phép xâm phạm’”( La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, tr.27)

Và để bảo vệ “tài sản nhà nước”, những đội quân canh gác có trang bị vũ khí được thành lập, họ bắn chết không thương xót bất kỳ dám “ăn trộm” lương thực do mình làm ra nhưng mình lại không có quyền sở hữu. Nếu trẻ con ăn trộm thì bố mẹ sẽ bị kết tội. Quả là luật pháp của Stalin không để một kẽ hở nào cho người dân Ukraine được sống. Stalin đã giết người “theo quy định của luật pháp”.

Các tác giả của cuốn sách cho biết, chính phủ Stalin biết rằng cả nông dân lẫn chính quyền địa phương sẽ không giao nộp lương thực trong khi mà nhân dân đang chết đói, vì thế đã sử dụng biện pháp trưng thu cưỡng chế để thực hiện theo đúng chỉ tiêu kế hoạch mà nhà nước đề ra. Bất chấp việc lãnh đạo địa phương yêu cầu Moscou giảm kế hoạch, những đội trưng thu cưỡng chế được Nhà nước cử đến vét sạch tất cả.

“Một nhân chứng của vụ án Kravtchenko kể lại: “Năm 1932, chế độ Xô-viết ra lệnh cho tất cả các nông dân phải giao nộp đến tận hạt lúa mì cuối cùng [ở đây có cái gì giống với khẩu hiệu của Đức quốc xã về việc tiêu diệt dân Do Thái cho đến tận người cuối cùng, về cơ bản đấy đều là những cách thức hủy diệt con người –NTTH]. Sau khi nông dân đã giao hết lúa mì, những người cộng sản và bọn kẻ trộm vào trong làng, lấy đi tất cả những gì còn lại, dưa bắp cải, mỡ lá, và tiêu hủy hết. Họ đã tạo ra một nạn đói nhân tạo trong những năm 1932-1933” (La famine – Génocide en Ukraine 1932-1933, tr.27)

Dĩ nhiên, những người nông dân tìm cách trốn khỏi Ukraine để tự cứu mình. Nhưng chính phủ cho dựng các rào chắn khắp nơi và đuổi nông dân quay trở lại làng, nơi họ không còn gì để ăn. Những làng đói hoàn toàn bị cô lập, không y tế, không giáo dục, trẻ em không có trường học, người ốm không được chăm sóc. Hàng triệu người đã bị bỏ đói cho đến chết.

Tôi chỉ giới thiệu lại một vài chi tiết về việc Stalin đã giết người, giết hàng loạt, bằng cách bỏ đói.

Và giết nông dân chỉ là một giai đoạn trong tiến trình xây dựng quyền lực toàn trị của Stalin. Ông ta còn tiến hành nhiều cuộc thanh trừng với số lượng lớn, giết công nhân, viên chức, một nửa số nhân viên hành chính trong các lĩnh vực khác nhau bị giết, 50% đảng viên của đảng cộng sản bị thanh trừng.

Stalin, con người với tội ác chồng chất khiến cả nhân loại phải kinh hoàng, lại được ca tụng hết lời và được yêu thương tột bậc bởi các thi sĩ mà chế độ Việt Nam đương thời xếp hàng đầu:

Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh (Xuân Diệu)

Chữ nghĩa là gì, đối với những người làm văn chương và những người viết nói chung?

Paris, 7/3/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Đảng bức tử văn hóa, không ai khác.

Đảng bức tử văn hóa, không ai khác.

canhco

RFA

Cộng đồng mạng và ai quan tâm đến những lễ hội hay sự kiện từ đầu năm tới giờ không khỏi băn khoăn với câu hỏi, tại sao người dân tôi hôm nay lại như thế này?

Không ít ý kiến cho rằng do quản lý yếu kém, do dân trí thấp và do chạy theo lợi nhuận nên kéo theo sự xuống cấp của lễ hội. Nhìn chung dù lý do gì thì cái hại tiềm ẩn ngày một lan rộng sẽ đến một ngày nào đó khiến cả nước sẽ bơi trong một chiếc ao khổng lồ ô nhiễm văn hóa. Ao chứ không phải là sông vì sông thì còn chảy ra biển, được tái tạo lại sinh khí, nhưng bơi lội trong ao thì chỉ tự mình ăn lấy mình, gậm nhấm thành quả do mình tạo ra và tiêu hóa rồi bài tiết nó.

Không một phép lạ nào có thể cứu những sinh vật đang chết lâm sàng trong chiếc ao tù văn hóa ấy, nơi mà tự thân mỗi cá nhân bơi uể oải tìm kiếm chút thực phẩm văn hóa chưa bị ô nhiễm ngày càng hiếm hoi và đang mất hẳn.

Văn hóa nếu không là thực phẩm cho người nghèo thì chí ít nó cũng là sức sống tinh thần nuôi dưỡng tâm tính của tầng lớp dân chúng thấp kém nhất qua các lễ hội dân gian. Văn hóa bị tổn thương chính là khởi đầu của ý thức cộng đồng đang bị xâm hại. Tới một lúc nào đó khi phản ứng cộng đồng tê liệt thì thành phần bần nông sẽ là vùng đất hoang hóa sơ khai dễ dàng nảy sinh nhanh chóng bất cứ một hủ tục nào mà trước đây loài người nỗ lực tiêu diệt chúng.

Văn hóa giống như tất cả các chủ thể khác, luôn đi kèm và dính liền với chính trị, nói gọn lại là chính thể của một nhà nước. Văn hóa Việt Nam từ khi Đảng cầm quyền đến nay gần một thế kỷ, đã tạo nên một khuôn mặt mới, khó thể nói là tốt hơn hay xấu hơn nhưng cái đáng nói là nó có kết quả không thể chối cãi: Đảng đã rất thành công trong công tác biến văn hóa thành công cụ phục vụ cho đảng và mọi hoạt động văn hóa đều do đảng định hướng, điều hành và chỉ đạo.

Chỉ cần nhìn qua các hoạt động mang tính văn hóa đều thấy nơi nào được tổ chức trọng thể, đông người nơi ấy không thể thiếu vắng các khuôn mặt cộm cán trong chính quyền tham dự từ cắt băng khánh thành cho tới đọc diễn văn khai mạc. Người dân không để ý tới vì đối với họ chờ thêm năm mười phút nghe bài đọc ngớ ngẩn của một chủ tịch cũng đáng với cuộc vui mà họ chờ đợi. Cái tác hại không phải ở bài diễn văn mà sự thả lỏng những hành vi nháp nhúa đang làm băng hoại văn hóa.

Đầu năm là văn hóa cung đình của ông Nông Đức Mạnh.

Hàng ngàn bài viết phê phán chiếc ngai vua của ông cựu TBT xem ra không đáng cho nhà nước để ý. Guồng máy đảng đang chạy tối đa lo bảo vệ chính mình hơn là lên tiếng về cung cách xa hoa của một ông vua tập thể. Sự im lặng ấy cho thấy giai cấp giữa người dân và vua chúa không thể san bằng như nguyên tắc chống phong kiến mà nó được công khai tuyên truyền.

Nhà nước im lặng xem như không biết. Một mảnh vỡ văn hóa về cung cách sống rơi ra có gì đáng nói?

Một ông Vũ Khiêu đại diện cho nền văn hóa tiếm đoạt đang được chính quyền đỡ đầu không thể nói là bình thường. Những huy hiệu cao quý, bằng khen tráng lệ, hay huân chương hoành tráng ông Khiêu nhận được từ các lãnh đạo cao nhất của Đảng cho thấy Đảng đang lái chiếc xe kiến thức Việt Nam vào đầm lầy ngu dốt. Những câu thơ trộm đạo, những hành vi nhố nhăng cộng với thành tích bất hảo của ông ta được nhà nước sùng bái cho thấy trình độ của hệ thống đã cán mức chịu đựng của người dân có học.

Văn hóa trộm đạo ấy khi được vinh danh cũng là lúc người dân cùng nhau bịt mặt biến thành cướp biển trước mắt nước ngoài, đặc biệt là phương Bắc nơi bị ông Khiêu thẳng tay ẳm trọn thơ phú quý giá của họ.

Một cá nhân thì gọi là trộm có văn hóa, còn một tập thể thì chế độ có từ riêng ấn tượng hơn: cướp có văn hóa!

Người phát biểu câu ấy là đại diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Phó trưởng ban Tuyên giáo Hà Nội Phan Đăng Long.

Khi cho rằng hàng ngàn người chen lấn để cướp cho bằng được lộc thánh là cướp có văn hóa, Đảng đã khuyến khích mọi thành phần xã hội hãy tham gia cướp bóc trong tất cả các lễ hội (Dĩ nhiên không ngoài phạm vi lễ hội) thì ngay bản chất cái lễ hội được khoác chiếc áo văn hóa ấy đã có thêm phạm trù cướp bóc. Giống như ông Vũ Khiêu và ông Nông Đức Mạnh, có gì khác nhau?

Đảng không những làm ngơ, im lặng trước các câu hỏi có liên quan đến việc trộm cắp hay ăn cướp văn hóa công khai, mà còn âm thầm khuyến khích một cách rất tự giác, những văn hóa âm tính mang nặng hủ tục từ Tàu. Nhà nước đã lập hẳn ra những cơ quan nghiên cứu về bói toán mang danh phong thủy và đổ tiền vào đấy không thương tiếc để cơ quan này tuyên truyền cho những điều mà người dân ngu đang cùng với quan chức mỗi năm chờ có dịp thi hành chuyện cướp bóc.

Các cơ quan bói toán ấy hiên ngang tư vấn cho người dân cách đúng nhất khi may mắn xin, hay giật được ấn về nhà. Ông Nguyễn Mạnh Linh, Trưởng phòng Phong thủy Kiến trúc Viện quy Hoạch và Kiến trúc đô thị chỉ dẫn người dân: “Nếu muốn sử dụng hiệu quả hơn theo phong thủy, tùy theo mục đích sử dụng mà dán ở các vị trí khác nhau, như năm 2015 để tăng tài lộc thì dán ấn ở chính Bắc”.

Hướng chính Bắc nếu tính từ Hà Nội sẽ đâm thẳng sang Trung Quốc, nơi mà câu chuyện phong thủy được nâng lên hàng quốc sách.

Định hướng văn hóa không phải chỉ trong lễ hội mà ngay cả những hoạt động văn hóa khác mang tính quốc tế Đảng cũng không hề quên.

Cách đây hai ngày báo Dân Trí chạy tít: “Trong phần thi trang phục dân tộc tại cuộc thi Nam vương toàn cầu 2015, thí sinh của Việt Nam đã gây ấn tượng với bạn bè quốc tế khi mang đến trang phục bộ đội.”

Ai là người định hướng cho thí sinh Nguyễn Văn Sơn mặc áo quần bộ đội ngoài những người trong đảng? Cậu thanh niên ấy có muốn mặc bộ quân phục nghèo nàn, không ít thì nhiều đã nhuộm máu ấy trình diện trước mặt báo chí quốc tế hay không là câu hỏi không khó trả lời.

Câu hỏi đặt ra quần áo bộ đội có thể được xem là trang phục dân tộc hay không?

Không khó để nói rằng trang phục dân tộc không dính gì tới quần áo quân đội, vật cốt giúp người lính dấu mình trước kẻ thù, ngược lại hoàn toàn với trang phục dân tộc, vốn tôn vinh tính thẩm mỹ, văn hóa ăn mặc và nhất là lòng yêu chuộng hòa bình của bất cứ quốc gia nào.

Lấy chiến tranh đi thi biểu tượng hòa bình và hữu nghị chỉ có Đảng mới dám làm, bất kể cái nhìn rẻ rúng của cộng đồng quốc tế.

Đúng như báo Dân Trí đã xỏ xiên, “đây là một hành động gây ấn tượng với bạn bè thế giới”. Cái văn hóa bị nhuộm đỏ ấy của Việt Nam làm sao họ không ấn tượng cho được vì chính nó đã làm cho cuộc thi nhơ nhuốc?

Gia đình họ Ngô ‘đáng thương, đáng kính trọng’

Gia đình họ Ngô ‘đáng thương, đáng kính trọng’

BBC

Phần hai cuộc phỏng vấn về cuộc đời bà Ngô Đình Thị Hiệp (1903-2005) nói về quan hệ của bà với người con trai, Hồng y Nguyễn Văn Thuận.

Hồng Y Nguyễn Văn Thuận là người Việt Nam giữ cương vị cao nhất trong Toà thánh Vatican, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình, cho tới lúc qua đời.

Ông có xuất thân đặc biệt khi mẹ của ông là em gái của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm.

Không lâu trước ngày Sài Gòn sụp đổ năm 1975, bà Hiệp sang Úc, nhưng con trai bà ở lại và bị chính quyền mới bắt giam trong 13 năm.

Ông Nguyễn Văn Châu, tác giả cuốn sách tiếng Anh về cuộc đời bà Hiệp và gia tộc họ Ngô, A lifetime in the eye of the storm, nói bà Hiệp đau đớn khi nghe tin con bị tù.

“Nhưng bà nói với tôi chuyện đau đớn về con không bằng sự đau khi thấy thuyền nhân chết trên biển cả.”

Năm 1990, hai mẹ con lần đầu gặp nhau sau khi ông Thuận được thả.

Người con trai của bà Hiệp được Vatican phong Hồng y năm 2001, một năm trước ngày qua đời.

Nói về gia tộc họ Ngô, tác giả Nguyễn Văn Châu nói ông hy vọng lịch sử “một ngày cho thấy ông Diệm, ông Nhu là người yêu nước và gia đình bà Hiệp là gia đình đáng thương, đáng tiếc và đáng kính trọng”.

LS Nguyễn Thanh Lương: Công lý tùy thuộc ý muốn của người cầm quyền

LS Nguyễn Thanh Lương: Công lý tùy thuộc ý muốn của người cầm quyền

Luật sư Nguyễn Thanh Lương

Luật sư Nguyễn Thanh Lương

Trà Mi-VOA

07.03.2015

Thêm một luật sư tại Việt Nam buộc phải bỏ nghề sau các hoạt động bênh vực và tranh đấu bảo vệ nhân quyền.

” Cơ chế tam quyền phân lập mà thế giới đã tìm ra 500 năm mà Việt Nam không có, nếu có chỉ là hình thức. Đó là những nguyên lý cơ bản mà tôi tiếc là Việt Nam không có

LS Nguyễn Thanh Lương”

Nhiều năm nay, nguyên Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre Nguyễn Thanh Lương được mọi người biết đến như một luật sư bảo vệ miễn phí cho người nghèo, nông dân, công nhân, và những dân oan bị mất đất đai.

Ông cũng nằm trong số rất ít trong tổng số hàng chục ngàn luật sư trong nước mạnh dạn tham gia các vụ án chính trị ‘nhạy cảm,’ bênh vực những nhà tranh đấu dân chủ, các nhà hoạt động cổ xúy nhân quyền và chống Trung Quốc như trường hợp của sinh viên Nguyễn Phương Uyên-Đinh Nguyên Kha, thầy giáo Đinh Đăng Định, và blogtger Tạ Phong Tần.

Ông vừa tuyên bố từ giã sự nghiệp từng dày công xây dựng và theo đuổi với 20 năm hành nghề luật gồm 4 năm làm luật gia và 16 năm làm luật sư sau 4 năm khởi nghiệp làm thanh tra công an TPHCM.

Quyết định của luật sư Lương tiếp nối sự ra đi của các đồng nghiệp trước đó như Huỳnh Văn Đông, Lê Trần Luật, các bản án của luật sư Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, luật gia Phan Thanh Hải, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, và trường hợp đang bị sách nhiễu của luật sư Võ An Đôn ở Phú Yên một lần nữa khiến dư luận chú ý tới những hiểm nguy, thách thức đối với giới luật sư bênh vực nhân quyền trong nước.

Tạp chí Thanh niên VOA hôm nay có cuộc trao đổi với luật sư Nguyễn Thanh Lương về sự ra đi của ông và những tâm tư trăn trở về giới hạn của vai trò người luật sư trong nền tư pháp còn nhiều lỗ hổng hiện nay.

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Khát khao của tôi muốn trở lại về nghề trong tương lai, nhưng trước mắt phải ‘tạm dừng’ để chuyển qua một cái nghề khác, đó là nghề công chứng, để nhẹ đi những xung đột, những áp lực. Áp lực là vì mình đã bảo vệ những vụ án chính trị xung đột, đụng chạm, đối kháng với nhà nước, với cơ quan-tổ chức đảng cộng sản. Những phát biểu của tôi có khả năng dẫn tới những chuyện ngoài ý muốn. Cụ thể như điều 258 ‘xâm phạm lợi ích hợp pháp” của tổ chức, công dân, nhưng đối với “lợi ích nhà nước” thì không có khái niệm hợp pháp hay bất hợp pháp gì hết. Cho nên những tiếng nói thẳng, nói thật nếu làm ảnh hưởng tới uy tín nhà nước thì sẽ không tồn tại. Tôi đã thấy những điều đó. Đó là những áp lực nên tôi phải tự rút lui trước. Nghề luật sư có nhiều vấn nạn. Ví dụ như luật sư chỉ được gặp bị can trong trại giam 1 tiếng đồng hồ theo văn bản chỉ đạo của Bộ Công an cách đây 16 năm vẫn tồn tại. Vấn đề đó, theo tôi, đã vi phạm hiến pháp, luật lao động, luật của luật sư, nhưng vẫn tồn tại. Đó là một minh chứng. Rồi ai cản trở, ngăn cấm hoạt động của luật sư thì không có chế tài. Ngược lại, luật sư mà vi phạm sẽ bị xử phạt. Có quy định về hàng trăm hành vi của luật sư/tổ chức luật sư sẽ bị xử lý. Nghề luật sư chưa được đảm bảo quyền hành nghề cho đúng mức.

Trà Mi: Người luật sư có nhiệm vụ bảo vệ người khác, nhưng bản thân họ trong các trường hợp bị trù dập, trả thù, bất công thì luật định ra sao?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Tại điều 91 hay điều 6 Luật luật sư có quy định nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân cản trở luật sư. Nhưng thực tế không có chế tài. Thế giới luật sư còn nhiều vấn đề trăn trở lắm. Còn những người có quan điểm bất đồng với nhà nước cũng không được quyền xét xử công khai. Người thân của họ và những ai quan tâm đâu có được tham dự phiên tòa. Cái ‘công khai’ đó là nửa vời. Luật sư không được tham gia tố tụng ngay giai đoạn điều tra ban đầu, giai đoạn truy tố.

Trà Mi: Ngoài những trăn trở khi còn hành nghề, bây gìờ ra khỏi nghề rồi, ông có những tâm tư như thế nào?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Ra khỏi nghề, hàng ngày tuy làm công chứng nhưng hàng ngày tôi vẫn tư vấn pháp luật miễn phí cho người nghèo, cho dân oan. Tôi vẫn làm với tư cách của một công dân, một luật gia, cũng soạn thảo đơn từ này kia. Nhưng ở đây mình giúp với góc độ khuyến khích của xã hội. Ở quê tôi, người dân sau mấy chục năm nay vẫn khó khăn. Họ cũng không rành phải ký chữ ký như thế nào. Đa số còn nhiều hạn chế, thấy thương, thấy cuộc sống họ sao lao nhọc quá.

Trà Mi: Ông có hối hận gì không trên con đường ông đã đi?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: ‘Lịch sử không có chữ nếu’. Tôi không có tiếc nuối gì hết. Tôi chỉ trông chờ thời gian, mong mỏi xã hội được cởi mở hơn, ưu ái hơn thì nghề luật sư mới có tiếng nói hơn, mới có hiệu quả, tác dụng. Tiến bộ của pháp luật không có làm ảnh hưởng sự phát triển của xã hội. Bản thân tôi từng tâm huyết với xã hội. Tôi từng đứng đơn tố cáo trạm thu phí Xa lộ Hà Nội ở quận 2 TPHCM. Tới nay trạm này vẫn còn, không ai trả lời tôi hết. Có điều cho tôi biết rằng nếu tôi tố cáo sai thì chắc chắn tôi đã phải trả giá. Ở đây dù không có phản ứng đó, nhưng mong mỏi bảo vệ cho hàng triệu người tiêu dùng hàng ngày bị thu phí oan uổng không đạt kết quả. Điều này làm tôi hiểu rằng công lý chưa hẳn thuộc về lẽ phải, mà nó thuộc về ý chí của người cầm quyền. Tôi hiểu điều đó nên không thể ngây thơ mà tin cậy nhiều quá, thôi phải rút lui. Nếu làm hết lương tâm, chức năng nghề nghiệp của một luật sư tâm huyết thì có thể đi tù.

Trà Mi: Ông nói không hối hận gì, nhưng vuột khỏi tầm tay một sự nghiệp dày công xây dựng và theo đuổi, chắc chắn khó tránh khỏi cảm giác tiếc nuối. Trên suốt chặng đường sự nghiệp, ông tiếc nuối nhất điều gì?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Tôi tiếc nuối không riêng cho cá nhân tôi mà cho cả xã hội này. Đó là sự lắng nghe của nhà nước, của những người có thẩm quyền. Bởi vì tất cả những đóng góp, phản biện, bất đồng không có nghĩa là xấu. Nhưng tiếc là những ý kiến đó không được tiếp thu mà thậm chí còn bị tiêu diệt. Tôi tiếc điều đó làm cho xã hội không phát triển.

Trà Mi: Trong số các điểm yếu của pháp luật Việt Nam hiện nay, điểm nào theo ông là cấp thiết cần phải sửa đổi ưu tiên hàng đầu?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Nói vấn đề này thì mênh mông lắm. Phải nói từ cái chóp bu, từ nguyên tắc nguyên lý lãnh đạo. Nhiều người cũng đã nói về nguyên lý lãnh đạo của đảng cộng sản, tức điều 4 Hiến pháp, và điều 13 bảo vệ an ninh quốc gia nghiêm cấm các hành vi nhằm xóa bỏ giai trò lãnh đạo của đảng cộng sản. Theo tôi, thời chiến có thể tập trung quyền lực vào thống nhất một đảng, nhưng với thời bình theo quy luật cạnh tranh mà áp dụng độc đảng thì lỗi thời. Thôi thì tôi hy vọng một ngày nào đó những nhà lãnh đạo sẽ xem xét lại theo quy luật của lịch sử. Cơ chế tam quyền phân lập mà thế giới đã tìm ra 500 năm mà Việt Nam không có, nếu có chỉ là hình thức. Đó là những nguyên lý cơ bản mà tôi tiếc là Việt Nam không có.

Trà Mi: Các luật sư bảo vệ những tiếng nói trái chiều hay thể hiện quan điểm bất đồng với nhà nước thường gặp rủi ro, hoặc đi tù, hoặc bị trù dập, hoặc phải bỏ nghề. Ông nghiệm ra điều gì từ thực tế này?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Tôi nghiệm ra điều thúc đẩy xã hội phát triển hay kiềm hãm chính là chính trị. Đối với luật sư, tuy tôi nghỉ rồi, nhưng tôi vẫn mong mỏi các cơ quan thấy được chỗ tồn tại yếu kém, cụ thể là nghị định 98 cho phép luật sư chỉ tham gia có 1 giờ, hai là các chế tài đối với luật sư thì quá nhiều mà bảo vệ thì không có. Điều này tôi đã vận động nhiều trên các tờ báo của nhà nước, nhưng tiếng nói đó tôi thấy còn lạc lõng quá.

Trà Mi: Nhìn vào các trường hợp luật sư bị nhắm mục tiêu, nhiều người cho rằng nghề luật sư trong nước là một nghề nguy hiểm, nhưng có người phản biện rằng hàng chục ngàn luật sư hành nghề đó có sao đâu, chẳng qua chỉ là mấy ông luật sư ‘chống đối’ ‘cá biệt’ mới bị thế thôi. Ý kiến luật sư thế nào?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Nếu luật sư làm hết tâm huyết mà không nhìn trước, nhìn sau thì đương nhiên sẽ bị chuốc hậu quả. Còn những luật sư không có tâm huyết, theo kiểu quân bình chủ nghĩa thì sẽ không gặp rủi ro. Nhưng xã hội cần phải có những người tiên phong, những người cất tiếng thì mới phát triển được. Còn những người toan tính, thủ lợi thì đương nhiên họ sẽ yên ổn hơn. Trong một xã hội còn nhiều trăn trở, biến động, nhiều vấn đề về đạo đức, về vật chất thì sẽ có những tình huống như vậy.

Trà Mi: Các hành vi mà nhà nước gọi là ‘chống đối’, ‘chống tham nhũng’, ‘chống tiêu cực’ đều có kết cục khá buồn. Không chống gì cả thì yên thân, có phải đây là con đường ông đang lựa chọn?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Không. Tôi lựa chọn làm nghề công chứng cũng là một hình thức tôi giúp người dân. Tham gia một số vụ án chính trị về xâm phạm an ninh quốc gia, tôi đủ hiểu, nó giống như một thước đo về văn minh, tiến bộ xã hội. Nếu mình không  nhìn hết mà cứ tiếp tục thì sẽ bị trượt dốc đến cái điều xấu nhất. Thành ra tôi phải tự điều chỉnh lấy.

Trà Mi: Có thể hiểu nôm na là mình điều chỉnh xã hội không được thì tự điều chỉnh mình cho thích hợp với xã hội?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Dạ đúng vậy.

Trà Mi: Nhưng nếu mỗi người tự điều chỉnh mình theo xu hướng chung của xã hội như vậy thì liệu xã hội này sẽ đi về đâu, ông có bao giờ suy nghĩ tới điều đó?

“… Xã hội cần phải có những người tiên phong, những người cất tiếng thì mới phát triển được. Còn những người toan tính, thủ lợi thì đương nhiên họ sẽ yên ổn hơn. Trong một xã hội còn nhiều trăn trở, biến động, nhiều vấn đề về đạo đức, về vật chất thì sẽ có những tình huống như vậy

LS Nguyễn Thanh Lương”

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Có, nhưng mọi việc tôi nghĩ phải chờ thời gian. Nhanh hay chậm, trả giá đắt hay ít để lịch sử xem xét.

Trà Mi: Cách đây hơn chục năm không nghe tới khái niệm luật sư nhân quyền, giờ đã có. Nhưng liệu nó có phát huy rộng rãi thành đoàn luật sư nhân quyền, hội luật sư nhân quyền, hay thậm chí là hiệp hội luật sư nhân quyền hay không trước những áp lực, trở ngại hiện nay mà ông là một trong những người đã gặp rồi buộc phải rút lui?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Có thể xã hội sẽ tự phát lên vì nhu cầu, nhưng cũng sẽ có những sự cọ xát nhiều. Nhà nước không thay đổi, cởi mở chính sách thì đương nhiên phải vậy thôi vì đó là quy luật. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh.

Trà Mi: Với những bạn trẻ đang hành nghề hoặc mới vào nghề, ông có tâm tình gì muốn chia sẻ, một luật sư bảo vệ người nghèo đã phải ‘cáo quan về ở ẩn’?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Mong sao các bạn sống và hành nghề sao cho không hổ thẹn với lương tâm là được. Cá nhân tôi, trước khi vào nghề, tôi nghĩ hành nghề để tạo một cuộc sống ấm no gia đình vì bản chất tôi là một nông dân, tôi muốn cải tạo số phận đi lên hòa nhập, bình đẳng với mọi người trong xã hội. Nhưng sau khi vào nghề, tôi có khuynh hướng quan tâm về xã hội, cộng đồng, và người nghèo nhiều hơn. Đôi khi tôi còn muốn xả thân quên đi sinh mạng của mình nữa.

Trà Mi: Lúc hành nghề ông tự thấy mình thay đổi rất nhiều, muốn đóng góp cho xã hội. Giờ ra khỏi nghề rồi, ông có hy vọng gì không?

Luật sư Nguyễn Thanh Lương: Ra khỏi nghề rồi, nguyện vọng ấp ủ của tôi vẫn canh cánh còn đó. Tôi vẫn hy vọng một ngày nào đó môi trường pháp lý cho luật sư hoạt động được thông thoáng hơn bởi vì lúc đó thao tác của luật sư mới có tác dụng nhiều hơn. Nói cụ thể, từ ‘dân chủ’ không xuất xứ từ Việt Nam. Nó là những từ ngữ từ bên ngoài du nhập vào. Cho nên, khái niệm đó hơi xa lạ, là điều mới mẽ, là sự vận động phát triển của xã hội chứ không phải đương nhiên mà có đâu.

Trà Mi: Cảm ơn luật sư rất nhiều đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này. Mong ông đạt thành hy vọng của mình trong thời gian sớm nhất.

XIN TẠ ƠN BA ĐẤNG, GIÊSU – MARIA – GIUSE…

XIN TẠ ƠN BA ĐẤNG, GIÊSU – MARIA – GIUSE…

Trích EPHATA 641

Kính thưa quý độc giả Ephata, câu chuyện dưới đây đã xảy ra cách đây hơn hai năm, tuy nhiên tính thời sự vẫn cứ luôn nóng hổi nóng hổi. Chúng tôi đã đăng bài này trên báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp số 17 ra mắt tháng 2 vừa qua, nay lại xin gửi đến quý độc giả của Ephata số tân niên này, chỉ nhắm đến một điều là chúng ta cùng chia sẻ với nhau một niềm xác tín vào Thiên Chúa, lại khích lệ lẫn nhau cùng đứng vững trong tinh thần Bảo Vệ Sự Sống, như vậy mới mong đề kháng được với chủ trương phá thai, vừa duy vật lại vừa vô thần, hiện đang là chính sách của cả một chế độ xã hội, lại đã âm thầm xói món vào lương tâm của cả những người có tín ngưỡng tâm linh, nhất là người Công Giáo…

Ngày 14.11.2012, con có viết một E-mail nhờ cha Quang Uy cầu nguyện cho gia đình chúng con. Lý do vào thời điểm ấy, vợ chồng chúng con bị khủng hoảng và suy sụp do bác sĩ khám thai, bảo là thai nhi con của chúng con có nguy cơ dị tật Hội Chứng Down.

Cha Quang Uy đã cho chúng con lời khuyên là dứt khoát không nghe lời bác sĩ để bỏ thai nhi. Cha hứa sẽ cùng Nhóm BVSS, Nhóm Fiat hiệp ý cầu nguyện ngay. Đặc biệt sau đó, cha đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho con của chúng con vào lúc 20 giờ Lễ Xa Quê tại Nhà Thờ DCCT Chúa Nhật 18.11.2012.

Trong suốt thai kỳ của vợ con sau đó, chúng con da diết cầu nguyện nhiều hơn với Chúa Giêsu – Mẹ Maria – Thánh Giuse, chúng con cũng đặc biệt cầu nguyện với các Linh Hồn Thai Nhi và Thánh Giêrađô. Chúng con biết đến Thánh Giêrađô là do đọc kinh Bảo Vệ Sự Sống từ khi học Giáo Lý Hôn Nhân Agape của cha. Ngoài ra, khi con chợt nhớ đến bất kỳ Thánh nào, con đều cầu nguyện hết.

Thế rồi cha ơi, ngày 12.5.2013 vừa qua, vợ con đã sinh một bé trai 3,4 kg khỏe mạnh. Lúc đó, chúng con vỡ òa, rơi nước mắt vì hạnh phúc. Cảm tạ các Ngài đã nhận lời chúng con, và giờ bé rất kháu khỉnh, đêm về bé hơi khó chịu và hành mẹ chút xíu. Từ khi con của chúng con ra đời, chúng con có mệt hơn, cực hơn nhưng vui và hạnh phúc vô cùng, cha ạ !

Hằng ngày chúng con vẫn tiếp tục cảm tạ Chúa Giêsu – Mẹ Maria – Thánh Giuse, Thánh Giêrađô, các Thánh, các Thiên Thần, các Linh Hồn Thai Nhi, cũng như cầu nguyện xin tiếp tục gìn giữ ban bình an và khỏe mạnh cho con của chúng con. Chúng con đã chọn tên Thánh cho bé là Giêrađô Trần Đức Tín. Có lẽ chúng con tội lỗi, trước đây chúng con cũng ít đọc kinh tối và lười cầu nguyện nên Chúa muốn củng cố Đức Tin cho chúng con, đúng không cha ?

Cuối thư, con xin Chúa Giêsu – Mẹ Maria – Thánh Giuse và các Linh Hồn Thai Nhi đổ tràn hồng phúc cho quý cha trong Dòng. Con biết ơn cha Quang Uy đã dâng Thánh Lễ Tạ Ơn ngày 22.6.2013 ở Nhà Nguyện Hiệp Nhất DCCT và đích thân cử hành Bí Tích Thánh Tẩy cho cháu Đức Tín. Gia đình chúng con sẽ nhớ và cầu nguyện cho cha trong giờ kinh tối hằng ngày.

Giuse TRẦN VĂN THIẾT – Maria NGUYỄN THỤY MINH Ý

“MẸ ƠI, CON YÊU MẸ, YÊU TỪ HỒI THƠ BÉ…”

“MẸ ƠI, CON YÊU MẸ, YÊU TỪ HỒI THƠ BÉ…”

Trích EPHATA 641

Thằng nhóc người Mỹ phục vụ bàn tại nhà hàng mình làm là người theo đạo Cải Cách ( Reform Church ), nhánh Methodist. Bỗng dưng tuần trước, hỏi tôi: “Xếp ơi, xếp là người Công Giáo, có bao giờ xếp gặp Bà Maria chưa ?” ( Nguyên văn, thằng bé dùng từ “encounter” có nhiều nghĩa: chạm trán, gặp mặt, đối diện, chứng kiến một phép lạ của Mẹ Maria v.v… ).

Câu hỏi của cậu bé khiến mình suy nghĩ nhiều, cũng đến lúc mình nói lên chứng tá nhỏ bé của mình. Có lẽ sau “Jesus”, thì “Maria” là một tên gọi gây nên nhiều tranh cãi và nhạy cảm nhất. Lời mở đầu cuốn “More Than A Carpenter” của Josh McDowell, như sau: “…as soon as you mention Jesus, people often want to stop the conversation. Why have men and women down through the ages been divided over the question “Who is Jesus ?” ( ngay khi bạn đề cập đến Giêsu, người ta thường muốn ngưng đối thoại. Làm sao mà cả đàn ông lẫn phụ nữ trong mọi thế hệ cứ bị chia rẽ bởi câu hỏi này ?”

Mình muốn thay “Jesus” bằng “Maria” để minh họa khía cạnh ảnh hưởng rất sâu xa và rộng lớn của Mẹ Maria trong đời sống tâm linh và lý luận con người.

Điều gì đã làm cho một cái tên, một thôn nữ bình dị của làng quê Nazareth, được đề cập không nhiều trong Kinh Thánh, lại trở thành một tâm điểm cho nhiều lẽ sống, suy tôn, ca tụng, là cảm hứng cho mọi ngành nghệ thuật và cũng là chủ đề cho quá nhiều tranh luận và chia rẽ lớn lao ?

“Rất Thánh Mân Côi”, “Vô Nhiễm Nguyên Tội”, “Nữ Vương Hòa Bình”, “Mẹ đầy ơn phước” “Đấng Cầu Bầu”… Bao nhiêu là danh xưng, tước hiệu dành cho Mẹ Maria. Nhưng thú thật tôi lại rất say mê tước hiệu “Mẹ Hằng Cứu Giúp”. Vì một lẽ đơn giản, sự hiện diện rất rõ ràng và sinh động của Mẹ trong đời sống thế gian và cảm nghiêm tâm linh con người chính tôi.

Bác tôi là một Linh Mục, cuộc đời của bác có không biết bao lần bàn tay Mẹ can thiệp rõ ràng. Tôi chỉ xin kể lần cuối cùng. Lúc đó, bác đã rơi vào trạng thái “thực vật”. Bác sĩ gọi chị tôi và sơ phụ trách chăm sóc vào để thông báo ông đã hoàn toàn ở “trạng thái sống cũng như chết”, vậy chỉ còn vấn đề quyết định có chọn “an tử” hay không, nghĩa là nếu quyết định rút một sợi dây, bác sẽ ra đi nhẹ nhàng, còn ngược lại thì cứ để bác nằm đó, thoi thóp tội nghiệp ngày này qua ngày khác với đủ thứ máy móc, dây nhợ, có khi cả vài năm mới xuôi tay !

Chị tôi và bà sơ không thể quyết định, đúng là tiến thoái lưỡng nan, bỏ thì thương, vương thì tội đầy đầu ! Họ chạy ra ngoài, quỳ xuống ngoài hành lang nhà thương, và đọc kinh Mai Khôi cầu nguyện, chỉ ít phút sau, bác ra đi nhẹ nhàng và thanh thản, chẳng cần đến chuyện “trợ tử”, “an tử” chi cả !

Thời còn chiến tranh, đợt pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, mấy chị em tôi nằm dưới cầu thang của tòa nhà, run rẩy vì sợ. Chị Cả nói tất cả hãy cùng đọc kinh Mai Khôi, vừa đọc vừa khóc. Sáng ra, nhìn cái chỗ hai anh em tôi vẫn chơi đùa, chi chít các loại đinh ghim có bốn cánh, khi bom nổ, bắn ra gây sát thương tàn bạo. Cái chỗ ấy chỉ cách chỗ ẩn nấp của chúng tôi một tấm vách gỗ mỏng mảnh mong manh !

Có lần tôi nhận giữ quỹ quyên góp cho người nghèo gửi về từ Mỹ. Sổ sách thế nào, khuyết mất 5.000 đôla. Một số tiền quá lớn lúc bấy giờ. Tôi lo đến tím tái cả người, làm sao bây giờ ? Tôi chả có bất kỳ chi tiết gì giúp hình dung số tiền đó ở đâu. Chả dám hé răng, cứ mê muội cả hai, ba tuần lễ liền. Thế rồi, trong trí nhớ chợt lóe ra một niềm hy vọng, tôi chạy đến trước pho tượng Mẹ Maria trong nhà, quỳ xuống cầu xin. Lạy Chúa tôi, tôi tìm ra ngay lập tức nguyên vẹn cái bao thư đựng tiền tôi làm rớt ngay dưới gầm cái tủ sắt, rất nhiều người làm ra vào, bất kỳ ai cũng có thể đã nhặt lấy và cầm đi cái phong bì ấy.

Có đến năm, sáu lần xảy ra những chuyện liên quan đến tiền nong tương tự, và chỉ sau lời cầu nguyện Mai Khôi, Mẹ lại giải quyết ổn thỏa, cứ như đùa, không tin không được !

Một người xếp cao cấp công ty dược phẩm kia, thân với tôi, ông gặp vấn đề xung khắc tinh thần, vì công ty ông sản xuất thuốc tránh thai, thuốc giục thai, thuốc phá thai, mà ông lại là người Công Giáo. Ông hỏi tôi: “Tôi nên làm thế nào ?” Cái tên kém cỏi về Giáo Lý như tôi làm sao mà đủ tư cách trả lời bây giờ ! Tôi hỏi cha Quang Uy, Cha nói: “Anh bảo ông ta cứ cầu nguyện xin Mẹ Maria hướng dẫn”. Tôi thậm chí bực mình vì cha Uy đã không đưa ra được một lời khuyên nào cụ thể, chứ nói như thế thì quá đơn giản, ai chẳng nói được. Nhưng rồi tôi cũng vâng lời làm theo đúng chỉ dẫn. Tôi tặng ông một chuỗi Mai Khôi, đem vào Nhà Thờ Phủ Cam, Huế, nhờ cha Sở thánh hóa… Chỉ ít lâu sau, ông xin nghỉ việc ở công ty dược phẩm kia một cách bất ngờ, và bây giờ, ông đang vận hành một công ty tư vấn riêng, rất thành công. Thỉnh thoảng ông vẫn gửi email cảm ơn vì đã “nhắc tôi cầu nguyện với Mẹ Maria, điều mà tôi không hề nghĩ là sẽ giải quyết được vấn đề cách trọn vẹn đâu ra đấy như thế !”

Những năm 1994, 1995 gì đó, ở Việt Nam rộ lên loại tội phạm chuyên bắt cóc người đem sang bán bên Kampuchia, con bé em lần đầu tiên lên Sàigòn học luyện thi Đại Học. Hẹn nó ở ngã tư Hàng Sanh, tới giờ, ra đón chả thấy đâu, nghĩ nó kêu xe ôm, chạy về nhà ở đường Hồ Biểu Chánh cũng chả thấy, lại chạy ra Hàng Sanh, rồi lại chạy về nhà… cứ thế cả gần bốn, năm vòng mà em thì cứ mất tăm. Vợ ngồi sau xe cứ sụt sịt khóc vì lo sợ. Vòng cuối cùng, tôi bảo vợ: “Thôi, phải đi báo Công An thôi”. Nhưng từ Phú Nhuận, tôi vòng qua Nhà Thờ Đức Bà và đọc một kinh Mai Khôi với lời cầu nguyện “xin Mẹ cho chúng con bằng an” rồi lại vòng lên Văn Thánh, về nhà, định bụng sẽ tới đồn Công An luôn, tự nhiên thấy đèn trên lầu sáng, gọi với lên, con bé em thò đầu ra… Hú vía, quát đứa em mà lòng bay bổng lên tới Mẹ Maria.

Khi vợ chồng tôi sinh cháu đầu lòng, cháu bị cái gì đó, không ra “phân su”. Vợ tôi là bác sĩ phán cho một câu bàng hoàng ngay trong nhà thương: “Anh ơi, nếu sau vài giờ nữa, không thấy ra phân su, con mình sẽ phải… đại phẫu !” Chúa ơi, sợ ơi là sợ, nhìn con khóc, bụng trương phình mà thắt cả ruột gan. Chạy một mạch ra Nhà Thờ Phú Hạnh gần đó, quỳ bên đài Đức Mẹ và nói lời cầu nguyện rối bời chả giống ai: “Mẹ ơi, xin Mẹ cho con của con nó chịu ra… phân su”. Về đến nhà thương, vừa đúng lúc, thấy bà ngoại đang giúp con thải ra một đống phân su đen và quánh đặc như nhựa đường. Lúc đó, tôi dường như muốn sụp xuống quỳ lạy Mẹ Maria một cách vô thức.

Và còn nữa, nhưng cũng chỉ là chuyện bé bỏng của cá nhân tôi…

Các Thầy Dòng Phanxicô luôn mang theo một chuỗi Mai Khôi lòng thòng ngay chỗ thắt lưng có sợi dây thừng màu trắng thắt ba cái nút tượng trưng cho ba lời khấn, ai cũng hiểu rằng, các Thầy coi đó là vật hộ thân, Đức Mẹ sẽ bảo vệ các thầy trên đường đời hành đạo, đi trên lưng lừa ngựa qua những con đường xa xôi, nguy hiểm để tới những nơi truyền giáo. Nhưng có lẽ, ít người biết một điều khác, và điều này các Thầy vẫn đang làm. Ngày xưa, khi cưỡi lưng ngựa, lừa, la đi trên con đường dài tới nơi cần, các Thầy dùng chuỗi Mai Khôi cầu nguyện và con đường sẽ trở nên ngắn hơn, hành trình như nhanh hơn. Các Thầy gọi đó là “The Franciscan way”. Lời cầu kinh Mai Khôi luôn làm cho các con đường đi trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn.

Và bản thân tôi, khi lái xe tới chỗ làm hay từ chỗ làm lái xe về nhà hàng ngay, tôi vẫn làm Dấu Thánh và đọc Kinh Mai Khôi: “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ…”

Ks. THÁI VŨ, Texas ( Hoa Kỳ )

TUỔI THƠ

Nguyện cầu cho những hình ảnh này bây giờ và mãi mãi không còn tồn tại trên qủa địa cầu và nhất là nơi quê hương VN thân yêu !!!.

TUỔI THƠ

Cho tôi một vé tuổi thơ
Về thăm xóm mẹ đợi chờ bấy lâu
Đường quê lầy lội nông sâu
Áo thô miếng vá bạc mầu nắng mưa
Chìm trong giấc mộng ban trưa
Bụng không uống ngụm nước mưa qua ngày
Đầu khô tóc cháy bay bay
Da trần gió bụi trắng tay kiếp nghèo
Nhọc nhằn vất vả đeo theo
Mồ hôi muối bạc mốc meo phận người
Tuổi thơ thiếu mất nụ cười
Sân trường phấn bảng hổ ngươi được gì
Qua rồi tuổi mộng mơ đi
Qua rồi giọt nắng xuân thì bay xa
Còn đâu nước mắt ruột rà
Còn đâu tiếng mẹ bóng cha ngõ về
Lung linh xó tối u mê
Co ro côi cút ê chề đắng cay…

Liverpool.6-3-2015
Song Như.

Làm đơn xin vào bãi nhặt rác mưu sinh

Làm đơn xin vào bãi nhặt rác mưu sinh

Trên bãi rác ngập đến đầu người bốc mùi hôi thối, hàng trăm người vẫn trèo lên đào bới, tìm kiếm ve chai bán lấy tiền sinh sống qua ngày.

Làm đơn xin vào bãi nhặt rác mưu sinh
Từ sáng sớm, hàng chục chiếc xe nối đuôi nhau đưa rác từ trung tâm TP về bãi Khánh Sơn (phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng). Khi xe đổ rác xuống bãi, hàng trăm người dân ở các phường Hòa Khánh Nam, Hòa Khánh Bắc ào tới tranh nhau lùng sục, đào bới tìm bất cứ thứ gì có thể bán được. Mỗi ngày bãi Khánh Sơn tiếp nhận hơn 700 tấn rác thải của người dân TP.
Tại bãi rác này thường xuyên có hơn 100 người hành nghề nhặt rác để nuôi sống bản thân và gia đình họ. Mỗi ngày bãi rác Khánh Sơn tiếp nhận hơn 700 tấn rác thải của người dân toàn TP Đà Nẵng.
Dụng cụ bới rác là một chiếc cuốc 3 chĩa nhỏ. Những người này lượm từng bao nylon, giấy vụn, phế liệu, chai nhựa… thậm chí cả xương động vật, thức ăn thừa.
cho biết hầu hết các loại rác thải nhặt được đều có thể bán. Vừa nói, bà Lan vừa phân loại từng thứ một, bao ni-lông hay gọi là lông giòn bán 800 đồng/kg, sắt phế liệu thì tùy loại có giá khác nhau, xương (heo, bò) cũng có giá 800 đồng/kg…
Sau khi rác được phân loại, họ mang bán cho các cơ sở thu gom. Theo đó, 1 kg nylon có giá 800 đồng, xương heo và bò 800 đồng/kg, còn sắt phế liệu thì tùy từng loại có giá khác nhau…
Ban đầu chỉ có vài người tìm đến mưu sinh nhưng càng về sau hình thành cả đội quân chuyên nhặt rác. Trong đó, có những gia đình cả cha mẹ, con cái nối tiếp nhau với nghề .
Ban đầu chỉ vài người tìm đến mưu sinh nhưng càng ngày càng nhiều, có những gia đình cả cha mẹ, con cái nối tiếp nhau sống với nghề lượm phế liệu ở Khánh Sơn.
Ông Hà Văn Thái - Giám đốc xí nghiệp cho biết, về nguyên tắc là sẽ cấm người dân nhặt rác, nhưng do những người nhặt rác tại bãi rác này phần lớn là dân địa phương, có hoàn cảnh nghèo khó nên đã cho họ làm đơn xin nhặt rác.
“Vẫn biết rất nguy hiểm và lây nhiễm bệnh tật nhưng vì nghèo khó nên chúng tôi phải chấp nhận sống trên bãi rác này chứ biết làm gì bây giờ”, ông Nguyễn Văn Đắc (trú Hòa Khánh Nam) cho hay. Theo tìm hiểu, nhiều người đã có hơn 20 năm làm nghề nhặt rác ở bãi này.
Nhiều gia đình có vợ, chồng và các con đều nhặt rác ở đây. Theo lời kể của họ thì trước đây họ đều làm nông. Nhưng sau đó chính quyền đã thu hồi ruộng của họ để quy hoạch bãi rác này (khoảng 38 ha) nên họ phải lên đây nhặt rác mưu sinh.
“Ai cũng nói sao không kiếm cái nghề gì sạch sẽ hơn chút để làm tiền, thiếu gì chỗ mà chui lên bãi rác bẩn thỉu này. Nhưng nhìn rứa chứ bãi rác này nuôi sống được biết bao nhiêu gia đình. Đây không phải là nghề xấu xa nên tôi không ngại gì”, một người nhặt rác nói. Ông Hà Văn Thái – Giám đốc xí nghiệp Quản lý bãi và xử lý chất thải Đà Nẵng (thuộc công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Đà Nẵng) cho biết về nguyên tắc là cấm người dân vào bên trong, nhưng do những người nhặt rác ở đây phần lớn là dân địa phương, nghèo khó nên… ai làm đơn thì xí nghiệp cho vào.
Ông Hà Văn Thái, Giám đốc xí nghiệp cho biết thêm, những người nhặt rác đều rất thật thà. Có những trường hợp họ nhặt được sổ đỏ, sổ hộ khẩu… họ đều tìm đến tận nơi để nộp mà không hề đòi hỏi gì cả.
Ông Thái cho biết thêm, những người nhặt rác đều rất thật thà. Nhiều lần họ nhặt được sổ đỏ, sổ hộ khẩu… đều tìm đến tận nơi để giao lại mà không hề đòi hỏi gì cả.
Làm đơn xin vào bãi nhặt rác mưu sinh
Theo ông Thái, việc người dân vào bãi rác để mưu sinh không có phương tiện bảo hộ rất dễ sinh bệnh. “Nếu cấm người dân nhặt rác cũng đồng nghĩa chặn hết đường sống của họ. Nguyện vọng của tôi là muốn TP đầu tư dây chuyền xử lý và phân loại rác. Lúc đó, chính quyền có thể tận dụng người nhặt rác làm công đoạn phân loại thủ công để cuộc sống của họ không bấp bênh như hiện nay ”, ông Thái tâm tư.
Những người nhặt rác thường ăn, ngủ luôn tại bãi rác. Họ làm từ mờ sáng và đến tối mới về nhà.
Những người này làm từ mờ sáng đến tối mới về nhà.
Sau khi ăn cơm trưa, họ tranh thủ tìm chỗ hạ lưng nghỉ ngơi ngay tại bãi rác rồi sau đó lại tiếp tục làm việc.
Sau khi ăn cơm trưa, họ tranh thủ tìm chỗ nghỉ ngơi ngay tại bãi rác, sau đó lại tiếp tục làm việc.
Phóng to 

Bà Lê Thị Tuyết Mai, Phó Chủ tịch UBND phường Hòa Khánh Nam, cho biết địa phương rất khó xử trong việc tính toán phương án thay đổi ngành nghề cho những người nhặt rác ở Khánh Sơn. Phần lớn những người nhặt rác đều có trình độ thấp và đã lớn tuổi nên khó tìm được công việc thích hợp.

Theo bà Lê Thị Tuyết Mai, Phó Chủ tịch UBND phường Hòa Khánh Nam, địa phương rất khó xử trong việc tính toán phương án thay đổi ngành nghề cho những người nhặt rác ở Khánh Sơn. Phần lớn họ đều có trình độ thấp và lớn tuổi nên khó tìm được công việc phù hợp

MÙA CHAY, MÙA ĐỔI MỚI

MÙA CHAY, MÙA ĐỔI MỚI

LM Phêrô Nguyễn Văn Hương

lent

Mùa Chay là thời gian thuận tiện nhất để mỗi người kitô hữu đổi mới con người và đời sống của mình. Đổi mới là quy luật của sự phát triển và tiến bộ.  Chúng ta quan sát thiên nhiên trong những ngày mùa đông giá lạnh, cây cối trở nên cằn cỗi, trơ trụi và xem ra như không còn sức sống.  Nhưng khi mùa xuân về, khí trời ấm áp, cây cối bừng dậy sức sống, chúng đâm chồi nảy lộc, trổ hoa muôn màu sắc trông thật đẹp mắt.  Thiên nhiên và sự sống xung quanh chúng ta thật kỳ diệu!  Qua sự kiện này, chúng ta nhận thấy rằng đổi mới là quy luật của phát triển nơi thiên nhiên.

Đối với người kitô hữu, đổi mới là quy luật của sự nên thánh.  Vì thế, Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải đổi mới mỗi ngày, đổi mới liên lỉ, đặc biệt khi chúng ta bước vào một năm mới và nhất là bước vào Mùa Chay thánh.  Tuy nhiên, chúng ta thử hỏi rằng chúng ta cần phải đổi mới như thế nào?

Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ đổi mới ở bên ngoài như thay đổi dáng dấp, cách ăn mặc, hay nơi chốn sinh sống, nhưng Ngài mời gọi chúng ta phải đổi mới triệt để từ bên trong, đổi mới toàn bộ con người và đời sống của chúng ta.

Để thực hiện được điều đó, thánh Phaolô trình bày về sự đổi mới triệt để và toàn vẹn mà chúng ta có thể tóm tắt qua 3 bước sau đây:

 

1/ Bước thứ nhất, đổi mới là cởi bỏ con người cũ

Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham hố lừa dối” (Eph 4, 22).  Theo thánh Phaolô, cởi bỏ con người cũ là cởi bỏ “con người thuộc hạ giới,” con người sống theo xác thịt với những hành vi: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống vậy.  Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5, 20-21).

Danh sách các thói xấu mà thánh Phaolô đưa ra ở đây chỉ có tính cách tượng trưng, nhưng các tính hư tật xấu này cũng đủ để cản ngăn con người tiến lên với Thiên Chúa.  Chúng là các dây xích cầm buộc con người trong vòng tục lụy và gây ra biết bao nhiêu hậu quả khổ đau cho cuộc sống mỗi người.

Mùa Chay là cơ hội quý báu để chúng ta cởi bỏ con người cũ, từ bỏ các thói hư tật xấu này trong chúng ta.  Nếu không từ bỏ chúng, sẽ không có sự tiến bộ về nhân đức, và như thế chúng ta sẽ không được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời.  Chính vì thế, Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải lột bỏ con người cũ với các tội lỗi và đam mê xấu xa nguy hại ấy để mặc lấy đời sống mới theo Thánh Thần hướng dẫn.

 

2/ Bước thứ hai là “phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep 4, 23)

Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba quyền năng và cùng một bản tính như Ngôi Cha và Ngôi Con.  Ngài là Đấng đồng hành với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế.”  Ngài hoạt động trong chúng ta trong mọi trạng huống: như cuồng phong biến đổi, như nước thanh tẩy, như hơi thở ban sự sống, như lửa “đốt cháy” tâm can, như dầu tăng sức mạnh.

Chúng ta cần Chúa Thánh Thần biến đổi con người yếu hèn của mình, đổi mới tâm trí của chúng ta. Bởi vì mọi sai lầm bắt nguồn từ suy nghĩ sai và thiếu hiểu biết của chúng ta đối với đường lối của Thiên Chúa.  Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần biến đổi tâm trí, nghĩa là biến đổi cái nhìn, tư tưởng, quan điểm, nghĩ suy của con người cũ, để có cái nhìn và suy nghĩ của Thiên Chúa, hướng tới sự thật và tình yêu, để thăng hoa trở nên người mới mạnh mẽ, hăng say, đầy tràn nhiệt huyết hơn.

 

3/ Bước thứ ba là mặc lấy con người mới trong Chúa Kitô

“Anh em hãy mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Eph 4, 24). Thánh Phaolô quả quyết rằng: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được Rửa tội để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô (Gl 3, 27). Ngài cũng mời gọi: Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13, 14).

Quả thế, Đức Giêsu là con người mới và kiểu mẫu cho chúng ta.  Mỗi người kitô hữu được tạo dựng và tiền định để trở nên giống Chúa Kitô.  Nếu cởi bỏ con người cũ là lột bỏ những thói hư tật xấu, thì trở nên con người mới là mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, mặc lấy trong mình những tâm tình của Chúa Kitô, đó là lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và tha thứ cho nhau (x. Cl 3, 12-14).

Vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ đời sống cũ, mặc lấy đời sống mới bằng cách rèn luyện các nhân đức, thực hành những giá trị Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã dạy, sống như Chúa đã sống.  Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể được biến đổi toàn bộ con người chúng ta theo khuôn mẫu là Chúa Kitô, từ suy nghĩ, phán đoán, tình cảm, con tim, động lực sống và cả cách hành xử của chúng ta.  Đó là con người mới, nhân cách mới, đời sống mới trong Chúa Kitô.

 

Kết luận

Cha Anthony de Mello trong cuốn “The Song of the Bird” có kể câu truyện về Sufi Bayazid, ông nói về chính mình như sau: Tôi là nhà cách mạng, khi tôi còn trẻ và tất cả lời cầu nguyện của tôi với Chúa là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con thay đổi thế giới.”   Khi tôi tới tuổi trung tuần và nhận thấy rằng nửa đời người đã qua đi mà không đổi thay được một tâm hồn nào.  Tôi đã thay đổi lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con ân sủng để thay đổi những người liên hệ và gặp gỡ con, như gia đình và bạn bè của con và con sẽ được an lòng.”  Bây giờ, tôi đã già và ngày giờ sắp hết, lời cầu của tôi: “Lạy Chúa, xin cho con ân sủng để thay đổi chính con.”  Nếu tôi cầu nguyện điều này ngay từ khởi đầu, tôi đã không phí uổng cuộc đời của mình.

Câu chuyện trên đây muốn nói với chúng ta rằng: sự thay đổi chính mình là sự thay đổi quan trọng nhất.  Nếu muốn thay đổi thế giới, chúng ta phải bắt đầu từ sự thay đổi chính mình.  Mùa Chay là mùa đổi mới.  Hội Thánh kêu gọi các tín hữu canh tân cuộc sống, từ bỏ lối sống cũ, con người cũ, để sống đời sống mới, công chính và thiện hảo hơn theo mẫu gương Chúa Kitô.

Ước mong mỗi người kitô hữu biết sử dụng và sống thời gian Mùa Chay thánh này như là cơ hội để đổi mới chính mình trở nên thành con người mới trong Chúa Kitô.


LM Phêrô Nguyễn Văn Hương

Mùa chay 2015

Chút ánh sáng cho cuộc đời,

“Chút ánh sáng cho cuộc đời”,
Cất tiếng hát cho một Người.
Có mắt biếc soi nụ cười.
Tươi như cánh hoa tình ái.

(Nhạc: Les amoureux qui passent – Lời: Nam Lộc – Một thời để yêu)

Trần Ngọc Mười Hai

(Gv 7: 13-15)

“Chút ánh sáng cho cuộc đời”, là thời để yêu sao? Có chắc thế không, hỡi bạn già tên Nam Lộc? Sao tôi đây, hát cũng nhiều lời lẽ của bạn vẫn từng viết, hoặc trích-dịch, mà vẫn cứ thấy cuộc lại ra khác, như câu hát tiếp theo do bạn diễn-tả:

“Đã biết nói yêu một lần
Sẽ thấy đớn đau thật gần
Sẽ thấy nắng phai nhạt dần
Khi vương vấn trong tình yêu.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Thôi thì, cứ coi là thế đi. Thôi thì, cứ coi như hành-xử của Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa mới đây, đối với Giáo-triều La Mã, cũng hệt thế.  Thôi thì, cũng cứ hát như thế để rồi ta lại thêm vào đó lý-do khiến mình hát nó vào lúc này, để làm nền. Như câu tiếp, còn đáng kinh khiếp hơn:

“Đời là một thời để yêu
Yêu trong bóng đêm lẻ loi
Yêu cho bao nỗi đắng cay
Yêu cho quên từng ngày tháng

Tình là một lần được mơ
Mơ trong bóng đêm lẻ loi
Có những chiếc lá úa rơi
Rồi chơi vơi vào trời tối ..”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Phải thế không? “Tình là một lần được mơ? Mơ trong bóng đêm lẻ loi”? Mơ sao được, khi tình còn đó rất thực, chứ chẳng phải là giấc mơ hay giấc mộng gì ráo trọi.

Phải thế không? Khi chính đấng chủ quản Giáo Hội ở Rôma, lại đã dám dùng dao nhọn mổ xẻ để dứt bỏ khối u của căn bệnh? Mơ thế nào đây, khi chính miệng Đức Giáo chủ lại nói ra lời lẽ rất đáng khiếp sợ, tương tự như:

“Giáo-triều được kêu gọi cải-tiến, luôn cải-tiến và tăng-trưởng trong hiệp-thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng Giáo triều cũng như mỗi thân thể con người cũng có thể bị bệnh, hoạt-động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây, tôi muốn liệt-kê vài căn-bệnh có thể xảy ra, là những bệnh của Giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của Giáo-triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa-mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn-bị lãnh-nhận bí-tích Hoà-giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh…” (x. Mười Lăm Căn Bệnh của Giáo triều Rôma cần chữa trị www.chuacuathe.com 22/12/2014 ở “các mục chính”

15 căn bệnh của Giáo triều đã được kể. Con dao mổ xẻ đã và sẽ được dùng đến để làm công việc của vị chữa lành, trong Hội thánh. Vấn-đề ở đây hôm nay, không là: kể đi kể lại những bệnh-tật của Giáo-triều hay cá nhân nào ở trong đó, để rồi sẽ bị dứt bỏ, như từng thấy hôm trước qua sự việc “Đức Phanxicô cách chức tư lệnh vệ-binh Thụy Sỹ” (x. www.bbc.co.uk.anzeigen 22/12/2014)

15 căn-bệnh nói ở đây, không chỉ là bệnh của Giáo-triều La Mã, như mọi người từng biết đến. Nhưng, (lại chữ “nhưng” rất đáng sợ) vấn-đề cần cứu xét ở đây, là câu kết thúc của Đức Phanxicô, về căn-bệnh ấy, như sau:

“Căn bệnh và cơn cám dỗ ấy cũng là nguy-cơ của mỗi Kitô-hữu, mỗi giáo-xứ, cộng-đoàn, dòng tu, các phong-trào Giáo-hội trên bình diện cá-nhân và cộng-đoàn. Đức Giáo Hoàng mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân-lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này…” (xem thêm Trần Đức Anh OP, tin Vatican 22/12/2014 đọc vào những ngày rong chơi ở Tibet & Nepal cuối năm 2014)

Điều cần bàn ở đây, là ta cứ “phiếm” thêm cho rộng đường dư-luận để rồi đi đến một kết-cuộc khá tốt đẹp, trong đời người.

Điều, mà bạn và tôi, ta cứ muốn bàn và cứ thế mà làm vào lúc này, là nhìn vào những chuyện vui tươi, tích cực có giòng chảy thi-ca, âm-nhạc để gợi hứng cho một cuộc sống đầy lạc quan hơn.

Nghĩ thế rồi, xin mời bạn và mời tôi, ta hát tiếp những câu ca đầy ý-nghĩa, rất như sau:

“Có biết đắng cay một lần

Mới tiếc nuối ân tình này

Mới biết nhớ mong từng ngày

Như khi thấy nhau lần cuối


Hết đắm đuối trong cuộc tình

Hết đứng ngóng trông Người tình

Sẽ thấy đớn đau một mình

Như khi tiễn nhau lần cuối ..


Những phút cuối trong cuộc đời

Vẫn thấy nhớ thương một Người

Lúc nhắm mắt xin nụ cười

Thay cho chiếc hôn lần cuối.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Nói thế rồi, bần đạo nay xin “phiếm” tiếp về những chuyện xảy ra trong đời mình/đời người, như sau:

Bần đạo có người anh rể cũng họ Phạm tên đệm có chữ Duy nhưng tên gọi lại Cử, Phạm Duy Cử hẳn hòi, chứ không không phải Duy Cường, Duy Quang hoặc Duy Nhượng rất nổi cộm xưa nay… Giáng Sinh 2014 vừa rồi, anh viết cho bần đạo những giòng chữ “để đời” về tình hình và tâm tính của người cao niên, như thế này:

Tôi và chị của chú vẫn bình thường, rất rảnh việc nên hay tranh cãi (không phải là cãi nhau đâu) về đủ mọi thứ việc thời sự, quốc nội, quốc ngoại, chuyện ngày nay/ngày xưa. Ai cũng muốn thắng. Phán bảo như cha cố, là bệnh của người già. Tôi có đi hỏi các bạn già của tôi về chuyện này, thì mọi người cho biết đây là bệnh rất hay lây, nhà nào cũng bị không biết bên đó có bị vậy hay không?” – và hình như các bà đều thắng cả mà mấy ông bạn tôi cũng y hệt như thế.” (Trích thư viết tay của người anh rể họ Phạm trong gia đình họ Trần, hôm 24/12/2014 đang ở Mỹ)

Rất đúng là như thế, phải không hỡi bạn và tôi? Nay, hãy đi vào đời, sẽ  được nghe những truyện kể rất dễ nể, nhưng ít được nghe. Vậy thì, xin mời bạn mời tôi, ta cứ thử nghe xem rồi suy nghĩ về câu chuyện cũng thoáng chốc như sau:

“Tôi ngồi cùng người bạn trong một quán cà phê nổi tiếng tại một thị trấn lân cận của Venice, Ý, thành phố của ánh sáng và nước.

Khi chúng tôi thưởng thức cà phê, một người đàn ông bước vào và ngồi xuống chiếc bàn trống bên cạnh chúng tôi. Anh gọi người phục vụ và nói:

– Hai ly cà phê, một ly trên bức tường kia.

Chúng tôi khá quan tâm khi nghe gọi thức uống như thế và quan sát thấy người đàn ông được phục vụ một ly cà phê nhưng trả tiền cho 2 ly. Khi anh đi khỏi, người phục vụ dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”.

Trong lúc chúng tôi còn ngồi đó, hai người đàn ông khác vào quán và gọi 3 ly cà phê, 2 ly trên bàn và 1 ly trên tường. Họ uống 2 ly cà phê nhưng trả tiền cho 3 ly và rời đi. Lần này cũng vậy, người phục vụ làm tương tự, anh dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”.

Có điều gì đó làm chúng tôi thấy lạ và khó hiểu. Chúng tôi uống hết cà phê, trả tiền rồi rời đi. Vài ngày sau, chúng tôi có dịp quay lại quán cà phê này. Trong lúc chúng tôi đang thưởng thức cà phê, một người đàn ông ăn mặc tồi tàn bước vào. Khi anh ngồi xuống ghế, anh nhìn lên tường và nói:

– Một ly cà phê trên tường.

Người phục vụ mang cà phê đến cho anh với sự tôn trọng như thường lệ. Người đàn ông uống cà phê và đi khỏi mà không trả tiền. Chúng tôi ngạc nhiên chứng kiến tất cả sự việc, lúc người phục vụ tháo một mảnh giấy trên tường và bỏ nó vào thùng rác.

Giờ thì chúng tôi không còn ngạc nhiên nữa – sự việc đã rất rõ ràng. Sự tôn trọng tuyệt vời dành cho người nghèo được thể hiện bởi các cư dân ở thị trấn này đã làm đôi mắt chúng tôi đẫm lệ. Hãy suy ngẫm những điều người đàn ông này mong muốn. Anh bước vào quán cà phê mà không phải hạ thấp lòng tự trọng… Anh không cần xin một ly cà phê miễn phí… không cần hỏi hay biết về người đang cho anh ly cà phê này… anh chỉ nhìn vào bức tường, gọi thức uống, thưởng thức ly cà phê của mình và rời khỏi quán. Một ý nghĩ thật sự đẹp. Có lẽ đây là bức tường đẹp nhất mà bạn từng nhìn thấy. (truyện kể rút từ điên thư trên mạng năm 2015)

Kể như thế, là kể về những sự-kiện xảy ra trong đời, với mọi người. Tiếp đến là những đoạn ngắn cũng được kể trên mạng do bạn bè chuyền cho nhau trong lúc “trà dư tửu hậu” rất một “thời để yêu và để…cãi” như truyện kể ở bên dưới:

Một ông nhà binh nhanh chân phát biểu truớc:

– Các ông có biết không?  mỗi cuối tuần tôi chở vợ đi chợ, tôi đẩy xe theo sau bà.  Mua đầy xe, tôi hỏi bả “Về chưa?”  Bả nói ông chở cho tôi lại chợ khác mua một chai nước mắm.  Tôi hỏi  “Sao bà không mua ở đây luôn.”  Bả nói:  “Ở đây nước mắm tới $2.99, còn chợ kia chỉ có $2.88”. Từ chợ nầy đến chợ kia lái xe 45 phút, bả quên tính tiền xăng. Tôi với bả bắt đầu… cãi.

Ông nhà binh chen vô:

– Còn tôi, khi lái xe, tôi quẹo tay phải, bả nói sao ông không quẹo tay trái. Tôi chạy nhanh, bả kêu tôi chạy chậm lại. Tôi chạy chậm, bả nói ông chạy như rùa bò. Tôi nói: “để tôi order hãng xe Toyota chế cho bà xe có 2 tay lái, để bà khỏi lái xe bằng miệng”.  Và, thế là cãi nhau.

Ông nhà bếp lắc đầu và kể chuyện ông nghe đuợc như sau:
– Có ông kia lái xe chở bà vợ ngoài xa lộ,chạy nhanh, bị cảnh sát quay đèn chận lại.  Cảnh sát hỏi “Ông có biết lỗi gì không?”  ông chồng chưa kịp trả lời, bà vợ tươm tướp la lên!  “Tôi đã nói ông rồi, ông chạy bạt mạng 7, 8 chục miles có ngày bị phạt mà ông không chịu nghe.”
Ông chồng  giận dữ la bà vợ:
– Để tôi lo, bà im cái mồm bà lại đi.
Không ngờ ông Cảnh Sát này là người Việt, nghe được tiếng Việt, hỏi bà vợ:
– Bộ ông chồng bà ở nhà cũng nạt nộ bà như vậy phải không?
Bà vợ liền trả lời:
– Đâu có.  Bữa nào ổng uống rượu say, ổng mới la như vậy.

Ông chồng nhận 1 ticket vượt tốc độ và 1 ticket uống rượu lái xe. Thế là vợ chồng lại cãi nhau.

Ông nhà binh nghe nói nãy giờ nhảy vô:
– Bà ngoại con Tép của tôi cũng không thua ai.
Bả nói với tui: “Sao tôi thấy ông ở Mỹ mấy chục năm rồi mà không hội nhập đuợc gì hết.”
Tôi tức quá:
– Bà không thấy tôi hội nhập sao? Ai cao máu, tôi cũng cao máu, ai cao mỡ, tôi cũng cao mỡ, ai tiểu đường, tôi cũng tiểu đường, tôi còn hơn nguời ta cái thấp khớp nữa.  Bà còn muốn tôi hội nhập gì nữa?
– Bà ngoại còn  nói: “Ý tôi muốn nói là ông không biết galant như nguời Mỹ, mở cửa xe cho vợ, mua bó hoa tặng vợ ngày Birthday, ngày Valentine.” …
– Trời ơi! Tôi cũng  muốn mở cửa xe cho bà lắm chứ, nhưng sợ người ta nhìn vào, người ta nói: “Thân bà một đống, cọp ăn 3 ngày không hết, bộ bà đó bị bịnh bại liệt gì mà không mở cửa xe được”. Còn birthday của bà, tôi mua cho bà 1 bó rau muống, 1 bó hành, 1 bó ngò, bà còn muốn gì nữa.

Thế là ông bà ngoại của con Tép bắt đầu cãi.

Ông nhà văn nãy giờ ngồi trầm ngâm,cuời mím chi, chậm rãi kể:
– Có một ông chồng đi sau xe chở quan tài của vợ đưa ra nghĩa trang. Ông bạn đi gần bên thấy ông này sao cái miệng nhép nhép như đọc kinh. Ông bạn tò mò đến gần hơn, thì nghe ông này không phải đọc kinh, mà ông ấy đang hát. Ông bạn hỏi: “Đám tang vợ vui vẻ gì mà ông hát?”
Ông chồng trả lời:

– Từ ngày cuới bả đến giờ, chỉ có hôm nay tôi đi chung với bả mà không cãi nhau”

Ông nhà bếp chen vô một chuyện khác.Ông kể năm rồi, ông phải mổ van tim. Bà vợ ngồi kế bên than:  “Ông ơi, ông chết tôi chết theo”

Ông hoảng hồn: “Thôi bà ơi, để tôi đi một mình cho thanh thản, khỏi phải đi chung, khỏi phải cãi với bà.” (lại vẫn trích những câu truyện vụn vặt trên mạng)

Kể gì thì kể. Truyện gì cũng kể và cũng cứ kệ. Bạn và tôi ta cứ bàn và cứ kể cho nhau những chuyện vui buồn trong ngoài nhà Đạo, để còn sống. Sống vui tươi, mạnh-mẽ đời hôn-nhân vợ-chồng, cũng nên thêm đôi điều từ nhà mô-phạm nọ ở Úc rất như sau:

“Ngày nay, khi lấy nhau, người ta lại cứ chịu áp-lực từ nhiều phía. Với nền văn-hoá chú-trọng nhiều vào sự chất đầy cho bản thân mình được nhiều thứ, những thứ đòi có sự đồng-đều cho mọi người và mọi nhà, thì khó có thể duy-trì tình thương-yêu được sống sót. Thành thử ra, mọi kỳ-vọng trước đây ở hôn-nhân cũng đổi thay đã rất nhiều. Và từ đó, mỗi bên mỗi phía trong các cặp phối-ngẫu ở nhiều nơi, nay khác biệt nhiều về những trông mong và kỳ vọng cho chính mình. Kỳ vọng, có được sự quân-bình tinh-tế giữa sự phụ-thuộc và độc-lập. Giữa cả việc chăm lo săn sóc cho người phối ngẫu phiá bên kia, lẫn việc người kia phải lo phải chăm cho chính mình, phía bên này. Những kỳ vọng về nhu-cầu riêng rẽ lẫn rất chung của cả hai. Thành thử, trong hôn-nhân luôn có sự dè chừng và căn dặn: đừng phá bỏ con tàu chuyên chở hai chúng mình là hai người đồng hội đồng thuyền, suốt cả đời. Bởi, nếu bạn làm vậy thì một trong hai chúng ta sẽ bị chìm. Thật cũng không đáng để làm thế”. (xem thêm Margie Ulbrick, Keeping Love Alive, The Majellan Family October-December 2014, tr. 13-15)

Mỗi lần nhắc đến “một thời để yêu và để ghét, có…cãi vã”, bần đạo đây lại nhớ Sách Giảng Viên ở Cựu Ước, có những đoạn và những câu nói rất rõ về lập trường tư-tưởng còn sớm sủa, chưa ai nghĩ. Những lời tương-tự còn hằn in trong tâm trí của mỗi người.

Nhưng, giở sách này ra đọc, bần đọc lại cứ dán mắt vào những câu, như sau:

Hãy ngắm xem việc Thiên Chúa làm :
Người đã bẻ cong, nào ai uốn thẳng được ?
Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng.
Ngày bị rủi ro, hãy gẫm mà xem :
Ngày nào cũng do Thiên Chúa làm nên,
vì thế con người không thể khám phá
những gì sẽ xảy ra sau khi mình nhắm mắt xuôi tay.
Xét lại quan điểm truyền thống về sự thưởng phạt
Trong đời phù du, tôi đã thấy hết cả:
có người công chính bị tiêu vong dù sống công chính,
có kẻ gian ác lại sống lâu dù làm điều ác.

(Gv 7: 13-15)

Thế mới biết, như câu đầu tiên dẫn vào Sách này, lại thấy nói:

“Đây lời ông Côhelét, vị vua ngự ở Giêrusalem, đã từng nói:

“Phù vân, quả là phù vân.

Tất cả chỉ là phù vân.

Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả

dưới ánh nắng mặt trời?

Thế hệ này đi, thế hệ kia đến,

nhưng trái đất mãi mãi trường tồn.5

Mặt trời mọc rồi lặn;

mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên.”

(Gv 1- 1-4)

Thế mới biết, cả đến trời trăng, tinh tú hùng-hổ là thế, cũng đều phù-vân, chóng qua.

Thế mới hay, có là gì đi nữa, rồi cũng hết và cũng chóng qua/giả dối, thế mới tỏ. Bởi, có là gì đi nữa, rồi thì cái “gì” đó cũng qua đi, như con người và cuộc đời. Vậy thì, tội gì mà không nghĩ và hát những lời hay ho, ý-nhị như tác giả trên từng mời hát những lời như thế:

Hết đắm đuối trong cuộc tình

Hết đứng ngóng trông Người tình

Sẽ thấy đớn đau một mình

Như khi tiễn nhau lần cuối ..

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Hát thế rồi, hỡi bạn và tôi, ta cứ thế mà hãnh-tiến, hiên ngang mà sống mãi. Sống như những người từng hãnh-diện về cuộc sống của chính mình, trong giản đơn, hài hoà, đầy sức sống. Sống thế rồi, ta và người lại sẽ hiên ngang cùng đứng lên cùng người khác sống vui, sống mạnh, sống rất vững trong Đạo/ngoài đời cũng vui tươi, đáng sống cả một đời.

Bần đạo đây chắc chắn một điều là: dù có “một thời để yêu và để…cãi”, thì giờ phút cuối vẫn cứ như câu kết trong bài hát:

“Những phút cuối trong cuộc đời

Vẫn thấy nhớ thương một Người

Lúc nhắm mắt xin nụ cười

Thay cho chiếc hôn lần cuối.”

(Lời Việt của Nam Lộc: Một Thời để Yêu – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn quan-niệm là như thế.

Mãi trong đời.

Chơi vơi trong khí hậu, chín từng mây,

Tin Mừng Ga 3: 14-21

Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”.

“Chơi vơi trong khí hậu, chín từng mây,”

“Ánh sáng lại sẽ tan vào hư lãng,

Trời linh thiêng; cao cả gợi nồng say…”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Mùa Chay hôm nay, nhà thơ thấy chơi vơi trên chín từng mây, đầy khí hậu. Trời linh thiêng, ánh sáng tan vào hư lãng, đổi sắc mầu. Tan, là để kêu gọi dân con rày cải hối.

Trình thuật thánh Gioan hôm nay, kêu gọi mọi người hãy cải hối. Hối cải, trong tuân giữ mọi điều răn. Điều răn hôm nay, Thầy Chí Thánh chú trọng đến tình thương đặc biệt, rất đặc biệt:“Thương yêu Thầy, sẽ được Cha của Thầy yêu mến.” (Ga 3: 21).

Trình thuật, nay cũng đề cập một lúc hai chủ đề: hăng say cải hối/ yêu mến giữ giới răn. Ở bình diện cao hơn, thánh Gio-an có nói: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngài trở nên nhân-tố cứu độ của Chúa Cha. Ngài cứu độ, không phải duy nhất cho phạm nhân nào đó, từng nên tội. Mà, toàn bộ tình huống đầy lỗi phạm, của thế trần. Chúa nhật hôm nay, còn là Chúa nhật Hồng, nhằm dẫn dắt ta đến gần hơn, vào với ơn cứu độ, rất đích thực.

Trình hôm nay, thánh sử lại đã so sánh Đức Chúa với Môsê. Cả hai đấng, là nhân-tố trong chương trình cứu độ, cho dân Ngài. Cụ thể, là Do Thái dân xưa cũng từng phiền than/oán trách cảnh huống mình hứng chịu. Chính vì thế, Môsê mới giơ cao “rắn đồng trên gậy”, như được kể trong Cựu Ước: “Nếu rắn cắn nhằm ai, người ấy cứ trông lên rắn đồng này, là được sống.” (Ds 21: 9)

Thánh sử còn thấy nơi đây, cũng một ảnh hình việc Chúa nâng cao chính mình Ngài, như rắn đồng. Với thánh Gio-an, “nâng cao” ở đây, bao gồm việc Ngài tự nâng chính Ngài trên thập giá. Và cả, việc Ngài được tự nhấc mình lên cao với Chúa Cha. Trong quang vinh. Vĩnh hằng. Bằng vào tiến trình cứu độ trọn vẹn, ai tự nâng nhấc/ngước mình lên với Chúa qua tin yêu/giùm giúp, sẽ lĩnh nhận cuộc sống vĩnh cửu, Ngài hứa ban. Và, cuộc sống thân thương Nước Trời như thế, sẽ không bị lấy đi.

Ở đây, tất cả đều là dấu hiệu chứng tỏ tình yêu của Đức Chúa. Tình yêu Ngài, được thể hiện qua việc Cha hy sinh Người Con của Ngài, để con người hưởng được cuộc sống an vui, vĩnh cửu. Đức Chúa chấp nhận hy sinh, là để cứu/chữa, chứ không phải để phê bình/lên án thế giới loài người. Quả vậy, chẳng người nào tự nhấc mình đặt để nơi vòng tay yêu thương của Đức Chúa, mà lại bị phê bình, lên án. Và, cũng chẳng khi nào là “quá trễ” để ta đặt mình vào động thái tự nâng nhấc, trong niềm tin yêu, của Nước Trời.

Trái lại, ai khước từ, dù chỉ một niềm tin thôi, cũng sẽ bị lên án ngay khi đó. Việc lên án, không nhằm đeo đuổi hướng nhắm những người đang theo niềm tin nào khác. Đạo khác. Tín ngưỡng khác. Hoặc, cả đến thị kiến khác, về cuộc sống. Việc phê bình/lên án chỉ xảy ra, đối với ai cương quyết chọn bóng tối, hơn là lựa sự sáng. Chọn bóng tối, tức: sống đời tệ bạc, có những hành vi phi luân lý. Như: giận hờn, ghét ghen, thay vì yêu thương. Hận thù/trả đũa, thay vì tha thứ. Hoặc, như: tham lam bạc tiền/vơ vét của cải, thay vì san sẻ. Nhận thật nhiều, cho thì ít. Ít cho, những gì liên quan đến sự sống. Ít cho, những gì mình trân quý.

Chúa Tình Yêu trọn vẹn, Ngài không phê bình/lên án, bất cứ ai. Người bị kết tội, thật ra, chỉ vì đó là chọn lựa của chính họ. Chọn tha hoá, tách rời khỏi Tình Thương Yêu của Đức Chúa. Và, thánh Gio-an còn viết: “Ai tự mình làm điều xấu xa gian ác, ắt sẽ ghét bỏ ánh sáng”, và sẽ chọn những gì là tối tăm.

Ai sống trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người, ắt không sợ ánh sáng. Chẳng có gì phải giấu diếm. Chẳng có gì phải hổ ngươi, mặc cảm. Người sống trung thực, sẽ là “muối trong đời. Là, thành luỹ ở đồi cao. Là, nến ngọn chiếu sáng, đặt trên đèn. Nhờ có thế, người người thấy được điều tốt lành từ nơi họ. Sẽ cùng họ, tiến về cùng Chúa.       

Tuy thế, cũng có loại hình tối tăm khác, trong đó con người vẫn lặn ngụp. Tối tăm, là những tủi nhục rất tăm tối, trong tình đời. Là sự việc tốt lành mình muốn sẻ san, nhưng chưa dám. Là, làm việc gì vì người, và cho người, vẫn chưa dám. Chưa, vì sợ ngườ ingười lên án. Phê bình. Sợ bị từ chối. Sợ, người đời chế giễu, mỉa mai. Cũng tựa như trường hợp không người nào dám đến ủi an/đỡ đần cô gái trẻ mới vừa phát giác ra mình đã mang thai, mà không chồng. Hoặc, không có cưới hỏi, ở nhà thờ. Và tự thân, cô cũng chẳng dám chuờng mặt cùng chòm xóm. Với thành viên gia đình. Với thành phần của Hội thánh Chúa, nữa.

Tệ hơn nữa, là trường hợp của những người “đồng tính luyến ái”. Bị người đời khinh chê/ghét bỏ. Đành lủi thủi trong tối tăm, tách biệt. Tách, hết mọi người. Biệt, cả với bạn bè, người thân.

Đó, mới chỉ là hai trong số các trường hợp cụ thể, dễ nhận thấy. Ở đây nữa, tác nhân của tối tăm/sự dữ, lại là người ngồi mát ăn bát vàng. Chỉ biết những chê bai. Lên án. Bình phẩm. Chính những người này, cũng đang trong cảnh tranh tối/tranh sáng của những tối tăm/sự dữ. Bởi những thành kiến. Huý kỵ. Và ghét ghen. Thông thường, đây là triệu chứng của những hãi sợ và bất an. Trong nội tâm.

Bài đọc 2, gợi nhớ người đọc về mọi sự tốt lành của ta/ở trong ta. Đó là ân huệ Chúa tặng ban. Quà Chúa ban, chẳng có gì để mình phải vênh váo, và kể công. Tốt lành của ta/ở trong ta, chính là tốt lành/trọn hảo do Ngài toả chiếu. Ngang qua ta, mà thôi.

Nay, ta hãy ngước nhìn về Đức Chúa, Đấng đang nâng cao chính mình Ngài, trên thập tự. Trong vinh quang. Hãy nhìn vào Tình Yêu cao cả Chúa luôn ban. Tình yêu ấy, vẫn sáng rực ở trên đó. Hãy mở lòng mình, với Tình Yêu. Và, để cho Tình Ngài thấm nhập thân mình, hầu đem lại sự sống cho mọi người.

Ánh sáng nơi ta phải sáng rực chiếu sáng mọi người. Chiếu sáng, như Chúa vẫn dặn dò. Ngài dặn kỹ, nơi Bài Giảng về Phúc Thật, ở trên núi. Rực sáng, để người người thấy điều tốt lành, ta đang làm. Có như thế, người người sẽ được đưa dẫn về với Tình Yêu Thương cao cả, của Đức Chúa. Đấng vẫn ban cho ta nhiều ân sủng, mới được thế.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Nhà nước pháp quyền: chìa khóa vực dậy nền văn hóa xuống dốc tận đáy của Việt Nam

Nhà nước pháp quyền: chìa khóa vực dậy nền văn hóa xuống dốc tận đáy của Việt Nam

Vietnam map

Vietnam map

Trà Mi-VOA

06.03.2015

Văn hóa, đạo đức của người Việt đã xuống dốc tới mức ‘chạm đáy.’ Đó là nhận xét của một Giáo sư-Tiến sĩ Khoa học danh tiếng trong nước chuyên nghiên cứu văn hóa-xã hội Việt Nam trên 20 năm nay.

Bình luận của Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận-Ứng dụng thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Trần Ngọc Thêm, được đưa ra giữa lúc cách hành xử hung hãn, bạo lực, giành giựt của người Việt đang gia tăng báo động và hình ảnh người Việt càng ngày càng trở nên xấu xí hơn trong mắt của nhau và của bạn bè quốc tế.

GS-TS Trần Ngọc Thêm đã dành cho VOA Việt ngữ cuộc trao đổi phân tích nguyên nhân và đề ra những khuyến nghị nhằm giải quyết vấn nạn xã hội nhức nhối này.

GS-TS Trần Ngọc Thêm: Cách hành xử của con người càng ngày càng tệ hại. Nguyên nhân thứ nhất là do việc chạy theo đồng tiền, chạy theo vật chất. Cái này dính tới kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường không phải làm nên cái này. Cũng là kinh tế thị trường nhưng ở nhiều nước phát triển khác không có những chuyện lộn xộn như thế. Vấn đề ở chúng ta là các hệ giá trị đang bị đảo lộn. Các giá trị văn hóa truyền thống vốn thích nghi với môi trường ổn định, làng xã, nông nghiệp-nông thôn đang bị phá vỡ. Cái cần phải có, hệ giá trị mới của một xã hội đô thị, công nghiệp, hội nhập chưa hình thành xong. Vì vậy, xung đột dẫn tới sự đảo lộn. Lẽ ra phát triển kinh tế phải song hành với văn hóa. Văn hóa là nền tảng cho phát triển kinh tế. Nhưng ở ta, đáng tiếc là vế thứ hai chưa làm được.

VOA: Làm thế nào có thể thoát khỏi những cái chưa hay, chưa đẹp của nền văn hóa nông nghiệp trong thời đại xã hội công nghiệp hiện nay, thưa GS?

GS-TS Trần Ngọc Thêm: Chúng ta thoát là thoát khỏi những tật xấu không còn thích hợp nữa, những hậu quả của văn hóa truyền thống mà giờ không thích hợp trong môi trường mới. Cần phân tích đầy đủ các nguyên nhân. Nguyên nhân kinh tế không đi cùng văn hóa là một. Nguyên nhân khác nữa là luật pháp của ta không nghiêm. Cho nên, cần phải thúc đẩy sự phát triển văn hóa, xây dựng văn hóa con người và phải xây dựng một nhà nước pháp quyền, tất cả tuân thủ theo luật pháp. Việc thứ ba, về mặt quản trị xã hội, do ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, trong mọi mối quan hệ có sự thiêng vị, không công bằng, không minh bạch, dẫn tới người dân có những uẩn ức, không hài lòng nhưng không giải thoát ra được ở đâu, kết quả là rất dễ xảy ra những điều như đang thấy. Cũng từ văn hóa truyền thống tạo ra tính cộng đồng ‘hội chứng đám đông.’  Ví dụ khi tham gia lễ hội, chỉ cần một người dùng sức mạnh chân tay thì dễ lây lan.