Lương tối thiểu ở Việt Nam không đủ ‘nhu cầu tối thiểu’

Lương tối thiểu ở Việt Nam không đủ ‘nhu cầu tối thiểu’

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- “Lương tối thiểu mới đáp ứng hơn 1/3 nhu cầu tối thiểu” tức là cán bộ công chức của chế độ không thể sống với cái mức lương ít ỏi như thế, nhưng guồng máy vẫn không chết.

Lương tối thiểu của cán bộ công chức CSVN “chỉ đáp ứng hơn 1/3 nhu cầu tối thiểu”. (Hình Người Đưa Tin)

Hôm 9 tháng 3, 2015, phó thủ tướng Vũ Văn Ninh chủ trì cuộc họp “triển khai nhiệm vụ năm 2015” của “Ban chỉ đạo quốc gia về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công”.

Tại cuộc họp này, ông Ninh nghe đọc báo cáo “hiện mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang được thực hiện từ giữa năm 2013 là 1 triệu 150 ngàn đồng/tháng, mới chỉ đạt 44,2% so với mức lương tối thiểu bình quân của 4 vùng của khu vực DN (2,6 triệu đồng/tháng) và 35,6% so với mức chi cho nhu cầu tối thiểu (3,23 triệu đồng/tháng), theo tường thuật của Vietnamnet.

Tiền lương cán bộ công chức CSVN không đủ sống không phải là chuyện mới xảy ra mà đã kéo dài từ bao năm qua. Nhà cầm quyền trung ương loay hoay tìm nguồn để tăng lương nhưng không tìm đâu ra ngoài cách bán thêm công khố phiếu, in thêm tiền, nâng mức nợ công năm sau cao hơn năm trước.

Vietnamnet cho hay “Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh đánh giá cải cách tiền lương là công việc khó khăn nhưng trong 2 năm qua, công tác này có những chuyển biến lớn. Đó là các chỉ đạo không tăng tổng biên chế nhà nước, số tuyển vào bằng một nửa so với số về hưu hay điều chuyển công tác…”

Lời “đánh giá” của ông Vũ Văn Ninh trái ngược hoàn toàn với một bài viết hồi giữa Tháng Hai vừa qua của tờ ‘Giáo dục Việt Nam’. Trên tờ báo này, người ta thấy guồng máy hành chánh của chế độ mỗi ngày một phình to ra, dù năm nào cũng có những cuộc họp “tinh giản biên chế”, đưa ra các tiêu chí giảm nhân sự, gạt bỏ những kẻ dôi dư ăn bám mà lấy tiền tăng lương cho những người làm việc thật sự.

“Nếu chỉ tính riêng khối cơ quan hành chính nhà nước thì tăng từ 238,668 năm 2007 lên 275,620 năm 2014 (tức là tăng 36,952 người, tỷ lệ 15.48%).” Báo GDVN ngày 18/2/2015 viết.

Theo tờ GDVN, cán bộ, công chức chính thức ăn lương nhà nước từ cấp huyện trở lên (không kể Công an, Quân đội) tăng từ 346,379 năm 2007 lên 396,371 năm 2014 (tăng 49,992 người, tỷ lệ 14.43%). Tổng số cán bộ, công chức, người hoạt động “không chuyên trách” ở cấp xã hiện nay là trên 1.2 triệu người. Con số nhân sự của “các đơn vị sự nghiệp công lập” tăng nhanh, từ 1.63 triệu người năm 2010 lên 2.31 triệu người năm 2014.

Không thấy ông Vũ Văn Ninh trong phiên họp ngày 9/3/2015 đề cập cụ thể gì đến việc tăng lương cho cán bộ công chức nằm nay dù biết lương căn bản của họ chỉ đủ cho một phần ba các nhu cầu tối thiểu. Những gì ông nêu ra trong cuộc họp đều là những giải pháp “giật gấu vá vai” để có thể “nghiên cứu nguồn để điều chỉnh tiền lương”.

Trong phiên họp trước khi biểu quyết đề án ngân sách mới của chế độ, ngày 24/10/2014, một bà đại biểu quốc hội than rằng “Muốn có 40,000 tỉ đồng để cải cách tiền lương theo đúng lộ trình không tìm đâu ra được”, báo VietnamNet kể lại.

Nhà cầm quyền Việt Nam ở trong vòng luẩn quẩn. Cần phải cắt bỏ hàng trăm ngàn cán bộ dôi dư bị coi là đám ăn bám “sáng cắp ô đi tối cắp về” lên tới khoảng 840,000 người như sự thú nhận của ông phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, lấy tiền đó tăng lương. Nhưng bộ máy ngày càng phình to ra chứ không phải “tinh giản”, tức là nói một đàng làm một nẻo.

“… nói thì rất hay, nhưng làm thì chưa được.” Bài viết ngày 24/10/2014 viết về cái vòng luẩn quẩn gỡ không được của chế độ Hà Nội là “Ẩn đằng sau cái không làm được này chính là câu chuyện lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích bè bạn, đồng nghiệp, lợi ích gia đình, lợi ích cấp trên… và bây giờ còn thêm câu chuyện lợi ích nhóm. Chính những cái này đang làm cho hệ thống hành chính của chúng ta mang dấu ấn của một hệ thống hành chính “quan hệ”.

Ngày 7 tháng 12 năm 2013, khi tiếp xúc với cử tri Quận Ba Đình, ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN và cũng là “đại biểu nhân dân” giải đáp thắc mắc của cử tri quận Ba Đình về con số công chức không làm được việc, biên chế chỉ tăng chứ không giảm là “Bộ máy đúng là cồng kềnh”.

Lương tối thiểu chỉ đáp ứng một phần ba của nhu cầu sống căn bản thì tại sao guồng máy hành chánh của chế độ Hà Nội không chết? Lại vẫn có những cuộc thi tuyển hàng trăm hàng ngàn người nộp đơn.

“Nạn tham nhũng ở Việt Nam là nghiêm trọng, với những biểu hiện vừa tinh vi, phức tạp, vừa trắng trợn, lộ liễu, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, có những điểm giống và khác nhau so với tình hình tham nhũng ở các nước khác, nhưng đặc điểm nổi bật là tính phổ biến…. Nhiều khi pháp luật bị ‘vô hiệu hóa’ khi đụng đến tham nhũng!”

Đó là theo đánh giá của Tổ chức minh bạch quốc tế nêu ra trong một cuộc hội thảo về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam diễn ra ở Hà Nội hồi tháng 9 năm 2012, VNExpress tường thuật. (TN)

Bắc Kinh: ‘Biển Đông là sân riêng của Trung Quốc’

Bắc Kinh: ‘Biển Đông là sân riêng của Trung Quốc’

Nguoi-viet.com

BẮC KINH (NV) – Đó là tuyên bố của ông Vương Nghị, ngoại trưởng Trung Quốc, đáp lại những chỉ trích về việc Trung Quốc bồi đắp nhiều bãi đá ngầm thành đảo nhân tạo, xây dựng các căn cứ ở Biển Đông.

Bãi đá Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa nay đã được Trung Quốc biến thành một căn cứ quân sự. (Hình: Tân Hoa Xã)
Tại một cuộc họp báo quốc tế diễn ra hôm 8 tháng 3 ở Bắc Kinh, tuy xác định chính sách của Trung Quốc đối với biển Đông và các lân bang không thay đổi, song ngoại trưởng Trung Quốc công khai khẳng định, vì biển Đông là “nhà” và là “sân riêng” của Trung Quốc, Trung Quốc có quyền làm tất cả những gì mình muốn trong khu vực thuộc về mình.

Ông Vương Nghị tuyên bố, Trung Quốc không giống như một số quốc gia đã “xây dựng trái phép trong nhà của người khác” nên “không chấp nhận những chỉ trích từ người khác khi chỉ xây dựng trên sân riêng của Trung Quốc.”

Tuyên bố của ông Vương Nghị khiến nhiều giới sửng sốt. Ông Thayer – một chuyên gia về Châu Á, làm việc tại Học Viện Quốc Phòng Úc, nhận định, đây có lẽ là lần đầu tiên Trung Quốc mô tả các thực thể địa lý ở Biển Đông như là “nhà” và “sân riêng” của mình. Ông Thayer bảo rằng, tuyên bố vừa kể của ngoại trưởng Trung Quốc, vừa thô bạo, ngạo mạn, vừa sai với lịch sử. Trong quá khứ, chính Trung Quốc mới là phía chiếm “nhà” và “sân” của người khác.

Ông Thayer nhấn mạnh, chỉ vài ngày nữa là tròn 27 năm ngày xảy ra sự kiện Trung Quốc cưỡng đoạt bãi đá ngầm Gạc Ma của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa (14 tháng 3 năm 1988). Trong cuộc trò chuyện với RFI, ông Thayer khẳng định, đó là hành vi xâm lược trắng trợn nhưng lại không bị cộng đồng quốc tế trừng phạt nên Trung Quốc tiếp tục chiếm thêm nhiều bãi đá ngầm khác tại quần đảo Trường Sa.

Tuyên bố của ngoại trưởng Trung Quốc được xem là sự leo thang về yêu sách chủ quyền, chuyển từ việc “khẳng định chủ quyền lịch sử” đối với các đảo và “vùng biển tiếp giáp,” sang tuyên bố quyền sở hữu đối với với các thực thể như các bãi đá ngầm hay rạn san hô.

Tuyên bố này còn được xem là một kiểu “hù dọa” ASEAN để cô lập Philippines và Việt Nam. Theo ông Thayer, các thành viên “nhút nhát, hay lo” của ASEAN sẽ được khuyên nhủ là phải tự kiềm chế và việc tham khảo ý kiến Trung Quốc về Bộ Quy Tắc Ứng Xử Trên Biển Đông (COC) sẽ bất tận.

Việc Trung Quốc mở rộng diện tích các đảo nhân tạo và tăng năng lực kiểm soát – cưỡng chế đồng nghĩa với việc thay đổi “thực tế tại hiện trường” và vì vậy sẽ biến mọi quyết định của Tòa Án Trọng Tài Về Luật Biển theo đơn kiện của Philippines trở thành vô nghĩa. (G.Đ)

Tính đảng và bạo lực

Tính đảng và bạo lực

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-03-09

Tính đảng và bạo lực

Nhung-man-ruot-duoi-o-le-hoi-cuop-phet_600.jpg

Khai mạc lễ hội cướp Phết Hiền Quan (Tam Nông, Phú Thọ)

Courtesy of tuoitre.vn

Your browser does not support the audio element.

Một tâm linh bạo lực

Bạo lực, và… bạo lực!

Đó là hai từ tràn ngập báo chí trong những ngày Ra Giêng xuân Ất Mùi. Người ta đếm được có cả ngàn trường hợp nhập viện vì bạo lực. Người ta đánh nhau vì giành nhau những điều tưởng tượng ở các lễ hội. Bạo lực trộn lẫn với mê tính dị đoan như được nhân lên nhiều lần bằng những lời bình nhẹ như không của các quan chức, rằng đấy là văn hóa! Blogger Viêt Từ Sài Gòn mô tả những khung cảnh hỗn độn đó trong một đoạn văn súc tích sau đây

Lễ hội tâm linh do nhà nước khởi xướng càng nhiều thì con người càng trởi nên máu lạnh, tham lam, sẵn sàng đánh đập nhau, vác dao chém nhau chỉ vì một miếng giẻ rách gọi là “ấn” trong lễ hội Đền Gióng, lễ hội đến Trần… Mọi sự giằng xé, giành giật, đánh cướp được diễn ra công khai, tàn bạo ngay trước mặt cái điều gọi là thần linh.

Đây không phải là lần đầu mà câu chuyện gọi là Tâm linh trong xã hội Việt Nam đương đại đã được nói đến. Nhưng dường như mùa xuân Ất Mùi này nó đã vượt qua cái ngưỡng chịu đựng của nhiều người.

Khi quan sát các lễ hội năm nay cây bút Nguyễn Đình Bổn viết rằng Thấy dân Hà Nội nói riêng và dân Việt nói chung không muốn lao động, học tập, đấu tranh để tự nắm lấy được số phận của mình, mà thích bỏ vài trăm mua mâm lễ để giải được hạn của số phận hơn !

Blogger Nguyễn Hữu Vinh viết liền hai kỳ phóng sự mang tựa đề Lễ Hội, Tín Ngưỡng và chuyện bát nháo thời Sản mạt, trong đó ông rút ra hai điều. Điều đầu tiên là các đền chùa khắp nơi trên cả nước đã trở thành một nơi làm ăn kinh doanh, và sự kinh doanh đó đang rất khấm khá.

Điều thứ hai ông rút ra là để trả lời cho câu hỏi rằng tại sao, đảng cộng sản vốn cho mình là vô thần lại để cho không khí gọi là tâm linh bát nháo ấy tràn lan đến như vậy? Nguyễn Hữu Vinh trả lời rằng đó là một Liên minh tiêu diệt. Trong liên minh này những người cộng sản dùng mê tín dị đoan, tín ngưỡng tôn giáo để xóa đi khoảng trống lòng tin trong xã hội Việt Nam đương đại, sau bao nhiêu năm của việc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Và mục đích của việc lấp khoảng trống này là để mở ra một giai đoạn mới cho các lễ hội, các đình đền, các chủa chiền cũng như nhà thờ (nếu có thể “quản lý”) được tha hồ mở “hội”, miễn lôi kéo được quần chúng, ru ngủ được người dân xa rời các sự quan tâm đến những vấn đề cốt lõi của cuộc sống như Tự do tín ngưỡng, quyền con người, lãnh thổ đất đai, chế độ độc tài toàn trị, đời sống bấp bênh và xã hội nhũng lạm nặng nề bất ổn.

Ông kết luận rằng Khi một xã hội được xây dựng bằng bạo lực và lừa dối, thì mọi biến tướng của lễ, hội, tín ngưỡng theo hướng đó chỉ là sự sa đọa, suy đồi về văn hóa mà thôi.

Từ hải ngoại, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc gọi cái cảnh mà Viêt Từ Sài gòn mô tả bên trên là một thứ Văn hóa bạo động. Theo ông thì có hai nguyên nhân chính dẫn đến việc hình thành nó. Đó là không có thói quen giải quyết các xung đột bằng cách thương lượng với nhau. Điều thứ hai là chẳng ai còn tin luật pháp sẽ làm tròn trách nhiệm phân xử xã hội của mình nữa.

Chỉ có một nguyên nhân

“Tính đảng” là từ mà blogger Tưởng Năng Tiến dùng trong bài viết mới trong tuần lễ đầy lễ hội và bạo lực này. Ông đau buồn trước cái thứ hạng về sự tử tế của Việt nam đang đi xuống. Ông cho rằng sự tử tế kém cỏi của người Việt chính là trách nhiệm của đám tiểu tâm, ti tiện, bạc ác của đám côn đồ đang lãnh đạo đất nước này, chứ không phải của những lương dân đất Việt.

Những lương dân đó nhà khoa học Tô Văn Trường cho là đã bị quên lãng khi mới đây một cán bộ cao cấp nào đó viết trên báo chí chính thống của đảng rằng trong các văn kiện của họ, chữ nhân dân nên viết hoa. Nhà khoa học nhìn thấy đó là một sự mỉa mai và hốt hoảng của những người tự xưng mình là đại diện của nhân dân!

Nhung-man-ruot-duoi-o-le-hoi-cuop-phet_400.jpg

Rượt đuổi để cướp phết tại lễ hội.

Tuy vậy Tưởng Năng Tiến thì lại cho rằng cái nhân dân đó phải tự hỏi là tại sao lại cam chịu những người không lương thiện hoành hành trên quê hương đất nước mình trong từng ấy thời gian mà chẳng có phản kháng nào đáng kể!

Không biết là vô tình hay hữu ý mà ngày 27 tháng 2- 2015, Hội đồng lý luận TW của đảng cộng sản tổ chức Hội thảo khoa học “Định hướng xây dựng giá trị con người, giá trị văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới.”

Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống gọi đây là một cuộc hội thảo Đèn Cù. Ý ông muốn nói rằng nó chẳng đi tới đâu vì chỉ mới động đến phần nổi của tảng băng, đánh tráo khái niệm giữa nguyên nhân và hậu quả. Đèn Cù cũng là tên một tác phẩm của nhà văn Trần Đĩnh, người từng chấp bút viết tiểu sử cho ông Hồ Chí Minh. Trong Đèn Cù Trần Đĩnh mô tả số phận con người trong chế độ cộng sản.

Ông Nguyễn Đình Cống vốn xuất thân từ một gia đình cách mạng cộng sản. Gần đây ông có nhiều bài viết nói rằng chủ nghĩa Mác Le Nin mà đảng cộng sản lấy làm ý thức hệ của mình là một tư tưởng sai lầm. Ông đã nhận được nhiều câu hỏi, thậm chí chất vấn về hành động đó. Ông viết một bài dài trên blog Bauxite Việt nam, trong đó ông giải thích nguyên nhân vì sao ông có những phê phán như vậy. Còn trong bài Hội thảo Đèn Cù mà ông viết trong cùng một tuần lễ thì ông đưa ra cái nguyên nhân ý thức hệ của những thói hư tật xấu trong xã hội hiện nay như sau:

Để làm chiến tranh cách mạng (đặc biệt là chiến tranh du kích) cần khuyến khích bạo lực, mưu mô để tiêu diệt kẻ thù. Trong đấu tranh giai cấp quá đề cao lòng thù hận và tranh đoạt vật chất mà nhẹ về đạo lý bao dung. Chuyên chính vô sản thực thi sự toàn trị, tạo ra giai cấp mới đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, mua bán quan chức. Sự tuyên truyền về một xã hội tốt đẹp không tưởng buộc phải dùng thủ đoạn dối trá, lừa bịp. Tất cả những thứ đó và nhiều thứ khác nữa từ Chủ nghĩa Mác Lênin đã không làm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn thói hư tật xấu của nền văn hóa mà còn làm nặng thêm.

Một câu chuyện khác thoạt đầu tưởng đâu chẳng có liên quan gì đến đảng cộng sản xảy ra trong tuần qua. Đó là chuyện cô người mẫu Trang Trần bị công an bắt giam với lý do là cô đã chửi bới công an. Trong sự việc đó cô lại chửi luôn đảng cộng sản.

Dư luận dấy lên làm hai luồng. Một bênh vực cho cô Trang, cho là những dồn nén vì một xã hội lộn xộn làm cho có có hành động sai quấy như thế. Bên kia thì cho là cô đáng bị bỏ tù. Những người có quan tâm đến luật pháp thì mổ xẻ đến tính hợp pháp hay không của sự bắt bớ, mức độ phạm tội tới đâu của cô Trang, v.v…  Tranh luận  dường như không thấy lối ra như lời Luật gia Trịnh Hữu Long nhận xét

Vậy nên nói gì thì nói, câu chuyện cuối cùng vẫn quay về với cái vòng kim cô chính trị mà Việt Nam đang đeo trên đầu. Có cố tình lảng tránh đến đâu, viện dẫn kiến thức bác học nào và biện minh bằng tinh thần bác ái cao đến đâu đi chăng nữa, câu trả lời cuối cùng chỉ có một. Loại bỏ Đảng ra khỏi các tranh luận pháp luật chỉ thể hiện hoặc là đánh giá không đúng mức vai trò của Đảng trong đời sống pháp luật, hoặc là cố tình lảng tránh. Tôi không hứng thú với những tranh cãi lặt vặt về luật thực định lắm, vì đó không phải cái cần nói.

Nhà báo, blogger Đoan Trang thì viết rằng Nói đến luật pháp, đến cái gọi là “nhà nước pháp quyền” ở Việt Nam mà lại không nói đến vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản thì khác nào tảng lờ một  “con voi trong phòng khách”.

Một blogger viết trên trang Tu Zo bài so sánh nước Việt nam đầu thế kỷ 21 này với nước Việt nam thời truyện Kiều của Nguyễn Du. Tác giả thấy rằng những nhân vật Thúy Kiều, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, Thúc Sinh,… vẫn còn rất sống động trong xã hội Việt nam với tất cả dị tật lẫn số phận bi kịch của họ. Tác giả nhớ tới lời văn hào Nguyễn Du trước khi mất viết trong nước mắt rằng không biết ba thế kỷ sau ông có ai còn khóc ông hay không!

Tác giả kết luận:

Câu chuyện đoạn trường của ông về nàng Kiều như một thứ tiên tri định mệnh đeo đuổi đám con cháu ông làm cạn khô nước mắt vì cái vận mệnh nổi trôi dai dẵng

Nhưng đồng thời tác giả cũng hy vọng về một ngày mới, khi người Việt nam thay đổi, thay đổi nhiều thứ để có được. Chúng tôi xin mượn hy vọng đó để kết thúc bài điểm blog hôm nay.

Một ngày khác, một ngày mới không giống hôm nay và ngày hôm qua, ngày mà con cháu ông sẽ tưởng nhớ tới ông bằng những cành hoa và nụ cười thay cho giọt nước mắt và những nén nhang tàn !

TÌNH NGHĨA CỦA ĐÔI CHIM NHẠN

TÌNH NGHĨA CỦA ĐÔI CHIM NHẠN

***

Một con chim nhạn bay lượn thấp là đà ngang qua đường phố

bị một chiếc xe đụng phải. Nàng chim mái nầy bị thương nặng và đang chờ chết.

Chàng chim trống sà xuống mang theo thức ăn và tận tình lo lắng.

Chàng bay đi rồi trở lại mang thêm thức ăn cho nàng, nhưng nàng đã nằm bất động.

Chàng cố lung lay gọi nàng …. một hành động hiếm thấy từ loài chim nhạn.

Khi nhận ra rằng nàng đã ra đi, vĩnh viễn không bao giờ trở lại,

chàng khóc rống thảm thiết bi thương.

Tiếng khóc vang vang của loài chim nhỏ bé, nhưng nỗi bi ai xé lòng không kém một sinh vật nào. Đứng cạnh xác nàng, chàng buồn thảm và tan nát cả cõi lòng … biết đến bao giờ?

động vật thì chả có đầu óc và cũng chẳng có cảm xúc nào ….?

Hàng triệu người khắp Mỹ, Âu, Á đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy những bức ảnh nầy.

Người chụp bán những bức ảnh nầy cho một tờ báo nổi tiếng bên Pháp. Ngay ngày hôm đó số báo được bán sạch. Người muốn tìm xem ảnh phải lên các website.

Đạt Ma Dịch Cân Kinh

Đạt Ma Dịch Cân Kinh

(Nguyên bản Việt ngữ của Bác sĩ Lê Quốc Khánh đăng trong nhật báo Người Việt ở Hoa Kỳ)

Lời thưa:

Sau khi đọc lần đầu tập tài liệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh, tôi chỉ mỉm cười, không mấy tin tưởng vì thấy phương pháp chữa trị những bịnh nan y một cách dễ dàng và quá đơn giản.

Tôi cũng xin tự giới thiệu để quý vị thấy rằng tôi đã được đào tạo và phục vụ Tây y qua nhiều thời kỳ. Đến nay tôi đã có bốn mươi chín năm y nghiệp, đã từng làm việc trong các bịnh viện Quân và Dân Y lớn nhất nhì trong nước Việt Nam Cộng Hòa, đã từng làm việc với người Pháp. Mỹ và Phi Luật Tân; đã từng là cộng sự viên của Bác sĩ Đinh văn Tùng, nghiên cứu chữa trị bịnh ung thư qua phẫu thuật (1936-1965). Tôi muốn nói rằng tôi có lý do để tin tưởng Tây y là một ngành khoa học có nhiều thành tích đáng tin cậy trong việc bảo vệ sức khỏe của con người. Cũng vì vậy mà tôi gần như có thái độ thờ ơ khi tiếp nhận Đạt Ma Dịch Cân Kinh.

Thế rồi một hôm, có người bạn cùng tuổi với tôi (sanh năm 1932) đi xe đạp ghé thăm. Tôi được nghe anh kể là anh đã khám bịnh ở Bịnh viện Chợ Rẫy, qua các xét nghiệm y khoa tối tân và các bác sĩ đã định bịnh cho anh: Ung thư gan, Lao thận.

Anh thấy hoàn toàn thất vọng. Vì nếu vấp phải một trong hai chứng bịnh ấy cũng đủ chết rồi, huống chi mắc cả hai chứng bịnh nan y cùng một lúc. Cuối cùng anh có được tập tài liệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh. “Cái phao mà anh đã níu được khi đang chới với giữa biển khơi” . Anh cố gắng tập, kiên trì thực hiện theo đúng tài liệu, và kết quả là anh đã thắng bịnh tật. Hiện nay anh sống khỏe mạnh bình thường, làm việc hớt tóc, có khi anh phải đứng hàng giờ để làm công việc, thế mà anh vẫn bình thường như bao người khác.  Từ đó đến nay, đã bốn năm, anh vẫn tập đều đặn. Nhìn tư thế và sắc diện, không ai nghĩ là anh đã mắc phải bịnh nan y. Thỉnh thoảng anh đi xe đạp đến thăm tôi. Cũng từ đó, tôi chú tâm nghiên cứu Dịch Cân Kinh.

Đầu năm 1986, tôi đã truyền đạt tài liệu này cho một người bạn trẻ bị bịnh lao phổi, không được điều trị đúng cách vì hoàn cảnh bản thân cũng như xã hội vào thập niên 80. Cuối cùng anh đã gầy guộc chỉ còn có 32kg trong cơ thể suy nhược, đã mấy lần cứ tưởng là không qua khỏi. Và anh đã vớt vát chút hy vọng còn lại, anh đã tập Yoga. Kết quả cơ thể có phần nào phục hồi nhưng vẫn yếu đuối. Suốt mùa Đông, anh vẫn không ra khỏi nhà, nhìn sắc diện, vẫn lộ những nét bịnh hoạn.

Sau khi nhận được tập tài liệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh , anh đã cố gắng kiên trì luyện tập, thời gian đầu bạn tôi cũng gặp những phản ứng như ghi trong tài liệu. Dần dần anh qua được bước đầu vất vả, và gần cuối năm 1986, sau bốn tháng luyện tập, anh đã ho tống ra một khối huyết cứng to bằng trứng chim cút, và sau đó anh từ từ hồi phục sức khỏe, da dẻ hồng hào, vẻ mặt vui tươi, và mãi đến nay anh vẫn giữ được sắc thái của người bình thường không bịnh hoạn.

Một trường hợp khác, bạn tôi, sinh năm 1931, bị bịnh Parkinson đã bốn năm nay, đã chữa trị Đông, Tây y, thuốc gia truyền và nhân điện…Lẽ dĩ nhiên là bịnh không khỏi. Vì bịnh Parkinson cho đến nay, loài người vẫn bó tay.

Sau khi nghiên cứu và luyện tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh, bạn tôi cũng gặp phản ứng như ghi trong tài liệu. Tuy vậy, anh vẫn kiên trì tập đều đặn. Tuy hiện nay bịnh Parkinson không lành hẳn, song bịnh được ngăn chận giới hạn ở mức chỉ rung có hai bàn tay. Còn các khớp, nhất là khớp tay và chân, vẫn cử động bình thường, không gặp một khó khăn trở ngại nào mà lẽ ra, đúng theo các triệu chứng điển hình, thì bịnh càng lâu, các khớp bị cứng và hạn chế cử động cho đến một lúc nào đó sẽ bị cứng khớp, không cử động được nữa. Bịnh kéo dài bốn năm nay nhưng anh vẫn sinh hoạt bình thường, có nghĩa là bịnh bị ngăn chận ở một mức độ có thể chấp nhận được.

Một trường hợp nữa là một anh bạn sinh năm 1930 bị béo phì, cao huyết áp, rối loạn tiêu hóa kinh niên. Từ hơn ba mươi năm nay, anh đã dùng vô số thuốc Đông, Tây y và châm cứu nhưng vẫn quanh quẩn hết chứng này đến tật khác, không ngày nào vắng thuốc. Anh đã tiếp nhận Dịch Cân Kinh, và sau thời gian tập luyện cũng có những phản ứng như đã ghi trong tài liệu, và sau đó, anh phục hồi sức khỏe, nhất là rối loạn tiêu hóa không còn nữa, ít khi phải dùng thuốc trị cao huyết áp. Anh ca ngợi Dịch Cân Kinh là môn thuốc trị bá bịnh.

Qua bốn trường hợp mà tôi đã theo dõi hai năm nay, chưa phải là nhiều, tôi đã phải công nhận Đạt Ma Dịch Cân Kinh là một phương pháp chữa được nhiều bịnh hiểm nghèo mà hiện nay Tây y nhiều khi phải bó tay.

Đọc qua tài liệu Dịch Cân Kinh, chúng ta thấy vấn đề kỹ thuật luyện tập không có gì khó khăn, rất dễ tập. Điều cần nhấn mạnh ở đây là ý chí, quyết tâm. kiên trìthường xuyên. Nếu vượt qua được những điều này, tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ gặt hái được những kết quả mỹ mãn.

Năm 1943, khi giảng lớp Quân y Khóa 1, Phân khu Bình Trị Thiên và Trung Lào, thầy tôi, Bác sĩ Bùi Thiện Sự đã nói: “Nghề nghiệp của chúng ta có nhiệm vụ cao cả là phụng sự và làm vơi đi những đau khổ của nhân loại”. Để ghi nhớ lời dạy ấy của Thầy, tôi nguyện truyền đạt cho bất cứ ai, những gì mà tôi nghĩ sẽ giúp ích được cho mọi người.

Bây giờ tập tài liệu Đạt Ma Dịch Cân Kinh đối với tôi là một phương thuốc quý giá giúp cho đời. Tôi đã hối hận về nỗi thờ ơ của mình buổi ban đầu, khi mới tiếp nhận tài liệu này.

Bác sĩ Lê Quốc Khánh

SỰ TÍCH ĐẠT MA DịCH CÂN KINH

Năm 917 (sau Tây lịch), Đạt Ma Tổ Sư từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn, Hà Nam, xây dựng chùa Thiếu Lâm, đã có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo. Ông nhận thấy nay đem một tín ngưỡng đi truyền tụng có khi trái với tín ngưỡng của dân bản xứ, dễ xảy ra xung đột. Do vậy các đệ tử của ông vừa lo học lý thuyết Phật Pháp vừa phải luyện võ để tự vệ (Môn phái Thiếu Lâm xuất hiện và tồn tại đến ngày nay).

Nhiều người xin nhập môn nhưng thể lực kém, không thể luyện võ được, Tổ Sư bèn truyền đạt một phương pháp luyện tập được gọi là Đạt Ma Dịch Cân Kinh để chuyển biến thể lực yếu kém thành mạnh khỏe. Cách tập đơn giản nhưng hiệu quả to lớn vì tiêu trừ được các bịnh tật hiểm nghèo.

Ngày nay người ta nghiên cứu là phương pháp này chữa được rất nhiều bịnh, ngay cả bịnh ung thư cũng khỏi và bây giờ người ta áp dụng lý thuyết khí huyết của Đông y để chứng minh. Sức khỏe của con người liên quan chặt chẽ với khí huyết, về điều này thì ta thấy rõ ràng.

Trong Đông y, cái gọi là huyết thì không thể hạn chế và tách ra từng mặt như máu loãng hay đặc, hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào…mà nghiên cứu, mà dùng cách nhìn nhận toàn diện của quá trình sinh lý và quá trình tuần hoàn của huyết mà xem xét. Theo Đông y, một khi khí huyết không thông là tắt kinh lạc, do vậy các phế vật trong cơ thể cần thải mà không thải ra được. Vì máu lưu thông chậm, nên các chất keo, dịch, gân và các chất khô… không đủ nhiệt năng nên công năng của máu giảm sút không thể thải được những chất cần thiết trong cơ thể ra ngoài.

Luyện Dịch Cân Kinh, tay vẫy đúng phép, miệng, dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ, làm các vật chèn ép mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ thì mới khỏi bịnh.

Vậy theo Dịch Cân Kinh, cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột, dạ dày, thận tiếp được khí nên gây được tác dụng hưng phấn. Khi chức năng của máu tăng, thì giúp được việc tống cựu nghinh tân tốt, khí huyết thăng bằng là khỏi bịnh. Một số người sau đây đã luyện tập Dịch Cân Kinh có hiệu quả:

Cụ Quách Chu, 78 tuổi, phát hiện u ở não và ở phổi, luyện tập ngày ba buổi. Mỗi buổi 1800 lần. Tập đều sau ba tháng thì tan khối u và khỏi bịnh.

Ông Trương Công Phát, 43 tuổi, phát giác ung thư máu, luyện tập Dịch Cân Kinh ngày 3 buổi, mỗi buổi 4800 lần (có dùng dưỡng tâm can), sau ba tháng khỏi bịnh. Đã ba năm nay vẫn khỏe mạnh.

Cụ Từ Mạc Đính, 60 tuổi, ung thư phổi, và bán thân bất toại, luyện tập sau 3 tháng thì hết bán thân bất toại, kiểm tra khối u cũng tan mất.

Nguyên nhân bịnh ung thư trên thế giới đang bàn cãi, ngay thuốc dưỡng tâm can cũng không phải là thuốc đặc hiệu chữa trị mà là giúp tim hoạt động tốt để thải chất độc.

Vì quá trình sinh lý cơ thể của con người là một quá trình phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh rất phức tạp giữa cái sống và sự chết. giữa lành mạnh và bịnh tật, giữa già háp và trẻ dai. Nhưng kết quả cuộc đấu tranh là các nhân tố nội tại quyết định chớ không phải do hoàn cảnh bên ngoài.

Vậy cơ thể con người là một chỉnh thể hoạt động. Trong vận động các lục phủ ngũ tạng đều dựa vào nhau tức là tương sinh, ức chế lẫn nhau tức là tương khắc. Nhưng khí huyết có tác dụng đến khắp tất cả các lục phủ ngũ tạng, cho nên việc phát sinh bịnh ung thư cũng do khí huyết lưu thông không chu đáo mà ra. Đông y đã xác định là cuộc đấu tranh của cơ thể với bịnh ung thư là một cuộc đấu tranh nội bộ ở trong cơ thể con người. Từ đó mà xây dựng quan điểm cho rằng bịnh ung thư là bịnh chữa được.

Đương nhiên bịnh tật là do sự trì trệ khí huyết mà nó làm cho hao tổn thêm khí huyết. Vậy công việc luyện tập cho khí huyết thay đổi là tự chữa được bịnh. Từ đó mà tạo được lòng tin vững chắc của người bịnh đối với việc tự chữa được bịnh ung thư, để tập trung tinh thần và ý chí đầy đủ để luyện tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh, vì phương pháp này thay đổi và tăng cường khí huyết. Nó cũng chữa được bịnh trĩ nội và trĩ ngoại. Ông Hà Thúc Nguyên bị trĩ nội và chứng đầy bụng, chỉ tập một tháng là khỏi. Luyện tập Dịch Cân Kinh thấy ăn tốt ngủ ngon là việc phổ biến tốt, đã làm tăng sức khỏe các bịnh nhân nói chung và chữa được nhiều chứng bịnh như : suy nhược thần kinh, cao huyết áp, bịnh tim các loại, bán thân bất toại, bịnh thận, hen suyễn, lao phổi, trúng gió méo mồm và lệch mắt.

Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bịnh tật là do khí huyết (âm, dương) mất thăng bằng mà sanh ra. Luyện Dịch Cân Kinh là giải quyết vấn đề này. Nên đối với đa số các loại bịnh, nhất là bịnh mãn tính đều có thể chữa được cả.

Phương Pháp Luyện Tập Dịch Cân Kinh

Đầu tiên là nói về tư tưởng:

Phải có hào khí, nghĩa là có quyết tâm luyện tập cho đến nơi đến chốn, vững vàng, tin tưởng, không vì lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ dở.

Phải lạc quan, không lo sợ đang mang bịnh mà mọi người gọi là hiểm nghèo, phải tin tưởng rằng mình sẽ thắng bịnh do việc luyện tập Dịch Cân Kinh.

TƯ TH LUYN TP:

1. Lên không xuống có: Trên phải không, dưới nên có.

  • Đầu treo lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay mềm, hai bàn tay ngửa ra phía sau xòe ra như cái quạt.
  • Trong khi vẫy, hậu môn phải thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như bám trên đất trơn. Đây là những quy định cụ thể của các yêu cầu cơ bản khi tập luyện Dịch Cân Kinh.

2. Dựa theo yêu cầu này,

  • khi tập vẫy tay thì từ cơ hoành trở lên phải giữ cho được trống không, buông lỏng, thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc luyện tập. Xương cổ buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên, không mím môi, ngực trên buông lỏng để phổi tự nhiên. Hai cánh tay để tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai.
  • Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bám sát mặt đất, gót chân để phẳng lên mặt đất. Bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương sống thẳng như cây gỗ.
  • Khi vẫy tay nhớ nhẫm câu: “Lên có xuống không”. Nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau (lên), khi tay trả lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa tay ra phía trước (xuống).

3. Trên ba dưới bảy : Là phần trên để lỏng độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức độ bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt đầy đủ thì hiệu quả sẽ tốt.

4. Mắt nhìn thẳng : không nghĩ ngợi gì cả, miệng nhẫm đếm số lần vẫy.

CÁC BƯỚC TẬP CỤ THỂ NHƯ SAU :

a)     Đứng hai bàn chân bằng khoảng cách hai vai.

b)     Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, các ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay ra phía sau.

c)      Bụng dưới thót lại, lưng thẳng. Bụng trên co lại, cổ để lỏng, đầu và miệng bình thường.

d)     Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót sát đất, bắp chân và đùi chân căng thẳng.

e)     Hai mắt chọn một điểm ở đàng xa làm mục tiêu để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, luôn chú ý vào các ngón chân đang bám đất. Đùi và bắp chân cứng. Thót hậu môn thật chặt và nhẩm đếm.

f)        Dùng sức vẫy hai tay về phía sau, khi trả hai bàn tay về phía trước, chú ý để nó buông theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. Tuy nhiên chân vẫn lấy gân cứng lên, hậu môn vẫn thót và co lại không lơi lả.

g)      Vẫy tay từ 200, 300, 400, 500, 600, 700 lần, dần dần tăng lên đến 1800 lần vẫy (tương đương với 30 phút).

h)      Phải có quyết tâm đều đặn tập trung vào sự luyện tập, không nên nóng, tập nhanh, tập nhiều vì dục tốc bất đạt. Nhưng cũng không nên tùy tiện, bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ tập, vì như vậy sẽ làm mất lòng tin trong sự luyện tập, khó có hiệu quả.

*LƯU Ý:

1.      Bắt đầu tập luyện, không nên làm tổn thương các ngón chân (Sau mỗi buổi tập, vuốt ve các ngón chân mỗi ngón chín lần). Nôn nóng muốn khỏi bịnh này mà dùng nhiều sức sẽ không đem lại kết quả. Có quyết tâm nhưng phải từ từ tiến dần mới đúng cách và kết quả tốt. Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến “trên nặng dưới nhẹ” là sai hỏng.

2.      Khi đã vẫy tay đến 600 lần trở lên thì thường hay có trung tiện (đánh địt), hắt hơi và hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng….. chỉ là hiện tượng bình thường, đừng lo ngại. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với vũ trụ là “Thiên khinh Địa trọng” (Trên nhẹ dưới nặng), đấy là quy luật sinh hợp với vũ trụ: Thiên khinh Địa trọng.

3.      Sở dĩ bịnh gan là do khí huyết của tạng gan không tốt gây nên khi bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết. Do đó ảnh hưởng đến ống mật và cả tỳ vị. Luyện Dịch Cân Kinh có thể giải quyết được vấn đề này, nếu sớm có trung tiện là kết quả tốt.

4.      Về bịnh mắt, luyện Dịch cân kinh là có thể khỏi chứng đau mắt đỏ với các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí chữa được cả chứng đục thủy tinh thể. Trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nhìn được. Khi khí huyết không dẫn đến được các bộ phận của mắt thì thường sinh ra các bệnh tật của mắt.

5.      Đôi mắt là bộ phận của thị giác và cũng là bộ phận quan trọng của cơ thể.

NHỮNG PHẢN ỨNG KHI LUYỆN TẬP DịCH CÂN KINH

Khi luyện tập, cơ thể có những phản ứng nhưng tất cả đều là hiện tượng thải bịnh, không nên lo nghĩ.

Sau đây là 34 phản ứng thông thường và còn nhiều phản ứng khác không kể ra hết được.

1. Đau buốt, 2. Tê dại, 3. Lạnh, 4. Nóng, 5. Đầy Hơi, 6. Sưng

7. Ngứa, 8. Ứa nước giải, 9. Ra mồ hôi, 10. Cảm giác như kiến bò

11. Giật gân, giật thịt, 12. Đầu khớp xương có tiếng kêu lụp cụp

13. Cảm giác máu chảy dồn dập, 14. Lông tóc dựng đứng

15. Âm nang to lên, 16. Lưng đau, 17. Máy mắt mi giật

18. Đầu nặng, 19. Hơi thở nhiều, 20. Nấc, 21. Trung tiện

22. Gót chân nhức như mưng mủ, 23. Cáu trắng dưới lưỡi

24. Đau mỏi toàn thân, 25. Da cứng, da chân chai rụng đi,

26. Sắc mặt biến đi,27. Huyết áp biến đổi, 28. Đại tiện ra máu,

29. Tiểu tiện nhiều, 30. Nôn mửa, ho,  31. Bịnh từ trong da thịt bài tiết ra,

32. Trên đỉnh đầu mọc mụt, 33. Ngứa từng chỗ hay toàn thân,

34. Chảy máu cam.

Các phản ứng trên đây là do trọc khí bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ các thứ ứ đọng gọi là bịnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh ra các chất bồi bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn bã trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lưu thông bình thường không thải nổi.

Nhờ luyện tập Dịch Cân Kinh mà khí huyết lưu thông mới đưa nổi cặn bã ra ngoài nên mới sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục tập như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là đã khỏi một căn bịnh. Cứ tập luyện đều đặn sẽ đạt hiệu quả tốt.

Luyện tập dịch cân kinh đạt được 4 tiêu chuẩn sau:

1.  Nội trung: Tức là nâng cao can khí lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ, lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông suốt lên đến đỉnh đầu.

2.  Tứ trưởng tố: Tức là tứ chi phối hợp với các động tác theo đúng nguyên tắc luyện tập. Tứ trung tố song song với nội trung sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trung khí dồn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh.

3.  Ngũ tam phát:

Nghĩa là 5 trung tâm của nhiệt dưới đây hoạt động mạnh hơn lúc bình thường. Đó là :

Bách Hội: Một huyệt trên đỉnh đầu,

Gio cung: huyệt ở hai bàn tay,

Dũng tuyền: huyệt ở hai gan bàn chân.

Khi luyện tập thì 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt . Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các bịnh nan y mà ta không ngờ.

4.  Lục phủ minh:

Đó là ruột non. ruột già, mắt, dạ dày, bong bóng tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nên không trì trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể tức là Âm Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.

MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI LUYỆN TậP

1. Số lần vẫy tay:

  • không dưới 800 lần, từ 800 lần trở lên dần dần đến 1800 lần (khoảng 30 phút) mới tới ngưỡng cửa của điều trị.
  • Người bịnh nặng có thể ngồi mà vẫy tay, tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm 10 đầu ngón chân.

2. Số buổi tập:

  • Sáng thành tâm tập mạnh,
  • Trưa trước khi ăn tập vừa.
  • Tối trước khi ngủ tập nhẹ.

3. Có thể tập nhiều tùy theo bịnh trạng:

  • Có những bịnh nhân nâng số lần vẫy tay lên đến 5 hay 6 ngàn lần trong mỗi buổi tập.
  • Nếu sau khi tập thấy ăn ngon ngủ tốt, tiểu và đại tiện thấy điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ số lần vẫy tay khi luyen tập là thích hợp.

4. Tốc độ vẫy tay: Theo nguyên tắc thì nên chậm. Bình thường thì vẫy 1800 lần là hết
30 phút.

  • Vẫy lúc sau hơi nhanh hơn lúc đầu một chút. Khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng.
  • Bịnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều hơn. Bịnh nặng thì nên vẫy hẹp vòng và chậm, bớt dùng sức.
  • Vẫy tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh, mau mệt, mà chậm quá thì không đạt tới mục đích. Vì luyện tập là cần có mạch máu lưu thông.

5.  Khi vẫy tay dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ?:

  • Vẫy tay là môn thể dục chữa bịnh chớ không phải là một môn thể thao khác biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc điểm của nó là dụng ý không dùng sức, nhưng nếu vẫy tay nhẹ quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không lắc mạnh thì lưng và ngực không chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi.
  • Vẫy tay không chỉ có chuyển động cánh tay mà chính yếu là chuyển động hai bắp vai.
  • Bịnh phong thấp thì nên dùng sức ở mức nặng một chút. Bịnh huyết áp thì nên dùng sức ở mức nhẹ và vẫy tay chậm.

Nói tóm lại phần lớn tự mình nắm vững tình trạng, phân tích các triệu chứng sau khi nghe sự nhận xét của mọi người, tự mình cảm nhận sự biến chuyển trong cơ thể: nhanh nhẹn, hồng hào, tươi tỉnh hay là xấu hơn trước. Tự mình suy nghĩ rồi quyết định cách tập trên nguyên tắc là tập thế nào cho cảm thấy thoải mái, dễ chịu là đúng, là tốt nhất. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích (ích lợi cho cơ thể), còn động tác mạnh là loại bỏ các chất cặn bã có hại cho cơ thể (bệnh tật). Lý luận này đang được nghiên cứu.

Khi vẫy tay về phía sau dùng sức bảy phần. Khi vẫy tay về phía trước thuộc về quán tính, còn chừng 5 phần.

Đếm số lần vẫy tay, đếm không phải để nhớ mà có tác dụng làm cho đầu óc bình tỉnh, có tác dụng tốt cho não được căng thẳng và không nghĩ ngợi lung tung. Chân âm được bồi dưỡng.

Hoàn cảnh khi luyện tập (nơi chốn): Không có khác biệt, ở nơi đâu cũng tập được. Dĩ nhiên nơi nào không khí trong lành và yên tĩnh vẫn tốt hơn.

Trước và sau khi tập: Trước khi tập, đứng bình tỉnh cho tim được thoải mái, đầu óc được yên tĩnh để chuyển hóa về tâm lý và sinh lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng, thoải mái như trong môn khí công. Sau khi tập cũng phải bình tĩnh vê 10 đầu ngón tay và 10 đầu ngón chân đủ 9 lần. Người không đủ bình tĩnh, nên cần chú ý đến điểm này,

Luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép: Sau khi tập thấy ngứa và bụng nhẹ nhàng, hơi thở điều hòa, mắt sáng, nước giải ứa ra nhiều, đại tiện dễ dàng, ăn ngon ngủ tốt, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đó là đã luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép. Sau khi luyện tập, đa số thấy có phản ứng, nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau. Nguyên nhân chính là khi tập, tư thế có thích hợp với người tập hay không.

Khi tập cần chú ý các điểm sau đây:

1.      Nửa thân trên buông lỏng (thượng hư).

2.      Nửa thân dưới giữ chắc, căng mạnh (hạ thực),

3.      Khi tay trả về phía trước, không dùng sức (nhẹ),

4.      Tay vẫy về phía sau, dùng sức (nặng, mạnh),

5.      Mỗi lần tập tăng dần số lần vẫy tay.

Tập ngày 3 buổi, kiên quyết tự chữa bịnh cho mình.

1.      Sự liên quan giữa tinh thần và hiệu quả khi tập luyện: Hết lòng tin tưởng, kiên quyết tới cùng. Tập đủ số lần nhứt định, tập thường xuyên thì hiệu quả rất tốt. Nếu khi tập khi nghỉ, không đủ số lần tập nhất định, trong lòng còn nghi hoặc, bị động theo dư luận, thấy phản ứng lo sợ vội bỏ tập thì nhất định không hiệu quả.

2.      Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không ? Có thể sinh bịnh do tư thế không đúng, làm sai nguyên tắc. Nhưng trong trường hợp này cũng hãn hữu, không tới 1%.

3.      Khi tập nên tránh đứng đầu ngọn gió cả mùa hè lẫn mùa đông.

4.      Tóm lại cần lưu tâm những điểm sau:

·        Khi tập luôn bám chặt các ngón chân vào mặt đất.

·        Thót hoặc co hậu môn thật mạnh để giữ thế “thượng hư hạ thật”.

·        Vẫy tay từ ít tới nhiều và phải đạt 1800 trở lên mới có hiệu quả.

·        Khi gặp phản ứng đừng ngại, đó là diễn biến tốt, cứ tập số lần như cũ. Khi hết phản ứng sẽ tăng số lần vẫy tay lên.

·        Giữ vững lòng tin, kiên trì quyết tâm tin tưởng, tập luyện tới cùng, chắc chắn sẽ đẩy lùi các bịnh tật ta đang mắc phải.

·        Luyện tập Dịch Cân Kinh không chỉ chữa khỏi bịnh mà còn là một phương pháp phòng bịnh rất hữu hiệu.

Source:  Hội Thân Hữu Việt Nam

Oct 8, 2004

Kinh Nghiệm Tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh

(Huỳnh Bửu Khương)

Nhân đọc bài Ðạt Ma Dịch Cân Kinh của Bác sĩ Lê Quốc Khánh đăng trên nhật báo Người Việt số ra ngày 17 và 18 tháng 11 năm 2000 và thấy rất vui mừng khi biết tập Ðạt Ma Dịch Cân Kinh có thể chữa được nhiều bịnh nan y, trong đó có cả bịnh ung thư. Do đó tôi muốn góp thêm ý kiến bằng cách nói lên kinh nghiệm bản thân về việc tập Ðạt Ma Dịch Cân Kinh để giúp quý độc giả hiểu rõ hơn cách luyện tập và củng cố lòng tin vào phương pháp tập luyện này.

Vào năm 1974, anh Nguyễn Kim Tri, Thiếu tá ở Võ Phòng phủ Tổng Thống cho chúng tôi bản phóng ảnh của quyển Ðạt Ma Dịch Cân Kinh bằng chữ Tàu và khuyên chúng tôi nên tập luyện theo sách ấy, rất tốt cho sức khỏe, vì đây là cách luyện tập của chùa Thiếu Lâm dành cho môn sinh luyện trước khi học võ. Sau đó chúng tôi nhờ người dịch đại ý của quyển sách và tập luyện.

Sau bốn tháng luyện tập, mọi người trong phòng của tôi (Khối Ðặc Biệt, Trung Tâm Phối Hợp thi hành Hiệp Ðịnh Ba Lê, Phủ Tổng Thống) đều đạt kết quả tốt. Người nào không có bịnh thì đều lên cân, da dẻ hồng hào thấy rõ. Người nào có bịnh thì bớt bịnh. Ông Long, thư ký đánh máy, bị huyết áp cao, thì sau bốn tháng tập, huyết áp xuống mức bình thường. mặc dầu ông không có uống thuốc. Lúc ấy ngày nào tôi cũng tập 1200 cái đánh tay. (Lúc mới khởi sự tập 200, rồi sau tăng dần).

Sau tháng 4 năm 1975, suốt thời gian ở trong các trại cải tạo từ miền Nam ra tới miền Bắc, ngày nào tôi cũng tập Dịch Cân Kinh một lần, và vẫn giữ mức 1200 cái vẫy tay. Nhờ vậy mặc dầu ăn đói và rất ốm yếu, tôi vẫn có thể chịu được và ít bị bịnh. Anh em nói vì tôi là “quan văn” trong ngành võ (Luật sư tòa Thượng Thẩm Sài Gòn, Thiếu Tá) nên không có sức chịu đựng bằng các anh em khác, phần đông là Tiểu Ðoàn trưởng tác chiến, Quận Trưởng hoặc Hạm trưởng Hải quân, cấp chỉ huy Biệt Kích Dù, An Ninh Quân đội v.v…

Hồi mới ra Hoàng Liên Sơn ở huyện Văn Chấn, thuộc tỉnh Nghĩa Lộ cũ, vào tháng 7 năm 1976, mỗi lần đi lấy gạo, tôi cùng một anh nữa khiêng lối 20 hay 25 kí lô và đi lối 7 hay 8 cây số đường rừng. Khi về gần đến trại có đèo 19 tháng 5 rất cao, thường tôi yêu cầu anh cùng khiêng với tôi ngồi nghỉ một chút rồi mới đi tiếp.

Sau đó tôi nói với Thầy Thuần, một Ðại Ðức, Thiếu tá Tuyên úy Phật Giáo, người ở cùng một láng và cùng tập Dịch Cân Kinh với tôi mỗi ngày, về việc tôi qua không nổi Ðèo 19 tháng 5 rất cao. Thầy nói “Bác cứ tập lên 2000 cái cho tôi, bác sẽ qua nổi đèo ấy”. Nghe lời Thầy Thuần, tôi tập lên đến 2200 cái đánh tay mỗi ngày.

Và lối nửa tháng sau, khi đi lấy gạo, tôi được giao phải vác một mình 20 kí. (Vì họ cho rằng chúng tôi ra Bắc đã một thời gian lâu rồi nên đủ sức để vác 20 kí đi xa), nặng gấp đôi lần trước, thế mà khi qua đèo 19 tháng 5, tôi qua luôn, không phải ngừng lại để nghỉ như trước. Tôi biết ngay là nhờ tập Dịch Cân Kinh theo lối Thầy Thuần chỉ, nên mới đạt được kết quả ấy. Chớ việc ăn uống thì chúng tôi vẫn bị đói dài dài. (Ở miền Bắc, trong 3 năm đầu, gia đình không được gởi thực phẩm cho chúng tôi).

Hồi đó tôi tập nổi 2200 cái đánh tay cho mỗi lần và nhờ hàng ngày tôi phải leo núi, đồi, phải làm việc nặng nên chân mạnh hơn lúc ở Sài Gòn. Chân phải mạnh, rắn chắc thì tập mới được, vì suốt buổi tập mình phải đứng tấn.

Tôi còn nhớ có một hôm chúng tôi phải khiêng một khúc cây to. Anh bộ đội nói “chỉ cần mười người khiêng cây này, anh nào yếu cho khỏi khiêng”. Tôi đưa tay lên xin khỏi khiêng vì tôi biết là tôi yếu nhất trong các anh em. Ðồng thời có một anh nữa, anh Duyệt, cũng đưa tay. Anh bộ đội ngó tôi và nói: “Anh không yếu bằng anh này”, vừa chỉ anh Duyệt. Sau đó tôi nhìn lại thì thấy anh Duyệt mặt mày xanh xao mặc dầu thật sự anh mạnh hơn tôi. Nhờ tập Dịch Cân Kinh mỗi ngày, nên dầu ăn đói, nhưng da tôi không xanh mét như một số anh em khác.

Tập Dịch Cân Kinh giúp mình luôn luôn ngủ ngon và không bao giờ bị táo bón, máu huyết được lưu thông mạnh trong thời gian tập, nhờ đó da dẻ chúng ta luôn được hồng hào và bệnh tật tan biến đi.

Sau đây tôi xin nói về cách tập thế nào cho đúng. Khi chúng tôi mới có cuốn Ðạt Ma Dịch Cân Kinh, chúng tôi coi theo hình vẽ trong đó mà tập theo. Sau lối hai tuần tập luyện, chúng tôi thấy không có kết quả gì cả. Do đó chúng tôi phải nhờ người dịch cuốn sách ấy. Và khi tập đúng cách rồi thì kết quả thấy rất rõ.

Tôi xin diễn tả tư thế và việc phải làm của một người tập Dịch Cân Kinh.

1.      Người tập Dịch Cân Kinh nên đi giày hay dép, không nên đi chân đất. Hai chân dang ra, khoảng cách giữa hai ngón chân cái bằng khoảng cách của hai vai. Hai bàn chân đứng song song với nhau. Mười ngón chân bám chặt xuống giày hay dép.

2.      Gồng cứng (lên gân) bắp chuối và bắp vế chân. Hậu môn nhíu lại và thót lên. Suốt buổi tập, hai chân như trồng cây xuống đất, từ thắt lưng trở xuống luôn luôn cứng nhắc, không suy suyển. Tóm lại, đó là thế đứng tấn của người luyện võ. Nếu đã dang hai chân đúng tầm, đã gồng (lên gân) hai chân thật chắc, bám mười ngón chân thật chặt xuống dép hoặc giày, nhíu hậu môn lại và thót lên rồi thì ta thấy từ thắt lưng trở xuống chân thật là chắc nịch. Và trong suốt buổi tập ta phải luôn chú ý đến phần từ thắt lưng trở xuống và làm đúng như thế. Nếu ta không chú ý đến phần này thì công phu luyện tập sẽ mất gần hết, không mang lại kết quả mong muốn.

3.      Ðầu như dây treo (giống như có sợi dây treo mình lên vậy) để cổ được thẳng, mặt ngó về phía trước, nhìn một điểm cao hơn mình một tí để cổ không rùng xuống.

4.      Ở miệng, hai môi chạm nhẹ vào nhau, không mím môi cũng không hở môi. Hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau, đầu chót lưỡi để trên nướu răng trên (để luồng điện được lưu thông).

5.      Ở mỗi bàn tay, 5 ngón luôn dính vào nhau (chớ không phải xòe ra, sách có vẽ hình rất rõ về điểm này). Khi đánh tay, lòng bàn tay hướng về phía sau (tức là mu bàn tay đưa về phía trước).

6.      Ðộng tác duy nhất là đánh hai tay từ phía trước ra phía sau. Khi đưa hai tay ra phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với thân người thành một góc 30 độ, khi đánh tay ra phía sau thì hợp thành một góc 60 độ. Tóm lại khi đánh tay ra phía sau thì đánh hết tay. Khi đưa tay ra phía trước chỉ là một cái trớn của việc đánh tay ra phía sau còn lại mà thôi. Do đó chỉ có 30 độ. Mỗi lần đánh tay từ phía trước ra sau thì kể là một cái đánh tay.

7.      Khi mới bắt đầu tập, nên khởi sự đánh tay 200 cái cho mỗi lần tập. Nếu muốn mau có kết quả thì mỗi ngày tập hai lần vào buổi sáng và chiều.

Còn nếu có ý chí lớn hơn nữa thì tập mỗi ngày ba lần (sáng, trưa và chiều) càng tốt. Tập ở ngoài sân hay ở trong nhà đều được, miễn là ở nơi thoáng khí và yên tịnh. Không nên tập sau khi ăn cơm no. Khi thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức. Khi thấy còn có thể tập được nữa mà không mệt thì nên tiếp tục tập cho đúng sức mình.

Khi mới tập, khởi sự bằng 200 cái đánh tay mỗi lần tập. Về sau khi thấy còn có thể tập thêm thì tăng lên dần, thí dụ 250, 300, 350, v.v…Hồi tôi mới tập, một thời gian ngắn sau là tôi đã lên tới 1200 cái đánh tay cho mỗi lần tập (trong 15 phút). Hồi đó còn trẻ nên tôi đánh rất nhanh và mỗi ngày tôi chỉ tập có một lần. Sau khi tập xong, ta thấy khát nước (thì nên uống nước ngay), đó là tập vừa sức. Sau khi tập, tôi thường đi chậm bằng cách giở chân lên cao, vừa co dãn hai cánh tay. Có người mới khởi sự đã tập trên 1000 cái thì mặt bị nổi mụn ngay. Nếu tập đúng cách, tôi thấy không có phản ứng gì cả, mà càng ngày ta càng thấy khỏe ra.

8.      Mình tập được nhiều hay ít là do mình có thể đứng tấn được bao lâu, chớ không phải ai muốn tập bao nhiêu lần cũng được. Còn nếu đánh tay để đếm số lần cho thật nhiều mà không gồng lên cho hai chân thật cứng chắc và nhíu hậu môn lại, thót lên thì sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Về tốc độ đánh tay thì sách nói đánh tay nhanh như người đi đánh đồng xa. Ðánh tay càng nhanh thì máu huyết lưu thông càng mạnh trong thời gian ấy, và sẽ cuốn theo mọi bịnh tật. Sách nói muốn tập để trị bịnh thì nên tập từ 2000 đến 3000 cái đánh tay mỗi ngày trong vòng lối 30 phút.

Và sau đây là hai nguyên tắc quan trọng cần phải áp dụng trong lúc tập

1.  Thượng tam hạ thất: Nếu trong thời gian tập, mình dùng mười phần sức lực thì từ thắt lưng trở xuống mình dùng đúng 7 phần và phải luôn luôn chú ý đến việc gồng cứng (lên gân) hai chân, nhíu hậu môn lại và thót lên. Từ thắt lưng trở lên, mình dùng 3 phần sức lực. Ðó gọi là thượng tam hạ thất, thượng hư hạ thực. Trên ba dưới bảy hay trên hư dưới thực. Trong việc đánh tay cũng thế, khi đưa tay ra phía sau thì dùng 7 phần sức lực, đưa ra trước thì chỉ dùng có 3 phần. Trước 3 sau 7 hay trước hư sau thực. Ðánh tay ra phía sau mới thực là cần thiết và phải đánh cho hết tay.

2.  Tâm bình khí tịnh: Trong suốt thời gian tập ta không được suy nghĩ điều gì (điều này hơi khó), ngoại trừ việc nhẩm đếm số lần đánh tay. Ðó là tâm bình. Còn khí tịnh là trong thời gian tập ta thở bình thường, chớ không phải thở theo nhịp tay. Có một môn phái thở theo nhịp tay, nghe nói đó là phái Võ Ðang. Nhưng phái Thiếu Lâm Tự thì không thở theo nhịp tay. Hồi tôi ở Hoàng Liên Sơn, tôi tập không thở theo nhịp tay, còn thầy Thuần thở theo nhịp tay. Nhưng cả hai chúng tôi đều đạt được kết quả tốt.

Sau cùng tôi xin nói một vài kinh nghiệm trong khi tập:

·        Nếu đánh tay nhanh mà ta thấy tê mười đầu ngón tay thì đó vì là ta không nhíu hậu môn và thót lên, hoặc là vì ta để hở mười ngón tay.(Bàn tay năm ngón phải để dính với nhau, không được hở, điều này trong sách có hình vẽ rõ lắm).

·        Nếu lúc tập mà ta thấy đầu hơi nặng là vì cổ ta không thẳng, đầu không như dây treo. Luồng điện thay vì đi xuống lại đi ngược chiều lên đầu. Hồi ở Hoàng Liên Sơn, tối nào tôi cũng ra sân tập và đeo bao tay vì trời lạnh. Khi đánh tay được lối 1500 cái trở lên là tôi thấy ấm người, khỏi mang bao tay nữa, và mỗi cái đánh tay tôi nghe như có hai luồng điện chạy xuống hai chân vậy. Bây giờ đã lớn tuổi, tôi chỉ tập nổi tối đa trên dưới 800 cái đánh tay mỗi lần mà thôi.

·        Thêm vào đó ngày nào tôi cũng đi bộ ít nhất nửa giờtôi thấy rất tốt cho sức khỏe, rất tốt cho việc tập Dịch Cân Kinh. Trong tất cả các môn tôi đã tập (hồi ở Việt Nam, tôi tập dưỡng sinh trong vườn Tao Ðàn), tôi nhận thấy môn Dịch Cân Kinh của Ðạt Ma Tổ Sư là hữu hiệu hơn cả. Nhưng điều cần yếu là phải tin tưởng và kiên nhẫn tập đều đặn thì mới có kết quả.

Lời Chúa

Thơ thứ nhất của Thánh Gioan

Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa,

Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa.

Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.

(1 Ga 4 câu  7,  8 )

Hồi ký Dương Văn Ba: Những Ngã Rẽ – Chương 6

Hồi ký Dương Văn Ba: Những Ngã Rẽ – Chương 6

Viet-studies

Chương 6  NHỮNG CHUYỆN KHÓ QUÊN…

Chuyện mấy ông Tỉnh Trưởng Bạc Liêu và giai thoại “muốn vào phòng tôi xin hãy đạp cửa”

Thời kỳ 1967 đến 1971, Bạc Liêu có 2 ông tỉnh trưởng.

Ông Lâm Chánh Ngôn, Trung tá, quê ở Vĩnh Long. Ông làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu từ cuối năm 1966 đến đầu năm 1970. Ông này để râu ngạnh trê, thích đá gà mê uống rượu. Dĩ nhiên rượu ấy phải là Martell hoặc Cognac. Ông rất sợ vợ; có người kháo nhau chức Tỉnh trưởng của ông do bà xã (Alice) mua từ chỗ Trung tướng Đặng Văn Quang, tư lệnh vùng 4, sau này có lúc làm cố vấn an ninh quốc gia cho Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí dư luận trong các giới chức có cỡ còn đồn rằng bà Alice là tình nhân của Đặng Văn Quang. Đồn đại không biết trúng trật nhưng Đặng Văn Quang rất thân với bà Alice, Quang nhận con gái của Alice làm con nuôi. Chuyện lẹo tẹo tình ái giữa các ông lớn bà lớn chế độ cũ là thường, người ta nói nghe đến nhàm cái lỗ tai. Ví dụ Tổng thống Thiệu, người có rất nhiều bồ, một trong những cô bồ của ông ta là Helen, vợ Đại tá Hoàng Đức Ninh, Tỉnh trưởng Bạc Liêu. Giữa Nguyễn Văn Thiệu – Hoàng Đức Ninh – Hoàng Đức Nhã có mối họ hàng rất gần (họ là anh em cùng mẹ khác cha). Do đó, Hoàng Đức Ninh tha hồ tung hoành sách nhiễu dân lành.

Tỉnh trưởng Lâm Chánh Ngôn, xuất thân từ một gia đình gia giáo ở Vĩnh Long cho nên thời kỳ làm Tỉnh trưởng của ông ta không đến nỗi dữ dằn, độc ác. Chỉ có một chuyện nhắc để cho vui giữa ông Ngôn và Dương Văn Ba, trong một cuộc nhậu nhân dịp Tết năm 1969 hai bên suýt đánh lộn với nhau. Ngày đó Phó Tỉnh trưởng Hành chính Bạc Liêu (xin lỗi quên mất tên) tổ chức ăn tết tại Dinh Phó Tỉnh trưởng. Quan quyền, chức sắc có cỡ trong tỉnh đều có mặt. Lâm Chánh Ngôn uống rượu say rủ Dương Văn Ba cụng ly. Nhưng để chứng tỏ là bề trên, ông ta cố tình đưa ly đụng ngay giữa trán của ông Ba. Tuổi trẻ máu nóng và cũng đã ngà ngà rượu, ông Ba đánh một thoi vào bụng ông Ngôn (cũng là nhẹ thôi để khỏi mất mặt). Tỉnh trưởng Ngôn nổi nóng, chửi bới và đòi bắn Dương Văn Ba tại chỗ. Chánh án Xuân, Quận trưởng Thới, Tiểu Khu phó Xính can ngăn giải hoà. Tiệc tan, Lâm Chánh Ngôn chiều hôm sau mời ông Ba lại nhà chơi, cười khà khà lại tiếp tục uống rượu. Thực ra giữa tôi và Lâm Chánh Ngôn không có đụng chạm nào sâu sắc. Một số thường dân bị bắt bớ oan ức, tôi can thiệp và bảo lãnh, ông ta đều thả ra. Quan hệ giữa một dân biểu với tay Tỉnh trưởng trong thời kỳ đó, dư luận trong tỉnh rất chú ý. Tay Ngôn có phần nào nể vì tôi, ông biết rõ giữa tôi và em của ông có tình bạn khá thân, cùng hoạt động cho Hội Liên Trường (Hội Cựu Ái hữu Học sinh các trường Pétrus Ký, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Gia Long – những trường lớn nhất của miền Nam. Hội này làm công tác xã hội cấp học bổng cho nhiều học sinh giỏi, con nhà nghèo. Họ đã xây được một trụ sơ lớn ở góc đường Hùng Vương và Trần Phú, quận 5). Trước mặt đông đảo quan khách, tôi vẫn phải giữ ý với ông ta. Phải nói Lâm Chánh Ngôn là tay hay uống rượu, mà uống rượu nhiều thì không phải là người có lòng dạ hiểm độc, tiểu nhân. Một tay tỉnh trưởng muốn hại một dân biểu đối lập, muốn làm mất mặt một người, quá dễ. Chỉ cần sai mấy tên sĩ quan “tà lọt” cho uống vài chai whisky, biểu bắn ai nó cũng bắn, đừng nói chi tới chuyện “đánh cho bể mặt ngoài đường”. Lâm Chánh Ngôn không làm việc đó với tôi.

Bạc Liêu là một tỉnh mua bán trù phú. Có rất nhiều tay “xì thẩu”, muốn làm giàu thêm nữa, chỉ cần bợ đỡ tỉnh trưởng, sẽ có thêm nhiều đặc quyền đặc lợi.

Thời kỳ ông Ngôn làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu là do sự đỡ đầu của Tướng Đặng Văn Quang. Nhưng Tướng Quang làm sao mạnh bằng Thiệu, cho nên Hoàng Đức Ninh thời kỳ đó đang làm Quận Trưởng quận Thạnh Trị đã tạo dư luận râm ran trong giới em út là “tao sẽ về làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu thay thế thằng Ngôn”. Dân Bạc Liêu đã biết việc đó 6 tháng trước khi anh ta về, vì gốc của anh ta là gốc bự số 1. Tỉnh Bạc Liêu dĩ nhiên béo bở hơn quận Thạnh Trị (Phú Lộc). Hoàng Đức Ninh không giành ghế tỉnh trưởng Sóc Trăng của Đại tá Quách Huỳnh Hà vì Đại tá Hà có nhiều thời gian làm thư ký riêng cho Thiệu. Ninh nhắm ghế tỉnh trưởng Bạc Liêu, “món ăn” ở Bạc Liêu béo bở không thua Sóc Trăng. Helen, vợ của Ninh, là người vận động chức đó cho chồng. Đầu năm 1970, Hoàng Đức Ninh chính thức về Bạc Liêu thay thế Lâm Chánh Ngôn.

Lúc Trung tá Ninh làm Quận trưởng Thạnh Trị (Phú Lộc) có nhiều chuyện kể cười ra nước mắt.

Chuyện thứ nhất là chuyện “Đại đội heo”

“Đại đội heo” là một đại đội địa phương quân dưới quyền trực tiếp chỉ huy của Trung tá Ninh, quận trưởng. Biệt tài của đại đội này trước khi đi hành quân, tên nào tên nấy cũng được uống rượu cho say. Vào các vùng xôi đậu tha hồ vét của, tha hồ bắt heo: heo lớn, heo bé, đực cái đều bắt tuốt. Mỗi lần đại đội hành quân đi về, chiến lợi phẩm là 50-70 con heo của dân.

Thành tích lẫy lừng của Đại đội heo là hể gặp người tình nghi Việt cộng là “sát”. Chưa hết, vẻ vang hơn, đại đội này được tha hồ hãm hiếp đàn bà con gái. Nhỏ cũng hiếp, già lão cũng hiếp, không tha. Đại đội heo là đại đội hung thần ác qủy đối với dân các vùng trong ở Thạnh Trị Sóc Trăng. Một ông Hội Đồng tỉnh ở Bạc Liêu tên Đỗ Khắc Tường, máu còn trẻ và nóng, chơi “gan” lên tiếng tố cáo đại đội heo trên nhật báo Tin Sáng thời đó (chính tôi cho đăng các tin tức này).

Tên Đại đội trưởng Đại đội heo, đọc tin đó trên báo, đang nằm dưỡng bệnh tại bệnh viện Trương Bá Hân – Sóc Trăng, lập tức bỏ bệnh viện về, tính kế hoạch “sát” Đỗ Khắc Tường. Một người bà con ở Phú Lộc biết tin vội vã cấp báo cho Nghị viên Hội đồng tỉnh Đỗ Khắc Tường, ông này lúc đó sợ quá, bỏ lên Sài Gòn “trốn “ gần 2 tháng. (Khi hăng tiết, tố cáo tùm lum trên báo. Lúc hay tin đại đội trưởng Đại đội heo sắp “hỏi thăm sức khoẻ” . Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng).

Trời cao có mắt, khoảng 2 tháng sau, tên đại úy Đại đội trưởng Đại đội heo trong một cuộc hành quân càn quét, đạp nhằm mìn cụt cả hai giò. Người bà con ở Phú Lộc lại thông báo tin vui, Đỗ Khắc Tường trở về Bạc Liêu. Bà má và vợ của ông mừng quá cúng heo quay tạ lễ trời phật đã cứu chồng thoát nạn.

Chuyện một xe gạo và chuyện hãy đạp cửa phòng tôi

Hoàng Đức Ninh ăn hối lộ rất công khai, dạn dĩ. Ông ta thường nói thẳng điều mình muốn.

Một lần đi thực tế tra xét tình hình các nhà máy xay lúa trong quận Thạnh Trị, cứ vào mỗi nhà máy, kêu chủ lại, ông ta nói thẳng: “Quân đội đổ mồ hôi và lấy tính mạng bảo vệ cho các ông bà chủ được an toàn làm ăn, khỏi bị Việt cộng phá phách thu thuế. Đổi lại mấy người nên làm nghĩa vụ đóng góp cho chi khu. Hai tháng một lần, mỗi nhà máy đóng góp cho chi khu một xe gạo 7 tấn”.

Thạnh Trị có hàng chục nhà máy xay lúa dọc theo Quốc lộ 4 và kể cả ở xã Ông Kho. Cứ 2 tháng, Hoàng Đức Ninh thu được từ các nhà máy xay lúa hàng chục xe gạo. Mỗi xe trị giá 6-7 lạng vàng, tính ra Quận trưởng Ninh mỗi tháng kiếm được trung bình cở 50 lạng vàng từ ngành chà gạo. Có một ông chủ nhà máy, không biết vô tình hay cố ý dở hơi “chơi xỏ” Hoàng Đức Ninh bằng cách chở thẳng một xe gạo 7 tấn đến ngay chi khu Thạnh Trị báo là giao nộp cho Quận trưởng. Ninh nổi giận đùng đùng, gọi tay chủ nhà máy khù khờ vào văn phòng quát: “Mày chơi khăm tao hả?! Tao nói một xe gạo, tức là bọn mày phải đem gạo đi bán mang tiền hoặc vàng đem nộp cho tao. Mày mau đem gạo về đem vàng trở lại. Bằng không tao đóng cửa nhà máy mày lập tức.

Đó là chuyện thật 100%. Giống như chuyện bạc chẵn bạc lẻ. Một Hoa thương hàng tháng phải nộp cho Ninh 1 triệu đồng (do ăn chia quota). Có lần anh chủ tiệm xi măng mang 1 triệu đồng gồm giấy lẻ một đồng, năm đồng, vào văn phòng Tỉnh trưởng nộp. Ninh chửi thề: “Đ..M mày đem tiền lẻ chỗ đâu tao cất. Mau mau đi đổi lại cho tao”. Ông Hoa kiều nộp tiền cho Ninh đến nay vẫn còn sống ở chợ Bạc Liêu, đã hơn 60 tuổi.

Dân buôn bán ở Bạc Liêu còn kể cho nhau nghe giai thoại: “Muốn vào phòng tôi xin cứ đạp cửa” ngụ ý:  Thương buôn nào cần làm việc với Tỉnh trưởng, phải mang theo quà cáp. Thông thường quà là các khánh bằng vàng y, mỗi cái 1-2 lạng vàng. Ai đi tay không vào, Ninh không tiếp, cho đứng ngoài chờ. Những thương gia có máu mặt biết Ninh rất thích vàng Kim Thành, có việc gì cần xin, cứ mang 2-3 thẻ vàng vào, mọi việc xong xuôi. Vào phòng của Ninh không cần lấy tay gõ cửa, chỉ cần lấy chân đạp. Cửa phòng bị đạp, chứng tỏ khách có mang qùa biếu trên tay. Ninh vui vẻ tiếp đón. Người nào dùng tay gõ cửa, Ninh không tiếp. Giai thoại “gõ cửa, đạp cửa” tưởng như chuyện tiếu lâm. Tính cách của Ninh rất ngang tàng, y chẳng sợ ai, kể cả Đặng Văn Quang ở Vùng 4, vì anh của y là Thiệu đang ngồi ở trên ghế vàng Dinh Độc lập.

Hoàng Đức Ninh giỏi đánh hơi thời cuộc. Làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu đến năm 1973, Ninh xin Thiệu cho về làm Tư lịnh Đặc khu 44 gồm 3 tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Cao Lãnh. Thiệu lúc ấy thăng chức cho cậu em lên hàm Chuẩn tướng (người ta đồn vợ của Ninh là Helen, lai đầm khá đẹp từng là bồ nhí của Nguyễn Văn Thiệu). Ở Đặc khu 44 thành tích của Hoàng Đức Ninh là cho các tay em bán nhiều xe súng đạn cho dân buôn lậu biên giới, để họ tiếp tế cho Việt cộng. Ninh cũng vơ vét tiền đút lót của các tay trùm buôn lậu biên giới Việt Nam – Campuchia. Thời kỳ này Ninh thường sử dụng máy bay trực thăng của Đặc khu 44 lên Sài Gòn ăn chơi. Mối tình lâm ly của Chuẩn tướng Ninh với cô đào hát cải lương nổi tiếng, cả Sài Gòn ai cũng biết. Vì mê tiền và quyền lực của Ninh mà cô đào dễ thương phải phụ rẫy hậu vệ Tam Lang của Đội tuyển Sài Gòn. Chuẩn tướng Ninh có nhiều tiền đã đạt được tất cả những gì anh ta muốn. Đầu năm 1974, đánh hơi trước được thời cuộc, Ninh xin Thiệu đi làm Tuỳ viên Quân sự tại Bonn (Tây Đức).

Hoàng Đức Ninh, anh của Hoàng Đức Nhã, có nhiều nợ máu, nợ tiền với nhân dân Vùng 4. Thời anh ta làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu, dựa vào thế lực của Ninh, nhiều sĩ quan cấp dưới phạm nhiều tội ác tày trời với nhân dân vùng xôi đậu. Điển hình Thiếu tá địa phương quân Nguyễn Văn Sỹ, gốc là trung uý Phòng Nhì Tiểu khu Bạc Liêu, khi vào Phước Long làm quận trưởng Sỹ đã sát hại nhiều thường dân vô tội. Vào ruồng bố ở xã Vĩnh Hưng, một xã xôi đậu hạng nặng, Sỹ cho bắt đàn bà con gái ở truồng như nhộng đi ngoài đường biểu diễn. Sỹ còn bắt các ông sư lấy gióng gánh khiêng các phụ nữ trần truồng đi khắp xã, như khiêng heo. Cùng một thành tích và cùng một đòn ngón như Nguyễn Văn Sỹ cũng vào thời đó, dưới quyền Hoàng Đức Ninh, còn có Thiếu tá Mã Thành Nghĩa, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Địa phương quân 414. Thành tích của Nghĩa mỗi lần trước khi hành quân, cho lính được nhậu say bí tỉ, vào xã Vĩnh Hưng, xã Phước Long, tha hồ hãm hiếp đàn bà con gái.

Ngày 30 tháng 4-1975, biết thế nào cũng phải đền tội, Thiếu tá Mã Thành Nghĩa đã tự sát bằng súng Rulô. Còn Nguyễn Văn Sỹ có quá nhiều nợ máu, UBND Cách Mạng quận Phước Long đã lập Toà án, đem Sỹ xử bắn. Kết thúc cuộc đời gian ác của hai thanh niên hễ uống rượu vào là muốn thấy máu của đồng bào.

Đại đội trưởng Đại đội heo, Thiếu tá Sỹ quận trưởng Phước Long, Thiếu tá Nghĩa tiểu đoàn trưởng 411, là những đàn em điển hình sự tàn ác của Hoàng Đức Ninh. Chúng đã dám tàn ác, do có Ninh che chở. Lịch sử của dân Bạc Liêu có thể quên nhiều thứ, nhưng dân Phước Long, Thạnh Trị không thể nào quên chuyện của Ninh và đàn em tàn ác vào một thời kỳ hỗn mang, coi mạng người rẻ hơn mạng cầm thú, nhân danh chiến tranh.

Giai thoại về Hoàng Đức Ninh giống như một cuốn tiểu thuyết ly kỳ, rùng rợn. Chỉ nhắc lại một vài sự vụ để nói rằng lịch sử có thể tha thứ nhiều điều, lòng thù hận có thể nguôi đi theo thời gian, nhưng những con cháu sinh ra sau 1975 cần được biết về những nỗi thống khổ mà cha ông chú bác của họ đã phải trải qua trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập. Chiến tuyến có thể xóa mờ nhưng tội ác ngàn đời vẫn phải ghi chép là tội ác. Tội ác không phải tràn lan. Tội ác giống như dòng nước bẩn đổ xuống thung lũng ma quái. Ánh sáng văn minh phải có thời gian mới soi rọi, xua tan những hắc khí của một thời ma quỷ lộng hành.

Nghe nói Tướng Nguyễn Cao Kỳ đang vận động xin sớm trở về Việt Nam, kể cả gặp Ngô Công Đức tại Hoa kỳ, nhờ ông Đức vận động. Thực tế, Nguyễn Cao Kỳ đã được chính phủ ở Hà Nội cho phép về Việt Nam trong dịp tết năm 2004. Người ta không thể quên Tướng Kỳ năm 1965 đã đích thân lái máy bay dội bom miền Bắc cùng chuyến với Phạm Phú Quốc. Phạm Phú Quốc tử nạn vì máy bay bị bắn rơi. Còn Tướng Kỳ an toàn trở về. Ông ta chỉ làm màn trình diễn một lần. Khoảng cuối tháng 4-1975, trước cảnh di tản ồ ạt của dân, kể cả sĩ quan, tướng lãnh VNCH, Nguyễn Cao Kỳ đã từng tuyên bố một câu với đài BBC: “Tôi còn cái quần đùi cũng ở lại Việt Nam đánh nhau với cộng sản”. Kỳ cũng đã từng xin gặp Đại tướng Dương Văn Minh đề xuất hợp tác với Tướng Minh một giải pháp quân sự. Cũng đừng quên rằng dưới thời Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ Tướng, đã có một Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh sát Quốc gia, ngông nghênh gấp mấy lần Chuẩn tướng Hoàng Đức Ninh. Người ta không thể nào quên tấm ảnh trên báo Newsweek. Nguyễn Ngọc Loan kề súng lục ngay vào màng tang một người tù Việt cộng và bóp cò. Đó là một tấm ảnh thuộc vào loại hy hữu của thế kỷ thứ 20, làm cả thế giới chấn động. Nguyễn Ngọc Loan không thể là một Loan ngông nghênh (điên điên, luôn luôn mặc áo nhà binh cụt tay, bỏ ra ngoài, chân đi dép cao su Thái) nếu không có Nguyễn Cao Kỳ. Hoàng Đức Ninh không thể là Ninh tàn ác, vô đạo nếu không có ông anh Nguyễn Văn Thiệu.

Nguyễn Ngọc Loan đã chết tại Mỹ khoảng cuối năm 2001, trước đó ông ta là chủ một nhà hàng ăn ở bang Virginia. Ông ta bị các chủ nhà hàng ăn khác trong tiểu Bang Virginia phản đối không cho tham gia vào nghịêp đoàn các chủ nhà hàng ăn uống vì tội “sát nhân”. Nguyễn Ngọc Loan đã vận động ký giả chụp bức ảnh “giết người” của ông ta, để ký giả này lên tiếng, “tôi chỉ chụp ảnh ông ta vì lý do nghề nghiệp, tôi không kết tội ông ta giết người, vì lúc đó là thời chiến tranh, bắn chết một người cộng sản, ông ta chỉ làm nhiệm vụ của một người lính. Cũng như tôi, tôi chụp ảnh ông ta, là tôi làm nhiệm vụ của một nhà báo. Tôi không có ý kiến khắt khe buộc tội ông ta”. Mặc dù được lời bào chữa của tác giả chụp bức ảnh, Nguyễn Ngọc Loan cũng không thuyết phục được giới chủ nhà hàng ăn bên Mỹ. (Tưởng cũng nên nhắc lại trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, Nguyễn Ngọc Loan lúc chỉ huy trận đánh trong Chợ Lớn, đã từng bị quân giải phóng bắn què giò).

Nay mai Hoàng Đức Ninh, Hoàng Đức Nhã có thể lại nhờ người vận động xin được về nước, giống như Nguyễn Cao Kỳ đã từng làm (ông ta đã được về ). Lịch sử có còn là lịch sử hay không?

Đức Chúa có thể tha thứ mọi điều, kể cả đối với Luxiphe.

Nhưng một số dân Bạc Liêu, Cà Mau khó quên và khó tha thứ những vết bẩn đầy máu của thời kỳ Hoàng Đức Ninh.

Noi Gương Chúa Giêsu Sống Chứng Tá Tin Mừng

Noi Gương Chúa Giêsu Sống Chứng Tá Tin Mừng

Chuacuuthe.com

VRNs (09.03.2015) -Sài Gòn- Kể từ khi khởi sự sứ vụ cách công khai, ngoài việc giảng dạy ra, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng của Ngài để thực hiện nhiều dấu lạ như xua trừ ma quỷ, cho kẻ què đi được, cho kẻ điếc được nghe, người mù được thấy, thậm chí cho kẻ chết sống lại. Thiết nghĩ, nếu phải chọn một câu ngắn nhất để nói về những việc Chúa đã thực hiện, có lẽ tôi sẽ chọn câu Lời Chúa trong sách Tông Đồ Công Vụ: “Đi đến đâu, Chúa Giêsu thi ân giáng phúc đến đó” (Cv 10, 38).

Hẳn là Chúa Giêsu trở quê quán của Ngài cũng là để ‘thi ân giáng phúc’ cho những người đồng hương. Điều đáng tiếc là, mặc dù những người đồng hương của Chúa Giêsu rất thán phục về những lời hay ý đẹp của Ngài, nhưng họ đã để cho thái độ tự mãn của họ cản trở tâm hồn và cái nhìn của họ, khiến không chịu mở tâm hồn ra để đón nhận ân phúc từ Thiên Chúa, và không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.

Những người đồng hương đã tự mãn vì họ nghĩ rằng, họ đã biết rõ gốc gác của Chúa Giêsu (x. Lc 4, 22). Vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói với họ của Ngài rằng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của mình.” (Lc 4, 24).

Hẳn là Chúa Giêsu thừa biết rằng, câu nói này của Ngài sẽ gây phản cảm và làm chạm tự ái thính giả đồng hương của ngài, Ngài có thể tránh và dùng những lời ngọt tai để lấy lòng họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nói thẳng cho họ biết, để họ loại bỏ thái độ tự mãn.

Ở điểm này, chúng ta nhận thấy hành động của Chúa Giêsu là một hành động mang tính ngôn sứ. Ngài nỗ lực rao truyền Chân lý, sẳn sàng chịu ngược đãi, bách hại. Đúng như nhân gian thường nói: “Thuốc đắng giả tật, sự thật mất lòng.” Thay vì thức tỉnh trước lời dạy của Chúa Giêsu mà sửa đổi, những người đồng hương của Chúa Giêsu đã tiếp tục để cho tính “rừng rú” của họ nổi lên, họ dốc tâm hại Chúa Giêsu, nhưng ‘giờ của Ngài’ chưa đến.

Hành động của những người đồng hương với Chúa Giêsu cho thấy được mối nguy hiểm của việc hành động theo cảm tính. Nếu ta chỉ thích nghe những điều làm ta vui tai, chỉ thích làm những điều đem lại sự thỏa mãn hay ích lợi cho bản thân, mà bất chấp những điều ta nghe hay những việc ta làm có phù hợp với chân lý, với những điều Chúa dạy, như thế ta chưa sống xứng với phẩm giá của mình, mà chỉ sống theo bản năng.

Thái độ tự mãn là một thứ định kiến làm cho ta tưởng rằng mình biết rõ một vấn đề hay một lĩnh vực nào đó, khiến ta không còn nỗ lực hay hứng thú để khám phá và nhận chân ra giá trị của một thực tại nào đó.

Trong tương quan với tha nhân, thái độ tự mãn cũng cản trở ta trong việc khám phá những vẽ đẹp tiềm ẩn, những khía cạnh tích cực nơi tha nhân. Đồng thời, thái độ tự mãn có thể tạo nên định kiến tiêu cực trong cái nhìn của ta về tha nhân.

Trong cuộc sống, đôi khi ta dễ bị cám dỗ chỉ dựa vào vật chất như là tiêu chuẩn để đánh giá người khác, chỉ dừng lại ở cái nhìn hời hợt bên ngoài như cách trang điểm, quần áo, diện mạo, điện thoại, xe, dẫn đến việc trọng vọng những người giàu có, mà coi khinh những người nghèo khó. Rốt cuộc, không thấy hết vẽ đẹp trong tâm hồn của người nghèo khó, và không nhận ra sự hiện hiện của Thiên Chúa nơi họ.

Lạy Chúa, xin giúp con loại bỏ những cái nhìn tiêu cực đối với tha nhân, và giúp con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong anh chị em để con yêu thương, tôn trọng và tích cực giúp đỡ những anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng con. Xin Chúa cũng giúp con biết noi gương Chúa can đảm trong việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng.

Vominh

Học giả học giếc

Học giả học giếc

Nguoi-viet.com

Bùi Bảo Trúc

Mấy hôm đầu năm, ở trong nước, không ít người đã ồn hẳn lên về mấy bức ảnh chụp một người đàn ông có tuổi ôm hôn một phụ nữ trẻ khi cô cùng với gia đình đến thăm người đàn ông này tại nhà riêng của ông ta nhân dịp Tết.


Ông Vũ Khiêu và câu đối tặng cô hoa hậu. (Hình: Vietnamnet.vn)

Người đàn ông ấy mới đây đã qua được sinh nhật thứ 100, và được gọi là một học giả nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Ông cũng đã từng nắm giữ một vài chức vụ khá quan trọng khác. Chuyện thăm viếng một người như ông của một phụ nữ trẻ là một việc làm đẹp, nhất là khi cô còn rất trẻ, lại có một cuộc sống sôi động rất ít liên quan đến văn hóa: Cô là một hoa hậu mới đăng quang của Việt Nam.

Chuyện trở nên ồn ào khi nhiều ý kiến cho rằng việc ông ta ôm hôn người phụ nữ trẻ đến thăm ông là một việc không nên làm, vì việc đó không thích hợp với phong tục và tập quán của người Việt, nhất là ở cái tuổi của ông. Ông có thể cầm lấy tay cô gái, nói vài ba câu cám ơn, mừng tuổi cô là đủ. Không cần phải ôm lấy cô để hôn lên má như trong ảnh.

Đâu phải cứ thấy Hồ Chí Minh hôn môi mấy cháu nhi đồng rồi chàng cũng thừa thắng xông lên ôm hôn hoa hậu cho bõ những ngày cơ cực đâu.

Nhưng thực ra chuyện ôm hôn người phụ nữ trẻ đến chúc Tết mình cũng chỉ là một chuyện có thể bỏ qua được. Cháu ra đến ngoài cửa, lấy khăn chùi mạnh mấy cái thì hết cái hôn ấy ngay chứ gì. Xong một chuyện.

Chuyện thứ hai là học giả tặng cho cô hoa hậu một đôi câu đối (?) do chính chàng viết tay trên giấy đỏ để cả hai cùng ký tên vào cho … tình.

Trí như bạch tuyết tâm như ngọc
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung

Hai câu rõ ràng là bằng chữ Hán nhưng chàng viết bằng chữ quốc ngữ với cách viết để người đọc sẽ nghĩ đó là hai câu đối. Nhưng hai câu chàng tặng cô hoa hậu không phải là hai câu đối vì chúng hoàn toàn không đối nhau: TRÍ không thể đối với VÂN. BẠCH TUYẾT không đối với Y THƯỜNG. TÂM là tiếng bằng không thể đối với HOA cùng là tiếng bằng. NGỌC không thể đối với DUNG vì ý không đối.

Câu trên nghĩa là đầu óc (cô hoa hậu) thì trong trắng như tuyết, quả tim thì như ngọc. Câu dưới là thấy mây thì nghĩ là xiêm áo và nhìn hoa thì ngỡ là dung nhan của nàng.

Nhưng câu “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” không phải là sáng tác của chàng. Chàng vồ của Lý Bạch (*). Đó là câu đầu của bài Thanh Bình Điệu gồm 3 đoạn mà Lý Bạch viết theo đơn đặt hàng của Đường Minh Hoàng để phổ thành ca khúc hát lên khi Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thưởng hoa trong cung.

Chàng, giáo sư học giả Vũ Khiêu, thấy hay quá bèn chôm luôn viết cho thành hai câu tặng người đẹp. Nham nhở hết chỗ nói.

Nếu không biết tặng cô gái trẻ cái gì thì cứ đem cả bài Thanh Bình Điệu ra đọc cho cháu nghe, rồi cà kê giảng cho cháu, khen cháu như Lý Bạch ca Dương Quí Phi cũng đã là đủ. Nhưng chàng sốt ruột quá, không biết thơ phú để làm vài câu tặng hoa hậu, bèn lôi ngay thơ Lý Bạch ra chép cạnh câu “Trí như bạch tuyết tâm như ngọc” (không biết chàng mượn của ai) cho thành hai câu viết lằng nhằng giả bộ như thư pháp cho cháu phục lăn chiêng. Chàng viết láo lếu thế nào khiến cho chữ NHƯ đọc như chữ NGƯI.

Rồi chàng ký tên ở dưới và bảo cháu hoa hậu cùng ký tên ngay cạnh. Không hề có cái hoa thị kèm theo vài ba chữ chú thích nói mượn tạm một câu của Lý Bạch.

Thối không để đâu cho hết thối.

Không biết chàng học hành ấm ớ như thế nào nhưng khoe là tốt nghiệp (?) tú tài ở Hải Phòng rồi lên Hà Nội làm cu ly trong nhà thương của Pháp năm 1935. Ai cũng biết hồi ấy mà có cái bằng tú tài thì không ai đi làm lao công trong bệnh viện bao giờ. Chỉ có thứ phét lác thiếu cơ sở mới khai bố láo như thế. Rồi chàng theo cách mạng, lên rừng làm giáo sư và học giả nên mới có thứ chữ nghĩa chôm chỉa đem lòe cháu hoa hậu như khi cháu đến thăm chàng.

Chuyện thuổng thơ văn người khác thì chàng đã làm vài ba lần trước rồi chứ chuyện chôm thơ Lý Bạch nhận là của mình không phải là lần đầu. Người ta kể rằng chàng đã vồ hai câu trong đình làng An Trì thờ Ngô Quyền ở Hải Phòng có từ đầu thế kỷ thứ XIX:

Vạn cổ càn khôn hưng tái tạo
Cửu vân nhật nguyệt ánh trùng quang

Và đem nguyên văn hai câu ấy về dâng (!) lên nhà thờ tổ họ Vũ của chàng ở Mộ Trạch, Hải Dương. Chàng nhận là của chàng cho … tiện.

Nụ hôn gây “chấn động” dư luận. (Hình: Vietnamnet.vn)

Chao ôi, một giáo sư, học giả mà làm ăn như vậy hay sao. Có đạo thơ thì cũng nên chịu khó kiếm bài thơ nào ít ai biết trong mấy ngàn bài thơ Đường chứ sao lại ăn cắp ngay một câu con nít cũng biết là của Lý Bạch mà tặng hoa hậu bao giờ.

Thật là ngu hết chỗ nói. Hay là học giả ở Việt Nam thì phải như thế đấy!

Đó là chưa kể chuyện chàng từng đề nghị dùng hoa mào gà để làm biểu tượng cho nước Việt Nam. Rất may là cái đề nghị ngớ ngẩn đó của chàng đã không được hưởng ứng.

Sao lại có cái thứ học giả ngu xuẩn đến như vậy chứ !

(*)

Thanh Bình Điệu

I

Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng

II

Nhất chi hồng điểm lộ ngưng hương
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường
Tá vấn Hán cung thùy đắc tự?
Khả liên Phi Yến ỷ tân trang

III

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoa
Trường đắc quân vương đới tiếu khan
Giải thích xuân phong vô hạn hận
Trầm Hương đình bắc ỷ lan can

Ngô Tất Tố dịch:

I

Thoáng bóng mây hoa nhớ bóng hồng
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong
Ví chăng non Ngọc không nhìn thấy
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông

II

Hương đông móc đượm một cành hồng
Non Giáp mây mưa những cực lòng
Ướm hỏi Hán cung ai mảng tượng?
Điểm tô nàng Yến tốn bao công

III

Sắc nước hương trời khéo sánh đôi
Quân vương nhìn ngắm những tươi cười
Sầu xuân man mác tan đầu gió
Cửa bắc đình Trầm đứng lả lơi

Đà Nẵng bán đứt núi Bà Nà cho tập đoàn Sun Group

Đà Nẵng bán đứt núi Bà Nà cho tập đoàn Sun Group

Nguoi-viet.com

ĐÀ NẴNG 8-3 (NV) .- Dân chúng Việt Nam, đặc biệt là dân chúng thành phố Đà Nẵng đang chỉ trích kịch liệt việc nhà cầm quyền thành phố Đà Nẵng bán đứt khu vực núi Bà Nà cho Tập đoàn Sun Group.

Trạm gác chặn người và xe không cho tự đi lên Bà Nà. (Hình: Tuổi Trẻ)

Bà Nà cao khoảng 1,400 mét, thuộc địa phận huyện Hòa Vang cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 30 cây số. Nổi tiếng vừa vì đẹp, vừa vì thời tiết độc đáo: Mỗi ngày có nét đặc trưng của cả bốn mùa riêng biệt, buổi sáng giống như mùa Xuân, buổi trưa giống như mùa Hè, buổi chiều giống như mùa Thu và đêm xuống chẳng khác gì mùa Đông.

Mới đây, Tập đoàn Sun Group đã quyết định đóng con đường dài khoảng 15 cây số dẫn lên Bà Nà. Muốn thăm Bà Nà phải dùng hệ thống cáp treo dài khoảng 5,000 mét. Nếu là dân Đà Nẵng, phí dùng cáp treo là 350,000/người/chuyến đi – về. Không phải dân Đà Nẵng thì phải trả 500,000//người/chuyến đi – về.

Dân chúng thôn An Sơn, xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng – nơi có tỉnh lộ 602 (tên con đường dẫn lên Bà Nà) cho biết, bất cứ ai muốn dùng tỉnh lộ 602 phải xin phép và được Ban Quản lý Khu du lịch Bà Nà đồng ý.

Thậm chí theo tờ Tuổi Trẻ, ngay cả các nhân viên kiểm lâm của Ban Quản lý rừng đặc dụng Bà Nà – Núi Chúa bao quanh Khu Du lịch Bà Nà, cũng phải xin phép Ban Quản lý Khu du lịch Bà Nà để dùng tỉnh lộ 602.

Ông Nguyễn Điểu, Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường thành phố Đà Nẵng, giải thích, trước đây, Đà Nẵng giao cho nhiều nhà đầu tư cùng khai thác các dịch vụ tại Khu du lịch Bà Nà nên khu vực này trở thành manh mún, không theo chiến lược nào cả.

Sau đó thì Tập đoàn Sun Group tìm tới và bỏ tiền làm tuyến cáp treo chạy từ chân lên đỉnh Bà Nà. Do Tập đoàn Sun Group có khả năng, Đà Nẵng đã quyết định giao toàn bộ Khu du lịch Bà Nà cho Tập đoàn Sun Group khai thác (bán một phần để Tập đoàn Sun Group xây dựng biệt thự nhằm bán lại, phần khác thì cho tập đoàn này thuê).

Ông Điểu tiết lộ, sắp tới Đà Nẵng sẽ giao toàn bộ rừng Bà Nà – Núi Chúa, kể cả rừng nguyên sinh cho Tập đoàn Sun Group quản lý.

Ông Điểu xác nhận với tờ Tuổi Trẻ rằng, Đà Nẵng đã giao cho Tập đoàn Sun Group quản lý luôn tỉnh lộ 602 và tập đoàn này dùng con đường đó để vận chuyển thiết bị, vật tư phục vụ các công trình xây dựng nên nó trở thành nguy hiểm cho du khách.

Theo ông Điểu, Tập đoàn Sun Group đã đầu tư khoảng 500 triệu Mỹ kim vào Khu Du lịch Bà Nà nên có ưu đãi như vậy thì tập đoàn này mới sớm thu hồi được vốn, chứ chỉ dựa vào nguồn thu từ dịch vụ du lịch thì rất khó cho doanh nghiệp.

Trước thắc mắc của nhiều người: Họ đã từng góp tiền xây dựng chùa Linh Ứng nhưng tại sao, nay muốn đến chùa phải mua vé của Khu du lịch mới được vào? Ông Võ Văn Thương – Chánh Văn phòng thành phố Đà Nẵng, bảo rằng, chùa Linh Ứng nằm trong quần thể Khu Du lịch Bà Nà mà chính quyền thành phố này đã giao cho Tập đoàn Sun Group đầu tư và quản lý nên… “khó bóc tách ra được”. (G.Đ.)

Tiền Giang: Chuẩn bị tẩm liệm thì sống lại

Tiền Giang: Chuẩn bị tẩm liệm thì sống lại

TIỀN GIANG 8-3 (NV) –  Một người đàn ông bị bệnh viện trả về, gia đình chuẩn bị tang lễ thì được cứu sống trở lại nhờ một người khách viếng, theo tin tờ Dân Việt hôm Chủ Nhật 8/3/2015.

Ông Nguyễn Văn Đạo (bên phải) tươi cười bên ân nhân cứu mạng Phạm Tấn Lộc.(Hình: Dân Việt)

“Người đàn ông đột quỵ, bị bệnh viện trả về gia đình lo hậu sự. Trong lúc chờ tẩm liệm, một người khách đến viếng sờ thử vào ngực thấy ấm liền nhấn mấy cái rồi đưa đi cấp cứu. Và, “người chết” đã… sống khỏe”.

TỜ Dân Việt kể như vậy và cho hay tiếp rằng, ngày 8/3/2015, theo lời bác sĩ Hồ Văn Bảy – Trưởng khoa Cấp cứu Bệnh viện Quân y 120 Tiền Giang, bệnh nhân Nguyễn Văn Đạo (53 tuổi, ngụ xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) đã bình phục sau 10 ngày được điều trị.

Trước đó, ông Đạo “bị đột quỵ và được gia đình đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Long An trong tình trạng hôn mê, nhiều lần ngừng tim, sau đó được bệnh viện này cho về lo hậu sự”.

Nguồn tin trên kể rằng, sáng mùng 4 Tết (tức ngày 22/2/2015), ông Đạo bị đột quỵ tại nhà dì ruột ở thành phố Tân An, tỉnh Long An. Ông được người thân đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Long An trong tình trạng hôn mê, nhiều lần ngừng tim. Cuối ngày 22.2, Bệnh viện Đa khoa Long An đồng ý để người nhà đưa ông Đạo về lo hậu sự.

Các bác sĩ điều trị dặn, “khi về nhà rút ống thở, ông Đạo sẽ chết nên gia đình và hàng xóm lập tức dựng rạp, thuê nhạc lễ, mua quan tài chờ sẵn. Sau khi coi “thầy”, gia đình quyết định sẽ tẩm liệm vào 19 giờ 30 ngày 23/2/2015. Trong thời gian chờ tẩm liệm, cả trăm người tụ tập tại nhà ông Đạo để phụ lo hậu sự. Hàng chục người thân quỳ xung quanh tụng kinh”.

Vào buổi trưa ngày 23/2, có ông Phạm Tấn Lộc (cư dân thành phố Mỹ Tho) đến dự đám tang. “Khi lại nhìn mặt ông Đạo lần cuối đã thử sờ lên ngực và thấy ấm nên ông Lộc yêu cầu đưa đi cấp cứu”. Nguồn tin nói vật và nhiều người có mặt tại đám tang không đồng ý vì “sợ khổ người chết lẫn người sống”. Một trong những lý do chính được nêu ra là gia cảnh của ông Đạo rất nghèo.

Tuy nhiên, ông Lộc “cam kết nếu cấp cứu không sống, ông sẽ chịu toàn bộ chi phí và gọi xe đưa ông Đạo đi cấp cứu”, tờ Dân Việt nói.

Nguồn tin kể tiếp rằng, tại Bệnh viện Quân y 120, các bác sĩ chẩn đoán ông Đạo “bị hôn mê do đột quỵ não, viêm phổi và cơ thể suy kiệt nặng do 2 ngày không được ăn uống, nên truyền nước, bù dịch, sinh tố, thực hiện các bước điều trị. Ngày hôm sau thì ông Đạo tỉnh và bình phục dần. Đến ngày 5/3/2015, ông Đạo được cho xuất viện”.

Giải thích với nhà báo, bác sĩ Võ Công Luận – Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Long An – nói: “Ông Đạo nhập viện ngày 22.2 trong tình trạng hôn mê, phải thở máy, có lúc ngưng tim. Chúng tôi đã kiểm tra kỹ và thấy khó có khả năng cứu sống. Chiều cùng ngày, gia đình xin về, bệnh viện đồng ý và cho xe cấp cứu đưa về nhà. Trên đường đi, có lúc ông Đạo ngưng tim, phải đưa trở lại bệnh viện cấp cứu. Việc bệnh nhân này khỏe trở lại đúng là trường hợp hy hữu”.

Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết – vợ ông Đạo – kể: “Nhà tôi nghèo, may mắn là bà con lối xóm đến dự đám ma, thấy ổng không chết nên lấy tiền phúng điếu góp tiền cho ổng đóng viện phí. Ông Phạm Tấn Lộc có 1.3 triệu đồng cũng tạm ứng cấp cứu, rồi cho luôn”.

Nói về trường hợp của ông Đạo, bác sĩ Hồ Văn Bảy chia sẻ: “Nếu ông Đạo được điều trị tích cực ngay từ đầu thì sẽ xuất viện sớm hơn. Thực tế khi ông nhập viện, cơ thể đã suy kiệt trầm trọng. Nếu gia đình chờ tới giờ tẩm liệm, không ai đưa đi cấp cứu chắc chắn ông sẽ chết vì kiệt sức”, báo Dân Việt kể lại. (TN)