Chuyện Riêng Của Chúng Tôi & Những Anh Hàng Xóm

Chuyện Riêng Của Chúng Tôi & Những Anh Hàng Xóm

RFA

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.

Tôn Nữ Thị Ninh

Đèn Cù II phát hành cuối tháng 11 năm 2014. Tôi muốn đọc quá nhưng không thể đặt mua. Gửi thư cầu cứu Đinh Quang Anh Thái, nhận được hồi đáp (vô cùng) hứa hẹn: “Cứ yên tâm, sẽ nhận được sách trong thời gian ngắn nhất.”

Tôi “tưởng” thiệt nên mượn địa chỉ văn phòng của một cơ quan thiện nguyện ở Phnom Penh gửi ngay cho ông bạn (vàng) đầy thiện tâm và thiện chí. Chờ dài cổ cũng chả thấy sách vở gì ráo trọi mới vỡ lẽ là mình đã … “trao duyên lầm tướng cướp!”

Rồi Đèn Cù II cũng được phát tán tùm lum trên mạng. Tiếc là những nơi tôi đi qua, trong mấy tháng rồi, đều quá xa chốn thị thành nên vào được internet không dễ dàng gì. Nói chi đến chuyện đọc gần ngàn trang giấy.

Tuần rồi về lại Nam Vang mới có dịp “tiếp cận” thoải mái với tác phẩm mà mình mong đợi. Nói nào ngay cũng có hơi thất vọng chút xíu. Đọc uốn sau không “đã” bằng cuốn trước, dù vẫn có rất nhiều trang thú vị:

“Tôi quen ba người dạy tiếng Anh và tôi muốn nói tới các anh như những người từng chịu hẩm hiu lúc đất nước sập cửa lại với thế giới, tiếng Anh bị miệt thị. Thật ra chả phải chỉ tiếng Anh mà là bất cứ tiếng nói của kẻ thù nào.

Chị P. T. M., dạy tiếng Trung Quốc ở Đại học Sư phạm đã ngồi làm thường trực mãi ở cống trường cho tới khi Trung Quốc hết là thù mới lên truyền hình dạy lại. Ông Nghĩa dạy tiếng Trung Quốc ở Cao đẳng sư phạm Hà Nội thì đi làm bảo vệ. Khi đánh xét lại, các giáo viên tiếng Nga nghỉ dài dài.

Đầu tiên nói tới Đặng Chấn Liêu. Cùng tội ‘xét lại’. Treo giò, mất chức chủ nhiệm khoa tiếng Anh Đại học Sư phạm. Liêu cho hay hồi ấy chả ai thiết cái thứ tiếng phản động này…. Liêu ở Pháp làm viên chức của Liên Hợp Quốc. Theo Cụ Hồ kêu gọi, anh về nước và bị Hoàng Văn Hoan nghi là tình báo Anh…

Người thứ hai là Mỹ Điền. Học ở Anh từ 1947-48… Sau Điện Biên Phủ về nước, anh theo Ung Văn Khiêm, thứ trưởng ngoại giao đến chào bộ trưởng Phạm Văn Đồng. Trong chuyện trò, Đồng dặn Khiêm chú ý để Mỹ Điền sinh hoạt chi bộ. Nhưng rồi chả ai nhắc tới, có lẽ thấy anh không bập.

Sớm ngán thế cuộc, bắt đầu từ đọc báo cáo mật của Khrushchev trên báo Le Monde, Mỹ Điền trở thành một trong hai ba trung tâm lan, yến, kỳ hoa dị vật ở Hà Nội những năm 60, khi thú chơi này bị coi là ‘tư sản, đồi truỵ’ rồi bị cấm. Minh hoạ đúng cho câu thơ của Bertolt Brecht ‘Thời thế gì / Mà nói đến cỏ cây…’. ‘Chả ai thích dùng tôi, Mỹ Điền nói…” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập II. Người Việt, Westminster, CA: 2014).

Theo tôi thì cách mạng cũng không đến nỗi khe khắt gì lắm trong việc dùng người, kể cả những kẻ đã (lỡ) sống ở nước ngoài và am tường ngoại ngữ. Những nhân vật vừa kể – chả qua – chỉ bị xui thôi, hay nói một cách văn hoa là họ sinh bất phùng thời.

Chớ gặp phải vận may thì cái vốn liếng sinh ngữ vẫn có thể giúp cho một công dân X.H.C.N.V.N trở thành hiển đạt. Trường hợp bà Tôn Nữ Thị Ninh là một thí dụ điển hình. Theo Wikipedia:

Tôn Nữ Thị Ninh (sinh ngày 30 tháng 10 năm 1947) từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Liên minh Châu Âu (EU) và một số quốc gia như Bỉ, Hà Lan, v.v… Bà cũng từng là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam. Bà có vai trò tích cực trong lĩnh vực đối ngoại của Việt Nam…

Bà trở thành nhà ngoại giao bắt đầu bằng công việc phiên dịch và bà đã học được nhiều kinh nghiệm khi đi dịch cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Xuân Thuỷ, ông Nguyễn Cơ Thạch… Bà đã làm đại sứ ở ba nước Bỉ, Hà LanLuxembourgLiên minh châu Âu (EU). Bà còn giữ cương vị là người đứng đầu đại diện của phái đoàn Việt Nam ở Liên minh châu Âu tại Brussel (Bỉ) và đã từng giữ một nhiệm kỳ trong Ủy ban Trung ương của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.

Cương vị gần đây nhất mà bà nắm giữ là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. Trên cương vị đó bà đã có một số những phản bác tương đối mạnh mẽ trước một số cáo buộc về vấn đề nhân quyền từ phía Hoa Kỳ và Quốc hội Hoa Kỳ.”

Đã chưa?

Con đường công danh của bà T.N.T.N. chỉ “bắt đầu bằng công việc phiên dịch” mà đi lên tuốt tới chức vụ “Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Đối Ngoại Quốc Hội” đâu phải chuyện nhỏ. Ở vị trí này, trong chuyến công du nhằm cải thiện mối tương giao (vốn chưa bao giờ tốt đẹp) giữa Việt Nam với Mỹ, và với cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản ở đất nước này – hồi năm 2004 – bà T.N.T.N đã tuyên bố nhiều câu (bất hủ) có thể được coi như danh ngôn của ngành ngoại giao của nước C.H.X.H.C.N.V.N:

-Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.

Hay:

Mình là thế thượng phong của nguời chiến thắng, mình cần chủ động, người ta không thể chủ động được do mặc cảm, cũng không thể yêu cầu ngươi ta đi trước, họ đứng ở vị trí không thuận lợi trong tiến trình lịch sử.

Tôi thì e rằng chính bản thân bà Ninh cũng “đứng ở vị trí không thuận lợi (mấy) trong tiến trình lịch sử.” Vẫn theo Wikipedia:

“Tháng 8 năm 2007, bà đã thôi giữ chức tại quốc hội và tham gia vào lĩnh vực giáo dục với tư cách Chủ tịch Hội đồng sáng lập Trường Đại học Tư thục Trí Việt. Tuy nhiên dự án này bị thất bại.”

Sao lại “thất bại” cà?

Tôi nhớ lúc khởi đầu dự án (“Bắt Tay Xây Dựng Trường Đại Học Tư Thục Trí Việt”) ngó bộ hoành tráng lắm mà:

“Sáng 7.11.2007, tại trụ sở Ủy ban về người VN ở nước ngoài (NVNƠNN) TP.HCM, Câu lạc bộ Khoa học và Kỹ thuật NVNƠNN (OVSCLUB) và Hội đồng sáng lập Dự án trường Đại học tư thục Trí Việt đã ký kết Thỏa thuận hợp tác: xây dựng một trường đại học chính quy hiện đại, trên tinh thần thực học để đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công cuộc hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước.

Đại diện cho Hội đồng sáng lập Dự án Đại học tư thục Trí Việt là bà Tôn Nữ Thị Ninh, Chủ tịch Hội đồng và đại diện của OVSCLUB là TSKH Trần Hà Anh, Trưởng Ban điều hành. Buổi lễ ký kết diễn ra với sự chứng kiến của Ban Chủ nhiệm Ủy ban NVNƠNN, Ban Liên lạc NVNƠNN TP.HCM…

Giới thiệu về Dự án trường Đại học tư thực Trí Việt, bà Tôn Nữ Thị Ninh cho biết, trường sẽ được xây dựng trên địa bàn huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trên diện tích đất rộng 55 ha. Tâm huyết của những người xây dựng dự án này là xây dựng tại VN một trường đại học đạt chuẩn quốc tế và phi lợi nhuận, tạo được một không gian xanh với thiên nhiên hài hòa và những trang thiết bị đủ để thầy và trò có được những điều kiện học tập và nghiên cứu tốt nhất.”

Bà Tôn Nữ Thị Ninh (bên trái) trong buổi ra mắt Viện Trí Việt. Ảnh và chú thích: Dân Trí

Sao “tâm huyết” cỡ đó mà lại trở thành một chuyện “đầu voi đuôi chuột,” hả Trời?

Ngồi rà lại chút xíu tôi mới thấy có hai điểm khiến cho dự án xây dựng Đại Học Trí Việt khó được hanh thông:

Luật chơi của Trí Việt là: nói không với thiếu trung thực.

Gọi là trường quốc tế bởi vì sẽ dạy bằng tiếng Anh kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh niên Việt Nam thời hội nhập phải có tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm việc của mình, ngoài tiếng mẹ đẻ…

Coi: sống trong một chế độ mà lường gạt, dối trá và nghi ngờ là chủ trương xuyên suốt của Đảng và Nhà Nước mà bà Tôn Nữ Thị Ninh lại đặt ra “luật chơi là nói không với thiếu trung thực” và còn nói bằng tiếng Anh nữa (cơ) thì không “thất bại” mới là chuyện lạ.

Bà Ninh, lẽ ra, nên thức thời chút xíu. Bầy đặt màu mè “trung thực” làm chi – vậy má? Thử nhớ lại coi: trong suốt thời gian làm thông dịch cho Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Xuân Thủy, Nguyễn Cơ Thạch … mấy chả có nói một câu nào “trung thực” không? Hay tất cả đều  dối trá (như Vẹm) hết trơn – đúng không?

Đại học Trí Việt vẫn còn có cơ may “chuyển bại thành thắng” nếu sửa lại chương trình học chút xíu thôi: “Gọi là trường quốc tế bởi vì sẽ dạy bằng tiếng Trung Hoa kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh niên Việt Nam thời hội nhập phải có tiếng Tầu như là một ngôn ngữ làm việc của mình, ngoài tiếng mẹ đẻ…

Ráng nhịn chút xíu như vậy đi, chị Ninh.  Chảnh quá, thường khi, dễ trở thành lố bịch: “Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.”

Sau Hội Nghị Thành Đô thì nhiều anh hàng xóm, khỏi cần gõ cửa, cũng đã (dám) chui luôn vô mùng của đám ái nữa của lắm vị Ủy Viên Bộ Chính Trị rồi. Bởi vậy, Đại Học Trí Việt (với sứ mệnh Trí Cao – Tâm Rộng –  Tầm Xa) sao không dậy bằng tiếng Tầu đi cho nó hợp thời?

Tương tự, cái “thế” mà mấy năm trước chị Ninh mô tả là “thượng phong của nguời chiến thắng” đó, với thời gian – rõ ràng – mỗi lúc một thêm chênh vênh dữ. Với con số xí nghiệp phá sản, cùng với nợ công mỗi lúc một nhiều thì trong tương lai gần – rất có thể – bầy sâu của Đảng lại phải nhờ chị Ninh chạy qua Hoa Kỳ “công du” chuyến nữa.

Lần này, làm ơn nhỏ họng lại chút xíu nha – chị Ninh. Đã bị gậy đi ăn xin mà còn lớn giọng (nghe) kỳ lắm. Hàng năm nếu không có hàng chục tỉ đô la của đám người “ở vị trí không thuận lợi trong tiến trình lịch sử” cứu trợ thì cái Đảng và Nhà Nước (thổ tả) hiện nay đã chuyển qua từ trần tự lâu rồi, đúng không?

Người Thợ Điêu Khắc

Người Thợ Điêu Khắc

Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính. Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng, nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả.

Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao tiếp với ông, thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!

Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện. Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giê-Su cao một mét bảy.
– Nhưng thưa ông, Chúa Giê-Su là ai, tôi không biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?

Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân:
-Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng… Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:
– Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.

Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận!

Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!

Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy khó khắc hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!

Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! cái điệp khúc “ Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp, mới thánh thiện làm sao!

Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông đốc chết (*), nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.

Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-Su trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giê-Su phải chịu. Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ hôi và máu thì dĩ nhiên rồi! Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “ Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại!

Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giê-Su đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại? Gương mặt Chúa Giê-Su thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.

Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa!
Ông bước xuống giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…

Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng Thánh Giá.

Giuse Nguyễn Văn Sướng

Xây dựng khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma

Xây dựng khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma

RFA

20150313121506-anh3-600.jpg

Lễ đặt đá xây dựng khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma sáng 13/3 tại tỉnh Khánh Hòa

Courtesy of vtv.vn

Lễ đặt đá xây dựng khu tưởng niệm 64 chiến sỹ hải quân Việt Nam hy sinh trong cuộc hải chiến bảo vệ đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa vào tháng 3 năm 1988 được tiến hành hôm nay tại xã Cam Đông, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa.

Buổi lễ do Tổng Liên đoàn Lao Động Việt Nam và Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa tiến hành.

Thông tấn xã Việt Nam loan tin vừa nêu và nói thêm trận chiến xảy ra vào rạng sáng ngày 14 tháng 3 năm 1988 khi các binh sĩ Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc và xây dựng các công trình phục vụ đời sống quân, dân trên đảo bị tàu chiến của Trung Quốc tấn công.

64 binh sĩ Việt Nam đã bị giết chết trong cuộc chiến được nói là không cân sức; họ phải đứng thành vòng tròn lấy thân mình để khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Gạc Ma.

Tin cho hay khu tưởng niệm Gạc Ma được xây dựng trên khuôn viên rộng 2 hecta rưỡi, gồm có tượng đài, nhà bảo tàng, hệ thống cây xanh…Kinh phí được cho biết lấy từ nguồn đóng góp của các tổ chức công đoàn và người lao động tham gia chương trình ‘Nghĩa tình Hoàng Sa- Trường Sa’ mà Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phát động từ tháng ba năm ngoái.

Úc đề nghị trả tiền nuôi hai tử tội suốt đời trong tù Indonesia

Úc đề nghị trả tiền nuôi hai tử tội suốt đời trong tù Indonesia

Nguoi-viet.com


CANBERRA, Úc (AP)
Chính phủ Canberra vừa đề nghị trả chi phí nuôi ăn ở trọn đời trong tù cho hai tù nhân quốc tịch Úc bị án tử hình do vận chuyển heroin ở Indonesia, nếu Jakarta giảm án của họ thành tù chung thân, theo Bộ Ngoại Giao Úc hôm Thứ Năm.


Serge Atlaoui (giữa), quốc tịch Pháp, một trong chín người bị chính phủ Indonesia kết án tử hình vì buôn ma túy. (Hình: AP Photo/Tatan Syuflana)

Úc hiện đang cố sức vận động để ngăn cuộc xử tử hai công dân Úc là Andrew Chang, 31 tuổi, và Myuran Sukumaran, 33 tuổi. Họ ở trong số 9 tử tội ngoại quốc và một công dân Indonesia, dự trù sẽ cùng bị xử bắn trong thời gian ngắn tới đây ở nhà tù Nusakambangan Island prison trên đảo Java.

Ðề nghị trả chi phí giam giữ và nuôi ăn cho hai tù nhân này được Ngoại Trưởng Úc Julie Bishop đưa ra tuần qua trong lá thư gửi Ngoại Trưởng Indonesia Retno Marsudi và được tờ báo The West Australia tường thuật hôm Thứ Năm.

Bà Bishop xác nhận rằng đây là một trong các đề nghị do phía Úc đưa ra để thuyết phục chính phủ Indonesia không thi hành án tử hình.

Phía Úc đề nghị có cuộc trao đổi tù nhân, theo đó hai công dân Úc sẽ được đổi với 3 tù nhân Indonesia đang bị giam ở Úc. Tuy nhiên, nếu điều này không được chấp nhận, Úc sẵn sàng trả chi phí giam giữ trọn đời hai công dân Úc này. (V.Giang)

22 CÂU NÓI CÓ THỂ THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI BẠN

22 CÂU NÓI CÓ THỂ THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI BẠN

1. Tiền xu luôn gây ra tiếng động … nhưng tiền giấy lại luôn im lặng. Vì thế khi giá trị của bạn tăng lên, hãy giữ cho mình luôn khiêm tốn và nói ít đi!.

2. Càng nói ít, càng nghe được nhiều. – Alexander Solshenitsen

3. Khi người khác hỏi những điều mà bạn không muốn trả lời, xin hãy cười và nói “tại sao bạn lại muốn biết điều đó?”.

4. Không ai cần đến một nụ cười nhiều như người không thể cho đi nụ cười.

5. Thành công lớn nhất là đứng dậy sau mỗi lần bị vấp ngã!.

6. Rất nhiều người không dám nói lên những gì họ muốn. Đó là lý do tại sao họ không có được chúng. – Madonna

7. Khi trưởng thành, tôi ngày càng ít quan tâm đến những gì mọi người nói. Tôi chỉ xem những gì họ làm được. – Andrew Carnegie

8. Kiên trì làm việc tốt sẽ mang lại nhiều thứ. Như mặt trời có thể làm tan băng, lòng tốt có thể làm bốc hơi sự hiểu lầm, hoài nghi và thù địch. – Albert Schweitzer

9. Cuộc sống giống như một cuốn sách. Một vài chương khá buồn, một số chương hạnh phúc và một số chương rất thú vị. Nhưng nếu bạn chưa bao giờ lật thử một trang bạn sẽ không bao giờ biết được những gì ở chương tiếp theo!.

10. Bạn có thể kết bạn được nhiều hơn trong vòng hai tháng bằng cách quan tâm đến người khác hơn là hai năm cố gắng bắt người khác quan tâm đến bạn. – Dale Carnegie

11. Tình bạn là một tâm hồn trú ngụ trong hai cơ thể. – Aristotle.

12. Tôi tiến bộ bằng cách ở cạnh với những người tốt đẹp hơn mình và lắng nghe họ. Và tôi giả sử rằng mọi người đều tốt đẹp hơn tôi ở một mặt nào đó. – Henry J. Kaiser

13. Tranh cãi với một kẻ ngốc sẽ chứng minh rằng có hai kẻ ngốc.
– Doris M. Smith

14. Những người làm việc cùng bạn phản ánh chính thái độ của bạn – Beatrice Vincent

15. Đừng quá khắt khe với chính mình. Thậm chí những sai lầm cũng có nghĩa là bạn đang cố gắng!.

16. Không có hành động tử tế nào, dù nhỏ, lại bị xem là lãng phí.
– Aesop

17. Bất luận lúc nào khi bạn nghe điện thoại, khi nhấc điện thoại lên xin bạn hãy cười lên, vì đối phương sẽ cảm nhận được nụ cười của bạn!.

18. Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó!
– Bill Gates

19. Lưỡi không xương nhưng đủ cứng để làm vỡ nát một trái tim … vì thế hãy cẩn thận với ngôn từ của bạn!.

20. Đừng bao giờ cố giải thích con người bạn với bất cứ ai. Vì những người tin bạn không cần điều đó còn những người không thích bạn sẽ không tin lời bạn đâu!.

21. Nhu cầu cơ bản nhất của con người là nhu cầu thấu hiểu và được thấu hiểu. – Ralph Nichols

22. Hãy ghi nhớ 3 điều: CỐ GẮNG, KIÊN ĐỊNH, TIN TƯỞNG

CỐ GẮNG cho một tương lai tốt hơn

KIÊN ĐỊNH với công việc

TIN TƯỞNG vào bản thân

Và thành công sẽ thuộc về bạn.

Tranh cát: Vẻ đẹp trong tim người Mẹ

Tranh cát: Vẻ đẹp trong tim người Mẹ

httpv://www.youtube.com/watch?v=eRZRiWgR3vA

Người mẹ hạnh phúc hỏi bác sĩ sau khi tỉnh dậy: “Tôi có thể nhìn con được không?”.
Bác sĩ đặt đứa trẻ bên cạnh mẹ… Người mẹ nhẹ nhàng mở các nếp khăn để nhìn khuôn mặt nhỏ bé, chợt người mẹ kinh hoàng. Bác sĩ vội quay nhìn ra cửa sổ… Đứa bé sinh ra không có tai…!
Tuy nhiên, thời gian đã cho thấy thính giác của đứa bé hoàn hảo. Chỉ có hình dáng bên ngoài là không hoàn thiện. Cậu bé lớn lên, đẹp trai, bất chấp sự khiếm khuyết. Một học sinh được bạn bè yêu thích, lẽ ra cậu có thể làm lớp trưởng, thế nhưng chỉ vì đôi tai…
Một ngày kia, cậu bé từ trường chạy ào về nhà và lao vào trong đôi tay của người mẹ. Cậu bé nức nở: “Có đứa gọi con là đồ quái thai”, tim người mẹ đau như cắt.
Cậu bé ngày càng bộc lộ tài năng thiên bẩm về âm nhạc và văn chương. Mẹ cậu ân cần động viên: “Còn nhiều người tốt để con có thể hòa đồng… con ạ”. Thế nhưng, trong tim người mẹ vẫn đau buồn vì thương con…
Cha cậu đã liên hệ với một nhà phẫu thuật. Bác sĩ khẳng định: “Tôi tin chắc tôi có thể ghép đôi tai nếu mua được…”
Sau đó là cuộc tìm kiếm người có thể hiến tặng đôi tai… Hai năm trôi qua, người cha nói: “Con sắp được phẩu thuật. Cha mẹ đã tìm được người tặng tai cho con. Nhưng đó là một bí mật”.
Và rồi… cuộc giải phẫu thành công rực rỡ…
Một nhân vật mới bắt đầu nổi lên. Tài năng anh nở rộ xuất chúng, cuộc đời ở trường trung học và đại học là những chuỗi ngày hân hoan. Anh lập gia đình và làm công việc ngoại giao.
Anh luôn van nài cha: “Ai đã tặng con quá nhiều như thế? Con không bao giờ có thể đền đáp xứng đáng cho người ấy”. Người cha trả lời: “Cha cũng tin là con không thể… nhưng cha phải giữ lời hứa là chưa được nói ra…”.
Nhiều năm trôi qua với điều bí mật của họ, nhưng ngày ấy vẫn đến… Một trong những ngày tối tăm nhất chưa từng có trong đời đứa con. Anh cùng cha đứng nghiêng mình trước quan tài người mẹ.
Dịu dàng và chậm rãi, người cha đưa tay vén mái tóc dài màu nâu dày để lộ ra… đôi tai không còn của người mẹ. Ông thì thào vào tai con trai: “Mẹ từng nói rằng mẹ hạnh phúc khi không bao giờ cắt tóc, và không ai có thể nghĩ mẹ bớt đẹp đi phải không?”
Vẻ đẹp thật sự không nằm trong dáng vẻ bên ngoài, mà ở bên trong trái tim…

Ông nội và cháu nội

Con đường nào rồi cũng có đích để đến, Nhưng cái đích để đến của những người lính VNCH bị tù Cộng Sản bao giờ cũng nhiều đau đớn, thương tích về thể xác lẫn tâm hồn. Nó đốt cháy và thiêu rụi nhiều thứ trong ký ức vàng son hay làm khô cằn niềm vui và sức sống.

Ông Nộivà Cháu Nội

Ông nội là cựu đại úy Việt Nam Cộng Hòa, con trai là đại úy không quân Hoa kỳ, mấy người quen thân gọi đùa cháu là Captain junior. Có hôm buổi sáng ông nội ngủ dậy khệnh khạng bước ra phòng khách, thằng con đang ăn điểm tâm đứng phắt lại giơ tay lên chào “Good morning, Sir!”. Ông nội giật mình đứng lại, không suy nghĩ ông nghiêm túc giơ tay lên chào. Miệng lẩm bẩm “Morning Sir!”. Cả nhà cùng cười, thằng cháu nội cũng cười.

Bước ra xe, con dâu mang cái túi baby có tã, sữa, quần áo. Bà nội dìu ông nội ra, tay mang một cái giỏ. Con dâu hỏi “Mẹ mang theo gì đó?”. Bà nội trả lời “Mang tã, nước và quần cho ba”. Thằng con cười:

– Hai ông cháu thiệt giống nhau.

Thằng cháu đái ướt tã khóc đòi thay. Ông nội lí nhí: “Tui muốn thay tã”. Con dâu vào phòng vệ sinh nữ trước. Ló đầu ra “Mẹ ! Không có ai”. Bà nội dẫn ông nội vào, đẩy nhanh vô phòng toilet đóng cửa lại. Một lúc sau, bà nội đưa ông nội ra nói với con dâu: ” Coi chừng ba, cho mẹ vào rửa tay”. Xong xuôi, ông nội cũng sạch, cháu cũng sạch. Cả nhà lại đi dạo phố. Con trai cười cười:

– Hai ông cháu cùng vào nhà vệ sinh nữ.

*

Chơi chán cả nhà lên xe về nhà. Thằng cháu nội khóc um sùm không chịu nằm vào ghế baby. Thằng con loay hoay lo cho con nó. Bà nội đưa ông nội ngồi vào ghế trước. Ông nội cũng không chịu lên. Bà nội năn nỉ, ông cương quyết phản đối: “Tui muốn nói chuyện với đồng đội của tui, sao bà kéo tui đi”. Thằng con trai hỏi lý do. Bà nội nói là đi ngang mấy người lính Mỹ ngồi uống nước, ông nội đòi ngồi lại đó nói chuyện. Thằng con dụ dỗ: ”Mai con mời họ tới nhà nói chuyện chơi với ba” Ông cương quyết bấu chặt cửa không chịu lên xe. Thằng con gỡ tay bồng ông lên, gài dây an toàn. Xe chạy, ông nội cũng ngủ, thằng cháu cũng ngủ.

*

Thằng cháu nội nhễu, nước miếng chảy lòng thòng. Ai cũng la con dâu: “Lúc có bầu bộ nhịn thèm hay sao mà thằng cu nhểu dữ vậy”. Con dâu chỉ cười. Ông nội không còn nhỏ nhưng ông nội cũng nhểu. Ông nội bồng cháu, mặt quay ra đàng trước. Hai tay ông bấu thật chặt sợ cháu té. Nước miếng ông nội nhểu lòng thòng rớt từng dây trên đầu cháu. Cháu nhểu lòng thòng rớt từng dây trên tay ông. Bà nội chạy lại lau cho cả hai:

– Ông nội và cháu nhểu giống nhau.

*

Thằng cháu đứng chơi trong trong cái xe đi trẻ em. Chơi chán, nó muốn ra ngoài. Cháu la và khóc. Ông nội đang nằm bật dậy, chạy ra. Ông lại gần bồng cháu lên. Hai tay ông bíu chặt vào nách cháu lôi ra. Cháu vùng vẫy, Ông cố sức nắm. Hai bàn tay ông cuối cùng chỉ còn nắm chặt cái áo, Cháu gần rơi xuống đất. Bà nội chạy lên. Kịp thời chụp cháu. Bà nội hết hồn. Ông phân bua: “Con ai mà bỏ khóc um sùm, thiệt là tội”.

– Thì ra ông còn ngái ngủ, không biết thằng bé là cháu mình.

*

Thằng cháu nội tắm trong cái bồn tắm nhỏ xíu trẻ em. Nó thích lắm, hai tay đập vào nước cười ngây thơ. Xong xuôi, cháu được lau sạch thay đồ. Con dâu nói: ”Mẹ! con xong rồi”. Bà nội đem ông nội vào phòng, kéo cái ghế để vào bathtube cho ông ngồi rồi xối nước tắm rửa, kỳ cọ. Ông đưa tay vuốt mặt nói: “Mát quá! Mát quá”. Bà nội tắm ông xong, lau sạch, thoa lotion và thay đồ. Ông ra ngoài, cháu đang nằm ngửa chân đạp lòng còng. Ông được dìu vào giường. Ông nằm yên, hai chân cũng nằm yên;

– Hai ông cháu sau khi tắm giống nhau.

*

Con dâu đút cho cháu nội ăn từng muỗng baby food. Cái yếm đeo trước ngực. Cháu vừa ăn vừa chơi. Thỉnh thoảng lắc đầu không chịu cho đút. Con dâu ngọt ngào: ”Giỏi nè, giỏi nè.” Bà nội cũng dìu ông nội lại bàn, kéo cái ghế ngay mông ông rồi kéo ông ngồi xuống. Bà nội lấy cái tạp đề mang vào cổ cho ông rồi đút cơm cho ông ăn. Ông đôi lúc cũng lắc đầu không chịu nuốt. Bà nội năn nỉ: ”Ăn đi ông, còn vài muỗng nữa thôi. Giỏi đi ông”.

– Khi ăn, ông và cháu cũng giống nhau.

*

Ông muốn bồng cháu nhưng tay ông bấu chặt quá, cháu đau, cháu khóc. Bà nội đem ông vào phòng, cho ông nằm xuống rồi đặt cháu nằm một bên. Cháu nằm trên tay ông, chân quơ lung tung, tay cầm đồ chơi bỏ vào miệng cạp liên tục. Bà nội ngồi nhìn hai ông cháu. Ông đã ngủ khò, còn cháu cứ ê a.

– Bà nội mắt cay xè, muốn khóc.

*

Thằng con nhận lệnh qua Ý công tác 3 năm. Cả nhà làm tiệc tiển đưa. Vợ chồng thằng con buồn, nước mắt ngân ngấn mi, nghĩ mấy năm xa nhà, nghĩ cha già thế này có chuyện gì không biết có về kịp không? Thằng cháu nội vẫn cười, bi bô những âm thanh không rõ tiếng. Bà nội nắm tay ông nội lại gần con nói: ”Con nó muốn nói với ông trước khi đi nè”. Ông cười cười: ”Nói gì! Đi đâu? Ừ đi chơi vui vẻ”. Xong ông đi vào phòng ngủ. Chả biết ông có buồn hay không. Chỉ biết khi bà nội vào phòng ông đã ngủ khò. Thằng cháu nội nằm trong ghế cũng ngủ khò.

– Hai ông cháu ngủ giống nhau.

*

Từ đất Ý, thằng con mở Webcam nói chuyện. Thằng cháu nội đã biết ngồi, đã bập bẹ âm thanh ba ba. Bà nội dẫn ông vào phòng, kéo ghế cho ngồi để nhìn con, dâu và cháu. Hỏi ông: ”Biết ai không ông?”. “Biết chớ, người quen”. Bà nội chỉ cháu và hỏi: ”Ông biết thằng đó không?”. Ông nội trả lời mạnh mẽ: ”Biết chớ sao không. Nó là bà con chú bác của tui mà”. Ông đưa tay rờ rờ màn hình. Bên kia thằng cháu cũng đưa tay quơ quơ. Bà nội muốn khóc.

– Hai ông cháu cùng trẻ con như nhau, không ai biết ai.

* * *

Vậy đó, ông nội và cháu có nhiều điểm giống nhau. Cháu sẽ lớn, sẽ trưởng thành. Ông một ngày nào đó sẽ ra đi. Bà nội nhìn ông mà nhớ cháu. Hạnh phúc của ông bây giờ là sống vô tư như trẻ con. Hạnh phúc của bà bây giờ là không còn giận hờn mà con tim đầy ắp những yêu thương và bổn phận.

Thế là thời gian trôi qua nhanh chóng, thằng cháu nội theo cha mẹ công tác bên Ý đã được 2 tuổi.

Cuối tháng này là sinh nhật cháu tôi. Đứa cháu trai duy nhất trong gia đình. Đứa cháu nội mà tôi thương nhất. Chẳng phải tôi thiên vị vì nó là con trai hay là vì nó là cháu nội. Mà vì nó ở quá xa. Nó lớn lên từng ngày không có tôi bên cạnh. Nhiều khi nhớ quá muốn ôm nó vào lòng mà hai tay trống rỗng. Muốn đi thăm nó thì ông chồng già chẳng biết bỏ cho ai. Thằng con trai cứ năn nỉ, “Má ơi! Qua đây một chuyến. Con sẽ đem má đi khắp Âu Châu cho biết với người ta.” Tôi cười cầu tài nói cho con yên lòng. Nhìn ông chồng đau yếu mà thương. Thôi đành thúc thủ.

Nhìn ông chồng ngày càng yếu để thấy sự đào thải của thời gian và thân phận của kiếp con người.

Ngày xưa, lúc cháu được vài tháng tuổi, mỗi lần đi đâu con dâu đem một giỏ tã, sữa cho con, còn bà nội cũng lè kè một túi cho chồng. Mỗi khi cần vào phòng vệ sinh thay tã, bà nội lại nhờ con dâu xem chừng phòng nữ có vắng hay không rồi đem chồng vào làm vệ sinh. Xong xuôi cháu cũng sạch mà ông cũng sạch.

Bây giờ cháu đã bỏ tã, nó mặc quần lót đàng hoàng. Lần đầu tiên bỏ tã, trên webcam con trai bảo nó kéo quần xuống cho nội xem. Nó mừng rỡ chỉ cái quần lót hình Superman bí bô khoe. Bà nội chẳng hiểu cháu nói gì, chỉ cười cười. Thương quá đỗi!

Còn ông nội, ngày xưa chỉ mang tã lúc đi đâu hay những lúc cần. Bây giờ ông phải mang tã cả ngày vì ông cũng không biết lúc nào mình cần giải quyết. Những ngày quan trọng cần thiết, bà nội mang khẩu trang, đeo găng tay làm y tá giải quyết những cục nợ đời hôi tanh mà ông không có sức rặn ra. Những ngày đó tã thay không biết bao nhiêu cái.

Bây giờ cháu đã biết đâu là phòng vệ sinh để vào, còn ông thì phòng vệ sinh ngay trước mặt cũng không biết mà vô, bà nội nắm tay ông lôi vào và làm từ A tới Z.

Cháu bây giờ đã biết bắt ghế đứng lên tự đánh răng. Còn ông nội thì bà nội phải đưa ly vào miệng cho ông từng ngụm nước. Bỏ kem vào bàn chải và giúp ông đánh răng. Xong lau mặt, lau tay đưa ông ra khỏi phòng.

Kết luận bây giờ, hai năm sau cháu đã vượt qua mặt ông cái vù về phương diện vệ sinh cá nhân.

Cháu bây giờ đã biết ngồi ăn chững chạc dù mẹ phải đút, bởi không đút là cháu ham chơi ăn không no. Cháu tự múc ăn khi nào đó là ăn chơi hay cháu thật đói. Còn ông thì bây giờ hoàn toàn không chủ động. Đút gì ông ăn đó, ăn xong thỉnh thoảng càm ràm bà nội, “Sao từ qua tới nay không cho tui ăn.”

Cháu bây giờ rất gọn gàng không cần khăn, còn ông nội thì phải một cái khăn lót ở dưới để hứng thức ăn rơi. Một cái khăn nhỏ ở trên để lau miệng.

Ngày xưa cháu đi tắm phải có cái thau riêng, cháu nằm trong đó cho mẹ kỳ cọ. Bây giờ cháu có thể đứng trong bathtub cho cha, mẹ thoa xà bông và xịt nước ấm.

Còn ông nội giờ này vẫn tệ như xưa. Càng tệ hơn sau khi xong xuôi, bà nội bảo giơ chân lên để mặc tã, ông cũng đứng im. Những giọt nước miếng cứ nhểu lòng thòng rơi trên đầu bà nội. Khi bà vỗ vỗ vào chân ông, nói, “Chân này nè ông, giơ chân lên!” thì ông mới giơ chân lên. Có hôm ông giật mình kéo mạnh chân tống vào càm bà nội bầm một cục.

Ờ mà còn cái vụ nhểu nữa. Cháu bây giờ ngon lành hơn ông nhiều. Cháu hết nhểu, đẹp trai ra, biết nhận diện đâu là mắt, mũi, miệng. Còn ông nội thì càng ngày tốc độ nhểu càng trầm trọng. Không có thuốc men hay phương pháp gì chận lại. Bà nội dùng kim gút gài một cái khăn bên áo để bà nội chùi cho ông để khỏi chạy đi tìm. Ông không thích cái khăn lòng thòng nên giựt tét cả áo, đứt kim băng. Bà nội phải mặc ngoài một cái áo che lại. Khi cần bà lôi khăn ra lau, xong nhét lại. Thế nhưng nước miếng ông vẫn nhểu dài theo nền nhà theo mỗi bước chân đi. Bà nội lúc nào cũng chuẩn bị khăn lau nhà. Thỉnh thoảng bà lại đạp khăn dưới chân xóa đi dấu vết cho đỡ trơn trợt và cũng để mấy đứa cháu ngoại khỏi gớm.

Cháu nội hôm nay đã có bạn, biết các trò chơi và tung tăng như chim sáo. Còn ông nội thì càng ngày càng quên, càng lẩm cẩm.

Mỗi khi đi đâu bà nội nắm tay ông tình tứ như một cặp tình nhân. Nhưng thực ra là giữ ông cho khỏi đi lạc. Ông rất thích tự do. Ờ mà tự do ai không thích. Nhưng tự do trong trật tự. Thế nhưng ông nội nào biết trật tự là gì. Buông tay ông ra là ông đi, không cần biết điểm đến và đi đâu. Bà nội lạc ông mấy lần nên sợ lắm. Bà giữ tay ông trong bàn tay già yếu nhăn nheo. Thế nhưng đôi khi ông gặp một người không quen, ông vẫn nhào tới nói không ra lời hay lôi bà nội chạy theo họ. Ông la, “Bạn tui, bạn tui.” Bà nội biết tẩy của ông nên ngọt ngào dụ dỗ, ”Biết rồi! Họ ra xe đợi mình đó. Đi chợ xong mình sẽ gặp,” có vậy ông mới chịu nghe lời và đi theo bà.

*

Cháu nội bây giờ đã biết nghe lời cha mẹ. Mỗi khi làm điều gì sai, mẹ cháu bắt xin lỗi, nhận được gì cháu biết cám ơn. Cháu đã bắt đầu học để nhận biết đúng, sai. Còn ông nội tháng ngày trôi qua ông nội càng mù mịt đúng sai. Cái gì ông muốn là ông làm, ông không muốn thì đừng hòng ép. Khi cần ông đứng lại thì ông đi. Khi muốn ông đi thì ông đứng yên một chỗ. Kéo ghì không nhúc nhích. Năn nỉ một hồi ông mới chịu cho kéo đi. Khi cần ông nói thì ông làm thinh hoặc tiếng không thoát ra ngoài, chỉ lầu bầu, lịch phịch theo nước miếng. Nhưng khi ông nói chuyện với những gì ông thích hay bạn bè ảo tưởng của ông thì ông nói ra tiếng, mạnh mẽ và đầy sức sống.

*

Cho nên hai ông cháu đã đi ngược chiều với nhau, không còn giống nhau như xưa.

Mỗi khi vào Webcam nói chuyện, cháu chỉ trên màn ảnh “Bà nọi, bà nọi. My bà nọi.” Còn ông chỉ nhìn cháu như nhìn một cái gì lờ mờ không quen biết. Cặp mắt lơ đãng, ánh nhìn tỉnh khô, môi xệ xuống, nước miếng lòng thòng chảy ra.

Tuy nhiên hai ông cháu cũng có điểm na ná giống nhau là dỗi hờn.

Khi cháu dỗi cháu lăn xuống đất nằm đạp lòng còng. Cha, mẹ cháu kêu đứng dậy và bảo xin lỗi, nếu không sẽ phạt time out.

Còn ông nội, ông hay hờn mát. Mỗi khi như vậy ông bỏ đi nằm và bỏ ăn.

Cả nhà năn nỉ, dụ ngọt cả buổi trời ông mới ngồi dây ăn uống.

Chỉ hai năm thôi, hai năm trôi qua cho thấy một lực hút cuốn mọi người xoay chóng mặt. Đứa cháu ngày nào mới biết lật giờ đã là một cậu bé dễ thương tinh nghịch, ngây thơ. Cháu đang học mọi thứ để tập sự những ngày bước vào trường mầm non.

Còn ông thì mòn hết mọi thứ để đi vào con số không của cuộc đời. Ông như một cây đã cạn hết nhựa. Sống trong một trạng thái mơ hồ và làm theo quán tính của mình.

*

Thằng con trai vừa sinh thêm một đứa con gái. Đứa con gái đẹp như một con búp bê. Khi đứa con dâu sinh xong, thằng con chụp hình gửi về, rồi vào Webcam nói chuyện. Bà nội vui lắm khi nhìn con bé thật dễ thương nằm gọn trong lớp khăn xinh xắn.

Đứa con trai bồng con giơ giơ trước mặt ông nội:

– Ba biết ai không ba?. Cháu nội ba nè.

Ông nhìn cháu hai mắt lim dim, nước miếng chảy có dây ậm ừ:

– Cái cục gì đen đen vậy bà?

– Cái ông này nói kỳ. Bé Hạnh cháu mình đó. Bà nội vội trả lời

Ông làm thinh dường như mọi sự việc chẳng có gì liên quan đến ông. Đứa cháu gái hay cháu trai cũng không còn quan trọng.

Thỉnh thoảng ông cũng không nhớ bà là ai, ông cũng không phân biệt hai đứa cháu ở chung nhà đứa nào là chị đứa nào là em. Ông cũng không nhớ cháu ông tên gì. Cả đứa con gái đầu lòng ngày xưa ông rất mực yêu thương, thỉnh thoảng ông cũng không nhận ra và gọi là chị.

Thằng cháu nội ngày nào giờ đã được đi học ở thư viện trong base của quân đội. Cháu được dạy và chơi các môn thể thao. Cháu đã biết đếm từ 1 đến 40 bằng tiếng Mỹ và đếm 1 đến 10 bằng tiếng Việt Nam.

Còn ông nội bây giờ nói ông thử đếm xem. Bà nội đưa những ngón tay lên để đố, ông chỉ cười cười không trả lời. Không hiểu ông có biết hay ông chả thèm để ý chi ba cái chuyện đố ai lặt vặt trẻ con của đàn bà con gái.

Thằng cháu nội nhìn ông trong webcam và nói:

– Ông nội, ông nội. Ông nội nhểu giống em bé. Ông nội hư quá.

Ông nội bây giờ hư thật, ông sống trong thế giới của riêng ông và những thói hư tự dưng bây giờ xuất hiện.

Người ta nói đó là những thay đổi tâm tính của người già. Ông lúc nào cũng coi đồng tiền quan trọng lắm. Lúc nào cũng khư khư cái giỏ trong đó có cái ví tiền mà ông giữ thật cẩn thận.

Mỗi sáng ông lấy ra đếm đi đếm lại những đồng tiền mới mà bà nội để vào ví cho ông. Những giọt nước miếng chảy xuống làm ướt nhẹp mấy đồng tiền nằm trên. Ông cẩn thận xăm soi rồi lại bỏ vào. Như đứa bé chơi đồ chơi lấy một nón đồ chơi rồi bỏ vào trong hộp. Lại lôi ra chơi tiếp.

Ông hay sợ mất tiền và hay than hôm nay bị ai đánh cắp mấy trăm. Ông dấu kín dưới gối, kẹt tủ rồi lại hoảng loạn đi tìm vì không biết ở đâu. Ông kêu lên đầy lo lắng.:

– Gói tiền và giấy tờ để làm hồ sơ đi Mỹ đã bị đánh cắp rồi. Mình làm sao lên máy bay?

Vậy đó, ông nội lại trở về quá khứ để sống, còn cháu nhìn về tương lai để lớn lên. Cháu lớn từng ngày và mỗi ngày mỗi hiểu biết thêm một chút để bỏ xa ông nội đằng sau.

Bây giờ ông nội lại sắp hàng giống con em nó là con bé mới sinh được 5 tháng tuổi. Cũng mang tã, cũng ngu ngơ không biết gì như nó mấy năm về trước.

Tôi nhìn ông chồng tội nghiệp của tôi mà suy gẫm ra nhiều thứ.

Trên con đường đời của luật tử sinh vòng xoay bất biến, con người luôn đi theo một vòng tròn.

Khi đứa bé sinh ra bắt đầu bằng tã, sữa. Niềm vui là được bú no, ngủ cho yên giấc. Đứa bé lớn dần học nhiều thứ để trưởng thành. Để biết tham lam muốn cái này cái nọ. Để biết tìm cách lấy phần hơn về cho mình và trưởng thành để tự lập một đời sống riêng tư. Cái tuổi thành niên đến giai đoạn tráng niên là phải vật lộn với đời sống, với mưu sinh. Con người tốt hay xấu, danh vọng hay nghèo nàn, có nhân cách và đạo đức hay không là do mình tạo ra trong giai đoạn này.

Đến lão niên cuộc đời trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. Tuổi đời chồng chất, đấu tranh mòn mõi, luật đời đào thải, cơ thể đào thải để cuối cùng cũng chỉ trở lại với tã và sữa.

Đứa bé là một sinh vật trong trắng, thơ ngây. Tã và sữa là những thứ cần thiết để đứa bé lớn lên và phát triển.

Người già là một cơ thể đã hết rồi nhựa sống. Trang sách đời đầy những dấu vết đau thương và tội lỗi. Nên ngoài tả sữa còn mang cả một quá khứ ở tâm hồn và đau đớn ở thân xác. Vì vậy đôi khi họ rất khó tính và câu chấp thiệt hơn. Cái vòng tròn khi về điểm cuối bao giờ cũng nhạt nhòa và mất dần đi nét vẻ đẹp ban đầu. Tất cả rồi sẽ nhập lại để hủy diệt. Để trả lại cái thân xác cho đất, nước lửa và không khí. Để sau đó một mầm sống mới vươn lên của vòng sinh tử, tử sinh bắt lại từ đầu.

Con đường nào rồi cũng có đích để đến, Nhưng cái đích để đến của những người lính VNCH bị tù Cộng Sản bao giờ cũng nhiều đau đớn, thương tích về thể xác lẫn tâm hồn. Nó đốt cháy và thiêu rụi nhiều thứ trong ký ức vàng son hay làm khô cằn niềm vui và sức sống.

Rất may ông và cháu đều được sống, được là công dân của một đất nước coi trọng người già và trẻ con. Một nước Mỹ tân tiến có nhiều quyền lợi ưu tiên cho cả ông và cháu. Cháu được xã hội nâng niu vì là mần non của đất nước. Cháu được tạo mọi điều kiện để sức khỏe và trí tuệ phát triển đến mức tối đa. Cháu sẽ trưởng thành để góp phần vào sự phồn vinh của đất nước, một người công dân xứng đáng trong xã hội.

Ông được xã hội trân trọng vì đã đóng góp ít nhiều cho xứ sở này. Một đất nước nhân bản coi trọng mỗi cá nhân. Những người già được quan tâm và hưởng những phúc lợi cần thiết để bảo vệ sức khỏe của mình. Để những ngày cuối đời là những ngày hạnh phúc và đáng sống.

Tôi cám ơn nước Mỹ vô cùng đã cho gia đình tôi có cơ hội sống và làm việc. Đã cho chúng tôi có một chỗ thật bình yên và an lành. Cho chúng tôi khi tuổi già không lo cơm áo gạo tiền, vật lộn với đời sống để kiếm miếng ăn. Nếu tôi còn ở VN ông chồng tôi chắc đã ra đi từ lâu lắm… Tôi sẽ không đủ khả năng để lo cho chồng như hiện nay Vì với một sức khỏe cạn kiệt sau bao nhiêu năm trên trại tù Việt Bắc. Bao nhiêu những ám ảnh quá khứ và hiện tại anh sẽ không thể nào đủ sức vượt qua.

Ông trời đã cho chồng tôi sống sót sau bao nhiêu năm tù tội gian lao. Đã cho chàng cùng tôi sang đây để xây lại một mái gia đình hạnh phúc. Và bây giờ đã cho chàng ở bên tôi hàng ngày, hàng giờ như tôi đã từng ước mơ, cầu nguyện.

Ông trời đã đùa với tôi. Ổng háy một bên mắt và cười: “Con ạ! Con xin gì ta đã cho con điều đó. Con ước nguyện cho chồng con sống sót trở về. Con cầu nguyện có chồng một bên không rời xa dù cực khổ bao nhiêu con cũng chịu. Cảm thương con ta cho con toại nguyện. Ta cho nó bên con hàng ngày, hằng giờ không bao giờ chia cắt. Con hãy trân trọng những đặc ân ta ban cho con. Chúc con hạnh phúc.”

Và thế, tôi ôm lấy niềm hạnh phúc ơn trên ban cho tôi và giữ lấy nó bằng cả trái tim.

Trái tim của một người phụ nữ Việt Nam yêu chồng.

Nguyễn thị Thêm

Sự thay đổi trong cán cân quyền lực tại Việt Nam

Sự thay đổi trong cán cân quyền lực tại Việt Nam


Nguyễn Hưng Quốc

Mới đây, trên tờ East Asia Forum ngày 5 tháng 3, Lê Hồng Hiệp, chuyên viên nghiên cứu tại Institute of Southeast Asia Studies, có một bài viết khá hay về sự thay đổi trong cán cân quyền lực trong hệ thống chính trị tại Việt Nam.

Theo Lê Hồng Hiệp, trước đây, quyền lực chính trị tại Việt Nam chủ yếu nằm trong tay một cá nhân (Hồ Chí Minh và/hoặc Lê Duẩn), sau, chuyển sang Bộ Chính trị (dưới thời các Tổng Bí thư từ Trường Chinh đến Nông Đức Mạnh), và gần đây, chuyển sang Ban Chấp hành Trung ương đảng.

Có mấy bằng chứng cho thấy sự thay đổi này: Một, vào tháng 10, 2012, khi Bộ Chính trị định kỷ luật Nguyễn Tấn Dũng vì những thất bại của ông trong lãnh vực kinh tế, Ban Chấp hành Trung ương đã bác bỏ, cuối cùng, Nguyễn Tấn Dũng được xem là vô tội. Hai, vào tháng 3, 2013, khi Nguyễn Phú Trọng đề cử Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã lại bác bỏ và, thay vào đó, bầu hai người khác, Nguyễn Thiện Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân. Và ba, vào tháng 1, 2015, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương đã bỏ phiếu tín nhiệm các uỷ viên trong Bộ Chính trị. Kết quả cuộc bầu cử, cho đến nay, vẫn không được công bố chính thức, tuy nhiên, theo trang blog Chân dung Quyền lực, ở đó, Nguyễn Tấn Dũng được nhiều phiếu tín nhiệm cao nhất (152 phiếu), trên Trương Tấn Sang (149 phiếu), và cao hơn hẳn Nguyễn Phú Trọng, đứng hạng thứ 8, với 135 phiếu.

Với các sự kiện ấy, Lê Hồng Hiệp cho rằng, nếu xem cấu trúc quyền lực trong hệ thống chính trị tại Việt Nam như một hình tam giác thì ở trên cùng là Ban Chấp hành Trung ương, dưới một chút là Bộ Chính trị, và dưới nữa là Tổng Bí thư. Cấu trúc này không thể hiện xu hướng dân chủ tại Việt Nam, bởi vì, thay đổi theo cách nào, mọi quyền lực cũng đều nằm trong tay đảng Cộng sản. Tuy nhiên, nó thể hiện được cán cân quyền lực trong nội bộ đảng. Điều này đã có nhiều người nhận ra: trong lịch đảng Cộng sản và chính quyền Việt Nam, chưa có Tổng Bí thư nào bất lực như Nguyễn Phú Trọng, đồng thời cũng chưa có một Thủ tướng nào có nhiều quyền lực như Nguyễn Tấn Dũng.

Có thể nói, sự thay đổi đột biến trong cán cân quyền lực của Ban Chấp hành Trung ương gắn liền với sự lớn mạnh trong vai trò Thủ tướng của Nguyễn Tấn Dũng. Ảnh hưởng của Nguyễn Tấn Dũng đối với Ban Chấp hành Trung ương lớn hơn hẳn các ảnh hưởng của Nguyễn Phú Trọng hoặc Trương Tấn Sang. Có hai lý do chính. Thứ nhất, hầu hết các thành viên trong Ban Chấp hành Trung ương là các cán bộ lãnh đạo địa phương hoặc trong guồng máy hành chính trung ương: ở cả hai nơi, quyền bổ nhiệm cũng như quyền phân phối ngân sách đều chủ yếu nằm trong tay Nguyễn Tấn Dũng. Thứ hai, Nguyễn Tấn Dũng cũng có quan hệ chặt chẽ với cả Bộ Quốc phòng lẫn Bộ Công an, nơi trước đây ông từng lãnh đạo, mà hai bộ này chiếm đến 15 phần trăm tổng số uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng.

Với ảnh hưởng to lớn trên Ban chấp hành Trung ương như vậy, khả năng Nguyễn Tấn Dũng trở thành Tổng Bí thư trong kỳ đại hội đảng vào năm 2016 tới không phải là xa vời hay bất khả. Nếu Nguyễn Tấn Dũng trở thành Tổng Bí thư, một trong những phó Thủ tướng của Nguyễn Tấn Dũng hiện nay sẽ lên làm Thủ tướng. Lúc ấy, cán cân quyền lực, theo tôi, lại quay ngược lại thời trước: Tổng Bí thư sẽ có quyền lực cao nhất. Tuy nhiên, dù cao đến mấy, quyền lực của Tổng Bí thư cũng sẽ không cao bằng Hồ Chí Minh hay Lê Duẫn thời trước vì họ phải lệ thuộc vào sự ủng hộ của mấy trăm người trong Ban Chấp hành Trung ương đảng. Nhưng dù sao lúc ấy Tổng Bí thư cũng sẽ có quyền lực hơn hẳn Nguyễn Phú Trọng hiện nay.

Vấn đề là: những sự thay đổi về cán cân quyền lực cũng như cấu trúc quyền lực như vậy có lợi hay có hại cho đất nước?

Câu trả lời, theo tôi, là vừa lợi vừa hại.

Hại, trước hết, vì quyền lực của đảng trên quyền lực của Thủ tướng, tức trên bộ máy hành chánh, càng lớn, xu hướng độc tài càng có nguy cơ phát triển mạnh. Đó là những gì đã xảy ra và đã kéo dài trong nhiều thập niên dưới quyền của Lê Duẩn, ở đó, các thủ tướng, kể cả Phạm Văn Đồng, đều là những con rối trong tay Tổng Bí thư và Bộ Chính trị, chứ không có một quyền lực gì cả.

Hại nữa vì nó tiếp tục duy trì thế đứng của đảng như một thứ siêu quyền lực, đứng trên và đứng ngoài luật pháp, ở đó, mọi ước mơ thay đổi và dân chủ hoá đều dễ dàng bị dập tắt.

Tuy nhiên, khi quyền lực nằm hẳn trong tay một người, và nếu người đó có óc cấp tiến, có ý muốn thay đổi theo hướng dân chủ hoá thì ý muốn ấy rất dễ biến thành hiện thực. Nó khác với tình trạng hiện nay khi quyền lực bị phân tán, người này chỉ đứng trên người kia một chút, làm bất cứ điều gì người ta cũng phải nhân nhượng và thoả hiệp với nhau, cuối cùng, không có một chính sách tiến bộ hay mạnh mẽ nào có thể thực hiện được cả.

Theo tôi, ở Việt Nam hiện nay, có hai điều cần nhất: Một là dân chủ hoá; và hai là, một nhà lãnh đạo thực sự mạnh. Không có nhà lãnh đạo mạnh, sẽ không có gì thay đổi cả.

Tuy nhiên, như đã nói, đất nước chỉ thực sự thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, nếu, và chỉ nếu, nhà lãnh đạo mạnh ấy cũng đồng thời là một người sáng suốt, có quyết tâm xây dựng đất nước và theo đuổi làn sóng dân chủ hoá. Liệu Nguyễn Tấn Dũng có phải là một người như thế?

HUYỀN NHIỆM

HUYỀN NHIỆM

Khi ánh bình minh bừng thức dậy
Hừng đông hồng ửng phía chân mây
Cây xanh trở giấc thay màu lá
Chim hót líu lo cất cánh bay

Hương thơm thoang thoảng ở đâu đây
Vườn hoa còn đẫm lớp sương mai
Khoan thai thở hít căng buồng phổi
Thoải mái tâm hồn, khoan khoái thay

Ai đã cho ta bầu khí thở
Cho đời ta đẹp với hương thơ
Cho tình say đắm trong huyền diệu
Cho trái tim yêu chẳng bến bờ

Ai đã treo trăng vàng lửng lơ
Ban mai lấp lánh ánh sao mờ
Ngân hà từng dãy dòng sông trắng
Vũ trụ xa xôi cực ngẩn ngơ

Thái dương dần rộng ánh hào quang
Ngọn gió miên man thổi nhẹ nhàng
Ánh sáng chan hoà tia nắng mới
Cuộc sống thăng hoa đến rỡ ràng

Sự sống thăng hoa tới rộn ràng
Ráng chiều bảng lảng áng mây đan
Hoàng hôn buông bóng đang dần xuống
Mái ấm lên đèn, cơm nóng rang !

Đình Duy Phương

Tấm Gương Sự Thật

Tấm Gương Sự Thật

Theo câu chuyện cổ tích của người Tây Phương về Cô Bạch Tuyết và Bẩy Chú Lùn thì “Sự Thật” chiếu sáng và nói qua một tấm gương.

Khi Hoàng-hậu, người kế mẫu của Bạch Tuyết nhìn vào tấm gương sự thật ấy để hỏi về mình, bà được trả lời như sau: “Thưa hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất hiện nay”.

Mà quả thật, so sánh với những người đàn bà đương thời, bà ta là người đẹp nhất.

Nhưng công chúa Bạch Tuyết mỗi ngày một lớn và trở nên xinh đẹp.  Da trắng như tuyết, môi đỏ như máu, tóc đen như mun: ba màu sắc ấy kết hợp một cách hài hòa để mỗi ngày một gia tăng vẻ đẹp cho cô bé, dù chỉ mới lên 7 tuổi.  Ai cũng nhận thấy rằng cô đã vượt xa người kế mẫu về sắc đẹp.

Một hôm, hoàng hậu kế mẫu hỏi ý kiến của chiếc gương Sự Thật một lần nữa.

Lần này, tấm gương đã trả lời: “Thưa hoàng hậu, quả thực hoàng hậu là người xinh đẹp ít ai sánh bằng.  Nhưng hiện nay, công chúa Bạch Tuyết đã đẹp hơn hoàng hậu bội phần.  Ðây là điều mà không ai chối cãi được, Bẩy Chú Lùn đã xác định điều đó”.

Người kế mẫu không muốn chấp nhận Sự Thật ấy.

Bà không thể nào chấp nhận một đứa con riêng của chồng được quyền đẹp hơn Bà.  Sự ganh ghét đã bắt đầu gặm nhấm tâm hồn bà để rồi bà chỉ còn có mỗi một ý nghĩ trong đầu: đó là loại bỏ người đối thủ tí hon của bà.  Bà sai người cho thuốc độc vào một trái táo rồi mang đến cho Bạch Tuyết.  Cô bé bị ngộ độc và đã đi vào cõi chết, nhưng vẫn giữ nguyên nét đẹp trên gương mặt.  Một hoàng tử đã say mê nhìn khuôn mặt bất động ấy.  Chàng đã đặt trên môi Bạch Tuyết một chiếc hôn.  Trái táo độc rớt khỏi môi và Bạch Tuyết đã được hồi sinh.  Người hoàng hậu kế mẫu nghe điều đó.  Sự oán hận và ganh tức đã dồn lên khiến cho người đàn bà chết tốt.

Tấm gương Sự Thật của chúng ta chính là Ðức Kitô.

Philatô đã có lần hỏi Chúa Giêsu: Sự Thật là gì? Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi ấy.

Nhưng chắc chắn những môn đệ của Chúa Giêsu đã có lần nghe Ngài tuyên bố: “Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống”.  Họ là những người có thể trả lời cho câu hỏi ấy.

Chúa Giêsu không chỉ là Sự Thật một cách trừu tượng, một cách trống rỗng, mà là Sự Thật của con người, đối với con người.

Cũng chính Philatô, sau khi đã ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu, đã đưa Người ra trước dân chúng và tuyên bố: “Này là Người”.  Này là người, này là con người, hay đúng hơn là sự thật về con người.  Chúa Giêsu đã để lộ tất cả con người của ngài qua những vết thương trên thân thể.

Phải chăng con người chỉ để lộ nhân tính và tất cả những nét cao quý nhất của mình qua những lằn roi, qua những vết thương đau vì yêu thương, vì phục vụ?

Chúa Giêsu là tấm gương Sự Thật của con người.  Chỉ qua Ðức Kitô, chúng ta mới có thể nhận diện được con người đích thực của chúng ta.

Nhìn vào Ðức Kitô, tội lỗi và những bất toàn của chúng ta sẽ hiện ra, nhưng… hình ảnh cao quý được Thiên Chúa in trên mỗi người chúng ta cũng được tỏ lộ.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Việt Nam có thể mất Trường Sa ?

Việt Nam có thể mất Trường Sa ?

Trương Nhân Tuấn

07-03-2015

VN có thể bị mất toàn bộ các đảo, các cấu trúc địa lý thuộc quần đảo Trường Sa cho Trung quốc, nếu vẫn còn giữ nguyên chính sách “ba không” như hiện nay.

Trên quan điểm địa chiến lược, TQ chỉ có thể trở thành “đại quốc” khi các nước chung quanh “yếu”. Nếu các nước này đã là các nước “giàu” thì cũng phải làm thế nào cho họ ít nhiều lệ thuộc vào TQ. Đã từ lâu TQ là động cơ cho phát triển của cả khu vực (và thế giới). GDP của TQ lên hàng thứ nhì và ngân sách quốc phòng cũng hàng thứ nhì trên thế giới (150 tỉ đô là số công bố. Số thật sự có thể lên gấp đôi). TQ đã là một “nước lớn”. Các nước “giàu” trong khối ASEAN, hay Đại Hàn, Nhật đã “tương thuộc” một cách sâu sắc về kinh tế với TQ.

VN là một ngoại lệ. Nước này từ đầu thập niên 90 đã ngoan ngoãn nằm trong “quĩ đạo” của TQ. VN tuyên bố là không “liên minh” với nước nào. Điều này rất hợp ý Bắc Kinh. TQ sẽ liên tục “giúp” mọi thứ để cho VN trở thành một nước “yếu” và nghèo đói kinh niên.

Một cái nhìn (địa chiến lược) khác, Mỹ lại không muốn thấy một “đại cường” TQ, đối trọng với Mỹ trong khu vực. Mỹ không thể tái dựng lại “chiến tranh lạnh” nhằm cô lập TQ mà chỉ có thể thiết lập một hàng rào các nước đồng minh để bao vây TQ. Các nước nằm trong “hàng rào” của Mỹ đều là các nước giàu (hay tương đối giàu hơn VN) và mạnh. VN có vị trí rất “đắc địa”, vì là thanh kiếm dưới yết hầu của TQ. Dĩ nhiên được Mỹ coi trọng.

VN có hai lựa chọn:

Một là không liên minh với ai hết (theo như ý nguyện của Bắc Kinh) như hiện nay. Kết quả là nghèo kinh niên, (lãnh thổ mất lần hồi) vì đó là mục đích chiến lược của TQ.

Hai là “liên minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh (ít ra như Đại Hàn). Vì một VN nghèo đói sẽ không ngăn cản được TQ mà còn là một gánh nặng cho Mỹ.

Và chỉ có liên minh với Mỹ VN mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của quốc gia mình.

Một số yếu tố trình bày sau đây, cho thấy nếu VN không thay đổi, mất nước sẽ là một trình tự êm ái.

1/ Từ vụ kiện của Phi:

Ngày 23 tháng giêng năm 2013, Bộ Ngoại giao Phi trao công hàm cho Bắc Kinh, đồng thời thông báo trước dư luận trong ngoài nước, việc Phi đã nộp hồ sơ đưa Trung Quốc ra Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của Công ước Quốc Tế về Biển 1982. Hồ sơ kiện của Phi gồm 4.000 trang tài liệu, được Tòa Trọng tài Thường trực (La Hague, Hòa Lan) thụ lý. Tháng 6-2014, Tòa thông báo cho Trung Quốc, nước này có 6 tháng để nộp bản phản biện, thời hạn chót là ngày 15-12-2014. Như đã biết, từ ngày 19 tháng 2 năm 2013, bộ Ngoại giao TQ đã tuyên bố từ chối tham gia vụ kiện, và dĩ nhiên, không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa. Một bản Tuyên bố ngày 7-12-2014 đã được phía TQ công bố. Theo đó lập luận của TQ về các lý do không tham gia vụ kiện được trình bày khá rõ rệt.

Những lập luận đáng ghi nhận của TQ là : 1/ Tòa không có thẩm quyền vì cốt lõi của vụ kiện liên quan đến “chủ quyền lãnh thổ” mà điều này không thuộc phạm trù của Công ước Quốc tế về Biển 1982. 2/ Vụ kiện liên quan đến vấn đề “phân chia ranh giới biển” mà điều này TQ đã bảo lưu năm 2006 (loại trừ mọi biện pháp trọng tài có mục đích phân chia ranh giới biển).

Thái độ của TQ, không tham gia vụ kiện và không nhìn nhận thẩm quyền của tòa, không cản trở được quá trình thụ lý của Tòa Thường Trực. Nếu không có gì trở ngại, nội vụ sẽ xử vào tháng 7 năm 2015.

Trong tiểu đoạn trước người viết có nói rằng sẽ có 40% xác suất Tòa tuyên bố “không có thẩm quyền”. Vì sao sẽ giải thích bên dưới. Điều này nếu xảy ra, vùng nhận diện phòng không (ADIZ) của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ sớm được thành lập (theo bản đồ dưới đây). Dĩ nhiên, tất cả các đảo, cấu trúc địa lý trong vùng biển (được bao che bởi vùng ADIZ) phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc. TQ không thể lập vùng nhận diện phòng không nếu có một vùng lãnh thổ (nào đó) ở phía dưới còn thuộc về một nước khác.
Tức là, trước khi tuyên bố vùng nhận diện phòng không, công việc của TQ là “thâu hồi” các đảo, các cấu trúc địa lý bên dưới khu vực này. Phía thiệt hại nhiều nhất không phải Phi Luật Tân mà là VN. Toàn bộ lãnh thổ của VN trong Biển Đông sẽ bị mất.

<a href=”https://www.flickr.com/photos/22851651@N03/16562437918” title=”Hoang Sa – Truong Sa 1 by truongnhantuan, on Flickr”><img src=”https://farm9.staticflickr.com/…/16562437918_54799b9608_o.j…” width=”2278″ height=”3150″ alt=”Hoang Sa – Truong Sa 1″></a>

Hình trên: Vùng ADIZ của TQ, giả định của tác giả.

2/ Nội dung hồ sơ kiện của Phi.

Phi yêu cầu Tòa tuyên bố, gồm 10 điều :

1- Các quyền của TQ và Phi ở biển Đông phải tuân thủ theo UNCLOS. (Các quyền được xác định theo phần II đối với lãnh hải và vùng tiếp giáp, theo phần V đối với vùng ZEE và theo phần VI đối với thềm lục địa).

2- Yêu sách đường 9 đoạn của TQ là vô giá trị.

3- Các cấu tạo lúc chìm lúc nổi, không nằm trong lãnh hải các quốc gia ven biển, thuộc đáy biển, thì không thể chiếm hữu, ngoại trừ cấu tạo đó nằm trên thềm lục địa của quốc gia theo phần VI UNCLOS.

4- Các bãi Vành Khăn, Mc Kennan, Xu Bi và Gaven là các cấu tạo chìm khi thủy triều lên, không phải là đảo theo qui định của điều 121 UNCLOS, cũng không nằm trên thềm lục địa TQ, việc TQ chiếm đóng có trái phép hay không và việc xây dựng trên các bãi cạn này có trái phép hay không ?

5- Bãi Vành Khăn và McKennan thuộc thềm lục địa của Phi theo phần VI của UNCLOS.

6- Bãi Hoàng Ngam và các đá Châu Viên, Gạc Ma, Chữ Thập là các bãi chìm, ngoài trừ vài mỏm đá nhô trên nước khi thủy triều lên. Chúng chỉ là « đá » theo điều 121 khoản 3 của UNCLOS, vì thế chỉ có thể có lãnh hải không quá 12 hải lý. TQ đã đòi hỏi một cách phi lý quyền mở rộng các vùng biển quá 12 hải lý tại các cấu tạo này.

7- TQ đã vi phạm luật pháp khi ngăn cấm các tàu của Phi khai thác các vùng biển cận Hoàng Nham và đá Gạc Ma.

8- Phi có quyền về lãnh hải 12 hải lý, ZEE 200 hải lý và thềm lục địa, theo các phần II, V và VI của UNCLOS, tính theo đường cơ bản quần đảo của Phi.

9- TQ đã yêu sách một cách bất hợp pháp các quyền đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật và đã khai thác phi pháp các tài nguyên này và cũng đã vi phạm pháp luật khi không cho Phi khai thác các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng EEZ và thềm lục địa của mình.

10- TQ đã can thiệp một cách bất hợp pháp quyền tự do hàng hải của Phi được xác định theo UNCLOS.

Các điểm, theo tôi, Tòa không có thẩm quyền để tuyên bố là :

Điểm 3 và điểm 4 : về tình trạng pháp lý các cấu tạo địa lý lúc chìm lúc nổi (mà TQ hiện chiếm đóng và xây dựng). Công ước Quốc tế về Biển 1982 không đề cập đến việc các cấu trúc địa lý này có thể chiếm hữu hay không ? Phán lệ (hay án lệ) của CIJ trong vụ kiện giữa Qatar và Bahreïn. Tòa nói về việc này như sau:

“luật pháp quốc tế im lặng về tình trạng pháp lý của các bãi lúc chìm lúc nổi, các bãi này có thể xem như là một “lãnh thổ” hay không ? luật pháp hiện hành cũng không thể xác định là các bãi đó có thể xem như là một lãnh thổ tương đương với “đảo” hay không”.

Tuy nhiên, trong vụ tranh chấp giữa Tân Gia Ba và Mã Lai về chủ quyền của các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge qua phán lệ của Tòa án Quốc tế (CIJ) ngày 23-5-2008. Trường hợp tương tự, South Ledge là một đảo đá lúc chìm lúc nổi, chỉ thấy khi thủy triều thấp. Tòa có nhắc lại tình trạng mơ hồ về tình trạng pháp lý của các cấu trúc địa lý này trong vụ án Qatar và Bahreïn. Dầu vậy Tòa phán rằng South Ledge nằm ở vùng lãnh hải nước nào thì sẽ thuộc chủ quyền của nước đó.

Nếu phán quyết của Tòa CIJ ở trên trở thành một “phán lệ”, được áp dụng trong trường hợp các cấu trúc địa lý tương tự ở Trường Sa, thì chủ quyền các cấu trúc (lúc chìm lúc nổi) sẽ phụ thuộc vào các đảo chính. Tức là nước nào có chủ quyền ở đảo chính thì các cấu trúc phụ thuộc cũng sẽ thuộc chủ quyền của quốc gia đó.

Ở điểm này Tòa sẽ không có thẩm quyền phán xét. Đơn giản vì nó liên quan đến vấn đề “chủ quyền lãnh thổ” mà điều này nằm ngoài thẩm quyền của UNCLOS.

Điểm 5, đá McKennan thuộc nhóm đảo Sinh Tồn, phụ thuộc vào đảo Sinh Tồn. Trong khu vực đảo này TQ đã chiếm hai bãi (đá) Gạc Ma và Tư Nghĩa. Đá Vành Khăn sẽ phụ thuộc vào đá (nổi thường trực) hay đảo nào kế cận trong vòng 12 hải lý. Phía TQ tuyên bố có chủ quyền các đảo TS, theo Tuyên Bố đơn phương năm 1958 về hải phận 12 hải lý.

Ở điểm này Tòa cũng không có thẩm quyền, vì thuộc vấn đề “chủ quyền lãnh thổ”.

Điểm 6 nói về hiệu lực của “đảo” hay “đá” theo điều 121 UCLOS. Ở đây tranh luận là về lý thuyết luật học nhưng rất dễ sa vào lãnh vực “phân chia ranh giới biển” mà điều này Tòa cũng không có thẩm quyền do bảo lưu của TQ năm 2006.

Tức là, khi tôi nói có xác suất 40% Tòa không có thẩm quyền là dựa trên các cơ sở dữ kiện này.

3/ VN cần có thái độ nào ?

Nghe báo chí loan tải, VN đã gởi hồ sơ lên Tòa, trong vụ kiện của Phi, không phải để tham gia vụ kiện mà nhằm bảo vệ (bảo lưu) quyền lợi của VN trong khu vực. Điều này tôi cũng đã cảnh báo từ sau khi Phi tuyên bố đi kiện. Lý do các chủ thể mà Phi đề cập tới hầu hết đều thuộc chủ quyền của VN.

Sự việc TQ ráo riết xây dựng trên các cấu trúc địa lý (chiếm được của VN), trong vòng một thời gian ngắn, đã biến các cấu trúc địa lý này thành những đảo nhân tạo. Như vậy chủ ý của TQ là phải hoàn tất việc xây dựng trước ngày Tòa tuyên bố (dự tính tháng 7 năm 2015).

TQ đã đặt thế giới trước một việc đã rồi.

Bước kế tiếp (có thể là hai bước song song) là TQ sẽ tuyên bố vùng “nhận diện phòng không” đồng thời tuyên bố phong tỏa vùng biển chung quanh các đảo Trường Sa. Vấn đề “tự do hàng hải” sẽ không ảnh hưởng vì TQ không có mục đích làm gián đoạn việc này. Các đảo (có người sinh sống) sẽ phải kéo cờ đầu hàng trong một thời gian ngắn vì thiếu nước và lương thực.

Bằng mọi cách TQ sẽ chiếm các đảo trong khu vực ADIZ mà họ đã vạch ra. Vì nếu còn một đảo nào đó thuộc chủ quyền nước khác, vùng ADIZ này sẽ không hiệu lực.

Việc xây dựng các đảo của TQ chắc chắn đã làm VN “chới với” nhưng lãnh đạo (và phần lớn học giả) VN vẫn dường như chưa nhìn thấy viễn ảnh nan giải phía trước. Lãnh đạo CSVN vẫn yên bình tổ chức hội nghị “sắp xếp nhân sự”, khẳng định “kinh tế thịc trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trong khi học giả thì viết luận văn tuyên truyền chính sách “đu dây” với “lời nguyền địa lý”.

Có “lời nguyền địa lý” nào độc địa bằng địa lý nước Nhật ?

Về tình trạng văn hóa và địa lý, Nam Hàn có khác gì VN với TQ ?

Không có lời nguyền nào cả. Chỉ có vấn đề là khôn hay dại. Có chui đầu vào niền “kim cô” hay không mà thôi.

Giải pháp tốt nhất (để phá nước cờ thế của TQ) hiện nay của VN là liên minh với Mỹ và tức thời lập hồ sơ đi kiện TQ.

Vì tình thế mới phải có kế sách mới.

Vụ Phi đi kiện TQ không thuyết phục được Tòa. Bởi vì các đảo mà Phi hiện chiếm đóng phần lớn là trái phép. Chỉ có VN mới có tư cách (hơn Phi) để kiện TQ ở Trường Sa. Điều này tôi cũng đã cảnh báo từ hơn thập niên nay.

Việt Nam phải làm gì với hành động của Trung Quốc?

Việt Nam phải làm gì với hành động của Trung Quốc?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-03-10

03102015-what-cn-wnt-n-vn-sh-do.mp3

Vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan nổi HD-981 trên vùng biển Việt Nam

Vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan nổi HD-981 trên vùng biển Việt Nam (tháng 5, 2014)

Source UNCLOS

Your browser does not support the audio element.

Sáng ngày 8 tháng Ba vừa qua, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói rằng “Trung Quốc đang tiến hành những hoạt động xây dựng cần thiết trên đảo và bãi đá của Trung Quốc. Việc xây dựng này không nhắm hay ảnh hưởng đến ai” . Có thật là việc xây dựng này không ảnh hưởng đến ai hay không? Mặc Lâm trao đổi với nhà nghiên cứu Biển Đông Trương Nhân Tuấn để tìm hiểu thêm về sự kiện này.

Mặc Lâm: -Thưa ông là người nghiên cứu Biển Đông trong hàng chục năm qua theo ông Trung Quốc đang công nhiên xây dựng trên các bãi đá ngầm tại Trường Sa thì hành động này có đi ngược lại với DOC năm 2002 yêu cầu phải giữ nguyên trạng các vùng đang tranh chấp hay không?

Trương Nhân Tuấn: Trung Quốc đã lợi dụng việc Phi đi kiện, tháng giêng năm 2013, cho rằng Phi đã vi phạm Tuyên bố chung giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 gọi là DOC, từ đó lấy cớ tiến hành việc xây dựng các đảo nhân tạo tại các cấu trúc địa lý tại Trường Sa.

Vụ giàn khoan 981 đặt trên thềm lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế  “giương đông kích tây”. Cùng thời điểm đó Trung Quốc đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại dương đến Trường Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ như thế mà phía Việt Nam, cả năm sau, hoàn toàn không có một phản ứng nào. Biến cố giàn khoan 981 có thể đã che mắt mọi người, nhưng không thể che mắt nhà cầm quyền.

” Vụ giàn khoan 981 đặt trên thềm lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế “giương đông kích tây”. Cùng thời điểm đó TQ đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại dương đến Trường Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ

Trương Nhân Tuấn”

Trung Quốc đã chiếm các bãi đá của Việt Nam từ năm 1988, sau đó cho xây dựng một số công trình có tầm vóc nhỏ vài trăm mét vuông. Tình trạng đó kéo dài cho đến đầu năm 2014, tức là tuyên bố DOC có hiệu lực được 12 năm. Việc xây dựng hiện nay đã làm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông. Các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng, như công trình trên đá Chữ Thập khi hoàn tất có thể lên đến vài chục cây số vuông. Nếu các đảo đó được quân sự hóa, tương quan lực lượng giữa các bên sẽ thay đổi lớn lao. Trung Quốc, dựa vào các đảo vừa xây dựng, có thể tuyên bố vùng “nhận diện phòng không”, đồng thời phong tỏa để chiếm các đảo khác hiện đang trong tay của Việt Nam và Phi, và có thể cả Đài Loan.

Hành động này của Trung Quốc dĩ nhiên đi ngược lại tinh thần của Tuyên bố DOC 2002. Nhưng văn bản này vốn không có giá trị ràng buộc. Do đó cũng không nước nào làm gì được Trung Quốc.

Mặc Lâm: Theo ông thì sự im lặng của Việt Nam có thể được xem là từ bỏ chủ quyền theo luật quốc tế. Có cách nào để sửa sai hay ít ra điều chỉnh lại hay không?

Trương Nhân Tuấn: Theo một số phán lệ của Tòa án quốc tế, thái độ im lặng trong một số trường hợp có thể được xem là sự “đồng thuận”. Sự đồng thuận có thể “mặc thị” hay “ám thị”. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong luật học, gọi là  “acquiescement “, có hiệu lực tương tự như nguyên tắc “Estoppel “.

Những hành vi của Việt Nam, có thể xem là các dấu hiệu “acquiescement-đồng thuận”, công nhiên hay mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thứ nhứt là công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Thứ hai là thái độ im lặng của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong biến cố 17-1-1974 khi Trung Quốc đưa quân xâm lăng quần đảo Hoàng Sa. Thứ ba, thái độ của Việt Nam vào tháng 3 năm 1988 khi Trung Quốc chiếm một số bãi đá ở Trường Sa.

Về công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, Việt Nam hiện nay có khuynh hướng diễn giải nội dung chỉ công nhận 12 hải lý về hải phận chứ không có ý nghĩa về nhìn nhận chủ quyền. Tuy nhiên, nội dung tuyên bố của Trung Quốc năm 1958 không phải chỉ nói về hải phận 12 hải lý mà còn nói về chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ta có thể xem là Việt Nam đã “im lặng” trước tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc.

Theo luật quốc tế, trong những trường hợp đòi hỏi quốc gia liên hệ phải có một thái độ dứt khoát, thì sự im lặng đó có thể được hiểu như là sự đồng thuận. Tức là, theo nguyên tắc “acquiescement”, Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

” Theo luật quốc tế…thì sự im lặng đó có thể được hiểu như là sự đồng thuận. Tức là, theo nguyên tắc “acquiescement”, Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa

Trương Nhân Tuấn”

Trường hợp tháng giêng năm 1974, trước hành vi Trung Quốc xâm lăng lãnh thổ của VN, hai chính phủ Nam và Bắc Việt Nam đều có trách nhiệm như nhau trong vấn đề bảo vệ lãnh thổ chung. Rốt cục miền Bắc, đã không tìm cách can thiệp vào cuộc xâm chiếm đó mà còn từ chối đứng chung với miền Nam để ra một tuyên bố chung chống lại Trung Quốc. Hành vi Trung Quốc xâm chiếm lãnh thổ bắt buộc chính phủ các bên phải có thái độ. Việc giữ im lặng ở đây cũng được xem là dấu hiệu của “acquiescemnt”, mặc nhiên nhìn nhận lý lẽ và hành vi xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc là chính đáng.

Trường hợp ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc đem quân xâm lăng một số đá, bãi của Việt Nam tại Trường Sa. Dĩ nhiên Trung Quốc đã sử dụng bạo lực. Vấn đề là phía Việt Nam đã không sử dụng quyền “tự vệ chính đáng” được Hiến chương LHQ qui định để chống trả lại. Phía Việt Nam được lệnh là không được nổ súng bất kỳ giá nào. Nhà nước Việt Nam cũng từ chối mọi thủ tục pháp lý có sẵn để tranh đấu chống lại Trung Quốc ở thời điểm đó. Mặc dầu nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam lúc đó có đầy đủ tư cách pháp nhân để thực hiện. Các công hàm phản đối dĩ nhiên không có hiệu lực bằng các phương tiện pháp lý.

Đá Gạc Ma của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ năm 1988, sau khi cải tạo đất và xây dựng năm 2014 nay đã trở thành đảo nhân tạo nối với cơ sở ban đầu của bãi đá này, có cả 1 sân bay trực thăng và 1 trạm xi măng - Ảnh: Airbus Defe

Đá Gạc Ma của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ năm 1988, sau khi cải tạo đất và xây dựng năm 2014 nay đã trở thành đảo nhân tạo nối với cơ sở ban đầu của bãi đá này, có cả 1 sân bay trực thăng và 1 trạm xi măng – Ảnh: Airbus Defence &amp; Space/IHS Jane’s

Nếu đưa ra một trọng tài quốc tế, chắc chắn thái độ của các chính phủ VNDCCH hay CHXHCNVN trong quá khứ chắc chắn sẽ gây bất lợi cho Việt Nam. Việt Nam có thể thua kiện.

Theo tôi, để Việt Nam hiện nay có nhiều xác suất thắng kiện, nhà nước Việt Nam cần phải thực thi những thủ tục để “kế thừa” di sản của VNCH trước kia. Chỉ khi nào đứng dưới tư cách người thừa kế chính đáng của VNCH thì danh nghĩa chủ quyền của VN mới được củng cố.

” “Liên minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh, ít ra như Đại Hàn. Vì một Việt Nam nghèo đói sẽ không ngăn cản được TQ mà còn là một gánh nặng cho Mỹ. Chỉ có liên minh với Mỹ về quốc phòng thì VN mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ

Trương Nhân Tuấn”

Riêng về hiệu lực của công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, theo tôi là không thể giải thích theo lối hiện nay. Vì giải thích thế nào thì cũng nhìn nhận nó có hiệu lực, chỉ nhiều hay ít. Mà cách tốt nhứt phải phủ nhận hoàn toàn hiệu lực của nó, bằng cách dựa vào hai Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Theo nội dung hai hiệp định này thì các nước nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia duy nhứt và lãnh thổ toàn vẹn. Vịn vào đó, các tuyên bố, các hành vi nào của một bên nếu xâm phạm đến sự “toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” thì nó vô giá trị.

Mặc Lâm: Ông nghĩ thế nào nếu Việt Nam liên minh với Mỹ? ngoài chỗ dựa vào quân sự thì nước Mỹ sẽ giúp cho Việt Nam các phương tiện như luật sư, kinh nghiệm, luật quốc tế để đối phó với Trung Quốc trên mặt trận pháp lý mà điều này thì Việt Nam cần không kém khả năng quân sự?

Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, mình thấy Việt Nam hiện nay đã đi vào quĩ đạo của Trung Quốc mà việc này dài lâu sẽ giam hãm Việt Nam vĩnh viễn trong nghèo đói và chậm tiến.

Trên quan điểm địa chiến lược của Trung Quốc, nước này chỉ có thể trở thành “đại quốc” khi các nước chung quanh “yếu”, không thể đe dọa được an ninh cũng như sự phát triển của họ.

GDP của Trung Quốc hiện nay lên hàng thứ nhì và ngân sách quốc phòng cũng hàng thứ nhì. Ngân sách này chính thức vào khoảng 150 tỉ đô. Số thật sự có thể lên gấp đôi.

Một cái nhìn khác, Mỹ lại không muốn thấy một “đại cường” Trung Quốc đối trọng với Mỹ trong khu vực. Mỹ không thể tái dựng lại “chiến tranh lạnh” nhằm cô lập Trung Quốc mà chỉ có thể giúp các nước đồng minh như Nhật, Đại Hàn, Phi, Thái Lan… giàu mạnh để thiết lập một hàng rào các nước đồng minh để bao vây Trung Quốc. Việt Nam như thế có hai lựa chọn:

Một là không liên minh với ai hết như hiện nay. Kết quả là nghèo đói và chậm tiến, lãnh thổ mất lần hồi, vì đó là mục tiêu chiến lược của Trung Quốc.

Hai là “liên minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh, ít ra như  Đại Hàn. Vì một Việt Nam nghèo đói sẽ không ngăn cản được Trung Quốc mà còn là một gánh nặng cho Mỹ.  Chỉ có liên minh với Mỹ về quốc phòng thì Việt Nam mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của quốc gia mình.

Ngoài ra, về pháp lý, Hoa Kỳ, với một lực lượng luật gia hùng hậu, cũng là nước duy nhất có thể giúp Việt Nam thắng được mặt trận pháp lý đối với Trung Quốc.

Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà nghiên cứu Biển Đông Trương Nhân Tuấn.