Phải thương lượng với Assad’

Phải thương lượng với Assad’

  • BBC

Hình chụp ông John Kerry gặp ông Assad năm 2010

Hoa Kỳ “rốt cuộc sẽ phải thương lượng” với Tổng thống Syria Bashar al-Assad, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry thừa nhận.

Phát biểu khi kỷ niệm bốn năm nội chiến vẫn chưa kết thúc, ông Kerry nói Hoa Kỳ đang thúc giục Tổng thống Assad tái tục thương lượng.

Hai vòng đàm phán trước đã thất bại.

Ước tính hơn 215.000 người đã thiệt mạng.

Trả lời phỏng vấn tại thành phố Ai Cập Sharm el-Sheikh, ông Kerry nói Hoa Kỳ đang làm việc với phe đối lập ôn hòa ở Syria và theo đuổi biện pháp ngoại giao.

“Chúng tôi đã có trao đổi với nhiều thành phần quan trọng trong bi kịch này,” ông nói.

Nhà Trắng trước đây đòi ông Assad từ chức như giải pháp chính trị, nhưng không rõ tuyên bố của ông Kerry có nghĩa là Mỹ thay đổi lập trường không.

Phóng viên BBC Jonathan Marcus nói bình luận của ông Kerry là dấu hiệu “rõ nhất” rằng Mỹ thừa nhận chính sách của họ về Syria “không đi đến đâu”.

Với sự trỗi dậy của Nhà nước Hồi giáo (IS) ở Syria, nhiều chuyên gia tin rằng nếu ông Assad bị lật đổ, IS sẽ có lợi nhất.

Tiếng nói bí ẩn đưa cảnh sát đến nơi em bé còn sống trong xe rơi xuống sông

Tiếng nói bí ẩn đưa cảnh sát đến nơi em bé còn sống trong xe rơi xuống sông

http://m.f29.img.vnecdn.net/2015/03/09/4-5313-1425869165.jpg

VienDongDaily.Com

Bé Lily và mẹ Lynn Groesbeck

SPANISH FORK, Utah – Theo cảnh sát cho biết, một em bé đã ngồi trên ghế trẻ em trong khoảng thời gian dài 14 giờ đồng hồ, trong một chiếc xe hơi lộn ngược dưới sông, ở nhiệt độ đóng băng. Mẹ của bé đã lái xe rớt xuống một con sông ở tiểu bang Utah vào đêm thứ Sáu.

Trong ngày thứ Hai, sức khỏe của bé gái đã hồi phục và dự đoán sẽ sống.

Lúc đến dòng sông tìm chiếc xe, trước khi biết người mẹ đã chết từ lâu và em bé còn sống, các cảnh sát viên từng nghe tiếng người kêu cứu mà đến nay họ chưa biết xuất phát từ đâu ra. Em bé còn quá nhỏ, chưa thể nói chuyện.

Hôm thứ Hai, trung tá Matt Johnson, thuộc sở cảnh sát Spanish Fork cho biết gia đình của người mẹ lâm nạn đã nói với ông rằng bé Lily Groesbeck, 18 tháng tuổi, đang đỡ hơn. Bé gái được một người đi câu cá ở Spanish Fork tìm thấy, vào trưa ngày thứ Bảy vừa qua. Cảnh sát tin rằng mẹ bé tông xe vào một rào cản xi măng trên một cây cầu, và xe lao xuống sông.

Mẹ của bé là cô Lynn Groesbeck, 25 tuổi, cư ngụ tại Springville, đã được tìm thấy chết trong xe.

Ông Johnson nói rằng cảnh sát không biết nguyên nhân gây ra tai nạn vào đêm khuya thứ Sáu. Ông nói rằng không có dấu hiệu xe bị trượt, hoặc dấu hiệu trục trặc máy móc trong chiếc xe. Không có ai nhìn thấy tai nạn này.

Sau khi nhận được tin, bốn cảnh sát viên đã đem em bé ra khỏi chiếc xe bị lật ngửa giữa một dòng sông cạn ở Utah. Trong nhóm cảnh sát viên này, vài người đã thề rằng họ đã có nghe tiếng ai đó kêu cứu từ nơi chiếc xe, mà khi đến nơi thì họ chỉ thấy bé gái còn sống, không có ai khác.

Khi họ lật nghiêng chiếc xe, họ tìm thấy em bé 18 tháng và mẹ của bé. Người mẹ đã chết từ lâu.

Một trong những người giải cứu là cảnh sát viên Jared Warner. Ông nói với nhật báo Deseret News, “Chúng tôi không biết chắc chắn chính xác nơi mà tiếng nói ấy phát xuất .”

Cảnh sát tin rằng bé gái đã được buộc vào ghế lộn ngược cùng với xe, suốt trong 14 giờ đồng hồ ở sông Spanish Fork, cách chừng 50 dặm ở bên ngoài Salt Lake City.

Một ông đi câu cá đã phát giác chiếc xe và gọi cảnh sát. Cảnh sát viên Bryan Dewitt, một người giải cứu, cho biết ông nhớ rõ mình có nghe một giọng kêu lên “Cứu tôi với,

cứu tôi với .”

Bé Lily và mẹ Lynn Groesbeck

Cảnh sát viên Tyler Beđoes nói,

“Đó không phải chỉ là một cái gì đó chỉ ở trong đầu của chúng tôi. Đối với tôi, nó rõ ràng như ban ngày, vì tôi nhớ đã nghe một tiếng nói. Tôi nghĩ khi nghe giọng nói đó, chính ông Bryan Dewitt cũng đã nói lại, Chúng tôi đang cố gắng. Chúng tôi đang cố gắng hết sức để vào được trong xe .”

Xem thêm:

Lily Groesbeck, 18 months old, survived hanging upside down in a submerged car for 12 hours

Dư luận viên Việt Nam ‘xuất đầu lộ diện’?

luận viên Việt Nam ‘xuất đầu lộ diện’?

Có thể nghe thấy hai bên nhiều lần lớn tiếng miệt thị nhau và có những hành động khiêu khích.

Có thể nghe thấy hai bên nhiều lần lớn tiếng miệt thị nhau và có những hành động khiêu khích.

VOA Tiếng Việt

15.03.2015

Hàng chục thanh niên hôm 14/3 nhảy múa trong tiếng nhạc chói tai trước tượng đài Lý Thái Tổ ở Hà Nội, trong khi nhiều người khác tìm cách tới thắp hương, tưởng nhớ những chiến sỹ ngã xuống trong trận Gạc Ma, dẫn tới lộn xộn.

Video đăng tải trên mạng cho thấy, lẫn trong đám đông có khoảng một chục thanh niên mặc áo phông màu đỏ, phía trước có in hình búa liềm, sao vàng và đằng sau áo có in chữ “Đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc”, kèm theo các chữ cái viết hoa DLV mà nhiều người cho là chữ viết tắt của “dư luận viên”.

Trong các đoạn video, hàng chục người “đi tưởng niệm trận Gạc Ma”, đeo dải băng đỏ trên đầu, trong đó có cả trẻ em và người lớn tuổi, chen lấn, xô đẩy nhau với những thanh niên “bảo vệ đảng cộng sản”, làm náo động cả một góc phố gần Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội.

Ngoài ra, có thể nghe thấy hai bên nhiều lần lớn tiếng miệt thị nhau và có những hành động khiêu khích.

Đây có thể coi là lần đầu tiên những người vốn được coi là “các chuyên gia bút chiến” trên mạng công khai xuống đường.

Hồi năm 2013, một quan chức thành phố Hà Nội đã triển khai đội ngũ chuyên gia “đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến trên Internet chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch”.

‘Bật đèn xanh’

Vụ việc xảy ra trong khi báo chí trong nước đồng loạt đăng tải các bài viết về trận hải chiến với Trung Quốc làm 64 binh sĩ Việt Nam tại bãi Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa ngày 14/3/1988.

Khác với những năm trước, truyền thông trong nước năm nay rầm rộ đưa tin về các buổi lễ kỷ niệm ở nhiều nơi.

Có thể thấy các hàng tít như: “Mãi mãi không quên sự hy sinh của chiến sỹ Gạc Ma”, “Nước mặt Gạc Ma” hay “Gạc Ma bất tử”.

Các buổi lễ diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc những ngày qua có những tuyên bố khẳng định chủ quyền lãnh hải mạnh mẽ, coi biển Đông là “sân nhà” của mình.

Một số nhà quan sát nhận định với VOA Việt Ngữ rằng báo chí do nhà nước quản lý “không thể lên tiếng, nếu không được bật đèn xanh”.

Sau sự kiện gây nhiều tổn thất về người cho Việt Nam 27 năm trước, Trung Quốc đã cho lấn biển, xây dựng trên bãi Gạc Ma, bất chấp sự phản đối từ Hà Nội.

Người gốc Việt có thể là một trong những nguồn cung cấp nội tạng

Người gốc Việt có thể là một trong những nguồn cung cấp nội tạng

Nguoi-viet.com


LONDON (Daily Mai)
“Các cơ quan bảo vệ pháp luật của Anh vừa xác nhận, có một số dấu hiệu người ngoại quốc được đưa vào Anh để lấy nội tạng cung cấp cho những người cần thay nội tạng.” Theo Daily Mail.

Các cơ quan bảo vệ pháp luật của Anh thu thập được những dấu hiệu đó từ năm 2011 và theo Daily Mail thì nạn nhân thường được đưa từ Châu Á, Châu Phi sang Anh và loại nội tạng được cung cấp nhiều nhất là thận, kế đó là gan và tim.


Một khu vực ở Sangatte – miền Bắc nước Pháp, nơi nhiều người chọn để tạm trú trong khi chờ cơ hội vượt biên vào Anh. (Hình: Getty Images)

Một thông tín viên người Việt của RFI, cư trú tại Luân Ðôn, tường thuật rằng, mô tả của báo giới Anh: Nạn nhân thường là những thiếu niên tuổi từ 12 đến 15 – đã khiến nhiều người Việt quan tâm đến tệ nạn này vì có nhiều thiếu niên Việt Nam trong độ tuổi đó đang tìm cách vượt biên vào Anh, bởi nếu vào được quốc gia này, chúng có thể đi học miễn phí, được hưởng sự đãi ngộ rất hào phóng của xã hội và có thể được cho phép thường trú tại Anh để đón cha mẹ sang định cư.

Rủi ro có thể xảy ra cho những thiếu niên Việt Nam – rơi vào tay các tổ chức mua bán nội tạng nằm ở chỗ, những chuyến vượt biên vào Anh thường do các tổ chức buôn người gốc Trung Á điều hành. Tùy loại phương tiện mà chi phí vượt biên có thể từ vài trăm đến vài ngàn Euros và nếu không có tiền, người vượt biên có thể “thanh toán” bằng tình dục hay nội tạng của mình.

Theo ước tính của WHO (Tổ Chức Y Tế Thế Giới), nạn nhân có thể nhận được 15,000 Euros khi bán một trái thận và lúc được bán lại, bệnh nhân cần thay thận có thể phải trả 100,000 Euros.

Cũng theo WHO, khoảng 10% trong số 63,000 vụ thay thận hàng năm trên thế giới lấy thận từ những nguồn không phải do hiến tặng trong cùng một quốc gia. Bởi số người cần thay thận lên tới khoảng 200,000/năm nên thị trường chợ đen về nội tạng hoạt động rất mạnh. Dẫu việc kiểm soát quá trình hiến tặng – thay nội tạng được thực hiện rất chặt chẽ song có không ít bác sĩ cộng tác với các nhóm tội phạm mua bán nội tạng để “làm chui.”

Ðó cũng có thể là lý do dẫn tới khả năng các nhóm tội phạm mua bán nội tạng chuyển cả nạn nhân lẫn bác sĩ đến Anh để thực hiện việc lấy nội tạng đem bán.

Thông tín viên người Việt của RFI tường thuật rằng, Human Tissue Authority – cơ quan chuyên trách về những vấn đề có liên quan đến nội tạng con người tại Anh, cho biết, họ đã can thiệp kịp thời để cứu một phụ nữ Châu Phi, ngay vào lúc một nhóm tội phạm chuẩn bị giải phẫu để lấy nội tạng của cô đem bán.

Bởi là tìm đường nhập cảnh, định cư trái phép, người Việt từ Việt Nam tìm đường sống tại cả Anh lẫn các quốc gia Châu Âu khác đang đối diện với rất nhiều rủi ro, mất tích, chết do đói khát, thời tiết khắc nghiệt, tai nạn và cả do bị giết để lấy nội tạng. (G.Ð)

Thịt thối, cá ươn tuồn vào trường học 14,000 suất mỗi ngày

Thịt thối, cá ươn tuồn vào trường học 14,000 suất mỗi ngày

Nguoi-viet.com

BÌNH DƯƠNG (NV)Không chỉ có vài trăm suất ăn ở trường tiểu học Long Bình, công ty Phú Nhật Hào cung cấp đến 14,060 phần ăn trưa mỗi ngày cho học sinh các trường học khắp Bình Dương.

Tờ Người Lao Ðộng dẫn tin, liên quan đến vụ phát hiện xe tải chở gần trăm ký cá, thịt hôi thối vào bếp ăn của trường tiểu học Long Bình, huyện Bàu Bàng, sáng nay 13 tháng 3, ông Nguyễn Ngọc Hùng, phó chi cục trưởng Chi Cục Vệ Sinh An Toàn Thực Phẩm Bình Dương cho biết, nơi này đã có phúc trình gởi Bộ Y Tế do sự việc khá nghiêm trọng.


Cá diêu hồng bị biến sắc, có mùi hôi thối sẽ được chế biến cho hàng ngàn học sinh ăn trưa. (Hình: Người Lao Ðộng)

Lúc 16 giờ 30 phút ngày 5 tháng 3, theo phản ảnh của phụ huynh học sinh, Ðoàn kiểm tra liên ngành Bàu Bàng và lực lượng liên quan đã tiến hành kiểm tra xe của công ty Phú Nhật Hào, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, Bình Dương, do ông Lê Quang Hoàng (38 tuổi) làm giám đốc, chở nguyên liệu thực phẩm cung cấp cho trường tiểu học Long Bình.

Kết quả trên xe có 72 kg cá diêu hồng có mùi hôi đã qua sơ chế mổ bụng, ướp đá, đựng trong 3 sọt nhựa vuông lớn; 12 kg da heo có mùi hôi đựng trong sọt nhựa không xuất trình được giấy kiểm dịch thú y, chứng từ chứng minh nguồn gốc.

Ngày 12 tháng 3, các đoàn thanh, kiểm tra liên ngành an toàn thực phẩm tuyến huyện, thị xã, thành phố, thuộc tỉnh Bình Dương tiến hành thanh, kiểm tra đột xuất các bếp ăn trường học do công ty Phú Nhật Hào đảm nhiệm.

Qua thống kê cho thấy, công ty này đã ký hợp đồng nấu ăn cho 18 trường, với tổng số: 14,060 phần ăn trưa. Bao gồm: 8 trường ở Bến Cát, với 8,620 suất ăn; 3 trường ở Tân Uyên gồm 2,150 suất ăn; 2 trường ở Bắc Tân Uyên là 620 suất ăn và 5 trường ở Bàu Bàng với 2,670 suất ăn.

Kết quả kiểm tra những bếp ăn trường học của công ty này có nhiều vi phạm: Nhân viên chế biến thức ăn không được tập huấn kiến thức an toàn thực phẩm và khám sức khỏe định kỳ đầy đủ; việc giao nhận thịt, trứng ở các trường không lưu giữ giấy kiểm dịch thú y; Hệ thống thoát nước bên ngoài khu vực chế biến ứ đọng, khu vực nấu ăn có nhiều ruồi… (Tr.N)

Giọt nước mắt

Giọt nước mắt

– Tin nổi bật,

VRNs (15.03.2015) – Sài Gòn -Nước mắt là biểu hiện của nỗi buồn, hiếm khi là biểu hiện của niềm vui như cụ Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” (thi phẩm Cây Thông).

Nước mắt nào cũng mặn, nhưng có nhiều loại nước mắt. Loại nước mắt bị người ta ghét nhất là “nước mắt cá sấu”. Loại nước mắt bị ghét nhất mà lại thường thấy nhiều nhất! Vậy người ta thích loại nước mắt nào? Chắc hẳn loại nước mắt người ta thích là “nước mắt thật lòng” – dù buồn lắm.

150314006

Trong nhạc phẩm “Giọt Nước Mắt Ngà”, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã mô tả: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa, ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu…”. Ở đây là loại tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu cho các loại tình yêu khác. Nước mắt thật lòng luôn buồn, y như người ta vẫn nói: “Sự thật hay mất lòng”. “Giọt Nước Mắt Ngà” của ông Ngô Thụy Miên cũng buồn lắm, dù quý lắm, nhưng giọt nước mắt đó đã hướng thượng: “Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao…”. Màu buồn mà vẫn đẹp, sắc tím mà vẫn lung linh.

Chúa Giêsu cũng đã từng khóc. Ngài xúc động tới ba lần trước cái chết của anh bạn Ladarô. Khi thấy cô Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11:33), đó là lần thứ nhất. Ngài khóc lần thứ hai khi đi đến mộ Ladarô (Ga 11:35). Người Do Thái thấy vậy liền nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”. Khi nghe người ta đặt vấn đề rằng Ngài chữa khỏi chứng mù mà sao lại không thể làm cho Ladarô khỏi chết. Thế là Ngài lại thổn thức trong lòng (Ga 11:38), tức là Ngài khóc lần thứ ba.

Sinh ra ai cũng khóc. Khóc vì “tiên tri” rằng đời là bể khổ, hay là khóc cần thiết cho cuộc sống? Phần cứng được cài đặt sẵn trong máy vi tính là có dụng ý của nhà chế tạo. Nước mắt cũng vậy, chắc hẳn có dụng ý mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xin Chúa cất khỏi chén đắng mà không được, rồi vẫn phải bị te tua tơi tả cho đến chết thê thảm. Và chính Chúa Giêsu cũng đã phải khóc nhiều lần, buồn não lòng, “buồn đến chết được” (Mt 26:38; Mc 14:34) kia mà!

Samuel Beckett (1906-1989, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và thi sĩ Ai-len) có triết lý độc đáo lắm: “Nước mắt của thế gian này luôn bất biến. Nơi này có người bắt đầu khóc thì ở nơi nào đó có một người ngừng rơi lệ. Với tiếng cười cũng vậy”. Tính liên đới rất lạ!

Thật dễ để dùng vạt áo lau khô những giọt lệ, nhưng rất khó để có thể xóa sạch dấu vết nước mắt khỏi trái tim mình. Tuy nhiên, nước mắt lại chính là ngôn ngữ bí ẩn của trái tim, không thể diễn tả được. Vì thế, chúng ta phải cố gắng để có thể biết cách nhìn lại những giọt nước mắt để chúng ta có thể mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn lại những nụ cười vì chắc chắn chúng ta sẽ bật khóc.

Nước mắt tốt cho thị lực, và cũng có lợi cho tinh thần. Nước mắt có thể làm trôi đi nhiều thứ, kể cả tội lỗi. Chúng ta phải khóc nhiều vì tội nhiều, phải khóc cả đời, thế mà vẫn không sạch hết tội.

Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (2 Sb 36:14-16). Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ!

Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:19-21). Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử.

Đó là lịch sử đời thường, cũng như lịch sử ngày nay, mọi sự vẫn diễn biến, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện hữu và luôn theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, “Chúa có mặt trong lịch sử loài người, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi” (*). Một sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) đã xác định: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Và chính nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều có thể tồn tại và chuyển động”.

Cuộc sống có ba thời (thì) chính: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng mà quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, chúng ta chỉ còn hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên hôm qua đi, nó có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta cũng chẳng làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể “rút ra” được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay, và để hướng tới tương lai.

Kinh Thánh hướng về tương lai: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23). Thiên Chúa cũng đang mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh này. Càng dứt khoát càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi càng có lợi.

Trong thời gian lưu đày, tác giả Thánh Vịnh đã than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3). Đang khóc làm sao cười được, đang buồn làm sao vui nổi! Thế mà ngày nay người ta lại có dạng “khóc thuê”, cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ “khấn thuê”, “dâng lễ vật thuê”,… Thần linh cũng đành “bó tay” thôi!

Tác giả Thánh Vịnh than thở: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:4-6). Khi buồn, người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc thôi. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đến nỗi đã “cô đọng” thành sự tĩnh lặng, bất động!

Cuộc đời là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Nếu không có niềm tin, người ta sẽ chết. Quả thật, đã có nhiều người tuyệt vọng trong đau khổ nên đã tự kết liễu đời mình – ở đây không đề cập những người gây tội ác rồi tìm đến cái chết để “chạy trốn”.

Vâng, rất đau khổ nhưng cũng rất hạnh phúc, vì chúng ta còn may mắn lắm. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6). Tất cả là hồng ân, chứ chúng ta có làm được gì, dù có kỳ diệu đến mức nào, cũng chỉ là con số không thật to mà thôi. Đừng bao giờ ảo tưởng về “cái tôi” tồi tệ của mình!

Thánh Phaolô giải thích tỉ mỉ và nhấn mạnh: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:7-10). Mỗi người được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để làm sáng danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu phàm nhân, thế nên chúng ta khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Đừng áp đặt Thiên Chúa theo ý mình!

Ai cũng có nỗi khổ riêng, với loại nước mắt riêng. Nhưng đau khổ và nước mắt đều có giá trị. Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-18).

Muốn hết khổ, chỉ có cách duy nhất là “đi xuyên qua đau khổ”; muốn nhẹ lòng, chỉ còn biết khóc. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Thật vậy, trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã nói với các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho phận mình và con cháu (Lc 23:28).

Thánh sử Gioan cho biết: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:19-21). Những lời này quá rõ ràng!

Để được Thiên Chúa xót thương, chúng ta phải chân thành ăn năn; việc ăn năn được thể hiện qua động thái KHÓC, khóc thật lòng. Chúng ta hãy cùng tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Chúa, xin nghe lời con nguyện cầu, tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe. Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả điếc, vì con là thân khách trọ nhà Ngài, phận lữ hành như hết thảy cha ông” (Tv 39:13). Biết khóc thì chúng ta chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ. Chính Ngài sẽ cứu chúng ta thoát khỏi nỗi buồn bằng cách “lau sạch nước mắt” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết thật lòng khóc cho tội mình, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn cùng Máu Thánh của Chúa Giêsu, vì Nước Mắt của Đức Mẹ, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và cứu chúng con, các tội nhân của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử của cố NS Hùng Lân:

https://www.youtube.com/watch?v=VpUzr0Tli78

Tưởng niệm tử sĩ Gạc Ma 1988 tại Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng

Tưởng niệm tử sĩ Gạc Ma 1988 tại Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng

Tin Việt Nam

VRNs (14.03.2015) – Sài Gòn – Hôm 14.03.2015, nhiều nhóm và cá nhân đã tổ chức kỷ niệm 27 năm biến cố Gạc Ma tại Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng, tuy nhiên những người tham gia sự kiện ở Hà Nội cáo buộc họ bị một nhóm được cho là dư luận viên ‘quấy phá và gây rối’.

Cũng để tưởng niệm biến cố Gạc Ma, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam hôm 103.03 đã tổ chức lễ đặt viên đá xây dựng Khu Tưởng niệm Chiến sĩ Gạc Ma trên mảnh đất rộng 2,5 ha thuộc Khu Du lịch Bán đảo Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa.

Ngày 14.03.1988, HOA LỤC đã sát hại 64 binh sĩ Việt Nam và bắn chìm 03 tàu biển, trong đợt cưỡng chiếm một số bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của VN, trong đó có đảo Gạc Ma.

Hà Nội

Lúc 9 sáng, khoảng 200 người đã đổ về khu vực tượng đài vua Lý Thái Tổ bên Hồ Gươm (Hà Nội) để tưởng niệm sự kiện Gạc Ma và vinh danh 64 tử sĩ.

Cô Mai Phương Thảo chia sẻ, buổi tưởng niệm “rất xúc động khi tất cả được biết là các chiến sỹ [VN] đã tay không tấc sắc khi bọn giặc Tầu nã pháo vào tầu mà đã được lệnh không được chống trả, đây là điều vô cùng đau xót và uất hận, [xác] 64 chiến sỹ hiện vẫn đang nằm dưới đáy biển sâu”.

Cô Thảo cũng cho biết có một nhóm được cho là dư luận viên nhà nước đã “quấy phá và gây rối bằng cách hát hò ưỡn ẹo dưới tượng đài Lý Thái Tổ và gây hấn với những người tổ chức buổi tưởng niệm hôm nay”.

Anh Nguyễn Văn Đề cho biết thêm, đoàn người tập trung ở tượng đài vua Lý Thái Tổ đã bị “đoàn thanh niên cộng sản, trong đó có một số dư luận viên cầm cờ búa liềm ngăn cản không cho đoàn tưởng niệm tiến vào lễ đài”.

Anh Đề nói tiếp: “Vì vậy đoàn tưởng niệm đi sang phía bờ hồ Gươm để diễu hành, lúc đó nhóm dư luận viên cũng sang theo để gây sự. Dù vậy, mọi người vẫn tiến lại phía tượng đài Cảm Tử để tưởng niệm, lúc gần đến nơi thì dư luận viên rút hết, đoàn tưởng niệm tiến đến tượng đài Cảm Tử và đặt lẵng hoa và một người đọc diễn văn”.

Anh Nguyễn Văn Đề nhận xét, tuy bị “ngăn cản phá đám nhưng buổi tưởng niệm vẫn thành công tốt đẹp.

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện cho biết, ông cùng một nhóm người vào sáng 14.03 đã đến Đài Liệt Sỹ Bắc Sơn để tưởng niệm biến cố Gạc Ma. Ông vui mừng vì đoàn không bị ai khiêu khích dù “một số người dí sát máy quay phim từng khuôn mặt chúng tôi”.

Ảnh: Nguyễn Lân Thắng

Ảnh: Nguyễn Lân Thắng

Ảnh: Nguyễn Lân Thắng

Ảnh: Nguyễn Lân Thắng

Sài Gòn

Cũng vào lúc 9 giờ sáng ngày 14.03, khoảng 40 người, trong đó có các thành viên câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng đã tập trung trước tượng đài Trần Hưng Đạo ở bến Bạch Đằng (Sài Gòn) để tưởng niệm sự kiện Gạc Ma.

Giáo sư Tương Lai trong bài phát biểu đã vinh danh sự hy sinh của 64 binh sĩ VN trong việc “bảo vệ chủ quyền lãnh thổ liêng thiêng của tổ quốc”. Ông Tương Lai khẳng định, ngày 14.03 “vĩnh viễn ở trong lòng dân tộc, dù ai đó âm mưu làm mờ nhạt đi”.

Bên cạnh đó, vị giáo sư nói buổi tưởng niệm còn nhằm “lên án, chống lại và kêu gọi toàn dân cảnh giác trước việc HOA LỤC đang xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa” với ý đồ bành trướng.

Nghệ sỹ ưu tú Kim Chi, đang có mặt tại Sài Gòn và là người tham dự buổi tưởng niệm chia sẻ, “Không khí rất cảm động và trân trọng khi nghe Giáo sư Tương Lai phát biểu”.

Tuy nhiên, bà Chi nói thêm, “đứng cạnh tôi có một người rất là quậy và phát ngôn không hay. Anh ta nói ‘đừng có mơ tưởng’, ‘đừng nói dài dòng nữa, dẹp đi’… Tôi quay lại, trừng mắt nhìn anh ta và nói ‘đừng nói bậy bạ’. Sau đó, anh ta im lặng”.

“Công an, an ninh đứng xung quanh đó nhưng không gây rắc rối cho mọi người. Tôi cũng cảm thấy vui. Nếu như những người này cùng với chúng tôi tưởng niệm các tử sỹ thì rất là tuyệt vời”, Nghệ sỹ Kim Chi nhận xét.

Lúc 11 giờ 55, trước hang đá Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp [ĐMHCG] thuộc giáo xứ ĐMHCG – Sài Gòn, linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh và linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại cùng với gần 20 người cũng tổ chức cầu nguyện, dâng hương tưởng nhớ đến các tử sỹ đã hy sinh trong trận Hải Chiến Hoàng Sa 19.01.1974, cuộc chiến biên giới Phía Bắc 17.02.1979 và trận hải chiến Trường Sa 14.03.1988 do cộng sản HOA LỤC đánh chiếm.

Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh chia sẻ: “Về mặt chính trị các tử sỹ phải là người được đất nước ghi ơn, nhưng họ đang bị quên. Về mặt tâm linh thì các vị ấy đã bị bỏ rơi và lãng quên trong suốt thời gian qua. Các vị cũng mong muốn được người thân tưởng nhớ, cầu nguyện, thắp nén hương lòng. Chúng ta hãy nhớ đến các vị trong lời cầu nguyện và lời kinh hôm nay”.

Ảnh: Sương Quỳnh

Ảnh: Sương Quỳnh

Ảnh: Sương Quỳnh

Ảnh: Sương Quỳnh

Ảnh: Anh Kiệt

Ảnh: Anh Kiệt

Đà Nẵng

Tờ Thanh Niên cho biết, sáng 14.03, tại cầu cảng Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải khu vực 2 (Đà Nẵng MRCC), Ban liên lạc truyền thống bộ đội Trường Sa giai đoạn 1984 – 1988 tổ chức lễ tưởng niệm, tri ân 64 chiến sĩ hy sinh bảo vệ bãi đá Gạc Ma, quần đảo Trường Sa trước mũi súng Trung Quốc.

Khoảng 50 cựu chiến binh từng làm nhiệm vụ ở Trường Sa, thành viên Ban liên lạc, cán bộ, chiến sĩ đã và đang công tác tại Trung đoàn 803 (nay là Lữ đoàn 803 công binh Hải quân) đã dâng hương, thả vòng hoa và mặc niệm.

Facebook AnNam Dương Lâm cũng cho biết, “Hội cựu chiến binh Tp Đà Nẵng hôm 14.03 cũng tiến hành kỷ niệm tưởng nhớ liệt sĩ Gạc Ma. Nhưng khi chúng tôi đến thì không được tham dự. Chỉ những cá nhân có giấy giới thiệu hoặc bảo lãnh mới được vào. Thiết nghĩ, việc tưởng niệm các chiến sĩ đã hi sinh vì đất nước thì không nên có sự phân biệt và chia rẽ lòng dân như vậy”.

https:..www.facebook.com.profile.php?id=100008285150205

Linh mục Phan Văn Lợi tại Huế cũng tưởng niệm các tử sĩ Gạc Ma tại gia. Cha nói: “Chung lòng với toàn thể dân Việt. Tưởng niệm những Anh hùng tuẫn tiết. Để bảo vệ mảnh đất giang sơn. Các vị hãy ngàn đời bất diệt!”

Đức Thiện, VRNs

Đời tôi và bao nổi trôi,

“Đời tôi và bao nổi trôi”,

vùi trong thời gian dần khuất nơi chân trời
Bạn ơi, buồn vui sầu bi,

tìm đến, rồi có những lần ướt mi”.

(Paul Anka: Comme d’habitudes – Lời Việt: Nam Lộc: Giòng đời)

(Thư Do thái 13: 1-3)

Trần Ngọc Mười Hai

Ngay câu đầu bài hát nổi tiếng trích-dẫn ở đây, bạn và tôi, ta đều thấy chữ “tôi” với “cuộc đời”, và “bao nổi trôi”, cũng rất trội.

Quả là như thế. Nói đến chữ “tôi” -tôi đây là bần đạo chứ không phải là “bạn đạo” hạy “bạn đọc”- đang ngồi đọc giòng chữ khá mờ nhoè này, thì: quả thật là như thế. Như thế, tức: như thể ca-từ ở đây do nghệ sĩ Nam Lộc viết lời Việt và hát tiếp:

“Rồi bao hàng quán chói trang ở trên thế gian.

Tôi cũng từng bước qua biết bao.

Và có biết bao đời tôi đã bước qua.

Giờ đây nhìn tháng ngày qua.

Đời lững lỡ trôi đôi lúc tôi sai lầm cho dù tôi chỉ mong.

Được mang niềm vui đến với cùng thế nhân”.

(Nam Lộc – bđd)

“Mang niềm vui đến với thế nhân”, là quyết-tâm và quyết-định của bạn và mọi người, chứ không chỉ mình tôi như truyện kể nhẹ ở bên dưới:

“Một bữa tối tại vận động trường Los Angeles nưóc Mỹ, một diễn giả nồi tiếng – ông John Keller, được mời thuyết-trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn-thuyết  bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:

-Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả mọi đèn trong sân vận động này.
Đèn vụt tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông John Keller nói tiếp:

-Bây giờ tôi sẽ thắp lên một que diêm, ai nhìn thấy ánh sáng từ của que diêm đang cháy thì hô to “đã thấy!”.

Một que diêm loé lên, cả vận-động-trường vang dậy tiếng “Đã thấy!”.

Khi đèn được thắp sáng trở lại, ông John Keller giải thích:

–Ánh sáng của hành động nhân ái dù nhỏ như que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.

Một lần nữa, tất cả các đèn trong sân vận động lại tắt ngúm Một giọng nói vang lên:
–Tất cả những người ở đây có ai mang theo diêm/quẹt, xin hãy thắp sáng lên! Bỗng chốc cả vận-động-trường rực sáng ánh diêm quẹt.

Ông John Keller kết-luận:

– Tất cả chúng ta cùng hợp lực nhau lại, có thể chiến thắng được bóng tối, chiến tranh, khủng bố, sự ác và hận thù bằng những đóm nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không là môi trường sống vắng thiếu chiến tranh. Hòa bình không là cuộc sống không tiếng súng. Vì trong giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người lại giết hại nhau mà không cần súng đạn. Đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức, bóc lột nhau mà không cần gây chiến.

Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thật nhiều hành động yêu thương và lòng hảo tâm với  người đồng loại. Hành động yêu thương xuất  từ lòng nhân hậu sẽ như ánh sáng nhỏ của que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng thắp lên ánh sáng nhỏ, thì  hành động yêu thương có đủ sức mạnh để xua tan bóng tối của đau khổ và sự ác. (Tâm Hoa sưu tầm)

Về cuộc sống của tôi và mọi người cũng như của bạn, dù là bạn đạo hay bạn đọc đang theo dõi câu chuyện này, lại cũng có một truyện kể khác do bạn bè chuyền trên mạng, theo dạng thơ-văn nhắc nhiều đến chữ “tôi” bằng tiếng Anh và được người kể phiên-dịch như sau:

“Boil your ego

Evaporate your worries

Dilute your sorrows

Filter your mistake and,

Get taste of happiness”.

“Nấu sôi cái tôi.

Bốc hơi điều lo lắng.

Pha loãng những muộn phiền.

Thanh lọc những lỗi lầm.

Và…

“Nếm hương vị hạnh phúc.”

“Cuối giờ Pháp thoại, vị Giáo thọ tặng chúng tôi bài thơ trên. Một bài thơ tiếng Anh chẳng biết tác giả là ai được dịch ra tiếng Việt như thế. Với tôi, bài thơ hay quá, nó gợi cho tôi nhiều suy nghĩ rất thú vị. Trong cuộc sống, lúc nào ta cũng bị bản ngã trói chặt. Bản ngã có mặt sai sót trong tất cả mọi việc, chen vào mọi ngóc ngách trong quan hệ giữa ta và người. Bản ngã rất tích cực hành động. Tính tích-cực nầy nhấn chìm ta trong bể khổ mà chỉ có ta mới tự chèo-chống để vượt thoát, lướt trên sóng khổ chứ không ai giúp ta hiệu quả hơn bằng nỗ lực của chính ta.

Thật vậy, trong bất cứ tình huống nào cũng thế, cái “tôi” đã xuất hiện theo liền bên, mọi việc mang nhiều hình thể khác nhau để rồi có đúng/sai, hay/dở, khen/chê và cả ngàn thứ “dây mơ rễ má” quấn quít theo sau. Cái “tôi” thật khủng khiếp!…

Cái “tôi” chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ bao la. Một hạt bụi bé nhỏ, khó nhìn thấy bằng mắt thịt, nên hãy để nó rong chơi cùng thứ khác trong không khí, thì mọi sự cũng sẽ khác. Nhưng con người chúng ta lại không để nó như thế. Ta thích thổi phồng cái “tôi” và tự làm khổ mình, khổ người do những nghĩ suy, tính toán, so đo, phân biệt, và do những giận/hờn, yêu/ghét nữa.

Bỗng một hôm, ta nhận ra được vấn đề, bèn “buông xả” dần những vướng mắc, Ta thấy mình chẳng là gì cả, ta là hạt bụi nhỏ đang bay tỏa trong không khí như các hạt bụi khác, cùng lơ lửng trong không gian, chẳng bám vào đâu cả, rất nhẹ nhàng, tự tại. Tất cả mọi toan-tính, so đo, hơn thiệt, phải/quấy, ăn thua, giành giật để có vẫn làm ta nặng nề, nghẹt thở, đã lặn mất. Ta nhìn tất cả bằng con mắt tỉnh giấc. Ta thấy chúng chẳng là gì cả, chúng không “tồn tại”, nhưng có mặt vì ta thấy chúng “có”. Ta chấp nhặt, đặt tên và khai sinh ra chúng. Giờ, thì ta buông xả và khai-tử chúng. Chung quanh ta lại cứ thênh thang. Ta nhẹ nhàng bay lượn trong cõi không rộng mở, thật bao la hạnh phúc, tự do, an ổn Ta nâng chén trà lên uống. Ngụm trà thơm, như thể đang nếm hương vị của hạnh phúc”! (trích điện-thư ê hề trên mạng)

Nói về cái “tôi”, thì nói đến bao giờ cho hết. Nói về cái “tôi” hôm nay, là nói về nhiều thứ khác, cũng tốt cũng đẹp chứ không chỉ là “cái tôi đáng ghét” như ai đó vẫn “gào thét” với nhận-định.

Nói về cái “tôi” có nhiều điều tốt như giòng nhạc được nghệ-sĩ Nam Lộc diễn-tả ở bên dưới:

Bạn ơi thời gian vút qua nếu có lầm lỗi.

Chỉ xin mong được thứ tha biết bao.
Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.
Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời

cho tôi đắng cay lầm than.
Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.
Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.
Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang

đường tôi vẫn bước đi.
Tình yêu niềm vui sầu rơi.
Tràn dâng ngày mới khi thắng khi thua người.
Và khi lệ không còn rơi đời như cuộc chơi

cứ ngỡ đùa rỡn thôi.
Giờ đây dù ai có khen có trách gì nữa đi.
Cũng xin được khắc ghi với tôi chẳng hối tiếc chi

đường tôi vẫn cứ đi.
Dòng đời trôi qua biết bao đổi thay,

nhưng tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi.
Vì tôi đã sống với chính con tim.
Dù cho phút cuối có đến với tôi thì xin
Theo áng mây trôi đời như chiếc lá rơi.

(Paul Anka: Comme d’habitudesbđd)

“Và có biết bao điều xin được thứ tha”, quả thật thấm thía. Thấm thía, đến tận xương tủy hơn cả bài giảng. Lời lẽ thấm thía của bài hát, còn được ca sĩ Paul Anka kể về lai-lịch của nó.

Tâm sự Paul Anka cho biết: ông không là tác giả. Ông chỉ tình cờ đi trên đường phố ở Paris, bất chợt thấy “tay hát dạo” người Thổ Nhĩ Kỳ đang đứng hát để xin tiền. Ông dừng lại nghe thấy hay quá bèn suy-nghĩ: bài này mà được chỉnh-sửa, thì chắc sẽ hay lắm, và nhiều người sẽ biết nó mà cảm-kích.

Nên, Paul Anka  bàn với anh ta mua đứt bản quyền. Paul Anka đã nhiều lần hát bài này bằng lời tiếng Pháp lấy tên là: “Comme d’habitudes”. Nhưng bài này trở-thành nổi tiếng, kể từ khi ca sĩ Frank Sinatra hát phiên-bản tiếng Anh “My Way”, lời nhạc lại hay hơn.” (trích dẫn-nhập của Anthony Trần trong đêm “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney, vào tháng 11/2014)

Dòng đời trôi qua, biết bao đổi thay” cách nào đó, có phải để nói đến những đổi thay khá mạnh bạo mà Đức Phanxicô từng nói với chúng-dân ở Manila hôm 18/1/2015 bằng những câu:

“Hôm nay, nam-giới cũng nên lắng nghe ý-kiến của phụ-nữ, chứ đừng trở-thành người chỉ biết mỗi lập-trường đơn độc, toàn trị từ phái-tính mình. Đức Phanxicô đã có nhận-xét như thế trong lần gặp giới trẻ Đại học ở thủ-đô Manila, nước Phillíppines khi ngài thấy 4 trong số 5 chức-sắc nước này đạo đạt ý-kiến lên ngài, là nam-giới.

Hôm nay đây, tôi thấy sao hầu hết các vị lên đây phát biểu, đều là nam-giới hết. Nhìn kỹ, tôi thấy chỉ một số rất nhỏ đại-diện cho nữ-giới ở đây thôi. Thật quá ít. Nữ-giới cũng có nhiều điều để nói cho ta biết trong xã-hội hiện thời. Nhiều lúc, tôi thấy đàn ông chúng ta rất ư là “độc đoán”, tức: chủ-thuyết chỉ đặt ưu-việt chọn nam-giới mà thôi.

Trên thực-tế, ta không dành nhiều chỗ cho phụ-nữ, thế nhưng nữ-giới vẫn có khả-năng nhìn sự việc dưới góc cạnh khác ta, bằng cặp mắt cũng rất khác. Phụ-nữ cũng có khả-năng đề ra câu hỏi mà nam-giới chúng ta không hiểu nổi.

Đức Phanxicô chờ cho tiếng vỗ tay chấm dứt, rồi nói tiếp: “Tôi nhận xét chính cô bé 12 tuổi đây, chứ không phải 4 vị đại-biểu nam-giới này, là người đưa ra câu hỏi gay-go nhất, hỏi rằng: tại sao Thiên-Chúa không cho phép mọi người bỏ rơi trẻ nhỏ, không ai chăm sóc vậy? Thế nên, tôi đề-nghị điều này: lần tới, nếu có vị giáo-hoàng nào tới Manila, thì cũng mong sẽ được thấy nhiều phụ-nữ hiện diện trong các buổi tiếp-tân như thế này.

Đức Giáo Hoàng còn nói: Trong khi Hội thánh ngăn không cho phụ-nữ làm linh-mục, đó là chuyện dứt-khoát rồi, nhưng Hội-thánh muốn bổ-nhiệm nhiều nữ-tu và phụ-nữ khác vào các chức vụ thâm-niên, kỳ-cựu ở toà thánh La Mã, hơn!” (trích thông tấn xã Reuters đăng trên tờ The Himalayan Times, ngày 19/01/2015 ở Lhasa thủ đô của Tibet, tr. 7)

Đó chỉ là nhận xét rất thông thoáng và phút chốc của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, mà thôi. Nhưng trên thực-tế, hẳn cũng có những sự-kiện và sự việc mang tính khác-biệt rất dễ gây tranh cãi về vai-trò của nam/nữ, hoặc nữ/nam trong một xã hội tưởng-chừng-như-vẫn-chủ-trương “Duy nam-giới” được giữ từ ngàn xưa.

Là nam hay nữ, tất cả đều có thể thực-hiện điều Đức Giêsu răn dạy, trước khi Ngài về với Cha. Là nam hay nữ, đều có chỗ đứng quan-trọng và thiết-yếu trong các vai-trò và chức-vụ thánh-thiêng ở giáo-triều La Mã hay phụng vụ. Đó là điều không thể chối cãi được. Nhưng, có một chuyện đang thành vấn-đề đối với giáo-triều, là: sự khác biệt giữa linh-mục và giáo dân, như lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề-cập một lần nữa, như sau:

Anh chị em thân mến,

Tôi vui mừng chào đón Hội-đồng Giáo-Hoàng về Giáo-Dân họp tại Hội Nghị Thường Kỳ.  Tôi cảm ơn Đức Hồng Y Chủ Tịch vì những lời ngài nói với tôi.

Thời gian qua, kể từ Đại Hội lần trước của anh chị em cho đến nay, là thời gian hoạt động và thực-hiện các sáng-kiến tông-đồ đối với anh chị em.  Trong đó anh chị em dùng Tông Huấn Evangelii Gaudium như văn-bản nền-tảng cho chương-trình hoạt-động và như la-bàn hướng-dẫn suy tư và hành động của anh chị em.

Năm mới vừa bắt đầu, đánh dấu một kỷ-niệm quan-trọng: kỷ niệm 50 năm ngày bế-mạc Công Đồng Vaticăng II. Về vấn đề này, tôi biết anh chị em đang chuẩn bị cách thích đáng một buổi kỷ-niệm ngày ban-hành Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân (Laici Apostolicam Actuositatem).

Tôi khuyến-khích sáng-kiến này, một sáng-kiến không chỉ nhìn vào quá-khứ, mà còn vào hiện-tại và tương-lai của Hội Thánh.” (x. diễn văn Đức Giáo Hoàng dành cho tham-dự-viên Hội-nghị Thường kỳ về Giáo-dân, tại sảnh đường Clementê hôm 7/2/15 Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ)

Thế thì, không cần biết em là ai, con trai hay con gái; mà chỉ cần hỏi: em có thể chứng-thực mình là giáo-dân hay không để được “Đức Thánh–là-Cha” đề-cao bằng “sắc lệnh” rất “Tông-đồ” rồi trao cho em nhiều sự-vụ-lệnh, hầu giải quyết.

Không cần biết em có là con gái hay không; và có đòi làm linh-mục không, để tôi đây lại sẽ đề-cao em, như ai đó từng đề-cao vị anh-hùng của Úc hồi nào, như bức thư đây diễn-tả:

“Harold ‘Pompey’ Elliott thân mến,

Có một thời, tên anh được mọi người biết như bậc anh-hùng hảo-hán, rất hiếm có. Trên thực-tế, dường như tất cả học-sinh ở Úc sống hồi thập-niên 1920’ đều đã từng viết luận-văn về anh. Nay, tôi tự hỏi: không biết được bao nhiêu vị nay còn nhớ đến tên anh nữa đây? Tôi thiết nghĩ, ta cũng nên học nhiều điều từ các truyện kể về anh hơn là: chỉ loanh quanh nói về tài lãnh-đạo của ai đó.

Anh là nhân-vật lịch-sử khá may mắn ở Úc. Nếu tôi được phép dùng từ-vựng mạnh-bạo và can-đảm, tôi sẽ còn nói nhiều hơn thế. Bởi, anh chính là người anh-hùng dám đáp xuống bãi đáp toàn đất bụi ở Gallipôli, chỉ 24 tiếng sau ngày 25 tháng Tư năm 1915. Anh là người vẫn còn hoạt-động cả sau khi hưu-chiến đi vào hiệu-lực, từ 11 tháng 11 năm 1918. Anh bị thương ngay từ ngày đầu tại chiến-trường Gallipôli Thổ Nhĩ Kỳ, nên tôi có thể coi đây như phép lạ nhãn-tiền, từng xảy đến với anh.

Khi anh sống sót trở-thành “anh-hùng” của Thế-Chiến Thứ Nhất, đồng thời là nhà lãnh-đạo thực-thụ của nước này, trong khi chân anh vẫn còn dính bùn đen nơi gót giày.

Là luật-sư hành nghề, anh lại trở nên lão-luyện hơn, không ngại tỏ ra cứng-cỏi với mọi người, đặc-biệt là cấp trên. Mặt khác, có lần anh doạ bắn bỏ người lính ở cấp dưới dám cả gan bật quẹt hút thuốc vào thời-điểm đầy hiểm-nguy. Nhưng ngay lúc đó, người anh/em của người này ở gần bên, cũng doạ bắn trả đũa nếu anh làm thế. Thế mà, anh vẫn không ngại thực-hiện lệnh-truyền. Anh từng khâm-phục thuộc cấp dám lên tiếng chống lại lối sống bê-tha, sa đà của tướng lãnh chỉ huy, thiếu cương-nghị. Anh lại còn dám thăng-chức cho cấp dưới nào hiên-ngang chống lệnh-truyền ban ra theo kiểu ngoại-giao, hoà hoãn.

Anh đã bị bắt-giữ khi nghỉ phép ở Luân Đôn vì dám có thái-độ coi thường vị sĩ quan kia công-khai sống bê bối, dù ông ta là sĩ-quan cao cấp. Tướng-lãnh trong quân-đội là những vị không thể ăn mặc xuề-xoà, giản-dị nhưng anh lại dám sống như thế. Và khi đọc thư anh viết về cho hai người con nhỏ ở nhà mới thấy cuộc sống của thật tuyệt-vời, giản-dị…

‘Pompey’ Elliott hỡi,

Anh từng là lãnh-đạo của nhiều người và nhiều sĩ-quan cấp dưới, nhưng không phải là lãnh-đạo của các con số, dù số ấy đếm thấy nhiều ở đây đó. Là lãnh-đạo, nhưng anh không sợ bày-tỏ sự đau buồn, nuối tiếc khi các sĩ-quan hoặc binh lính cấp dưới từng ngã gục. Và có lần, vị sĩ-quan ở Fromelle đã mô-tả con người anh bằng những giòng chữ, như: Ông ấy từng nói lên, dù chỉ một lời uỷ-lạo đơn-thuần với thương-binh ở nơi này và khen ngợi đôi mắt mờ-nhoè của vị sĩ-quan nào đó, ở nơi khác. Ông chẳng quên sót một ai, dù trên dưới. Ông không nói đến một lời, trên đường trở về tổng-tư-lệnh. Nhưng khi về đến nơi, ông lại đi thẳng một mạch vào bên trong, vùi đầu vào bàn tay, khóc nức nở trước cái chết của đồng đội…”

‘Pompey’ Elliott hỡi,

Anh đau buồn biết khi binh đội của anh trở về sau chiến tranh lại đã đau-khổ nhiều vì các khó khăn trong thời kinh-tế suy-thoái. Ngay chính anh, cũng còn không lấy lại được quân-bình sau chiến tranh nữa. Anh bước chân vào Thượng-viện trong vinh-quang, nhưng nỗi đau-buồn của tâm thân vẫn còn đó xâu xé anh mãi, cho đến ngày buồn vào tháng 3 năm 1931, anh đã tự kết liễu cuộc đời mình, trong đau buồn, tại Malvern rất gần với quê nhà của riêng tôi. Khi tôi kể cho nhiều người biết: nỗi thương-đau tệ-hại nhất của nước Úc là sự mất mát thương vong sau cuộc chiến lại đã diễn ra trong sự lặng-thinh, tĩnh mịch của quận lỵ nhỏ. Và họ đều hiểu những gì tôi muốn nói. Quả là, chiến-tranh vẫn quay trở về với quê nhà, dù các chiến sĩ của ta lại không thế.

Nay trân trọng,

Michael McGirr

(x. Michael McGirr, A letter to Pompey Elliott, Australian Catholics, số Múa Hè 2015 tr. 8)

Thế mới biết, ở thời này, con người thật dễ quên, dù người anh-hùng cái-thế của cả nước như “Pompey” Elliott. Quên sót, cả những chuyện tưởng chừng như không thể như thế.

Thế mới rõ, con người muôn thuở vẫn cứ nhớ những chuyện không nên nhớ.

Thế mới hiểu, tính-khí con người hôm nay, lệ-thuộc vào nhiều thứ, chứ không chỉ mỗi thứ văn-hoá rất không hay sau hơn 4 ngàn năm văn-hiến với văn-minh.

Và, như thế bạn và tôi lại đã nhận ra rằng: người con của đất trời cùng tận ở phía Nam hôm nay, sẽ còn ưu-tư nhiều về những chuyện mà khi xưa ít ai lo lắng, đến như thế. Và như thế, ta mới cảm-thông khi thấy mọi người đều thế cả vào thời hôm nay, rất thực-tế.

Thế mới là chuyện thực-tế, khi bạn và tôi, ta mon men đi vào vườn hoa truyện kể cũng khá nhẹ, để minh-hoạ cho điều mình ưu-tư/lo-lắng rất như trên. Thế mới thấy, rằng: có những truyện kể làm người đọc thấy vui, cứ ngồi cười một mình, như câu truyện do người Pháp nọ kể bằng mẩu đối thoại vụn vặt giữa thày-trò như sau:

“Thày: các trò nghĩ phải làm sao chia đều 11 củ khoai cho 7 bạn, thế?

Trò: Thày cứ luộc rồi xay nhuyễn và chia đều bằng muỗng cho mọi bé, là xong ngay!

Thày: Này em, chia thế rồi, mọi người sẽ bảo tim ta lớn cỡ nào thế?

Trò: Lớn nhỏ vẫn chỉ hai thôi thày ơi.

Thày: Sao chỉ có hai thôi?

Đáp: Bởi, một là của thày và trái kia là của em thôi mà.

Thày: hai bạn đến trường trễ, em thử nghĩ xem mỗi trò nói với thày lý-do nào khiến như thế.

Trò thứ nhất nói: Em đến trường trễ là vì đêm qua nằm mơ thấy mình đi rất xa, về không kịp!

Trò thứ hai bảo: Còn em đến trễ là vì em phải ra phi-trường đón bạn em từ xa về…

Thày: Em kể cho thày biết tên của 5 vật có chứa đựng sữa trong đó.

Trò: Thưa thày cũng dễ thôi. Đó là: một hộp phó-mát và 4 con bò.

Thày: các em nói cho thày biết trước khi ăn các em có làm dấu thánh giá và đọc kinh không?

Trò: Thưa thày không, em thấy không cần làm thế vì mẹ em là đầu bếp thuộc loại giỏi…”

Thày: Năm, nói cho thày biết tên một người cứ nói mãi, dù người khác không muốn nghe, đi.

Trò: Dạ, người đó tên là thày giáo hoặc cô giáo…”

Thế mới biết, con nít còn nhỏ tuổi ngày nay khác với lũ trẻ cùng thời với bạn và tôi cũng rất nhiều. Thế mới hay, ngày nay có viết chuyện phiếm lan man/tản mạn về nhiều chuyện, cũng thấy khó. Khó, là vì nó có thể giống câu trả lời của các trẻ bé nói ở trên.

Thế mới phiền, về đủ mọi chuyện, thì: bạn và tôi, ta cứ hăng say hát tiếp lời ca ở trên, dù sự thể sẽ ra sao đi nữa, vẫn hát rằng:

Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.
Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời cho tôi đắng cay lầm than.
Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.
Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.
Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang đường tôi vẫn bước đi.
Tình yêu niềm vui sầu rơi.
Tràn dâng ngày mới khi thắng khi thua người
Và khi lệ không còn rơi đời như cuộc chơi cứ ngỡ đùa rỡn thôi.
Giờ đây dù ai có khen có trách gì nữa đi
Cũng xin được khắc ghi với tôi chẳng hối tiếc chi đường tôi vẫn cứ đi
Dòng đời trôi qua biết bao đổi thay nhưng tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi
Vì tôi đã sống với chính con tim.
Dù cho phút cuối có đến với tôi thì xin
Theo áng mây trôi đời như chiếc lá rơi.

(Nam Lộc – bđd)

“Tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi, vì tôi đã sống với chính con tim”. Vâng. Lúc nào cũng thế. Bạn và tôi, ta vẫn luôn là bạn và là “tôi”, nếu ta cứ sống với chính con tim của mình. Vẫn cứ quyết-định sống theo lời khuyên-nhủ của bậc thánh-hiền khi xưa vẫn dạy rằng:

Anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ.

đừng quên tỏ lòng hiếu khách,

vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón

các thiên thần mà không biết.

Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích,

chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ;

anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ,

chẳng khác gì mình với họ chỉ là một thân thể.”

(Thư Do thái 13: 1-3)

Tắt một lời, sống trong “giòng đời có nổi trôi”, là sống với mọi người, rất yêu thương. Sống hiếu khách như chính mình cũng đang ở vào hoàn cảnh như thế. Và, sẽ sống mãi với mọi người như “giòng đời”, dù chỉ là người biên-soạn hoặc viết lên lời ca của người-hát-rong-để-kiếm-sống, cũng tầm-thường như mọi người bình-thường trong đời hát dạo.

Hoặc, chỉ như giới-nữ mọn hèn vẫn cứ sống trong nhà Đạo gồm toàn những vị hoặc “đấng bậc” cầm quyền, ở trên cao.

Tóm lại, dù bạn và tôi, ta có quyết-tâm sống sao đi nữa, thì cũng xin cứ đầu-cao-mắt-sáng nhấc lên mà hát như nghệ-sĩ trẻ, những câu như:

Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.

Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời.

cho tôi đắng cay lầm than.

Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.

Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.

Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang.

đường tôi vẫn bước đi.”

(Paul Anka và Nam Lộc – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng đã tâm niệm

những điều như thế mãi

trong đời mình.

Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt

“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt”

Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng, cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòa ra chẳng có một âm thừa”.

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Ưu tư – chót buồn trong mắt, không chỉ là nỗi buồn của thế kỷ. Tay cầm – quờ quạng, có thể là tâm trạng của nhà Đạo, vào mùa chay. Mùa chay hôm nay, có ưu tư thoáng buồn, như tâm trạng của Đức Chúa, nơi trình thuật.

Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, ghi lại tình tự Chúa tỏ bày cho dân con của Ngài, để “tôn vinh Cha”. Điều mà Chúa trả lời cho người đến tìm Ngài, là: tìm Ngài, không có nghĩa chỉ nên tìm ảnh-hình bên ngoài, để nhớ vóc dáng. Như ông Zakêu, lúc đầu làm. Nhưng, “tìm gặp” Ngài, là dấn bước trọn vẹn vào với suy tư. Vào, để hiểu rõ tại sao Ngài chấp nhận khổ đau. Và, chết đi. Rồi, sống lại.

Tựa hạt lúa miến, Chúa phải ngang qua tất cả mọi sự. Qua cuộc đời, ngõ hầu đem sự sống đến với Ngài. Với mọi người. Đây là tiến trình “tự bóc trần”, mà người Hy Lạp gọi đó là kenosis, tức: biến đổi. Biến và đổi, như hạt lúa miến. Nhìn bề ngoài, nó như bị hủy hoại. Nhưng nhờ bị huỷ, nó mới to lớn. Để rồi, sẽ làm giàu cho người khác. Nếu ta không coi và cứ chấp nhận điều đó, như cốt lõi của cuộc đời Đức Chúa, thì rõ ràng là ta chẳng thể tìm gặp và thấy được Ngài, cho đúng nghĩa.

Và, Chúa còn đi xa hơn, khi Ngài nói: chúng ta phải suy tư về mình, như: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn, ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẽ giữ được sự sống, chốn miên trường.” (Ga 12: 25). Lời như thế, phần đông chúng ta thấy khó mà chấp nhận. Khó là bởi, ai cũng muốn chiếm hữu nhiều tiền, nhiều của. Muốn an toàn, yên ổn. Muốn bao đảm có được tương lai ngời sáng. Trong khi đó, Chúa lại bảo: chỉ khi nào chấp nhận bỏ hết mọi sự, và giữ mỗi tình yêu thương phục vụ người khác, thì khi đó, ta mới hoàn thành phần sâu thẳm, của chính ta.

Phục vụ người khác, là đến với Chúa. Đến, để ra đi theo cung cách Ngài dạy:“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy. Và, Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó.” (Ga 12: 26) Dấn bước theo cung cách Chúa hành xử, là đi với Chúa. Và, có Mẹ cùng đi . Mẹ và ta, cùng tiến bước lên đồi ngọn Calvariô. Tiến và bước, đến bất cứ nơi đâu. Đi bất cứ chỗ nào. Đi và đến, chấp nhận mọi điều/mọi thứ xảy ra, với ta.

Vấn đề thêm nữa, là: ta đã sẵn sàng ở vào tình huống “đi và đến” ấy chưa? Hay vẫn cứ lo sợ mọi sự xấu/ác thần, xảy đến với ta? Đi và đến, có là đòi hỏi lớn, từ Đức Chúa? Với Chúa, chuyện này cũng dễ thôi. Nhưng, với ta? Dù sao, cũng nên nhớ đến thư thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Do Thái, có nói rõ: “Đức Giêsu giống hệt như ta trong mọi sự, trừ tội lỗi.”

Vậy nên, đừng nghi hoặc. Bởi, vào khi Chúa khuyên nhủ ta làm điều gì, vì Chúa cũng mang tính người như ta, nên Ngài cũng sầu buồn, lo ngại. Vì lo, mới thốt thành lời: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này?” (Ga 12: 27) Nhưng, điều Chúa muốn bày tỏ là lời cầu Ngài đã thực hiện sau Tiệc Giã Từ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho đi chén này qua khỏi Con!” (Mt 26: 39)

Bài đọc 2, ta thấy thánh Phaolô dùng lời lẽ rất xúc động, khi thánh nhân có thư cho giáo đoàn Do Thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức giêsu đã lớn tiếng kêu van cùng nước mắt mà dâng lên lời nguyện cầu nài xin Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết.” (Dt 5: 7)

Mọi sự xảy đến, đều dễ xảy ra với Chúa hơn với ta. Với Chúa, chuyện chỉ xảy đến sau chuỗi ngày dài nguyện cầu, ở Vườn Dầu. Xảy vào lúc, Ngài sầu buồn đổ mồ hôi, cùng rướm máu. Hãi hùng. Hãi đến độ Ngài đã lên tiếng: “Song, không phải như ý Con, mà như ý Cha.” (Mt 26: 39) Và, thánh Phaolô, còn nói rõ hơn: “Dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Và từ đó, “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ cho những ai tùng phục Ngài.” (Dt 5: 9)

Chính vào lúc Chúa hoàn toàn tuân phục Cha, thì vinh quang của Cha đã khởi sắc, ngang qua Ngài. Rất chói lọi. Và, Ngài kêu lên: “Đã hoàn tất.” Với thánh Gio-an, câu này có nghĩa: khoảnh khắc có sự chết là khoảnh khắc vinh quang, về với Cha. Hạt giống có chết, mới đâm hoa. Kết trái. Đậu quả.

“Phần Tôi, khi được giương cao khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” (Ga 12: 32) , giương cao ở đây, ý nói: việc Đức Chúa được đưa lên cao, trên khổ giá. Đồng thời, cũng có nghĩa: Ngài được nâng nhấc về với vinh quang của Cha. Bởi thế nên, nếu ta trọn vẹn dâng cao mình cho Đức Chúa theo cung cách tương tự, thì vinh quang Chúa cũng sẽ chờ đợi, đến với ta.

Và như thế, hôm nay ta có muốn tìm gặp Chúa, cũng không nên theo cung cách hời hợt bề ngoài. Nhưng, hãy học đòi tìm cách thức tư riêng mà nguyện cầu. Cầu, cho ân sủng Người được thấm nhập tận phần sâu thẳm, ở trong ta. Cầu và mong, những gì ta gặp thấy, sẽ trở nên thị kiến cuộc đời. Thị kiến giúp ta sống. Nhờ Chúa nâng cao, để mọi sự trôi qua đi, là vì tình thương yêu Ngài dành hết cho mọi người. Để, gọi mời ta cùng với Ngài đi chung một lối. Đi cùng mọi người.

Ta cũng hãy nguyện cầu, để có được lòng quả cảm và tín thác. Tín thác như Ngài đối xử với Cha. Tức, cần khám phá ra nhiều thứ. Khám phá, để rồi cuộc sống, niềm hạnh phúc và sự tuân phục giúp ta đi vào hành trình. Ở nơi đó, ta sẽ gặp thấy qui cách khiến mọi việc trôi chảy. Để Chúa hoạt động, nơi ta. Và cho ta.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Ðức Giáo Hoàng Francis muốn tại vị chỉ một thời gian ngắn

Ðức Giáo Hoàng Francis muốn tại vị chỉ một thời gian ngắn

Nguoi-viet.com

VATICAN CITY (NV)Ðức Giáo Hoàng Francis hôm Thứ Sáu nói rằng ngài tin là ngôi vị giáo hoàng của ngài sẽ ngắn ngủi và rằng ngài cũng sẽ sẵn sàng từ nhiệm như vị tiền nhiệm, thay vì ngồi trị vì cho đến hết đời, theo tin của Reuters.


Ðức Giáo Hoàng Francis suy niệm trong một Thánh lễ. (Hình minh họa: Alberto Pizzoli/AFP/Getty Images)

Trong cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Mexico, Televisa, nhân đánh dấu năm thứ hai ngày được chọn làm chủ chăn Giáo Hội Công Giáo thật bất ngờ, vị giáo hoàng người Argentina nói ngài cũng “không thiết làm giáo hoàng,” mà muốn được đi ra Rome kiếm pizza ăn và không bị ai để ý.

Ngài nói: “Tôi có cảm tưởng thời gian làm giáo hoàng của tôi sẽ ngắn ngủi, bốn hoặc năm năm, ngay cả hai hay ba năm gì đó thôi.”

Ðức giáo hoàng nói tiếp: “Tôi cảm thấy như Thượng Ðế muốn đặt tôi ngồi đây chỉ trong một thời gian ngắn.”

Vị giáo hoàng 78 tuổi và có vẻ còn mạnh khỏe nói: “Tôi muốn chia sẻ với ý tưởng của Ðức Giáo Hoàng Benedict.”

Năm 2013, cựu Ðức Giáo Hoàng Benedict trở thành người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo đầu tiên trong 600 năm từ nhiệm, thay vì tại vị tới khi qua đời.

Ðức Giáo Hoàng Francis nói: “Theo tôi nói chung thì Ngài Benedict đã can đảm mở lối cho các giáo hoàng tương lai. Không nên xem trường hợp của ngài là một ngoại lệ mà là một quán lệ.”

Tuy nhiên, Ðức Giáo Hoàng Francis cũng không thích ý tưởng tự động về hưu ở một tuổi cố định, ví dụ ở tuổi 80. (TP)

Xem thêm:

Đức Giáo hoàng nhớ sự tự do, tỏ ý muốn về hưu sớm (VOA)

SAO NỠ LÒNG

SAO NỠ LÒNG

Nguyễn Thị Thanh Dương

Bà Thục đậu xe xong thong thả đi lên lầu 2 bằng thang bộ, bà vẫn thích thế để thêm dịp vận động cơ thể, hơn là dùng thang máy cho tiện nghi và mau chóng.
Unit 1 phòng ngủ của bà trong khu apartment này được thiết kế gọn xinh, địa điểm lại gần khu thương mại Việt Nam cũng như chợ Mỹ nên bà rất vừa lòng.
Bà Thục thay quần áo và nằm ra chiếc ghế mây nghỉ ngơi, bà vừa ra chợ Việt Nam vào dịch vụ gởi tiền để chuyển 10,000 đồng về cho người em trai. Thế là bà đã làm tròn lời hứa hẹn với em và với tình cảm trong con người bà, lòng bà thảnh thơi, nhẹ nhỏm và vui mừng khi nghĩ đến gia đình em trai, chắc là vợ chồng con cháu họ đã sung sướng biết bao nhiêu.
Bà Thục thuê căn apartment với giá trợ cấp của chính phủ dành cho người có lợi tức thấp kể từ khi bà đủ tuổi về hưu 2 năm nay, bà sống ở Mỹ đơn độc không chồng, không con, mà ở Việt Nam cũng chẳng còn ai thân thích gần gũi ngoài gia đình ông Thức, đứa em trai duy nhất, cha mẹ bà đã lần lượt qua đời kể từ khi sau 1975.

Ngày xưa gia đình bà nghèo, nhưng cha mẹ bà cũng chắt chiu nuôi 2 chị em bà ăn học, đứa con gái là bà học hành chăm chỉ giỏi giang bao nhiêu thì thằng em học hành vừa lười vừa dở bấy nhiêu.

Cô Thục đã trở thành 1 dược sĩ. Cô dược sĩ Thục ngày ấy đã đi làm và phụ giúp cha mẹ đắc lực trong cuộc sống hàng ngày, còn Thức học không xong, thi rớt Tú Tài Thức đi lính, ngành tác chiến nay đây mai đó. Cô Thục thương em lận đận, mỗi khi em về phép ngoài các món ngon nấu cho em ăn, cô còn cho em tiền khi trở lại đơn vị.
Cô Thục không mấy xinh đẹp, có bằng cấp, ngành nghề sáng giá, nên hình như đó là những lý do khiến các chàng trai không thích đến gần, và cô miệt mài hi sinh cho gia đình nên hầu như không có cơ hội đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Tuổi xuân trôi qua lúc nào không hay.
Sau 1975 cũng như bao nhiêu gia đình khác, cuộc sống nhà cô Thục trở nên chật vật khó khăn, rồi Thức lấy vợ sinh con, bấy nhiêu người sống cùng trong một nhà đã trở nên chật chội và tài chính càng lúc càng khó khăn hơn.

Năm 1989 cô Thục đi vượt biên tìm tự do và thêm lý do không kém phần quan trọng là vì kinh tế để có thể giúp đỡ gia đình hữu hiệu hơn, chuyến đi vượt biên cuối mùa đã khiến Thục phải chờ đợi ở Thái Lan hơn 4 năm sau khi đậu thanh lọc mới được phép đến Mỹ định cư.
Sang Mỹ ở lứa tuổi về chiều, 49 tuổi rồi, Thục chợt nhận ra mình đã lãng quên chính mình hơn nửa đời người, học lại thì không thể mà lấy chồng cũng không xong.
Cô Thục đã đi làm những công việc trong hãng xưởng để có tiền sinh sống và gởi giúp tối đa những đồng tiền của mình kiếm được về gia đình ở Việt Nam.
Rồi cô Thục cũng lấy chồng.
Nhưng chỉ là một cuộc hôn nhân gượng gạo, cố gắng kéo dài được mấy năm cho có đôi, có cặp thì người chồng đã chia tay trả Thục trở về vị trí độc thân như cũ, thế là cô Thục già chấp nhận duyên phận thiệt thòi hẩm hiu, ở vậy cho đến giờ.

Thỉnh thoảng bạn bè cũng có ý giới thiệu cho bà một ông độc thân góa vợ nào đó, để đỡ đần và bầu bạn cùng nhau cho vui nhà, nhưng bà từ chối ngay, đời chắc gì vui, duyên chắc gì may? lỡ gặp ông khó tính khó nết, hay ông ngã ra ốm đau bệnh hoạn nằm một chỗ thì bà phải hầu hạ, còn nếu ngược lại bà ốm đau nằm một chỗ chưa chắc ông kia hầu hạ được gì.
Cuộc sống độc thân tuổi về hưu tuy có lúc buồn mà thảnh thơi, hàng ngày bà xem các phim truyện trên ti vi vừa để giải trí vừa để duy trì tiếng Anh của mình, rồi nghe nhạc, đọc sách, một đam mê ngày cô Thục còn trẻ để tìm lại cảm giác thú vị của ngày xưa.
Với đồng lương lao động tằn tiện bao lâu nay bà Thục cũng để dành được một món tiền, bà cất kỹ trong nhà băng.

Từ ngày về hưu bà sống bằng những đồng tiền hưu trí của mình cũng gọi là đủ, vì bà không có nhu cầu gì nhiều ngoài hàng năm vẫn gởi chút tiền về Việt Nam cho gia đình Thức hiện vẫn sống tại căn nhà cũ, nơi xóm nghèo xưa do cha mẹ để lại.
Xưa bà Thục thương thằng em vất vả đời lính, nay lại thương em vất vả cảnh nghèo, nên bà vẫn không ngừng gởi về đỡ đần cho em.
Bà Thục đã đưa chồng về thăm Việt Nam 1 lần để giới thiệu chồng với gia đình mình. Sau cuộc hôn nhân gãy đổ bà buồn chán và tủi thân, không có ý định về Việt Nam nữa. Nhưng những chuyện buồn vui của cuộc sống nơi xứ người bà vẫn tâm sự với người em ruột thịt của mình cho vơi nhẹ lòng, hai chị em đã luôn gần gũi từ thuở ấu thơ đến khi khôn lớn và cho đến bây giờ cả hai cùng tuổi xế chiều.

Bà kể từ chuyện bà bị bệnh cao máu, cao mỡ, và bệnh cườm mắt, phải uống thuốc và nhỏ mắt mỗi ngày mấy lần cho đến hết cuộc đời, đến những chuyện vặt vãnh hàng ngày. Từ chuyện bà về hưu và tiết kiệm xin được ở nhà giá rẻ dành cho người già, xin được tiền food stamp, đến chuyện bà dành dụm được món tiền phòng thân sau này.
Tóm lại bà Thục hài lòng với cuộc sống vật chất bảo đảm, dù cô đơn một mình một nhà.
Mới đây ông Thức đã gọi phone cho bà và tha thiết đưa ra một đề nghị mong chị giúp đỡ, thay vì chị gởi cho chút tiền mỗi năm và mỗi khi gia đình em cơ nhỡ thì em xin chị giúp hẳn một món tiền để có vốn làm ăn là 10 ngàn đô la.

Bà Thục đã suy nghĩ rất kỹ, bà đã gìa rồi và một ngày nào đó sẽ chết đi, số tiền dành dụm tuy không nhiều, nhưng là tất cả mồ hôi công sức của bà phải được hữu ích cho người thân của mình. Bây giờ họ đang nghèo khổ, họ đang cần tiền. Thế là bà Thục đồng ý
Và hôm nay bà đã làm xong nhiệm vụ thân thương ấy.
Hai hôm sau bà Thục nhận được phone của ông Thức, người em hoan hỉ báo tin đã nhận 10 ngàn đô của bà và không tiếc lời cám ơn chị. Lòng bà Thục ấm lên, vui lên, nhiều gấp cả chục lần niềm vui của người em.

Từ nay bà Thục sống thanh thản hơn dù món tiền dành dụm của bà đã vơi đi, bà sẽ viết lại một tờ di chúc nếu sau này bà chết, sau phần chi phí cho hậu sự, còn bao nhiêu, dù ít ỏi, nhờ người ta gởi những đồng tiền còn lại về cho Thức.
Vậy mà 3 tháng sau ông Thức gọi phone sang, bà Thục chưa kịp vui mừng hỏi han em đã làm ăn gì chưa thì ông Thức buồn rầu tuyên bố:
– Chị ơi, nhà em mới vừa bị kẻ gian đột nhập xông thuốc mê và lấy cắp hết 10 ngàn đô rồi !
Bà Thục bàng hoàng nghe em nói tiếp:
– Chị có thương em, thương các cháu chị, thì xin chị giúp em lần nữa…
Bà Thục không còn sức cầm lấy chiếc điện thoại nữa, bà buông phone và buông người ngồi phịch xuống ghế như một kẻ không hồn.
Bà đã mất ăn mất ngủ mấy ngày đêm, 10 ngàn đô là bao công lao và tấm lòng của bà gởi về, thế mà bị mất đi một cách gọn gàng êm thắm, nhẹ tênh như bông gòn, như mây bay, gió thoảng, hay như một trò đùa, một màn kịch vụng về không hơn không kém.

Bà không thể nào tin được.
Nhưng em trai bà nỡ lòng nào dựng lên màn kịch này để lừa dối bà, để xin thêm tiền của bà? Bà dằn vặt tự hỏi và không thể trả lời.
Cuối cùng bà Thục quyết định sẽ về Việt Nam bất ngờ, đối diện với em mình để tìm hiểu sự thật cho ra lẽ.

Từ phi trường Tân Sơn Nhất, bà Thục thuê xe Taxi đưa bà đến một khách sạn tại Gò Vấp, bà biết căn nhà cũ sẽ không có chỗ thoải mái cho bà vì theo lời ông Thức kể bấy lâu nay là hai đứa con đã lập gia đình và một đứa còn độc thân đều ở chung với vợ chồng Thức, nhà đất ở Việt Nam rất đắt đỏ, Thức tiền bạc đâu mà lo cho các con chỗ ở riêng.
Cuộc sống là sự tuần hoàn như cây cối, già cỗi thì chết đi, cây con thì sinh sôi nẩy nở…xưa căn nhà ấy có cha mẹ và 2 chị em bà, nay căn nhà ấy đã đông hơn, thêm lên mấy đầu người rồi.

Buổi chiều hôm sau bà Thục tìm về xóm cũ tại khu cầu hang quận Gò Vấp.
Khu xóm nay đã đổi khác rất nhiều nhưng bà làm sao quên được lối cũ, cảnh xưa. Kia vẫn là đường rầy xe lửa dẫn đến ga Xóm Thơm, và bên này là nhà cửa chen chúc.
Bà vừa đi vừa dò tìm theo những dấu vết cũ, cuối cùng bà Thục cũng tìm ra đúng số nhà, nhưng đứng trước căn nhà bà kinh ngạc, không tin đây là sự thật vì căn nhà to đồ sộ và cao ngất 4 tầng lầu, chứ không phải là căn nhà trệt tầm thường ngày xưa cô Thục từng ở từ thuở sinh ra đến khi lớn lên với cha mẹ mình nữa.
Bà ngại ngần, bà ngẩn ngơ, không dám gõ cửa, mà đi ra một quán nước ở đầu con hẻm, đối diện xéo xéo với nhà ông Thức, bà gọi một ly nước uống để định thần lại cho tỉnh táo, kẻo bà tưởng mình đang mơ.

Hay là bà đã nhìn lầm số nhà? Không, chắc chắn là không vì bà đã nhìn kỹ mấy lần rồi.. Hay là em trai bà đã bán nhà cho người khác? Cũng không, vì bà mới gởi số tiền 10 ngàn đô về địa chỉ nhà này.

Khi cô hầu bàn bưng ly nước ra thì bà Thục vờ hỏi bâng quơ:
– Căn lầu 4 tầng kia sao mà đẹp thế…
Cô gái vui vẻ tiếp chuyện:
– Dạ, bởi vì căn lầu đó ông bà Thức mới xây vài năm nay, kiểu đẹp, nhà mới nên ăn đứt mấy căn lầu khác.
– Ông bà Thức giàu có sướng thật…
Cô hầu bàn xuýt xoa:
– Ông Thức còn xây cho hai đứa con có gia đình ra ở riêng mỗi đứa một căn lầu tương tự căn này nữa đó. Căn này thì ông bà ở chung với thằng Út còn độc thân. Ba cha con ông Thức cùng làm chủ một xưởng cưa gỗ xuất khẩu, giàu có lắm lắm luôn, nhất xóm luôn.
Bà Thục cũng xuýt xoa:
– Số họ thật may mắn, làm ăn thành đạt nhỉ.
– Còn nữa bác ạ, nghe nói mới đây người thân ở nước ngoài gởi cho họ 10 ngàn đô nữa cơ, đã giàu có mà tiền ở mãi đâu cứ tự nhiên chảy vào túi.
Thế là bà Thục đã hiểu, gia đình ông Thức đã ăn nên làm ra từ lúc nào nhưng Thức không hề kể cho bà nghe, mà vẫn chăm chỉ than thở xin xỏ bà dù mỗi lần chỉ vài trăm đô, và cuối cùng là món tiền 10 ngàn đô. Nhưng họ chưa chịu dừng lại ở đó, lại nói bị mất cắp để xin thêm, có lẽ vì thấy bà đồng ý cho 10 ngàn đô dễ dàng quá chăng?
Ông Thức biết bà không có ý định trở về thăm Việt Nam nữa, bà ngại đi xa vì đi đâu cũng phải mang theo mấy loại thuốc men lỉnh kỉnh như con mọn, lại sợ ngã bệnh bất ngờ, và vì nơi đó những kỷ niệm buồn nhiều hơn vui, nơi đó cha mẹ bà đã không còn nữa, thằng em trai của bà đã gìa đi, và các cháu thì dường như xa lạ. Bà chỉ liên hệ với họ qua phone và gởi tiền về giúp em, giúp cháu khi cần thiết là đủ vui rồi.

Bà Thục thất vọng không ngờ em bà đã đổi thay đến thế, nó đã lợi dụng lòng tốt và tình thương của bà dành cho nó từ thuở còn thanh xuân cho đến giờ..
Bà Thục giận lắm, định quay trở về khách sạn, không gặp em, không bao giờ gặp nó nữa, bà sẽ trở về Mỹ và quên đi thằng em đã đối xử với bà không còn tình nghĩa. Nhưng sau khi uống hết ly nước, lòng tự giằng co, bà vẫn quyết định đến nhà ông Thức.
Bà bấm chuông cổng, tiếng chó sủa inh ỏi rồi có người ra mở cổng. Chính là Thức, ông ta ngơ ngác nhìn bà chị rồi thảng thốt kêu lên không biết vì vui mừng hay vì kinh ngạc như bà đã kinh ngạc khi nhìn thấy ngôi nhà:
– Trời ơi, chị Thục hả?
– Vâng, tôi là Thục đây.
– Trời ơi, sao chị về không báo trước để em và các cháu ra phi trường đón ?
Bà theo chân em vào nhà, căn phòng khách rộng lớn với đồ đạc bóng bẩy sang trọng làm bà Thục chóa cả mắt vì bà quen với phòng khách nhỏ gọn ở căn apartment của bà rồi. Từ bộ bàn ghế, vách tường, đến kệ trang trí đều là sản phẩm của gỗ qúy với kiểu dáng đẹp, sành điệu và qúy phái, đúng với phong cách thành đạt của ông chủ kinh doanh đồ gỗ xuất khẩu.
Vợ ông Thức cũng từ dưới nhà chạy ra hớn hở:
– Chị về chúng em mừng quá, hành lý chị đâu? Nhà em rộng rãi xin mời chị…
– Cám ơn em, chị không biết nhà đã xây lại rộng đẹp thế này nên đã ở khách sạn rồi
Sau vài câu thăm hỏi thông thường, bà Thục buồn buồn và nghiêm trang đi vào vấn đề:
– Các em đã làm ăn khá giả, có cơ ngơi thế mà không cho chị biết để chị mừng với, mà còn gây cho chị cảm tưởng là các em vẫn nghèo khó như xưa và xin chị món tiền 10 ngàn đô là thế nào?.
Ông Thức vội lên tiếng bào chữa:
– Nhờ trời thương gia đình em mới phất lên những năm sau này. Em xin lỗi chị, chỉ vì muốn vun đắp tom góp cho con cháu em mới xin tiền chị…
Bà Thục cay đắng:
– Kể cả việc em bịa đặt ra bị mất 10 ngàn đô để xin thêm lần nữa? em tưởng chị giàu có lắm sao?. Chị đã chắt chiu bao lâu mới để dành được số tiền ấy.
Ông Thức cố giải bày:
– Dù gì cuộc sống bên Mỹ chị cũng được bảo đảm lúc tuổi gìa, nhà nước lo hết, có đồng vốn nào chị không cho các cháu thì cho ai bây giờ? Cho trước thì khỏi cho sau, con cháu em cũng như con cháu chị…
Vợ Thức xen vào cho câu chuyện chuyển sang hướng khác:
– Nếu chị muốn về sống ở Việt Nam thì chúng em mời chị về đây ở chung căn nhà này như ngày xưa. Bây giờ những 4 tầng lầu, chị cứ ở hẳn 1 tầng tha hồ rộng rãi, lại có chị có em…
Tình chị em gì khi mà họ đang sống trong giàu có, vợ chồng, con cháu đông đủ quây quần bên cạnh mà vẫn moi móc những đồng tiền dành dụm của bà, một người gìa sống đơn độc nơi quê người, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng trông chờ vào xã hội, vào người dưng giúp đỡ, hơn nữa bà Thục không bao giờ có ý định về sống ở Việt Nam nên bà từ chối ngay:
– Chị ở Mỹ quen rồi, ở đấy có mọi tiện nghi và lợi ích, về đây khỏe mạnh thì không sao, lỡ ốm đau sao bằng bên Mỹ được.
– Chị nghĩ thế cũng phải, nhưng bất cứ lúc nào chị thay đổi ý định thì cứ trở về, chúng em luôn chờ đón chị.
– Cám ơn hai em.
Khi bà Thục đứng lên từ gĩa vợ chồng ông Thức, người em ái ngại cầm bàn tay chị, cố biện minh lần nữa:
– Mong chị hiểu cho chúng em, đằng nào những món tiền dành dụm chị không cần tới, mà bên này thì con cháu đông, công việc làm ăn lúc này lúc khác chẳng biết đâu được, chị bên ấy một thân một mình, có đồng nào cho các cháu là chắc chắn nhất, không đi đâu mà thiệt chị ạ.
Vợ ông Thức vẫn ngọt ngào mời chào:
– Mỗi ngày chị đến ăn cơm với chúng em và các cháu cho vui nhé? chị đồng ý đi để ngày mai em làm món ngon đãi chị.
– Ừ, mai chị sẽ đến đây, chị ăn thế nào cũng được mà…
Vợ chồng ông Thức gọi xe taxi đến và vui vẻ tiễn chân bà Thục ra cổng, đợi người chị vào xe họ mới quay vào nhà.
Bà Thục ngồi trên xe, quay nhìn ngôi nhà lầu 4 tầng lần nữa, từ trong đáy lòng bà Thục vui mừng khi thấy cảnh nhà em trai giàu có, và cũng từ trong đáy lòng bà cảm thấy một sự đổ vỡ, tan nát. Đôi mắt bà rưng rưng nhỏ lệ.…
Bà biết rằng ngày mai, cũng như mỗi ngày sau đó, trong thời gian còn ở Việt Nam, bà sẽ đến đây ăn cơm với em, với các cháu.
Đấy vẫn là tình cảm, là tình ruột thịt bà dành cho họ, bà không nỡ quay mặt với họ, dù rằng bà đau đớn vì mất đi hình ảnh người em ruột thân thương gần gũi ngày xưa, dù rằng bà xấu hổ giùm người em ruột tham lam, tính toán và ích kỷ bây giờ.
Và nỗi đau đớn ấy, sự xấu hổ ấy sẽ theo bà về Mỹ, và theo bà cho đến hết cuộc đời …

Nguyễn Thị Thanh Dương

Lâm Kim Trọng gởi

VÂNG LỜI TIẾNG LƯƠNG TÂM

VÂNG LỜI TIẾNG LƯƠNG TÂM

Mùa Chay, nếu chỉ nhìn bề ngoài thì khó ai có thể nói là vui thích được, bình thường đó là bốn mươi ngày chúng ta phải từ bỏ những gì chúng ta ưa thích, cho dù điều đó là do chúng ta tự ý làm hay do một sự ép buộc nào đó.  Chung qui, chúng ta cũng phải từ bỏ một điều chúng ta thích.  Và ngay cả trên bình diện đức tin, chúng ta tự ý để cho mình phải chịu một chút hy sinh, từ bỏ những tiện nghi và có thể những đau đớn một chút với mục đích là chúng ta muốn thanh luyện, thánh hóa toàn thân và canh tân tinh thần, canh tân tâm hồn.

Lý do nền tảng của những việc mà chúng ta làm trong tinh thần sám hối của mùa Chay là vì chúng ta chiêm ngắm những đau khổ của Chúa Giêsu đã chịu vì yêu thương chúng ta.  Vì thế mà Ngài đã bị hành hạ đau khổ đến mức tột cùng để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã chết trên thập giá vì chúng ta. Chúa Giêsu đã mang lấy tất cả những đau khổ đó vì nhân loại và vì bản thân của mỗi chúng ta.  Người không phải chịu đựng những đau khổ đó nhưng Người đã phải cưu mang tất cả vì chúng ta.  Chính nhờ sự cứu chuộc của Người mà chúng ta được chung hưởng vinh phúc trên thiên đàng, niềm vinh phúc mà Ađam và Eva đã đánh mất khi sa ngã phạm tội và cắt đứt tình nghĩa với Chúa.

**********************************

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những người phải chịu nhiều đau khổ.  Chúng ta muốn giúp họ nhưng chẳng biết phải nói làm sao, cũng chẳng biết phải làm gì để gúp họ vơi đi những khổ đau.  Ðứng trước những hoàn cảnh như thế, chúng ta cảm thấy mình vừa bất lực vừa lo âu, nhất là khi chúng ta đối diện với sự qua đời của một người thân.  Có lẽ lúc đó điều chúng ta có thể làm là khóc với họ.

Có lần tôi đã chứng kiến cảnh người mẹ trẻ quá bối rối vì không thể làm gì hơn là cứ phải đứng nhìn đứa con nhỏ của cô đang khóc lóc, vì bàn tay bị bỏng phỏng giộp lên.  Cô không biết làm cách nào để xoa dịu nỗi đau của con.  Cô đã lấy hòn đá đập bị thương ngón tay của mình rồi cô khóc tức tưởi hơn cả đứa con của cô.  Có lẽ chúng ta không hiểu được hành động của người mẹ, nhưng có thể nói chính vì yêu mà người mẹ đã có thể làm như vậy.  Và trong hoàn cảnh cụ thể của cô, có thể đó là giải pháp, là cách thức để cô chia sẻ với nỗi đau của người con mà cô yêu thương.

Tình thương không cho phép người ta chứng kiến cảnh người mình yêu bị đau khổ, người ta phải làm đủ mọi cách trong khả năng của họ để làm sao giúp người mình yêu thoát khỏi khổ đau.  Có thể nói đó chính là những ý tưởng định hình cho những công việc hy sinh của chúng ta trong mùa Chay một cách nào đó, để tỏ bày lòng sám hối.  Ðó cũng là những cách thức, những việc làm cụ thể, để chúng ta bày tỏ tâm tình yêu mến và chia sẻ những khổ đau của chúng ta với Chúa Giêsu.  Ðó là bước đầu chúng ta đi vào con đường của tình yêu tự hiến, con đường mà Chúa Giêsu đã đi.  Ðó là yêu thương trọn vẹn, hy sinh cho tất cả, trao hiến tất cả cho người mình yêu.

Ðể được như thế, trước hết chúng ta phải tập sống từ bỏ vì yêu thương, từ bỏ một chút tiệc ly, một chút của cải vật chất, từ bỏ một chút gì là của riêng mình: sở thích, tư tưởng, lập trường.  Cụ thể hơn nữa, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc vâng lời.  Vâng lời cha mẹ, bề trên, anh chị em trong gia đình, vâng lời thầy cô giáo, những người có bổn phận trách nhiệm dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta bằng việc chúng ta sẽ tập trung lo chu toàn những công việc bổn phận, những nhiệm vụ được trao một cách trọn vẹn.

Xa hơn một chút, chúng ta thực hành những luật lệ chính đáng và công bình, nhằm đem lại lợi ích cho tha nhân chẳng hạn như giữ nghiêm ngặt luật giao thông, bảo vệ cảnh quan những nơi công cộng cho sạch đẹp, giữ luật vệ sinh chung, v.v… việc hy sinh của chúng ta có thể đi xa hơn bằng việc thực thi bác ái vào những việc làm cụ thể để giúp đỡ những người khác, đó cũng là một hình thức chúng ta vâng lời, vâng lời tiếng lương tâm của chúng ta cũng chính là tiếng Chúa.  Ðây chỉ là một vài điều được nêu lên trong khi mỗi chúng ta có thể làm vì vâng lời, vì tiếng nói cũng là mệnh lệnh sau cùng chúng ta tuân theo là tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa.  Ðồng thời, chúng ta đáp trả lại bằng những hành động diễn tả tình yêu dưới nhiều hình thức khác nhau, để chúng ta chia sẻ với Ngài, tỏ bày tình thương và sự cảm thông của chúng ta với nỗi đau mà Ngài đã chịu vì yêu thương.  Thánh giá là dấu hiệu đánh động chúng ta nhất để chúng ta luôn nhắc nhớ mình hãy làm một điều gì đó để xoa dịu nỗi đau của Chúa Giêsu và thân thể của Người là anh chị em chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin ban ơn trợ lực để chúng con can đảm bước theo con đường Ngài đã đi.

R. Veritas