Viết cho người vứt bỏ con mình!

Viết cho người vứt bỏ con mình!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Em thân mến,

Viết-cho-người-vứt-bỏ-con-mình!

Tôi rất đỗi bàng hoàng khi thấy thi hài con em chết tất tưởi trong khu vườn dưới nhà của em. Tôi không rõ động cơ nào khiến em làm chuyện động trời như thế; nhưng cứ nhìn hậu quả, không ai có thể cảm thông cho em được. Mấy ngày nay, búa rìu dư luận không chỉ hướng về em mà còn nhắm đến những người nhẫn tâm vứt bỏ đứa con mà mình dứt ruột đẻ ra. Đó là một hiện tượng đau lòng cho con dân Nước Việt vốn có truyền thống ý thức mạnh mẽ về sự thiêng liêng của tình cha nghĩa mẹ. Tôi muốn viết cho em đôi dòng, chia sẻ cùng em chút tâm tư của tôi.

Dư luận chỉ trích em là một người mẹ mất hết nhân tính. Họ vô cùng bàng hoàng và phẫn nộ trước hành động bất nhân của em. Tôi cũng vậy! Em biết đấy, là con người, ai cũng yêu quý sự sống của mình và tôn trọng sự sống của người khác. Đó là món quà Thượng Đế dành tặng cho con người để họ cùng nhau kiến tạo một nền văn mình tình thương và sự sống. Hơn nữa, người con em mang nặng đẻ đau lại chính là phần máu thịt của em. Mối dây thiêng liêng ấy không ai có quyền xem nhẹ hay cắt bỏ. Tôi không tin em quê mùa thiếu hiểu biết về những đòi hỏi của luân thường đạo lý, của bổn phận làm cha mẹ đối với con cái đến như vậy. Là một nữ sinh trường y, tuy có thể hiểu biết về kiến thức giới tính, nhưng em lại thiếu một trái tim yêu thương, một tấm lòng nhân nghĩa. Hậu quả là hành vi khủng khiếp của em mãi mãi bị người đời lên án và lương tâm em không ngớt dày vò, ray rứt.

Nhưng câu chuyện của em cũng là câu chuyện xót xa của rất nhiều người trẻ hiện nay. Họ không chỉ vất đứa con mình mang nặng đẻ đau, mà còn nỡ giết con mình ngay trong thế giới tưởng như an toàn nhất: dạ mẹ. Nơi cung lòng ấy, thai nhi tin rằng mình được bố mẹ yêu thương và chăm sóc ân cần, chờ đến ngày chúng mở mắt chào đời. Nhưng đáng buồn thay, từng giây phút, biết bao người mẹ nỡ đành vứt bỏ, giết hại người con của mình. Họ bỏ con trong xọt rác, vứt con bên vệ đường, bãi rác, dưới ao hay nơi hoang vắng, hoặc có thể nạo phá thai. Nếu người ta cho em bị vấn đề tâm sinh lý bất ổn định, hoang tưởng hay bất nhân mới nhẫn tâm vứt bỏ con của em như thế, thì với những người phá thai, chẳng lẽ tâm sinh lý của họ bình thường, chẳng lẽ họ nhân nghĩa với đứa con mình đang cưu mang? Trớ trêu thay, nhiều người vẫn mong mỏi tiếng nói cười của trẻ thơ, được hạnh phúc trong vai trò làm cha, làm mẹ, thì em cũng như nhiều người trẻ khác lại chối bỏ đặc quyền thiêng liêng Tạo Hoá dành cho mình. Ước chi qua sự kiện rúng động dư luận của em, mỗi người biết yêu quý sự sống của các thai nhi vô tội và những em bé đáng thương.

Đứng trước thi hài con em, ngoài sự thương tiếc xót xa, ai ai cũng ưu tư lo lắng cho nền đạo đức nước nhà. Một khi giới trẻ hiện nay sống buông thả, vô trách nhiệm với chính bản thân, gia đình và xã hội, thì câu chuyện của em cũng là nỗi đau không chỉ của riêng ai. Đau vì phải chứng kiến nhiều con người đang hủy hoại chính sự sống của chính mình và của người khác; đau vì nền văn minh sự chết đang lan tràn; và đau vì sự ác đang cướp đi hạnh phúc của bao người.

Em biết đấy, đúng là vứt bỏ con mình hay nạo phá thai là điều khủng khiếp, đáng lên án và phải loại trừ. Nhưng giải pháp cho vấn nạn này là gì, nên bắt đầu từ đâu? Chắc là em cũng đồng ý với tôi câu trả lời là: “Hãy tôn trọng sự sống” vì ba lý do:

1.Sự sống là món quà Thượng Đế dành tặng riêng cho từng con người. Không ai có quyền cướp đi quà tặng ấy.

2.Yêu quý sự sống của người khác như chính sự sống của mình. Đó không chỉ là công bằng mà còn là trách nhiệm.

3.Và, vì chúng ta là con người!

Được như thế, tôi tin rằng em và mỗi người, với tình yêu và hy vọng, sẽ kiến tạo được một xã hội của văn minh tình thương và sự sống, để không còn tang tóc như câu chuyện buồn của em nữa.

Thân chào em,

Thủ Đức ngày 20.03.2015

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

ĐTC Phanxicô: xã hội u buồn ảm đạm, nếu không có trẻ thơ

ĐTC Phanxicô: xã hội u buồn ảm đạm, nếu không có trẻ thơ

Chuacuuthe.com

– Tin nổi bật, Tin Công Giáo Thế Giới

dct

VRNs ( 19.03.2015) – Sài Gòn- Theo Romreport ngày 18.03.2015,  ĐTC Phanxicô nói: ” Một xã hội không có con trẻ là “xã hội u buồn ảm đạm”. Ngài đã kết luận như thế trong bài huấn giáo về gia đình. Ngài nói về những người mẹ, người cha và ông bà. Trong buổi tiếp kiến chung vào thứ Tư hàng tuần tại quảng trường thánh Phêrô, ngài suy niệm về trẻ em.
Ngài nói rằng: chúng ta phải luôn luôn nuôi dưỡng trong tâm trí của mình về điều kiện của trẻ em. Không ai tự mình mà được sinh ra,  họ chỉ đón nhận cuộc đời. Ngài nhấn mạnh rằng người lớn nên học hỏi từ tinh thần đơn sơ của con trẻ và kết luận với lời cảnh báo: ” U ám và buồn sầu” khi một xã hội không có con trẻ.

Tóm tắt bài huấn giáo:
” Trong bài huấn giáo của chúng tôi về gia đình, hôm nay chúng ta chuyển sang con trẻ, đó là một món quà tuyệt vời cho GH và cho gia đình nhân loại của chúng ta. Tôi nghĩ về những đứa trẻ hạnh phúc rất nhiều, tôi nhận thấy trong chuyến thăm gần đây của chúng tôi đến Châu Á, và cả trẻ em trên toàn thế giới, vô số các em đang sống trong nghèo đói về mọi nhu cầu.
Một xã hội có thể được đánh giá bằng cách xã hội đó đối xử với trẻ em . Trong gia đình của chúng ta, con cái nhắc nhớ chúng ta rằng: từ những năm đầu đời của chúng ta, chúng ta phụ thuộc vào người khác. Chúng tôi nhận ra điều này trong chính Chúa Giêsu, Người sinh ra trong hình hài một trẻ thơ ở Bethlem.

Trẻ thơ cũng nhắc nhớ chúng ta rằng, chúng ta là con cái của Thiên Chúa, chứ không phải là tự hoàn toàn điều khiển cuộc sống của chúng ta, chúng ta không bao giờ chấm dứt hoàn toàn sự phụ thuộc vào người khác. Họ thách thức chúng ta nhìn thấy mọi thứ với một tâm hồn đơn sơ, tinh khiết và tin tưởng, tiếp nhận và cung cấp sự ấm áp và ” dịu dàng”, cười và khóc một cách tự do để đáp ứng với thế giới xung quanh chúng ta. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta trở nên giống trẻ thơ, Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng.” (Mt 18, 3)

Chúng ta hãy hoan nghênh và trân trọng con em chúng ta, những người mang lại rất nhiều giá trị cho cuộc sống, niềm vui và hy vọng cho thế giới. Thế giới của chúng ta sẽ buồn và ảm đạm biết bao nếu không có trẻ thơ.

Pv.VRNs

Toà Án Quốc Tế Hague Phán Quyết Đường Lưỡi Bò 9 Đoạn Của Trung Quốc “Vô Giá Trị”

Toà Án Quốc Tế Hague Phán Quyết Đường Lưỡi Bò 9 Đoạn Của Trung Quốc “Vô Giá Trị”

Chuacưuthe.com

, Tin Công Giáo Thế Giới

VRNs ( 19.03.2015) – Sài Gòn-

PHILLIPINES THẮNG TRUNG QUỐC TẠI LIÊN HIỆP QUỐC:

TÒA ÁN QUỐC TẾ HAGUE PHÁN QUYẾT ĐƯỜNG 9 ĐOẠN LƯỠI BÒ CỦA TRUNG QUỐC “VÔ GIÁ TRỊ!”

Phiên xử kéo dài 3 tháng, vào ngày 10/3/2015 Các thẩm phán của TÒA ÁN QUỐC TẾ HAGUE, trong đó có Thẩm phán Thomas A. Mensah (Chủ tịch), thẩm phán Jean-Pierre Cot, thẩm phán Stanislaw Pawlak, Giáo sư Alfred HA Soons, và Thẩm phán Rüdige, đã đưa ra PHÁN QUYẾT về Bản Đồ 9 đoạn mà Trung Quốc đưa ra ở Biển Đông (Biển Đông), hay còn được gọi là Biển Tây Philippines là VÔ GIÁ TRỊ đối với LUẬT LỆ Quốc Tế.

Bản án này rất quan trọng vì đã chứng minh rằng hành vi hung hăng của Trung Quốc trên biển Đông là bất hợp pháp. Trung Quốc đã vượt quá giới hạn của nước nầy để đơn phương đưa ra bản đồ gây tranh cãi cho các nước trong vùng. Quyết định của TÒA ÁN HAGUE đã gây tổn hại danh tiếng của Trung Quốc về cách ứng xử trong khu vực, đồng thời ảnh hưởng xấu với quốc tế về tính chất tiêu cực của nước nầy.

Việc không tuân thủ phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế sẽ làm cho Cộng Đồng Quốc Tế thấy rằng Trung Quốc đang tiếp tục hành động như một quốc gia hiếu chiến.

Trong bản án mà Philippines đưa ra trước Hội Đồng Thẩm Phán, lên án Trung Quốc là một kẻ bắt nạt các nước láng giềng, Trung Quốc tìm cách cưỡng chiếm các nguồn tài nguyên của họ.

Tòa án cho biết hành động của Trung Quốc không những là khiêu khích mà có thái độ gây nguy hiểm cho Hòa Bình trong khu vực.

Sau khi Trung Quốc tranh lấn đảo Scarborough Shoal, thì Philippines đã không có cách nào khác và đã kiện Trung Quốc thông qua trọng tài quốc tế.

Dĩ nhiên, điều này không chỉ là một trận đấu tại tòa án giữa Trung Quốc và Philippines, nhưng quan trọng hơn là một thách thức đối với Luật của Liên Hợp Quốc, Luật Biển (UNCLOS) được xây dựng vào năm 1982 mà Trung Quốc đã KHÔNG tuân thủ.

Quyết định của tòa án mang ý nghĩa là bây giờ Hành Động TUYÊN BỐ ĐƠN PHƯƠNG của TRUNG QUỐC KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ luật pháp QUỐC TẾ, các nước láng giềng trong khu vực Biển Đông có đầy đủ quyền hạn để theo đuổi và bảo vệ lợi ích của họ trên Biển Đông.

BS Võ Đình Hữu

Anh Thợ Sửa Xe Đạp Và Giấc Mơ Mỹ

Anh Thợ Sửa Xe Đạp Và Giấc Mơ M

Phương Hoa

Tác giả: Phương Hoa
Bài số 3481-16-29881vb7030815

Tác giả định cư tại Mỹ từ 1994, vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, “Viện Bảo Táng Của Những Người Lính Bị Bỏ Quên” tác giả đã nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài sau đây trích tư  Việt Báo Tết Ất Mùi 2015.

* * *

blank

Tác giả Phương Hoa (giữa) chụp hình lưu niệm với vợ chồng Adam Le (trái).

Ngày xưa, khi đặt chân lên chiếc ghe câu nhỏ xíu cùng với mấy chục con người nêm cứng khoang thuyền để đào thoát khỏi Việt Nam, giấc mơ Mỹ của anh thợ sửa xe đạp tại một làng quê tên Lê Tường hiện ra trước mắt là một vùng trời biển mênh mông không thấy bến bờ. Hơn hai mươi lăm năm sau, chàng trai gốc chân quê ấy đã trở thành Adam Lê, ông chủ của City Cycle Werkes, một cơ sở chuyên mua bán sửa chữa xe Mô Tô có tầm cỡ tọa lạc tại trung tâm thành phố Cựu Kim Sơn, San Francisco, thành phố du lịch nổi tiếng của Hoa Kỳ.

Hành trang mang theo trong ngày đầu đặt chân lên đất Mỹ của Adam chỉ vỏn vẹn một nhúm kiến thức lớp Năm Việt Ngữ, chút ít kinh nghiệm về… ống bơm xe đạp cùng “mỏ-lếch-cờ-lê,” và một đồng hai mươi lăm cent ($1.25) Sở Di Trú Hoa Kỳ cho để anh gọi điện thoại khi cần. Thành công của chàng trai này không phải nhờ “phép lạ.”

Có lẽ không bút mực nào ghi cho hết những thăng trầm về cuộc đổi đời kỳ diệu của Adam. Sinh ra ở một ngôi làng nhỏ thuộc miền Trung, anh cưới vợ sớm như bao bạn bè khác. Gia đình chỉ sống nhờ vài sào ruộng được “hợp tác xã” chia cho nên anh phải làm thêm nghề sửa xe đạp. Cặp vợ chồng trẻ sinh được một bé trai trong cuộc sống vất vả của xã hội mới. Nhìn bạn bè đồng lứa lớp bị bắt đi “nghĩa vụ quân sự,” lớp vượt biên, một ngày kia anh bỗng cảm thấy mình cũng cần phải đi, để tìm tự do, tìm giấc mơ cho cả gia đình.

Hai mươi hai tuổi anh bỏ nước ra đi, bỏ lại Đương cô vợ trẻ, và đứa con vừa tròn mười tám tháng.

Những khi họp mặt bạn bè, Adam thường kể lại chuyện vượt biên ly kỳ ngày ấy. Thuyền ra khơi, anh vô cùng hoảng sợ. Biển cả hiểm nghèo như chực chờ nuốt chửng chiếc thuyền con có đám người đang rời bỏ quê hương. Chạy được gần hai ngày thì họ bị mất phương hướng. Lúc ghe vừa ra khơi, tài công phát hiện chiếc hải bàn bị mất. Người đàn ông được thuê chuyên chở người và vật dụng ra ghe chính đã ăn cắp chiếc hải bàn. Tối trời, anh ta cầm trúng cái gói nặng tay ngỡ là vàng bèn cuỗm luôn không giao lại. Đã thoát được rồi, tài công đành định hướng chạy tới luôn. Nhưng ra đến hải phận quốc tế thì trời đất mịt mù, không biết đường đi tiếp nên phải đánh liều quay lại để kiếm hải bàn.

Tối ngày thứ tư thì ghe trở về chỗ cũ. Một người dũng cảm tình nguyện lội vào bờ, đến nhà tay ăn cắp để đòi lại hải bàn. Nhiều người vì hãi hùng đã đổi ý nhảy xuống theo anh ta. Adam cũng rất muốn trở về, một phần vì sợ, phần vì thương vợ nhớ con. Tuy vậy, anh cắn răng bám chặt vào thành tàu giữ cho mình khỏi phóng xuống nước. Người ấy đòi được hải bàn mang ra ghe, nhưng bọn họ bị công an hùng hổ kéo quân rượt bắt vì tay đạo chích đã đi báo cáo. Nhờ sự lanh trí của tài công, chiếc thuyền con chạy “tốc khói,” khéo léo luồn lách ngoạn mục, cuối cùng đã đánh lạc hướng đám ghe công an.

Trải qua nhiều ngày sóng dồi gió dập tả tơi, họ cũng an toàn đến được đảo Palawan, Philippines.

Năm 1983, sau hơn hai năm chờ đợi trên đất Phi, Adam đến Mỹ và định cư ở thành phố San Francisco. Không bỏ lỡ thời gian, anh lao ngay vào trường học Anh Văn. Hết tám tháng trợ cấp của chính phủ, Adam xin vào thử việc không lương cho Dealers, một hãng sửa chữa mô tô ở thành phố San Francisco. Sau một tháng, anh được nhận làm tạm thời, lương chỉ $4.25/giờ. Công việc của chàng trai tị nạn mới đến là làm tạp vụ, dọn dẹp và lau chùi từ nhà xưởng cho đến phòng làm việc, toa lét.

Nhưng giấc mộng của Adam không phải là những nơi đó. Vốn từng làm nghề sửa xe đạp, chàng công nhân tạp vụ mơ ước có ngày sẽ được học sửa mô tô để làm việc như những chuyên viên thực thụ trong xưởng. Mỗi ngày đến cơ sở mang theo hoài bảo, anh làm việc siêng năng không mệt mỏi, hy vọng kiếm chút thời gian thừa để học lóm tay nghề. Giờ nghỉ giải lao, những buổi ăn trưa, nhân viên tụm năm tụm ba tán chuyện cười đùa. Riêng Adam ăn xong là bắt tay ngay vào làm việc. Nhà xưởng luôn gọn gàng, ngăn nắp. Văn phòng lúc nào cũng bóng loáng. Nhà vệ sinh bao giờ cũng sạch sẽ thơm tho. Làm xong hết việc, anh đến phụ giúp lặt vặt cho các nhân viên, và thường để ý học thầm cách thức người ta sửa chữa xe mô tô.

Khi đó Adam mới đến Mỹ, nào biết tí gì về luật lao động. Anh cắm cúi làm việc chăm chỉ là bởi do bản tính siêng năng. Trong hãng ai cũng thích cái anh chàng “ham việc” này. Làm được mấy tháng, ngày kia một người nhân viên tò mò hỏi anh có được lãnh tiền “overtime” cho những giờ phụ trội ấy. Anh tình thật trả lời không. Người đó thấy anh bị thiệt thòi, bèn gọi mách Sở Lao Động. Đối với đất nước Hoa Kỳ, đây là “chuyện lớn” vì bóc lột công nhân. Sở cử người đến điều tra và phạt hãng trả Adam một số tiền khá lớn, bồi thường cho tất cả thời gian anh đã làm trong những giờ ăn trưa và giờ nghỉ giải lao.

– Nhận được tiền bồi thường mà tôi…run muốn chết! Sau này Adam kể lại. -Dù đó là một số tiền không nhỏ, vì họ phạt hãng phải trả tiền lời và tiền gì đó tùm lum thứ, nhưng tôi chẳng những không mừng mà còn sợ bị đuổi việc.

Adam đem tiền về và chuẩn bị tư thế đi xin việc khác. Nhưng hôm sau anh vào hãng thì ông giám đốc đích thân ra hỏi chuyện. Rồi ông ký quyết định thuê chính thức người công nhân tạp vụ đã từng làm cho công ty bị phạt! Sau đó, hãng gửi Adam đến trường để được đào tạo tay nghề.

Có cơ hội tốt, Adam cố gắng học rồi thi lấy bằng kỹ thuật sửa chữa xe Mô Tô. Đó là mảnh bằng đầu tiên của anh trên đất Mỹ. Tốt nghiệp xong, Adam bắt đầu làm việc cho hãng. Anh tận dụng tối đa những gì học được để phục vụ khách hàng. Sự tận tâm của anh chuyên viên người Việt Nam nhỏ con nhất, tay nghề non trẻ nhất, và tiếng Anh bập bẹ nhất công ty đã được khách hàng ưa chuộng. Rất nhiều người gọi tới làm hẹn yêu cầu đích danh Adam sửa xe cho họ. Người trong công ty, kể cả giám đốc, nhiều lần tròn mắt kinh ngạc và thán phục nhìn anh thợ “tí hon” nhất hãng bằng động tác khéo léo tuyệt vời đã di chuyển một cách nhẹ nhàng những chiếc mô tô hàng trăm, hàng nghìn phân khối, nặng gấp nhiều lần sức nặng của anh.

Từ đó, Adam được giám đốc ưu ái chọn, gửi đi tu nghiệp mỗi năm một lần. Cho đến khi nghỉ việc ra riêng, Adam đã hoàn thành được mười mấy cái chứng chỉ sửa chữa mô tô.

Với sự làm việc cật lực, cộng thêm tiếp tục học hành, anh thợ trẻ Adam dần trở thành một chuyên viên nhiều kinh nghiệm và có uy tín nhất hãng. Bất cứ loại xe nào, từ mô tô phân khối nhỏ, đến các loại xe phân khối lớn, “lớn xác lẫn lớn tiền” như Honda, Suzuki, Yamaha, BMW… model của Mỹ, Nhật, Đức, Ý gì cũng không làm khó được Adam. Uy tín của anh ngày càng tăng. Sự hài lòng của đa số khách hàng dẫn đến việc một tờ tạp chí Motocycle Magazines của địa phương đã viết về Adam với những lời ngợi khen đặc biệt.

Rất là thú vị, sự thành công vượt bậc nhanh chóng của Adam không hề làm cho đồng nghiệp đố kỵ. Trái lại, các bạn cùng hãng rất thích anh vì cái tính hiền hòa, thân thiện, luôn giúp đỡ người khác. Về sau khi Adam mở xưởng, nhiều đồng nghiệp cũ đã đến phụ giúp anh một cách rất nhiệt tình trong những ngày đầu.

Không những Adam được bạn đồng nghiệp yêu mến, mà bạn bè thân hữu cũng rất quý anh. Anh thường ra tay giúp đỡ khi người ta hữu sự, từ đất Mỹ đến quê nhà, chẳng quản ngại khó khăn hay công sức. Tôi còn nhớ có lần người bạn của Adam đang sửa nhà thiếu người phụ, anh tình nguyện xin nghỉ việc ở hãng đến giúp bạn mình. Kết quả, anh đã bị ngã từ trên thang cao xuống đất. May mà anh chỉ bị gãy chân. Vợ con anh đã một phen mất vía, vì té kiểu đó rủi trúng đầu thì nguy hiểm vô cùng.

Năm 1989, Đương vợ anh bồng con xuống tàu vượt biển đến Philippines. Hay tin, Adam vội vã bay qua trại tỵ nạn để bảo lãnh họ. Thời gian anh ở Phi một tuần lễ, chẳng những là tuần lễ hạnh phúc của vợ con anh, mà đó cũng là tuần lễ may mắn của bạn bè, bà con đồng hương, và những người cư ngụ cùng nhà với vợ anh, trong đó có ông xã của kẻ viết bài này. Đến bây giờ ông ấy vẫn còn nhớ cái cảnh những người quen đến ngồi đầy sân trước gian trại vợ Adam ở, để nghe anh kể chuyện về nước Mỹ và chiêu đãi trà nước bánh kẹo cho mọi người. Trước khi về Mỹ, anh đã tặng đến đồng bạc cuối cùng cho tất cả những người quen biết. Ai nấy đều mừng quýnh, vì số tiền này có thể giúp họ mua thức ăn thêm cũng được vài tuần.

Adam đoàn tụ vợ con sau mười ba năm xa cách. Bạn bè thường đùa, chấm anh “5 Star” về tính thủy chung. Mới hơn hai mươi tuổi, dễ nhìn lại có tài, Adam được ông giám đốc điều hành của hãng “chấm” và ngỏ ý muốn tác thành cho cô em của ông. Cô gái Nhật xinh đẹp này cũng rất thích Adam. Nhưng anh đã khéo léo từ chối, một lòng chờ đợi vợ.

Đương đoàn tụ với chồng được vài năm, thì từ mức lương lau chùi dọn rửa chỉ hơn bốn đồng bạc/giờ khi bắt đầu của anh đã vượt lên tới mức trên…”sáu số,” chiếm kỷ lục hãng. Ngoài những lúc đi làm hãng, Adam còn dạo mua xe cũ về sửa chữa rồi bán lại. Đến năm 1995, sau hơn mười năm ở Mỹ, trong khi nhiều bạn đồng nghiệp kỳ cựu người bản xứ của Adam vẫn còn ở nhà thuê, vợ chồng anh chàng tị nạn da vàng gốc quê đã mua được ngôi nhà hai tầng có vườn sau rất đẹp ở gần bờ biển San Francisco.

Mộng lớn của Adam là hình thành một cơ sở kinh doanh do mình tự làm chủ. Anh để ý học hỏi, thu thập kinh nghiệm về kinh doanh chờ cơ hội. Giấc mơ này là động lực cho Adam làm việc bất kể ngày đêm. Sau khi mua nhà, anh “tăng tốc,” tận dụng từng chút thời gian rảnh dùng vào việc mua bán xe mô tô. Anh mua tất cả các loại xe, cũ mới, phân khối lớn nhỏ, kể cả các loại xe cổ đắt tiền (Classic Motorcycles). Lúc nào nhà anh mô tô cũng chất đầy garage, chất đầy tầng trệt. Xe nào còn mới tốt thì anh mua về lau chùi đánh bóng lại rồi bán ngay. Xe cũ thì tân trang sơn sửa rồi mới bán. Đi làm về nếu không đi mua xe, anh lao vào miệt mài sửa chữa. Việc làm phụ này đã cộng thêm thu nhập đáng kể vào thu nhập chính của gia đình. Và cuối cùng anh cũng đã thực hiện được mơ ước.

Người ta thường nói, “Sau lưng người đàn ông thành công luôn luôn có một phụ nữ…tốt” quả không sai chút nào. Nếu nói về sự thành công của Adam Lê mà không nhắc đến người “nội tướng” trẻ trung xinh đẹp và hiền thục của anh một chút thì sẽ là một thiếu sót. Đương Nguyễn cũng là một cô gái xuất thân từ chốn thôn quê, được dạy dỗ với đầy đủ công dung ngôn hạnh. Sang Mỹ đòan tụ cùng Adam, cô chẳng những vừa lo việc sinh con, chăm sóc nuôi dạy chúng, mà cô còn đi làm, là một chuyên viên thẩm mỹ. Đương là cánh tay đắc lực của Adam. Dù luôn bận rộn, vợ Adam vẫn lo con cái chu đáo. Cậu con trai trưởng là một kỹ sư vi tính đã đi làm, cô con gái út đang theo học dược ở UC Davis, còn cậu con trai giữa thì đã học xong, ở nhà phụ giúp bố từ khi anh mua xưởng.

Adam mua lại xưởng sửa chữa mô tô này vào năm 2010. Chỉ trong vòng một năm, sự thành công của Adam có thể thấy rõ. Trên trang web “Yelp,” người ta cập nhật rất nhiều lời khen của khách hàng viết về ông chủ Adam Lê và City Cycle Werkes. Hầu hết họ đều cho điểm “5 Star” và kèm theo những lời giới thiệu rất nhiệt tình cộng với nhiều hình ảnh họ chụp khi đến lấy xe từ xưởng của Adam. Uy tín của anh và City Cycle Werkes được mấy vị Professor dạy ngành Motorcycle Technician ở đại học cộng đồng City College of San Francisco biết đến. Họ thường giới thiệu các sinh viên chuyên ngành của trường đến gặp Adam Lê để phỏng vấn, tìm hiểu về kinh nghiệm nghề nghiệp, cũng như việc điều hành sơ sở kinh doanh ngành “Motorcycle Business” để họ về làm “Project” tốt nghiệp.

Điều ngạc nhiên là, trong bốn năm qua, cơ sở làm ăn rất quy mô và phát đạt của Adam lại không hề tốn tiền cho những quảng cáo bạc nghìn bạc triệu trên TV, cũng chẳng phải trả đồng nào cho nhật báo, tạp chí, hay radio. Tuy nhiên, anh cũng có một cách quảng cáo rất riêng, rất độc đáo. Đó là dùng chiêu thức “chinh phục cái bao tử” để hấp dẫn, làm cho khách hàng nhớ đến mình.

blank

Cửa tiệm City Cycle Werkes.

Sau một năm mở cửa, City Cycle Werkes phát triển rất tốt, vợ chồng Adam bàn tính việc mở một buổi tiệc Tất Niên đãi khách hàng, để tỏ lòng cám ơn sự ủng hộ của họ. Đương, cô vợ đảm đang của anh đã đưa ý kiến đãi khách hàng bằng các món ăn thuần tuý quê nhà của mình, thay vì những món ăn của người Mỹ. Ấy vậy mà khách hàng, hầu hết là người Mỹ, đều thích các loại thức ăn Việt Nam có nước mắm do Đương và bạn bè cô tự tay nấu lấy. Lần đãi đầu tiên là để “thử lửa,” không ngờ được khách hàng chiếu cố rất tận tình. Cho nên từ đó về sau, mỗi năm vợ chồng Adam đều đãi tiệc tất niên bằng thức ăn truyền thống của người Việt Nam.

Năm nay, buổi tiệc Tất Niên được tổ chức vào Chúa Nhật tuần lễ đầu tiên của tháng Mười Hai, 2014. Vợ chồng tôi cũng được Adam mời đến San Francisco dự buổi tiệc này.

Đến San Francisco kiếm chỗ đậu xe thật khổ. Khắp nơi đều “thiên la địa võng,” những cột đồng hồ trả tiền, lúc nào xe cũng nối đuôi nhau sát sàn sạt. Phải vòng vòng đến gần hết nửa bình xăng mới tìm ra chỗ. Đến khi tìm được chỗ thì vô đậu lại vất vả “thần sầu.” Đường xe cộ qua lại nườm nượp, chỗ đậu thì bé tẻo bé teo, tôi rất tệ về đậu pa-ra-leo (parallel), nên phải “thò ra thụt vào” cả buổi mới lắp được xe vào chỗ trống.

Xưởng City Cycle Werkes của Adam nằm giữa trung tâm thành phố San Francisco, nơi được xem một tất đất “bao nhiêu là tất vàng.” Chiều dài của xưởng chiếm nguyên cả một block đường, mặt trước là đường chính Ellis Street, còn mặt sau nằm trên đường Willow Street. Chúng tôi đến cũng sớm nhưng đã thấy rất đông người lăng xăng, nhộn nhịp. Nhiều người Mỹ đang lần lượt dắt các loại xe mô tô lớn nhỏ từ phần trước xưởng đem ra dựng tràn khắp hai bên đường, mặt cửa trước lẫn phía cửa sau.

Adam vui vẻ ra chào chúng tôi. Anh cho biết hôm nay Chúa Nhật, các cơ sở kinh doanh xung quanh đều đóng cửa, cột đồng hồ được miễn phí, nên anh tạm dời một số mô tô ra ngoài, lấy chỗ xếp bàn ghế cho bữa tiệc. Thấy tôi nhìn những người Mỹ đang dắt xe ra, Adam nói đó là mấy người thợ phụ của anh và những khách hàng thân tín, năm nào họ cũng tình nguyện đến sớm phụ giúp.

Tôi hoa mắt nhìn đám mô tô đủ kiểu đủ màu, và thử đếm nhưng không tài nào đếm xuể.

Nhìn lướt qua và nhẩm tính, chỉ riêng số mô tô được đưa ra ngoài đường, tôi thấy mỗi bên cũng có đến vài chục. Đám mô tô như một rừng hoa, chúng đứng khoe càng nghênh ngang trên đường như những con ngựa trời. Có chiếc nhỏ bằng chiếc Honda 90 nhà tôi từng chạy bên Việt Nam ngày trước, nhưng có những chiếc to đùng gần bằng chiếc xe hơi thể thao. Một người Mỹ cao lớn từ bên trong đang hì hục dắt ra một chiếc hiệu Honda to ơi là to. Cái bửng có đèn và kiến chắn gió trước tay lái khuỳnh ra như đầu một chiếc xe hơi. Trông ông ta dắt đi có vẻ khá vất vả.

– Chiếc xe này to kinh quá, ông Mỹ đó dắt trông gần “ná thở,” không biết bằng cách nào mà anh di chuyển được nó để sửa chữa? Tôi hỏi Adam.

– Ồ! Là nhờ kinh nghiệm nghề nghiệp thôi chị ạ. Adam cười nói. -Xe to cỡ nào cũng dắt được cả, nếu mình biết cái “thế” để lái nó đi theo ý mình.

Xe cộ qua lại hai bên đường nhiều người giảm tốc độ, tò mò nhìn đám xe mô tô dày đặc trước cửa City Cycle Werkes. Thậm chí có người còn nhấn còi inh ỏi, chắc là bạn hàng của Adam. Tôi thích thú mỉm cười. Đây cũng là một cách quảng cáo độc đáo nữa của Adam. Sự việc dựng xe đầy trước cửa này đã đặc biệt gây chú ý cho người qua lại. Chắc thế nào sau buổi tiệc cũng sẽ có thêm khách hàng đến mua xe hoặc đem mô tô đến sửa.

Sau khi ngắm đã đời các kiểu mô tô mới nhìn thấy lần đầu, tôi đi vào bên trong. Mấy người Mỹ đã giúp dọn dẹp trống trải một phần nhà xưởng và đang sắp xếp bàn ghế. Adam chỉ tôi vô phòng trong, nơi vợ anh đang cùng mấy phụ nữ người Việt chuẩn bị thức ăn. Tôi có nghe Đương nói tối hôm trước, là cô đã đặt hai con heo thật lớn cho buổi tiệc từ một trại chăn nuôi trên Modesto, một con heo tươi và một con heo quay. Tôi đã cười thầm vì nghe như cô đang chuẩn bị cho một đám cưới vương giả bên Việt Nam. Cô còn nói cả tháng nay đi làm về cô còn phải lo ướp đến vài trăm pound thịt gà lẫn thịt bò, thịt sườn, để nướng.

Nhưng tôi vẫn không tin được mắt mình khi nhìn số thức ăn bày biện trên bàn. Bằng cách nào Đương đã chuẩn bị được số thức ăn “hùng vỹ” như núi, dày đặc như rừng này nhỉ. Hỏi ra mới biết, vợ chồng Adam có một số bạn bè thân thiết, đã gửi “phu nhân” của họ đến giúp Đương nấu nướng từ ngày trước cho đến hôm nay. Toàn bộ đều là “home made” hết, không mua một món nào. Thức ăn rất đa dạng và nhiều gấp mấy lần một cái đám cưới Việt Nam ngày xưa. Ngoài các món gà, bò, heo, oyster nướng, còn có thịt phay thịt lụi, xôi cúc xôi giò, bánh bèo bánh hỏi, chả giò chạo tôm, chả ốc chả lụa, tính sơ sơ cũng cở trên vài chục món, chưa kể các loại bánh ngọt và trái cây. Nhiều lọ thủy tinh đựng đủ loại nước mắm ớt tỏi chanh đường pha sẵn, trong văng vắt những mảnh vụn đỏ tươi của ớt, trắng ngà của tỏi, và xanh dịu của những tép chanh. Nhìn các món ăn truyền thống quê nhà, tôi chưa nếm mà đã chảy nước miếng.

Bữa tiệc không phải chỉ có những món ăn thịnh soạn. Mỗi góc phòng được chất vô số thùng bia các loại, nước trái cây, sô đa, bên cạnh một thùng đá thật lớn chứa đầy bia lạnh. Phía trái bên ngoài office của Adam là chiếc bàn dài thấp. Trên bàn và cả bên dưới có rất nhiều loại rượu, từ rượu nho đến Whiskey, Vodka, cả mấy chai Rémy Martin, và Rémy Martin XO cũng chen vai sát cánh cùng lũ rượu kia như mời chào thực khách. Chợt nhớ lại có lần Đương kể, hồi Adam còn ở nhà, một người bạn có anh đi Mỹ gửi hình về đã cho Adam xem hình ông anh đang cầm lon bia uống. Về nhà bữa trưa vợ dọn vài cọng rau lang luộc với cơm độn bo bo, anh nói, “Ước gì anh được đến Mỹ để uống một lon bia như anh của thằng bạn thì có chết cũng cam lòng.” Anh làm sao ngờ được, có ngày anh chẳng những đến được Mỹ mà còn đãi người Mỹ cả rượu Rémy Martin XO trên trăm đô la/chai!

Khách khứa lần lượt kéo đến đông đảo. Khi được mời nhập tiệc, họ tự động đi lấy thức ăn, chọn đồ uống rồi ra bàn ngồi và chăm chỉ thưởng thức. Điều làm tôi ngạc nhiên là người nào cũng có vẻ rất quen thuộc với các món ăn Việt. Lấy thức ăn xong họ không quên múc nước mắm cho những món cần phải chấm như bánh hỏi, hay gỏi cuốn, chả ốc. Nghe kể năm nay Adam mời trên năm trăm thực khách, vì số lượng khách hàng thân thuộc gia tăng. Nhưng rút kinh nghiệm từ năm ngoái, anh chia ra mời làm nhiều giờ khác nhau. Lớp khách này ăn xong chào từ biệt là lớp khác thế vào. Nhờ vậy mà từ mười giờ sáng đến sáu giờ chiều, đội ngũ bếp núc có đủ thì giờ chiên kịp chả giò và tai vạc nhân tôm nóng giòn cho tất cả mọi người chứ không bị lật đật như năm ngoái.

Tôi lấy một cây chả ốc và ít xôi giò vào đĩa, bưng lại ngồi gần nhà tôi. Bên phải là ông Mỹ to con, người khi nãy đã vất vả dắt chiếc Honda bự chảng. Ông ấy đang nhai ngồm ngoàm tôm chiên trong đĩa, chai Heineken để trước mặt. Thấy tôi nhìn ông gật đầu chào, rồi hỏi về những thành phần trong các món ăn. Ông khen món nào cũng tuyệt.

– Khi nãy tôi thấy ông dắt chiếc mô tô to thế ra ngoài. Ông thật là giỏi! Tôi bắt chuyện.

– Ồ! Tôi mà giỏi gì! Ông lắc đầu cười: -Adam mới là “thằng guy” tôi khâm phục nhất.

blank

Gia đình chủ nhân: vợ chồng Adam Le và các con.

Khi biết tôi là bạn đồng hương với Adam, ông vui vẻ tự giới thiệu tên là Jackson, rồi bắt đầu huyên thuyên “quảng cáo” cho Adam. Thì ra Jackson là khách hàng kỳ cựu từ cái hãng cũ Adam làm trước đây. Ông nói rất nhiều người theo Adam qua đây, vì bây giờ cái dealer cũ đã đóng cửa.

– “Adam is awesome!” Adam thật là cừ khôi! Ông Jackson nói. -Anh ấy chẳng những có tay nghề giỏi mà còn rất chân thật. Từ việc mua bán đến sửa chữa, Adam không bao giờ chặt chém hay lừa gạt khách hàng. Anh luôn tự tay sửa chữa những bộ phận quan trọng cho xe của khách hàng, chỉ để thợ làm phụ những việc nhỏ mà thôi. Cho nên tôi đã đi với anh ta hàng chục năm rồi đó!

Adam luôn bận rộn tiếp khách. Khi nào rảnh chút là ngồi xuống trò chuyện với bạn bè. Ly rượu trên tay, mặt mũi anh trông hồng hào phương phi và rất hạnh phúc. Có lẽ vì rượu cộng thêm niềm vui chất ngất. Anh cho biết, tổ chức bữa tiệc này mệt và tốn công tốn của rất nhiều lần so với việc đặt nhà hàng Mỹ làm sẵn đem đến.

– Nhưng đây mới là điểm đặc biệt làm cho họ nhớ đến mình, anh chị ạ! Rồi anh cười với vẻ hãnh diện: – Chúng tôi đã tập cho toàn bộ khách Mỹ ở đây biết ăn nước mắm!

Vợ chồng tôi cùng nâng ly chúc mừng cho thành công của Adam. Thừa dịp, tôi hỏi anh thêm nhiều chi tiết về cuộc đời, công việc, những khó khăn mà anh gặp phải trên bước đường tị nạn, và chuyện thành lập cơ sở. Chạy đi rồi chạy lại, anh vui vẻ chia xẻ hết mọi điều như tôi đã viết ở trên. Khi được hỏi kỷ niệm nào đáng nhớ nhất trên con đường đưa anh đến với sự nghiệp ngày hôm nay, Adam cho biết, kỷ niệm căng thẳng nhất là khi quyết định “quit job” để mua lại cái xưởng sửa chữa mô tô đang bị vỡ nợ.

– Đó là một sự lựa chọn có tính cách sinh tử! Anh nhớ lại. -Vào thời điểm năm 2010, nền kinh tế nước Mỹ cũng chưa có gì sáng sủa, tôi lại đang có một việc làm ổn định với mức lương rất là lý tưởng. Bạn đồng nghiệp cho là tôi bị điên. “Quit job” đi mở cơ sở kinh doanh là làm lại tất cả từ đầu, tự đi lên bằng con số không to tướng. Anh rùng mình: -Nếu chẳng may thất bại, thì có nước phải gánh chịu “từ chết tới bị thương.”

Adam còn kể, vợ chồng anh đã mất nhiều đêm thức trắng và suy nghĩ đến nhức cả đầu. Cái xưởng này người chủ cũ mở cũng đã một thời gian, nhưng đến khi ấy business đã bị chết, ế thê thảm. Vợ Adam cũng lo lắng. Chủ cũ là người Mỹ trắng mà còn thất bại, huống chi mình là dân đầu đen, rủi bị khách hàng kỳ thị thì làm sao.

Một kỷ niệm nữa được Adam xem là vất vả trên bước đường sự nghiệp là việc đi học nghề. Anh vốn dĩ sinh ra là một người dân quê. Ngoài việc sửa xe đạp cho bà con trong làng, anh cũng từng cấy cày làm ruộng. Cho nên việc đi làm cực nhọc như lau chùi dọn dẹp chỉ là chuyện nhỏ đối với anh. Đến chừng anh học sửa chữa mô tô mới là điều khổ sở. Adam cho biết, với số tiếng Anh “đong chưa đầy cái lá mít” anh phải vất vả tra tự điển từng chữ một để hiểu và làm bài.

– Không bao giờ tôi quên khóa học đầu tiên hảng gửi tôi đi để học lấy cái chứng chỉ (Certificate) sửa chữa mô tô. Adam nói. – Thật khó trăm bề! Trong khi học tôi bị “lùng bùng,” thầy nói thầy nghe, bạn nói bạn nghe, tôi chả hiểu họ nói cái giống gì. Về phòng trọ, tôi ôm cái tự điển, thức trắng đêm để tra từng chữ một và học đến khi nào gục xuống mới thôi. Tôi gạo bài mệt đến gần …”đứt bóng!” Anh cười và nói đùa.

Trước khi hoàn thành việc mua cơ sở này, Adam phải trải qua một tình huống thật ngặt nghèo, nghiêm trọng. Vừa đặt tiền cọc mua xưởng xong, anh bỗng nhiên ngã bệnh. Từ chứng xây xẩm ù tai như bị điếc, bác sĩ làm xét nghiệm và phát hiện có một mảnh gì đó nhỏ xíu nằm trong đầu, phía sau tai phải của anh. Theo lời bác sĩ, nếu không giải phẩu kịp thời để lấy ra cái mảnh ấy, có nguy cơ nó sẽ di chuyển và rơi vào não bộ. Họ còn nói, giải phẩu ngay lúc ấy dù có phần nguy hiểm đến tính mạng, nhưng sác xuất cứu sống Adam có nhiều hơn là để đến khi nó thực sự đụng vào não, vì sẽ hết đường cứu gỡ.

Vợ con anh hoảng hốt, gia đình anh bên Việt Nam sợ hãi, bạn bè anh lo âu. Ai nấy đều khuyên Adam nên dừng lại việc mua xưởng, chờ sau khi làm phẩu thuật xong hãy tính. Nhưng người đàn ông trẻ này rất can đảm và kiên cường. Anh đã không một chút lo âu sợ sệt, cương quyết tiến hành việc mua bán trước ngày nhập viện.

– Cơ hội tốt đã đến. Adam nói. – Tìm được địa điểm thích hợp chẳng phải dễ, nên không thể nào chờ đợi được.

Thế là Adam nhất quyết tiến hành hoàn tất mọi việc trước khi nhập viện. Chỉ trong thời gian một tháng đợi làm thủ tục và các loại xét nghiệm cần thiết cho cuộc đại phẩu thuật, Adam đã cố gắng tận dụng tối đa thời gian của mình. Mỗi ngày anh hết đi mua xe đem về sửa lại, đến trông coi thợ thuyền tân trang nhà xưởng, rồi đặt hàng hóa, phụ tùng chuẩn bị cho ngày khai trương. Đến khi anh nhập viện, thì việc sửa chữa, thủ tục mua bán, và giấy phép kinh doanh đều đã hoàn tất. Cộng thêm việc trên năm chục chiếc mô tô đã được anh mua về làm mới lại hoàn toàn.

Tôi ngồi nghe mà lòng ngưỡng mộ vô cùng. Thường thì khi người ta biết mình sắp trải qua một cuộc giải phẩu nghiêm trọng, bác sĩ tiên đoán “lành ít dữ nhiều” không ai tránh khỏi lo sợ. Có lẽ nhiều người, trong đó có tôi, sẽ đình hoãn dự tính cho tương lai trước khi biết kết quả. Ngược lại, Adam đã rất tự tin nghĩ mình sẽ qua khỏi. Có lẽ nhờ ý chí kiên cường ấy mà Adam vượt qua được hiểm nghèo, để giờ đây anh trở thành một trong những nhà triệu phú của thành phố nổi tiếng San Francisco.

Vợ Adam đi ngang qua nghe chuyện, cô dừng lại chia xẻ:

– Anh ấy “quỳnh liều” lắm anh chị ơi! Sau khi mổ xong, mới vừa xuất viện anh đã vội vã đến xưởng để điều hành công việc, chuẩn bị cho ngày khai trương. Em tìm mọi cách để anh ấy ở nhà tịnh dưỡng một thời gian, nhưng không được. Nhìn thấy anh đầu quấn kín nhiều lớp băng trắng lù lù, chạy tới chạy lui chỉ thị mọi người, ai nấy cũng đều lắc đầu.

Adam còn kể lại một chuyện khác, làm tôi ngồi nghe mà mắt cứ tròn lên. Sau khi xưởng khai trương được vài tháng, ông CEO, chủ của cái hãng cũ Motorcycle Dealers mà Adam từng làm -dealer này cách xưởng Adam không xa mấy- có ghé lại xem. Đến nơi quan sát cách làm ăn của Adam, ông tỏ vẻ ngạc nhiên và khâm phục. Ông thật lòng khen ngợi, rồi nói thật với Adam về tình hình hãng cũ. Rằng giám đốc điều hành đương nhiệm làm việc không hiệu quả nên hãng đang trên đà xuống dốc. Ông đề nghị Adam hãy bán cái xưởng mới, góp phần hùn vào công ty ông, thì ông sẽ mời Adam về làm giám đốc điều hành với mức lương gấp đôi lương của anh trước kia, để cùng chung tay cứu lấy hãng. Một đề nghị thật bất ngờ và hấp dẫn, đã làm vợ chồng Adam mất ngủ thêm một thời gian nữa. Người kế toán trưởng của hãng cũng thay mặt Tổng Giám Đốc tới lui nhiều lần quan sát việc Adam điều hành xưởng, và cố thuyết phục Adam hợp tác.

Nhưng cuối cùng, Adam đành phải từ chối lời mời tuyệt vời ấy vì thấy cơ sở mới của anh ngày càng phát triển theo tỷ lệ thuận. Anh nói với chúng tôi:

– Tôi nghĩ thà làm cho mình tự do hơn, lãnh công việc điều hành nhiều trách nhiệm lắm!

Lát sau thì ông cựu giám đốc tài chính cái dearler cũ cũng đến. Adam nói năm nào anh cũng mời và ông ấy đều đến, thật lòng chúc mừng cho anh. Ông giờ đã về hưu.

Tôi chợt xúc động khi nhìn ông Mỹ da trắng và Adam da vàng, hai mái đầu bạc và đen ôm nhau thân thiết, rồi Adam ân cần đưa ông chủ cũ đi lấy từng món thức ăn. Ông ấy đã không nhìn lầm người khi chọn nhận chàng công nhân “culi” không biết tiếng Anh để cho đi học nghề. Quả thật với tấm lòng công bình bác ái và không kỳ thị, ông cựu giám đốc đã tạo ra một kỳ tích cho đất nước. Từ việc nước Mỹ phải trả lương cho chàng thanh niên tị nạn da vàng, bây giờ hàng năm chàng thanh niên ấy đã đóng góp một mức thuế thật là không nhỏ để góp phần xây dựng cái quê hương thứ hai này của anh.

– Phải nói là anh thật giỏi! Tôi nói xong, hỏi một câu cuối cùng trước khi từ giã ra về: -Anh có kinh nghiệm gì để chia xẻ với bà con mình, những người mới đến Mỹ sau này?

Nhà triệu phú “cựu thợ sửa xe đạp” cười hiền lành:

– Tài giỏi chi đâu chị! Mỹ là đất có rất nhiều cơ hội. Chỉ cần cố gắng làm việc thì sẽ găt hái kết quả tốt. Rồi anh nói thêm: -Người Mỹ có câu, “Hard work, pays off” mà! Người đến Mỹ không biết một chữ tiếng Anh, bắt đầu bằng công việc “cu li” như tôi còn làm được thì ai mà chẳng làm được!

Tối đó về nhà, vợ chồng tôi bàn tán mãi về chuyện của Adam Lê. Tôi chợt nhớ lại câu nói của anh. Quả đúng là nhờ vào sự “hard work,” làm việc chăm chỉ, mà “Giấc Mơ Mỹ” của anh chàng thợ sửa xe đạp ngày xưa đã đơm bông kết trái một cách rất mỹ mãn.

Phương Hoa

SỰ CHẾT

SỰ CHẾT

Tác giả LM Nguyễn Tầm Thường, sj.

(Suy niệm mùa chay 2015)

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết.  Làm gì có sự chết nếu không có sự sống.  Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời.  Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi.  Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau.  Trong lớn lên đã có mầm tan rã.  Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết.  Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề.  Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.

Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không?  Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi.  Chết ở trong tôi.  Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi.  Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết.  Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình.  Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu.  Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình.  Chẳng ai đi với tôi.  Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai. Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh.  Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy. Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại.  Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc.  Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra.  Mà cũng có thể là một thứ nô lệ.  Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì? Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm? Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”.

Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải”.

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì?  Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa.  Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta:  Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó:  Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi.  Không ai chết thay tôi.  Không ai đi cùng tôi.  Tôi sẽ ra đi lẻ loi.  Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người.  Có thể đôi khi họ nhớ tôi.  Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia.  Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt.  Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả. Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54).  Chết là đi về sự sống vĩnh cửu.  Chết là gặp gỡ.  Gặp Ðấng tạo nên mình.  Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi.  Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa. Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề.  Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa?  Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà.  Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con.  Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi.  Hôm nay hay ngày mai?  Mùa thu này hay mùa xuân tới?  Con âu lo.  Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang.  Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa.  Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn. Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an. Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương.  Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi.  Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao.  Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm.  Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được.  Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc.  Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa. Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai.  Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không.  Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá.  Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa.  Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16).  Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.
Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá. Con không biết con can đảm đến đâu. Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi. Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá.  Vì thập giá làm con mang thương tích.  Chúa cũng đã ngã.  Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống.  Chúa đã chết. Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết.  Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa.  Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết.  Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự.  Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.
Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ –
Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

CHÚA CHỮA LÀNH BỆNH UNG THƯ XƯƠNG THỜI KỲ CUỐI và GIẢI CỨU GIA ĐÌNH BÊN BỜ VỰC TAN VỠ.

CHÚA CHỮA LÀNH BỆNH UNG THƯ XƯƠNG THỜI KỲ CUỐI và GIẢI CỨU GIA ĐÌNH BÊN BỜ VỰC TAN VỠ.

LỜI CHỨNG CỦA CHỊ ANN, HOUSTON, TX.

Vào khoảng tháng 8-2014,  gia đình tôi xào xáo nặng nề, chồng tôi bỏ nhà cửa, vợ con quay về sống với Bố Mẹ của anh, một hai tuần sau , tôi phôn cho Anh và nhỏ nhẹ, xuống nước,  khuyên xin anh nghĩ  lại và quay về với “bốn Mẹ con chúng em”, thì Anh tuyên bố:

–          Một là ly dị, hai là cô phải bỏ job, bán nhà, quay về Dallas sống với Bố Mẹ tôi.  Tôi phải báo hiếu và lo cho Bố Mẹ tôi.

Chương trình của Anh là chúng tôi sẽ bán căn nhà mà hai vợ chồng dành dụm mua được dù còn thiếu nợ nhà băng một phần, Anh định là sau khi trừ mọi chi phí thì đưa cho Bố Mẹ Anh giữ hết để các Ngài sắp xếp mọi sự theo ý, đại gia đình sẽ quây quần trong một mái nhà. Anh thực là một người con chí hiếu.

Thực tế này là một nan giải cho tôi ,  biết làm sao mà chọn lựa bây giờ  đây,  vì cũng giống như Anh , tôi đang có Job tốt ở Houston, nay về Dallas thì làm sao mà sống ?  Đồng lương của Anh đang từ 25 dollar một giờ đã bị giảm đi còn có 15 đô vì công việc mới ở Dallas , là công việc thường không đòi kỹ năng của nghề tiện máy như là công việc cũ ở Houston. Phần tôi thì đang làm Nail được gần một ngàn một tuần, bỏ sang Dallas lần trước, lương bị giảm còn có chưa tới 400 dollars một tuần. Nhà cửa thì ở trong nhà Bố Mẹ của Anh, hai vợ chồng, ba đứa con thơ sẽ phải chui ra chui vào cái gara sửa lại làm phòng ở. Cả nhà sẽ không còn được tiện nghi như khi ở nhà riêng tại Houston, nhất là sự bất tiện ăn ở, học hành cho cả ba cháu bé mới có từ sáu đến tám tuổi rất tội nghiệp. Đó là chưa kể, sống chung trong một mái nhà với Ba Mẹ và Các Em thì rất e dè tinh thần tôi căng thẳng và dễ bị mệt nhọc.

Giải pháp sống chung trong đại gia đình ở Dallas đã được thử một lần và không có kết quả, nay chúng tôi đã ổn định ở Houston mà lại quay về con đường xưa thì thật là rủi ro nhiều…

Họa vô đơn chí , trong lúc tôi đang bấn loạn vì cuộc chia tay và ly dị sắp xẩy đến, nhìn các con thơ dại , tôi không biết làm sao để lo cho chúng, trong lúc hốt hoảng, tôi lái xe loạng quạng và bị tai nạn,  đụng xe phải đi nhà thương và tại đó, Bác sĩ đã khám phá ra một chuyện động trời khác, đó là …  bác sĩ trong khi chụp hình chẩn đoán tai nạn đã khám phá và cho biết rằng tôi bị ung thư xương, …Tệ hại hơn nữa, ung thư đã phát tác đến thời kỳ cuối. Thông thường thì một khi ung thư xương đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể, tỉ lệ sống sót trong vòng 5 năm là thấp, dưới 25 phần trăm, huống hồ chi sự nghiêm trọng của bệnh trong thân thể tôi còn nặng hơn mức độ của thống kê y khoa này nhiều! Bác sĩ khuyên tôi nên lo liệu gấp bảo hiểm và các loại an sinh khác, để có thể yên tâm vào giờ phút chót của hành trình Đời. Tôi không còn hồn vía và tâm trí nào, tôi chỉ biết xin Chúa cho tôi được một cơ hội thứ hai để tôi có sức khỏe hầu có thể lo liệu cho các cháu, mấy mẹ con quây quần với nhau sống qua ngày tháng.

Tiền nong , chồng tôi đã lấy và quản lý hết, tôi chỉ còn vỏn vẹn tiền lương tháng trước gần hai ngàn đô thì phải dùng để trả nợ nhà hàng tháng và các sở hụi khác,  hoàn cảnh gần như trắng tay trong khi tôi phải nuôi ba đứa con thơ. Tôi đã không biết phải trả lời ra sao khi chúng ngước mắt ngây thơ và hỏi mẹ “sao Ba đi thăm Ông Bà Nội lâu quá chừng mà không thấy về nhà?”

Túng thế, tôi định đi ra FoodBank xin thực phẩm tạm thời cầm cự qua ngày, chỉ cần Chúa cho tôi khỏi đau nhức, có sức khỏe thì tôi có thể đi làm và có tiền ngay,nhưng mà … lực bất tòng tâm, trong tình trạng cạn kiệt cả về tinh thần lẫn thể xác. Tôi ngơ ngẩn như người đang trong cơn mơ, không còn sức để phấn đấu làm việc nuôi con tôi.

Trong khi đó, chồng tôi liên tục hối thúc tôi xúc tiến đơn ly dị, anh hằn học, lạnh lùng làm tim tôi đau nhói và tâm trí bấn loạn, thêm vào đó, người thân, bạn bè khuyên tôi thế này thế khác, phần tôi không biết phải nói sao với Anh vì chồng tôi vốn đã hơn mười năm bỏ Chúa, bỏ các quan hệ tốt lành với Cộng Đoàn và không đi nhà thờ, không xưng tội; Bí thế và quá tuyệt vọng, sợ mất hết và không còn gì để nuôi các con thơ dại, tôi đã đi gặp luật sư để xúc tiến thủ tục ly dị. Điều kỳ diệu Chúa đã quan phòng, mặc dù nhìn từ bên ngoài, nó giống như là sự tình cờ. Khi ấy, do bạn bè giới thiệu, tôi đã tìm đến gặp một luật sư Công Giáo, vị luật sư này, thay vì xúi xiểm kiện tụng và làm giấy tờ ly dị cho tôi với các thủ thuật tình tiết éo le để kiếm chác được nhiều tiền, thì lại khuyên tôi nên nghĩ đến tương lai của các con tôi và tìm kiếm giải pháp tốt nhất cho toàn gia đình, Luật sư nói “ ly dị tức là tan vỡ hết , mất mát hầu hết, nhất là làm trái ý muốn của Chúa, Ngài chỉ muốn chúng ta tha thứ cho nhau và cứu vãn, tạo cơ hôi cho con cái  lớn lên trong mái ấm gia đình theo đúng như tinh thần trách nhiệm của bậc Cha Mẹ ”  rồi cô mời tôi cầu nguyện với Chúa Giê Su, vị luật sư cho tôi biết là Chúa rất yêu thương tôi và muốn cứu gia đình tôi khỏi tan vỡ, chúng tôi cùng nhau thưa chuyện với Chúa kính yêu. Khi vị luật sư cầu nguyện thì tinh thần tôi thấy phấn khởi và nhất là chấn thương vốn đau buốt ở nơi vai phải tôi, đã có từ hai mươi năm trước, cũng như phần xương cốt bị ung thư của  tôi , chúng có cảm giác nóng rần, rất nóng như là có luồng điện mạnh  đang chạy vào đó, còn nói theo siêu linh thì giống  như là một sự đụng chạm của Chúa, tôi mang máng cảm thấy và tự nhủ rằng có phải chăng, là Chúa đang chạnh lòng thương và chữa lành cho tôi đây ? …Rồi vị luật sư này đã giới thiêu tôi dến với Nhóm Thánh Linh Houston.

Các Anh Chị Em Thánh Linh ân cần lo lắng cho tôi giống như là người thân trong một đại gia đình đầm ấm, cả Nhóm Thánh Linh đã đặt tay cầu nguyện cho tôi và gia đình tôi. Về vật chất, dù không có nhiều nhưng các Anh Chị Em cũng chia sẻ phần vật chất cho mấy mẹ con chúng tôi. Đang trong hoàn cảnh tứ cố cô đơn, nay có cả một gia đình ôm ấp, thăm hỏi và chia sẻ. Có các Anh, Chị đã đến thì thầm với tôi, “Chị ơi, Chúa yêu thương Chị và các cháu lắm, Ngài không khi nào bỏ rơi chị đâu!” Một vài Anh, Chị trong Nhóm Thánh Linh ngay lập tức khuyến khích tôi hãy  tham gia “ đường giây cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Mẹ Medju “ qua số phone 605-562-3140, (bấm mật mã, 460922#). Ngay lập tức tôi được Các Anh Chị khác và nhất là Cha Lê Thanh Quang cầu nguyện ngày đêm cho bệnh tật hiểm nghèo của tôi và xin Chúa một giải pháp tốt đẹp cho gia đình tôi. Trong các buổi cầu nguyện như thế này, các bệnh nhân suy yếu về phần hồn, phần xác đều được dâng lên cho Lòng Thương Xót Chúa, mọi người tin tưởng và căn cứ vào lời Chúa hứa với thánh nữ Fostina:

“Vào lúc 3 giờ chiều con hãy khẩn cầu Lòng Thương Xót của Ta cho các tội nhân cách riêng, và nếu có thể trong giây lát, con hãy trầm mình vào cuộc khổ nạn của Ta, đặc biệt lúc Ta bị bỏ rơi trong cơn hấp hối. Đây là giờ cao điểm của Lòng Thương Xót vĩ đại tuôn đổ xuống trên thế giớiTrong giờ này, Ta sẽ chẳng từ chối bất cứ điều gì với các linh hồn kêu van Ta nhân danh cuộc tử nạn của Ta” (Hồi ký đoạn số 1320).

Kể từ lúc gặp luật sư và được dẫn tới sự cầu nguyện với Lòng Thương Xót Chúa qua phôn, cho đến lúc tôi tái khám để trị liệu, do quá bối rối và bận rộn, thời gian đã kéo dài đến 1 tháng rưỡi. Tôi được gặp một Bác sĩ chuyên môn khác để xúc tiến việc điều trị bệnh ung thư, sau khi trải qua các đợt xét nghiệm, chẩn đoán mới, Bác sĩ đi đến kết luận rằng các tế bào ung thư đã không còn tìm thấy, chúng đã hoàn toàn biến mất trong các mô xương của tôi. Thật là kỳ diệu và tuyệt vời, sự chữa lành của Chúa khi ta kêu cầu danh cực trọng của Đức Chúa Giê Su kết hợp với việc kính nhớ Lòng Thương Xót Chúa.

Điều còn khó khăn hơn, và có lẽ khó khăn hơn nhiều, đó là làm sao thay đổi quyết định rất cứng rắn của Chồng tôi, điều này là khó khan vì Chúa cần sự cộng tác của người trong cuộc qua tâm tình ăn năn, sám hối, họ phải chịu để cho Chúa chữa lành vì Ngài vốn rất tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người. Nếu ta quyết đinh không đi theo hướng dẫn của Chúa thì rất khó. Nhưng rồi, với sự hiệp lại cầu nguyện mạnh mẽ của mọi người trong cả hai nhóm,  “Thánh LInh” và “Lòng Thương Xót” thì Chúa đã ra tay. “Ở đâu có hai, ba người họp lại vì danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ” (Matthêu18:19-20)

Vài tuần sau cuộc nói chuyện qua phôn, thì Anh đòi giấy ly dị có chữ ký ưng thuận của tôi, tôi tìm cách mời Anh đến văn phòng luật sư của tôi để ký giấy, đang khi Vị Luật Sư e dè nhìn khuôn mặt rất lạnh lùng của Anh và ngại ngần khuyên giải về lợi ích cho con cái trong một gia đình có Bố có Mẹ ruột, khi vị Luật sư mời Anh cầu nguyện,  thì Chúa làm cho lòng Anh mềm dịu lại và chấp nhận cùng cầu nguyện, rồi Chúa làm cho Anh chạnh thương vợ con và cảm thấy lòng phân vân khi nghe lời khuyên… Sau đó, anh đã hứa với vợ sẽ quay về “mái nhà xưa” nơi chúng tôi, Bốn Mẹ con ngày đêm mong ngóng chờ Anh. Thật là một niềm vui lớn lao cho mấy mẹ con chúng tôi!

Chúa Giê Su vị bác sĩ đại tài, chữa bệnh phần hồn, phần xác. Trong trường hợp của tôi và gia đình tôi, Ngài không dừng lại ở đó, Ngài còn muốn cho tôi nhiều hơn nữa khi Ngài đã chữa thêm cho tôi được khỏi bệnh đau khớp vai phải, đã hành hạ tôi trong suốt hơn hai mươi năm qua, mỗi khi tôi nâng đỡ vật gì dù nặng hay nhẹ nó rất buốt nhức. Nay vai tôi không còn đau nữa cho dù tôi thử nâng vác vật nặng. Cám đội ơn Vị Bác Sĩ đại tài, Đức Chúa Giê Su Ki tô. Cám ơn các con chiên của Ngài đã hiệp lại và cầu khấn Ngài cùng với tôi và cho tôi.

Tôn vinh Chúa của Lòng chạnh xót thương vì Ngài luôn trung thành giữ lời hứa với loài người chúng ta. Chính thánh nữ Fostina đã ghi rõ lời Chúa hứa thêm một lần nữa, như sau:

–          Chúa nhắc lại: “Này con, Ta nhắc cho con nhớ, cứ mỗi lần nghe đồng hồ điểm 3 tiếng, con hãy gieo mình ngụp lặn vào Lòng Thương Xót của Ta. Hãy bái thờ và tôn dương Lòng Thương Xót. Hãy khẩn cầu quyền năng vô hạn của Lòng Thương Xót cho các tội nhân khốn nạn cách riêng. Bởi chính vào giờ điểm này, Lòng Thương Xót được mở rộng cho hết mọi linh hồn. Vào giờ này, con có thể nhận được bất cứ ân huệ nào cho chính mình và cho người khác qua lời cầu xin của con. Đây là giờ ân sủng của toàn thế giới. Lòng Thương Xót vượt thắng cả công lý

Bạn biết không, tôi tin rằng cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa không chỉ có thể cứu gia đình tôi đâu, mà còn có thể cứu gia đình của chính Bạn nữa, Lòng Thương Xót Chúa có thể cứu Gia Đình của mọi người toàn Thế Giới bất kể họ tội lỗi nặng nề đến đâu.

Trong một thế giới bên bờ vực thẳm của sự tan vỡ vì bạo lực giết chóc, tra tấn tàn ác kinh hoàng xảy ra khắp nơi dù là ở Âu Mỹ, Á hay Phi Châu, vì gian dối, tham lam, bất công đầy dẫy, vì đam mê ngút ngàn trong nhục thú và nghiện ngập, vì thù hận thăm thẳm thì chúng ta càng cần đến ơn tuôn trào dạt dào của Lòng Thương Xót Chúa Giê Su đến mức độ nào. Hơn bao giờ hết Giáo hội , Nhân Loại vô cùng cần đến thần dược của sự Cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và sự chuyển cầu, bầu chữa của Mẹ Maria.

Tôi xin mạn phép chia sẻ rằng mình hãy để giờ báo thức trên phôn vào lúc 15 giờ chiều và mỗi ngày nghe tiếng chuông báo thì ta cầu nguyện Lòng Thương xót Chúa, càng tuyệt vời hơn nếu ta có thể cầu nguyện với các Anh Chị Em khác qua phôn mỗi khi thuận tiện, Bạn có thể tham khảo chi tiết ở trang Web sau đây:

http://thanhlinh.net/node/83833

Hẹn gặp và hiệp thông với quý Bác, quý Bạn trong giờ cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa.

Lãnh đạo xã nợ tiền nhậu, chủ quán hăm đốt trụ sở

Lãnh đạo xã nợ tiền nhậu, chủ quán hăm đốt trụ sở

Nguoi-viet.com

CÀ MAU (NV) Một chủ quán nhậu ở xã Khánh Thuận, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, từng bị công an nhiều lần mời làm việc về việc mang xăng hăm đốt trụ sở xã nhưng ông này không chịu trình diện.


Trụ sở xã Khánh Thuận, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Lý do, theo báo Tuổi Trẻ, là vì các lãnh đạo của xã này nợ quán nhậu Thanh Phong tới 48 triệu đồng (khoảng $2,300) nhưng không chịu trả.

Báo Tuổi Trẻ cho hay, vào hôm 14 tháng 2, tức 26 Tết Ất Mùi, ông Phong (chủ quán nhậu Thanh Phong) đã đem hai can xăng (mỗi can một lít) qua đòi nợ tiền nhậu của lãnh đạo xã.

Tuy nhiên, ông Phong đã bị ngăn cản kịp thời hai can xăng bị thu giữ. Nhưng khi công an xã Khánh Thuận lập biên bản thì ông Phong bỏ về nhà, không hợp tác.

Ông Nguyễn Minh Lắm, chủ tịch xã Khánh Thuận, thừa nhận với báo Tuổi Trẻ rằng, “lãnh đạo xã có thiếu nợ ông Phong số tiền trên và không có tiền chi trả.” Và rằng, “xã không thiếu riêng gì quán ông Phong mà còn thiếu nhiều quán khác.”

Ông Lắm cho báo Tuổi Trẻ biết là sẽ xem lại “xấp hóa đơn tiền nhậu,” “nếu hóa đơn nhậu thiếu do lãnh đạo phân công tiếp khách thì ủy ban xã sẽ trả, cái nào không được phân công, nhưng nhậu xong lại ghi cho lãnh đạo thì bắt cá nhân người nhậu phải xuất tiền túi thanh toán.”

Còn ông chủ quán nhậu Thanh Phong giải thích với báo Tuổi Trẻ rằng: “Tôi chỉ mang xăng hù thôi. Lý do lãnh đạo xã thiếu tiền nhậu 48 triệu đồng tại quán tôi từ năm 2012 đến nay chưa trả. Cuối năm các chủ nợ tiền gà, tiền vịt lại đến ‘xiết’, do quá túng nên tôi mới hành động như vậy.” (KN

Nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn bị phá hoại trầm trọng

Nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn bị phá hoại trầm trọng

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) Những viên gạch gần 140 năm tuổi trên tường nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đang bị vẽ bậy chi chít đủ thứ. Thậm chí, một số góc khuất của nhà thờ còn bị biến thành nơi để vứt rác, tiểu tiện.


Mặc dù nhà thờ đã treo những tấm bảng yêu cầu đừng viết bậy nhưng bất lực. (Hình: VNExpress)

Không có tường rào bao quanh như những cơ quan công quyền khác tại Sài Gòn, nhà thờ Ðức Bà trở thành một “vòng xoay” bất đắc dĩ và rất dễ bị xâm phạm bởi giao thông. Nhìn xa, vẻ ngoài của nhà thờ 138 tuổi này vẫn uy nghi lộng lẫy, song trên những bức tường bằng gạch ống Pháp đã bị bôi bẩn bởi hàng ngàn chữ viết nguệch ngoạc đủ thứ nội dung.

Theo VNExpress, mặc dù nhà thờ đã treo những tấm bảng “Ðể bảo vệ di sản chung, xin đừng viết lên tường,” hay “Nơi trang nghiêm xin giữ vệ sinh chung,” nhưng mỗi ngày hàng chục người vẫn đến đây viết chữ, vẽ hình, sơn xịt… với đủ thứ nội dung: “I love you more than I can say,” “Q. Như đã ở đây,” “Thảo yêu Ðăng,” “Ðể tao chống mắt lên coi bay yêu nhau được bao lâu.”..Thậm chí, tại một số góc khuất ở chân tường của nhà thờ cũng là nơi để quăng rác, hoặc tiểu tiện.

VNExpress dẫn lời Linh Mục Vương Sĩ Tuấn, phụ tá tại nhà thờ cho biết, tình trạng các bạn trẻ viết, vẽ bậy lên tường xuất hiện đã hơn một năm nay. Họ tới công viên gần nhà thờ để uống cà phê, vui chơi rồi chụp ảnh vì nhà thờ là một công trình kiến trúc đẹp. Tuy nhiên, rất nhiều người trong số họ nổi hứng viết lung tung lên tường.


Hàng rào sắt chặn những góc khuất của nhà thờ để ngăn không cho tiểu tiện nhưng vô tác dụng. (Hình: VNExpress)

“Các bạn trẻ không ý thức được điều họ làm là không đúng đối với một công trình kiến trúc nổi tiếng. Không chỉ riêng nhà thờ Ðức Bà mà những công trình kiến trúc cũ cần phải được bảo vệ vì đó là cái hồn của Sài Gòn, là một loại ngôn ngữ vô hình. Họ không có trách nhiệm với đời sống chung,” vị linh mục nói.

Theo ông Tuấn, từ khi tường bị viết, vẽ bậy, nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đã lên tiếng, chính quyền địa phương cũng cho biết sẽ ghi nhận và báo lên cấp trên. Tuy nhiên, hiện tình hình vẫn không thay đổi mà còn có nguy cơ ngày càng bẩn hơn, mật độ các chữ viết, nét vẽ bậy bạ ngày càng nhiều hơn. Nhiều khách nước ngoài đến tham quan phải bịt mũi, lắc đầu.

Nhà thờ Ðức Bà được xây năm 1877, có chiều dài 93 m, rộng 35 m và cao 75 m, nằm ngay trung tâm quận 1, Sài Gòn, hoàn thành sau 3 năm và được Tòa Thánh Vatican phong lên hàng tiểu Vương Cung Thánh Ðường từ năm 1959, tên gọi chính thức là Vương Cung Thánh Ðường Chính Tòa Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mỗi ngày có hàng trăm đoàn khách nước ngoài đến thăm và dự lễ tại thánh đường này. (Tr.N)

GIỜ PHÚT CAO QUÝ

GIỜ PHÚT CAO QUÝ

Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen.  Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980.  Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến.  Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang.  Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái.  Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt.  Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc.  Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.

Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người.”  Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người.  Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến.  Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra.  Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy?  Đó là giờ chết của Người.  Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta.  Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất bại.  Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt.  Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta.  Đây là giây phút cao quý nhất của Đức Giêsu.  Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất.  Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.

Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển.  Đây là một nghịch lý lớn lao.  Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống.  Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.

Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy.  Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển.  Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người.  Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.

Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn.  Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay.  Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.

Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt.  Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến.  Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được điều này.  Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.

Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công.  Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt.  Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi.”

Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa.  Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi.  Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.  Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).

Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng.  Sự sống sẽ chiến thắng.  Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.

Sưu tầm

Chỉ điểm và đạo đức, vấn đề nhức nhối thời hậu Cộng sản ở Đông Âu

Chỉ điểm và đạo đức, vấn đề nhức nhối thời hậu Cộng sản ở Đông Âu

Hoàng Nguyễn

RFI

media

Tài liệu của cơ quan mật vụ Rumani Securitate được chuyển đến trụ sở Hội đồng Quốc gia Nghiên cứu Tư liệu của Securitate CNSAS gần Bucharest, thủ đô Rumani. Ảnh tư liệu 10/03/2005. Bogdan Cristel/REUTERS

Mới đây, một bộ phim tài liệu mang tựa đề “Trong tầm ngắm của Securitate” – Securitate là cơ quan mật vụ của chế độ Cộng sản Rumani trước đây – đã được công chiếu trên hai kênh truyền hình quốc gia của Hungary. Sự kiện này làm dấy lên trong công luận và truyền thông Hungary những vấn đề về đạo đức và tội ác trong quá khứ vẫn chưa bị trừng phạt.

Từ Budapest, thủ đô Hungary, Thông tín viên Hoàng Nguyễn trước hết nêu bật nội dung bộ phim :

Thông tín viên Hoàng Nguyễn tại Budapest 16/03/2015 – Mai Vân nghe

« Bộ phim đã được quay tại những hiện trường gốc, với sự tham dự của các nhân vật đa phần đã can dự vào những sự kiện có thật xảy ra cách đây ba chục năm, dưới chính thể của thủ lĩnh cộng sản Ceausescu tại Rumani, khi cơ quan mật vụ chính trị Securitate làm mưa làm gió ở quốc gia này.

Chỉ điểm ngay trong gia đình

Bộ phim nói về tấn thảm kịch của một gia đình ở vùng Kolozvár, một mảnh đất từng thuộc Vương quốc Hungary, sau đó bị sáp nhập vào Rumani và vẫn còn một cộng đồng Hung kiều đông đảo sinh sống. Hai vợ chồng nọ, vợ là Tőkés Eszter, chồng là Barta Tibor đều là những bác sĩ, những nhân vật có uy tín và được trọng vọng trong vùng.

Cùng một số gương mặt của giới trí thức vùng Kolozvár, gia đình Tőkés Eszter có xu hướng đối lập rõ rệt. Đặc biệt, thành viên gia đình có mục sư Tin lành Tőkés László là người được coi như thủ lĩnh tinh thần của Hung kiều ở Rumani, và cuộc nổi dậy cuối năm 1989 tại nước này được coi là có cơ nguyên từ hoạt động bảo vệ nhân quyền và tín ngưỡng của ông.

Bản thân bác sĩ răng Tőkés Eszter nhiều lần làm các cuộc phỏng vấn bí mật về tình hình rất nghiêm trọng tại khu vực có đông kiều dân Hung sinh sống, và tìm cách tự mang sang Hungary, hoặc thông qua một người bạn. Nhưng những kế hoạch đó luôn thất bại: tại biên giới, các nhân viên mật vụ đã chờ sẵn để “bắt quả tang” họ.

Một số những bài viết quan trọng, hoặc truyền đơn, tờ rơi với nội dung đối lập mà Tőkés Eszter đã cẩn thận cất giấu kỹ lưỡng vì sợ bị khám nhà, không hiểu sao cũng đều đều lọt vào tay mật vụ chính trị Securitate, và trở thành những bằng cứ mà chính quyền sử dụng để chống lại gia đình bà.

Trong những năm tháng ấy, cố nhiên không ai nghi ngờ người chồng, vị bác sĩ chỉnh hình tài ba, đầy uy tín, một con chiên sùng đạo Công giáo, chơi dương cầm rất điệu nghệ, và sau giờ làm việc còn chữa chạy miễn phí cho bệnh nhân nghèo. Ông Barta Tibor còn hết sức được lòng hai người con riêng của bà Eszter với người chồng thứ nhất.

Sau biến cố 1989, bác sĩ Barta Tibor sang Hung định cư. Vợ ông, bà Eszter không theo chồng, và tới năm 2004 hai người ly dị. Phải tới gần hai chục năm sau, năm 2007, bà mới nhận được một hồ sơ từ Viện CNSAS (cơ sở xử lý các hồ sơ của mật vụ chính trị Rumani thời kỳ cộng sản), và cay đắng khi được biết sự thật về người chồng trong quá khứ.

Sự thật cay đắng về người chồng điềm chỉ

Theo đó, gần như hàng ngày, chồng bà đã viết báo cáo về hoạt động của đối lập của bà trong 5 năm liền để gửi lên thượng cấp. Thậm chí, bác sĩ Barta Tibor sở dĩ kết hôn với bà năm 1985 cũng là để nhằm thông qua bà, có được mối quan hệ với cả gia đình bà, để thực hiện hoạt động chỉ điểm được Securitate giao phó.

Mang biệt danh “Stelian”, Barta Tibor viết tường trình về tất cả mọi thứ có thể một cách hết sức kỹ lưỡng, kể cả về lễ thành hôn của hai vợ chồng. Ngay sau khi cưới, ông ta đưa vợ và hai con riêng của vợ đi nghỉ ở bờ biển để trong thời gian đó, mật vụ chính trị Securitate có thể đặt thiết bị nghe trộm vào ngôi nhà của họ.

Những bài viết, truyền đơn hoặc tư liệu gửi sang Hungary của bà vợ Tőkés Eszter cũng đều bị ông chồng chuyển tới cho Securitate. Là một kẻ chỉ điểm hết sức chuyên cần, Barta Tibor không bỏ qua bất cứ cuộc gặp mặt gia đình hay xã hội nào của gia đình Tőkés Eszter, để có được thông tin tức khắc cho mật vụ chính trị.

Không chỉ báo cáo về nhà vợ, Barta Tibor còn chỉ điểm rất nhiều nhân vật trí thức quan trọng vùng Kolozvár, trong đó có các chính khách, các nhân vật thuộc giới tăng lữ, các nhà nghiên cứu – nhiều người vẫn coi vị bác sĩ uy tín này là bạn thân có thể chia sẻ được.

Khi cuộc nổi dậy và chính biến 1989 ở Rumani xảy ra, Barta Tibor biến khỏi nhà và trong nhiều ngày ông ta ở lỳ trong trung tâm của mật vụ chính trị địa phương nằm ngay trên tầng trên của trụ sở giáo phận của Giáo hội Công giáo. Khả năng là trong thời gian đó, ông ta đã tìm cách tẩu tán hồ sơ tuyển dụng của mình với biệt danh “Stelian”.

Quá khứ chỉ điểm, di chứng đau đớn của một thời

Dùng mạng lưới chỉ điểm dày đặc để duy trì chính quyền và khiến người dân luôn trong cảnh sợ hãi và phục tùng là một trong những đặc tính của các thể chế cộng sản tại Liên Xô (cũ) và vùng Đông Âu. Trong nhiều thập niên, Stasi của Đông Đức, Securitate của Rumani hay AVH của Hungary là những cái tên kinh hoàng đối với mọi người dân.

Tại Hungary, theo ước tính chưa đầy đủ, đã có chừng hai trăm ngàn “chỉ điểm viên” từng phục vụ thể chế độc tài cộng sản, trong số đó, có cả những “kiều nữ” trẻ thành thạo tiếng Ả Rập và không ngần ngại nếu phải sử dụng thân xác cho “việc lớn”, theo một lãnh đạo Cục Lưu trữ Lịch sử trực thuộc Cơ quan An ninh Quốc gia nước này.

Trong một phần tư thế kỷ qua, không ít những nhân vật có uy tín – những chính khách, tăng lữ, văn nghệ sĩ, nhà thể thao… – của Đông Âu đã bị lộ diện là những kẻ chỉ điểm. Chỉ điểm trong nội bộ gia đình cũng không phải là quá mới mẻ, đặc biệt như trong trường hợp mât vụ chính trị Stasi của Cộng hòa Dân chủ Đức, hay KGB của Liên Xô.

Tuy nhiên, tại Rumani, phương pháp “nghiệp vụ” này không hay được cơ quan Securitate áp dụng. Trường hợp của Barta Tibor đặc biệt ở chỗ, nó được kiến tạo và tiến hành hết sức công phu, có chủ ý, đạt hiệu quả cao, và kết quả là đã làm tan nát cuộc đời của nhiều con người khi những giây phút, cảm xúc riêng tư nhất của họ cũng bị phản bội.

Phân tích các “loại hình” chỉ điểm, các nhà nghiên cứu nhận thấy, không ít người bị cưỡng bức và làm công việc này một cách miễn cưỡng, “cho xong việc”. Nhưng cũng có những kẻ làm một cách tích cực, nhiệt tình như thể họ tìm được khoái cảm trong việc chỉ điểm và ngầm làm hại cuộc đời người khác, kể cả đó là người gần gũi nhất với mình.

Một thể chể có thể hủy hoại con người

Thuật lại một câu chuyện ít nhiều đã được biết đến cách đây ít năm, bộ phim “Trong tầm ngắm của Securitate” khiến người xem sững sờ ở chỗ, nó cho thấy một thể chế có thể làm hỏng con người như thế nào. Hoặc giả, nó tạo điều kiện để những bản năng tệ hại nhất của con người được “thả nổi”, trở thành hiện thực.

Về mặt đạo đức, rõ ràng bác sĩ Barta Tibor đã có thể lựa chọn cách khác, và không cần làm hại chính vợ ông ta – và gia đình nhà bà, cũng như những bạn hữu gần gũi và thân thiết – một cách chủ động và tích cực như vậy. Nhưng ông ta đã làm điều đó và ngay cả về sau này, khi bị phát hiện, cũng không hề cảm thấy cần phải sám hối.

Chỉ điểm đã từng được các lãnh đạo Xô-viết thời Stalin ở Liên Xô coi là một “bổn phận công dân”, khi họ hô hào “mỗi người dân đều là một chiến sĩ an ninh”, kỳ thực là những nhân viên mật vụ. Điều này cũng đúng với các nước Đông Âu thời kỳ 1945-1989, khi tất cả mọi công dân chỉ còn là một ốc vít trong cỗ máy vận hành.

Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều người ở các xứ Đông Âu thời hậu cộng sản, khi có cơ hội, đã không dám tìm hiểu những hồ sơ chỉ điểm được bạch hóa, sợ sẽ thấy trong đó những cái tên quen thuộc, hoặc là thành viên gia đình, bố mẹ con cái mình, hoặc bạn bè mình. Những biệt danh trong các hồ sơ mật vụ, nhiều khi vĩnh viễn sẽ không được biết đến.

Trường hợp của bà Tőkés Eszter, được sự hỗ trợ của thân nhân là ông Tőkés László, người hùng của cách mạng Rumani 1989, nay là dân biểu Nghị viện Châu Âu, nên đã được biết đến rộng rãi thông qua báo chí và phim ảnh. Tuy nhiên, người chồng Barta Tibor, hiện vẫn sống và làm việc trên cương vị một bác sĩ có tiếng tại Budapest, thì không hề phải chịu hậu quả gì.

Báo chí Hungary có đặt câu hỏi: đúng vào thời điểm bộ phim được công chiếu, ông Barta Tibor còn có một buổi hòa nhạc tại Vương cung thánh đường Budapest, nơi lẽ ra hàng ngày ông ta phải tới sám hối cho tội lỗi của mình. Tuy nhiên, ông ta đã không hề tỏ ra hối hận, và dùng giấy tờ giả để biện minh, chối bỏ và phủ nhận mọi hoạt động chỉ điểm của mình!

Tư pháp bất lực, dành chỗ cho phán xử đạo đức

Tại các quốc gia cựu cộng sản vùng Đông – Trung Âu, kể từ sau biến cố dân chủ 1989-1990, nhu cầu thiết lập công lý, trừng phạt những tội ác trong quá khứ, để kẻ gieo gió phải gặp bão – nói rộng ra là trong sạch và trực diện triệt để với quá khứ – luôn là ý nguyện của số đông cư dân từng là nạn nhân bị đàn áp, tù đày, hoặc bị theo dõi, chỉ điểm bởi các thể chế độc tài toàn trị.

Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm sau ngần ấy năm không đơn giản, khi rất nhiều nhân chứng không còn sống, những hồ sơ, tư liệu tiêu hủy và thiếu sót, sự buộc tội và chứng tỏ tội trạng rất khó khăn. Nhiều kẻ thủ ác – trong giai tầng lãnh đạo, hoặc đơn thuần là những kẻ thừa hành của bộ máy mật vụ – không hề bị trừng phạt, và có thể sinh sống và ra đi êm thấm.

Báo chí Đông Âu hay nhắc tới ba cái tên Csatáry László, Képíró Sándor và Biszku Béla, ba kẻ thủ ác trong thập niên 40 và 50 thế kỷ trước tại Hungary, cũng chỉ bị xem xét tội trạng trong những năm cuối đời. Hai người đầu, phải chịu trách nhiệm trong những cuộc thảm sát dân Do Thái trong Đệ nhị Thế chiến – rốt cục đều đã thoát tội, và qua đời trong chăn ấm đệm êm ở tuổi 97.

Chỉ có Biszku Béla, Bộ trưởng Nội vụ thời sau cách mạng 1956, kẻ được coi là “nắm đấm cứng nhất” của thể chế độc tài cộng sản ở Hungary, là bị kết án ở tuổi 83 sau mấy chục năm sống yên lành và sung túc tại một biệt thự khu “thượng lưu” ở Budapest, với mức lương bổng gấp bốn lần lương hưu của một người bình thường.

Không chỉ thế, tại Cộng hòa Slovakia, mới đây chính quyền địa phương còn đưa ra một quyết định hết sức bị phản đối nhằm vinh danh một nhân vật cộng sản cộm cán – ông Vasil Bilak, đã mất cách đây một năm ở tuổi 95 – bằng cách phong ông ta làm công dân danh dự và dựng bảng ghi danh tại làng nơi ông ta chào đời.

Giữ chức Bí thư Trung ương đảng trong vòng hai chục năm, ông Bilak từng là một yếu nhân của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, đồng thời là nhân vật quan trọng nhất trong số năm quan chức cao cấp đã ký vào bức thư “mời” Mátxcơva và quân đội khối Hiệp ước Vácxava vào đàn áp Mùa xuân Praha tại Tiệp Khắc năm 1968.

Những năm cuối đời, Vasii Bilak sống tại một biệt thự vào hàng sang trọng nhất ở thủ đô Bratislava. Hành vi “cõng rắn cắn gà nhà” của ông từng bị điều tra vì tội danh “bán nước”, nhưng hồ sơ điều tra của vụ án – lên tới hơn 23 ngàn trang – đã bị khép lại năm 2011. Luôn chối tội, Bilak đã ra đi mà không hề phải đối diện với hành động của mình trước vành móng ngựa.

Tuy nhiên, một khi công lý đến bởi cơ quan tư pháp tạm bất lực, thì người dân đã có cách khác để bày tỏ sự phán xử đạo đức của họ. Những tấm biểu ngữ được giăng trước nhà những nghi can trên, hoặc trong phiên xử của họ, kêu gọi tội ác phải bị trừng phạt, kẻ sát nhân không thể ngủ yên, v.v… chính là bản án của người dân, của những nạn nhân dành cho kẻ thủ ác.

Đối với Barta Tibor, tuy không bị truy tố nhưng tờ nhật báo lớn nhất của Hungary “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) đã có bài bình luận về ông ta với những lời phê phán rất nặng. Tác giả đặt câu hỏi, là một bác sĩ chỉnh hình, thường xuyên phẫu thuật cột sống, nhưng chính ông ta lại là kẻ không hề có xương sống khi chỉ điểm chính vợ mình, gia đình mình trong nhiều năm…

Như thế, khi nền tư pháp bất lực, công luận và người dân sẽ có sự phán xét đạo đức riêng của họ, cho những kẻ đáng bị trừng phạt, và đây là hình phạt cao nhất…

.TẨY TRẦN VÀ THĂNG HOA

.TẨY TRẦN VÀ THĂNG HOA

Rev. Ron Rolheisher, OMI

Ăn mừng là một chuyện mâu thuẫn, là do có sự tác động lẫn nhau giữa nỗi mong chờ và thành tựu, nỗi khát khao và việc dang dở chưa thành, cái tầm thường và điều đặc biệt, công việc và vui chơi.  Cuộc sống và tình yêu phải được ăn mừng theo một nhịp điệu “nhịn đói – tiệc tùng” nào đó.  Thời vui chơi sẽ có lợi ích nhất khi đi sau những giây phút làm việc, thời hưởng thụ sẽ càng được tôn lên bởi những thời khát khao, còn thời thân mật sẽ nảy nở từ những thời cô độc.  Sự có mặt là tùy thuộc vào sự vắng mặt, sự thân thiết tùy thuộc vào sự cô độc, vui chơi tùy thuộc vào công việc.  Kể cả Chúa cũng chỉ nghỉ ngơi sau khi đã làm việc sáu ngày!

Ngày nay chúng ta chật vật vì điều này.  Nhiều hội hè tiệc tùng của chúng ta trở nên nhạt nhẽo vì trước đó chưa có thời nhịn đói.  Ngày xưa, thường có một kỳ nhịn đói dài trước khi diễn ra một buổi hội hè, và sau đó là một lễ mừng vui vẻ.  Ngày nay, chúng ta làm ngược lại, có ăn mừng kéo dài trước khi diễn ra hội hè và sau đó là nhịn đói.

Lấy Giáng sinh làm ví dụ:  Mùa Vọng khởi sự cho việc ăn mừng Giáng sinh, thực thế.  Các bữa tiệc bắt đầu, đèn hoa trang trí sáng lên, và nhạc Giáng sinh trỗi dậy.  Khi cuối cùng lễ Giáng sinh đến, thì chúng ta đã phát ngấy với những điều thích thú của kỳ lễ này, mệt mỏi, bão hòa với những thứ của Giáng sinh, và đã muốn chuyển ngay sang lễ tiếp theo.  Vào đúng ngày Nô-en thì chúng ta đã trở lại cuộc sống bình thường.  Mùa Giáng sinh trước đây thường kéo dài đến tháng Hai.  Bây giờ, thực tình mà nói, nó hết hẳn vào ngày 25 tháng 12.

Từ trước đến nay không phải lúc nào cũng như vậy.  Trước đây, quá trình từ khởi sự chuẩn bị là hướng tới tiệc tùng, sau đó mới đến ăn mừng.  Bây giờ thì tiệc tùng trước, nhịn đói sau.  Vì điều đó mà chúng ta nghèo nàn đi.  Nếu trước đó không có nhịn đói thì chẳng có được bao nhiêu tính chất thăng hoa trong tiệc tùng ăn mừng.

Một đồng nghiệp của tôi thích nói rằng xã hội chúng ta ngày nay biết cách mong đợi/thúc đẩy một sự kiện mà không biết cách làm sao để duy trì nó.  Điều này cũng chỉ đúng một phần.  Rất đúng là chúng ta không biết cách duy trì một điều gì đó; mà chúng ta cũng không biết làm thế nào để mong đợi/thúc đẩy nó.  Chúng ta lẫn lộn giữa mong đợi và lễ mừng bởi vì chúng ta thấy khó mà sống trong trạng thái dang dở và căng thẳng của sự chưa xong nếu không tiến tới giải quyết nó.  Chuyện mong chờ và nhịn đói không phải là những điểm mạnh của chúng ta; ăn mừng cũng không phải nốt.  Bởi vì chúng ta không thể chuẩn bị cho đúng đắn để hướng tới một lễ mừng, nên chúng ta cũng không thể ăn mừng một cách đúng đắn.

Lễ mừng tồn tại được là nhờ vào mâu thuẫn: để mừng lễ, trước hết chúng ta phải nhịn đói; để đạt đến sự viên mãn thật sự, chúng ta trước hết phải sống trong khiết tịnh; và để nếm mùi vị đặc biệt, trước hết chúng ta phải hiểu vị bình thường.  Một khi việc nhịn đói, chuyện đợi chờ dang dở, và nhịp điệu thông thường của cuộc sống bị đi tắt bỏ qua, thì sự mệt mỏi của tinh thần, sự chán nản và thất vọng sẽ thay thế lễ mừng và chúng ta chắc chắn chỉ còn lại cảm giác trống rỗng: “Tất cả là thế thôi sao?”  Nhưng đó là vì chúng ta đã đi tắt, đã bỏ qua cả một quá trình.  Đôi điều chỉ có thể thăng hoa nếu, trước tiên, có sự tẩy trần.

Tôi đã lớn tuổi để biết về một thời đại khác.  Giống như thời đại của chúng ta, thời đại đó cũng có những sai lầm của nó, nhưng cũng có những mặt mạnh.  Một trong những mặt mạnh của nó là niềm tin, và người ta sống, thực hành theo niềm tin đó, rằng lễ mừng là tùy vào việc nhịn đói trước đó, và cái thăng hoa đòi hỏi phải có sự tẩy trần trước đó.  Tôi nhớ rất rõ những mùa chay thời thơ ấu.  Mùa chay đó mới nghiêm ngặt làm sao!  Nhịn đói và từ bỏ: không lễ cưới, không nhảy nhót, rất ít tiệc tùng, rất ít đồ uống, đồ ăn tráng miệng chỉ có vào Chủ nhật, và nói chung là tất cả những thứ tạo nên sự đặc biệt và lễ mừng đều ít hơn.  Các nhà thờ trang hoàng toàn bằng màu tím.  Sắc màu thì tối thẫm ảm đạm và tâm trạng thì ăn năn hối lỗi, nhưng lễ mừng theo sau đó, Lễ Phục Sinh, thì thật sự là đặc biệt!

Có lẽ đây là nói theo kiểu hoài cổ; xét cho cùng, hồi đó tôi còn nhỏ, ngây thơ và chẳng có gì, và tôi có thể gặp gỡ Phục sinh cũng như những lễ mừng khác với tinh thần háu đói hân hoan.  Có thể như vậy, nhưng tính chất đặc biệt quanh những lễ mừng đã chết vì một lý do khác, đó là, chúng ta đã không còn mong đợi chúng một cách đúng đắn nữa.  Chúng ta bỏ qua chuyện nhịn đói, sự đợi chờ dang dở, và nỗi mong mỏi bắt buộc phải có trước.  Nói nôm na như sau – làm sao Giáng sinh có thể đặc biệt cho được nếu khi chúng ta bước qua ngày 25 tháng 12 với trạng thái kiệt sức sau bao nhiêu tiệc tùng liên hoan hàng tuần trước đó?  Làm sao lễ Phục sinh lại đặc biệt cho được khi chúng ta sống mùa chay cũng như bất kỳ mùa nào khác?  Thật sự là, làm sao có chuyện bất cứ cái gì cũng có thể thăng hoa khi chúng ta đã đánh mất khả năng tẩy trần?

Ngày nay, tình trạng thiếu vắng sự đặc biệt và thích thú trong đời sống chúng ta một phần lớn là do nhịp điệu này đã gãy đổ.  Nói ngắn gọn, Giáng sinh không còn đặc biệt nữa vì chúng ta đã ăn mừng Giáng sinh suốt cả mùa Vọng; đám cưới không còn đặc biệt nữa vì chúng ta đã ngủ với cô dâu, và tất cả các trải nghiệm thường đều nhàm chán nhạt nhẽo, không thể nào làm chúng ta phấn khởi lên được vì chúng ta đã nếm chúng khi chưa đến độ.  Trải nghiệm lúc chưa chín muồi là dở chỉ bởi vì nó chưa chín muồi, chẳng vì lý do nào khác.  Ăn mừng Giáng sinh suốt mùa Vọng, ăn mừng Phục sinh mà không nhịn đói trước, bỏ qua cái độ chờ mong trong bất kỳ điều gì lĩnh vực gì, thì cũng giống như đã ngủ với cô dâu trước đám cưới, một lỗi về sự khiết tịnh.  Tất cả những trải nghiệm chưa chín mùi đều có tác động là vắt kiệt nhiệt tình và những kỳ vọng lớn lao của chúng ta (mà chỉ có thể được dồn từ từ và tăng dần lên thông qua tẩy trần, căng thẳng và đợi chờ đau đớn khó chịu).

Bây giờ là tuần chay.  Nếu chúng ta dành mùa này để nhịn đói, để tăng cường độ nỗi chờ mong, để tăng nhiệt độ tâm lý của chúng ta, và để học biết được những điều gì có thể ấp ủ hoài thai trong lò rèn khiết tịnh, thì lễ mừng theo sau sẽ có cơ hội thăng hoa.

Rev. Ron Rolheisher, OMI